Thứ Tư, 14 tháng 12, 2016

Hồng lâu mộng - Tiểu thuyết ái tình hay nhất mọi thời đại

Hồng lâu mộng - Tiểu thuyết ái tình 
hay nhất mọi thời đại
Hồng lâu mộng, tên gốc Thạch đầu kí (1), là một trong bốn kiệt tác (tứ đại kì thư, hoặc là Tứ đại danh tác) của văn học cổ điển Trung Quốc (3 kiệt tác kia là Tam Quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung, Tây du kí của Ngô Thừa Ân và Thủy hử truyện của Thi Nại Am). Hồng lâu mộng được Tào Tuyết Cần sáng tác trong khoảng thời gian giữa thế kỉ 18 triều đại nhà Thanh. Hồng lâu mộng là tiểu thuyết chương hồi, gồm 120 hồi, 80 hồi đầu do Tào Tuyết Cần viết, 40 hồi sau do Cao Ngạc (2) viết thêm và soạn thành sách. Trải qua thời gian, Hồng lâu mộng xứng đáng được tôn vinh là cuốn tiểu thuyết ÁI  TÌNH hay nhất mọi thời đại!
Vương triều nhà Thanh, thời Ung Chính, Càn Long (1723 - 1795) là lúc kinh tế cực thịnh. Các thành thị lớn như Nam Kinh, Dương Châu, Vũ Xương, Nhạc Châu... buôn bán, sản xuất sầm uất. Nền kinh tế tự phát tư bản chủ nghĩa xuất hiện trong lòng xã hội phong kiến chuyên chế mọt ruỗng đang trên đà tan rã, đã sản sinh ra một lớp thị dân thành thị, có những nhu cầu thẩm mĩ mới. Hồng lâu mộng là sự thể hiện những tư tưởng của thời đại: tinh thần dân chủ, tinh thần phê phán đời sống xã hội phong kiến mục nát, phê phán những giáo điều cổ hủ đã ăn sâu bén rễ hàng ngàn năm, đòi tự do yêu đương và mưu cầu hạnh phúc, giải phóng cá tính, khao khát tự do bình đẳng…
Tác giả của Hồng lâu mộng là Tào Tuyết Cần(*). Tào Tuyết Cần sinh ra trong một gia đình đại quý tộc, gia đình đời đời thế tập chức Giang Ninh chức tạo là một chức quan “tam phẩm đại thần”, thu thuế tại Giang Ninh thành. Nhà họ Tào còn có truyền thống văn chương thi phú. Ông nội Tào Dần là một danh sĩ nổi tiếng vùng Giang Ninh. Nhưng đến đời của Tào Tuyết Cần, gia đình gặp đại họa, cha mắc tội, bị cách chức, hạ ngục, tịch biên tài sản. Tào Tuyết Cần đã phải sống trong những ngày cay đắng nhất của đời mình với nghèo khổ, đi khắp nơi để mưu sinh, sống trong cảnh "cả nhà rau cháo, rượu thường mua chịu".
Tào Tuyết Cần đã dồn toàn bộ trí lực để tạo nên kiệt tác Hồng lâu mộng trong  mười năm cuối đời. Tác phẩm đã được ông sửa chữa 5 lần trong cảnh cùng khốn, thê thảm. Khi ông còn sống tác phẩm đã chưa hoàn thành và không được công bố. Sau khi ông qua đời, hai mươi tám năm sau, Cao Ngạc (2) đã dựa vào di thảo của ông để hoàn thành nốt bằng việc viết tiếp 40 hồi. Cao Ngạc đã đổi tên Thạch đầu kí thành Hồng lâu mộng (Giấc mộng trong lầu son). Theo nhận xét của nhiều nhà nghiên cứu văn học thì 40 chương sau của Cao Ngạc viết tiếp không hay như 80 chương đầu của họ Tào. Nhưng Cao Ngạc đã làm cho tác phẩm trọn vẹn, cho thấy họ Cao cũng là người đã sống với tác phẩm và đã nghiên cứu rất kĩ về văn phong của Tào Tuyết Cần. 
Hệ thống văn bản của Hồng lâu mộng khá phức tạp và đó là đối tượng nghiên cứu của các nhà nghiên cứu văn học chuyên về Hồng lâu mộng gọi là Hồng học (3). Công chúng văn học phổ cập được tiếp cận với Hồng lâu mộng chủ yếu qua Trình bản do Trình Vĩ Nguyên(4) và Cao Ngạc đồng xuất bản hai lần vào các năm 1791, 1792, gồm 120 hồi. Kể từ đó, Hồng lâu mộng được in và lưu truyền rộng rãi. Người ta cho rằng cốt truyện dựa trên hiện thực của chính dòng họ, gia đình Tào Tuyết Cần trước đây, là chuỗi tự sự lớn nhất của đời ông, như là một sự nuối tiếc thời kì vàng son rực rỡ, đồng thời nó cũng phản ánh bản chất xã hội phong kiến Trung Quốc giai đoạn ông sống. Như lời Tào Tuyết Cần nói, ông chỉ viết để bày tỏ tâm sự của bản thân, giải tỏa nỗi niềm "cô phẫn" nên không có ý định xuất bản. Tuy nhiên ông đã tốn rất nhiều sinh lực và tâm huyết trong mười năm cuối cùng của cuộc đời, đến nỗi ông cũng phải thốt lên:
“Xem ra chữ chữ toàn bằng huyết
Cay đắng mười năm khéo lạ lùng".
Cốt truyện của Hồng lâu mộng
Hồng lâu mộng  xoay quanh câu chuyện tình duyên trắc trở giữa hai anh em con cô con cậu Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc, từ đó mô tả cuộc sống nhiều mặt của một đại gia đình quý tộc đời Thanh từ lúc cực thịnh cho đến lúc suy vi trong vòng tám năm.
Tiểu thuyết mở đầu bằng một huyền thoại: Nữ Oa luyện đá ngũ sắc vá trời, luyện được năm vạn lẻ một viên. Viên linh thạch còn thừa được đưa về trời chăm sóc cây tiên Giáng Châu. Thần Anh và Giáng Châu duyên nợ, chịu ơn nhau nên phải đầu thai xuống hạ giới để "lấy hết nước mắt của đời ta để trả lại cho chàng". Từ đó dẫn ra bao nhiêu oan gia phong lưu đều phải xuống trần để trả duyên nợ, sinh ra bao nhiêu chuyện sau này.
Đá thiêng hóa thành Giả Bảo Ngọc. Cây thiêng hóa thành Lâm Đại Ngọc. Gia đình họ Giả vốn có nhiều công lao với triều đình, số lượng kẻ hầu người hạ có lúc lên tới 448 người, sống trong hai tòa dinh cơ tráng lệ bậc nhất Kinh thành. Ninh Quốc công và Vinh Quốc công là hai anh em ruột. Ninh Công là trưởng, sau khi mất con lớn là Giả Đại Hóa tập tước. Con cả Giả Phụ mất sớm, con thứ Giả Kính tập tước. Giả Kính chỉ say mê tu tiên luyện đan nên nhường cho con lớn Giả Trân tập tước, con gái thứ là Giả Tích Xuân được đem sang ở trong phủ Vinh Quốc. Giả Trân (vợ Vưu Thị) có một đứa con trai là Giả Dung (vợ là Tần Khả Khanh), hai cha con chẳng chịu học hành, chỉ lo chơi bời cho thỏa thích, đảo lộn cả cơ nghiệp phủ Ninh. Còn phủ Vinh, sau khi Ninh Công chết, con trưởng là Giả Đại Thiện tập tước. Sau khi mất, Vợ Thiện là Giả mẫu (họ Sử) trở thành người cầm cân nảy mực của gia đình. Giả mẫu có ba con, con trưởng là Giả Xá (vợ là Hình phu nhân) được tập tước. Xá có con trai là Giả Liễn (vợ là Vương Hy Phượng) và con gái (con nàng hầu) là Giả Nghênh Xuân. Em của Xá là Giả Chính (có vợ là Vương phu nhân) được Hoàng thượng đặc cách phong tước. Giả Chính có ba người con, con lớn Giả Châu (vợ là Lý Hoàn) mất sớm, để lại một con trai là Giả Lan; con gái thứ Nguyên Xuân tiến cung làm phi tử ; Giả Bảo Ngọc là cậu ấm hai, sinh ra đã ngậm một viên "Thông linh Bảo Ngọc", là niềm hi vọng của gia đình họ Giả. Ngoài ra còn có Giả Thám Xuân và Giả Hoàn là con của nàng hầu Triệu Di Nương. Giả Chính và Giả Xá còn có một em gái tên Giả Mẫn, lấy chồng là Lâm Như Hải người Cô Tô, làm quan Diêm chính thành Duy Dương, có một cô con gái tên Lâm Đại Ngọc. Bố mẹ mất sớm, Lâm Đại Ngọc được Giả mẫu đem về nuôi trong phủ Vinh Quốc.
Trong Vinh quốc phủ còn có gia đình của Tiết phu nhân, vốn là em gái Vương phu nhân, cùng con trai cả Tiết Bàn và con gái Tiết Bảo Thoa vừa vào Kinh cùng đến ở.
Vì con gái của Giả Chính là Nguyên Xuân được vua phong là Nguyên phi nên để mỗi lần về tỉnh thân, phủ Vinh quốc cho xây dựng vườn Đại quan cực kì tráng lệ. Khu vườn Đại quan này chỉ dành cho 12 tiểu thư xinh đẹp của hai phủ Vinh và phủ Ninh lui tới vui chơi. Giả Bảo Ngọc là cậu ấm duy nhất được lui tới và tìm được người tâm đầu ý hợp là Lâm Đại Ngọc. Nhưng mọi người trong gia đình không muốn cuộc hôn nhân này diễn ra. Lâm Đại Ngọc là người con gái dung mạo tuyệt sắc, là một tâm hồn thi phú đích thực nhưng vô cùng nhạy cảm và mảnh mai, lại cám cảnh ăn nhờ ở đậu nên tính tình càng thêm sầu bi, cô độc. Cho nên nàng thương hoa, khóc hoa, chôn hoa, tâm hồn nàng như một sợi tơ đàn mảnh mai, bất kể một giọt mưa thu hay tơ liễu bay đều âm vang một điều bi thương đứt ruột. Nàng cho rằng Giả Bảo Ngọc không cần thi cử, làm quan; lánh xa công danh phú quý. Trong khi đó, Tiết Bảo Thoa, người con gái đài các, sắc sảo, đức hạnh theo đúng khuôn phép chuẩn mực phong kiến lại luôn khuyến khích Bảo Ngọc học hành đỗ đạt để lọt vào tầm ngắm của các bậc huynh trưởng trong dòng họ. Lúc đầu, Giả Bảo Ngọc còn phân vân trước tình yêu của Tiết Bảo Thoa, "gần cô chị thì quên khuấy cô em"; song dần dần, nhận thấy Tiết Bảo Thoa chỉ mong ngóng cái danh "lập thân", nên Giả Bảo Ngọc đã dành trái tim mình cho Lâm Đại Ngọc, mong muốn lấy nàng làm vợ. Gia đình họ Giả coi đó là một tai họa.
Trong lúc thế lực của hai phủ họ Giả bị lung lay do mắc tội với triều đình, cả hai phủ đều bị phân li, kẻ chết người đi đày, trong một cố gắng cuối cùng nhằm cứu vãn gia tộc, Phượng Thư (chị dâu của Bảo Ngọc) đã đặt kế tráo hôn. Khi mở khăn che mặt cô dâu thấy không phải Lâm Đại Ngọc, Giả Bảo Ngọc bỏ đi, về sau hóa thành đá. Lâm Đại Ngọc nghe tiếng pháo đám cưới của Giả Bảo Ngọc, uất ức phát bệnh, ho ra máu mà chết. Kết thúc pho truyện là một khúc nhạc ai oán cho cuộc sống vương giả như mây tan bèo dạt, như một "giấc mộng trong lầu son" như một sự chiêm nghiệm về lẽ đời của họ Tào. Cũng có một kết thúc khác là Giả Bảo Ngọc chấp nhận sống với Tiết Bảo Thoa, sinh được con trai nối dõi, chăm chỉ học hành thi đỗ cử nhân rồi xuất gia nhưng cái kết này không được độc giả yêu thích, cũng có thuyết cho là của người sau thêm vào.
Thi pháp nhân vật: Những nét mới trong thi pháp
Hồng lâu mộng không những có một nội dung mới mang ý nghĩa thời đại, nó còn làm được một việc lớn lao nữa là đổi mới thi pháp tiểu thuyết Trung Quốc. Tiểu thuyết Trung Quốc trước đây, chủ yếu là tiểu thuyết chương hồi như Tam quốc chí diễn nghĩa, Thủy hử, Tây du ký... thiên về mô tả hành động, miêu tả hoạt động bên ngoài và lời nói của nhân vật. Con người trong những tiểu thuyết đó, còn giản đơn, nhất quán trong một tính cách, rạch ròi trung, nịnh đôi đường. Những truyện ngắn “truyền kì”, những truyện ngắn trong LiêuTrai chí dị (5) đã bắt đầu thấm đẫm màu sắc con người thị dân với những khát vọng nồng nhiệt hơn, phức tạp hơn nhưng vẫn chưa có một thi pháp tiểu thuyết thực sự phản ánh một cách nhìn mới về con người. Hồng lâu mộng đã làm được việc đó. 
Dĩ nhiên là trong những hạn chế gay gắt của thời đại. Dù cho có những nhân tố tư bản chủ nghĩa, nhân tố kinh tề hàng hóa, thị trường, thành phố, thị dân... xã hội Trung Quốc vẫn là xã hội phong kiến, và cái con người “mới” mà người ta chờ đợi đó đã xuất hiện chưa hoàn chỉnh; thi pháp tiểu thuyết trong Hồng lâu mộng đã mang một số nhân tố mới của tiểu thuyết cận đại phương Tây, nhưng nó chưa thể đi xa hơn nữa. Nó vẫn còn bị giam mình trong cái khung tiểu thuyết chương hồi truyền thống, lấy “kể việc” làm phương tiện chủ yếu khám phá của con người.
Trước hết, đó là cách nhìn con người trong sự phát triển đầy mâu thuẫn, sự phát triển biện chứng, có chiều sâu đầy kịch tính, được chiếu dọi từ nhiều phía và được đặt trong những mối quan hệ phức tạp.
Nhìn vào hình tượng những nhân vật chính trong Hồng lâu mộng, có thể nói Tào Tuyết Cần đã sáng tạo nên hình tượng rực rỡ của hai nhân vật nam và nữ chính là Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc. Đối lập với hai nhân vật này, Tào Tuyết Cần còn sáng tạo nên một hình tượng nhân vật có ý nghĩa điển hình rất cao là Tiết Bảo Thoa. Qua việc khắc họa tính cách ba nhân vật này, cùng quan hệ yêu đương phức tạp của họ, tác giả đã phơi bày mối xung đột, mâu thuẫn có nhiều ý nghĩa xã hội với một sức mạnh nghệ thuật vô biên.
Nhân vật Giả Bảo Ngọc được Tào Tuyết Cần tập trung bút lực và gửi gắm vào đó nhiều tâm huyết nhất và cũng là nhân vật xuyên suốt Hồng lâu mộng. Số phận và tính cách của Giả Bảo Ngọc đã được tác giả miêu tả không đơn giản. Đó là mâu thuẫn giữa khát vọng tự do và sự ràng buộc nặng nề của gia đình và xã hội phong kiến. Đó là tình yêu chân thành và quý báu như chính sinh mệnh của anh ta và lạ thay, anh ta hầu như chẳng làm được gì, chẳng chiến đấu dũng mãnh gì để đoạt lấy hạnh phúc! Mọi việc gần như đã phó mặc! Trước khi chết, Lâm Đại Ngọc oán giận, đau buồn đốt khăn tặng, đốt tập thơ..., không phải là không có lý! Anh ta chưa bao giờ xứng đáng là một trang “tu mi nam tử” có lý tưởng, kiên định! Vấp phải những mâu thuẫn nghiệt ngã của thời đại, anh ta sinh ra đau thần kinh, mắc chứng “ngây”, cứ cười hì hì suốt ngày. Điều đó càng đẩy sâu anh ta vào bi kịch. Cuối cùng giải pháp “đi tu” (phản ánh sự từ chối, sự phản kháng dù yếu ớt) đã được anh ta chọn lựa. Đi thi và thi đỗ cao để an ủi gia dình, rồi bỏ trốn đi tu, Giả Bảo Ngọc đã đi hết sự phát triển tính cách một cách hợp lý và quả là qua số phận anh ta, như một số nhà nghiên cứu nhận định, có sự gởi gắm, có sự thể hiện một phần nào bản thân tác giả. Đó đúng là một số phận tiểu thuyết theo ý nghĩa hiện đại của từ này.
Nhân vật Lâm Đại Ngọc là một tính cách đặc sắc khác. Xuất thân trong một gia đình “thư hương môn đệ” đời đời tập tước Hầu, vì cha mẹ mất sớm, Lâm Đại Ngọc đến ở trong phủ họ Giả lâu dài với tư cách là người thân. Cô gái giàu lòng tự ái này, sống trong cảnh ăn nhờ ở đậu, nhưng chẳng những nàng không hề thay đổi tính cách “kiêu kì cao ngạo” của mình mà lại càng để ý đến xung quanh với thái độ nghi ngờ, mẫn cảm…Cuộc sống ăn nhờ ở đậu đã tạo nên nỗi đau ngầm khó tan trong sâu thẳm tâm hồn nàng. Nàng không chịu tuân theo số mệnh nhưng lại không làm sao thoát khỏi cái số mệnh ấy. Vì thế, nàng thường than thân trách phận, cám cảnh cho thân mình. Cuộc sống phồn hoa trong Giả phủ chỉ gợi lên trong lòng nàng nỗi buồn thương vô hạn. “Đa sầu đa cảm” trở thành nét đặc trưng trong tính cách cô gái này… Nàng yêu Giả Bảo Ngọc, nhưng do thân phận của nàng, mỗi khi Giả Bảo Ngọc ngỏ lời là nàng lại giận hờn, buồn tủi, làm ra vẻ cự tuyệt... “Bảo Ngọc cười nói: - Tôi là người nhiều sầu, nhiều bệnh, cô là trang nghiêng nước nghiêng thành”. Lâm Đại Ngọc nghe thấy câu ấy, mặt và tai đỏ bừng lên, lập tức dựng ngược lông mày, như cau lại mà không phải là cau, trố hai con mắt, như trợn mà không phải trợn. Má đào nổi giận, mặt phấn ngậm hờn, trỏ vào mặt Giả Bảo Ngọc: “- Anh nói bậy, muốn chết đấy! Dám đem những lời lẳng lơ suồng sã lăng nhăng để khinh nhờn tôi! Tôi về mách cậu mợ đấy”. Điều đó làm cho nàng trở nên đáng yêu và tội nghiệp, làm cho nàng trở nên nhiều nữ tính hơn. Không một nét giả dối, nàng là một nhân vật đã hiện ra với chiều sâu tâm lý đa dạng, được bộc lộ qua tình yêu, qua những quan hệ khác. Phút cuối cùng, nghe nói Giả Bảo Ngọc sắp lấy vợ, và người được chọn sẽ là người trong Giả phủ, Lâm Đại Ngọc chắc mẩm người đó sẽ là mình. Chứa chan hy vọng, và từ đau buồn tuyệt vọng, trong ốm đau, nàng trở lại sống linh hoạt, tươi đẹp... Ai ngờ đó là phút nàng ở gần sự kết thúc nhất. Những biến động tâm lý như vậy làm cho nhân vật thực, gần gũi, phong phú, hấp dẫn.... và về mặt soi rọi tâm lý nhân vật, đã đạt đến trình độ của nhân vật tiểu thuyết hiện đại.
Nhân vật Tiết Bảo Thoa là một tính cách gần như đối nghịch với Lâm Đại Ngọc, Giả Bảo Ngọc; chính những nhân vật trong Hồng lâu mộng đã phát triển trong sự đối nghịch như vậy, làm cho cuốn tiểu thuyết đa diện, đa thanh. Tiết Bảo Thoa không bộc lộ hoàn toàn theo những tình cảm chân thực như Lâm Đại Ngọc, mà thường được cân nhắc đắn đo. Nàng lúc nào cũng “an phận tùy thời”, “giả ngu giả dại”, nhất cử nhất động đều tỏ ra rất mực “đoan trang hiền thục”. Nói cách khác, Tiết Bảo Thoa là một nhân vật phụ nữ lí tính. Nàng còn ít tuổi mà đầy bản lĩnh, ở nàng tất cả đều đúng mực, hợp lí, nàng là hiện thân của nguyên lí đạo đức phong kiến. Bao giờ nàng cũng là một người con gái sống cho gia đình, sống cho ý định người khác và ý định đó luôn được nàng chấp nhận vì đó cũng chính là của nàng. Sự hòa hợp giữa nàng và gia pháp phong kiến là điều hoàn toàn tự nguyện. Nàng là người có học, xem nhiều sách, biết làm thơ, nhưng lại tâm sự và răn đe Lâm Đại Ngọc: "Bọn con gái chúng ta không biết chữ càng tốt...
Ngay đến cả việc làm thơ, viết chữ đã không phải là phận sự chị em mình, mà cũng không phải phận sự của bọn con trai nữa. Người con trai đọc sách nhiều phải hiểu nghĩa lí để ra giúp dân trị nước mới đúng...”. Với Giả Bảo Ngọc, một người không yêu nàng, nhưng nàng theo sự sắp đặt của bề trên, lấy Giả Bảo Ngọc không một chút tự ái, nàng làm bổn phận của người vợ. Nếu nói “bản chất” và “bản lĩnh” giai cấp thì quả nàng là hiện thân của giai cấp. Khi con hầu Kim Xuyến nhảy xuống giếng tự tử, Vương phu nhân cảm thấy lương tâm cắn rứt, nhưng nàng thì không, nàng tươi cười, an ủi đổ lỗi cho Kim Xuyến và nói: “Dì cũng chẳng nên lo lắng buồn bã làm gì, chỉ cần cho vài lạng bạc làm ma cho nó là trọn tình chủ tớ rồi”. Nàng đã bày kế “ve sầu lột xác” để đánh lừa bọn con hầu, tránh điều bất lợi cho mình. Tiết Bảo Thoa lúc nào cũng tỉnh táo, cũng lắm mẹo. Nhưng nàng cũng là một nhân vật đáng thương. Nàng cũng yêu Giả Bảo Ngọc mà phải tự kiềm chế, che giấu trong lòng. Điều quan trọng là thái độ căm ghét của Giả Bảo Ngọc đối với lối sống phong kiến “làm quan trị nước” không thể không xung đột với nàng về mặt tư tưởng. Điều đó đưa đến mâu thuẫn trong tình yêu của nàng đối với Giả Bảo Ngọc:  quan hệ giữa nàng và Bảo Ngọc “như gần như xa”! Mâu thuẫn này đến tận cuối cũng không thể được giải quyết: Rốt cuộc, tuy nàng và Bảo Ngọc thành vợ chồng nhưng không được hưởng hạnh phúc của Tình yêu, rốt cuộc nàng cũng trở thành một nhân vật bi kịch. Bi kịch của nàng là bi kịch của một người trung thành với đạo đức phong kiến.
Tào Tuyết Cần có tư tưởng tiến bộ nên Hồng lâu mộng có ý nghĩa phê phán xã hội phong kiến sâu sắc. Nhưng nếu ông thiếu cái khả năng biểu hiện nghệ thuật thật cao, thì sức mạnh của nhà nghệ sĩ ở ông không thể phát huy được xuất sắc như thế. Tào Tuyết Cần một mặt kế thừa kinh nghiệm sáng tác của các tác gia thời đại trước, mặt khác mở đường và sáng tạo thêm, đưa nghệ thuật sáng tác tiểu thuyết cổ điển lên đỉnh cao mới.
Thành tựu to lớn của Hồng lâu mộng trước hết thể hiện ở nghệ thuật xây dựng nhân vật, và điều đặc biệt là xây dựng rất nhiều nhân vật cùng một lúc. Trong đó có nhiều nhân vật đều do tác giả dựa vào đời sống mà sáng tạo nên và điều đặc sắc là “loại kiểu” nhân vật này xuất hiện lần đầu tiên trong lịch sử văn học Trung Quốc. Những nhân vật đó sống động, có máu thịt, có cá tính rõ nét. Có một số nhân vật nhà văn chỉ phác họa sơ qua vài nét cũng để lại ấn tượng rất sâu sắc cho người đọc. Đáng chú ý là, trong Hồng lâu mộng, Tào Tuyết Cần miêu tả nhiều nhất là phụ nữ, mà chủ yếu lại là những thiếu nữ giống nhau hoặc na ná như nhau về độ tuổi, hoàn cảnh sống, cách sống. Rõ ràng điều đó làm cho việc miêu tả gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng Tào Tuyết Cần không những có thể miêu tả được hết sức rõ ràng cá tính của từng người, mà đến cả những tính cách gần giống nhau, chỉ khác ở những nét đặc trưng hết sức tinh tế, cũng được ông khắc họa rõ ràng tỉ mỉ. Ví dụ tính ôn hòa, nhân hậu, dịu dàng của Bình Nhi khác với tính ôn hòa, nhân hậu, dịu dàng của Tập Nhân ; tính phóng khoáng bộc trực của Sử Tương Vân khác với tính phóng khoáng bộc trực của chị ba Vưu ; Lâm Đại Ngọc và Diệu Ngọc đều có tính kiêu kì, cô độc, nhưng họ lại có điểm khác nhau, một người nhập thế, còn người kia thì xuất thế. Tính kiêu kì cô độc ở Lâm Đại Ngọc khiến người ta cảm thấy nóng, nhưng cũng tính này ở Diệu Ngọc lại làm cho người ta thấy lạnh. Quả là “mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”! Chính vì vậy, Hồng lâu mộng còn có lúc được người ta gọi là Thập nhị kim thoa!
Đối với cô gái chan chứa tình thơ như Lâm Đại Ngọc, cố nhiên Tào Tuyết Cần hết lời khen ngợi rồi. Nhưng dưới ngòi bút của ông, ngay cả những cô nữ tì, a hoàn chẳng được học hành gì, cũng được thể hiện rất duyên dáng, tràn đầy nữ tính, khiến người ta cảm động khôn cùng. Vì nỗi bất hạnh của người khác mà cảm thấy đau khổ, thương cảm không nguôi như Tử Quyên, hay có nhiệt tình nồng nàn, bỏng cháy nhưng lại bị dập tắt phũ phàng như Tình Văn, đều đã từng làm cho người đọc cảm động đến rơi lệ. Thông qua bấy nhiêu hình tượng nhân vật được khắc họa khéo léo, nhất là thông qua những thiếu nữ trẻ trung bị chà đạp, bị hãm hại, mỗi người mỗi cách, Tào Tuyết Cần đã khiến cho Hồng lâu mộng trở thành bản cáo trạng phản đối xã hội ấy một cách sâu sắc.
Thành công lớn về mặt nghệ thuật của Hồng lâu mộng còn thể hiện ở chỗ tác giả có tài phản ánh hiện thực đời sống mà không để lại dấu vết nhân tạo nào trên tác phẩm. Tự nhiên, không tô vẽ, hay nói cách khác, khéo như thợ trời, đó là đặc sắc nổi bật của thiên tài Tào Tuyết Cần. Trong Hồng lâu mộng, mọi thứ đều sinh động, có sức sống dồi dào ; mọi thứ đều phức tạp rối rắm, muôn màu muôn vẻ, nhưng lại trong sáng rõ ràng. 
Cuộc sống được tái hiện trong Hồng lâu mộng, dường như không hề qua tay nhà văn đẽo gọt công phu, khắc họa tỉ mỉ gì cả, mà chỉ là theo dáng dấp vốn có tràn lên trên mặt giấy một cách tự nhiên, như cảnh vật thiên nhiên trời cao đất rộng, không hề tô điểm, hiện ra trước khung cửa sổ nhà ta. Đó chính là tuyệt bút vậy.
Đặc điểm về mặt sáng tác Nghệ thuật của HLM là Chủ nghĩa hiện thực nghiêm ngặt. Bộ tiểu thuyết sở dĩ sinh động, tự nhiên đến mức hầu như không thấy được dấu vết tô vẽ gì cả, là có quan hệ mật thiết với đặc điểm ấy. Khi miêu tả, tác giả đã phản ánh tỉ mỉ sâu sắc nhưng lại khái quát cao độ bộ mặt chân thực của cuộc sống. Mỗi người mỗi việc, tác giả không hề xử lý giản đơn, như trong hồi mở đầu cuốn sách, ông đã nói: “Đều là theo dấu tìm vết, không dám thêm bớt xuyên tạc”. Chính vì vậy mà HLM càng tỏ ra tự nhiên, giống thật mà lại phong phú muôn màu muôn vẻ như chính bản thân cuộc sống vậy.
Kết cấu Nghệ thuật của HLM cũng rất tài tình. Mỗi tình tiết, chương, đoạn thay đổi, phát triển đều như một dòng nước uốn lượn, ta chỉ gặp sự lưu loát, chứ không hề thấy gượng gạo, đứt đoạn, chắp vá. Cuộc sống được phản ánh trong HLM gắn bó thành một chỉnh thể không thể tách rời được, y như cuộc sống trong thực tế. Đằng sau những sự việc rối rắm đan xen chồng chéo với nhau của cuộc sống, đều có ngọn nguồn và những đường dây nối liền và những mạch ngầm đúng như người ta nói: Lối bụi đường mòn giấu mạch ngầm ngàn dặm! Tào Tuyết Cần có tài thâu tóm được đời sống bao la muôn vẻ vào tay mình, rồi triển khai tuần tự, thể hiện hài hòa mà chẳng hề làm gián đoạn, mất mát. Bộ tiểu thuyết đầu đuôi ăn khớp, mọi mặt đều liên quan đến nhau, hầu như khó rút được chương đoạn nào khỏi cuốn sách mà không làm tổn hại đến đường mối xung quanh. Dưới ngòi bút của Tào Tuyết Cần, các tình tiết, các mẩu chuyện đều được biến thành những bộ phận phức tạp của một chỉnh thể, chúng lại đan cài vào nhau, ẩn hiện trong tác phẩm. Đồng thời, những tình tiết và nhân vật đó không ngừng được mở rộng, làm phong phú sâu sắc thêm, và vận động theo một hướng chung.
Điểm nổi bật ở HLM là Tào Tuyết Cần đã phá vỡ cách viết truyền thống của tiểu thuyết, mở ra một thi pháp mới của tiểu thuyết. Nếu như trước đây, nhà văn phải dựa vào những câu chuyện éo le, li kỳ hoặc căng thẳng rùng rợn để tạo sự cuốn hút thì với HLM, Tào Tuyết Cần đã thoát khỏi sự trói buộc của truyền thống ấy. Trong HLM, cuộc sống luôn hiện ra chủ yếu là cuộc sống thường nhật. Chính trong cái cuộc sống thường nhật đó, mâu thuẫn xung đột đang phát triển, câu chuyện đang diễn biến, tính cách nhân vật đang rõ nét dần. Trong HLM cũng có cả những sự kiện, những cơn sóng to gió lớn, đó là kết quả phát triển tự nhiên của cuộc sống hàng ngày, là biểu hiện tập trung của mâu thuẫn và ý nghĩa cuộc sống. Tào Tuyết Cần không chỉ sành sỏi khi miêu tả rất tinh tế, rất giống cuộc sống hàng ngày, mà ông còn có tài dùng ngòi bút thiên biến vạn hóa miêu tả say sưa, sinh động những sự việc lớn, những cơn sóng to gió lớn. Như đoạn Giả Bảo Ngọc bị đòn, đoạn lục soát vườn Đại quan, đều là những đoạn viết rất hay…
Ngôn ngữ của HLM đã kế thừa xuất sắc truyền thống tốt đẹp của tiểu thuyết cổ điển đồng thời lại vượt hơn hẳn bất cứ tác phẩm nào trước đó. Đó là sự điêu luyện, tự nhiên và giàu sức biểu hiện. Trong đó, ngôn ngữ nhân vật chiếm phần lớn. Rất nhiều đoạn hầu hết là đối thoại của nhân vật, tác giả chỉ miêu tả hoặc thuật chuyện hết sức gọn ghẽ để nối lại với nhau. Ở đây, ngôn ngữ nhân vật rất đa dạng, phong phú, luôn thay đổi. Những lời lẽ đó, dài hoặc ngắn, thanh hoặc thô, đều hợp với từng nhân vật. Tào Tuyết Cần đặc biệt giỏi dùng những lời đối thoại trong cuộc sống hàng ngày, không cần tô vẽ thêm bớt gì cả, để cho nhân vật dẫn dắt chúng ta đi vào thế giới nội tâm của họ và những chỗ sâu kín của cuộc đời. Bởi vậy có thể nói, về mặt thể hiện ngôn ngữ nhân vật, cùng với Thủy hử, Hồng lâu mộng đã trở thành những tác phẩm mẫu mực trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc.
Hồng lâu mộng là một bức tranh hiện thực rộng lớn về xã hội phong kiến Trung Quốc trên con đường suy tàn. Cái vẻ ngoài tôn nghiêm nền nếp không che đậy được thực chất mục ruỗng của giới thượng lưu sống trong Giả phủ. Cuộc sống xa hoa, dâm ô cố hữu của giai cấp bóc lột và những mối quan hệ tàn nhẫn giữa họ với nhau đã đưa Giả phủ vào con đường suy tàn không cứu vãn được. Đó chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội Trung Quốc đời Thanh. Cái cảm giác "cây đổ vượn tan", "chim mỏi về rừng" đã chi phối ngòi bút Tào Tuyết Cần, chứng tỏ ông là nhà văn hiện thực báo hiệu buổi hoàng hôn của chế độ phong kiến. Với nhãn quan của một người có tư tưởng dân chủ, nhà văn còn nhìn thấy những con người mới mang tư tưởng phản truyền thống. Giả Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc chính là những đứa con "bất hiếu" của gia đình mình, họ chống quan niệm trọng nam khinh nữ truyền thống, chán ghét khoa cử công danh, theo đuổi một cuộc sống tự do, chống lại khuôn phép ràng buộc. Họ yêu nhau vì phản nghịch, càng phản nghịch họ càng yêu nhau. Đó là hồi âm của cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa tư tưởng dân chủ sơ khai và tư tưởng phong kiến.
Khi đánh giá Hồng lâu mộng, hầu hết người ta đều không tiếc lời ca ngợi. Ta có thể thấy rất nhiều những lời khen tặng như thế này ở những bài viết về Hồng lâu mộng:
Hồng lâu mộng lập ý mới, bố cục khéo, từ ngữ đẹp, đầu mối rõ, khởi kết kĩ, đan cài diệu, miêu tả thật, sắp xếp tài, kể việc thực, nói tình thiết, đặt tên sát, dùng bút kín, cái tài tình thật không kể xiết. Hơn nữa chế giễu thì được cái hậu của nhà thơ, khen chê thì có cái tài của sử bút, kể chuyện ma không cảm thấy hoang đường, tả sự vật không cảm thấy chồng chất, không lời nào tự mâu thuẫn, không việc nào bất trúng nhân tình. Ngoài ra như chúc tết mừng tuổi, mừng thọ lo tang, xem bói bốc thuốc, thách rượu gá bạc, mất của gặp ma, bị cháy gặp cướp, cho đến những việc vặt vãnh gia thường, tư tình nhi nữ, không có chuyện gì mà không ghi đủ. Đến như cầm kì thi họa, y bốc tính mệnh, giải quyết rất tinh, sắp đặt xác đáng. Nhưng đặc biệt tôi cho rằng không có gì tài khéo hơn là thơ từ câu đối hoành phi, lệnh phạt rượu, câu đố đèn, kèm thêm văn từ, điểm diễn hí khúc, không một chỗ nào là không ám hợp với ý chính, nhất bút song quan. Quả là một cuốn sách không tiền tuyệt hậu, độc tuyển trên đời.
Có nhiều người với thiên kiến hẹp hòi lại cho rằng Hồng lâu mộng là “dâm thư”, toàn miêu tả những chuyện tình ái! Song, chính ở đây đã thể hiện rõ ngòi bút trữ tình lãng mạn tuyệt vời của Tào Tuyết Cần: Chuyện tình ái trong Hồng lâu mộng được đan xen tài tình giữa mộng và thực, giữa khát vọng yêu đương và thực tế phũng phàng! Bên cạnh đó, mọi diễn biến của tình tiết yêu đương “mối tình tay ba” giữa Giả Bảo Ngọc với Lâm Đại Ngọc và Tiết Bảo Thoa được lồng ghép trong những cuộc bình thơ tưởng chừng như bất tận! Cũng có thể nói, Hồng lâu mộng là cuốn tiểu thuyết bằng thơ! Vì thế nếu nói Hồng lâu mộng là cuốn tiểu thuyết Ái Tình hay nhất mọi thời đại thì cũng không đến nỗi quá đáng! 
Sau khi Hồng lâu mộng lưu truyền rộng rãi trong đời sống xã hội, nó không chỉ làm “mê đắm lòng người” mà nó còn là nhân tố kích hoạt cho những cảm hứng sáng tạo mới: không ít tác phẩm văn học đã “ăn theo” Hồng lâu mộng (6) và cũng đạt tới những thành tựu không nhỏ. Sức hấp dẫn của Hồng lâu mộng làm người ta say mê đến nỗi còn lưu truyền bốn câu thơ:
Tổ khoát toàn bằng nha phiến yên
Hà phương tác quỷ thả thần tiên
Khai đàm bất thuyết Hồng Lâu Mộng
Độc tận thi thư diệc uổng nhiên?
Nghĩa là: 
Thuốc phiện ngào ngạt nơi gác tía,
Ma quỷ, thần tiên có hại chi?
Văn chương không nói Hồng lâu mộng
Đọc hết Thi, Thư liệu ích gì?
Chú thích:
(1) Thạch đầu kí: Thạch đầu kí tức là chuyện Thần Anh đầu thai xuống hạ giới trả nợ tình duyên rồi lại trở về kiếp đá. Ngoài ra còn một số tên gọi khác như: 
1/Tình Tăng lục hay Phong Nguyệt bảo giám; 
2/Thập nhị kim thoa lấy chuyện mười hai cô gái đẹp trong truyện để đặt tên; 
3/ Kim Ngọc kì duyên: Bảo Thoa có vàng, Bảo Ngọc có ngọc nên Bảo Ngọc lấy Bảo Thoa là Kim Ngọc kì duyên.
Ban đầu, Hồng lâu mộng có tên là Thạch đầu ký. Thạch đầu ký thuộc loại tác phẩm chương hồi, là một bộ trường thiên tiểu thuyết. Tào Tuyết Cần viết được 80 chương, "chữ chữ đều toàn bằng máu và nước mắt". Tác phẩm ấy có thể được xem là toàn bộ những hồi ức đau thương của công tử Tào Tuyết Cần về những ngày vẻ vang và những ngày suy tàn của gia đình mình, của giai cấp mình. Tuy nhiên, vượt lên khỏi những hồi ức đó, Thạch đầu ký là tác phẩm với cái nhìn rất khách quan về bản chất ăn chơi, hưởng thụ của giai cấp quan lại quý tộc, đặc biệt là quan lại quý tộc triều Thanh và sự suy tàn của giai cấp ấy. Nói cách khác, khi xây dựng tác phẩm chương hồi này, Tào Tuyết Cần vừa đứng trên vị thế chủ quan của một người trong cuộc, vừa đứng ở vị thế khách quan của một chứng nhân. Mới viết dang dở được 80 chương, Tào Tuyết Cần qua đời.
(2) Cao Ngạc: Cao Ngạc (khoảng 1738 - 1815), tự là Lan Thự, cũng tự là Vân Sĩ, hiệu là Hồng Lâu Ngoại Sĩ, từng làm quan dưới 2 triều Càn Long và Gia Khánh, trải qua lắm hoạn nạn trên trường đời. Ông đã viết thêm 40 chương sau cho Thạch đầu ký căn cứ trên nền tảng, ý hướng và văn phong của Tào Tuyết Cần. Kết cục không có hậu của tác phẩm được đánh giá là phù hợp với phần đầu của Tào Tuyết Cần. Tác phẩm hoàn thành, Cao Ngạc đổi tựa lại là Hồng lâu mộng (Giấc mộng lầu son), vừa phù hợp với nội dung tác phẩm, vừa mang dáng dấp của tâm hồn ông vì hiệu của ông là Hồng Lâu Ngoại Sĩ (người ngoài lầu son – không dính dáng gì đến công danh phú quý). Năm 1793, Hồng lâu mộng được in ra gồm 120 chương hồi, thực sự trở thành danh tác văn học cổ điển Trung Quốc, nhanh chóng được nhìn nhận như là một trong những tác phẩm xuất sắc trong hơn 300 tác phẩm chương hồi thuộc hai triều Minh – Thanh (1368 – 1911).
(3) Hồng học: Sự truyền bá rộng rãi của cuốn tiểu thuyết này đã dẫn đến việc ra đời một ngành học lấy tên là Hồng học. Giới nghiên cứu tổ chức định kì Hội thảo Hồng lâu mộngcó quy mô toàn quốc. Sở nghiên cứu Hồng lâu mộng có tạp chí chuyên san để đăng tải những nghiên cứu về Hồng lâu mộng... Hồng học ngày nay đã trở thành một ngành học vấn ở phạm vi quốc tế. Trên thế giới chỉ có nhà soạn kịch vĩ đại Shakespeare là cũng có vinh dự này.
(4) Trình Vĩ Nguyên: Cao Ngạc và Trình Vĩ Nguyên là những người đầu tiên xuất bản bộ tiểu thuyết Hồng lâu mộng đủ 120 hồi. Trình Vĩ Nguyên trong lời tựa Hồng lâu mộng (bản Trình Giáp 1791 và bản Trình Ất 1792) viết: Hồng lâu mộng tiểu thuyết bản danh Thạch đầu ký, tác giả tương truyền bất nhất, cứu vị tri xuất tự hà nhân, duy thư nội ký Tuyết Cần Tào tiên sinh san cải số quá (Tiểu thuyết Hồng lâu mộng nguyên tên Thạch đầu ký, tác giả tương truyền bất nhất, không biết do ai viết ra, duy trong sách ghi rằng Tuyết Cần Tào tiên sinh là người san cải, biên tập). Trong các tài liệu chính thức, người ta vẫn ghi tác giả 80 hồi đầu Hồng lâu mộng là Tào Tuyết Cần, tác giả 40 hồi cuối là Cao Ngạc. Tuy nhiên những năm gần đây, có ý kiến cho rằng 40 hồi cuối của Hồng lâu mộng là do Cao Ngạc cùng với Trình Vĩ Nguyên viết. Cũng có quan điểm rằng 40 hồi cuối hoặc do Cao Ngạc viết, hoặc do Trình Vĩ Nguyên viết. Lại có quan điểm cho rằng tác giả 40 hồi cuối là một người khác, Trình và Cao chỉ làm công việc biên tập, sửa sang mà thôi. Lại có ý kiến cho rằng 40 hồi cuối là di cảo của Tào Tuyết Cần. Năm 1981, Trần Bính Tảo thông qua các số liệu thống kê về Hồng lâu mộng đã kết luận rằng toàn bộ 120 hồi đều là nguyên tác của Tào Tuyết Cần. Cho đến nay, cuộc tranh luận về tác giả của 40 hồi cuối (cũng như 80 hồi đầu) của Hồng lâu mộng vẫn chưa ngã ngũ.
Trong bài Thuyền sơn thi thảo - Tặng Cao Lan Thự đồng niên của Trương Vấn Đào có tiểu chú rằng: "Truyền kỳ Hồng lâu mộng bát thập hồi dĩ hậu, câu Lan Thự sở bổ" (Truyền kỳ Hồng lâu mộng sau tám mươi hồi đều do Cao Ngạc bổ sung), lại có thêm câu "Hiệp khí quân năng không tử tắc, Diễm tình nhân tự thuyết Hồng Lâu". Bản thân Cao Ngạc cũng đã viết một bài thơ đề rằng "Trọng đính Hồng lâu mộng tiểu thuyết ký thuận đề" (Hiệu đính tiểu thuyết Hồng lâu mộng đã đề xong). Lời Tựa Hồng lâu mộng (Hồng lâu mộng tự) của Trình Vĩ Nguyên, Tựa Hồng lâu mộng của Cao Ngạc và Lời Mở đầu Hồng lâu mộng (Hồng lâu mộng dẫn ngôn) của Trình, Cao đều viết rằng Cao Ngạc tế gia ly dịch, tiệt trường bổ đoản, sao thành toàn bộ (bổ sung, sửa sang, chọn lọc kỹ lưỡng, cắt bỏ phần dài thêm vào phần ngắn, sao lục thành bộ). 
(5) Liêu Trai chí dị: Liêu trai chí dị (những chuyện quái dị chép ở căn nhà tạm) là tập truyện ngắn gồm 431 thiên, ra đời vào đầu đời nhà Thanh (cuối thế kỷ 17) của Bồ Tùng Linh(5*). Bộ truyện này được coi là một kì thư và được đánh giá là đỉnh cao của tiểu thuyết văn ngôn thời cổ đại. Dựa trên cơ sở tập Liêu Trai chí dị - Hội hiệu hội chú hội bình do Trung Hoa thư cục Thượng Hải biên tập và ấn hành năm 1962, các dịch giả như Nguyễn Huệ Chi, Cao Xuân Huy, Phạm Tú Châu, Đỗ Ngọc Toại, Nguyễn Đức Lân, Trần Thị Băng Thanh, v.v… đã dịch nhiều truyện sang tiếng Việt và lưu truyền rộng rãi tại Việt Nam.
(5*) Bồ Tùng Linh: Bồ Tùng Linh (1640-1715), tự là Liêu Tiên và Kiếm Thần, cũng có người gọi ông là Liễu Tuyền cư sĩ. Bồ Tùng Linh sinh ra trong một gia đình tiểu thương ở huyện Truy Xuyên (nay là huyện Truy Bác, Sơn Đông). Năm 19 tuổi, ông đỗ tú tài trong khoa thi, nhưng phải mãi đến năm 71 tuổi ông mới đỗ cống sinh. Thân phụ của Bồ Tùng Linh là Bồ Bàn vì lận đận nơi khoa trường, nên đã từ bỏ nghiệp nho theo nghiệp thương gia. Sinh con đầu lòng là Triệu Kỳ nhưng chẳng may chết yểu. Đến tuổi trung niên thì coi như ông đã tuyệt tự. Nên ông đóng cửa chuyên tâm đọc sách và làm từ thiện. Nhưng kỳ lạ thay lúc đó ông lại có bốn người con lần lượt là: Triệu Chuyên, Bá Linh, Tùng Linh và Hạc Linh. Bồ Tùng Linh là con dòng thứ.Ông dành hầu hết thời gian trong việc dạy học tư, và sưu tầm những câu chuyện mà sau này được viết trong tác phẩm Liêu trai chí dị, bao gồm 16 quyển chia làm 431 tập truyện chính và 17 truyện phụ, vị chi 448 tập về những truyện kỳ quái mà ông sưu tập được. Đây cũng được coi là một đỉnh cao trong thể loại truyện ngắn cổ điển Trung Quốc.
(6) “Ăn theo” vŕ “Chuyển thể” Hồng lâu mộng: Do Hồng lâu mộng được nhiều người yêu thích nên có ngót 40 bộ sách viết tiếp như Hậu Hồng lâu mộng, Hồng lâu mộng bổ, Hồng lâu viên mộng... và có đến hơn 20 bộ phỏng tác như Kính hoa duyên, Thuỷ Thạch duyên. Gần đây có: Hồng lâu mộng tân bổcủa tác giả Trương Chi, gồm 30 hồi, xuất bản năm 1984; Tào Chu bản của tác giả Chu Ngọc Thanh, gồm 39 hồi, xuất bản năm 1997; Gần đây nhất là Hậu Hồng lâu mộng của tác giả Hồ Nam với bút danh Vũ Sơn Tuyết, xuất bản năm 2007.
Chuyển thể: Hơn 200 năm nay, Hồng lâu mộng là đề tài hấp dẫn vô cùng vô tận của sân khấu và điện ảnh, hơn 20 lần chuyển thể thành phim điện ảnh và truyền hình, trong đó hoàn chỉnh nhất có: 1987 - Phim truyền hình Hồng Lâu Mộng, đạo diễn Vương Phù Lâm, diễn viên chính Âu Dương Phấn Cường, Trần Hiểu Húc; 2008 - Phim truyền hình Tân Hồng Lâu Mộng, đạo diễn Lý Thiếu Hồng, đang thực hiện.
(*) Tào Tuyết Cần (1724? - 1763?), tên thật là Tào Triêm , tự là Mộng Nguyễn hiệu là Tuyết Cần, Cần Phố, Cần Khê.Tổ tiên ông vốn là người Hán ở Liêu Dương, sau đó tổ xa của ông là Tào Tuấn quy hàng Mãn Châu, nhập tịch Mãn tộc. 
 Gia đình thế hệ trước của Tào Tuyết Cần là một gia đình quan lại thuộc tầng lớp đại quý tộc thời nhà Thanh Trung Quốc. Năm Thiên Khải thứ nhất nhà Minh (1618), Thanh Thái Tổ là Nỗ Nhĩ Cáp Xích mang quân chinh phạt, đánh chiếm Thẩm Dương, Liêu Dương, tổ tiên của Tào Tuyết Cần bị quân Thanh bắt làm nô lệ, thái cao tổ của Tào Tuyết Cần là Tào Thế Tuyển và cao tổ là Tào Chấn Ngạn lần lượt làm gia nô cho Đa Nhĩ Cổn. Sau đó Tào Chấn Ngạn được Đa Nhĩ Cổn phong làm phụ tá, lại có công bình định cuộc khởi nghĩa Khương Tương nên được bổ làm tri châu Cát Châu (Sơn Tây), tri phủ phủ Đại Đồng, Lưỡng Chiết đô chuyển vận diêm sử (chức vận chuyển muối, hàm Tam phẩm).Đến năm Thuận Trị thứ 8 (1651), nhà họ Tào được vào Ngự tiền nội vụ phủ, phụ trách các việc tạp vụ trong cung đình, cụ nội của Tào Tuyết Cần là Tào Tỷ được Vương phủ hộ vệ thăng làm Nội đình nhị đẳng thị vệ (thị vệ hạng hai trong cung).
Nhà họ Tào và vương triều Mãn Thanh có quan hệ khá mật thiết. Vợ của Tào Tỷ họ Tôn là vú nuôi của vua Khang Hy, ông nội của Tào Tuyết Cần là Tào Dần còn là bạn học và ngự tiền thị vệ của Khang Hy, do đó được Khang Hy chiếu cố và sủng tín rất đặc biệt. Năm Khang Hy thứ hai (1663), Tào Tỷ đảm nhận chức Giang Ninh chức tạo là một chức quan to thu thuế trong triều đình, phụ trách việc thu thuế cả một vùng Giang Nam rộng lớn và nắm việc thu mua, cung ứng tơ lụa gấm vóc cho cung đình đồng thời giám sát các quan lại ở phương Nam và ông đã đảm nhận chức này suốt 22 năm. Khang Hy trọng đãi Tào Tỷ rất hậu, tặng thưởng mãng bào, đích thân viết hai chữ kính thận để tặng Tào Tỷ, sau khi Tào Tỷ mất được Khang Hy phong hàm Nhất phẩm Công bộ thượng thư, bản thân còn hứa rằng nửa năm sau khi đi tuần Nam sẽ vào thăm gia thuộc họ Tào.
Sau khi Tào Tỷ chết, Tào Dần nhậm chức Tô Châu chức tạo, rồi kế nhiệm chức Giang Ninh chức tạo và Lưỡng Hoài tuần diêm ngự sử, thăng Thông chính sứ ty thông chính sứ, là một trong "Cửu khanh", đường đường "tam phẩm đại thần". Tào Dần còn là một nhà thơ, nhà văn rất nổi tiếng, tinh thông thi từ, âm nhạc, thư pháp, chính Tào Dần là người đứng ra hiệu đính và in ấn bộ Toàn Đường thi nổi tiếng, đồng thời là tác gia tên tuổi với Luyện đình thi sao và nhiều trước tác khác. Đời Tào Dần là thời kỳ cực thịnh của nhà họ Tào, năm lần vua Khang Hy tuần du phương Nam thì bốn lần Tào Dần phụ trách tiếp giá, vợ Tào Dần là con gái Lý Sĩ Trinh làm tuần phủ Giang Nam, hai con gái Tào Dần đều được tuyển làm Vương phi. Trong thời gian làm quan, Tào Dần đã tham ô và bòn rút của công, nhưng do quan hệ mật thiết với triều đình nên các lời đàn hặc tâu lên đã không được Khang Hy phê chuẩn.
Năm Khang Hy thứ 51 (1712), Tào Dần bị bệnh mất, Khang Hy phê chuẩn cho con là Tào Ngung giữ chức Giang Ninh chức tạo, được ba năm thì mất. Khang Hy lại phê chuẩn cho con người vợ kế của Tào Dần là Tào Thiếu kế nhiệm chức Giang Ninh chức tạo.
Năm 1722 Khang Hy qua đời, Ung Chính lên ngôi, nội bộ triều đình tranh giành quyền lực, nhà họ Tào bị thất sủng. Năm Ung Chính thứ 5 (1729), Ung Chính hạ lệnh cách chức Tào Thiếu với tội danh hành vi bất đoan, nhũng nhiễu dịch trạm, thiếu khống rồi hạ ngục trị tội, gia sản nô bộc bị tịch thu cấp cho quan Giang Ninh chức tạo mới. Tào Tuyết Cần phải theo gia đình rời Giang Nam về Bắc Kinh sinh sống. Từ đó nhà họ Tào lâm vào sa sút.
 Tào Tuyết Cần sinh ra và lớn lên khi nhà họ Tào đã sa sút, gia đình ông sống rất nghèo khổ ở ngoại ô Bắc Kinh, nơi ông sống là Hổ môn (tức nhà Tông học của triều Thanh). Chính cuộc sống cơ cực đã thôi thúc Tào Tuyết Cần viết nên Hồng lâu mộng, một tác phẩm Tự tự khán lai giai thị huyết, Thập niên tân khổ bất tầm thường (mỗi chữ xem ra đều là máu, mười năm cay đắng chẳng tầm thường). Ông đã dồn hết cả tâm huyết để phi duyệt thập tải, tăng san ngũ thứ (viết trong mười năm, 5 lần sửa chữa), rồi qua đời trong bệnh tật nghèo túng chẳng bao lâu sau cái chết của đứa con trai độc nhất khi tác phẩm vẫn còn dang dở. Tào Tuyết Cần chết, con cái không còn, chỉ còn duy nhất người vợ góa bụa, tiền nong không có, chỉ còn vài ba người bạn thương tình, tống táng qua quýt.
Sài Gòn, tháng 7-2010
Đỗ Ngọc Thạch
Nguồn: http://www.vanchuongviet.org/
Theo http://4phuong.net/




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Về Nhà văn Khái Hưng

Về Nhà văn Khái Hưng Khái Hưng tên thật là Trần Giư, nhưng ông thêm chữ Khánh thành Trần Khánh Giư để giống vị tướng Trần Khánh Dư đời Trầ...