LỜI CẢM TẠ
Dịch giả xin
chân thành cảm tạ toàn thể quý vị bằng hữu và độc giả đã góp ý trong việc chuyển
ngữ bộ Liêu Trai Chí Dị từ Hán sang Việt.
Đặc biệt, xin cảm tạ:
Giáo sư Nguyễn Sỹ Tế đã viết cho lời giới thiệu cũng như đã diễn nôm cho bài Đề Từ của Vương Sĩ Trinh và bài Thứ Vận của Bồ Tùng Linh.
Đường huynh Nghiêm Đàm đã nhiệt liệt khuyến khích lòng kiên trì trong việc chuyển ngữ cũng như đã đọc bản thảo, góp ý và bàn luận để bản dịch đỡ phần khiếm khuyết.
Giáo sư Nguyễn Đức Hiển đã vẽ cho bìa cuốn sách cũng như đã diễn nôm cho mười hai bản dịch hai bài Đề Từ của Vương Sĩ Trinh và Thứ Vận của Bồ Tùng Linh.
Dịch giả Đàm Quang Hưng
Đặc biệt, xin cảm tạ:
Giáo sư Nguyễn Sỹ Tế đã viết cho lời giới thiệu cũng như đã diễn nôm cho bài Đề Từ của Vương Sĩ Trinh và bài Thứ Vận của Bồ Tùng Linh.
Đường huynh Nghiêm Đàm đã nhiệt liệt khuyến khích lòng kiên trì trong việc chuyển ngữ cũng như đã đọc bản thảo, góp ý và bàn luận để bản dịch đỡ phần khiếm khuyết.
Giáo sư Nguyễn Đức Hiển đã vẽ cho bìa cuốn sách cũng như đã diễn nôm cho mười hai bản dịch hai bài Đề Từ của Vương Sĩ Trinh và Thứ Vận của Bồ Tùng Linh.
Dịch giả Đàm Quang Hưng
LỜI GIỚI THIỆU
Thiếu thời,
say mê đọc một số truyện dịch Liêu Trai của Bồ Tùng Linh. Trung niên, hăm hở dịch
một số Truyện Kinh Dị của Edgar Allan Poe (1809-1849)
Xuân Canh Thìn, trên xứ của Edgar, thích thú cầm bản dịch trọn 480 kỳ phẩm của Bồ trong văn phong của Đàm.
Đàm không phải là người xa lạ trong giới nhà giáo toán. Không ngạc nhiên khi bắt gặp một Quang Hưng nghệ sĩ. Văn và toán không có hố ngăn chia.
Bèn viết lời giới thiệu.
Nguyễn Sỹ Tế
Xuân Canh Thìn, 2000
Xuân Canh Thìn, trên xứ của Edgar, thích thú cầm bản dịch trọn 480 kỳ phẩm của Bồ trong văn phong của Đàm.
Đàm không phải là người xa lạ trong giới nhà giáo toán. Không ngạc nhiên khi bắt gặp một Quang Hưng nghệ sĩ. Văn và toán không có hố ngăn chia.
Bèn viết lời giới thiệu.
Nguyễn Sỹ Tế
Xuân Canh Thìn, 2000
LỜI NÓI ĐẦU
Liêu Trai Chí
Dị là một bộ truyện ngắn của Trung quốc, viết vào đầu triều Thanh.
Tác giả là Bồ Tùng Linh, sanh năm Canh Thìn (1640), cuối triều Minh, tại huyện Chuy Xuyên, tỉnh Sơn Đông (thuộc nước Lỗ cũ), gần quê đức Khổng Tử.
Năm Giáp Thân (1644), khi nhà Thanh đoạt ngôi của nhà Minh, ông mới lên 4. Ông sống trải hai đời vua Thuận Trị (Thanh Thế Tổ, 1644-1661) và Khang Hy (Thanh Thánh Tổ, 1662-1722).
Ông có hai tên tự là Lưu Tiên, Kiếm Thần, và một tên hiệu là Liễu Tuyền Cư Sĩ.
Năm Đinh Dậu (1657), khi 17 tuổi, ông lập gia đình với phu nhân họ Lưu, cũng quán tại Chuy Xuyên, được bốn trai là Tùng Hốt, Tùng Lung, Tùng Nhược và Tùng Quân.
Năm Mậu Tuất (1658), khi 18 tuổi, ông đã nổi tiếng danh sĩ, đi thi đồng tử khoa, đậu đầu ở cả ba cấp huyện, phủ, đạo, được thượng học quan tỉnh Sơn Đông cho ghi tên vào danh sách bác sĩ đệ tử viên để vinh danh. Thế nhưng, năm Tân Sửu (1661), khi 21 tuổi, ông đi thi hương thì lại hỏng.
Vì gia cảnh bần hàn, ông phải bỏ học, về quê mướn một ngôi nhà của gia đình họ Tất để mở lớp dạy học làm kế sinh nhai và trước tác thơ văn.
Suốt nửa thế kỷ sau đó, ông trước tác rất nhiều. Các văn phẩm mà ông lưu lại cho hậu thế gồm bốn tập văn, sáu tập thơ và tám tập Liêu Trai Chí Dị.
Trong các văn phẩm kể trên thì bộ Liêu Trai Chí Dị được người đời sau ưa chuộng nhất.
Trong bài Tự Tự ở đầu bộ Liêu Trai Chí Dị, ông thuật rằng có nhiều truyện chép trong bộ này là do bè bạn bốn phương gửi cho vì họ thấy ông ưa sưu tầm những truyện kinh dị.
Ông còn thuật rằng trước khi ông ra đời, thân phụ ông nằm mộng thấy một thiền sư gầy yếu, mặc cà sa trần vai, bước vào nhà, trên ngực có dán một lá cao thuốc, tròn như đồng tiền. Khi ông ra đời thì trên ngực ông có một nốt ruồi đen. Vì thế, ông tin rằng trong tiền kiếp, ông là một thiền sư.
Khi đứng tuổi, ông sùng đạo Phật, tu tại gia, làm cư sĩ Phật giáo. Vì nhà ông ở gần một dòng suối có liễu mọc trên bờ nên ông lấy hiệu là Liễu Tuyền Cư Sĩ.
Năm Tân Mão (1711), khi 71 tuổi, ông lại đi thi hương, đậu cống sinh (cử nhân).
Năm Ất Mùi (1715), ông mất, thọ 75 tuổi.
Năm Ất Tị (1725), trưởng nam Tùng Hốt nhờ học giả Trương Nguyên, người cùng ấp, viết bi ký. Sau đây là bản dịch của một đoạn trích trong bi ký:
"Tiên sinh tính tình chất phác, đôn hậu, đạo đức, bộc trực.
Thấy ai làm điều chi càn rỡ thì cũng bất bình, ngăn cản, chẳng sợ kẻ quyền thế. Cùng ấp, có cấp sự trung đô sát viện họ Tôn, hồi hưu, đem cả gia quyến về quê. Nô bộc cậy thế, làm càn. Dân ấp nể Tôn công, không dám nói. Tiên sinh nghe chuyện, lấy làm bất bình, bèn viết một bức thư dài trên ngàn chữ, gửi Tôn công, xin ngăn cản việc nô bộc làm càn. Tôn công thấy lời văn trác tuyệt, khiêm cung nhưng quyết liệt thì kính phục lắm. Bèn gọi nô bộc lên khiển trách, răn đe.
Giao du với bạn bè thì thành thực cởi mở, sốt sắng giúp đỡ.
Hồi còn ít tuổi, đã giao kết văn chương với hai nho sĩ cùng ấp là Lý Hy Mai tiên sinh, Trương Lịch Hữu tiên sinh và một số nho sĩ khác, lập hội thơ Sính Trung Thi Xã để xướng họa.
Khi đi thi đồng tử khoa, đậu đầu ở cả ba cấp huyện, phủ, đạo, song khi đi thi hương thì lại hỏng. Vì thế, nghĩ rằng mình không có số khoa bảng, rồi bỏ thi cử, về quê dạy học và trước tác thơ văn.
Thất chí uất kết, bi phẫn cảm khái, truyền hết vào văn chương, tạo nên một văn thể độc đáo, tài tình, kỳ dị, khôi vĩ, biệt lập với các văn thể khác. Văn chương quảng bá, tiếng tăm liền nổi, ai cũng biết tiếng Liễu Tuyền Cư Sĩ. Đọc văn mà chưa gặp mặt, ngỡ là người hùng đàm bác biện, ngỗ ngược ngang tàng, khinh thế ngạo vật. Gặp mặt rồi, mới biết là người cẩn ngôn trọng ngữ, điềm đạm văn vẻ, khiêm cung lễ độ. Tư tưởng đều uẩn súc sâu xa.
Theo một số sử gia văn học Trung quốc thì bộ Liêu Trai Chí Dị được viết trong khoảng thời gian từ năm Canh Tuất (1670), khi tác giả 30 tuổi cho tới năm Đinh Hợi (1707), khi tác giả 67 tuổi. Truyện ngắn chỉ có vài dòng, truyện dài tới hơn mười trang. Bộ truyện gồm nhiều thể loại, từ thời tiết tới thần tiên. Người đời sau thường có khuynh hướng coi bộ Liêu Trai Chí Dị là một văn phẩm viết về chồn tinh ma quỷ, vì đa số các truyện dài trong văn phẩm đều thuộc thể loại ấy.
Ngày nay, có nhiều người cho rằng vì Bồ Tùng Linh sống dưới chế độ quân chủ phong kiến, đầy rẫy những bất công xã hội mà người dân đương thời không dám công khai phản đối nên tác giả đã dùng văn tài của mình để nói lên sự bất mãn của người dân đối với các tệ đoan xã hội qua những truyện chồn tinh ma quỷ, viết trong bộ Liêu Trai Chí Dị.
Theo truyền thuyết, khi về quê dạy học, gặp buổi sáng nào đẹp trời, ông cũng đem chiếu ra chợ, pha trà mời khách qua đường ngồi nghỉ chân, nói chuyện. Nghe được truyện nào kỳ lạ ông cũng ghi chép để thuật lại, chẳng quan tâm tới việc độc giả có tin hay không.
Trong bộ Liêu Trai Chí Dị, có những truyện bây giờ được coi là thường song vào thời của ông còn được coi là kỳ lạ, thí dụ như những truyện về trình diễn ảo thuật. Về nơi chốn, đa số truyện xảy ra quanh vùng quê ông ở, thiểu số tại các vùng khác. Về thời gian, đa số truyện xảy ra trong đời của ông, thiểu số ở các đời trước. Vì ông sùng đạo Phật nên trong nhiều truyện, ông thường nhắc tới các tư tưởng Phật giáo cũng như thuật lại các việc quả báo, luân hồi.
Ở Trung quốc, bộ truyện được ấn hành lần đầu vào năm Bính Tuất (1766), gồm 431truyện, in làm 8 tập. Trong đa số các ấn bản cổ, ở đầu mỗi truyện đều có một bài thất ngôn tứ tuyệt (bài thơ 4 câu 7 chữ) diễn ý cốt truyện, kèm theo một bức tranh minh họa cốt truyện. Ở cuối mỗi truyện lại có lời bàn của Dị Sử Thị. Về sau, trong dân gian Trung quốc, người ta tìm thấy nhiều bản chép tay gồm 8 hoặc 16 tập, có chép thêm nhiều truyện khác.
Hiện nay, có rất nhiều thư cục ở Đài Bắc, Bắc Kinh, Thượng Hải, Hương Cảng, và nhiều nơi khác thuộc Trung quốc cùng ấn hành bộ Liêu Trai Chí Dị. Có nhiều thư cục in xen kẽ một số truyện phụ vào giữa các truyện trong nguyên tác để cắt nghĩa các điển cố dùng trong bộ truyện, làm cho thứ tự các truyện trong nguyên tác bị chệch hẳn đi.
Ngày nay, bộ Liêu Trai Chí Dị có chỗ đứng vững chắc trong văn học sử Trung Quốc vì cốt truyện kỳ lạ cũng như vì thể văn độc đáo.
Bộ Liêu Trai Chí Dị đã được chuyển sang nhiều ngôn ngữ khác nhau.
Năm 1916, H. Giles là người đầu tiên đã chuyển bộ truyện sang Anh ngữ dưới nhan đề Strange Stories from a Chinese Studio.
Trước đây, ở Việt Nam, có nhiều bậc tiền bối như Tản Đà, Đào Trinh Nhất, Kim Y, Nguyễn Hoạt và nhiều vị khác nữa đã tuyển lựa một số truyện trong bộ Liêu Trai Chí Dị để chuyển sang Việt ngữ. Năm 1996, quý ông Nguyễn Chí Viễn và Trần Văn Từ đã chuyển sang Việt ngữ toàn bộ Liêu Trai Chí Dị do Quảng Chi Thư Cục ở Hương Cảng ấn hành năm 1960, gồm 445 truyện, in làm 3 tập.
Năm nay, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 360 năm sanh của Bồ Tùng Linh, dịch giả xin chuyển sang Việt ngữ toàn bộ Liêu Trai Chí Dị do Văn Hóa Đồ Thư Công Ty ở Đài Bắc ấn hành năm 1999, gồm các truyện trong nguyên tác và một số truyện phụ, tổng cộng là 480 truyện, in làm 8 quyển.
Ước mong dịch phẩm này sẽ giúp vui được độc giả trong những lúc nhàn rỗi.
Sau hết, dịch giả xin chân thành cảm tạ sự lượng thứ cũng như sự chỉ bảo của độc giả về những chỗ sai lầm và khiếm khuyết để dịch phẩm được sửa chữa khi có cơ được tái bản.
Xuân Canh Thìn 2000
Dịch giả: Đàm Quang Hưng
Tác giả là Bồ Tùng Linh, sanh năm Canh Thìn (1640), cuối triều Minh, tại huyện Chuy Xuyên, tỉnh Sơn Đông (thuộc nước Lỗ cũ), gần quê đức Khổng Tử.
Năm Giáp Thân (1644), khi nhà Thanh đoạt ngôi của nhà Minh, ông mới lên 4. Ông sống trải hai đời vua Thuận Trị (Thanh Thế Tổ, 1644-1661) và Khang Hy (Thanh Thánh Tổ, 1662-1722).
Ông có hai tên tự là Lưu Tiên, Kiếm Thần, và một tên hiệu là Liễu Tuyền Cư Sĩ.
Năm Đinh Dậu (1657), khi 17 tuổi, ông lập gia đình với phu nhân họ Lưu, cũng quán tại Chuy Xuyên, được bốn trai là Tùng Hốt, Tùng Lung, Tùng Nhược và Tùng Quân.
Năm Mậu Tuất (1658), khi 18 tuổi, ông đã nổi tiếng danh sĩ, đi thi đồng tử khoa, đậu đầu ở cả ba cấp huyện, phủ, đạo, được thượng học quan tỉnh Sơn Đông cho ghi tên vào danh sách bác sĩ đệ tử viên để vinh danh. Thế nhưng, năm Tân Sửu (1661), khi 21 tuổi, ông đi thi hương thì lại hỏng.
Vì gia cảnh bần hàn, ông phải bỏ học, về quê mướn một ngôi nhà của gia đình họ Tất để mở lớp dạy học làm kế sinh nhai và trước tác thơ văn.
Suốt nửa thế kỷ sau đó, ông trước tác rất nhiều. Các văn phẩm mà ông lưu lại cho hậu thế gồm bốn tập văn, sáu tập thơ và tám tập Liêu Trai Chí Dị.
Trong các văn phẩm kể trên thì bộ Liêu Trai Chí Dị được người đời sau ưa chuộng nhất.
Trong bài Tự Tự ở đầu bộ Liêu Trai Chí Dị, ông thuật rằng có nhiều truyện chép trong bộ này là do bè bạn bốn phương gửi cho vì họ thấy ông ưa sưu tầm những truyện kinh dị.
Ông còn thuật rằng trước khi ông ra đời, thân phụ ông nằm mộng thấy một thiền sư gầy yếu, mặc cà sa trần vai, bước vào nhà, trên ngực có dán một lá cao thuốc, tròn như đồng tiền. Khi ông ra đời thì trên ngực ông có một nốt ruồi đen. Vì thế, ông tin rằng trong tiền kiếp, ông là một thiền sư.
Khi đứng tuổi, ông sùng đạo Phật, tu tại gia, làm cư sĩ Phật giáo. Vì nhà ông ở gần một dòng suối có liễu mọc trên bờ nên ông lấy hiệu là Liễu Tuyền Cư Sĩ.
Năm Tân Mão (1711), khi 71 tuổi, ông lại đi thi hương, đậu cống sinh (cử nhân).
Năm Ất Mùi (1715), ông mất, thọ 75 tuổi.
Năm Ất Tị (1725), trưởng nam Tùng Hốt nhờ học giả Trương Nguyên, người cùng ấp, viết bi ký. Sau đây là bản dịch của một đoạn trích trong bi ký:
"Tiên sinh tính tình chất phác, đôn hậu, đạo đức, bộc trực.
Thấy ai làm điều chi càn rỡ thì cũng bất bình, ngăn cản, chẳng sợ kẻ quyền thế. Cùng ấp, có cấp sự trung đô sát viện họ Tôn, hồi hưu, đem cả gia quyến về quê. Nô bộc cậy thế, làm càn. Dân ấp nể Tôn công, không dám nói. Tiên sinh nghe chuyện, lấy làm bất bình, bèn viết một bức thư dài trên ngàn chữ, gửi Tôn công, xin ngăn cản việc nô bộc làm càn. Tôn công thấy lời văn trác tuyệt, khiêm cung nhưng quyết liệt thì kính phục lắm. Bèn gọi nô bộc lên khiển trách, răn đe.
Giao du với bạn bè thì thành thực cởi mở, sốt sắng giúp đỡ.
Hồi còn ít tuổi, đã giao kết văn chương với hai nho sĩ cùng ấp là Lý Hy Mai tiên sinh, Trương Lịch Hữu tiên sinh và một số nho sĩ khác, lập hội thơ Sính Trung Thi Xã để xướng họa.
Khi đi thi đồng tử khoa, đậu đầu ở cả ba cấp huyện, phủ, đạo, song khi đi thi hương thì lại hỏng. Vì thế, nghĩ rằng mình không có số khoa bảng, rồi bỏ thi cử, về quê dạy học và trước tác thơ văn.
Thất chí uất kết, bi phẫn cảm khái, truyền hết vào văn chương, tạo nên một văn thể độc đáo, tài tình, kỳ dị, khôi vĩ, biệt lập với các văn thể khác. Văn chương quảng bá, tiếng tăm liền nổi, ai cũng biết tiếng Liễu Tuyền Cư Sĩ. Đọc văn mà chưa gặp mặt, ngỡ là người hùng đàm bác biện, ngỗ ngược ngang tàng, khinh thế ngạo vật. Gặp mặt rồi, mới biết là người cẩn ngôn trọng ngữ, điềm đạm văn vẻ, khiêm cung lễ độ. Tư tưởng đều uẩn súc sâu xa.
Theo một số sử gia văn học Trung quốc thì bộ Liêu Trai Chí Dị được viết trong khoảng thời gian từ năm Canh Tuất (1670), khi tác giả 30 tuổi cho tới năm Đinh Hợi (1707), khi tác giả 67 tuổi. Truyện ngắn chỉ có vài dòng, truyện dài tới hơn mười trang. Bộ truyện gồm nhiều thể loại, từ thời tiết tới thần tiên. Người đời sau thường có khuynh hướng coi bộ Liêu Trai Chí Dị là một văn phẩm viết về chồn tinh ma quỷ, vì đa số các truyện dài trong văn phẩm đều thuộc thể loại ấy.
Ngày nay, có nhiều người cho rằng vì Bồ Tùng Linh sống dưới chế độ quân chủ phong kiến, đầy rẫy những bất công xã hội mà người dân đương thời không dám công khai phản đối nên tác giả đã dùng văn tài của mình để nói lên sự bất mãn của người dân đối với các tệ đoan xã hội qua những truyện chồn tinh ma quỷ, viết trong bộ Liêu Trai Chí Dị.
Theo truyền thuyết, khi về quê dạy học, gặp buổi sáng nào đẹp trời, ông cũng đem chiếu ra chợ, pha trà mời khách qua đường ngồi nghỉ chân, nói chuyện. Nghe được truyện nào kỳ lạ ông cũng ghi chép để thuật lại, chẳng quan tâm tới việc độc giả có tin hay không.
Trong bộ Liêu Trai Chí Dị, có những truyện bây giờ được coi là thường song vào thời của ông còn được coi là kỳ lạ, thí dụ như những truyện về trình diễn ảo thuật. Về nơi chốn, đa số truyện xảy ra quanh vùng quê ông ở, thiểu số tại các vùng khác. Về thời gian, đa số truyện xảy ra trong đời của ông, thiểu số ở các đời trước. Vì ông sùng đạo Phật nên trong nhiều truyện, ông thường nhắc tới các tư tưởng Phật giáo cũng như thuật lại các việc quả báo, luân hồi.
Ở Trung quốc, bộ truyện được ấn hành lần đầu vào năm Bính Tuất (1766), gồm 431truyện, in làm 8 tập. Trong đa số các ấn bản cổ, ở đầu mỗi truyện đều có một bài thất ngôn tứ tuyệt (bài thơ 4 câu 7 chữ) diễn ý cốt truyện, kèm theo một bức tranh minh họa cốt truyện. Ở cuối mỗi truyện lại có lời bàn của Dị Sử Thị. Về sau, trong dân gian Trung quốc, người ta tìm thấy nhiều bản chép tay gồm 8 hoặc 16 tập, có chép thêm nhiều truyện khác.
Hiện nay, có rất nhiều thư cục ở Đài Bắc, Bắc Kinh, Thượng Hải, Hương Cảng, và nhiều nơi khác thuộc Trung quốc cùng ấn hành bộ Liêu Trai Chí Dị. Có nhiều thư cục in xen kẽ một số truyện phụ vào giữa các truyện trong nguyên tác để cắt nghĩa các điển cố dùng trong bộ truyện, làm cho thứ tự các truyện trong nguyên tác bị chệch hẳn đi.
Ngày nay, bộ Liêu Trai Chí Dị có chỗ đứng vững chắc trong văn học sử Trung Quốc vì cốt truyện kỳ lạ cũng như vì thể văn độc đáo.
Bộ Liêu Trai Chí Dị đã được chuyển sang nhiều ngôn ngữ khác nhau.
Năm 1916, H. Giles là người đầu tiên đã chuyển bộ truyện sang Anh ngữ dưới nhan đề Strange Stories from a Chinese Studio.
Trước đây, ở Việt Nam, có nhiều bậc tiền bối như Tản Đà, Đào Trinh Nhất, Kim Y, Nguyễn Hoạt và nhiều vị khác nữa đã tuyển lựa một số truyện trong bộ Liêu Trai Chí Dị để chuyển sang Việt ngữ. Năm 1996, quý ông Nguyễn Chí Viễn và Trần Văn Từ đã chuyển sang Việt ngữ toàn bộ Liêu Trai Chí Dị do Quảng Chi Thư Cục ở Hương Cảng ấn hành năm 1960, gồm 445 truyện, in làm 3 tập.
Năm nay, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 360 năm sanh của Bồ Tùng Linh, dịch giả xin chuyển sang Việt ngữ toàn bộ Liêu Trai Chí Dị do Văn Hóa Đồ Thư Công Ty ở Đài Bắc ấn hành năm 1999, gồm các truyện trong nguyên tác và một số truyện phụ, tổng cộng là 480 truyện, in làm 8 quyển.
Ước mong dịch phẩm này sẽ giúp vui được độc giả trong những lúc nhàn rỗi.
Sau hết, dịch giả xin chân thành cảm tạ sự lượng thứ cũng như sự chỉ bảo của độc giả về những chỗ sai lầm và khiếm khuyết để dịch phẩm được sửa chữa khi có cơ được tái bản.
Xuân Canh Thìn 2000
Dịch giả: Đàm Quang Hưng
TỰ TỰ
Bị la đới lệ, Tam Lư thị cảm
nhi vi Tao; ngưu quỷ xà thần, Trường Trảo lang ngâm nhi thành tích.
Tự minh thiên lại, bất trạch hảo âm, hữu do nhiên hỹ.
Tùng:lạc lạc thu huỳnh chi hỏa, si mị tranh quang; trục trục dã mã chi trần, võng lượng kiến tiếu
Tài phi Can Bảo, nhã ái sưu thần; tình loại Hoàng Châu, hỷ nhân đàm quỷ.
Văn tắc mệnh bút, toại dĩ thành biên.
Cửu chi, tứ phương đồng nhân hựu dĩ bưu đồng tương ký, nhân nhi vật dĩ hiếu tụ, sở tích ích khỏa.
Thậm giả: nhân phi ngoại hóa, sự hoặc kỳ vu Đoạn Phát chi hương; tiệp tại mục tiền, quái hữu quá vu Phi Đầu chi quốc.
Thuyên phi dật hứng, cuồng cố nan từ; vĩnh thác khoáng hoài, si thả bất húy.
Triển như chi nhân, đắc vô hướng ngã hồ lự na?
Nhiên ngũ phủ cù đầu, hoặc thiệp lạm thính; nhi tam sinh thạch thượng, phả ngộ tiền nhân.
Phóng túng chi ngôn, hữu vị khả khái dĩ nhân phế giả.
Tùng huyền hồ thời, tiên đại nhân mộng nhất bệnh tích cồ đàm, thiên đản nhập thất, dược cao như tiền, viên niêm nhũ tế.
Ngụ nhi Tùng sinh, quả phù mặc chí.
Thả dã, thiếu luy đa bệnh, trưởng mệnh bất do.
Môn đình chi thê tịch, tắc lãnh đạm như tăng; bút mặc chi canh vân, tắc tiêu điều tự bát.
Mỗi tao đầu tự niệm, vô diệc diện bích nhân, quả thị ngô tiền sinh na?
Cái hữu lậu căn nhân, vị kết nhân thiên chi quả; nhi tùy phong đãng đọa, cánh thành phiên hỗn chi hoa.
Mang mang lục đạo, hà khả vị vô kỳ lý tai!
Độc thị tí dạ huỳnh huỳnh, đăng hôn dục nhị; tiêu trai sắt sắt, án lãnh ngưng băng.
Tập dịch vi cừu, vọng tục U Minh chi lục; phù bạch tái bút, cận thành Cô Phẫn chi thư.
Ký thác như thử, diệc túc bi hỹ!
Ta hồ!
Kinh sương hàn tước, bão thụ vô ôn; điếu nguyệt thu trùng, ổi lan tự nhiệt.
Tri ngã giả, kỳ tại thanh lâm hắc tái gian hồ!
Khang Hy, Kỷ Mùi, Xuân nhật
Liễu Tuyền tự đề
DIỄN NÔM BÀI TỰ TỰ
Mặc lá đeo dây, Họ Tam Lư (1) ngùi cảm nên văn; thần rắn ma trâu, Chàng Móng Dài (2) ngâm nga thành nghiện.
Nghĩ sao vịnh vậy, chẳng chọn âm hay, thấy do nhiên lắm.
Tùng: đêm thu lửa đóm lập loè, cùng ma tranh sáng (3), chẳng thích bụi trần mù mịt, để quỷ nôn cười (4).
Tài đâu Can Bảo (5), vẫn muốn gom thần; tình sánh Hoàng Châu (6), thích nghe truyện quỷ.
Nghe gì chép nấy, chép mãi thành biên.
Lâu rồi, bè bạn bốn phương, vẫn gửi truyện cho, nhân vì người thích vật tới, ngày một thêm nhiều.
Nhiều đến: người kia còn đó, truyện lại kỳ hơn truyện làng Tóc Cắt (7); mi mắt ngay đây, tích lại lạ quá tích nước Đầu Bay (8).
Nghênh ngang lúc hứng, chẳng quản ngông cuồng; chuếnh choáng khi vui, ngại gì khờ khạo.
Người đời vạn nẻo, tránh sao khỏi lắm kẻ cười ta?
Tuy đường cái ngã ba, truyện nghe láng máng, song hòn đá ba sinh (9), kiếp trước hẳn là.
Phóng túng lời kia, chẳng thể đành lòng vì ai mà bỏ.
Trước thủa sinh Tùng, phụ thân mộng thấy, cồ đàm (10) gầy ốm, trần vai vào nhà, lá cao như tiền, dán nơi nhũ tế.
Tỉnh thời sinh Tùng, đúng nốt ruồi đen.
Thế rồi, nhỏ gầy lắm bệnh, lớn mệnh kém người.
Sân nhà hiu quạnh, nghe vắng lạnh như buồng sư, bút mực kiếm ăn, thấy trụi trơn như bình bát (11)
Mỗi vò đầu tự nghĩ, chẳng lẽ người nhìn vách (12), là tiền kiếp ta chăng?
Chắc lọt mất căn nhân, để nhân thiên không kết trái (13); lại theo gió lạc loài, nên hờn tủi đến thân hoa (14).
Man mác sáu đường (15), sao dám nói kinh kia chẳng đúng!
Đến nay, canh vắng hắt hiu, đèn tàn lụi bấc; buồng văn vi vút, án lạnh ngưng băng
Góp da ghép áo, nối quấy U Minh (16) truyện cũ; rót rượu ghi lời, học đòi Cô Phẫn (17) sách xưa.
Tâm sự bấy nhiêu, ngậm ngùi đã đủ!
Than ôi!
Chim lạnh e sương, ôm cây chẳng ấm; trùng thu viếng nguyệt, ấp triện sưởi mình!
Biết ta chăng, họa là ở nơi rừng xanh ải tối (18)!
Khang Hy, Kỷ Mùi (1679), Ngày Xuân Liễu Tuyền tự đề
(Dịch giả diễn nôm, Xuân Canh Thìn 2000)
Chú thích của dịch giả:
(1) Thời Chiến Quốc, Khuất Nguyên làm quan Tam Lư Đại Phu nước Sở, nổi tiếng với cuốn sách Ly Tao. Để tỏ lòng tôn kính Khuất Nguyên, người đời sau thường dùng ba chữ Họ Tam Lư để chỉ Khuất Nguyên. Trong sách Ly Tao có bài Sơn Quỷ tả ma núi như sau:"Mặc áo làm bằng lá bệ lệ, thắt đai làm bằng dây nhữ la"
(2) Triều Đường, thi sĩ Lý Hạ để móng tay dài nên có biệt danh là Trường Trảo Lang (Chàng Móng Dài) Lý Hạ viết một tập thơ về quỷ thần. Thi hào Đỗ Mục đề tựa cho tập thơ này, có viết:"Các truyện nói về ma trâu, thần rắn, chưa chắc đã là hoang đản"
(3) Triều Tấn, ban đêm, nhạc sư Kê Khang thường ngồi gảy đàn trước đèn một mình. Một đêm, đang ngồi gảy đàn, thấy ma bước vào phòng, Kê Khang bèn buông đàn, tắt đèn, rồi nói:"Ta chẳng thèm tranh sáng với loài ma"
(4) Triều Tống, Lưu Bá Long làm quan thái thú quận Vũ Lăng. Vì thanh liêm nên rất nghèo, nảy ý đi buôn. Có con quỷ biết truyện, vỗ tay cười, nói:"Đã làm quan mà còn toan mưu lợi!" Biết truyện, Bá Long than:"Giàu nghèo đều tại số, lẽ đâu ta lại chịu để cho lũ quỷ cười ta sao?" rồi bỏ ý đi buôn.
(5) Triều Tấn, văn sĩ Can Bảo viết sách Sưu Thần Ký, chuyên chép các truyện thần kỳ linh dị.
(6) Triều Tống, trong thời gian đại văn hào Tô Đông Pha bị đày ra ở Hoàng Châu, ông thường ép bạn bè thuật truyện cho nghe. Một hôm, có người bạn nói:"Chẳng có truyện chi xác thực, nghiêm chỉnh mà chỉ có truyện ma quỷ láo lếu!" Ông giục:"Cứ nói láo đi!"(Cô vọng ngôn chi!)
(7) Triều Chu, ở giáp giới Trung quốc, có sắc dân Kinh Man, có tục cắt tóc, vẽ mình mà người Trung quốc thời bấy giờ cho là lạ.
(8) Ở Trung quốc, phía đông Nghiệp Thiện, phía tây Long Thành có sắc dân gọi là Dân Đầu Bay vì ban đêm, sắc dân này có thể tách rời đầu và tay khỏi mình, tay vẫy như cánh chim, đưa đầu bay đi kiếm ăn. Sáng ra, tay lại đưa đầu bay về, ráp vào mình như cũ. (Tích chép trong sách Đậu Dương Tạp Trở)
(9) Ở Trung quốc có núi Hoa Sơn. Có viên chủ bạ lên núi vãn cảnh chùa, gặp một lão tăng ngồi cạnh hòn đá, trên có bát nhang, trong có cắm nén hương đang cháy. Viên chủ bạ hỏi:"Bạch hòa thượng, nén hương này của ai?" Lão tăng đáp:"Của đàn việt đó! Trước kia, đàn việt đã thắp nén hương này để cầu nguyện! Bây giờ nén hương còn đang cháy mà đàn việt đã trải qua ba kiếp sống (tam sinh) rồi!" (Tích chép trong sách Truyền Đăng Lục)
(10) Đức Phật nguyên thuộc họ Cồ Đàm (còn đọc là Cù Đàm) sau mới đổi sang họ Thích. Hậu thế dùng hai chữ Cồ Đàm để gọi chung các thiền sư mặc cà sa trần vai. Trước kia, trưởng lão Tu Bồ Đề mặc cà sa trần vai phải để tỏ lòng tôn kính đức Phật khi cung nghinh Ngài vào thành Xá Vệ. Về sau, có nhiều thiền sư bắt chước, cũng mặc cà sa trần vai, song lại trần vai trái, để tỏ lòng tôn kính đức Phật.
(11) Bình bát là cái bình và cái bát mà thiền sư dùng để đựng nước uống và thức ăn khi đi khất thực.
(12) Triều Lương, đời vua Vũ Đế, Bồ Đề Đạt Ma là thiền sư, được coi là Sơ Tổ của phái Thiền Tông, ngồi quay mặt vào vách đá ở chùa Thiếu Lâm để tham thiền.
(13) Triều Lương, vua Vũ Đế hỏi thiền sư Bồ Đề Đạt Ma: "Trẫm dựng nhiều chùa, viết nhiều kinh, vậy có trái công đức lớn không?" Thiền sư đáp:"Không! Bệ hạ chỉ có trái công đức nhỏ thôi, còn trái công đức lớn thì bệ hạ đã để cho căn nhân của nó lọt đi đâu mất rồi!"
(14) Triều Tống, đời vua Cảnh Lăng, thái tử Lương hỏi triều quan Phạm Thận:"Chúng ta cùng là người. Sao ta lại là thái tử, còn ông chỉ là triều quan?" Phạm Thận đáp: "Người ta bị sanh ra đời cũng giống như hoa trên cành bị gió thổi bay đi. Cùng là hoa cả, song có đóa thì rơi vào gác tía như điện hạ, có đóa thì rơi vào vũng bùn như hạ quan"
(15) Sáu đường (lục đạo) là sáu xã hội mà các sinh vật được phân phối tới, theo truyền thuyết của nhà Phật. Sáu đường là: đường trời, đường người, đường ma, đường đất, đường quỷ đói và đường súc vật.
(16) Triều Tống, văn sĩ Lưu Nghĩa Khánh viết sách U Minh Lục, có chép lại câu nói của Vương Bao:"Tấm áo cừu đáng giá ngàn vàng chẳng phải chỉ được làm bằng da nách của một con chồn!" ý nói phải dùng da nách của nhiều con chồn mới làm nên tấm áo.
(17) Thời Chiến Quốc, công tử Hàn Phi nước Hàn viết sách Hàn Phi Tử, có dành riêng một thiên để diễn tả nỗi uất ức của mình đối với bọn gian thần trong triều đình, gọi là thiên Cô Phẫn,
(18) Triều Đường, đại thi hào Đỗ Phủ có viết một bài thơ, nhan đề là Mộng Lý Bạch trong đó có câu:"Hồn tới thì rừng phong xanh, hồn về thì quan ải tối".
Tự minh thiên lại, bất trạch hảo âm, hữu do nhiên hỹ.
Tùng:lạc lạc thu huỳnh chi hỏa, si mị tranh quang; trục trục dã mã chi trần, võng lượng kiến tiếu
Tài phi Can Bảo, nhã ái sưu thần; tình loại Hoàng Châu, hỷ nhân đàm quỷ.
Văn tắc mệnh bút, toại dĩ thành biên.
Cửu chi, tứ phương đồng nhân hựu dĩ bưu đồng tương ký, nhân nhi vật dĩ hiếu tụ, sở tích ích khỏa.
Thậm giả: nhân phi ngoại hóa, sự hoặc kỳ vu Đoạn Phát chi hương; tiệp tại mục tiền, quái hữu quá vu Phi Đầu chi quốc.
Thuyên phi dật hứng, cuồng cố nan từ; vĩnh thác khoáng hoài, si thả bất húy.
Triển như chi nhân, đắc vô hướng ngã hồ lự na?
Nhiên ngũ phủ cù đầu, hoặc thiệp lạm thính; nhi tam sinh thạch thượng, phả ngộ tiền nhân.
Phóng túng chi ngôn, hữu vị khả khái dĩ nhân phế giả.
Tùng huyền hồ thời, tiên đại nhân mộng nhất bệnh tích cồ đàm, thiên đản nhập thất, dược cao như tiền, viên niêm nhũ tế.
Ngụ nhi Tùng sinh, quả phù mặc chí.
Thả dã, thiếu luy đa bệnh, trưởng mệnh bất do.
Môn đình chi thê tịch, tắc lãnh đạm như tăng; bút mặc chi canh vân, tắc tiêu điều tự bát.
Mỗi tao đầu tự niệm, vô diệc diện bích nhân, quả thị ngô tiền sinh na?
Cái hữu lậu căn nhân, vị kết nhân thiên chi quả; nhi tùy phong đãng đọa, cánh thành phiên hỗn chi hoa.
Mang mang lục đạo, hà khả vị vô kỳ lý tai!
Độc thị tí dạ huỳnh huỳnh, đăng hôn dục nhị; tiêu trai sắt sắt, án lãnh ngưng băng.
Tập dịch vi cừu, vọng tục U Minh chi lục; phù bạch tái bút, cận thành Cô Phẫn chi thư.
Ký thác như thử, diệc túc bi hỹ!
Ta hồ!
Kinh sương hàn tước, bão thụ vô ôn; điếu nguyệt thu trùng, ổi lan tự nhiệt.
Tri ngã giả, kỳ tại thanh lâm hắc tái gian hồ!
Khang Hy, Kỷ Mùi, Xuân nhật
Liễu Tuyền tự đề
DIỄN NÔM BÀI TỰ TỰ
Mặc lá đeo dây, Họ Tam Lư (1) ngùi cảm nên văn; thần rắn ma trâu, Chàng Móng Dài (2) ngâm nga thành nghiện.
Nghĩ sao vịnh vậy, chẳng chọn âm hay, thấy do nhiên lắm.
Tùng: đêm thu lửa đóm lập loè, cùng ma tranh sáng (3), chẳng thích bụi trần mù mịt, để quỷ nôn cười (4).
Tài đâu Can Bảo (5), vẫn muốn gom thần; tình sánh Hoàng Châu (6), thích nghe truyện quỷ.
Nghe gì chép nấy, chép mãi thành biên.
Lâu rồi, bè bạn bốn phương, vẫn gửi truyện cho, nhân vì người thích vật tới, ngày một thêm nhiều.
Nhiều đến: người kia còn đó, truyện lại kỳ hơn truyện làng Tóc Cắt (7); mi mắt ngay đây, tích lại lạ quá tích nước Đầu Bay (8).
Nghênh ngang lúc hứng, chẳng quản ngông cuồng; chuếnh choáng khi vui, ngại gì khờ khạo.
Người đời vạn nẻo, tránh sao khỏi lắm kẻ cười ta?
Tuy đường cái ngã ba, truyện nghe láng máng, song hòn đá ba sinh (9), kiếp trước hẳn là.
Phóng túng lời kia, chẳng thể đành lòng vì ai mà bỏ.
Trước thủa sinh Tùng, phụ thân mộng thấy, cồ đàm (10) gầy ốm, trần vai vào nhà, lá cao như tiền, dán nơi nhũ tế.
Tỉnh thời sinh Tùng, đúng nốt ruồi đen.
Thế rồi, nhỏ gầy lắm bệnh, lớn mệnh kém người.
Sân nhà hiu quạnh, nghe vắng lạnh như buồng sư, bút mực kiếm ăn, thấy trụi trơn như bình bát (11)
Mỗi vò đầu tự nghĩ, chẳng lẽ người nhìn vách (12), là tiền kiếp ta chăng?
Chắc lọt mất căn nhân, để nhân thiên không kết trái (13); lại theo gió lạc loài, nên hờn tủi đến thân hoa (14).
Man mác sáu đường (15), sao dám nói kinh kia chẳng đúng!
Đến nay, canh vắng hắt hiu, đèn tàn lụi bấc; buồng văn vi vút, án lạnh ngưng băng
Góp da ghép áo, nối quấy U Minh (16) truyện cũ; rót rượu ghi lời, học đòi Cô Phẫn (17) sách xưa.
Tâm sự bấy nhiêu, ngậm ngùi đã đủ!
Than ôi!
Chim lạnh e sương, ôm cây chẳng ấm; trùng thu viếng nguyệt, ấp triện sưởi mình!
Biết ta chăng, họa là ở nơi rừng xanh ải tối (18)!
Khang Hy, Kỷ Mùi (1679), Ngày Xuân Liễu Tuyền tự đề
(Dịch giả diễn nôm, Xuân Canh Thìn 2000)
Chú thích của dịch giả:
(1) Thời Chiến Quốc, Khuất Nguyên làm quan Tam Lư Đại Phu nước Sở, nổi tiếng với cuốn sách Ly Tao. Để tỏ lòng tôn kính Khuất Nguyên, người đời sau thường dùng ba chữ Họ Tam Lư để chỉ Khuất Nguyên. Trong sách Ly Tao có bài Sơn Quỷ tả ma núi như sau:"Mặc áo làm bằng lá bệ lệ, thắt đai làm bằng dây nhữ la"
(2) Triều Đường, thi sĩ Lý Hạ để móng tay dài nên có biệt danh là Trường Trảo Lang (Chàng Móng Dài) Lý Hạ viết một tập thơ về quỷ thần. Thi hào Đỗ Mục đề tựa cho tập thơ này, có viết:"Các truyện nói về ma trâu, thần rắn, chưa chắc đã là hoang đản"
(3) Triều Tấn, ban đêm, nhạc sư Kê Khang thường ngồi gảy đàn trước đèn một mình. Một đêm, đang ngồi gảy đàn, thấy ma bước vào phòng, Kê Khang bèn buông đàn, tắt đèn, rồi nói:"Ta chẳng thèm tranh sáng với loài ma"
(4) Triều Tống, Lưu Bá Long làm quan thái thú quận Vũ Lăng. Vì thanh liêm nên rất nghèo, nảy ý đi buôn. Có con quỷ biết truyện, vỗ tay cười, nói:"Đã làm quan mà còn toan mưu lợi!" Biết truyện, Bá Long than:"Giàu nghèo đều tại số, lẽ đâu ta lại chịu để cho lũ quỷ cười ta sao?" rồi bỏ ý đi buôn.
(5) Triều Tấn, văn sĩ Can Bảo viết sách Sưu Thần Ký, chuyên chép các truyện thần kỳ linh dị.
(6) Triều Tống, trong thời gian đại văn hào Tô Đông Pha bị đày ra ở Hoàng Châu, ông thường ép bạn bè thuật truyện cho nghe. Một hôm, có người bạn nói:"Chẳng có truyện chi xác thực, nghiêm chỉnh mà chỉ có truyện ma quỷ láo lếu!" Ông giục:"Cứ nói láo đi!"(Cô vọng ngôn chi!)
(7) Triều Chu, ở giáp giới Trung quốc, có sắc dân Kinh Man, có tục cắt tóc, vẽ mình mà người Trung quốc thời bấy giờ cho là lạ.
(8) Ở Trung quốc, phía đông Nghiệp Thiện, phía tây Long Thành có sắc dân gọi là Dân Đầu Bay vì ban đêm, sắc dân này có thể tách rời đầu và tay khỏi mình, tay vẫy như cánh chim, đưa đầu bay đi kiếm ăn. Sáng ra, tay lại đưa đầu bay về, ráp vào mình như cũ. (Tích chép trong sách Đậu Dương Tạp Trở)
(9) Ở Trung quốc có núi Hoa Sơn. Có viên chủ bạ lên núi vãn cảnh chùa, gặp một lão tăng ngồi cạnh hòn đá, trên có bát nhang, trong có cắm nén hương đang cháy. Viên chủ bạ hỏi:"Bạch hòa thượng, nén hương này của ai?" Lão tăng đáp:"Của đàn việt đó! Trước kia, đàn việt đã thắp nén hương này để cầu nguyện! Bây giờ nén hương còn đang cháy mà đàn việt đã trải qua ba kiếp sống (tam sinh) rồi!" (Tích chép trong sách Truyền Đăng Lục)
(10) Đức Phật nguyên thuộc họ Cồ Đàm (còn đọc là Cù Đàm) sau mới đổi sang họ Thích. Hậu thế dùng hai chữ Cồ Đàm để gọi chung các thiền sư mặc cà sa trần vai. Trước kia, trưởng lão Tu Bồ Đề mặc cà sa trần vai phải để tỏ lòng tôn kính đức Phật khi cung nghinh Ngài vào thành Xá Vệ. Về sau, có nhiều thiền sư bắt chước, cũng mặc cà sa trần vai, song lại trần vai trái, để tỏ lòng tôn kính đức Phật.
(11) Bình bát là cái bình và cái bát mà thiền sư dùng để đựng nước uống và thức ăn khi đi khất thực.
(12) Triều Lương, đời vua Vũ Đế, Bồ Đề Đạt Ma là thiền sư, được coi là Sơ Tổ của phái Thiền Tông, ngồi quay mặt vào vách đá ở chùa Thiếu Lâm để tham thiền.
(13) Triều Lương, vua Vũ Đế hỏi thiền sư Bồ Đề Đạt Ma: "Trẫm dựng nhiều chùa, viết nhiều kinh, vậy có trái công đức lớn không?" Thiền sư đáp:"Không! Bệ hạ chỉ có trái công đức nhỏ thôi, còn trái công đức lớn thì bệ hạ đã để cho căn nhân của nó lọt đi đâu mất rồi!"
(14) Triều Tống, đời vua Cảnh Lăng, thái tử Lương hỏi triều quan Phạm Thận:"Chúng ta cùng là người. Sao ta lại là thái tử, còn ông chỉ là triều quan?" Phạm Thận đáp: "Người ta bị sanh ra đời cũng giống như hoa trên cành bị gió thổi bay đi. Cùng là hoa cả, song có đóa thì rơi vào gác tía như điện hạ, có đóa thì rơi vào vũng bùn như hạ quan"
(15) Sáu đường (lục đạo) là sáu xã hội mà các sinh vật được phân phối tới, theo truyền thuyết của nhà Phật. Sáu đường là: đường trời, đường người, đường ma, đường đất, đường quỷ đói và đường súc vật.
(16) Triều Tống, văn sĩ Lưu Nghĩa Khánh viết sách U Minh Lục, có chép lại câu nói của Vương Bao:"Tấm áo cừu đáng giá ngàn vàng chẳng phải chỉ được làm bằng da nách của một con chồn!" ý nói phải dùng da nách của nhiều con chồn mới làm nên tấm áo.
(17) Thời Chiến Quốc, công tử Hàn Phi nước Hàn viết sách Hàn Phi Tử, có dành riêng một thiên để diễn tả nỗi uất ức của mình đối với bọn gian thần trong triều đình, gọi là thiên Cô Phẫn,
(18) Triều Đường, đại thi hào Đỗ Phủ có viết một bài thơ, nhan đề là Mộng Lý Bạch trong đó có câu:"Hồn tới thì rừng phong xanh, hồn về thì quan ải tối".
ĐỀ TỪ CỦA VƯƠNG SĨ TRINH
Vương Sĩ Trinh, sinh cuối
triều Minh, tại huyện Tân Thành, tỉnh Sơn Đông, cùng thời với Bồ Tùng Linh.
Ông có một tên tự là Di Thượng, một tên hiệu là Nguyễn Đình, và hai biệt hiệu là Ngư Dương Lão Nhân và Ngư Dương Sơn Nhân.
Ông thi đậu tiến sĩ, làm quan tới chức thượng thư. Ngoài quan chức trong hoạn lộ, ông còn là một văn nhân và thi nhân, nổi tiếng về các thể thơ trữ tình, hoa lệ.
Thời còn giữ chức tư khấu Tân Thành, Sơn Đông, khi đọc hết bộ truyện Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh, ông rất cảm phục văn tài của tác giả. Ông nói với bạn:
"Văn của Liễu Tuyền Cư Sĩ quả là kỳ lạ. Bọn nho học tầm thường bây giờ, chẳng ai sánh kịp" Ông bèn viết thư mời tác giả tới đàm đạo.
Tác giả khiêm tốn, không muốn tới nơi quyền quý nên phúc thư, xin lỗi là đau yếu, chẳng thể tới diện kiến.
Ông bèn gửi tặng tác giả bài Đề Từ sau đây cho bộ Liêu Trai Chí Dị:
Cô vọng ngôn chi(1), cô(2) thính chi
Đậu bằng qua giá vũ như ti,
Liệu ưng yếm tác nhân gian ngữ,
Ái thính thu phần quỷ xướng thi(3)
Ngư Dương Lão Nhân đề (1709)
Chú thích của dịch giả:
(1) Ở Trung quốc, vào hai triều Đường, Tống, có 8 văn thi nhân được người đời sau kính phục nhất là 2 ông Hàn Dũ, Liễu Tôn Nguyên vào triều Đường và 6 ông Âu Dương Tu, Vương An Thạch, Tô Tuân, Tô Thức, Tô Triệt, Tăng Củng vào triều Tống mà các sử gia văn học Trung quốc thường gọi là Đường, Tống Bát Đại Gia.
Trong Bát Đại Gia thì Tô Thức (1037-1101), tự Tử Chiêm, hiệu Đông Pha Cư Sĩ, đậu tiến sĩ năm 21 tuổi, được hậu thế coi là văn nhân đa tài đa nghệ nhất, nổi tiếng về đủ các bộ môn cầm, kỳ, thi, họa, văn, thư. Cha ông là Tô Tuân, và em ông là Tô Triệt cũng nổi tiếng. Người đương thời gọi ba cha con ông là Tam Tô.
Khi vua Tống Thần Tông cử Vương An Thạch làm tể tướng (1069) thì ông đang làm quan trong Quốc Sử Quán. Về chính trị, ông theo đường lối xã hội ôn hòa, chống đối lại chính sách cưỡng chế Tân Pháp của Vương An Thạch nên bị biếm ra ở Hàng Châu, rồi ở Hồ Châu, rồi ở Hoàng Châu. Trong thời gian ở Hoàng Châu, ông cất nhà ở sườn phía đông (đông pha) một ngọn núi để cư ngụ nên lấy hiệu là Đông Pha Cư Sĩ. Cũng trong thời gian này, ông được cử giữ chức Đoàn Luyện Phó Sứ nên còn được gọi là Tô Đoàn Luyện. Tuy bị đày ải mà văn thơ ông vẫn siêu thoát, khoáng đạt chứ không cay đời, oán người, vì ông chịu ảnh hưởng sâu xa của Phật giáo và Lão Trang.
Tương truyền, ngày nào ông cũng cùng mấy người bạn già nhà quê ngao du sơn thủy, nói chuyện phiếm. Hoặc là ông mời bạn tới nhà mình, hoặc là ông tới nhà bạn, hoặc là hai bên hẹn gặp nhau ở một nơi sơn thủy để nói chuyện. Có truyện gì ông cũng đem ra thuật cho bạn nghe rồi bảo bạn có truyện gì thì thuật lại cho mình nghe, truyện khôi hài, truyện tiếu lâm, loại nào cũng được.
Một hôm, có người bạn nói: "Chẳng có truyện chi xác thực, nghiêm chỉnh mà chỉ có truyện ma quỷ láo lếu!" Ông giục: "Cứ nói láo đi!" (Cô vọng ngôn chi!). Vương Sĩ Trinh mượn câu này của ông để viết bài Đề Từ gửi tặng Bồ Tùng Linh.
(2) Có bản chép là vọng. Cô thính chi nghĩa là cứ nghe đi, vọng thính chi nghĩa là nghe láo đi.
(3) Có bản chép là thì . Quỷ xướng thi nghĩa là ma ngâm thơ, quỷ xướng thì nghĩa là lúc ma ngâm. Về hai chữ thi và thì , có học giả bàn rằng:"Vì trong bài Thứ Vận, Bồ Tùng Linh dùng ba chữ dạ thoại thì nên trong bài Đề Từ, ba chữ quỷ xướng thì phù hợp với quy luật xướng họa hơn! Tuy nhiên, ba chữ quỷ xướng thi lại có phong cách tài tử cũng như có nhạc điệu thanh thoát hơn! Có thể vì Bồ Tùng Linh là đại tài tử nên đã không tự buộc mình vào quy luật xướng họa chăng? Vả lại, theo cách phát âm của người Trung quốc thì hai chữ thi và thì có âm hưởng rất gần nhau!"
Để làm nổi bật quy luật xướng họa trong thơ cổ, giáo sư Nguyễn Đức Hiển đã diễn nôm hai bài Đề Từ (bản F ở trang 6) và Thứ Vận (bản F ở trang 6) như sau:
Diễn nôm bài Đề Từ:
Thôi cứ ba xàm, nói vẩn vơ
Giàn bầu, liếp đỗ, bụi mưa tơ
Việc đời ngán ngẩm, thà nghe quỷ
Vọng tiếng thơ hòa dưới mộ thu
Diễn nôm bài Thứ Vận:
Sách xong, gom hết chuyện vu vơ
Áo rách cười lên, tóc trắng tơ
Tô Tử mười năm câu nói cũ
Đèn khêu, mưa lạnh, chuyện đêm thu
Ông có một tên tự là Di Thượng, một tên hiệu là Nguyễn Đình, và hai biệt hiệu là Ngư Dương Lão Nhân và Ngư Dương Sơn Nhân.
Ông thi đậu tiến sĩ, làm quan tới chức thượng thư. Ngoài quan chức trong hoạn lộ, ông còn là một văn nhân và thi nhân, nổi tiếng về các thể thơ trữ tình, hoa lệ.
Thời còn giữ chức tư khấu Tân Thành, Sơn Đông, khi đọc hết bộ truyện Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh, ông rất cảm phục văn tài của tác giả. Ông nói với bạn:
"Văn của Liễu Tuyền Cư Sĩ quả là kỳ lạ. Bọn nho học tầm thường bây giờ, chẳng ai sánh kịp" Ông bèn viết thư mời tác giả tới đàm đạo.
Tác giả khiêm tốn, không muốn tới nơi quyền quý nên phúc thư, xin lỗi là đau yếu, chẳng thể tới diện kiến.
Ông bèn gửi tặng tác giả bài Đề Từ sau đây cho bộ Liêu Trai Chí Dị:
Cô vọng ngôn chi(1), cô(2) thính chi
Đậu bằng qua giá vũ như ti,
Liệu ưng yếm tác nhân gian ngữ,
Ái thính thu phần quỷ xướng thi(3)
Ngư Dương Lão Nhân đề (1709)
Chú thích của dịch giả:
(1) Ở Trung quốc, vào hai triều Đường, Tống, có 8 văn thi nhân được người đời sau kính phục nhất là 2 ông Hàn Dũ, Liễu Tôn Nguyên vào triều Đường và 6 ông Âu Dương Tu, Vương An Thạch, Tô Tuân, Tô Thức, Tô Triệt, Tăng Củng vào triều Tống mà các sử gia văn học Trung quốc thường gọi là Đường, Tống Bát Đại Gia.
Trong Bát Đại Gia thì Tô Thức (1037-1101), tự Tử Chiêm, hiệu Đông Pha Cư Sĩ, đậu tiến sĩ năm 21 tuổi, được hậu thế coi là văn nhân đa tài đa nghệ nhất, nổi tiếng về đủ các bộ môn cầm, kỳ, thi, họa, văn, thư. Cha ông là Tô Tuân, và em ông là Tô Triệt cũng nổi tiếng. Người đương thời gọi ba cha con ông là Tam Tô.
Khi vua Tống Thần Tông cử Vương An Thạch làm tể tướng (1069) thì ông đang làm quan trong Quốc Sử Quán. Về chính trị, ông theo đường lối xã hội ôn hòa, chống đối lại chính sách cưỡng chế Tân Pháp của Vương An Thạch nên bị biếm ra ở Hàng Châu, rồi ở Hồ Châu, rồi ở Hoàng Châu. Trong thời gian ở Hoàng Châu, ông cất nhà ở sườn phía đông (đông pha) một ngọn núi để cư ngụ nên lấy hiệu là Đông Pha Cư Sĩ. Cũng trong thời gian này, ông được cử giữ chức Đoàn Luyện Phó Sứ nên còn được gọi là Tô Đoàn Luyện. Tuy bị đày ải mà văn thơ ông vẫn siêu thoát, khoáng đạt chứ không cay đời, oán người, vì ông chịu ảnh hưởng sâu xa của Phật giáo và Lão Trang.
Tương truyền, ngày nào ông cũng cùng mấy người bạn già nhà quê ngao du sơn thủy, nói chuyện phiếm. Hoặc là ông mời bạn tới nhà mình, hoặc là ông tới nhà bạn, hoặc là hai bên hẹn gặp nhau ở một nơi sơn thủy để nói chuyện. Có truyện gì ông cũng đem ra thuật cho bạn nghe rồi bảo bạn có truyện gì thì thuật lại cho mình nghe, truyện khôi hài, truyện tiếu lâm, loại nào cũng được.
Một hôm, có người bạn nói: "Chẳng có truyện chi xác thực, nghiêm chỉnh mà chỉ có truyện ma quỷ láo lếu!" Ông giục: "Cứ nói láo đi!" (Cô vọng ngôn chi!). Vương Sĩ Trinh mượn câu này của ông để viết bài Đề Từ gửi tặng Bồ Tùng Linh.
(2) Có bản chép là vọng. Cô thính chi nghĩa là cứ nghe đi, vọng thính chi nghĩa là nghe láo đi.
(3) Có bản chép là thì . Quỷ xướng thi nghĩa là ma ngâm thơ, quỷ xướng thì nghĩa là lúc ma ngâm. Về hai chữ thi và thì , có học giả bàn rằng:"Vì trong bài Thứ Vận, Bồ Tùng Linh dùng ba chữ dạ thoại thì nên trong bài Đề Từ, ba chữ quỷ xướng thì phù hợp với quy luật xướng họa hơn! Tuy nhiên, ba chữ quỷ xướng thi lại có phong cách tài tử cũng như có nhạc điệu thanh thoát hơn! Có thể vì Bồ Tùng Linh là đại tài tử nên đã không tự buộc mình vào quy luật xướng họa chăng? Vả lại, theo cách phát âm của người Trung quốc thì hai chữ thi và thì có âm hưởng rất gần nhau!"
Để làm nổi bật quy luật xướng họa trong thơ cổ, giáo sư Nguyễn Đức Hiển đã diễn nôm hai bài Đề Từ (bản F ở trang 6) và Thứ Vận (bản F ở trang 6) như sau:
Diễn nôm bài Đề Từ:
Thôi cứ ba xàm, nói vẩn vơ
Giàn bầu, liếp đỗ, bụi mưa tơ
Việc đời ngán ngẩm, thà nghe quỷ
Vọng tiếng thơ hòa dưới mộ thu
Diễn nôm bài Thứ Vận:
Sách xong, gom hết chuyện vu vơ
Áo rách cười lên, tóc trắng tơ
Tô Tử mười năm câu nói cũ
Đèn khêu, mưa lạnh, chuyện đêm thu
Nhận được bài Đề Từ của quan
tư khấu Vương Sĩ Trinh, Bồ Tùng Linh liền viết bài Thứ Vận sau đây để phúc thư
đáp lễ Vương tư khấu:
THỨ VẬN đáp VƯƠNG TƯ KHẤU NGUYỄN ĐÌNH TIÊN SINH KIẾN TẶNG
Chí Dị thư thành cộng tiếu chi,
Bố bào tiêu tác mấn như ti
Thập niên phả đắc Hoàng Châu ý(1)
Lãnh vũ hàn đăng dạ thoại thì.
Liễu Tuyền Cư Sĩ họa (1709)
Chú thích của dịch giả:
(1) Hoàng Châu ý: Nhắc lại ý của Tô Đông Pha, khi ở Hoàng Châu, bảo khách: cô vọng ngôn chi! (Xin xem chú thích ở trang 5)
Từ ngữ vọng ngôn trong bài Đề Từ của Vương Sĩ Trinh cũng như từ ngữ Hoàng Châu ý trong bài Thứ Vận của Bồ Tùng Linh đều quy về câu cô vọng ngôn chi của Tô Đông Pha, một văn tài đã đích thực sống một cuộc sống triết nhân trong đời sống hàng ngày. Câu nói của Tô Đông Pha bao hàm ý tưởng siêu thoát của Phật giáo mà lại đượm vẻ khoáng đạt của Lão Trang nên Bồ Tùng Linh cho biết là đã phải mất mười năm mới hiểu được
MƯỜI BẢN DIỄN NÔM BÀI ĐỀ TỪ
BẢN DIỄN NÔM CỦA THI SĨ TẢN ĐÀ (NĂM 1938)
Nói láo mà chơi, nghe láo chơi,
Giàn dưa lún phún hạt mưa rơi,
Chuyện đời đã chán không buồn nhắc,
Thơ thẩn nghe ma kể mấy lời.
BẢN DIỄN NÔM CỦA HỌC GIẢ ĐÀO TRINH NHẤT (NĂM 1950)
Cứ nói tràn, cứ nghe tràn,
Đêm mưa thánh thót trên giàn đậu, dưa,
Chuyện người đã ngán xưa giờ,
Thích nghe ma quỷ dưới mồ ngâm thơ.
BẢN DIỄN NÔM CỦA GIÁO SƯ NGUYỄN SỸ TẾ (NĂM 1995)
Buồn thì nói chuột nghe dơi,
Giàn dưa giàn đậu mưa phơi tơ mòng.
Chuyện đời nhàm chán hư không,
Mồ thu nghe quỷ động lòng kể thơ.
BẢN DIỄN NÔM CỦA NGHIÊM ĐÀM (NĂM 1996)
Nói phiếm nhảm chơi, nghe nhảm chơi
Dăng dăng giàn đậu, bụi mưa rơi
Chuyện người nghe mãi, thêm nhàm chán
Ưa quỷ thu ngâm, mộ vẳng lời
SÁU BẢN DIỄN NÔM CỦA GIÁO SƯ NGUYỄN ĐỨC HIỂN (NĂM 2000)
A- Trên trời dưới biển cứ ba hoa
Liếp đậu giàn dưa mưa nhỏ sa
Chuyện thế để cho ngườI thế nhé
Mình nghe tiếng quỷ đọc thơ ma
B- Liếp đậu giàn dưa thánh thót mưa
Chuyện đi, càng láo lại càng ưa
Việc đời đã ngán câu đầu lưỡi
Thì lắng mồ thu quỷ đọc thơ
C- Mưa bay liếp đỗ giàn dưa
Nói hươu nói vượn cũng vừa lỗ tai
Chuyện người lâu đã nguôi ngoai
Để nghe quỷ dưới âm đài ngâm thơ
D- Nghe chơi nói láo cũng là
Lơi phơi liếp đậu, la đà giàn dưa
Giọng đời ngán ngẩm xin chừa
Để tai nghe quỷ đọc thơ dạ đài
E- Nghe xàm nói láp mà chơi
Giàn bầu liếp đậu vắn dài sợi mưa
Chuyện đời ngán nỗi đong đưa
Thà nghe tiếng quỷ mồ thu hòa vần
F- Thôi cứ ba xàm, nói vẩn vơ
Giàn bầu, liếp đỗ, bụi mưa tơ
Việc đời ngán ngẩm, thà nghe quỷ
Vọng tiếng thơ hòa dưới mộ thu
MƯỜI BẢN DIỄN NÔM BÀI THỨ VẬN
BẢN DIỄN NÔM CỦA GIÁO SƯ NGUYỄN HUỆ CHI (NĂM 1989)
Chí Dị làm xong, cất tiếng cười,
Tóc mai trắng nõn, áo bào tơi.
Mười năm mới hiểu lời Tô Tử,
Mưa lạnh, đèn tàn, kể láo chơi.
BẢN DIỄN NÔM CỦA GIÁO SƯ NGUYỄN SỸ TẾ (NĂM 1995)
Hoàn thành Chí Dị để mua cười,
Rách áo thô mà bạc tóc mai,
Lãnh ý Hoàng Châu tròn thập kỷ
Đèn chong mưa lạnh chuyện canh dài.
BẢN DIỄN NÔM CỦA NGHIÊM ĐÀM (NĂM 1996)
Liêu Trai thành truyện, hợp nhau cười
Tóc mai tơ trắng, áo gai tơi
Hoàng Châu vỡ ý, mười năm trọn
Đèn mờ mưa lạnh, dạ đàm chơi.
BẢN DIỄN NÔM CỦA DỊCH GIẢ (NĂM 2000)
Viết xong Chí Dị, thế nhân cười
Áo vải tay sờn, tóc bạc phơi
Thấm ý Hoàng Châu, thu chẵn chục
Thầm thì mưa lạnh, đĩa dầu vơi.
SÁU BẢN DIỄN NÔM CỦA GIÁO SƯ NGUYỄN ĐỨC HIỂN (NĂM 2000)
A- Tóc bạc bào xơ sách mới xong
Trăm ngàn Chí Dị một cười chung
Cũng là hiển ý Tô Đoàn Luyện
Đèn lạnh đêm mưa chuyện chẳng cùng
B- Một cuốn Liêu Trai đã soạn thành
Cười lên tóc bạc áo phai xanh
Mười năm giãi được lời Tô Tử
Mưa lạnh đèn khêu chuyện điểm canh
C- Cười lên Chí Dị soạn xong rồi
Xơ xác thân bào bạc tóc tai
Ý gợi ông Tô giờ đã rõ
Đèn khuya to nhỏ chuyện mưa rơi
D- Một pho Chí Dị vừa thành
Cười mình áo rách tóc mình trắng phơ
Mười năm rõ ý thày Tô
Chuyện đêm mưa lạnh đèn mờ hắt hiu
E- Sách xong góp tiếng cười chung
Nát gai thân áo điểm bông mái đầu
Mười năm thấm ý Hoàng Châu
Những đêm mưa lạnh ngọn dầu nhỏ to
F- Sách xong, gom hết chuyện vu vơ
Áo rách cười lên, tóc trắng tơ
Tô Tử mười năm câu nói cũ
Đèn khêu, mưa lạnh, chuyện đêm thu
THỨ VẬN đáp VƯƠNG TƯ KHẤU NGUYỄN ĐÌNH TIÊN SINH KIẾN TẶNG
Chí Dị thư thành cộng tiếu chi,
Bố bào tiêu tác mấn như ti
Thập niên phả đắc Hoàng Châu ý(1)
Lãnh vũ hàn đăng dạ thoại thì.
Liễu Tuyền Cư Sĩ họa (1709)
Chú thích của dịch giả:
(1) Hoàng Châu ý: Nhắc lại ý của Tô Đông Pha, khi ở Hoàng Châu, bảo khách: cô vọng ngôn chi! (Xin xem chú thích ở trang 5)
Từ ngữ vọng ngôn trong bài Đề Từ của Vương Sĩ Trinh cũng như từ ngữ Hoàng Châu ý trong bài Thứ Vận của Bồ Tùng Linh đều quy về câu cô vọng ngôn chi của Tô Đông Pha, một văn tài đã đích thực sống một cuộc sống triết nhân trong đời sống hàng ngày. Câu nói của Tô Đông Pha bao hàm ý tưởng siêu thoát của Phật giáo mà lại đượm vẻ khoáng đạt của Lão Trang nên Bồ Tùng Linh cho biết là đã phải mất mười năm mới hiểu được
MƯỜI BẢN DIỄN NÔM BÀI ĐỀ TỪ
BẢN DIỄN NÔM CỦA THI SĨ TẢN ĐÀ (NĂM 1938)
Nói láo mà chơi, nghe láo chơi,
Giàn dưa lún phún hạt mưa rơi,
Chuyện đời đã chán không buồn nhắc,
Thơ thẩn nghe ma kể mấy lời.
BẢN DIỄN NÔM CỦA HỌC GIẢ ĐÀO TRINH NHẤT (NĂM 1950)
Cứ nói tràn, cứ nghe tràn,
Đêm mưa thánh thót trên giàn đậu, dưa,
Chuyện người đã ngán xưa giờ,
Thích nghe ma quỷ dưới mồ ngâm thơ.
BẢN DIỄN NÔM CỦA GIÁO SƯ NGUYỄN SỸ TẾ (NĂM 1995)
Buồn thì nói chuột nghe dơi,
Giàn dưa giàn đậu mưa phơi tơ mòng.
Chuyện đời nhàm chán hư không,
Mồ thu nghe quỷ động lòng kể thơ.
BẢN DIỄN NÔM CỦA NGHIÊM ĐÀM (NĂM 1996)
Nói phiếm nhảm chơi, nghe nhảm chơi
Dăng dăng giàn đậu, bụi mưa rơi
Chuyện người nghe mãi, thêm nhàm chán
Ưa quỷ thu ngâm, mộ vẳng lời
SÁU BẢN DIỄN NÔM CỦA GIÁO SƯ NGUYỄN ĐỨC HIỂN (NĂM 2000)
A- Trên trời dưới biển cứ ba hoa
Liếp đậu giàn dưa mưa nhỏ sa
Chuyện thế để cho ngườI thế nhé
Mình nghe tiếng quỷ đọc thơ ma
B- Liếp đậu giàn dưa thánh thót mưa
Chuyện đi, càng láo lại càng ưa
Việc đời đã ngán câu đầu lưỡi
Thì lắng mồ thu quỷ đọc thơ
C- Mưa bay liếp đỗ giàn dưa
Nói hươu nói vượn cũng vừa lỗ tai
Chuyện người lâu đã nguôi ngoai
Để nghe quỷ dưới âm đài ngâm thơ
D- Nghe chơi nói láo cũng là
Lơi phơi liếp đậu, la đà giàn dưa
Giọng đời ngán ngẩm xin chừa
Để tai nghe quỷ đọc thơ dạ đài
E- Nghe xàm nói láp mà chơi
Giàn bầu liếp đậu vắn dài sợi mưa
Chuyện đời ngán nỗi đong đưa
Thà nghe tiếng quỷ mồ thu hòa vần
F- Thôi cứ ba xàm, nói vẩn vơ
Giàn bầu, liếp đỗ, bụi mưa tơ
Việc đời ngán ngẩm, thà nghe quỷ
Vọng tiếng thơ hòa dưới mộ thu
MƯỜI BẢN DIỄN NÔM BÀI THỨ VẬN
BẢN DIỄN NÔM CỦA GIÁO SƯ NGUYỄN HUỆ CHI (NĂM 1989)
Chí Dị làm xong, cất tiếng cười,
Tóc mai trắng nõn, áo bào tơi.
Mười năm mới hiểu lời Tô Tử,
Mưa lạnh, đèn tàn, kể láo chơi.
BẢN DIỄN NÔM CỦA GIÁO SƯ NGUYỄN SỸ TẾ (NĂM 1995)
Hoàn thành Chí Dị để mua cười,
Rách áo thô mà bạc tóc mai,
Lãnh ý Hoàng Châu tròn thập kỷ
Đèn chong mưa lạnh chuyện canh dài.
BẢN DIỄN NÔM CỦA NGHIÊM ĐÀM (NĂM 1996)
Liêu Trai thành truyện, hợp nhau cười
Tóc mai tơ trắng, áo gai tơi
Hoàng Châu vỡ ý, mười năm trọn
Đèn mờ mưa lạnh, dạ đàm chơi.
BẢN DIỄN NÔM CỦA DỊCH GIẢ (NĂM 2000)
Viết xong Chí Dị, thế nhân cười
Áo vải tay sờn, tóc bạc phơi
Thấm ý Hoàng Châu, thu chẵn chục
Thầm thì mưa lạnh, đĩa dầu vơi.
SÁU BẢN DIỄN NÔM CỦA GIÁO SƯ NGUYỄN ĐỨC HIỂN (NĂM 2000)
A- Tóc bạc bào xơ sách mới xong
Trăm ngàn Chí Dị một cười chung
Cũng là hiển ý Tô Đoàn Luyện
Đèn lạnh đêm mưa chuyện chẳng cùng
B- Một cuốn Liêu Trai đã soạn thành
Cười lên tóc bạc áo phai xanh
Mười năm giãi được lời Tô Tử
Mưa lạnh đèn khêu chuyện điểm canh
C- Cười lên Chí Dị soạn xong rồi
Xơ xác thân bào bạc tóc tai
Ý gợi ông Tô giờ đã rõ
Đèn khuya to nhỏ chuyện mưa rơi
D- Một pho Chí Dị vừa thành
Cười mình áo rách tóc mình trắng phơ
Mười năm rõ ý thày Tô
Chuyện đêm mưa lạnh đèn mờ hắt hiu
E- Sách xong góp tiếng cười chung
Nát gai thân áo điểm bông mái đầu
Mười năm thấm ý Hoàng Châu
Những đêm mưa lạnh ngọn dầu nhỏ to
F- Sách xong, gom hết chuyện vu vơ
Áo rách cười lên, tóc trắng tơ
Tô Tử mười năm câu nói cũ
Đèn khêu, mưa lạnh, chuyện đêm thu
MỤC LỤC
Khúc nhạc ếch (Oa khúc)
Thần thánh cũng ưa nịnh (Hạ tuyết)
Viên quan tí hon (Tiểu quan nhân)
Người ăn đá sỏi (Ngật thạch)
Quan tể huyện Tử Đồng (Tử Đồng lệnh)
Tiên giáng bút (Kê tiên)
Nhiếp Chính (Nhiếp Chính)
Bị đòn cũng có số (Thiệu Lâm Chuy)
Trộm vịt (Mạ áp)
Liêm sỉ của kẻ làm quan (Tam triều nguyên lão)
Lộc số (Lộc số)
Vợ chàng nông phu (Nông phụ)
Thuốc co rút thân thể (Tiểu nhân)
Quan trung thừa điều tra trộm (Vu trung thừa)
Quan tể điều tra cướp (Vu trung thừa nhị)
Đạo sĩ nuôi rắn (Hoạn xà)
Thuốc cường dương (Dược tăng)
Giết sói, báo thù cha (Vu Giang)
Thần miếu (Ưng hổ thần)
Định số (Khố quan)
Bùa cờ bạc (Đổ phù)
Chồn đầu thai làm người (Lưu Lượng Thái)
Ghen với nữ thần (Kim cô phu)
Chồn cuối triều Minh (Linh quan)
Nhờ tiên đậu thủ khoa (Tam tiên)
Khỏe như hổ, nhanh như vượn (Bảo Trụ)
Gái chồn (Hồ nữ)
Hồi sinh, khỏi bệnh tê liệt (Thang công)
Cướp đội lốt sư (Bố thương)
Hóa chồn vì hiếu sắc (Kim Lăng Ất)
Thi làm thành hoàng (Khảo thành hoàng)
Pháp thuật đạo sĩ (Hàn nguyệt phù cừ)
Để của cho con (Lý Bát Cang)
Hổ trả ơn người (Nhị Ban)
Trương Phi mời dự tiệc (Hoàn Hầu)
Học tài thi phận (Diệp sinh)
Phúc thẩm án tử hình (Thi nghiện)
Cung nữ cuối triều Minh (Lâm Tứ Nương)
Ngự sử bị lừa tiền (Cục trá)
Phó tướng quân bị lừa tiền (Cục trá nhị)
Đạo sĩ lừa nho sinh (Cục trá tam)
Suýt bị chết chém vì giả gái (Nhân yêu)
Thiện ác khó phân (Lưu tính)
Cô gái họ Phòng (Phòng Văn Thục)
Làm bạn với chồn vô hình (Hồ Tứ tướng công)
Mê sách (Thư si)
Kim đan của ma chồn (Vương Lan)
Bảy chị em chồn (Tiêu thất)
Báo oán (Đậu thị)
Mẹ trẻ dạy con hư (Tế Liễu)
Ma đi thi giùm (Chử sinh)
Vân Thúy Tiên (Vân Thúy Tiên)
Thay tim đổi đầu (Lục phán)
Lấy người, ma sống lại (Liên Tỏa)
Thần hoa cúc (Hoàng Oanh)
Nói đùa tưởng thực (Vương Quế Am)
Cát Cân và Ngọc Bản (Cát Cân)
Lấy vợ ma (Sương Quần)
Vợ chồng tiên (Thanh Nga)
KHÚC NHẠC ẾCH
(truyện OA KHÚC)
(truyện OA KHÚC)
Cổ xúy tằng kinh lưỡng bộ khoa
Trì đường thanh thảo độc thinh oa
Hà nhân chế tựu phiên tân khúc
Vận hiệp cung thương liễu bất soa
Tiên sinh Vương Tử Tốn thuật truyện:
Hồi còn ít tuổi, có một thời gian tiên sinh cư ngụ ở kinh đô.Một hôm, tiên sinh ra chợ chơi. Thấy một đám đông xúm lại coi một thuật nhân diễn trò, tiên sinh cũng tới coi.
Thuật nhân có một hộp gỗ lớn, hình chữ nhật, ngăn làm mười hai ô vuông, trong mỗi ô có nhốt một con ếch. Thoạt tiên, thuật nhân lấy đũa gõ vào đầu ếch thì ếch kêu ồm ộp như tiếng ễnh ương lúc trời mưa. Sau đó, thuật nhân lấy tiền vàng ném vào đầu ếch thì ếch lại phát ra những âm thanh nghe tựa tiếng nhạc, có âm điệu rất êm tai. Thuật nhân có tài ném tiền vào đầu ếch theo nhiều nhịp điệu uyển chuyển khác nhau, làm cho mười hai con ếch đồng cử một nhạc khúc, có tiết tấu rất là mạch lạc.
Trì đường thanh thảo độc thinh oa
Hà nhân chế tựu phiên tân khúc
Vận hiệp cung thương liễu bất soa
Tiên sinh Vương Tử Tốn thuật truyện:
Hồi còn ít tuổi, có một thời gian tiên sinh cư ngụ ở kinh đô.Một hôm, tiên sinh ra chợ chơi. Thấy một đám đông xúm lại coi một thuật nhân diễn trò, tiên sinh cũng tới coi.
Thuật nhân có một hộp gỗ lớn, hình chữ nhật, ngăn làm mười hai ô vuông, trong mỗi ô có nhốt một con ếch. Thoạt tiên, thuật nhân lấy đũa gõ vào đầu ếch thì ếch kêu ồm ộp như tiếng ễnh ương lúc trời mưa. Sau đó, thuật nhân lấy tiền vàng ném vào đầu ếch thì ếch lại phát ra những âm thanh nghe tựa tiếng nhạc, có âm điệu rất êm tai. Thuật nhân có tài ném tiền vào đầu ếch theo nhiều nhịp điệu uyển chuyển khác nhau, làm cho mười hai con ếch đồng cử một nhạc khúc, có tiết tấu rất là mạch lạc.
VIÊN QUAN TÍ HON
(truyện TIỂU QUAN NHÂN)
Cơ duyên song nhãn thụy mô hồ
Hoè quốc y quan sự hữu vô
Vi vật tiên tiên do lận tích
Tiểu nhân thường thái diệc hà thù
Tỉnh Sơn Đông, có viên thái sử họ Dương.
Một trưa, Dương công nằm đọc sách trên chiếc sập kê giữa sảnh đường. Tình cờ buông sách, đưa mắt nhìn quanh, Dương công chợt thấy một đoàn kỵ mã, người nhỏ như ruồi, ngựa nhỏ như ếch, đang hộ tống nghi vệ của một viên quan tí hon, đội mũ đen, chít khăn thêu, ngồi trên kiệu, từ góc phòng, ra khỏi cửa.
Dương công kinh ngạc lắm, cho rằng mình đang nằm mộng chứ chẳng phải là thực cảnh.
Bèn lấy tay dụi mắt xem sao thì thấy rõ là mình đang tỉnh. Bỗng thấy viên quan trở lại, bước tới sập, khom lưng cúi chào, tay trái xách một bọc vải nhỏ bằng trái cam, tay phải chỉ bọc, nói:"Thượng cấp của tiểu chức thấy nghi vệ của ngài chưa được đầy đủ nên sai tiểu chức đem vật này tới kính biếu ngài để bổ túc nghi vệ!" Nói xong, giơ tay toan mở bọc nhưng rồi lại thôi, cứ chần chừ chẳng mở. Lát sau, ngửng đầu, mỉm cười, nói:"Vật này nhỏ lắm, chắc ngài cũng chẳng dùng tới. Vậy xin ngài ban lại cho tiểu chức là xong!" Dương công chẳng biết trong bọc có vật gì nhưng thầm nghĩ chắc cũng chỉ là một vật tí hon nên gật đầu ưng thuận. Viên quan vui mừng hớn hở, xách bọc chạy đi ngay.
Viên quan đi rồi Dương công mới chợt nghĩ rằng trong lúc kinh ngạc, mình đã quên chẳng hỏi lai lịch của viên quan. Dương công có ý chờ cho viên quan trở lại song chờ mãi cũng chẳng thấy chi.
Cơ duyên song nhãn thụy mô hồ
Hoè quốc y quan sự hữu vô
Vi vật tiên tiên do lận tích
Tiểu nhân thường thái diệc hà thù
Tỉnh Sơn Đông, có viên thái sử họ Dương.
Một trưa, Dương công nằm đọc sách trên chiếc sập kê giữa sảnh đường. Tình cờ buông sách, đưa mắt nhìn quanh, Dương công chợt thấy một đoàn kỵ mã, người nhỏ như ruồi, ngựa nhỏ như ếch, đang hộ tống nghi vệ của một viên quan tí hon, đội mũ đen, chít khăn thêu, ngồi trên kiệu, từ góc phòng, ra khỏi cửa.
Dương công kinh ngạc lắm, cho rằng mình đang nằm mộng chứ chẳng phải là thực cảnh.
Bèn lấy tay dụi mắt xem sao thì thấy rõ là mình đang tỉnh. Bỗng thấy viên quan trở lại, bước tới sập, khom lưng cúi chào, tay trái xách một bọc vải nhỏ bằng trái cam, tay phải chỉ bọc, nói:"Thượng cấp của tiểu chức thấy nghi vệ của ngài chưa được đầy đủ nên sai tiểu chức đem vật này tới kính biếu ngài để bổ túc nghi vệ!" Nói xong, giơ tay toan mở bọc nhưng rồi lại thôi, cứ chần chừ chẳng mở. Lát sau, ngửng đầu, mỉm cười, nói:"Vật này nhỏ lắm, chắc ngài cũng chẳng dùng tới. Vậy xin ngài ban lại cho tiểu chức là xong!" Dương công chẳng biết trong bọc có vật gì nhưng thầm nghĩ chắc cũng chỉ là một vật tí hon nên gật đầu ưng thuận. Viên quan vui mừng hớn hở, xách bọc chạy đi ngay.
Viên quan đi rồi Dương công mới chợt nghĩ rằng trong lúc kinh ngạc, mình đã quên chẳng hỏi lai lịch của viên quan. Dương công có ý chờ cho viên quan trở lại song chờ mãi cũng chẳng thấy chi.
QUAN TỂ HUYỆN TỬ ĐỒNG
(truyện TỬ ĐỒNG LỆNH)
Tiêu lộc đương niên tiếu Trịnh nhân
Mê ly thảng hoảng cảnh phi chân
Tử Đồng tái nhậm tiên cô triệu
Mộng đáo lôi đồng mộng cánh thần
Thủ phủ Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây, có nho sinh họ Thường, tên Đại Trung.
Năm ấy, Đại Trung đi thi hội, đậu tiến sĩ rồi nạp đơn xin triều đình bổ dụng. Ba tháng sau, nhà vua xuống chiếu tuyển quan. Vì có nhiều chức quan lớn nhỏ trong nước cần được bổ khuyết nên triều thần tâu với nhà vua cho vời tất cả các tiến sĩ về kinh dự cuộc rút thăm, ai rút được chức nào thì cho đi nhậm chức ấy. Nhà vua chuẩn tấu. Đại Trung cũng được vời.
Trước ngày lên đường, một đêm Đại Trung đang ngồi trong phòng khách thì thấy gia nhân vào trình danh thiếp của thần Tử Đồng (còn gọi là thần Văn Xương), muốn xin vào gặp mặt. Đại Trung liền sai gia nhân ra mời vào. Giật mình tỉnh giấc, Đại Trung mới biết là mình nằm chiêm bao.
Tới kinh, Đại Trung rút thăm được chức quan tể huyện Tử Đồng, tỉnh Tứ Xuyên nên cứ lấy làm lạ về việc tên huyện mà mình được bổ tới phó nhậm (huyện Tử Đồng) trùng tên với vị thần mà mình đã thấy trong mộng (thần Tử Đồng). Làm quan được hơn một năm thì nghe tin mẹ mất. Đại Trung bèn xin từ quan để về quê cư tang.
Ba năm sau, mãn tang mẹ, Đại Trung lại nạp đơn xin triều đình bổ dụng. Rồi lại được vời về kinh dự cuộc rút thăm. Trước ngày lên đường, Đại Trung lại nằm chiêm bao thấy giống như bốn năm về trước. Tỉnh giấc, Đại Trung ngạc nhiên lắm, thầm nghĩ chẳng lẽ kỳ này mình lại rút thăm trúng chức quan cũ hay sao?
Tới kinh, quả nhiên Đại Trung lại rút thăm trúng chức quan cũ. Vì thế, Đại Trung cứ kinh ngạc mãi.
Tiêu lộc đương niên tiếu Trịnh nhân
Mê ly thảng hoảng cảnh phi chân
Tử Đồng tái nhậm tiên cô triệu
Mộng đáo lôi đồng mộng cánh thần
Thủ phủ Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây, có nho sinh họ Thường, tên Đại Trung.
Năm ấy, Đại Trung đi thi hội, đậu tiến sĩ rồi nạp đơn xin triều đình bổ dụng. Ba tháng sau, nhà vua xuống chiếu tuyển quan. Vì có nhiều chức quan lớn nhỏ trong nước cần được bổ khuyết nên triều thần tâu với nhà vua cho vời tất cả các tiến sĩ về kinh dự cuộc rút thăm, ai rút được chức nào thì cho đi nhậm chức ấy. Nhà vua chuẩn tấu. Đại Trung cũng được vời.
Trước ngày lên đường, một đêm Đại Trung đang ngồi trong phòng khách thì thấy gia nhân vào trình danh thiếp của thần Tử Đồng (còn gọi là thần Văn Xương), muốn xin vào gặp mặt. Đại Trung liền sai gia nhân ra mời vào. Giật mình tỉnh giấc, Đại Trung mới biết là mình nằm chiêm bao.
Tới kinh, Đại Trung rút thăm được chức quan tể huyện Tử Đồng, tỉnh Tứ Xuyên nên cứ lấy làm lạ về việc tên huyện mà mình được bổ tới phó nhậm (huyện Tử Đồng) trùng tên với vị thần mà mình đã thấy trong mộng (thần Tử Đồng). Làm quan được hơn một năm thì nghe tin mẹ mất. Đại Trung bèn xin từ quan để về quê cư tang.
Ba năm sau, mãn tang mẹ, Đại Trung lại nạp đơn xin triều đình bổ dụng. Rồi lại được vời về kinh dự cuộc rút thăm. Trước ngày lên đường, Đại Trung lại nằm chiêm bao thấy giống như bốn năm về trước. Tỉnh giấc, Đại Trung ngạc nhiên lắm, thầm nghĩ chẳng lẽ kỳ này mình lại rút thăm trúng chức quan cũ hay sao?
Tới kinh, quả nhiên Đại Trung lại rút thăm trúng chức quan cũ. Vì thế, Đại Trung cứ kinh ngạc mãi.
TIÊN GIÁNG BÚT
(truyện KÊ TIÊN)
Khởi thị tiên nhân thuộc đối tinh
Địa danh xảo hợp bản thiên thành
Dự tri Đổng tẩu thành nam lộ
Ảo thuật thông linh diệc khả kinh
Huyện Chương Khâu, tỉnh Sơn Đông, có nho sinh họ Mễ, tên Bộ Vân, tính ưa cầu cơ xin tiên giáng bút.
Bộ Vân thường khoe với bạn bè rằng vế đối và vần thơ tiên cho bao giờ cũng rất hay và chỉnh.
Vì có người bạn học họ Khương tỏ ý chẳng tin nên một hôm Bộ Vân mời Khương sinh cùng các bạn bè khác tới sân nhà mình để coi mình cầu cơ. Bộ Vân bảo Khương sinh:"Huynh cứ thử ra một vế đối để đệ xin tiên giáng bút, đối lại cho coi!" Khương sinh bèn ngửa mặt lên trời nghĩ vế đối. Chợt thấy một đám mây lơ lửng giữa trời, trắng tựa mỡ dê, Khương sinh liền ra vế đối: Trời ngọc trắng mỡ dê. Bộ Vân cầu cơ, xin tiên giáng bút. Tiên cho vế đối: Hỏi lão Đổng thành Nam. Khương sinh cùng đám bạn nhìn nhau mỉm cười, ngụ ý chê vế đối tiên cho chẳng chỉnh. Bộ Vân cũng thấy thế nên vừa ngạc nhiên vừa buồn rầu. Đám bạn giải tán.
Tháng sau, Khương sinh có việc phải xuống thành Nam. Thấy đất ở đấy đỏ cạch, Khương sinh rất lấy làm lạ. Chợt thấy một ông lão đang dắt chó đi ở phía bên kia đường, Khương sinh liền chạy sang hỏi:"Xin lão trượng thứ lỗi! Chẳng hay quý tính là chi?" Ông lão đáp:"Lão họ Đổng. Dân vùng này thường gọi lão là lão Đổng thành Nam" Hỏi:"Xin lão trượng cho biết tại sao đất ở đây lại đỏ như thế?" Đáp:"Trời sinh ra thế. Dân vùng này thường gọi đất ở đây là đất bùn đỏ máu heo" Thấy câu Đất bùn đỏ máu heo của ông lão đối rất chỉnh với câu Trời ngọc trắng mỡ dê của mình, Khương sinh rất lấy làm lạ. Từ đó, Khương sinh cũng tin rằng việc cầu cơ xin tiên giáng bút của Bộ Vân quả là có linh nghiệm.
Khởi thị tiên nhân thuộc đối tinh
Địa danh xảo hợp bản thiên thành
Dự tri Đổng tẩu thành nam lộ
Ảo thuật thông linh diệc khả kinh
Huyện Chương Khâu, tỉnh Sơn Đông, có nho sinh họ Mễ, tên Bộ Vân, tính ưa cầu cơ xin tiên giáng bút.
Bộ Vân thường khoe với bạn bè rằng vế đối và vần thơ tiên cho bao giờ cũng rất hay và chỉnh.
Vì có người bạn học họ Khương tỏ ý chẳng tin nên một hôm Bộ Vân mời Khương sinh cùng các bạn bè khác tới sân nhà mình để coi mình cầu cơ. Bộ Vân bảo Khương sinh:"Huynh cứ thử ra một vế đối để đệ xin tiên giáng bút, đối lại cho coi!" Khương sinh bèn ngửa mặt lên trời nghĩ vế đối. Chợt thấy một đám mây lơ lửng giữa trời, trắng tựa mỡ dê, Khương sinh liền ra vế đối: Trời ngọc trắng mỡ dê. Bộ Vân cầu cơ, xin tiên giáng bút. Tiên cho vế đối: Hỏi lão Đổng thành Nam. Khương sinh cùng đám bạn nhìn nhau mỉm cười, ngụ ý chê vế đối tiên cho chẳng chỉnh. Bộ Vân cũng thấy thế nên vừa ngạc nhiên vừa buồn rầu. Đám bạn giải tán.
Tháng sau, Khương sinh có việc phải xuống thành Nam. Thấy đất ở đấy đỏ cạch, Khương sinh rất lấy làm lạ. Chợt thấy một ông lão đang dắt chó đi ở phía bên kia đường, Khương sinh liền chạy sang hỏi:"Xin lão trượng thứ lỗi! Chẳng hay quý tính là chi?" Ông lão đáp:"Lão họ Đổng. Dân vùng này thường gọi lão là lão Đổng thành Nam" Hỏi:"Xin lão trượng cho biết tại sao đất ở đây lại đỏ như thế?" Đáp:"Trời sinh ra thế. Dân vùng này thường gọi đất ở đây là đất bùn đỏ máu heo" Thấy câu Đất bùn đỏ máu heo của ông lão đối rất chỉnh với câu Trời ngọc trắng mỡ dê của mình, Khương sinh rất lấy làm lạ. Từ đó, Khương sinh cũng tin rằng việc cầu cơ xin tiên giáng bút của Bộ Vân quả là có linh nghiệm.
NHIẾP CHÍNH
(truyện NHIẾP CHÍNH)
Hầu môn nhất nhập trướng phân ly
Bi đỗng tằng vô kế khả thi
Bạch nhận lẫm nhiên mộ trung xuất
Thần uy tưởng kiến thích Hàn thì
Huyện Hoài Âm, tỉnh Hà Nam, có Khánh Lộ Vương, tính rất ham gái đẹp. Lộ Vương thường vi hành trong dân gian để tìm gái đẹp rồi sai thuộc hạ tới nhà bắt, đem về vương phủ cho mình cưỡng chiếm.
Trong huyện, có nho sinh họ Vương tên Quýnh, có vợ họ Phùng là người nhan sắc.
Một hôm, tình cờ Lộ Vương nhìn thấy Phùng thị, liền sai thuộc hạ đánh xe tới nhà bắt. Phùng thị gào khóc thảm thiết, chẳng chịu lên xe. Chúng cứ bắt, khiêng lên xe, chở về vương phủ. Vương Quýnh thương vợ lắm song cũng đành bó tay. Chợt nghĩ có thể là xe sẽ chạy qua phần mộ Nhiếp Chính (một thích khách đời Chiến Quốc đã đâm Hàn Tường), Vương Quýnh bèn chạy theo đường tắt tới đó trước, nấp sau nhà mồ, hy vọng có thể nói được với vợ vài lời an ủi.
Quả nhiên, lát sau, xe chạy qua phần mộ Nhiếp Chính. Phùng thị nhìn thấy chồng nấp sau nhà mồ thì khóc thét lên rồi nhảy xuống đất. Vương Quýnh cũng bật khóc, chạy ùa ra ôm lấy vợ.
Đám thuộc hạ nhận ra Vương Quýnh là chồng Phùng thị, liền xông tới bắt. Bỗng chúng thấy từ trong nhà mồ có một hán tử cao lớn, khí thế uy mãnh, tay cầm một thanh đao sáng loáng, bước ra, hét:"Ta là Nhiếp Chính đây! Ta chẳng thể để cho tụi bay càn rỡ, bắt cóc vợ người như thế được! Vì tụi bay phải tuân lệnh của chủ mà làm như thế nên ta tạm tha cho. Về bảo tên chủ vô đạo của tụi bay rằng nếu y chẳng sửa đổi tính nết, sẽ có ngày ta lấy đầu!" Chúng kinh hãi quá, bỏ cả ngựa xe mà chạy. Hán tử liền quay vào nhà mồ. Vợ chồng Vương Quýnh vội chạy tới quỳ trước nhà mồ, rập đầu lạy tạ. Rồi đứng dậy, dắt nhau ra về.
Tới nhà, hai vợ chồng vẫn còn nơm nớp lo sợ về việc Lộ Vương lại sai thuộc hạ tới nhà bắt nữa. Hơn mười ngày sau, chẳng thấy chuyện chi, hai vợ chồng mới an tâm.
Từ đó, dâm uy của Lộ Vương cũng giảm dần.
Hầu môn nhất nhập trướng phân ly
Bi đỗng tằng vô kế khả thi
Bạch nhận lẫm nhiên mộ trung xuất
Thần uy tưởng kiến thích Hàn thì
Huyện Hoài Âm, tỉnh Hà Nam, có Khánh Lộ Vương, tính rất ham gái đẹp. Lộ Vương thường vi hành trong dân gian để tìm gái đẹp rồi sai thuộc hạ tới nhà bắt, đem về vương phủ cho mình cưỡng chiếm.
Trong huyện, có nho sinh họ Vương tên Quýnh, có vợ họ Phùng là người nhan sắc.
Một hôm, tình cờ Lộ Vương nhìn thấy Phùng thị, liền sai thuộc hạ đánh xe tới nhà bắt. Phùng thị gào khóc thảm thiết, chẳng chịu lên xe. Chúng cứ bắt, khiêng lên xe, chở về vương phủ. Vương Quýnh thương vợ lắm song cũng đành bó tay. Chợt nghĩ có thể là xe sẽ chạy qua phần mộ Nhiếp Chính (một thích khách đời Chiến Quốc đã đâm Hàn Tường), Vương Quýnh bèn chạy theo đường tắt tới đó trước, nấp sau nhà mồ, hy vọng có thể nói được với vợ vài lời an ủi.
Quả nhiên, lát sau, xe chạy qua phần mộ Nhiếp Chính. Phùng thị nhìn thấy chồng nấp sau nhà mồ thì khóc thét lên rồi nhảy xuống đất. Vương Quýnh cũng bật khóc, chạy ùa ra ôm lấy vợ.
Đám thuộc hạ nhận ra Vương Quýnh là chồng Phùng thị, liền xông tới bắt. Bỗng chúng thấy từ trong nhà mồ có một hán tử cao lớn, khí thế uy mãnh, tay cầm một thanh đao sáng loáng, bước ra, hét:"Ta là Nhiếp Chính đây! Ta chẳng thể để cho tụi bay càn rỡ, bắt cóc vợ người như thế được! Vì tụi bay phải tuân lệnh của chủ mà làm như thế nên ta tạm tha cho. Về bảo tên chủ vô đạo của tụi bay rằng nếu y chẳng sửa đổi tính nết, sẽ có ngày ta lấy đầu!" Chúng kinh hãi quá, bỏ cả ngựa xe mà chạy. Hán tử liền quay vào nhà mồ. Vợ chồng Vương Quýnh vội chạy tới quỳ trước nhà mồ, rập đầu lạy tạ. Rồi đứng dậy, dắt nhau ra về.
Tới nhà, hai vợ chồng vẫn còn nơm nớp lo sợ về việc Lộ Vương lại sai thuộc hạ tới nhà bắt nữa. Hơn mười ngày sau, chẳng thấy chuyện chi, hai vợ chồng mới an tâm.
Từ đó, dâm uy của Lộ Vương cũng giảm dần.
BỊ ĐÒN CŨNG CÓ SỐ
(truyện THIỆU LÂM CHUY)
Quy muội thiên chiêm thoát bức hào
Cầm đường khuất tất lệ song phao
Tiên loan xuy phượng giai tiền định
Ngã vị tinh gia tác giải trào
Huyện Lâm Chuy, tỉnh Sơn Đông, có phú ông họ Tưởng, có người con gái là Tưởng thị, tính tình rất bạo ngược. Tưởng ông đã hứa gả Tưởng thị cho giám sinh họ Lý.
Trước ngày cưới, Tưởng ông sai gia nhân ra chợ mời thày số tới nhà xem số cho con. Thày số tới, giở lá số ra coi rồi đoán:"Lệnh ái có số bị đánh đòn nơi công đường" Tưởng ông giận lắm, cười lạt, nói:"Nói láo đến thế là cùng! Cha có của thì lẽ nào con lại phải tới công đường? Mà dù có phải tới đi nữa thì chồng là giám sinh, há lại chẳng che chở được cho vợ hay sao?" Thày số im lặng, xin phép ra về.
Sau ngày cưới, hàng xóm thấy Tưởng thị rất xấc xược với chồng, ngày nào cũng chỉ mặt chồng mà thóa mạ. Lý sinh uất ức, bèn làm đơn kiện vợ, nạp lên quan tể đương thời là Thiệu công. Thiệu công chấp đơn rồi ra lệnh cho lính đi bắt Tưởng thị về huyện đường xét hỏi.
Nghe chuyện, Tưởng ông kinh hãi quá, vội dắt cả nhà lên huyện đường lạy lục Thiệu công, xin tha tội cho con. Thiệu công không nghe, cứ ra lệnh cho lính đi bắt Tưởng thị.
Lúc đó, Lý sinh mới hối hận về việc mình đã nạp đơn kiện vợ. Lý sinh bèn lên huyện đường xin bãi nại. Thiệu công nổi giận, mắng:"Cửa công có phải là chỗ để cho nhà ngươi muốn kiện lúc nào thì kiện, muốn thôi lúc nào thì thôi đâu!" Rồi cứ ra lệnh cho lính đi bắt Tưởng thị.
Khi lính giải Tưởng thị lên huyện đường, Thiệu công hỏi:"Chồng mi kiện mi về tội bạo ngược, đối xử với y rất xấc xược, có đúng thế không?" Tưởng thị vênh váo đáp:"Đó là chuyện riêng tư của vợ chồng tôi, dính líu chi tới quan mà quan phải hỏi?" Thiệu công giận quá, đập bàn, quát:"Con này quả là một con đàn bà bạo ngược. Bay đâu! Hãy nọc nó ra mà đánh cho đủ ba mươi roi!" Bọn lính tuân lệnh quan, nọc Tưởng thị ra đánh, làm cho mình mẩy Tưởng thị bị xưng vù.
Lúc đó, Tưởng ông mới tin là bị đòn cũng có số.
Quy muội thiên chiêm thoát bức hào
Cầm đường khuất tất lệ song phao
Tiên loan xuy phượng giai tiền định
Ngã vị tinh gia tác giải trào
Huyện Lâm Chuy, tỉnh Sơn Đông, có phú ông họ Tưởng, có người con gái là Tưởng thị, tính tình rất bạo ngược. Tưởng ông đã hứa gả Tưởng thị cho giám sinh họ Lý.
Trước ngày cưới, Tưởng ông sai gia nhân ra chợ mời thày số tới nhà xem số cho con. Thày số tới, giở lá số ra coi rồi đoán:"Lệnh ái có số bị đánh đòn nơi công đường" Tưởng ông giận lắm, cười lạt, nói:"Nói láo đến thế là cùng! Cha có của thì lẽ nào con lại phải tới công đường? Mà dù có phải tới đi nữa thì chồng là giám sinh, há lại chẳng che chở được cho vợ hay sao?" Thày số im lặng, xin phép ra về.
Sau ngày cưới, hàng xóm thấy Tưởng thị rất xấc xược với chồng, ngày nào cũng chỉ mặt chồng mà thóa mạ. Lý sinh uất ức, bèn làm đơn kiện vợ, nạp lên quan tể đương thời là Thiệu công. Thiệu công chấp đơn rồi ra lệnh cho lính đi bắt Tưởng thị về huyện đường xét hỏi.
Nghe chuyện, Tưởng ông kinh hãi quá, vội dắt cả nhà lên huyện đường lạy lục Thiệu công, xin tha tội cho con. Thiệu công không nghe, cứ ra lệnh cho lính đi bắt Tưởng thị.
Lúc đó, Lý sinh mới hối hận về việc mình đã nạp đơn kiện vợ. Lý sinh bèn lên huyện đường xin bãi nại. Thiệu công nổi giận, mắng:"Cửa công có phải là chỗ để cho nhà ngươi muốn kiện lúc nào thì kiện, muốn thôi lúc nào thì thôi đâu!" Rồi cứ ra lệnh cho lính đi bắt Tưởng thị.
Khi lính giải Tưởng thị lên huyện đường, Thiệu công hỏi:"Chồng mi kiện mi về tội bạo ngược, đối xử với y rất xấc xược, có đúng thế không?" Tưởng thị vênh váo đáp:"Đó là chuyện riêng tư của vợ chồng tôi, dính líu chi tới quan mà quan phải hỏi?" Thiệu công giận quá, đập bàn, quát:"Con này quả là một con đàn bà bạo ngược. Bay đâu! Hãy nọc nó ra mà đánh cho đủ ba mươi roi!" Bọn lính tuân lệnh quan, nọc Tưởng thị ra đánh, làm cho mình mẩy Tưởng thị bị xưng vù.
Lúc đó, Tưởng ông mới tin là bị đòn cũng có số.
TRỘM VỊT
(truyện MẠ ÁP)
Đạo đắc lân phù trù hạ phanh
Cơ phu nhất dạ áp mao sanh
Tòng tri thế thượng xuyên du bối
Bất mạ vô do giảm tội danh
Phía tây huyện Chuy Xuyên, tỉnh Sơn Đông, có trang Bạch Gia. Trong trang, có một ông lão họ Thẩm, tính tình phong nhã, độ lượng, chuyên nghề nuôi vịt. Đã nhiều lần Thẩm lão bị mất trộm vịt song chưa hề thóa mạ kẻ trộm bao giờ. Trong trang lại có một thanh niên vô lại họ Hàn, tên Bích, có tật trộm cắp.
Một đêm, Hàn Bích đói quá, chẳng có chi ăn, liền mò sang chuồng vịt nhà Thẩm lão bắt trộm một con đem về làm thịt. Ăn xong, Hàn Bích đi ngủ.
Sáng sau, tỉnh giấc, Hàn Bích thấy cánh tay trái của mình ngứa lắm nên lấy tay phải sờ xem. Thấy chỗ ngứa mượt như lông tơ, Hàn Bích kinh ngạc, vội vùng chạy ra sân coi thì thấy có một chùm lông vịt rất dài và mượt, mọc kín chỗ ngứa. Hàn Bích thử nhổ một sợi thì thấy đau điếng người mà sợi lông vẫn chẳng ra. Kinh hãi quá, Hàn Bích bèn chạy đi nhờ các thày thuốc chữa cho, song chẳng ai chữa được.
Ba đêm sau, trong giấc ngủ, Hàn Bích mộng thấy một người tới nhà, bảo:"Bệnh này là do Trời phạt tội trộm cắp. Muốn khỏi bệnh, phải làm sao cho tài chủ thóa mạ mình một trận thì lông vịt mới rụng đi được!" Giật mình tỉnh giấc, Hàn Bích vừa nghi vừa hãi, cứ nằm trằn trọc suốt đêm mà suy nghĩ.
Sáng sau, Hàn Bích sang gặp Thẩm lão, quỳ xuống trước mặt, nói:"Con vịt mà lão ông mất trộm bốn đêm trước là do tiểu nhân bắt, đem về làm thịt. Bây giờ, xin lão ông thóa mạ cho tiểu nhân một trận để cho tiểu nhân chừa cái tật trộm cắp đi!" Thẩm lão cười, nói:"Vịt của ta đã bị nhà ngươi ăn thịt rồi, bây giờ ta có thóa mạ nhà ngươi cũng vô ích! Thôi, về đi!" Hàn Bích cứ năn nỉ mãi song Thẩm lão nhất định chẳng nghe. Quẫn quá, Hàn Bích đành phải đem câu chuyện mình nằm mơ thuật lại cho Thẩm lão nghe. Nghe xong, Thẩm lão cười, nói:"Nếu thế thì để ta thử chữa bệnh cho nhà ngươi xem sao!" Nói xong, Thẩm lão thóa mạ cho Hàn Bích một trận. Quả nhiên, chùm lông vịt trên cánh tay Hàn Bích rụng hết. Hàn Bích bèn cám ơn Thẩm lão rồi xin phép ra về.
Từ đó Hàn Bích chừa hẳn tật trộm cắp.
Đạo đắc lân phù trù hạ phanh
Cơ phu nhất dạ áp mao sanh
Tòng tri thế thượng xuyên du bối
Bất mạ vô do giảm tội danh
Phía tây huyện Chuy Xuyên, tỉnh Sơn Đông, có trang Bạch Gia. Trong trang, có một ông lão họ Thẩm, tính tình phong nhã, độ lượng, chuyên nghề nuôi vịt. Đã nhiều lần Thẩm lão bị mất trộm vịt song chưa hề thóa mạ kẻ trộm bao giờ. Trong trang lại có một thanh niên vô lại họ Hàn, tên Bích, có tật trộm cắp.
Một đêm, Hàn Bích đói quá, chẳng có chi ăn, liền mò sang chuồng vịt nhà Thẩm lão bắt trộm một con đem về làm thịt. Ăn xong, Hàn Bích đi ngủ.
Sáng sau, tỉnh giấc, Hàn Bích thấy cánh tay trái của mình ngứa lắm nên lấy tay phải sờ xem. Thấy chỗ ngứa mượt như lông tơ, Hàn Bích kinh ngạc, vội vùng chạy ra sân coi thì thấy có một chùm lông vịt rất dài và mượt, mọc kín chỗ ngứa. Hàn Bích thử nhổ một sợi thì thấy đau điếng người mà sợi lông vẫn chẳng ra. Kinh hãi quá, Hàn Bích bèn chạy đi nhờ các thày thuốc chữa cho, song chẳng ai chữa được.
Ba đêm sau, trong giấc ngủ, Hàn Bích mộng thấy một người tới nhà, bảo:"Bệnh này là do Trời phạt tội trộm cắp. Muốn khỏi bệnh, phải làm sao cho tài chủ thóa mạ mình một trận thì lông vịt mới rụng đi được!" Giật mình tỉnh giấc, Hàn Bích vừa nghi vừa hãi, cứ nằm trằn trọc suốt đêm mà suy nghĩ.
Sáng sau, Hàn Bích sang gặp Thẩm lão, quỳ xuống trước mặt, nói:"Con vịt mà lão ông mất trộm bốn đêm trước là do tiểu nhân bắt, đem về làm thịt. Bây giờ, xin lão ông thóa mạ cho tiểu nhân một trận để cho tiểu nhân chừa cái tật trộm cắp đi!" Thẩm lão cười, nói:"Vịt của ta đã bị nhà ngươi ăn thịt rồi, bây giờ ta có thóa mạ nhà ngươi cũng vô ích! Thôi, về đi!" Hàn Bích cứ năn nỉ mãi song Thẩm lão nhất định chẳng nghe. Quẫn quá, Hàn Bích đành phải đem câu chuyện mình nằm mơ thuật lại cho Thẩm lão nghe. Nghe xong, Thẩm lão cười, nói:"Nếu thế thì để ta thử chữa bệnh cho nhà ngươi xem sao!" Nói xong, Thẩm lão thóa mạ cho Hàn Bích một trận. Quả nhiên, chùm lông vịt trên cánh tay Hàn Bích rụng hết. Hàn Bích bèn cám ơn Thẩm lão rồi xin phép ra về.
Từ đó Hàn Bích chừa hẳn tật trộm cắp.
LIÊM SỈ CỦA KẺ LÀM QUAN
(truyện. TAM TRIỀU NGUYÊN
LÃO)
Tiếu mạ do tha tiếu mạ gia
Lão nhân trường lạc tín kham khoa
Đường khai hoạ cẩm tiêu doanh thiếp
Thử thị tam triều tể tướng gia
Triều Minh, có viên quan họ Chu, tên Chính Khang làm quan trải ba đời vua, được phong đến chức tể tướng. Có lần Chính Khang được nhà vua sai cầm quân đi dẹp giặc. Thấy khí thế của giặc mạnh quá, Chính Khang đầu hàng, chịu để giặc bắt. Triều đình phải giảng hòa với giặc để giặc thả cho Chính Khang ra về. Khi về, Chính Khang lại được nhà vua cho phục chức nên bị dân chúng đương thời khinh khi.
Khi về quê hưu trí, Chính Khang thuê thợ xây cất một gia miếu. Trước ngày khánh thành miếu, Chính Khang sai gia nhân ra ngủ đêm ở miếu để trông coi, đề phòng kẻ phá hoại.
Sáng sau, đúng vào ngày khánh thành, gia nhân hớt hải chạy về báo tin có kẻ lẻn vào miếu lúc nào chẳng rõ, treo một bức hoành ngang trên tường với một đôi câu đối dọc theo hai cột. Chính Khang lấy làm lạ, vội dẫn con cháu tới miếu coi. Tới nơi, mọi người đều thấy trên bức hoành có đề bốn chữ Tam Triều Nguyên Lão và trên đôi câu đối có đề mười bốn chữ Nhất Nhị Tam Tứ Ngũ Lục Thất và Hiếu Đễ Trung Tín Lễ Nghĩa Liêm. Ai cũng hiểu ý nghĩa của bốn chữ trên bức hoành là Ông Già Làm Quan, Trải Ba Đời Vua song chẳng ai hiểu ý nghĩa của mười bốn chữ trên đôi câu đối là gì.
Câu chuyện lan khắp vùng. Dân chúng đua nhau giải thích song rút cục cũng chẳng có ai giải thích được thỏa đáng.
Ít lâu sau, có một danh sĩ trong vùng giải thích như sau:"Đúng ra đôi câu đối ấy phải có mười sáu chữ là Nhất Nhị Tam Tứ Ngũ Lục Thất Bát và Hiếu Đễ Trung Tín Lễ Nghĩa Liêm Sỉ. Người viết cắt bớt chữ Bát ở vế đầu và chữ Sỉ ở vế sau là có ý nói Chính Khang mất chữ Bát và không có chữ Sỉ. Trong Hán tự, mất chữ Bát gọi là Vong Bát, không có chữ Sỉ gọi là Vô Sỉ. Cả hai cặp chữ Vong Bát và Vô Sỉ đều có cùng một nghĩa là vô liêm sỉ" Ai cũng chịu lời cắt nghĩa của danh sĩ ấy là thỏa đáng.
Kẻ sĩ đời sau bình luận việc tể tướng Chu Chính Khang được triều đình sai cầm quân đi dẹp giặc mà lại đầu hàng giặc là một việc làm thiếu liêm sỉ của kẻ làm quan.
Tiếu mạ do tha tiếu mạ gia
Lão nhân trường lạc tín kham khoa
Đường khai hoạ cẩm tiêu doanh thiếp
Thử thị tam triều tể tướng gia
Triều Minh, có viên quan họ Chu, tên Chính Khang làm quan trải ba đời vua, được phong đến chức tể tướng. Có lần Chính Khang được nhà vua sai cầm quân đi dẹp giặc. Thấy khí thế của giặc mạnh quá, Chính Khang đầu hàng, chịu để giặc bắt. Triều đình phải giảng hòa với giặc để giặc thả cho Chính Khang ra về. Khi về, Chính Khang lại được nhà vua cho phục chức nên bị dân chúng đương thời khinh khi.
Khi về quê hưu trí, Chính Khang thuê thợ xây cất một gia miếu. Trước ngày khánh thành miếu, Chính Khang sai gia nhân ra ngủ đêm ở miếu để trông coi, đề phòng kẻ phá hoại.
Sáng sau, đúng vào ngày khánh thành, gia nhân hớt hải chạy về báo tin có kẻ lẻn vào miếu lúc nào chẳng rõ, treo một bức hoành ngang trên tường với một đôi câu đối dọc theo hai cột. Chính Khang lấy làm lạ, vội dẫn con cháu tới miếu coi. Tới nơi, mọi người đều thấy trên bức hoành có đề bốn chữ Tam Triều Nguyên Lão và trên đôi câu đối có đề mười bốn chữ Nhất Nhị Tam Tứ Ngũ Lục Thất và Hiếu Đễ Trung Tín Lễ Nghĩa Liêm. Ai cũng hiểu ý nghĩa của bốn chữ trên bức hoành là Ông Già Làm Quan, Trải Ba Đời Vua song chẳng ai hiểu ý nghĩa của mười bốn chữ trên đôi câu đối là gì.
Câu chuyện lan khắp vùng. Dân chúng đua nhau giải thích song rút cục cũng chẳng có ai giải thích được thỏa đáng.
Ít lâu sau, có một danh sĩ trong vùng giải thích như sau:"Đúng ra đôi câu đối ấy phải có mười sáu chữ là Nhất Nhị Tam Tứ Ngũ Lục Thất Bát và Hiếu Đễ Trung Tín Lễ Nghĩa Liêm Sỉ. Người viết cắt bớt chữ Bát ở vế đầu và chữ Sỉ ở vế sau là có ý nói Chính Khang mất chữ Bát và không có chữ Sỉ. Trong Hán tự, mất chữ Bát gọi là Vong Bát, không có chữ Sỉ gọi là Vô Sỉ. Cả hai cặp chữ Vong Bát và Vô Sỉ đều có cùng một nghĩa là vô liêm sỉ" Ai cũng chịu lời cắt nghĩa của danh sĩ ấy là thỏa đáng.
Kẻ sĩ đời sau bình luận việc tể tướng Chu Chính Khang được triều đình sai cầm quân đi dẹp giặc mà lại đầu hàng giặc là một việc làm thiếu liêm sỉ của kẻ làm quan.
LỘC SỐ
(truyện LỘC SỐ)
Do lai lộc mệnh phú sinh sơ
Mệnh tận thiên giao lộc hữu dư
Lưu dữ lai sinh ưng diệc đắc
Hà duyên nhất định vị tiêu trừ
Ở kinh đô có viên quan quyền cao chức trọng, họ Chử, tên Bội Hành, vừa độ lục tuần, có vợ họ Vệ.
Bội Hành thường ỷ quyền thế, xử ức dân lành, đòi tiền hối lộ, làm nhiều điều độc ác. Vệ thị thấy thế thì sợ lắm. Một hôm, Vệ thị khuyên chồng:"Phu quân nên ăn ở cho có nhân đức để được hưởng tuổi thọ lâu dài" Bội Hành cười, nói:"Nhân đức hay độc ác thì có ăn nhằm chi với tuổi thọ?" rồi chẳng nghe lời vợ khuyên.
Thời ấy, ở chợ kinh đô có thày tướng họ Tưởng, tên Thái Toàn, nổi tiếng về nghề coi diện tướng. Đặc biệt, Thái Toàn có thể coi diện tướng của từng người mà tính được số gạo và số miến mà người ấy còn được hưởng cho tới lúc chết, gọi là lộc số.
Nghe tiếng Thái Toàn, Bội Hành liền sai lính ra chợ gọi Thái Toàn vào dinh để tính lộc số cho mình. Lính dẫn Thái Toàn vào. Bội Hành hỏi:"Lộc số của ta còn bao nhiêu?" Ngắm nhìn diện tướng Bội Hành hồi lâu, Thái Toàn đáp:"Lộc số của đại quan còn hai mươi thạch gạo và hai mươi thạch miến!" Nghe thấy thế, Bội Hành mừng lắm, bèn ban thưởng cho Thái Toàn, rồi sai lính dẫn Thái Toàn trở ra chợ.
Bội Hành vào phòng thuật chuyện lại cho vợ nghe rồi hỏi:"Mỗi năm ta ăn hết chừng bao nhiêu gạo, bao nhiêu miến?" Vệ thị đáp:"Trung bình thì mỗi năm, mỗi người chỉ ăn hết một thạch gạo và một thạch miến thôi!" Bội Hành cười, nói:"Nếu thế thì ta còn sống được hai mươi năm nữa. Năm nay ta đã sáu mươi. Nếu thày tướng đoán trúng thì ta còn thọ được tới tám mươi mới chết. Như vậy cũng đủ rồi!"
Tin vào lời đoán của thày tướng, Bội Hành vẫn tiếp tục làm nhiều điều độc ác.
Đầu năm sau, Bội Hành sáu mươi mốt.
Vào ngày mồng bốn Tết, đột nhiên Bội Hành bị bệnh tiêu khát, ăn nhiều, uống lắm, ăn bao nhiêu cũng còn thấy đói, ăn cả ngày lẫn đêm. Vệ thị tính ra mỗi ngày chồng mình phải ăn hết hai mươi phần ăn bình thường. Chưa đầy một năm, Bội Hành đã ăn hết hai mươi thạch gạo và hai mươi thạch miến.
Cuối năm ấy, quả nhiên Bội Hành lăn ra chết.
Do lai lộc mệnh phú sinh sơ
Mệnh tận thiên giao lộc hữu dư
Lưu dữ lai sinh ưng diệc đắc
Hà duyên nhất định vị tiêu trừ
Ở kinh đô có viên quan quyền cao chức trọng, họ Chử, tên Bội Hành, vừa độ lục tuần, có vợ họ Vệ.
Bội Hành thường ỷ quyền thế, xử ức dân lành, đòi tiền hối lộ, làm nhiều điều độc ác. Vệ thị thấy thế thì sợ lắm. Một hôm, Vệ thị khuyên chồng:"Phu quân nên ăn ở cho có nhân đức để được hưởng tuổi thọ lâu dài" Bội Hành cười, nói:"Nhân đức hay độc ác thì có ăn nhằm chi với tuổi thọ?" rồi chẳng nghe lời vợ khuyên.
Thời ấy, ở chợ kinh đô có thày tướng họ Tưởng, tên Thái Toàn, nổi tiếng về nghề coi diện tướng. Đặc biệt, Thái Toàn có thể coi diện tướng của từng người mà tính được số gạo và số miến mà người ấy còn được hưởng cho tới lúc chết, gọi là lộc số.
Nghe tiếng Thái Toàn, Bội Hành liền sai lính ra chợ gọi Thái Toàn vào dinh để tính lộc số cho mình. Lính dẫn Thái Toàn vào. Bội Hành hỏi:"Lộc số của ta còn bao nhiêu?" Ngắm nhìn diện tướng Bội Hành hồi lâu, Thái Toàn đáp:"Lộc số của đại quan còn hai mươi thạch gạo và hai mươi thạch miến!" Nghe thấy thế, Bội Hành mừng lắm, bèn ban thưởng cho Thái Toàn, rồi sai lính dẫn Thái Toàn trở ra chợ.
Bội Hành vào phòng thuật chuyện lại cho vợ nghe rồi hỏi:"Mỗi năm ta ăn hết chừng bao nhiêu gạo, bao nhiêu miến?" Vệ thị đáp:"Trung bình thì mỗi năm, mỗi người chỉ ăn hết một thạch gạo và một thạch miến thôi!" Bội Hành cười, nói:"Nếu thế thì ta còn sống được hai mươi năm nữa. Năm nay ta đã sáu mươi. Nếu thày tướng đoán trúng thì ta còn thọ được tới tám mươi mới chết. Như vậy cũng đủ rồi!"
Tin vào lời đoán của thày tướng, Bội Hành vẫn tiếp tục làm nhiều điều độc ác.
Đầu năm sau, Bội Hành sáu mươi mốt.
Vào ngày mồng bốn Tết, đột nhiên Bội Hành bị bệnh tiêu khát, ăn nhiều, uống lắm, ăn bao nhiêu cũng còn thấy đói, ăn cả ngày lẫn đêm. Vệ thị tính ra mỗi ngày chồng mình phải ăn hết hai mươi phần ăn bình thường. Chưa đầy một năm, Bội Hành đã ăn hết hai mươi thạch gạo và hai mươi thạch miến.
Cuối năm ấy, quả nhiên Bội Hành lăn ra chết.
VỢ CHÀNG NÔNG PHU
(truyện NÔNG PHỤ)
Lân bần bất tích thí quần cái
Tật ác hoàn tri thát tị khâu
Chính khí cư nhiên tỉ cân quắc
Tức luân dũng kiện dĩ vô trù
Huyện Chuy Xuyên, tỉnh Sơn Đông, có làng Từ Diêu. Trong làng, có nông phu họ Uông, tên Gia Thạch, có vợ họ Tạ. Hai vợ chồng cư ngụ cạnh nhà một người đàn bà họ Châu.
Gia Thạch sang ở huyện Cao Uyển, cách làng trên trăm dặm để làm nghề cày thuê. Gia Thạch lại có tài nấu rượu. Những lúc rảnh rỗi, Gia Thạch thường nấu rượu để vợ sang gánh về bán. Mỗi tháng Gia Thạch chỉ về làng ở với vợ có một đêm.
Tạ thị to lớn, khoẻ mạnh, xốc vác như đàn ông, bản tính rất thẳng thắn. Tạ thị ở nhà, mở quán bán rượu và đồ sành, đồ sứ. Tiền kiếm được thì đem chi tiêu, còn dư đồng nào thì lại đem bố thí cho kẻ nghèo khó. Trong làng, ai gặp việc gì khó, cần người tiếp tay, Tạ thị cũng tận tình giúp đỡ.
Ít lâu sau, Tạ thị hoài thai. Một tối, Tạ thị sang chơi nhà Châu thị. Đang ngồi nói chuyện, bỗng Tạ thị đứng dậy nói: "Bụng dưới tôi hơi đau, chắc là của nợ này đòi chui ra đây" Nói xong, chào Châu thị mà ra về.
Sáng sau, Châu thị sang hỏi thăm thì vừa gặp lúc Tạ thị đang gánh hai vò rượu từ xa về tới ngõ. Châu thị hỏi: "Chưa sanh ư?" Tạ thị đáp: "Vào chơi thì biết" Châu thị bèn theo vào thì thấy ở giữa phòng có một cái nôi, trong nôi có một hài nhi, mình quấn đầy vải. Châu thị hỏi: "Sanh hồi nào?" Tạ thị đáp: "Tối qua, khi ở bên đó về" Hỏi: "Sao đã gồng gánh được?" Đáp: "Sau khi sanh và quấn tã cho con xong thì đứng dậy sang ngay Cao Uyển để báo tin cho chồng biết. Nhân chồng vừa nấu xong hai vò rượu nên gánh về bán"
Tạ thị chơi thân với ni cô họ Dụ ở Bắc Am. Hai người kết nghĩa chị em. Vì lớn tuổi, Tạ thị làm chị.
Một hôm, nghe đồn ni cô dan díu với nam nhân, Tạ thị nổi giận, tới ngay Bắc Am tìm ni cô mà đánh. Người trong am xúm lại can, Tạ thị mới chịu ra về, song trong lòng vẫn còn ấm ức.
Tháng sau, một hôm tình cờ gặp lại ni cô ở dọc đường, Tạ thị liền chạy tới tát. Ni cô hỏi: "Tiểu muội có lỗi chi?" Tạ thị chẳng nói chẳng rằng, chạy đi nhặt đá ở bên đường mà ném. Ni cô trúng đá, ngã khuỵ xuống đất, ngất đi. Tạ thị liền bỏ ni cô nằm ở giữa đường mà ra về.
Lân bần bất tích thí quần cái
Tật ác hoàn tri thát tị khâu
Chính khí cư nhiên tỉ cân quắc
Tức luân dũng kiện dĩ vô trù
Huyện Chuy Xuyên, tỉnh Sơn Đông, có làng Từ Diêu. Trong làng, có nông phu họ Uông, tên Gia Thạch, có vợ họ Tạ. Hai vợ chồng cư ngụ cạnh nhà một người đàn bà họ Châu.
Gia Thạch sang ở huyện Cao Uyển, cách làng trên trăm dặm để làm nghề cày thuê. Gia Thạch lại có tài nấu rượu. Những lúc rảnh rỗi, Gia Thạch thường nấu rượu để vợ sang gánh về bán. Mỗi tháng Gia Thạch chỉ về làng ở với vợ có một đêm.
Tạ thị to lớn, khoẻ mạnh, xốc vác như đàn ông, bản tính rất thẳng thắn. Tạ thị ở nhà, mở quán bán rượu và đồ sành, đồ sứ. Tiền kiếm được thì đem chi tiêu, còn dư đồng nào thì lại đem bố thí cho kẻ nghèo khó. Trong làng, ai gặp việc gì khó, cần người tiếp tay, Tạ thị cũng tận tình giúp đỡ.
Ít lâu sau, Tạ thị hoài thai. Một tối, Tạ thị sang chơi nhà Châu thị. Đang ngồi nói chuyện, bỗng Tạ thị đứng dậy nói: "Bụng dưới tôi hơi đau, chắc là của nợ này đòi chui ra đây" Nói xong, chào Châu thị mà ra về.
Sáng sau, Châu thị sang hỏi thăm thì vừa gặp lúc Tạ thị đang gánh hai vò rượu từ xa về tới ngõ. Châu thị hỏi: "Chưa sanh ư?" Tạ thị đáp: "Vào chơi thì biết" Châu thị bèn theo vào thì thấy ở giữa phòng có một cái nôi, trong nôi có một hài nhi, mình quấn đầy vải. Châu thị hỏi: "Sanh hồi nào?" Tạ thị đáp: "Tối qua, khi ở bên đó về" Hỏi: "Sao đã gồng gánh được?" Đáp: "Sau khi sanh và quấn tã cho con xong thì đứng dậy sang ngay Cao Uyển để báo tin cho chồng biết. Nhân chồng vừa nấu xong hai vò rượu nên gánh về bán"
Tạ thị chơi thân với ni cô họ Dụ ở Bắc Am. Hai người kết nghĩa chị em. Vì lớn tuổi, Tạ thị làm chị.
Một hôm, nghe đồn ni cô dan díu với nam nhân, Tạ thị nổi giận, tới ngay Bắc Am tìm ni cô mà đánh. Người trong am xúm lại can, Tạ thị mới chịu ra về, song trong lòng vẫn còn ấm ức.
Tháng sau, một hôm tình cờ gặp lại ni cô ở dọc đường, Tạ thị liền chạy tới tát. Ni cô hỏi: "Tiểu muội có lỗi chi?" Tạ thị chẳng nói chẳng rằng, chạy đi nhặt đá ở bên đường mà ném. Ni cô trúng đá, ngã khuỵ xuống đất, ngất đi. Tạ thị liền bỏ ni cô nằm ở giữa đường mà ra về.
THUỐC CO RÚT THÂN THỂ
(truyện TIỂU NHÂN)
Chi thể kiều nhu cung hí cụ
Do lai quỷ quắc biến giang hồ
Thí thính tố cung ngôn như hội
Tả đạo ưng nghiêm lưỡng quán tru
Đời Khang Hy, tỉnh Sơn Đông, có thuật nhân diễn trò ở chợ. Đi đâu cũng xách theo cái khạp, trong nhốt đứa bé cao chừng gang tay. Tới chợ, dừng chân, đặt bát xuống đất, cất tiếng rao: "Ai muốn coi múa hát, xin ném tiền vào bát" Khi có người ném tiền, liền mở khạp, sai đứa bé bước ra, tay múa miệng hát. Hát hết một bài, đứa bé lại bước vào khạp.
Một hôm, thuật nhân xách đứa bé tới huyện Dịch din trò. Huyện dân đi coi rất đông. Thuật nhân kiếm được rất nhiều tiền. Tiếng đồn tới tai quan tể. Chẳng tin là có đứa bé nhỏ đến thế, quan liền sai lính ra chợ, đòi cả hai vào huyện đường. Khi lính dẫn vào, quan bắt thuật nhân sai đứa bé diễn trò. Coi xong, quan bảo thuật nhân ra sân đứng chờ rồi cho gọi đứa bé tới hỏi: "Họ gì, tên chi?" Vì sợ thuật nhân, đứa bé nói dối: "Tiểu nhi họ Lý, tên Quân" Hỏi: "Quê ở đâu?" Đáp: "Ở huyện Phần Châu, tỉnh Sơn Tây" Hỏi: "Bao nhiêu tuổi?" Đáp: "Lên mười" Hỏi: "Sao người lại nhỏ thế?" Đáp: "Mẹ sanh ra, nhỏ sẵn" Hỏi: "Sao lại đi theo thuật nhân này?"
Đáp: "Thuật nhân là bạn của cha mẹ. Cha mẹ gửi dắt đi diễn trò để lấy tiền chia" Quan chẳng tin, dỗ đứa bé, nói: "Chắc mi sợ thuật nhân nên mi khai láo. Ta là quan tể, có quyền xét xử mọi điều oan ức cho dân. Có điều chi oan ức, mi cứ khai ra, ta sẽ xét xử cho" Thấy quan thông tuệ khác thường, đứa bé sợ quá, nói: "Thực ra, tiểu nhi họ Trương, tên Tiểu Phu, mười hai tuổi, quê ở huyện Tân Thành, tỉnh Sơn Đông. Năm ngoái, một hôm tiểu nhi đi học về, dọc đường bị thuật nhân lấy thuốc dí vào mũi cho mê đi rồi bắt đem về nhà. Khi tiểu nhi tỉnh, thuật nhân bắt phải uống thuốc lạ cho thân thể co rút rồi bắt phải học múa hát. Khi thấy tạm được, thuật nhân liền nhốt vào khạp, xách đi diễn trò ở khắp mọi nơi để kiếm tiền"
Quan nghe nói, nổi cơn thịnh nộ. Liền sai lính ra sân gọi thuật nhân vào đối chất. Vì đứa bé khai đúng sự thực, thuật nhân hết đường chối cãi. Quan liền khép thuật nhân vào án tử hình.
Quan giữ đứa bé ở lại huyện đường, tìm thày thuốc chữa bệnh cho, hy vọng đứa bé sẽ trở lại được bình thường. Thế nhưng thày thuốc nào cũng bó tay, chẳng ai chữa được.
Chi thể kiều nhu cung hí cụ
Do lai quỷ quắc biến giang hồ
Thí thính tố cung ngôn như hội
Tả đạo ưng nghiêm lưỡng quán tru
Đời Khang Hy, tỉnh Sơn Đông, có thuật nhân diễn trò ở chợ. Đi đâu cũng xách theo cái khạp, trong nhốt đứa bé cao chừng gang tay. Tới chợ, dừng chân, đặt bát xuống đất, cất tiếng rao: "Ai muốn coi múa hát, xin ném tiền vào bát" Khi có người ném tiền, liền mở khạp, sai đứa bé bước ra, tay múa miệng hát. Hát hết một bài, đứa bé lại bước vào khạp.
Một hôm, thuật nhân xách đứa bé tới huyện Dịch din trò. Huyện dân đi coi rất đông. Thuật nhân kiếm được rất nhiều tiền. Tiếng đồn tới tai quan tể. Chẳng tin là có đứa bé nhỏ đến thế, quan liền sai lính ra chợ, đòi cả hai vào huyện đường. Khi lính dẫn vào, quan bắt thuật nhân sai đứa bé diễn trò. Coi xong, quan bảo thuật nhân ra sân đứng chờ rồi cho gọi đứa bé tới hỏi: "Họ gì, tên chi?" Vì sợ thuật nhân, đứa bé nói dối: "Tiểu nhi họ Lý, tên Quân" Hỏi: "Quê ở đâu?" Đáp: "Ở huyện Phần Châu, tỉnh Sơn Tây" Hỏi: "Bao nhiêu tuổi?" Đáp: "Lên mười" Hỏi: "Sao người lại nhỏ thế?" Đáp: "Mẹ sanh ra, nhỏ sẵn" Hỏi: "Sao lại đi theo thuật nhân này?"
Đáp: "Thuật nhân là bạn của cha mẹ. Cha mẹ gửi dắt đi diễn trò để lấy tiền chia" Quan chẳng tin, dỗ đứa bé, nói: "Chắc mi sợ thuật nhân nên mi khai láo. Ta là quan tể, có quyền xét xử mọi điều oan ức cho dân. Có điều chi oan ức, mi cứ khai ra, ta sẽ xét xử cho" Thấy quan thông tuệ khác thường, đứa bé sợ quá, nói: "Thực ra, tiểu nhi họ Trương, tên Tiểu Phu, mười hai tuổi, quê ở huyện Tân Thành, tỉnh Sơn Đông. Năm ngoái, một hôm tiểu nhi đi học về, dọc đường bị thuật nhân lấy thuốc dí vào mũi cho mê đi rồi bắt đem về nhà. Khi tiểu nhi tỉnh, thuật nhân bắt phải uống thuốc lạ cho thân thể co rút rồi bắt phải học múa hát. Khi thấy tạm được, thuật nhân liền nhốt vào khạp, xách đi diễn trò ở khắp mọi nơi để kiếm tiền"
Quan nghe nói, nổi cơn thịnh nộ. Liền sai lính ra sân gọi thuật nhân vào đối chất. Vì đứa bé khai đúng sự thực, thuật nhân hết đường chối cãi. Quan liền khép thuật nhân vào án tử hình.
Quan giữ đứa bé ở lại huyện đường, tìm thày thuốc chữa bệnh cho, hy vọng đứa bé sẽ trở lại được bình thường. Thế nhưng thày thuốc nào cũng bó tay, chẳng ai chữa được.
QUAN TRUNG THỪA ĐIỀU TRA TRỘM
(truyện VU TRUNG THỪA)
Thùy tòng cụ thất đạo trang liêm
Hoả sách kinh truyền pháp lệnh nghiêm
Sưu đắc chung y tần xuất nhập
Cá trung cơ trí diệc thao kiềm
Đời Khang Hy, tỉnh Sơn Đông có quan trung thừa (tuần phủ) họ Vu, tên Thành Long, thường đi tuần du các huyện để điều tra giùm các quan tể những vụ án khó xử.
Một hôm, Vu công tới huyện Cao Bưu, tỉnh Giang Tô. Quan tể Cao Bưu làm l đón tiếp rất trọng thể. Sau khi vào huyện đường, Vu công hỏi: "Trong huyện của quan tể có vụ án nào khó xử chăng?" Quan tể đáp: "Bẩm đại quan, có vụ mất trộm áo cưới của con gái phú ông họ Vệ" Hỏi:" Nội vụ ra sao?" Đáp: "Bẩm đại quan, nguyên bản huyện có phú ông họ Vệ gả chồng cho con gái. Cô dâu có rất nhiều quần áo mới, xếp đầy một rương. Đêm trước ngày vu quy, cô dâu bị trộm tới nhà, đào tường vào phòng, cậy rương vơ vét hết quần áo đem đi. Sáng ra, Vệ ông đem việc mất trộm lên huyện đường trình báo. Tiểu chức đã cho điều tra để tìm thủ phạm song chưa có kết quả" Nói: "Để bản chức thử cho điều tra xem sao"
Vu công bèn ra lệnh cho lính đóng hết các cổng phụ chung quanh huyện thành, chỉ để mở một cổng chính rồi cho niêm yết thông cáo như sau: "Huyện dân phải về nhà ngay, đóng kín cửa mà ở trong nhà để chờ lính tới khám xét. Sau hai ngày mới được đi lại như thường. Lệnh giới nghiêm bắt đầu được thi hành từ tối nay" Nghe có lệnh giới nghiêm khám nhà, huyện dân đều về đóng chặt cửa mà ở trong nhà.
Vu công lại ra lệnh cho lính canh bắt giữ những kẻ có đem theo quần áo phụ nữ cũng như những kẻ ra vào cổng huyện tới hai lần.
Chiều ấy, có hai kẻ đi chân tay không, ra vào cổng huyện tới hai lần. Lính bắt giữ, giải vào trình. Vừa nhìn thấy chúng, Vu công đã chỉ mặt, nói: "Hai tên này chính là hai tên trộm quần áo đây!" Chúng vội quỳ xuống đất, lạy Vu công, thưa: "Bẩm đại quan, bọn tiểu nhân bị kết tội oan" Vu công nói: "Để rồi xem tụi bay có bị oan hay không?" Vu công liền sai lính lột quần áo chúng ra thì thấy mỗi kẻ đều mặc lót trong mình một bộ quần áo phụ nữ mới. Vu công bèn cho gọi Vệ thị lên coi. Vệ thị nhận đúng là quần áo của mình. Hai tên trộm hết đường chối cãi, đành phải nhận tội để khỏi bị tra tấn. Vu công bèn trao lại vụ án cho quan tể.
Nguyên hai tên trộm nghe có lệnh giới nghiêm khám nhà thì kinh hãi quá nên bàn nhau tìm cách chuyển hết quần áo ăn trộm được ra ngoài huyện thành. Thấy lính canh khám xét kỹ, chúng mới nghĩ ra cách mặc lót quần áo ăn trộm được vào người, rồi chân tay không mà ra vào cổng huyện nhiều lần để khỏi bị khám xét.
Dân chúng Cao Bưu cứ truyền tụng mãi về vụ án này.
Thùy tòng cụ thất đạo trang liêm
Hoả sách kinh truyền pháp lệnh nghiêm
Sưu đắc chung y tần xuất nhập
Cá trung cơ trí diệc thao kiềm
Đời Khang Hy, tỉnh Sơn Đông có quan trung thừa (tuần phủ) họ Vu, tên Thành Long, thường đi tuần du các huyện để điều tra giùm các quan tể những vụ án khó xử.
Một hôm, Vu công tới huyện Cao Bưu, tỉnh Giang Tô. Quan tể Cao Bưu làm l đón tiếp rất trọng thể. Sau khi vào huyện đường, Vu công hỏi: "Trong huyện của quan tể có vụ án nào khó xử chăng?" Quan tể đáp: "Bẩm đại quan, có vụ mất trộm áo cưới của con gái phú ông họ Vệ" Hỏi:" Nội vụ ra sao?" Đáp: "Bẩm đại quan, nguyên bản huyện có phú ông họ Vệ gả chồng cho con gái. Cô dâu có rất nhiều quần áo mới, xếp đầy một rương. Đêm trước ngày vu quy, cô dâu bị trộm tới nhà, đào tường vào phòng, cậy rương vơ vét hết quần áo đem đi. Sáng ra, Vệ ông đem việc mất trộm lên huyện đường trình báo. Tiểu chức đã cho điều tra để tìm thủ phạm song chưa có kết quả" Nói: "Để bản chức thử cho điều tra xem sao"
Vu công bèn ra lệnh cho lính đóng hết các cổng phụ chung quanh huyện thành, chỉ để mở một cổng chính rồi cho niêm yết thông cáo như sau: "Huyện dân phải về nhà ngay, đóng kín cửa mà ở trong nhà để chờ lính tới khám xét. Sau hai ngày mới được đi lại như thường. Lệnh giới nghiêm bắt đầu được thi hành từ tối nay" Nghe có lệnh giới nghiêm khám nhà, huyện dân đều về đóng chặt cửa mà ở trong nhà.
Vu công lại ra lệnh cho lính canh bắt giữ những kẻ có đem theo quần áo phụ nữ cũng như những kẻ ra vào cổng huyện tới hai lần.
Chiều ấy, có hai kẻ đi chân tay không, ra vào cổng huyện tới hai lần. Lính bắt giữ, giải vào trình. Vừa nhìn thấy chúng, Vu công đã chỉ mặt, nói: "Hai tên này chính là hai tên trộm quần áo đây!" Chúng vội quỳ xuống đất, lạy Vu công, thưa: "Bẩm đại quan, bọn tiểu nhân bị kết tội oan" Vu công nói: "Để rồi xem tụi bay có bị oan hay không?" Vu công liền sai lính lột quần áo chúng ra thì thấy mỗi kẻ đều mặc lót trong mình một bộ quần áo phụ nữ mới. Vu công bèn cho gọi Vệ thị lên coi. Vệ thị nhận đúng là quần áo của mình. Hai tên trộm hết đường chối cãi, đành phải nhận tội để khỏi bị tra tấn. Vu công bèn trao lại vụ án cho quan tể.
Nguyên hai tên trộm nghe có lệnh giới nghiêm khám nhà thì kinh hãi quá nên bàn nhau tìm cách chuyển hết quần áo ăn trộm được ra ngoài huyện thành. Thấy lính canh khám xét kỹ, chúng mới nghĩ ra cách mặc lót quần áo ăn trộm được vào người, rồi chân tay không mà ra vào cổng huyện nhiều lần để khỏi bị khám xét.
Dân chúng Cao Bưu cứ truyền tụng mãi về vụ án này.
QUAN TỂ ĐIỀU TRA CƯỚP
(truyện VU TRUNG THỪA NHỊ)
Chiết ngục vô quan duyệt lịch thâm
Chỉ tu đương cục khẳng lưu tâm
Tống nghênh thiếu phụ giai nam tử
Hà huống tần tham thủ nhập khâm
Đời Khang Hy, tỉnh Sơn Đông có quan trung thừa họ Vu, tên Thành Long.
Khi còn làm quan tể huyện Chuy Xuyên, một hôm Vu công dẫn tám thuộc hạ cưỡi ngựa sang huyện Tân Thành kế cận để thăm người bạn họ Khang đang làm quan tể tại đó. Khang công mời bạn cùng đám thuộc hạ vào khách xá tạm trú.
Một sáng, Vu công dẫn đám thuộc hạ cưỡi ngựa ra ngoài thành du ngoạn. Nhác thấy ở phía trước mặt có hai hán tử to lớn khiêng một chiếc cáng cùng bốn hán tử khác đi hộ tống ở hai bên, Vu công bèn dẫn đám thuộc hạ phóng ngựa tới gần để coi. Thấy trên cáng có một nữ bệnh nhân nằm nghiêng, tóc cài trâm phượng, thân đắp chăn lớn, còn bốn kẻ hộ tống thì cầm ghì bốn góc chăn, tựa hồ như sợ gió lọt vào mình bệnh nhân, Vu công sinh nghi. Để ý nhìn thì thấy thỉnh thoảng bốn kẻ hộ tống lại thò tay vào chăn như để tìm kiếm vật gì rồi cứ đi được một quãng, cả bọn lại dừng chân để đổi phiên khiêng.
Vu công dẫn đám thuộc hạ phóng ngựa vượt xa lên phía trước, sai hai người xuống ngựa, ngồi nghỉ ở bên đường để thám thính. Sau đó, Vu công dẫn đám thuộc hạ phóng ngựa đi xa thêm chừng ba dặm, sai hai người nữa xuống ngựa, bí mật theo rình xem bọn hán tử khiêng cáng tới đâu. Rồi Vu công dẫn đám thuộc hạ còn lại ra về.
Lát sau, khi bọn hán tử khiêng cáng tới, hai thuộc hạ thám thính chạy ra làm quen, hỏi:"Bệnh nhân nằm trên cáng là ai thế?" Một hán tử đáp:"Thị là em gái mỗ. Thị về thăm nhà rồi đột nhiên bị bạo bệnh khiến mỗ phải nhờ nhóm bằng hữu đây khiêng trả về nhà chồng" Cả bọn lại tiếp tục khiêng cáng đi. Hai thuộc hạ có nhiệm vụ theo rình thấy cả bọn khiêng cáng tới một căn nhà ở xóm Thanh Bình, rồi thấy hai hán tử khác từ trong nhà bước ra, đón cả bọn vào nhà. Bọn thuộc hạ quay về khách xá trình Vu công mọi chuyện. Vu công hỏi:"Các ngươi có thấy ai ở trong nhà chạy ra săn sóc bệnh nhân không?" Cả bọn cùng đáp:"Bẩm đại quan, không!"
Vu công vội đi tìm Khang công. Gặp bạn, Vu công hỏi:"Đêm qua, trong huyện của tôn huynh có vụ cướp của giết người nào không?" Khang công đáp:"Đệ chẳng thấy ai báo cáo chi cả!" Vu công bèn trở về khách xá, mật sai thuộc hạ đi nghe ngóng tin tức ở trong huyện. Lát sau, thuộc hạ về báo:"Bẩm đại quan, trong huyện có tin đồn đêm qua có một bọn cướp xông vào nhà phú ông họ Phùng, lấy que sắt nung đỏ dí vào người Phùng ông để khảo của, làm Phùng ông bị chết bỏng. Bọn chúng đã vơ vét hết vàng bạc trong nhà tải đi" Vu công bèn sai thuộc hạ tìm tới nhà Phùng ông, gọi một thân nhân vào khách xá để hỏi chuyện. Con trai Phùng ông là Phùng Khải xin theo vào.
Thời bấy giờ, triều đình ra nghiêm lệnh xử tử các kẻ cướp của giết người nên khi bọn cướp đã nghi ngờ ai đi báo quan thì chúng sẽ tìm cách sát hại để diệt khẩu. Do đó, gia đình nạn nhân dù có biết rõ danh tánh bọn cướp cũng phải làm ngơ, chẳng dám đi cáo giác vì sợ bị bọn chúng sát hại.
Phùng Khải tới. Vu công hỏi:"Có phải đêm qua phụ thân khổ chủ bị cướp vào nhà sát hại không?" Phùng Khải chối:"Bẩm đại quan, không. Đêm qua tự nhiên gia phụ bị bạo bệnh mà mất, chứ nhà tiểu nhân có bị cướp bóc chi đâu?" Vu công cười, nói:"Ta đã bắt được cả bọn cướp ấy giùm quan tể ở đây rồi, khổ chủ chẳng còn phải sợ bọn chúng trả thù nữa!" Lúc đó Phùng Khải mới rập đầu lạy Vu công, nói:"Bẩm đại quan, quả thực đêm qua gia phụ bị cướp xông vào nhà sát hại. Tiểu nhân cúi xin đại quan rửa hận cho!" Vu công vỗ về an ủi:"Cứ về nhà, im lặng mà chờ coi ta rửa hận cho!" Rồi tin Phùng Khải ra cửa.
Phùng Khải về rồi, Vu công tức tốc đi tìm Khang công, nói:"Đêm qua trong huyện của tôn huynh có xảy ra một vụ cướp của giết người. Đệ đã điều tra được manh mối và biết rõ chỗ ở của tám tên cướp. Xin tôn huynh hãy ra lệnh cho quân sĩ tới vây bắt chúng ngay kẻo chúng trốn mất!" Rồi nói rõ căn nhà ở xóm Thanh Bình cho Khang công hay.
Khang công vội làm theo lời bạn khuyên. Quân sĩ của huyện kéo ập tới căn nhà, bắt trói đủ tám tên, tịch thu tang vật, giải về huyện đường. Khang công liền ra lệnh dùng cực hình tra tấn. Cả bọn cùng nhận tội. Khang công bèn sai lính giải bọn chúng vào công đường, hỏi: "Bệnh nhân nằm trên cáng là ai?" Tên đầu sỏ đáp:"Bẩm đại quan, thị là một kỹ nữ" Hỏi:"Sao lại có kỹ nữ trong bọn chúng bay?" Đáp:"Vì tối qua bọn tiểu nhân tới kỹ viện mua vui rồi rủ thị theo tới nhà Phùng ông. Bọn tiểu nhân cướp được vàng để trên cáng, bảo thị giả làm người bệnh, nằm ôm đống vàng để bọn tiểu nhân khiêng về sào huyệt" Hỏi: "Chúng bay chia chác với nhau như thế nào?" Đáp:"Bọn tiểu nhân chia đều làm chín phần, mỗi người một phần" Khang công bèn cho lính đi bắt kỹ nữ. Thấy bọn cướp đã nhận tội cả, kỹ nữ cũng nhận tội ngay để khỏi bị tra tấn. Khang công bèn chiếu theo nghiêm lệnh triều đình, xử tử cả chín tên. Khang công lại cho gọi Phùng Khải tới, trả lại tất cả số vàng của Phùng ông mà quân sĩ đã tịch thu được.
Sau vụ bắt cướp này, dân chúng huyện Tân Thành rất khâm phục tài điều tra của
Vu công.
Có vị bô lão trong huyện tới xin yết kiến, hỏi:"Tại sao đại quan lại biết rằng bọn khiêng cáng là một bọn cướp?" Vu công cười, đáp:"Vì ba lý do sau: Thứ nhất là một phụ nữ thì đâu có nặng gì mà lại có tới ba cặp hán tử thay phiên nhau khiêng? Thứ nhì là bệnh nhân nằm trên cáng là phụ nữ thì tại sao thỉnh thoảng bốn tên đi hộ tống lại cứ thò tay vào chăn để làm gì? Thứ ba là bệnh nhân bị bệnh nặng đến độ phải có hai tên khiêng và bốn tên hộ tống thì khi về tới nhà, thân nhân phải ùa ra săn sóc chứ đâu lại hững hờ như thế? Bất cứ ai tinh ý và chịu khó suy nghĩ một chút thì cũng có thể đoán ngay rằng chúng là một bọn cướp!".
Chiết ngục vô quan duyệt lịch thâm
Chỉ tu đương cục khẳng lưu tâm
Tống nghênh thiếu phụ giai nam tử
Hà huống tần tham thủ nhập khâm
Đời Khang Hy, tỉnh Sơn Đông có quan trung thừa họ Vu, tên Thành Long.
Khi còn làm quan tể huyện Chuy Xuyên, một hôm Vu công dẫn tám thuộc hạ cưỡi ngựa sang huyện Tân Thành kế cận để thăm người bạn họ Khang đang làm quan tể tại đó. Khang công mời bạn cùng đám thuộc hạ vào khách xá tạm trú.
Một sáng, Vu công dẫn đám thuộc hạ cưỡi ngựa ra ngoài thành du ngoạn. Nhác thấy ở phía trước mặt có hai hán tử to lớn khiêng một chiếc cáng cùng bốn hán tử khác đi hộ tống ở hai bên, Vu công bèn dẫn đám thuộc hạ phóng ngựa tới gần để coi. Thấy trên cáng có một nữ bệnh nhân nằm nghiêng, tóc cài trâm phượng, thân đắp chăn lớn, còn bốn kẻ hộ tống thì cầm ghì bốn góc chăn, tựa hồ như sợ gió lọt vào mình bệnh nhân, Vu công sinh nghi. Để ý nhìn thì thấy thỉnh thoảng bốn kẻ hộ tống lại thò tay vào chăn như để tìm kiếm vật gì rồi cứ đi được một quãng, cả bọn lại dừng chân để đổi phiên khiêng.
Vu công dẫn đám thuộc hạ phóng ngựa vượt xa lên phía trước, sai hai người xuống ngựa, ngồi nghỉ ở bên đường để thám thính. Sau đó, Vu công dẫn đám thuộc hạ phóng ngựa đi xa thêm chừng ba dặm, sai hai người nữa xuống ngựa, bí mật theo rình xem bọn hán tử khiêng cáng tới đâu. Rồi Vu công dẫn đám thuộc hạ còn lại ra về.
Lát sau, khi bọn hán tử khiêng cáng tới, hai thuộc hạ thám thính chạy ra làm quen, hỏi:"Bệnh nhân nằm trên cáng là ai thế?" Một hán tử đáp:"Thị là em gái mỗ. Thị về thăm nhà rồi đột nhiên bị bạo bệnh khiến mỗ phải nhờ nhóm bằng hữu đây khiêng trả về nhà chồng" Cả bọn lại tiếp tục khiêng cáng đi. Hai thuộc hạ có nhiệm vụ theo rình thấy cả bọn khiêng cáng tới một căn nhà ở xóm Thanh Bình, rồi thấy hai hán tử khác từ trong nhà bước ra, đón cả bọn vào nhà. Bọn thuộc hạ quay về khách xá trình Vu công mọi chuyện. Vu công hỏi:"Các ngươi có thấy ai ở trong nhà chạy ra săn sóc bệnh nhân không?" Cả bọn cùng đáp:"Bẩm đại quan, không!"
Vu công vội đi tìm Khang công. Gặp bạn, Vu công hỏi:"Đêm qua, trong huyện của tôn huynh có vụ cướp của giết người nào không?" Khang công đáp:"Đệ chẳng thấy ai báo cáo chi cả!" Vu công bèn trở về khách xá, mật sai thuộc hạ đi nghe ngóng tin tức ở trong huyện. Lát sau, thuộc hạ về báo:"Bẩm đại quan, trong huyện có tin đồn đêm qua có một bọn cướp xông vào nhà phú ông họ Phùng, lấy que sắt nung đỏ dí vào người Phùng ông để khảo của, làm Phùng ông bị chết bỏng. Bọn chúng đã vơ vét hết vàng bạc trong nhà tải đi" Vu công bèn sai thuộc hạ tìm tới nhà Phùng ông, gọi một thân nhân vào khách xá để hỏi chuyện. Con trai Phùng ông là Phùng Khải xin theo vào.
Thời bấy giờ, triều đình ra nghiêm lệnh xử tử các kẻ cướp của giết người nên khi bọn cướp đã nghi ngờ ai đi báo quan thì chúng sẽ tìm cách sát hại để diệt khẩu. Do đó, gia đình nạn nhân dù có biết rõ danh tánh bọn cướp cũng phải làm ngơ, chẳng dám đi cáo giác vì sợ bị bọn chúng sát hại.
Phùng Khải tới. Vu công hỏi:"Có phải đêm qua phụ thân khổ chủ bị cướp vào nhà sát hại không?" Phùng Khải chối:"Bẩm đại quan, không. Đêm qua tự nhiên gia phụ bị bạo bệnh mà mất, chứ nhà tiểu nhân có bị cướp bóc chi đâu?" Vu công cười, nói:"Ta đã bắt được cả bọn cướp ấy giùm quan tể ở đây rồi, khổ chủ chẳng còn phải sợ bọn chúng trả thù nữa!" Lúc đó Phùng Khải mới rập đầu lạy Vu công, nói:"Bẩm đại quan, quả thực đêm qua gia phụ bị cướp xông vào nhà sát hại. Tiểu nhân cúi xin đại quan rửa hận cho!" Vu công vỗ về an ủi:"Cứ về nhà, im lặng mà chờ coi ta rửa hận cho!" Rồi tin Phùng Khải ra cửa.
Phùng Khải về rồi, Vu công tức tốc đi tìm Khang công, nói:"Đêm qua trong huyện của tôn huynh có xảy ra một vụ cướp của giết người. Đệ đã điều tra được manh mối và biết rõ chỗ ở của tám tên cướp. Xin tôn huynh hãy ra lệnh cho quân sĩ tới vây bắt chúng ngay kẻo chúng trốn mất!" Rồi nói rõ căn nhà ở xóm Thanh Bình cho Khang công hay.
Khang công vội làm theo lời bạn khuyên. Quân sĩ của huyện kéo ập tới căn nhà, bắt trói đủ tám tên, tịch thu tang vật, giải về huyện đường. Khang công liền ra lệnh dùng cực hình tra tấn. Cả bọn cùng nhận tội. Khang công bèn sai lính giải bọn chúng vào công đường, hỏi: "Bệnh nhân nằm trên cáng là ai?" Tên đầu sỏ đáp:"Bẩm đại quan, thị là một kỹ nữ" Hỏi:"Sao lại có kỹ nữ trong bọn chúng bay?" Đáp:"Vì tối qua bọn tiểu nhân tới kỹ viện mua vui rồi rủ thị theo tới nhà Phùng ông. Bọn tiểu nhân cướp được vàng để trên cáng, bảo thị giả làm người bệnh, nằm ôm đống vàng để bọn tiểu nhân khiêng về sào huyệt" Hỏi: "Chúng bay chia chác với nhau như thế nào?" Đáp:"Bọn tiểu nhân chia đều làm chín phần, mỗi người một phần" Khang công bèn cho lính đi bắt kỹ nữ. Thấy bọn cướp đã nhận tội cả, kỹ nữ cũng nhận tội ngay để khỏi bị tra tấn. Khang công bèn chiếu theo nghiêm lệnh triều đình, xử tử cả chín tên. Khang công lại cho gọi Phùng Khải tới, trả lại tất cả số vàng của Phùng ông mà quân sĩ đã tịch thu được.
Có vị bô lão trong huyện tới xin yết kiến, hỏi:"Tại sao đại quan lại biết rằng bọn khiêng cáng là một bọn cướp?" Vu công cười, đáp:"Vì ba lý do sau: Thứ nhất là một phụ nữ thì đâu có nặng gì mà lại có tới ba cặp hán tử thay phiên nhau khiêng? Thứ nhì là bệnh nhân nằm trên cáng là phụ nữ thì tại sao thỉnh thoảng bốn tên đi hộ tống lại cứ thò tay vào chăn để làm gì? Thứ ba là bệnh nhân bị bệnh nặng đến độ phải có hai tên khiêng và bốn tên hộ tống thì khi về tới nhà, thân nhân phải ùa ra săn sóc chứ đâu lại hững hờ như thế? Bất cứ ai tinh ý và chịu khó suy nghĩ một chút thì cũng có thể đoán ngay rằng chúng là một bọn cướp!".
ĐẠO SĨ NUÔI RẮN
(truyện HOẠN XÀ)
Sơn kính hoang lương cổ tự chung
Dạ lan bãi liệp ngẫu tương phùng
Đạo nhân độc hữu tuần xà thuật
Hà tự an thiền chế độc long
Trên đỉnh núi Từ Sơn, huyện Tứ Thủy, tỉnh Sơn Đông, có ngôi chùa đổ nát, đứng trơ trọi giữa rừng cây, chung quanh chẳng có thôn xóm cư dân nào. Thấy chùa không có thiền sư trụ trì, một đạo sĩ bèn dọn tới cư ngụ. Nghe đồn chùa có nhiều rắn, du khách đều tránh xa, ít ai dám tới thăm.
Trong huyện, có thiếu niên họ Đào, tên Quang Thụy, chuyên nghề lưới chim.
Một hôm, Quang Thụy lên núi giăng lưới bắt chim. Mải mê giăng lưới, quên cả thì giờ nên khi trời tối chẳng kịp về nhà. Thấy ngôi chùa, Quang Thụy vội vác tấm lưới và lồng chim chạy vào chùa để xin ngủ nhờ qua đêm. Thấy khách lạ vào chùa, đạo sĩ kinh ngạc, hỏi: "Sao cư sĩ lại dám lần mò vào đây? May mà không bị tụi nhỏ của bần đạo nhìn thấy" Quang Thụy đáp: "Mải mê giăng lưới bắt chim, quên cả trời tối, xin đạo sĩ cho ngủ nhờ qua đêm" Đạo sĩ gật đầu rồi hỏi: "Cư sĩ có đói không?" Quang Thụy đáp: "Thưa có!"
Đạo sĩ bèn bảo khách ngồi chơi, rồi xuống bếp lấy cháo lên cho ăn.
Đang ăn, bỗng Quang Thụy thấy một rắn lớn bò vào phòng, thân to bằng cột nhà, ngửng đầu nhìn mình, mắt lộ hung quang, lưỡi thè ra thụt vào nhanh như điện chớp. Quang Thụy kinh hãi quá, vội buông bát, đứng bật dậy. Đạo sĩ liền tới vỗ vào trán rắn, quát: "Cút!" Rắn liền cúi đầu bò ngoằn ngoèo sang phòng bên. Vì thân rắn dài, rắn phải bò một lúc lâu mới sang hẳn được, rồi cuộn tròn như mâm mà nằm. Đạo sĩ bước tới mở toang hai cánh cửa cho Quang Thụy coi. Thấy rắn lớn rắn nhỏ nằm đầy phòng, Quang Thụy kinh hãi quá, bủn rủn cả chân tay. Đạo sĩ nói: "Đàn rắn này là của bần đạo nuôi dạy. Có mặt bần đạo thì chẳng sao, chứ vắng mặt bần đạo thì nguy hiểm lắm!" Đạo sĩ đóng cửa rồi bảo khách ngồi xuống ăn cho xong bữa. Vừa ngồi xuống, Quang Thụy lại thấy một rắn khác bò vào. Tuy nhỏ hơn rắn trước song mắt rắn cũng lộ hung quang, lưỡi cũng thè ra thụt vào nhanh như điện chớp. Đạo sĩ lại tới vỗ vào trán rắn, quát: "Cút!" Rắn cũng bò sang phòng bên, song vì căn phòng đã đầy rắn nên rắn phải leo lên xà nhà mà nằm làm cho đất trên vách rơi lả tả.
Chờ cho Quang Thụy ăn xong, đạo sĩ mới dắt vào phòng ngủ, cho nằm ở giường bên. Vì kinh hãi, Quang Thụy thức trắng đêm, chẳng sao ngủ được. Sáng sau, Quang Thụy dậy sớm, xin cáo biệt. Đạo sĩ bèn tin ra về.
Vừa vác tấm lưới và lồng chim ra khỏi chùa, Quang Thụy đã thấy rắn lớn rắn nhỏ nằm la liệt ở hai bên đường. Thấy người lạ, đàn rắn ngửng đầu lên, toan xông tới cắn, song khi nhìn thấy đạo sĩ thì chúng lại cúi đầu, nằm bất động. Quang Thụy kinh hãi quá, cứ níu chặt lấy đạo sĩ mà đi. Đạo sĩ bèn tiển Quang Thụy ra khỏi khu rừng rồi mới quay trở vào chùa.
Sơn kính hoang lương cổ tự chung
Dạ lan bãi liệp ngẫu tương phùng
Đạo nhân độc hữu tuần xà thuật
Hà tự an thiền chế độc long
Trên đỉnh núi Từ Sơn, huyện Tứ Thủy, tỉnh Sơn Đông, có ngôi chùa đổ nát, đứng trơ trọi giữa rừng cây, chung quanh chẳng có thôn xóm cư dân nào. Thấy chùa không có thiền sư trụ trì, một đạo sĩ bèn dọn tới cư ngụ. Nghe đồn chùa có nhiều rắn, du khách đều tránh xa, ít ai dám tới thăm.
Trong huyện, có thiếu niên họ Đào, tên Quang Thụy, chuyên nghề lưới chim.
Một hôm, Quang Thụy lên núi giăng lưới bắt chim. Mải mê giăng lưới, quên cả thì giờ nên khi trời tối chẳng kịp về nhà. Thấy ngôi chùa, Quang Thụy vội vác tấm lưới và lồng chim chạy vào chùa để xin ngủ nhờ qua đêm. Thấy khách lạ vào chùa, đạo sĩ kinh ngạc, hỏi: "Sao cư sĩ lại dám lần mò vào đây? May mà không bị tụi nhỏ của bần đạo nhìn thấy" Quang Thụy đáp: "Mải mê giăng lưới bắt chim, quên cả trời tối, xin đạo sĩ cho ngủ nhờ qua đêm" Đạo sĩ gật đầu rồi hỏi: "Cư sĩ có đói không?" Quang Thụy đáp: "Thưa có!"
Đạo sĩ bèn bảo khách ngồi chơi, rồi xuống bếp lấy cháo lên cho ăn.
Đang ăn, bỗng Quang Thụy thấy một rắn lớn bò vào phòng, thân to bằng cột nhà, ngửng đầu nhìn mình, mắt lộ hung quang, lưỡi thè ra thụt vào nhanh như điện chớp. Quang Thụy kinh hãi quá, vội buông bát, đứng bật dậy. Đạo sĩ liền tới vỗ vào trán rắn, quát: "Cút!" Rắn liền cúi đầu bò ngoằn ngoèo sang phòng bên. Vì thân rắn dài, rắn phải bò một lúc lâu mới sang hẳn được, rồi cuộn tròn như mâm mà nằm. Đạo sĩ bước tới mở toang hai cánh cửa cho Quang Thụy coi. Thấy rắn lớn rắn nhỏ nằm đầy phòng, Quang Thụy kinh hãi quá, bủn rủn cả chân tay. Đạo sĩ nói: "Đàn rắn này là của bần đạo nuôi dạy. Có mặt bần đạo thì chẳng sao, chứ vắng mặt bần đạo thì nguy hiểm lắm!" Đạo sĩ đóng cửa rồi bảo khách ngồi xuống ăn cho xong bữa. Vừa ngồi xuống, Quang Thụy lại thấy một rắn khác bò vào. Tuy nhỏ hơn rắn trước song mắt rắn cũng lộ hung quang, lưỡi cũng thè ra thụt vào nhanh như điện chớp. Đạo sĩ lại tới vỗ vào trán rắn, quát: "Cút!" Rắn cũng bò sang phòng bên, song vì căn phòng đã đầy rắn nên rắn phải leo lên xà nhà mà nằm làm cho đất trên vách rơi lả tả.
Chờ cho Quang Thụy ăn xong, đạo sĩ mới dắt vào phòng ngủ, cho nằm ở giường bên. Vì kinh hãi, Quang Thụy thức trắng đêm, chẳng sao ngủ được. Sáng sau, Quang Thụy dậy sớm, xin cáo biệt. Đạo sĩ bèn tin ra về.
Vừa vác tấm lưới và lồng chim ra khỏi chùa, Quang Thụy đã thấy rắn lớn rắn nhỏ nằm la liệt ở hai bên đường. Thấy người lạ, đàn rắn ngửng đầu lên, toan xông tới cắn, song khi nhìn thấy đạo sĩ thì chúng lại cúi đầu, nằm bất động. Quang Thụy kinh hãi quá, cứ níu chặt lấy đạo sĩ mà đi. Đạo sĩ bèn tiển Quang Thụy ra khỏi khu rừng rồi mới quay trở vào chùa.
THUỐC CƯỜNG DƯƠNG
(truyện DƯỢC TĂNG)
Phòng trung đan dược diệc kỳ tai
Bộ lý bàn san chuyển khả ai
Ngã hữu cuồng nhân cung nhất hước
Bất như thả tác tự nhân lai
Huyện Tế Ninh, tỉnh Sơn Đông, có thanh niên họ Quản, tên Dưỡng, thường đi tắm sông chung với bạn bè. Vì dương vật ngắn, nhỏ, thường bị bạn bè chế diu nên Quản Dưỡng bực tức lắm.
Một hôm trời nắng, Quản Dưỡng lên núi chơi. Qua cổng sơn tự, Quản Dưỡng thấy một thiền sư đang ngồi trên chiếu, cởi áo cà sa, soi nắng bắt rận, cạnh một đòn gánh với hai quả bầu, trông tựa đồ nghề của kẻ bán thuốc dạo. Quản Dưỡng liền tới gần, hỏi đùa xấc xược: "Bán thuốc đấy ư? Có bán thuốc cường dương không?" Nói xong mới chột dạ, nghĩ chắc thế nào thiền sư cũng nổi giận. Thế nhưng chỉ thấy thiền sư mỉm cười, đáp:"Có! Thuốc cường dương của bần tăng mạnh lắm. Liệt dương mà nuốt thì cường dương ngay. Dương vật ngắn, nhỏ, mà nuốt thì lớn, dài ngay. Công hiệu nội trong nửa giờ, chẳng cần phải chờ lâu như các thuốc khác. Chỉ cho làm phước chứ không bán! Thí chủ cần thuốc ấy phải không?" Nghe thấy thế, Quản Dưỡng mừng lắm, vội gật đầu, nói:"Vậy thì hoà thượng hãy cho một viên đi!" Thiền sư liền ngưng bắt rận, mở bầu lấy túi, mở túi lấy thuốc, nhỏ bằng hạt gạo, đưa cho mà nói:"Nuốt ngay đi!" Quản Dưỡng liền nuốt. Nửa giờ sau, thò tay vào quần thì thấy quả nhiên dương vật đã lớn, dài gấp ba. Tuy mừng lắm song vẫn chưa thực hài lòng nên chưa chịu đi, cứ đứng lại nói ba hoa với thiền sư để chờ dịp xin thêm vài viên nữa.
Lát sau, thiền sư bỏ áo cà sa xuống chiếu, vào chùa đi tiểu. Chờ cho thiền sư đi khuất, Quản Dưỡng vội mở bầu lục lọi, lấy trộm được ba viên, bỏ vào miệng nuốt chửng. Nửa giờ sau, thấy trong người bứt rứt, da thịt muốn nứt, gân cốt muốn co. Rồi đột nhiên, cổ rụt lại, bụng phình ra, dương vật cứ lớn dài thêm. Quản Dưỡng kinh hoàng tột độ, chẳng biết phải làm thế nào.
Lát sau, thiền sư từ trong chùa đi ra. Thấy cảnh tượng ấy, thiền sư kinh hãi, chạy tới hỏi:"Vừa lấy trộm thuốc để nuốt thêm phải không?" Quản Dưỡng gật đầu. Thiền sư vội mở bầu kia, lấy thuốc khác, đưa cho, nói: "Nuốt ngay đi!" Liền nuốt. Nửa giờ sau, thấy dễ chịu, dương vật thôi chẳng lớn dài thêm nữa, song cổ đã rụt, bụng đã phình, dương vật đã dài quá độ, trông tựa người ba chân. Thiền sư lắc đầu, thở dài, nói:"Thuốc sau chỉ có thể làm ngưng được biến đổi trong người chứ chẳng thể chữa được hiệu quả của thuốc trước!" Đành chịu cổ rụt, bụng phình, dương vật dài, thất thểu bước về nhà.
Cha mẹ trông thấy, hỏi nguyên do. Quản Dưỡng quyết tâm giấu, chẳng chịu nói. Từ đó, trở thành phế nhân, chẳng sao xin được việc làm.
Năm sau, cha mẹ cùng qua đời. Mấy tháng sau, tiêu hết chút di sản của cha mẹ, Quản Dưỡng vẫn chưa xin được việc làm nên phải ra chợ ngồi ăn xin. Ai đi qua cũng nhìn thấy dương vật Quản Dưỡng quá lớn, quá dài, lộ cả ra ngoài quần.
Phòng trung đan dược diệc kỳ tai
Bộ lý bàn san chuyển khả ai
Ngã hữu cuồng nhân cung nhất hước
Bất như thả tác tự nhân lai
Huyện Tế Ninh, tỉnh Sơn Đông, có thanh niên họ Quản, tên Dưỡng, thường đi tắm sông chung với bạn bè. Vì dương vật ngắn, nhỏ, thường bị bạn bè chế diu nên Quản Dưỡng bực tức lắm.
Một hôm trời nắng, Quản Dưỡng lên núi chơi. Qua cổng sơn tự, Quản Dưỡng thấy một thiền sư đang ngồi trên chiếu, cởi áo cà sa, soi nắng bắt rận, cạnh một đòn gánh với hai quả bầu, trông tựa đồ nghề của kẻ bán thuốc dạo. Quản Dưỡng liền tới gần, hỏi đùa xấc xược: "Bán thuốc đấy ư? Có bán thuốc cường dương không?" Nói xong mới chột dạ, nghĩ chắc thế nào thiền sư cũng nổi giận. Thế nhưng chỉ thấy thiền sư mỉm cười, đáp:"Có! Thuốc cường dương của bần tăng mạnh lắm. Liệt dương mà nuốt thì cường dương ngay. Dương vật ngắn, nhỏ, mà nuốt thì lớn, dài ngay. Công hiệu nội trong nửa giờ, chẳng cần phải chờ lâu như các thuốc khác. Chỉ cho làm phước chứ không bán! Thí chủ cần thuốc ấy phải không?" Nghe thấy thế, Quản Dưỡng mừng lắm, vội gật đầu, nói:"Vậy thì hoà thượng hãy cho một viên đi!" Thiền sư liền ngưng bắt rận, mở bầu lấy túi, mở túi lấy thuốc, nhỏ bằng hạt gạo, đưa cho mà nói:"Nuốt ngay đi!" Quản Dưỡng liền nuốt. Nửa giờ sau, thò tay vào quần thì thấy quả nhiên dương vật đã lớn, dài gấp ba. Tuy mừng lắm song vẫn chưa thực hài lòng nên chưa chịu đi, cứ đứng lại nói ba hoa với thiền sư để chờ dịp xin thêm vài viên nữa.
Lát sau, thiền sư bỏ áo cà sa xuống chiếu, vào chùa đi tiểu. Chờ cho thiền sư đi khuất, Quản Dưỡng vội mở bầu lục lọi, lấy trộm được ba viên, bỏ vào miệng nuốt chửng. Nửa giờ sau, thấy trong người bứt rứt, da thịt muốn nứt, gân cốt muốn co. Rồi đột nhiên, cổ rụt lại, bụng phình ra, dương vật cứ lớn dài thêm. Quản Dưỡng kinh hoàng tột độ, chẳng biết phải làm thế nào.
Lát sau, thiền sư từ trong chùa đi ra. Thấy cảnh tượng ấy, thiền sư kinh hãi, chạy tới hỏi:"Vừa lấy trộm thuốc để nuốt thêm phải không?" Quản Dưỡng gật đầu. Thiền sư vội mở bầu kia, lấy thuốc khác, đưa cho, nói: "Nuốt ngay đi!" Liền nuốt. Nửa giờ sau, thấy dễ chịu, dương vật thôi chẳng lớn dài thêm nữa, song cổ đã rụt, bụng đã phình, dương vật đã dài quá độ, trông tựa người ba chân. Thiền sư lắc đầu, thở dài, nói:"Thuốc sau chỉ có thể làm ngưng được biến đổi trong người chứ chẳng thể chữa được hiệu quả của thuốc trước!" Đành chịu cổ rụt, bụng phình, dương vật dài, thất thểu bước về nhà.
Cha mẹ trông thấy, hỏi nguyên do. Quản Dưỡng quyết tâm giấu, chẳng chịu nói. Từ đó, trở thành phế nhân, chẳng sao xin được việc làm.
Năm sau, cha mẹ cùng qua đời. Mấy tháng sau, tiêu hết chút di sản của cha mẹ, Quản Dưỡng vẫn chưa xin được việc làm nên phải ra chợ ngồi ăn xin. Ai đi qua cũng nhìn thấy dương vật Quản Dưỡng quá lớn, quá dài, lộ cả ra ngoài quần.
GIẾT SÓI, BÁO THÙ CHA
(truyện VU GIANG)
Phụ cừu hà cảm phiến thời vong
Cánh sát sơn trung bạch tị lang
Tự hữu hiếu tâm thông mộng ngữ
Bàng nhân hưu nhận mãng nhi lang
Huyện Chuy, tỉnh Sơn Đông, có cặp vợ chồng nhà nông họ Vu, có một trai tên Giang, 16 tuổi. Trong nhà, Vu ông có cất giấu một chùy sắt để đề phòng trộm cướp.
Một đêm, Vu ông ra đồng ngủ coi lúa. Nửa đêm, bị sói tới cắn chết, ăn thịt. Sáng sau, thấy người làng tới báo tin, Vu bà lăn ra gào khóc. Vu Giang vội chạy ra đồng tìm xác cha song chỉ thấy còn lại có đôi giày. Vu Giang đau khổ lắm, rất căm thù sói.
Tối ấy, Vu bà mệt quá, ngủ thiếp đi. Vu Giang bèn lấy chăn đắp cho mẹ, rồi lén lấy chùy sắt của cha, ôm chạy ra đồng. Tới đúng chỗ cha thường nằm, Vu Giang ngả lưng giả vờ ngủ, mong sói đêm qua lại tới để mình có dịp báo thù. Lát sau, quả nhiên có một sói bước tới, đi vòng quanh người, đánh hơi. Vu Giang nằm bất động. Sói lấy đuôi quét thử lên trán để thăm dò. Vu Giang vẫn nằm bất động. Sói lại lấy lưỡi liếm thử vào đùi. Vu Giang vẫn nằm bất động. Sói mừng lắm, nhảy bổ vào người, nhe răng toan cắn thì bị Vu Giang vùng dậy, vung chùy bổ trúng sọ, óc phọt ra ngoài. Sói lăn ra chết. Vu Giang bèn kéo xác ra bỏ giữa cánh đồng rồi lại trở về nằm ở chỗ cũ. Lát sau, một sói khác cũng tới đánh hơi như sói trước. Vu Giang lại giết được sói, kéo xác ra đặt nằm song song với xác sói trước, rồi lại trở về nằm ở chỗ cũ. Lần này, chẳng thấy sói nào tới nữa. Quá nửa đêm, Vu Giang mệt quá, ngủ thiếp đi. Chợt mộng thấy cha về, nói:"Con giết được hai sói để báo thù cho cha thì cha cũng đã hả giận rồi. Thế nhưng, sói ăn thịt cha chẳng phải là hai sói này. Nó là một sói khác, có cái mũi trắng!" Tỉnh giấc, Vu Giang lấy làm lạ, cứ cố nằm chờ sói mũi trắng song chờ tới sáng cũng chẳng thấy sói nào. Toan kéo hai xác sói về nhà song lại e mẹ bị kinh hãi nên đổi ý, kéo tới giếng hoang gần đó mà ném xuống, rồi ôm chùy về nhà.
Liền bốn tối sau đó, Vu Giang đều ôm chùy ra đồng giả vờ ngủ song chẳng đêm nào thấy sói tới.
Tối thứ năm, vừa ôm chùy ra đồng giả vờ ngủ, bỗng thấy một sói tới ngoạm chân mình kéo đi, Vu Giang cứ nằm ôm chùy, mặc cho sói kéo. Bị gai đâm, đá chọc, đau thấu tâm can, Vu Giang vẫn cắn răng chịu đựng, giả vờ như chết. Sói kéo Vu Giang tới chỗ đất bằng phẳng, nhả ra rồi bước vòng quanh người để thăm dò. Thấy Vu Giang nằm bất động, đột nhiên sói nhe răng nhảy vào, toan cắn cổ ăn thịt. Nhanh như cắt, Vu Giang vụt đứng dậy, vung chùy bổ trúng sọ sói rồi tiếp tục bổ túi bụi cho óc sói phọt ra ngoài. Chân sói dãy giựt hồi lâu rồi duỗi thẳng. Lật xác sói ra coi, Vu Giang thấy sói có cái mũi trắng. Mừng quá, Vu Giang vội vác xác sói về nhà, thuật chuyện cha về báo mộng và chuyện mình giết được ba sói cho mẹ nghe. Vu bà ôm đầu con mà khóc.
Chờ mẹ dịu cơn đau khổ, Vu Giang mới dắt mẹ ra giếng ngoài đồng, chỉ cho mẹ coi hai xác sói mình đã ném xuống từ năm hôm trước. Hai mẹ con thấy hai xác sói vẫn còn nguyên dưới giếng, song thịt đã rữa, ruồi nhặng đang bâu kín.
Phụ cừu hà cảm phiến thời vong
Cánh sát sơn trung bạch tị lang
Tự hữu hiếu tâm thông mộng ngữ
Bàng nhân hưu nhận mãng nhi lang
Huyện Chuy, tỉnh Sơn Đông, có cặp vợ chồng nhà nông họ Vu, có một trai tên Giang, 16 tuổi. Trong nhà, Vu ông có cất giấu một chùy sắt để đề phòng trộm cướp.
Một đêm, Vu ông ra đồng ngủ coi lúa. Nửa đêm, bị sói tới cắn chết, ăn thịt. Sáng sau, thấy người làng tới báo tin, Vu bà lăn ra gào khóc. Vu Giang vội chạy ra đồng tìm xác cha song chỉ thấy còn lại có đôi giày. Vu Giang đau khổ lắm, rất căm thù sói.
Tối ấy, Vu bà mệt quá, ngủ thiếp đi. Vu Giang bèn lấy chăn đắp cho mẹ, rồi lén lấy chùy sắt của cha, ôm chạy ra đồng. Tới đúng chỗ cha thường nằm, Vu Giang ngả lưng giả vờ ngủ, mong sói đêm qua lại tới để mình có dịp báo thù. Lát sau, quả nhiên có một sói bước tới, đi vòng quanh người, đánh hơi. Vu Giang nằm bất động. Sói lấy đuôi quét thử lên trán để thăm dò. Vu Giang vẫn nằm bất động. Sói lại lấy lưỡi liếm thử vào đùi. Vu Giang vẫn nằm bất động. Sói mừng lắm, nhảy bổ vào người, nhe răng toan cắn thì bị Vu Giang vùng dậy, vung chùy bổ trúng sọ, óc phọt ra ngoài. Sói lăn ra chết. Vu Giang bèn kéo xác ra bỏ giữa cánh đồng rồi lại trở về nằm ở chỗ cũ. Lát sau, một sói khác cũng tới đánh hơi như sói trước. Vu Giang lại giết được sói, kéo xác ra đặt nằm song song với xác sói trước, rồi lại trở về nằm ở chỗ cũ. Lần này, chẳng thấy sói nào tới nữa. Quá nửa đêm, Vu Giang mệt quá, ngủ thiếp đi. Chợt mộng thấy cha về, nói:"Con giết được hai sói để báo thù cho cha thì cha cũng đã hả giận rồi. Thế nhưng, sói ăn thịt cha chẳng phải là hai sói này. Nó là một sói khác, có cái mũi trắng!" Tỉnh giấc, Vu Giang lấy làm lạ, cứ cố nằm chờ sói mũi trắng song chờ tới sáng cũng chẳng thấy sói nào. Toan kéo hai xác sói về nhà song lại e mẹ bị kinh hãi nên đổi ý, kéo tới giếng hoang gần đó mà ném xuống, rồi ôm chùy về nhà.
Liền bốn tối sau đó, Vu Giang đều ôm chùy ra đồng giả vờ ngủ song chẳng đêm nào thấy sói tới.
Tối thứ năm, vừa ôm chùy ra đồng giả vờ ngủ, bỗng thấy một sói tới ngoạm chân mình kéo đi, Vu Giang cứ nằm ôm chùy, mặc cho sói kéo. Bị gai đâm, đá chọc, đau thấu tâm can, Vu Giang vẫn cắn răng chịu đựng, giả vờ như chết. Sói kéo Vu Giang tới chỗ đất bằng phẳng, nhả ra rồi bước vòng quanh người để thăm dò. Thấy Vu Giang nằm bất động, đột nhiên sói nhe răng nhảy vào, toan cắn cổ ăn thịt. Nhanh như cắt, Vu Giang vụt đứng dậy, vung chùy bổ trúng sọ sói rồi tiếp tục bổ túi bụi cho óc sói phọt ra ngoài. Chân sói dãy giựt hồi lâu rồi duỗi thẳng. Lật xác sói ra coi, Vu Giang thấy sói có cái mũi trắng. Mừng quá, Vu Giang vội vác xác sói về nhà, thuật chuyện cha về báo mộng và chuyện mình giết được ba sói cho mẹ nghe. Vu bà ôm đầu con mà khóc.
Chờ mẹ dịu cơn đau khổ, Vu Giang mới dắt mẹ ra giếng ngoài đồng, chỉ cho mẹ coi hai xác sói mình đã ném xuống từ năm hôm trước. Hai mẹ con thấy hai xác sói vẫn còn nguyên dưới giếng, song thịt đã rữa, ruồi nhặng đang bâu kín.
THẦN MIẾU
(truyện ƯNG HỔ THẦN)
Thần danh ưng hổ cánh hà do
Năng sử thâu nhi phản tự đầu
Tam bách thanh tiền nguyên tế sự
Chỉ lân đạo sĩ khổ phần tu
Núi Thái Sơn, tỉnh Sơn Đông, có ngôi miếu cổ, tên Đông Nhạc Miếu, quay mặt về hướng nam. Phía trong cổng, ở hai bên lối đi có bày hai pho tượng đồng xanh, cao hơn trượng, mặt mày dữ tợn, ai trông thấy cũng phải kinh hãi. Từ ngoài cổng vào miếu, người ta thấy pho tượng bên phải có một chim ưng đậu trên cánh tay gọi là pho Ưng Thần, pho tượng bên trái có một hổ nằm phục dưới chân gọi là pho Hổ Thần.
Trong miếu có đạo sĩ họ Nhậm cư ngụ. Hàng ngày, vào lúc gà gáy sáng, đạo sĩ trở dậy đi tắm rồi lên điện thờ thắp hương, ngồi xuống tấm thảm trước điện, nhắm mắt tụng niệm.
Trong thôn Thái Hằng ở chân núi có thanh niên vô lại, họ Viên, tên Thiệt, có thói trộm cắp. Biết thói quen của đạo sĩ, Viên Thiệt rắp tâm lên miếu ăn trộm. Một đêm, Viên Thiệt trèo núi, lẻn vào miếu, nấp ở hành lang chờ sáng. Vào lúc gà gáy, đạo sĩ trở dậy đi tắm rồi lên điện thờ. Chờ cho đạo sĩ đi khuất, Viên Thiệt lẻn vào phòng lục lọi. Tìm mãi chẳng thấy vật chi đáng giá, Viên Thiệt thất vọng quay ra. Đi ngang qua giường ngủ của đạo sĩ, tình cờ Viên Thiệt đưa tay lật chiếc chiếu lên coi thì thấy đầy giường tiền vàng, óng ánh chóa mắt, ước lượng cũng phải tới ba trăm đồng. Viên Thiệt mừng quá, vội vơ vét hết tiền cho vào chiếc túi đem theo, giắt vào lưng, đạp cửa chạy ra ngoài, co cẳng chạy thục mạng qua hai pho tượng, qua cổng rồi xuống núi. Viên Thiệt rắp tâm chạy xuống chân núi để lên núi Thiên Phật đối diện. Gần tới chân núi, ngoái cổ nhìn lại, chợt thấy một hán tử cao lớn, lực lưỡng, đang xăm xăm từ trên núi chạy xuống, dường như có ý đuổi theo mình, Viên Thiệt kinh hãi quá, ra sức chạy nhanh. Tới chân núi, quay đầu nhìn lại, chợt thấy hán tử, mặt mũi xanh lè, có chim ưng đậu trên cánh tay, đã ở ngay sau lưng mình. Nhận ra là Ưng Thần trong cổng miếu, Viên Thiệt kinh hãi quá, co rúm người lại, chẳng nhấc nổi chân, ngã quỵ xuống đất, vừa nằm vừa run. Ưng Thần quát:"Ăn trộm của miếu, chạy đâu cho thoát?" Viên Thiệt chắp tay lạy:"Xin thần tha mạng! Xin thần tha mạng!" Ưng Thần cúi xuống xách cổ Viên Thiệt lên, nhẹ nhàng như người xách cổ mèo vậy. Rồi chạy băng băng lên núi, đem vào phòng ngủ của đạo sĩ, thả xuống đất, bắt quỳ. Lấy một chiếc khay ở trong phòng, đặt lên đầu Viên Thiệt, bắt phải giơ hai tay lên mà giữ. Lấy túi tiền lận ở lưng Viên Thiệt, dốc loảng xoảng đầy khay, nói:"Quỳ yên ở đây, không được nhúc nhích!" rồi dời khỏi phòng. Viên Thiệt sợ quá, cứ quỳ yên như thế.
Lát sau, đạo sĩ tụng niệm xong, trở về phòng. Thấy có người đang quỳ ở trong phòng, hai tay cứ giữ chặt lấy chiếc khay ở trên đầu, đạo sĩ giật mình kinh ngạc, hỏi: "Cư sĩ là ai? Sao lại vào đây mà quỳ?" Viên Thiệt run rẩy thuật lại câu chuyện. Đạo sĩ bèn lấy khay tiền cất đi rồi nói:"Bỏ thói trộm cắp đi! Tìm nghề lương thiện mà sinh nhai! Thôi, về đi!" Viên Thiệt vội lóp ngóp đứng dậy, chạy ra cổng. Thấy hai pho tượng vẫn còn đứng nguyên ở chỗ cũ, Viên Thiệt kinh hãi quá, chạy thục mạng xuống núi.
Từ đó, Viên Thiệt bỏ hẳn thói trộm cắp.
Thần danh ưng hổ cánh hà do
Năng sử thâu nhi phản tự đầu
Tam bách thanh tiền nguyên tế sự
Chỉ lân đạo sĩ khổ phần tu
Núi Thái Sơn, tỉnh Sơn Đông, có ngôi miếu cổ, tên Đông Nhạc Miếu, quay mặt về hướng nam. Phía trong cổng, ở hai bên lối đi có bày hai pho tượng đồng xanh, cao hơn trượng, mặt mày dữ tợn, ai trông thấy cũng phải kinh hãi. Từ ngoài cổng vào miếu, người ta thấy pho tượng bên phải có một chim ưng đậu trên cánh tay gọi là pho Ưng Thần, pho tượng bên trái có một hổ nằm phục dưới chân gọi là pho Hổ Thần.
Trong miếu có đạo sĩ họ Nhậm cư ngụ. Hàng ngày, vào lúc gà gáy sáng, đạo sĩ trở dậy đi tắm rồi lên điện thờ thắp hương, ngồi xuống tấm thảm trước điện, nhắm mắt tụng niệm.
Trong thôn Thái Hằng ở chân núi có thanh niên vô lại, họ Viên, tên Thiệt, có thói trộm cắp. Biết thói quen của đạo sĩ, Viên Thiệt rắp tâm lên miếu ăn trộm. Một đêm, Viên Thiệt trèo núi, lẻn vào miếu, nấp ở hành lang chờ sáng. Vào lúc gà gáy, đạo sĩ trở dậy đi tắm rồi lên điện thờ. Chờ cho đạo sĩ đi khuất, Viên Thiệt lẻn vào phòng lục lọi. Tìm mãi chẳng thấy vật chi đáng giá, Viên Thiệt thất vọng quay ra. Đi ngang qua giường ngủ của đạo sĩ, tình cờ Viên Thiệt đưa tay lật chiếc chiếu lên coi thì thấy đầy giường tiền vàng, óng ánh chóa mắt, ước lượng cũng phải tới ba trăm đồng. Viên Thiệt mừng quá, vội vơ vét hết tiền cho vào chiếc túi đem theo, giắt vào lưng, đạp cửa chạy ra ngoài, co cẳng chạy thục mạng qua hai pho tượng, qua cổng rồi xuống núi. Viên Thiệt rắp tâm chạy xuống chân núi để lên núi Thiên Phật đối diện. Gần tới chân núi, ngoái cổ nhìn lại, chợt thấy một hán tử cao lớn, lực lưỡng, đang xăm xăm từ trên núi chạy xuống, dường như có ý đuổi theo mình, Viên Thiệt kinh hãi quá, ra sức chạy nhanh. Tới chân núi, quay đầu nhìn lại, chợt thấy hán tử, mặt mũi xanh lè, có chim ưng đậu trên cánh tay, đã ở ngay sau lưng mình. Nhận ra là Ưng Thần trong cổng miếu, Viên Thiệt kinh hãi quá, co rúm người lại, chẳng nhấc nổi chân, ngã quỵ xuống đất, vừa nằm vừa run. Ưng Thần quát:"Ăn trộm của miếu, chạy đâu cho thoát?" Viên Thiệt chắp tay lạy:"Xin thần tha mạng! Xin thần tha mạng!" Ưng Thần cúi xuống xách cổ Viên Thiệt lên, nhẹ nhàng như người xách cổ mèo vậy. Rồi chạy băng băng lên núi, đem vào phòng ngủ của đạo sĩ, thả xuống đất, bắt quỳ. Lấy một chiếc khay ở trong phòng, đặt lên đầu Viên Thiệt, bắt phải giơ hai tay lên mà giữ. Lấy túi tiền lận ở lưng Viên Thiệt, dốc loảng xoảng đầy khay, nói:"Quỳ yên ở đây, không được nhúc nhích!" rồi dời khỏi phòng. Viên Thiệt sợ quá, cứ quỳ yên như thế.
Lát sau, đạo sĩ tụng niệm xong, trở về phòng. Thấy có người đang quỳ ở trong phòng, hai tay cứ giữ chặt lấy chiếc khay ở trên đầu, đạo sĩ giật mình kinh ngạc, hỏi: "Cư sĩ là ai? Sao lại vào đây mà quỳ?" Viên Thiệt run rẩy thuật lại câu chuyện. Đạo sĩ bèn lấy khay tiền cất đi rồi nói:"Bỏ thói trộm cắp đi! Tìm nghề lương thiện mà sinh nhai! Thôi, về đi!" Viên Thiệt vội lóp ngóp đứng dậy, chạy ra cổng. Thấy hai pho tượng vẫn còn đứng nguyên ở chỗ cũ, Viên Thiệt kinh hãi quá, chạy thục mạng xuống núi.
Từ đó, Viên Thiệt bỏ hẳn thói trộm cắp.
ĐỊNH SỐ
(truyện KHỐ QUAN)
Dịch truyện huy hoàng sứ tiết trì
Quỹ di thiên hữu khố quan tri
Liêu tây quân xướng do thùy bát
Tích vị đương niên nhất vấn chi
Thời ấy, huyện Châu Bình, tỉnh Sơn Đông có quan tể họ Trương, tên Hoa Đông.
Một hôm, Trương công phụng chỉ nhà vua, dẫn một đoàn tùy tùng đi tế thần ở núi Nam Nhạc. Lượt đi, tới huyện Giang Hoài thì trời vừa tối, Trương công ra lệnh cho đoàn tùy tùng theo mình vào dịch trạm mà nghỉ. Trưởng đoàn thưa:"Dịch trạm này nổi tiếng là có nhiều ma, xin đại quan cho tìm nơi khác!" Trương công cười, nói: "Ta đâu có sợ gì ma! Cứ theo ta vào mà nghỉ!" Cả đoàn đành tuân lệnh.
Nửa đêm, Trương công thức giấc, cứ thắc mắc về lời đồn dịch trạm có ma. Bèn phục sức chỉnh tề, đội mũ đeo kiếm rồi ra phòng chính, thắp đèn ngồi chờ, xem có chuyện gì lạ xảy ra không. Nửa giờ sau, đột nhiên thấy một hán tử, tóc hoa râm, mặc áo đen, thắt đai đen, mở cửa bước vào, chắp tay vái chào, Trương công bèn hỏi: "Nhà ngươi là ai? Nửa đêm tới đây có chuyện gì?" Hán tử đáp: "Tiểu chức được Thượng Đế cử tới huyện này làm kẻ coi kho, giữ khoản tiền mà Thượng Đế ấn định ban cho đại quan. Đêm nay, thấy đại quan vào đây nghỉ nên tiểu chức tới xin trao nạp để còn đi lãnh trách vụ khác" Hỏi: "Thượng Đế ấn định ban cho ta bao nhiêu?" Đáp: "Tất cả là hai vạn ba ngàn năm trăm đồng vàng" Nói: "Bây giờ ta phải đi tế thần, chưa có thì giờ kiểm nhận. Vả lại, khoản tiền lớn quá, đem đi đem lại, tốn công vô ích. Vì thế, hãy chịu khó lưu lại đây thêm ít bữa mà giữ khoản tiền ấy cho ta. Hôm nào trở về, ta sẽ ghé vào đây thâu nhận" Hán tử vâng dạ rồi chắp tay vái chào mà lui. Trương công bèn vào phòng nằm ngủ lại.
Sáng sau, Trương công dẫn đoàn tùy tùng tiếp tục lên đường tới Nam Nhạc. Sau lễ tế thần, dân chúng quanh vùng đua nhau đem tiền bạc tới biếu tặng Trương công. Trương công bèn ra lệnh cho đoàn tùy tùng thâu nhận.
Lượt về, tới huyện Giang Hoài thì trời cũng vừa tối, Trương công lại ra lệnh cho đoàn tùy tùng theo mình vào dịch trạm mà nghỉ. Nửa đêm, lại phục sức chỉnh tề, đội mũ đeo kiếm ra phòng chính, thắp đèn ngồi chờ, xem hán tử áo đen có tới không. Nửa giờ sau, quả nhiên thấy hán tử mở cửa bước vào, chắp tay vái chào. Trương công nói: "Nay trên đường về, ta ghé vào đây thâu nhận khoản tiền của ta. Hãy đem tới đây mà trao nạp!" Hán tử đáp: "Thưa đại quan, tiểu chức đã đem đi Liêu Ninh, mua thực phẩm để phân phát cho quân lính trấn đóng ở đó hết rồi!" Vì tiếc của, Trương công nổi giận, đập bàn quát: "Sao lại dám tự tiện đem tiền bạc của ta đi mà tiêu xài?" Hán tử đáp: "Đại quan há lại chẳng biết tiền bạc cũng như thọ mệnh mà Thượng Đế đã ấn định ban cho mỗi người đều có định số cả rồi hay sao? Trong chuyến đi này, đại quan đã thâu hoạch được đủ định số rồi. Vì thế, Thượng Đế đã sai tiểu chức đem khoản tiền đang giữ đi làm việc khác. Đại quan đã thâu hoạch được đủ định số, còn muốn đòi chi thêm?" Nói xong, chắp tay vái chào rồi biến mất.
Sáng sau, Trương công ra lệnh cho đoàn tùy tùng kiểm lại khoản tiền dân chúng quanh vùng Nam Nhạc đã biếu tặng. Kiểm xong, trưởng đoàn báo cáo: "Tất cả là hai vạn ba ngàn năm trăm đồng vàng" Nghe thấy thế, Trương công thở dài, than: "Thế mới biết quả là mọi việc lớn nhỏ ở đời đều đã có định số! Ta muốn tham lam cũng chẳng được nào!"
Dịch truyện huy hoàng sứ tiết trì
Quỹ di thiên hữu khố quan tri
Liêu tây quân xướng do thùy bát
Tích vị đương niên nhất vấn chi
Thời ấy, huyện Châu Bình, tỉnh Sơn Đông có quan tể họ Trương, tên Hoa Đông.
Một hôm, Trương công phụng chỉ nhà vua, dẫn một đoàn tùy tùng đi tế thần ở núi Nam Nhạc. Lượt đi, tới huyện Giang Hoài thì trời vừa tối, Trương công ra lệnh cho đoàn tùy tùng theo mình vào dịch trạm mà nghỉ. Trưởng đoàn thưa:"Dịch trạm này nổi tiếng là có nhiều ma, xin đại quan cho tìm nơi khác!" Trương công cười, nói: "Ta đâu có sợ gì ma! Cứ theo ta vào mà nghỉ!" Cả đoàn đành tuân lệnh.
Nửa đêm, Trương công thức giấc, cứ thắc mắc về lời đồn dịch trạm có ma. Bèn phục sức chỉnh tề, đội mũ đeo kiếm rồi ra phòng chính, thắp đèn ngồi chờ, xem có chuyện gì lạ xảy ra không. Nửa giờ sau, đột nhiên thấy một hán tử, tóc hoa râm, mặc áo đen, thắt đai đen, mở cửa bước vào, chắp tay vái chào, Trương công bèn hỏi: "Nhà ngươi là ai? Nửa đêm tới đây có chuyện gì?" Hán tử đáp: "Tiểu chức được Thượng Đế cử tới huyện này làm kẻ coi kho, giữ khoản tiền mà Thượng Đế ấn định ban cho đại quan. Đêm nay, thấy đại quan vào đây nghỉ nên tiểu chức tới xin trao nạp để còn đi lãnh trách vụ khác" Hỏi: "Thượng Đế ấn định ban cho ta bao nhiêu?" Đáp: "Tất cả là hai vạn ba ngàn năm trăm đồng vàng" Nói: "Bây giờ ta phải đi tế thần, chưa có thì giờ kiểm nhận. Vả lại, khoản tiền lớn quá, đem đi đem lại, tốn công vô ích. Vì thế, hãy chịu khó lưu lại đây thêm ít bữa mà giữ khoản tiền ấy cho ta. Hôm nào trở về, ta sẽ ghé vào đây thâu nhận" Hán tử vâng dạ rồi chắp tay vái chào mà lui. Trương công bèn vào phòng nằm ngủ lại.
Sáng sau, Trương công dẫn đoàn tùy tùng tiếp tục lên đường tới Nam Nhạc. Sau lễ tế thần, dân chúng quanh vùng đua nhau đem tiền bạc tới biếu tặng Trương công. Trương công bèn ra lệnh cho đoàn tùy tùng thâu nhận.
Lượt về, tới huyện Giang Hoài thì trời cũng vừa tối, Trương công lại ra lệnh cho đoàn tùy tùng theo mình vào dịch trạm mà nghỉ. Nửa đêm, lại phục sức chỉnh tề, đội mũ đeo kiếm ra phòng chính, thắp đèn ngồi chờ, xem hán tử áo đen có tới không. Nửa giờ sau, quả nhiên thấy hán tử mở cửa bước vào, chắp tay vái chào. Trương công nói: "Nay trên đường về, ta ghé vào đây thâu nhận khoản tiền của ta. Hãy đem tới đây mà trao nạp!" Hán tử đáp: "Thưa đại quan, tiểu chức đã đem đi Liêu Ninh, mua thực phẩm để phân phát cho quân lính trấn đóng ở đó hết rồi!" Vì tiếc của, Trương công nổi giận, đập bàn quát: "Sao lại dám tự tiện đem tiền bạc của ta đi mà tiêu xài?" Hán tử đáp: "Đại quan há lại chẳng biết tiền bạc cũng như thọ mệnh mà Thượng Đế đã ấn định ban cho mỗi người đều có định số cả rồi hay sao? Trong chuyến đi này, đại quan đã thâu hoạch được đủ định số rồi. Vì thế, Thượng Đế đã sai tiểu chức đem khoản tiền đang giữ đi làm việc khác. Đại quan đã thâu hoạch được đủ định số, còn muốn đòi chi thêm?" Nói xong, chắp tay vái chào rồi biến mất.
Sáng sau, Trương công ra lệnh cho đoàn tùy tùng kiểm lại khoản tiền dân chúng quanh vùng Nam Nhạc đã biếu tặng. Kiểm xong, trưởng đoàn báo cáo: "Tất cả là hai vạn ba ngàn năm trăm đồng vàng" Nghe thấy thế, Trương công thở dài, than: "Thế mới biết quả là mọi việc lớn nhỏ ở đời đều đã có định số! Ta muốn tham lam cũng chẳng được nào!"
BÙA CỜ BẠC
(truyện ĐỔ PHÙ)
Vị liu tham tâm bác cục khai
Thử trung thắng phụ bản nan sai
Linh phù thảng hứa tương truyền thụ
Nhất trịch hà phương bách vạn lai
Huyện thành Chuy Xuyên, tỉnh Sơn Đông, có ngôi miếu Thiên Tề và ngôi chùa Thiên Phật.
Trong miếu có đạo sĩ họ Hàn cư ngụ. Thấy đạo sĩ có nhiều ảo thuật, cư dân quanh vùng gọi đạo sĩ là tiên ông. Sinh thời, thân phụ đạo sĩ rất yêu quý con, cứ mỗi lần lên huyện lại tới miếu thăm con. Một hôm, Hàn ông cùng bào đệ lên huyện chơi, toan tới miếu thăm đạo sĩ thì gặp đạo sĩ ở dọc đường. Đạo sĩ đưa chìa khoá cho cha, nói:"Xin thân phụ và thúc phụ cứ về miếu trước, lát nữa tiểu nhi sẽ về" Hai ông tới miếu, mở cổng vào thì thấy đạo sĩ đã ở trong miếu. Có rất nhiều chuyện về đạo sĩ đại loại giống như chuyện này.
Đạo sĩ có người biểu đệ, họ Dương, tên Đổ, rất ham mê cờ bạc. Một hôm, có một nhà sư thích đổ bác, tới chùa Thiên Phật, thách các con bạc trong vùng tới chùa đánh bạc với mình. Nghe tin, Dương Đổ mừng lắm, vội vét hết tiền trong nhà đem lên chùa đánh bạc với nhà sư. Qua một đêm, thua nhẵn túi. Muốn gỡ lại tiền thua, Dương Đổ về quê cầm cố hết ruộng nương, lấy tiền đem lên chùa. Qua một đêm, lại thua nhẵn túi.
Hết tiền, Dương Đổ buồn rầu, lang thang tới miếu thăm đạo sĩ. Thấy người biểu đệ phờ phạc, đạo sĩ hỏi: "Sao phờ phạc thế?" Dương Đổ thú thực, nói:"Vì thua bạc" Đạo sĩ cười, nói:"Thói thường thì ai đánh bạc cũng phải thua. Tuy nhiên, nếu hứa chừa hẳn cờ bạc thì có thể giúp cho gỡ hòa" Nghe thấy thế, Dương Đổ mừng lắm, nói: "Nếu quả được như vậy thì xin thề là sẽ chừa hẳn cờ bạc" Đạo sĩ cười rồi lấy giấy vẽ một đạo bùa, lấy ra một ngàn đồng, đưa cho Dương Đổ mà dặn: "Gỡ hòa rồi thì phải nghỉ đánh ngay, đem cả bùa lẫn tiền về đây mà trả! Nhớ kỹ là chớ có ham được!" Dương Đổ mừng quá, vội đỡ lấy bùa và tiền mà đáp: "Xin vâng" Rồi giắt bùa vào thắt lưng, đem tiền trở lại chùa.
Tới nơi, Dương Đổ thách nhà sư đánh nữa. Thấy Dương Đổ chỉ có một ngàn đồng, nhà sư chán ngán, chẳng muốn đánh. Dương Đổ nài nỉ, chỉ xin đánh một ván thôi. Nhà sư cười mà bằng lòng. Dương Đổ lấy cả ngàn đồng, đặt một tiếng. Nhà sư gieo hai súc sắc trước, được 11 điểm. Dương Đổ gieo sau, được 12 điểm. Nhà sư thua, đòi đánh nữa, đặt hai ngàn. Nhà sư lại thua, đòi đánh nữa, đặt bốn ngàn. Nhà sư lại thua, đòi đánh nữa, đặt tám ngàn. Nhà sư lại thua, đòi đánh nữa, đặt đều đều, mỗi tiếng mười ngàn. Dương Đổ thắng liền mười ván. Trong khoảnh khắc đã gỡ lại được hết số vốn đã thua trong hai canh bạc trước. Nhớ lời đạo sĩ dặn, Dương Đổ toan nghỉ đánh song lại nghĩ vận đang hên, dại chi chẳng đánh thêm mấy ván để kiếm chút lời. Vì thế, lại tiếp tục đánh. Nhưng từ đó, Dương Đổ thua liền ba ván. Lấy làm lạ, Dương Đổ thò tay vào thắt lưng tìm bùa. Thấy bùa đã biến mất, Dương Đổ kinh hãi quá, liền đứng dậy, nhất định đòi nghỉ đánh. Nhà sư đành chịu.
Về miếu, Dương Đổ đếm ra một ngàn đồng trả lại đạo sĩ. Kiểm chỗ còn dư thì thấy trước sau vẫn còn thua ba chục ngàn. Tính ra, nếu chẳng đánh ba ván sau cùng thì vừa vặn hòa. Đạo sĩ hỏi: "Còn đạo bùa đâu? Trả lại đi!" Dương Đổ ngượng quá, đáp: "Xin tha lỗi, chẳng biết đã đánh rơi mất ở đâu rồi!" Đạo sĩ cười, nói: "Đã bảo mà! Gỡ được hòa rồi thì phải nghỉ đánh ngay, chớ có ham được. Vì chẳng chịu nghe lời nên mới bị thua!" Dương Đổ bèn cám ơn đạo sĩ rồi xin cáo biệt, đem tiền về quê, chuộc lại ruộng nương.
Vị liu tham tâm bác cục khai
Thử trung thắng phụ bản nan sai
Linh phù thảng hứa tương truyền thụ
Nhất trịch hà phương bách vạn lai
Huyện thành Chuy Xuyên, tỉnh Sơn Đông, có ngôi miếu Thiên Tề và ngôi chùa Thiên Phật.
Trong miếu có đạo sĩ họ Hàn cư ngụ. Thấy đạo sĩ có nhiều ảo thuật, cư dân quanh vùng gọi đạo sĩ là tiên ông. Sinh thời, thân phụ đạo sĩ rất yêu quý con, cứ mỗi lần lên huyện lại tới miếu thăm con. Một hôm, Hàn ông cùng bào đệ lên huyện chơi, toan tới miếu thăm đạo sĩ thì gặp đạo sĩ ở dọc đường. Đạo sĩ đưa chìa khoá cho cha, nói:"Xin thân phụ và thúc phụ cứ về miếu trước, lát nữa tiểu nhi sẽ về" Hai ông tới miếu, mở cổng vào thì thấy đạo sĩ đã ở trong miếu. Có rất nhiều chuyện về đạo sĩ đại loại giống như chuyện này.
Đạo sĩ có người biểu đệ, họ Dương, tên Đổ, rất ham mê cờ bạc. Một hôm, có một nhà sư thích đổ bác, tới chùa Thiên Phật, thách các con bạc trong vùng tới chùa đánh bạc với mình. Nghe tin, Dương Đổ mừng lắm, vội vét hết tiền trong nhà đem lên chùa đánh bạc với nhà sư. Qua một đêm, thua nhẵn túi. Muốn gỡ lại tiền thua, Dương Đổ về quê cầm cố hết ruộng nương, lấy tiền đem lên chùa. Qua một đêm, lại thua nhẵn túi.
Hết tiền, Dương Đổ buồn rầu, lang thang tới miếu thăm đạo sĩ. Thấy người biểu đệ phờ phạc, đạo sĩ hỏi: "Sao phờ phạc thế?" Dương Đổ thú thực, nói:"Vì thua bạc" Đạo sĩ cười, nói:"Thói thường thì ai đánh bạc cũng phải thua. Tuy nhiên, nếu hứa chừa hẳn cờ bạc thì có thể giúp cho gỡ hòa" Nghe thấy thế, Dương Đổ mừng lắm, nói: "Nếu quả được như vậy thì xin thề là sẽ chừa hẳn cờ bạc" Đạo sĩ cười rồi lấy giấy vẽ một đạo bùa, lấy ra một ngàn đồng, đưa cho Dương Đổ mà dặn: "Gỡ hòa rồi thì phải nghỉ đánh ngay, đem cả bùa lẫn tiền về đây mà trả! Nhớ kỹ là chớ có ham được!" Dương Đổ mừng quá, vội đỡ lấy bùa và tiền mà đáp: "Xin vâng" Rồi giắt bùa vào thắt lưng, đem tiền trở lại chùa.
Tới nơi, Dương Đổ thách nhà sư đánh nữa. Thấy Dương Đổ chỉ có một ngàn đồng, nhà sư chán ngán, chẳng muốn đánh. Dương Đổ nài nỉ, chỉ xin đánh một ván thôi. Nhà sư cười mà bằng lòng. Dương Đổ lấy cả ngàn đồng, đặt một tiếng. Nhà sư gieo hai súc sắc trước, được 11 điểm. Dương Đổ gieo sau, được 12 điểm. Nhà sư thua, đòi đánh nữa, đặt hai ngàn. Nhà sư lại thua, đòi đánh nữa, đặt bốn ngàn. Nhà sư lại thua, đòi đánh nữa, đặt tám ngàn. Nhà sư lại thua, đòi đánh nữa, đặt đều đều, mỗi tiếng mười ngàn. Dương Đổ thắng liền mười ván. Trong khoảnh khắc đã gỡ lại được hết số vốn đã thua trong hai canh bạc trước. Nhớ lời đạo sĩ dặn, Dương Đổ toan nghỉ đánh song lại nghĩ vận đang hên, dại chi chẳng đánh thêm mấy ván để kiếm chút lời. Vì thế, lại tiếp tục đánh. Nhưng từ đó, Dương Đổ thua liền ba ván. Lấy làm lạ, Dương Đổ thò tay vào thắt lưng tìm bùa. Thấy bùa đã biến mất, Dương Đổ kinh hãi quá, liền đứng dậy, nhất định đòi nghỉ đánh. Nhà sư đành chịu.
Về miếu, Dương Đổ đếm ra một ngàn đồng trả lại đạo sĩ. Kiểm chỗ còn dư thì thấy trước sau vẫn còn thua ba chục ngàn. Tính ra, nếu chẳng đánh ba ván sau cùng thì vừa vặn hòa. Đạo sĩ hỏi: "Còn đạo bùa đâu? Trả lại đi!" Dương Đổ ngượng quá, đáp: "Xin tha lỗi, chẳng biết đã đánh rơi mất ở đâu rồi!" Đạo sĩ cười, nói: "Đã bảo mà! Gỡ được hòa rồi thì phải nghỉ đánh ngay, chớ có ham được. Vì chẳng chịu nghe lời nên mới bị thua!" Dương Đổ bèn cám ơn đạo sĩ rồi xin cáo biệt, đem tiền về quê, chuộc lại ruộng nương.
CHỒN ĐẦU THAI LÀM NGƯỜI
(truyện LƯU LƯỢNG THÁI)
Mạn thuyết tiền thân dữ hậu thân
Nam sơn hữu khách cánh thông thần
Ngọc hồ thảng bất phân minh ngữ
Thùy thức giai nhi thị cố nhân
Tiên sinh Hoài Lợi Nhân ở thủ phủ Tế Nam, tỉnh Sơn Đông, thuật truyện:
Cuối triều Minh, huyện Nam Sơn, tỉnh Sơn Đông, có văn nhân họ Lưu, tên Cảnh, làm nhà dưới chân núi Nam, cùng vợ và gia nhân cư ngụ.
Một hôm, có một lão khách tới gõ cổng, xin vào diện kiến. Gia nhân vào báo, Lưu ông bảo ra mời vào. Khách theo gia nhân vào nhà, chắp tay vái chào. Lưu ông chắp tay đáp lại. Khách tự giới thiệu:"Ngu mỗ họ Hồ, tên Lượng Thái!" Lưu ông hỏi:"Huynh ông tới tệ xá, có điều chi dạy bảo?" Khách đáp:"Ngu mỗ muốn tới chào tiên sinh để xin làm quen!" Hỏi:"Nhà huynh ông ở đâu?" Đáp: "Cũng ở trong núi này! Ngoài gia đình tiên sinh và ngu mỗ, chẳng ai thèm vào núi này cư ngụ. Vì thế ngu mỗ muốn tới xin làm quen cho có bạn!" Lưu ông bèn mời khách ngồi đàm đạo. Thấy khách nói chuyện hoạt bát, cao nhã, Lưu ông thích lắm, sai gia nhân làm tiệc khoản đãi. Hai người yến ẩm, đàm đạo rất tương đắc. Ngà ngà say, khách đứng dậy xin cáo biệt. Lưu ông nói:"Ngày mai, nếu rảnh rỗi, xin mời huynh ông lại tới chơi!" Khách đáp: "Xin vâng!"
Hôm sau, quả nhiên khách lại tới. Lưu ông sai gia nhân làm tiệc, thịnh soạn hơn hôm trước. Trong lúc yến ẩm, Lưu ông nói:"Được kết giao với huynh ông, thực là một điều hân hạnh, song vẫn còn điều thắc mắc, chẳng biết huynh ông có giải cho chăng?" Khách hỏi:"Tiên sinh thắc mắc điều chi?" Lưu ông nói:"Dám hỏi huynh ông quý xá ở đâu!" Khách nói:"Ngu mỗ xin nói, song xin tiên sinh tin lời, chớ kinh hãi!" Lưu ông nói:"Xin cứ nói!" Khách nói:"Ngu mỗ tới đây, chủ ý là để xin làm quen chứ chẳng phải là để gieo họa! Chẳng giấu gì tiên sinh, tệ xá là cái hang trong núi, còn ngu mỗ là chồn già trong hang!" Nghe thấy thế, Lưu ông đã chẳng sợ hãi mà còn kính trọng khách hơn. Bèn đề nghị kết nghĩa anh em. Khách nhận lời. So tuổi, khách lớn hơn, làm anh. Từ đó, hai người giao du rất thân mật, coi nhau như ruột thịt, có điều gì cũng đem ra nói cho nhau nghe, chẳng giấu diếm.
Một hôm, Lưu ông than:"Tiểu đệ cũng đã nhiều tuổi rồi mà chưa có con nối dõi tông đường!" Khách nói: "Hiền đệ chớ lo. Ngu huynh sắp chết rồi. Để khi nào ngu huynh chết, ngu huynh sẽ đầu thai vào làm con cho hiền đệ!" Lưu ông kinh hãi, nói:"Sao đại ca lại nói gở thế?" Khách cười, đáp:"Già rồi thì phải chết chứ sao lại gọi là nói gở?" Lưu ông hỏi:"Nghe nói ai đã tu luyện thành tiên cũng trường sinh bất tử! Đại ca đã tu luyện thành tiên, sao lại nói là sắp chết?" Khách lắc đầu, đáp:"Riêng điều này thì chẳng thể tiết lộ cho hiền đệ biết được, xin chớ hỏi nữa! Ngu huynh đã hết kiếp làm chồn, kiếp tới được đầu thai làm người. Song đầu thai làm con cho người khác, chẳng biết người ta có thích mình hay không, chi bằng đầu thai làm con cho hiền đệ, chắc hiền đệ sẽ chẳng ghét bỏ vì chúng ta là chỗ anh em kết nghĩa mà hiền đệ lại đang muốn có con!" Nói xong, đứng dậy xin cáo biệt.
Đêm ấy Lưu ông nằm ngủ, mộng thấy khách tới nói:"Đêm nay ngu huynh vào làm con cho hiền đệ đây!" Giật mình tỉnh giấc, Lưu ông thấy gia nhân chạy vào báo: "Phu nhân vừa sinh công tử" Lấy làm lạ, Lưu ông bèn đặt tên đứa bé là Lượng Thái. Từ đó, khách biệt tăm. chẳng lui tới nhà Lưu ông nữa.
Lượng Thái lớn lên, ăn nói hoạt bát, cao nhã, giống hệt khách. Học hành thông minh xuất chúng, năm mười tuổi đã nổi tiếng thần đồng. Năm Nhâm Thìn (1652), niên hiệu Thuận Trị thứ 9, thi hội, đậu tiến sĩ, được triều đình bổ làm quan, tức Lưu công. Lưu công nổi tiếng hào hiệp, hay giúp đỡ kẻ nghèo khó. Có rất nhiều kẻ chẳng kể thân sơ, tới nhờ vả, đều được giúp đỡ.
Khi về hưu, thấy dân làng tới cổng nhà, mở quán bán bánh quà, tương rượu, Lưu công cứ để mặc, chẳng ngăn cản. Ít lâu sau, bãi đất trước cổng nhà Lưu công trở thành một khu chợ mới.
Mạn thuyết tiền thân dữ hậu thân
Nam sơn hữu khách cánh thông thần
Ngọc hồ thảng bất phân minh ngữ
Thùy thức giai nhi thị cố nhân
Tiên sinh Hoài Lợi Nhân ở thủ phủ Tế Nam, tỉnh Sơn Đông, thuật truyện:
Cuối triều Minh, huyện Nam Sơn, tỉnh Sơn Đông, có văn nhân họ Lưu, tên Cảnh, làm nhà dưới chân núi Nam, cùng vợ và gia nhân cư ngụ.
Một hôm, có một lão khách tới gõ cổng, xin vào diện kiến. Gia nhân vào báo, Lưu ông bảo ra mời vào. Khách theo gia nhân vào nhà, chắp tay vái chào. Lưu ông chắp tay đáp lại. Khách tự giới thiệu:"Ngu mỗ họ Hồ, tên Lượng Thái!" Lưu ông hỏi:"Huynh ông tới tệ xá, có điều chi dạy bảo?" Khách đáp:"Ngu mỗ muốn tới chào tiên sinh để xin làm quen!" Hỏi:"Nhà huynh ông ở đâu?" Đáp: "Cũng ở trong núi này! Ngoài gia đình tiên sinh và ngu mỗ, chẳng ai thèm vào núi này cư ngụ. Vì thế ngu mỗ muốn tới xin làm quen cho có bạn!" Lưu ông bèn mời khách ngồi đàm đạo. Thấy khách nói chuyện hoạt bát, cao nhã, Lưu ông thích lắm, sai gia nhân làm tiệc khoản đãi. Hai người yến ẩm, đàm đạo rất tương đắc. Ngà ngà say, khách đứng dậy xin cáo biệt. Lưu ông nói:"Ngày mai, nếu rảnh rỗi, xin mời huynh ông lại tới chơi!" Khách đáp: "Xin vâng!"
Hôm sau, quả nhiên khách lại tới. Lưu ông sai gia nhân làm tiệc, thịnh soạn hơn hôm trước. Trong lúc yến ẩm, Lưu ông nói:"Được kết giao với huynh ông, thực là một điều hân hạnh, song vẫn còn điều thắc mắc, chẳng biết huynh ông có giải cho chăng?" Khách hỏi:"Tiên sinh thắc mắc điều chi?" Lưu ông nói:"Dám hỏi huynh ông quý xá ở đâu!" Khách nói:"Ngu mỗ xin nói, song xin tiên sinh tin lời, chớ kinh hãi!" Lưu ông nói:"Xin cứ nói!" Khách nói:"Ngu mỗ tới đây, chủ ý là để xin làm quen chứ chẳng phải là để gieo họa! Chẳng giấu gì tiên sinh, tệ xá là cái hang trong núi, còn ngu mỗ là chồn già trong hang!" Nghe thấy thế, Lưu ông đã chẳng sợ hãi mà còn kính trọng khách hơn. Bèn đề nghị kết nghĩa anh em. Khách nhận lời. So tuổi, khách lớn hơn, làm anh. Từ đó, hai người giao du rất thân mật, coi nhau như ruột thịt, có điều gì cũng đem ra nói cho nhau nghe, chẳng giấu diếm.
Một hôm, Lưu ông than:"Tiểu đệ cũng đã nhiều tuổi rồi mà chưa có con nối dõi tông đường!" Khách nói: "Hiền đệ chớ lo. Ngu huynh sắp chết rồi. Để khi nào ngu huynh chết, ngu huynh sẽ đầu thai vào làm con cho hiền đệ!" Lưu ông kinh hãi, nói:"Sao đại ca lại nói gở thế?" Khách cười, đáp:"Già rồi thì phải chết chứ sao lại gọi là nói gở?" Lưu ông hỏi:"Nghe nói ai đã tu luyện thành tiên cũng trường sinh bất tử! Đại ca đã tu luyện thành tiên, sao lại nói là sắp chết?" Khách lắc đầu, đáp:"Riêng điều này thì chẳng thể tiết lộ cho hiền đệ biết được, xin chớ hỏi nữa! Ngu huynh đã hết kiếp làm chồn, kiếp tới được đầu thai làm người. Song đầu thai làm con cho người khác, chẳng biết người ta có thích mình hay không, chi bằng đầu thai làm con cho hiền đệ, chắc hiền đệ sẽ chẳng ghét bỏ vì chúng ta là chỗ anh em kết nghĩa mà hiền đệ lại đang muốn có con!" Nói xong, đứng dậy xin cáo biệt.
Đêm ấy Lưu ông nằm ngủ, mộng thấy khách tới nói:"Đêm nay ngu huynh vào làm con cho hiền đệ đây!" Giật mình tỉnh giấc, Lưu ông thấy gia nhân chạy vào báo: "Phu nhân vừa sinh công tử" Lấy làm lạ, Lưu ông bèn đặt tên đứa bé là Lượng Thái. Từ đó, khách biệt tăm. chẳng lui tới nhà Lưu ông nữa.
Lượng Thái lớn lên, ăn nói hoạt bát, cao nhã, giống hệt khách. Học hành thông minh xuất chúng, năm mười tuổi đã nổi tiếng thần đồng. Năm Nhâm Thìn (1652), niên hiệu Thuận Trị thứ 9, thi hội, đậu tiến sĩ, được triều đình bổ làm quan, tức Lưu công. Lưu công nổi tiếng hào hiệp, hay giúp đỡ kẻ nghèo khó. Có rất nhiều kẻ chẳng kể thân sơ, tới nhờ vả, đều được giúp đỡ.
Khi về hưu, thấy dân làng tới cổng nhà, mở quán bán bánh quà, tương rượu, Lưu công cứ để mặc, chẳng ngăn cản. Ít lâu sau, bãi đất trước cổng nhà Lưu công trở thành một khu chợ mới.
GHEN VỚI NỮ THẦN
(truyện KIM CÔ PHU)
Song song tố tượng sự hoang đường
Hồ quỷ bằng y tác tế hương
Liệt phách chân hồn không thụ điếm
Tiểu cô cư xứ bản vô lang
Đời vua Thần Tông triều Minh, huyện Thiệu Hưng, tỉnh Triết Giang, có thiếu nữ họ Mã, tên Thanh Mai, sanh năm bính tuất (1576).
Khi Thanh Mai tới tuổi cập kê, cha mẹ hứa gả cho nho sinh họ Hoa ở trong huyện. Sắp tới ngày cưới, Hoa sinh bị bệnh mà mất. Thanh Mai buồn lắm, quyết tâm ở vậy, chẳng chịu lấy chồng khác.
Năm Bính ngọ (1606), Thanh Mai ba mươi tuổi, cũng bị bệnh mà mất. Hồn linh thiêng, thường hiện về báo mộng cho người trong họ biết nhiều việc sắp xảy ra nên họ quyên góp tiền bạc, xây cất một ngôi đền rồi đắp tượng mà thờ, gọi là đền Mai Cô.
Năm mươi năm sau.
Ở huyện Thượng Ngu, kế cận huyện Thiệu Hưng, có nho sinh họ Kim, ba mươi tuổi, có vợ họ Ngụy và hai con, một trai, một gái. Ngày 10 tháng 8 năm Bnh thân (1656), niên hiệu Thuận Trị thứ 13, Kim sinh lên đường tới tỉnh lỵ Triết Giang ứng thí. Dọc đường, tới huyện Thiệu Hưng, gặp lúc trời tối, sinh vào ngủ trọ trong quán Mai Hoa. Nửa đêm, nằm mộng thấy một tì nữ áo xanh mở cửa bước vào phòng, nói: "Mai Cô sai tiểu tì tới đây mời tú tài tới đền đàm đạo" Sinh bèn đi theo. Tới đền, thấy Thanh Mai đứng chờ ở hành lang, sinh vội chắp tay vái chào. Thanh Mai mỉm cười đáp lễ rồi hỏi: "Hiền lang còn nhớ thiếp không?" Sinh lắc đầu, đáp: "Thưa không" Thanh Mai nói: "Kiếp trước hiền lang họ Hoa, đã đính hôn với thiếp song vì hiền lang mất sớm nên chúng mình chưa nên duyên phu phụ. Vì cảm tấm lòng chiếu cố nên trong thâm tâm, thiếp vẫn mến mộ. Kiếp này, hiền lang họ Kim. Nếu hiền lang chẳng chê thiếp là người bỉ lậu thì thiếp xin được lấy thân mà báo đáp" Sinh kinh hãi quá, chẳng biết phải trả lời ra sao, chỉ thốt được hai tiếng: "Xin vâng" Thanh Mai nói: "Tạm thời, hiền lang cứ đi thi rồi về nhà mà chờ. Chừng nào thu xếp xong chỗ ở, thiếp sẽ xin báo để hiền lang biết" Sinh lại líu ríu vâng dạ. Thanh Mai bèn tiễn sinh ra khỏi cổng. Nằm mộng tới đây, sinh tỉnh giấc, cứ kinh hãi mãi, trằn trọc suốt đêm, chẳng sao ngủ lại được.
Đêm ấy, có một thôn dân, cư ngụ cạnh đền, cũng nằm mộng thấy Thanh Mai hiện về, nói: "Từ nay, Kim sinh ở huyện Thượng Ngu, hiện trọ trong quán Mai Hoa, là lang quân của ta. Sáng mai, các ngươi phải tới quán, tìm gặp cho biết mặt rồi đắp một pho tượng, đặt cạnh pho tượng của ta trong đền mà thờ chung" Sáng ra, người ấy kể cho đồng hương nghe thì được biết trên mười người nữa trong làng cũng nằm mộng thấy như thế. Họ kinh hãi quá, bèn kéo nhau tới quán Mai Hoa để biết mặt Kim sinh rồi kéo nhau tới nhà trưởng tộc họ Mã trong làng, là Mã Thành, mà thuật chuyện. Họ nói: "Xin cho đắp tượng Kim sinh để thờ chung trong đền" Mã Thành phản đối, nói: "Làm như thế tức là làm điếm nhục tiết trinh của Mai Cô lúc sinh thời, mà cũng là làm điếm nhục cả dòng họ Mã chúng tôi nữa!" Người làng khuyên thế nào Mã Thành cũng chẳng nghe. Họ đành giải tán.
Tháng sau, cả nhà Mã Thành tự nhiên cùng bị bệnh. Một đêm, Mã Thành nằm mộng thấy Thanh Mai hiện về, nói:"Phải đắp tượng Kim sinh mà thờ chung với ta ngay!" Tỉnh giấc, Mã Thành kinh hãi quá, bèn mời mọi người trong họ tới nhà bàn bạc. Ai cũng khuyên nên đắp tượng Kim sinh, đặt ở bên trái tượng Thanh Mai mà thờ chung. Mã Thành đành theo lời.
Sinh lên đường tới Triết Giang ứng thí rồi trở về nhà, thuật chuyện giấc mộng cho vợ nghe. Nghe xong, Ngụy thị nổi cơn ghen, nói: "Thần gì mà lại đi cướp chồng của người khác?"
Một hôm, vào trung tuần tháng chín, sau bữa ăn trưa, tự nhiên sinh nói với vợ con: "Hôm nay Mai Cô tới rước ta đây!" Rồi đi tắm gội, mặc quần áo mới, đi giày mới, đội mũ mới, lên giường nằm mà chết. Ngụy thị đau khổ, tức giận Thanh Mai lắm.
Chôn cất cho chồng xong, Ngụy thị đi ngay sang huyện Thiệu Hưng, tới ngôi đền, lấy tay chỉ vào mặt pho tượng Thanh Mai mà thóa mạ. Rồi Ngụy thị bước lên tận bệ thờ, lấy tay tát vào mặt pho tượng bốn cái. Sau đó, Ngụy thị bỏ ra về.
Ngày nay, dân chúng huyện Thiệu Hưng không gọi ngôi đền ấy là đền Mai Cô nữa mà lại gọi là đền thờ vợ chàng Kim.
Song song tố tượng sự hoang đường
Hồ quỷ bằng y tác tế hương
Liệt phách chân hồn không thụ điếm
Tiểu cô cư xứ bản vô lang
Đời vua Thần Tông triều Minh, huyện Thiệu Hưng, tỉnh Triết Giang, có thiếu nữ họ Mã, tên Thanh Mai, sanh năm bính tuất (1576).
Khi Thanh Mai tới tuổi cập kê, cha mẹ hứa gả cho nho sinh họ Hoa ở trong huyện. Sắp tới ngày cưới, Hoa sinh bị bệnh mà mất. Thanh Mai buồn lắm, quyết tâm ở vậy, chẳng chịu lấy chồng khác.
Năm Bính ngọ (1606), Thanh Mai ba mươi tuổi, cũng bị bệnh mà mất. Hồn linh thiêng, thường hiện về báo mộng cho người trong họ biết nhiều việc sắp xảy ra nên họ quyên góp tiền bạc, xây cất một ngôi đền rồi đắp tượng mà thờ, gọi là đền Mai Cô.
Năm mươi năm sau.
Ở huyện Thượng Ngu, kế cận huyện Thiệu Hưng, có nho sinh họ Kim, ba mươi tuổi, có vợ họ Ngụy và hai con, một trai, một gái. Ngày 10 tháng 8 năm Bnh thân (1656), niên hiệu Thuận Trị thứ 13, Kim sinh lên đường tới tỉnh lỵ Triết Giang ứng thí. Dọc đường, tới huyện Thiệu Hưng, gặp lúc trời tối, sinh vào ngủ trọ trong quán Mai Hoa. Nửa đêm, nằm mộng thấy một tì nữ áo xanh mở cửa bước vào phòng, nói: "Mai Cô sai tiểu tì tới đây mời tú tài tới đền đàm đạo" Sinh bèn đi theo. Tới đền, thấy Thanh Mai đứng chờ ở hành lang, sinh vội chắp tay vái chào. Thanh Mai mỉm cười đáp lễ rồi hỏi: "Hiền lang còn nhớ thiếp không?" Sinh lắc đầu, đáp: "Thưa không" Thanh Mai nói: "Kiếp trước hiền lang họ Hoa, đã đính hôn với thiếp song vì hiền lang mất sớm nên chúng mình chưa nên duyên phu phụ. Vì cảm tấm lòng chiếu cố nên trong thâm tâm, thiếp vẫn mến mộ. Kiếp này, hiền lang họ Kim. Nếu hiền lang chẳng chê thiếp là người bỉ lậu thì thiếp xin được lấy thân mà báo đáp" Sinh kinh hãi quá, chẳng biết phải trả lời ra sao, chỉ thốt được hai tiếng: "Xin vâng" Thanh Mai nói: "Tạm thời, hiền lang cứ đi thi rồi về nhà mà chờ. Chừng nào thu xếp xong chỗ ở, thiếp sẽ xin báo để hiền lang biết" Sinh lại líu ríu vâng dạ. Thanh Mai bèn tiễn sinh ra khỏi cổng. Nằm mộng tới đây, sinh tỉnh giấc, cứ kinh hãi mãi, trằn trọc suốt đêm, chẳng sao ngủ lại được.
Đêm ấy, có một thôn dân, cư ngụ cạnh đền, cũng nằm mộng thấy Thanh Mai hiện về, nói: "Từ nay, Kim sinh ở huyện Thượng Ngu, hiện trọ trong quán Mai Hoa, là lang quân của ta. Sáng mai, các ngươi phải tới quán, tìm gặp cho biết mặt rồi đắp một pho tượng, đặt cạnh pho tượng của ta trong đền mà thờ chung" Sáng ra, người ấy kể cho đồng hương nghe thì được biết trên mười người nữa trong làng cũng nằm mộng thấy như thế. Họ kinh hãi quá, bèn kéo nhau tới quán Mai Hoa để biết mặt Kim sinh rồi kéo nhau tới nhà trưởng tộc họ Mã trong làng, là Mã Thành, mà thuật chuyện. Họ nói: "Xin cho đắp tượng Kim sinh để thờ chung trong đền" Mã Thành phản đối, nói: "Làm như thế tức là làm điếm nhục tiết trinh của Mai Cô lúc sinh thời, mà cũng là làm điếm nhục cả dòng họ Mã chúng tôi nữa!" Người làng khuyên thế nào Mã Thành cũng chẳng nghe. Họ đành giải tán.
Tháng sau, cả nhà Mã Thành tự nhiên cùng bị bệnh. Một đêm, Mã Thành nằm mộng thấy Thanh Mai hiện về, nói:"Phải đắp tượng Kim sinh mà thờ chung với ta ngay!" Tỉnh giấc, Mã Thành kinh hãi quá, bèn mời mọi người trong họ tới nhà bàn bạc. Ai cũng khuyên nên đắp tượng Kim sinh, đặt ở bên trái tượng Thanh Mai mà thờ chung. Mã Thành đành theo lời.
Sinh lên đường tới Triết Giang ứng thí rồi trở về nhà, thuật chuyện giấc mộng cho vợ nghe. Nghe xong, Ngụy thị nổi cơn ghen, nói: "Thần gì mà lại đi cướp chồng của người khác?"
Một hôm, vào trung tuần tháng chín, sau bữa ăn trưa, tự nhiên sinh nói với vợ con: "Hôm nay Mai Cô tới rước ta đây!" Rồi đi tắm gội, mặc quần áo mới, đi giày mới, đội mũ mới, lên giường nằm mà chết. Ngụy thị đau khổ, tức giận Thanh Mai lắm.
Chôn cất cho chồng xong, Ngụy thị đi ngay sang huyện Thiệu Hưng, tới ngôi đền, lấy tay chỉ vào mặt pho tượng Thanh Mai mà thóa mạ. Rồi Ngụy thị bước lên tận bệ thờ, lấy tay tát vào mặt pho tượng bốn cái. Sau đó, Ngụy thị bỏ ra về.
Ngày nay, dân chúng huyện Thiệu Hưng không gọi ngôi đền ấy là đền Mai Cô nữa mà lại gọi là đền thờ vợ chàng Kim.
CHỒN CUỐI TRIỀU MINH
(truyện LINH QUAN)
Giao thiên cự điển thục năng can
Phiên hối tiềm tung đảm thượng hàn
Tất cánh thử hồ thái phân hiểu
Thừa dư bất tị tị linh quan
Cuối triều Minh, thủ phủ Tế Nam, tỉnh Sơn Đông có đạo quán Chiêu Thiên. Năm Canh Thìn (1640), niên hiệu Sùng Trinh thứ 13, đạo trưởng đạo quán họ Khương, rất giỏi thuật thổ nạp.
Một hôm đầu năm, có một ông lão tới đạo quán xin gặp đạo trưởng, nói:"Bỉ nhân già rồi mà con cái thì bất hiếu, chẳng cho ở chung. Vì thế muốn tới đây xin đạo trưởng cho tạm trú một thời gian" Đạo trưởng hỏi:"Quý danh là chi?" Đáp:"Bỉ nhân họ Hồ, tên Khứ Tật" Đạo trưởng thuận cho ở. Vì Khứ Tật cũng biết thuật thổ nạp nên hai người rất chóng thân nhau, rồi kết làm đạo hữu.
Đầu năm Tân Tị (1641), vào dịp dân chúng sửa soạn lễ tế Trời Đất, Khứ Tật bỏ đạo quán ra đi. Nửa tháng sau, khi tế lễ xong, Khứ Tật mới trở về. Đạo trưởng lấy làm lạ, hỏi:"Cư sĩ đi đâu lâu thế?" Khứ Tật đáp:"Vì đạo trưởng vừa là ân nhân, vừa là đạo hữu nên bỉ nhân chẳng dám giấu. Thực ra, bỉ nhân chẳng phải là người mà là chồn. Hàng năm, cứ vào dịp dân chúng làm lễ tế Trời Đất thì Thượng Đế lại sai linh quan xuống trần tẩy uế nơi lập đàn tràng cũng như vùng phụ cận. Giống chồn bỉ nhân bị coi là giống xú uế nên phải lẩn tránh đi xa trên trăm dặm, kẻo bị linh quan bắt được thì sẽ bị đánh cho đến chết!" Đạo trưởng nghe nói cũng chẳng quan tâm, vẫn để cho Khứ Tật cư trú. Hai năm tiếp theo cũng thế, cứ gần tới dịp tế lễ Trời Đất là Khứ Tật lại bỏ đạo quán ra đi, nửa tháng sau mới về.
Đầu năm Giáp Thân (1644), gần tới dịp tế lễ Trời Đất, Khứ Tật lại bỏ đạo quán ra đi. Nửa tháng sau, chẳng thấy Khứ Tật về, đạo trưởng ngạc nhiên lắm. Ba tháng sau, vẫn chưa thấy Khứ Tật về, đạo trưởng cho là Khứ Tật đã tìm được nơi cư trú mới nên thầm trách Khứ Tật đã dời cư mà chẳng về nói với mình một lời.
Bốn tháng sau, một hôm bỗng thấy Khứ Tật về, đạo trưởng trách:"Cư sĩ đã tìm được nơi cư trú mới rồi phải không? Sao chẳng về nói với bần đạo một lời?" Khứ Tật lắc đầu, đáp:"Thưa chẳng phải thế! Khi dời đạo quán, bỉ nhân vẫn định tâm là nửa tháng sau sẽ về xin đạo trưởng tiếp tục cho cư trú. Song chẳng may lần này, bỉ nhân gặp phải một tai nạn suýt chết nên hôm nay mới về được"
Hỏi: "Tai nạn chi mà nguy hiểm thế?"
Đáp: "Trong kỳ tế lễ vừa qua, bỉ nhân đã toan lẩn tránh đi xa như những kỳ trước, song vì lười biếng nên chỉ tìm cách tạm lẩn quanh vùng này. Khi tới khu rừng rậm cách đây hơn mười dặm về hướng tây, thấy trên bờ một suối nước trong, nằm khuất cuối nẻo rừng, có một chum vỡ, bỉ nhân bèn chui vào chum để tạm lẩn trong nửa tháng. Nào ngờ đúng vào ngày tế lễ, linh quan sục sạo tới cuối nẻo rừng, khám phá ra việc bỉ nhân lẩn tránh trong chum, liền cầm roi xông vào đánh. Kinh hãi quá, bỉ nhân vội bỏ chạy thục mạng!"
Hỏi: "Cư sĩ chạy tới đâu?"
Đáp: "Thưa, tới tận bờ sông Hoàng Hà!"
Hỏi: "Linh quan có đuổi theo không?"
Đáp:"Thưa có! Linh quan đuổi theo rất gấp. Khi ngoái cổ nhìn, thấy linh quan đã tới sát sau lưng, bỉ nhân quẫn quá, đành phải chui vào một cầu tiêu bên sông. Sợ mùi xú uế, linh quan chẳng dám vào, chỉ đứng chờ ở bên ngoài, song bỉ nhân quyết tâm nằm lỳ trong cầu tiêu, chẳng chịu ra. Lát sau, vì không chịu nổi mùi xú uế, linh quan đành bỏ đi!"
Hỏi: "Linh quan đi rồi, sao cư sĩ chẳng về đây ngay?"
Đáp: "Vì bỉ nhân bị mùi xú uế trong cầu tiêu nhiễm vào thân thể nên chẳng dám về, phải chui vào hang đá gần sông tạm trú. Suốt bốn tháng qua, ngày nào bỉ nhân cũng phải nhảy xuống sông tắm gội song chẳng sao gột sạch được mùi xú uế. Sau hơn trăm ngày, mùi xú uế mới bắt đầu phai! Chỉ một ly nữa là bỉ nhân chẳng còn được nhìn thấy đạo trưởng!"
Hỏi:"Bây giờ cư sĩ lại về đây cư trú phải không?"
Đáp:"Thưa không! Hôm nay bỉ nhân về đây để xin cám ơn đạo trưởng đã cho cư trú trong bốn năm qua và tiện thể xin đạo trưởng cho phép được dời khỏi đạo quán!"
Hỏi:"Cư sĩ định đi đâu?"
Đáp: "Bỉ nhân định trở về hang cũ núi xưa"
Hỏi: "Cư sĩ có cần bần đạo giúp đỡ điều gì không?"
Đáp:"Thưa không! Bỉ nhân chỉ muốn thưa với đạo trưởng một việc quan trọng!"
Hỏi:"Việc chi mà quan trọng thế?
" Đáp:"Việc Trung quốc ta sắp bị biến loạn!"
Hỏi:"Sao cư sĩ biết?"
Đáp:"Cơ trời chẳng thể tiết lậu, mong đạo trưởng hiểu cho!"
Hỏi:"Thế chốn này có việc chi không?"
Gật đầu, đáp:"Thưa có! Chốn này nguy hiểm lắm! Là hung địa chứ chẳng phải là phúc địa! Đạo trưởng nên dời ngay đi nơi khác thì hơn!" Rồi xin cáo biệt. Đạo trưởng nghe lời, bèn bỏ đạo quán mà đi, chẳng ai biết là đi đâu.
Mấy tháng sau, quả nhiên biến cố Giáp Thân (1644) xảy ra. Trung quốc bị biến loạn. Nhà Minh mất ngôi với nhà Thanh. Trong cơn binh lửa, đạo quán Chiêu Thiên bị san thành bình địa.
Giao thiên cự điển thục năng can
Phiên hối tiềm tung đảm thượng hàn
Tất cánh thử hồ thái phân hiểu
Thừa dư bất tị tị linh quan
Cuối triều Minh, thủ phủ Tế Nam, tỉnh Sơn Đông có đạo quán Chiêu Thiên. Năm Canh Thìn (1640), niên hiệu Sùng Trinh thứ 13, đạo trưởng đạo quán họ Khương, rất giỏi thuật thổ nạp.
Một hôm đầu năm, có một ông lão tới đạo quán xin gặp đạo trưởng, nói:"Bỉ nhân già rồi mà con cái thì bất hiếu, chẳng cho ở chung. Vì thế muốn tới đây xin đạo trưởng cho tạm trú một thời gian" Đạo trưởng hỏi:"Quý danh là chi?" Đáp:"Bỉ nhân họ Hồ, tên Khứ Tật" Đạo trưởng thuận cho ở. Vì Khứ Tật cũng biết thuật thổ nạp nên hai người rất chóng thân nhau, rồi kết làm đạo hữu.
Đầu năm Tân Tị (1641), vào dịp dân chúng sửa soạn lễ tế Trời Đất, Khứ Tật bỏ đạo quán ra đi. Nửa tháng sau, khi tế lễ xong, Khứ Tật mới trở về. Đạo trưởng lấy làm lạ, hỏi:"Cư sĩ đi đâu lâu thế?" Khứ Tật đáp:"Vì đạo trưởng vừa là ân nhân, vừa là đạo hữu nên bỉ nhân chẳng dám giấu. Thực ra, bỉ nhân chẳng phải là người mà là chồn. Hàng năm, cứ vào dịp dân chúng làm lễ tế Trời Đất thì Thượng Đế lại sai linh quan xuống trần tẩy uế nơi lập đàn tràng cũng như vùng phụ cận. Giống chồn bỉ nhân bị coi là giống xú uế nên phải lẩn tránh đi xa trên trăm dặm, kẻo bị linh quan bắt được thì sẽ bị đánh cho đến chết!" Đạo trưởng nghe nói cũng chẳng quan tâm, vẫn để cho Khứ Tật cư trú. Hai năm tiếp theo cũng thế, cứ gần tới dịp tế lễ Trời Đất là Khứ Tật lại bỏ đạo quán ra đi, nửa tháng sau mới về.
Đầu năm Giáp Thân (1644), gần tới dịp tế lễ Trời Đất, Khứ Tật lại bỏ đạo quán ra đi. Nửa tháng sau, chẳng thấy Khứ Tật về, đạo trưởng ngạc nhiên lắm. Ba tháng sau, vẫn chưa thấy Khứ Tật về, đạo trưởng cho là Khứ Tật đã tìm được nơi cư trú mới nên thầm trách Khứ Tật đã dời cư mà chẳng về nói với mình một lời.
Bốn tháng sau, một hôm bỗng thấy Khứ Tật về, đạo trưởng trách:"Cư sĩ đã tìm được nơi cư trú mới rồi phải không? Sao chẳng về nói với bần đạo một lời?" Khứ Tật lắc đầu, đáp:"Thưa chẳng phải thế! Khi dời đạo quán, bỉ nhân vẫn định tâm là nửa tháng sau sẽ về xin đạo trưởng tiếp tục cho cư trú. Song chẳng may lần này, bỉ nhân gặp phải một tai nạn suýt chết nên hôm nay mới về được"
Hỏi: "Tai nạn chi mà nguy hiểm thế?"
Đáp: "Trong kỳ tế lễ vừa qua, bỉ nhân đã toan lẩn tránh đi xa như những kỳ trước, song vì lười biếng nên chỉ tìm cách tạm lẩn quanh vùng này. Khi tới khu rừng rậm cách đây hơn mười dặm về hướng tây, thấy trên bờ một suối nước trong, nằm khuất cuối nẻo rừng, có một chum vỡ, bỉ nhân bèn chui vào chum để tạm lẩn trong nửa tháng. Nào ngờ đúng vào ngày tế lễ, linh quan sục sạo tới cuối nẻo rừng, khám phá ra việc bỉ nhân lẩn tránh trong chum, liền cầm roi xông vào đánh. Kinh hãi quá, bỉ nhân vội bỏ chạy thục mạng!"
Hỏi: "Cư sĩ chạy tới đâu?"
Đáp: "Thưa, tới tận bờ sông Hoàng Hà!"
Hỏi: "Linh quan có đuổi theo không?"
Đáp:"Thưa có! Linh quan đuổi theo rất gấp. Khi ngoái cổ nhìn, thấy linh quan đã tới sát sau lưng, bỉ nhân quẫn quá, đành phải chui vào một cầu tiêu bên sông. Sợ mùi xú uế, linh quan chẳng dám vào, chỉ đứng chờ ở bên ngoài, song bỉ nhân quyết tâm nằm lỳ trong cầu tiêu, chẳng chịu ra. Lát sau, vì không chịu nổi mùi xú uế, linh quan đành bỏ đi!"
Hỏi: "Linh quan đi rồi, sao cư sĩ chẳng về đây ngay?"
Đáp: "Vì bỉ nhân bị mùi xú uế trong cầu tiêu nhiễm vào thân thể nên chẳng dám về, phải chui vào hang đá gần sông tạm trú. Suốt bốn tháng qua, ngày nào bỉ nhân cũng phải nhảy xuống sông tắm gội song chẳng sao gột sạch được mùi xú uế. Sau hơn trăm ngày, mùi xú uế mới bắt đầu phai! Chỉ một ly nữa là bỉ nhân chẳng còn được nhìn thấy đạo trưởng!"
Hỏi:"Bây giờ cư sĩ lại về đây cư trú phải không?"
Đáp:"Thưa không! Hôm nay bỉ nhân về đây để xin cám ơn đạo trưởng đã cho cư trú trong bốn năm qua và tiện thể xin đạo trưởng cho phép được dời khỏi đạo quán!"
Hỏi:"Cư sĩ định đi đâu?"
Đáp: "Bỉ nhân định trở về hang cũ núi xưa"
Hỏi: "Cư sĩ có cần bần đạo giúp đỡ điều gì không?"
Đáp:"Thưa không! Bỉ nhân chỉ muốn thưa với đạo trưởng một việc quan trọng!"
Hỏi:"Việc chi mà quan trọng thế?
" Đáp:"Việc Trung quốc ta sắp bị biến loạn!"
Hỏi:"Sao cư sĩ biết?"
Đáp:"Cơ trời chẳng thể tiết lậu, mong đạo trưởng hiểu cho!"
Hỏi:"Thế chốn này có việc chi không?"
Gật đầu, đáp:"Thưa có! Chốn này nguy hiểm lắm! Là hung địa chứ chẳng phải là phúc địa! Đạo trưởng nên dời ngay đi nơi khác thì hơn!" Rồi xin cáo biệt. Đạo trưởng nghe lời, bèn bỏ đạo quán mà đi, chẳng ai biết là đi đâu.
Mấy tháng sau, quả nhiên biến cố Giáp Thân (1644) xảy ra. Trung quốc bị biến loạn. Nhà Minh mất ngôi với nhà Thanh. Trong cơn binh lửa, đạo quán Chiêu Thiên bị san thành bình địa.
NHỜ TIÊN, ĐẬU THỦ KHOA
(truyện TAM TIÊN)
Định thị hồ lô hữu túc nhân
Bất nhiên ngộ hợp ức hà thần
Văn chương xuất tự tiên nhân bút
Đắc ý thu vi đệ nhất nhân
Huyện Hải Ninh, tỉnh Triết Giang, có nho sinh họ Sử tên Thiệu Hoàng.
Năm ấy, triều đình mở khoa thi hương ở huyện Giang Ninh tỉnh Giang Tô. Thiệu Hoàng lên đường tới Giang Ninh ứng thí, dắt theo một tiểu đồng. Dọc đường, qua huyện thành Túc Thiên, gặp trời nắng gắt, Thiệu Hoàng dắt tiểu đồng vào quán trọ thuê phòng, bảo tiểu đồng nằm nghỉ để mình ra phố xem cảnh chợ.
Tới chợ, Thiệu Hoàng gặp ba nho sinh, dáng vẻ phong nhã, người nào cũng dắt theo một tiểu đồng, bèn tới gần làm quen, nói:"Đệ họ Sử, tên Thiệu Hoàng, người huyện Hải Ninh tỉnh Triết Giang, tới huyện Giang Ninh tỉnh Giang Tô ứng thí. Dọc đường, nghỉ chân tại quán trọ gần đây rồi ra phố xem cảnh chợ. Nay tình cờ được gặp chư huynh, thực là vạn hạnh" Một khách lấy tay chỉ hai bạn đồng hành, nói:"Huynh đây họ Thường, tên Phong Lâm, huynh kia họ Ma, tên Tây Trì còn đệ họ Giới, tên Thu Hành" Hai khách kia thấy thế cũng vồn vã chạy tới tiếp chuyện. Thiệu Hoàng bèn mời ba khách về phòng mình đàm luận văn chương. Mọi người đều thuận ý.
Về phòng, Thiệu Hoàng đưa tiền cho tiểu đồng, sai đi mua rượu thịt về để thết khách, một bàn cho chủ, một bàn cho tớ. Mọi người cùng ngồi yến ẩm, đàm luận cực kỳ vui vẻ. Tới chiều, Thu Hành đứng dậy nói:"Cám ơn Sử huynh đã cho chúng đệ vào phòng ngồi yến ẩm đàm luận. Đáng lẽ người địa phương phải mời trước, song trót lỡ rồi. Bây giờ tới lượt đệ xin được mời chư huynh tới tệ xá đàm luận rồi nghỉ đêm tại đó. Tệ xá cũng ở gần đây thôi!" Phong Lâm và Tây Trì cùng gật đầu, đứng dậy chỉnh lại mũ áo rồi kêu tiểu đồng chuẩn bị khởi hành. Thấy thế, Thiệu Hoàng cũng vội thanh toán tiền phòng rồi kêu tiểu đồng chuẩn bị đi theo.
Thu Hành dẫn mọi người lên phía bắc huyện thành, leo lên núi, qua cửa động, vào một phủ đệ cực kỳ rộng lớn, thanh khiết, có hào nước bao quanh, Thu Hành sai tiểu đồng lên sảnh đường thắp đèn và sắp rượu rồi dắt ba tiểu đồng kia xuống nhà ngang cho ăn uống, nghỉ ngơi.
Thu Hành thỉnh ba khách lên sảnh đường an tọa để tiếp tục đàm luận văn chương. Lát sau, toan rót rượu mời khách thì Tây Trì gạt đi, nói:"Người xưa thường lấy văn chương họp bạn, nay ta bắt chước, thế là vui rồi. Tuy nhiên, đàm luận xuông mãi thì cũng chán, ta nên ôn tập lại lối viết văn bài cử nghiệp để đi thi! Xin mỗi huynh nghĩ cho một đề, viết ra giấy, rồi gom cả lại để rút thăm. Ai rút trúng đề nào thì viết bài theo đề ấy. Viết xong ta uống rượu cũng chưa muộn!" Mọi người đều thuận ý. Thu Hành bèn vào thư phòng lấy giấy bút ra phân phát. Thiệu Hoàng rút trúng đề thi của mình. Tây Trì nói:"Xin mỗi huynh hãy tới một góc phòng, ngồi mà viết bài!" Mọi người cùng gật đầu. Tới canh hai, mọi bài đều xong. Tây Trì gom cả lại, đưa cho Thiệu Hoàng đọc trước. Thấy văn người hay quá, vượt hẳn văn mình, Thiệu Hoàng bèn lấy giấy ra chép vắn tắt lại cả ba đề cùng những câu hay rồi cất vào túi. Chép xong, trao lại cho khách truyền tay nhau đọc.
Thu Hành rót rượu mời khách. Mọi người cùng đua nhau uống.
Lát sau, Thiệu Hoàng xin được đi nằm. Thu Hành liền dẫn vào phòng riêng. Vì say quá, Thiệu Hoàng để nguyên áo quần mà ngủ.
Sáng ra, mở mắt nhìn lên, thấy một mui động đầy thạch nhũ, Thiệu Hoàng kinh hãi lắm.
Đảo mắt nhìn quanh, thấy hai thày trò nằm trên tảng đá lớn trong động, Thiệu Hoàng ngỡ là mình nằm mộng. Bèn thò tay vào túi tìm bản chép ba đề thi để xem mình đang tỉnh hay mơ. Thấy bản chép vẫn còn nguyên, Thiệu Hoàng biết là mình đang tỉnh. Kinh hãi quá, Thiệu Hoàng lay gọi tiểu đồng. Tiểu đồng vụt tỉnh, dụi mắt ngồi dậy. Thiệu Hoàng bèn bảo tiểu đồng theo mình ra khỏi động, rồi hai thày trò tìm đường xuống núi, trở lại huyện thành Túc Thiên.
Vào thành, Thiệu Hoàng hỏi thăm cư dân:"Động núi tên chi?" Có kẻ đáp:"Tên Tam Tiên Động" Hỏi:"Sao lại có tên như thế?" Đáp:"Vì có ba vật rất thiêng, tu luyện đã thành tiên, thường hiện hình người, vào huyện thành dạo chơi" Hỏi:"Ba vật gì?" Đáp:"Một cua, một rắn, một ễnh ương!" Thiệu Hoàng chợt rùng mình sợ hãi.
Thiệu Hoàng dắt tiểu đồng tới Giang Ninh thuê phòng ở trọ. Cố nhớ lại ba bài văn, viết ra giấy, học thuộc lòng.
Tới ngày nhập trường thi, Thiệu Hoàng đọc ba đề, thấy giống hệt ba đề của Phong Lâm, Tây Trì và Thu Hành nên lần lượt chép cả ba bài đã học thuộc vào quyển rồi đem nạp.
Năm ấy, Thiệu Hoàng đậu thủ khoa.
Định thị hồ lô hữu túc nhân
Bất nhiên ngộ hợp ức hà thần
Văn chương xuất tự tiên nhân bút
Đắc ý thu vi đệ nhất nhân
Huyện Hải Ninh, tỉnh Triết Giang, có nho sinh họ Sử tên Thiệu Hoàng.
Năm ấy, triều đình mở khoa thi hương ở huyện Giang Ninh tỉnh Giang Tô. Thiệu Hoàng lên đường tới Giang Ninh ứng thí, dắt theo một tiểu đồng. Dọc đường, qua huyện thành Túc Thiên, gặp trời nắng gắt, Thiệu Hoàng dắt tiểu đồng vào quán trọ thuê phòng, bảo tiểu đồng nằm nghỉ để mình ra phố xem cảnh chợ.
Tới chợ, Thiệu Hoàng gặp ba nho sinh, dáng vẻ phong nhã, người nào cũng dắt theo một tiểu đồng, bèn tới gần làm quen, nói:"Đệ họ Sử, tên Thiệu Hoàng, người huyện Hải Ninh tỉnh Triết Giang, tới huyện Giang Ninh tỉnh Giang Tô ứng thí. Dọc đường, nghỉ chân tại quán trọ gần đây rồi ra phố xem cảnh chợ. Nay tình cờ được gặp chư huynh, thực là vạn hạnh" Một khách lấy tay chỉ hai bạn đồng hành, nói:"Huynh đây họ Thường, tên Phong Lâm, huynh kia họ Ma, tên Tây Trì còn đệ họ Giới, tên Thu Hành" Hai khách kia thấy thế cũng vồn vã chạy tới tiếp chuyện. Thiệu Hoàng bèn mời ba khách về phòng mình đàm luận văn chương. Mọi người đều thuận ý.
Về phòng, Thiệu Hoàng đưa tiền cho tiểu đồng, sai đi mua rượu thịt về để thết khách, một bàn cho chủ, một bàn cho tớ. Mọi người cùng ngồi yến ẩm, đàm luận cực kỳ vui vẻ. Tới chiều, Thu Hành đứng dậy nói:"Cám ơn Sử huynh đã cho chúng đệ vào phòng ngồi yến ẩm đàm luận. Đáng lẽ người địa phương phải mời trước, song trót lỡ rồi. Bây giờ tới lượt đệ xin được mời chư huynh tới tệ xá đàm luận rồi nghỉ đêm tại đó. Tệ xá cũng ở gần đây thôi!" Phong Lâm và Tây Trì cùng gật đầu, đứng dậy chỉnh lại mũ áo rồi kêu tiểu đồng chuẩn bị khởi hành. Thấy thế, Thiệu Hoàng cũng vội thanh toán tiền phòng rồi kêu tiểu đồng chuẩn bị đi theo.
Thu Hành dẫn mọi người lên phía bắc huyện thành, leo lên núi, qua cửa động, vào một phủ đệ cực kỳ rộng lớn, thanh khiết, có hào nước bao quanh, Thu Hành sai tiểu đồng lên sảnh đường thắp đèn và sắp rượu rồi dắt ba tiểu đồng kia xuống nhà ngang cho ăn uống, nghỉ ngơi.
Thu Hành thỉnh ba khách lên sảnh đường an tọa để tiếp tục đàm luận văn chương. Lát sau, toan rót rượu mời khách thì Tây Trì gạt đi, nói:"Người xưa thường lấy văn chương họp bạn, nay ta bắt chước, thế là vui rồi. Tuy nhiên, đàm luận xuông mãi thì cũng chán, ta nên ôn tập lại lối viết văn bài cử nghiệp để đi thi! Xin mỗi huynh nghĩ cho một đề, viết ra giấy, rồi gom cả lại để rút thăm. Ai rút trúng đề nào thì viết bài theo đề ấy. Viết xong ta uống rượu cũng chưa muộn!" Mọi người đều thuận ý. Thu Hành bèn vào thư phòng lấy giấy bút ra phân phát. Thiệu Hoàng rút trúng đề thi của mình. Tây Trì nói:"Xin mỗi huynh hãy tới một góc phòng, ngồi mà viết bài!" Mọi người cùng gật đầu. Tới canh hai, mọi bài đều xong. Tây Trì gom cả lại, đưa cho Thiệu Hoàng đọc trước. Thấy văn người hay quá, vượt hẳn văn mình, Thiệu Hoàng bèn lấy giấy ra chép vắn tắt lại cả ba đề cùng những câu hay rồi cất vào túi. Chép xong, trao lại cho khách truyền tay nhau đọc.
Thu Hành rót rượu mời khách. Mọi người cùng đua nhau uống.
Lát sau, Thiệu Hoàng xin được đi nằm. Thu Hành liền dẫn vào phòng riêng. Vì say quá, Thiệu Hoàng để nguyên áo quần mà ngủ.
Sáng ra, mở mắt nhìn lên, thấy một mui động đầy thạch nhũ, Thiệu Hoàng kinh hãi lắm.
Đảo mắt nhìn quanh, thấy hai thày trò nằm trên tảng đá lớn trong động, Thiệu Hoàng ngỡ là mình nằm mộng. Bèn thò tay vào túi tìm bản chép ba đề thi để xem mình đang tỉnh hay mơ. Thấy bản chép vẫn còn nguyên, Thiệu Hoàng biết là mình đang tỉnh. Kinh hãi quá, Thiệu Hoàng lay gọi tiểu đồng. Tiểu đồng vụt tỉnh, dụi mắt ngồi dậy. Thiệu Hoàng bèn bảo tiểu đồng theo mình ra khỏi động, rồi hai thày trò tìm đường xuống núi, trở lại huyện thành Túc Thiên.
Vào thành, Thiệu Hoàng hỏi thăm cư dân:"Động núi tên chi?" Có kẻ đáp:"Tên Tam Tiên Động" Hỏi:"Sao lại có tên như thế?" Đáp:"Vì có ba vật rất thiêng, tu luyện đã thành tiên, thường hiện hình người, vào huyện thành dạo chơi" Hỏi:"Ba vật gì?" Đáp:"Một cua, một rắn, một ễnh ương!" Thiệu Hoàng chợt rùng mình sợ hãi.
Thiệu Hoàng dắt tiểu đồng tới Giang Ninh thuê phòng ở trọ. Cố nhớ lại ba bài văn, viết ra giấy, học thuộc lòng.
Tới ngày nhập trường thi, Thiệu Hoàng đọc ba đề, thấy giống hệt ba đề của Phong Lâm, Tây Trì và Thu Hành nên lần lượt chép cả ba bài đã học thuộc vào quyển rồi đem nạp.
Năm ấy, Thiệu Hoàng đậu thủ khoa.
KHỎE NHƯ HỔ, NHANH NHƯ VƯỢN
(truyện BẢO TRỤ)
Tiệp tự viên nhu tấn tự hồng
Tì bà thuấn tức đạo thâm cung
Khả lân cụ thử hảo thân thủ
Ngộ lạc Ngô Phiên nghịch để trung
Cuối triều Minh, tổng binh của quân đội triều đình là tướng quân họ Ngô, tên Tam Quế, tên chữ Trường Bạch. Vua Trang Liệt sai Trường Bạch đem quân lên trấn giữ cửa quan Sơn Hải ở Vạn Lý Trường Thành, thuộc huyện Lâm Du, tỉnh Hà Bắc.
Năm Giáp Thân (1644), niên hiệu Sùng Trinh thứ 17, có tướng giặc họ Lý, tên Tự Thành ở tỉnh Thiểm Tây nổi lên chống lại triều đình. Tự Thành đem quân công hãm Bắc Kinh, ép vua thoái vị.
Nghe tin, Trường Bạch vội đem quân về cứu giá song khi về tới nơi thì vua đã thắt cổ tự ải. Thấy khí thế của giặc mạnh quá, Trường Bạch bèn sai thuộc hạ lên mở cửa quan Sơn Hải, rước quân của Ái Tân Giác La về Bắc Kinh giúp mình đánh giặc. Tự Thành thua chạy, phải tự sát.
Lợi dụng cơ hội vào được Bắc Kinh, Ái Tân Giác La liền diệt nhà Minh, lập nhà Thanh, lên ngôi hoàng đế, tức vua Thế Tổ. Đặt niên hiệu là Thuận Trị, phong cho Trường Bạch tước Bình Tây Vương, sai trấn giữ vùng Vân Nam. Ít lâu sau, lại bãi tước của Trường Bạch. Trường Bạch bèn mưu phản, song chưa được bao lâu thì bị bệnh mà chết. Phản quân tan rã.
Sinh thời, Trường Bạch có một tùy tướng tên Bảo Trụ, khỏe như hổ, nhanh như vượn.
Một hôm, Bảo Trụ cho gọi thợ mộc tới tư thất xây cất lầu cao. Thợ vừa dựng xong sườn lầu, Bảo Trụ đã bám vào một góc, leo lên nóc lầu, chạy vùn vụt đủ bốn vòng, rồi nhún mình nhảy xuống đất, thân vẫn thẳng, chân không chùn.
Vua có một quý phi rất thiện nghề đàn hát. Quý phi có một cây đàn tì bà rất quý, phím làm bằng noãn ngọc. Vào mùa đông, khi tiết trời lạnh lẽo, quý phi đem đàn ra gảy thì tiếng đàn làm cho căn phòng ấm áp hẳn lên. Quý phi quý cây đàn ấy lắm, cất giấu thực kỹ, chẳng cho ai coi, trừ khi có chỉ dụ do chính tay vua viết.
Một hôm, vua triệu quần thần về kinh ban yến. Trường Bạch cũng được vời, dắt Bảo Trụ về theo. Tối ấy, trong tiệc, vua kể chuyện lạ về cây đàn của quý phi. Quần thần đều nôn nóng muốn được coi nên đồng thanh tâu: "Muôn tâu bệ hạ, xin bệ hạ truyền cho nội thị đi lấy cây đàn tới đây cho chúng thần được chiêm ngưỡng một lần!" Vua ngần ngại, chẳng muốn cho coi nên đáp:"Trẫm đã hứa với quý phi là chỉ viết dụ để lấy cây đàn vào ban ngày thôi. Bây giờ tối rồi, quý phi cất giấu kỹ lắm, chẳng ai tới lấy được đâu! Sáng mai lâm triều, trẫm sẽ viết dụ sai nội thị tới lấy đem vào triều cho các khanh coi!" Quần thần đều im lặng, chẳng ai dám năn nỉ chi thêm.
Lúc ấy, Bảo Trụ đang ngồi cạnh Trường Bạch, liền đứng dậy lên tiếng:"Muôn tâu bệ hạ, nếu bây giờ bệ hạ truyền mệnh cho hạ thần đi lấy cây đàn tới đây thì hạ thần nghĩ mình chẳng đến nỗi mang tội làm nhục mệnh vua!" Vua chẳng biết nói sao, bèn vẫy một tên nội thị thân tín tới gần, khẽ truyền:"Nhà ngươi hãy tới ngay phi cung, dặn quý phi bắt thị nữ phải canh phòng cẩn mật, không được để cho ai tới lấy cây đàn!" Nội thị phụng mệnh, chạy đi ngay.
Lát sau, vua mới quay qua nói với Bảo Trụ:"Nhà ngươi vừa nói có thể đi lấy được cây đàn của quý phi tới đây. Vậy bây giờ trẫm cho phép nhà ngươi đi lấy đó!" Bảo Trụ liền cúi đầu đáp:"Hạ thần xin phụng mệnh!" Rồi bỏ chạy ra ngoài, lần đường tới phi cung.
Tới nơi, thấy đèn đuốc bên trong thắp sáng chưng, cửa đóng then cài rất kỹ, Bảo Trụ chẳng sao lẻn vào được. Thấy ngoài hành lang có con vẹt đậu trên giá, Bảo Trụ chợt nghĩ ra một kế. Bèn bắt chước tiếng mèo gầm gừ rồi bắt chước tiếng vẹt khiếp hãi. Tiếng mèo gầm gừ càng gần thì tiếng vẹt khiếp hãi càng gấp. Quả nhiên trong phòng có tiếng nữ nhân truyền lệnh:"Duyên nô! Hãy ra mở cửa đem vẹt vào đây kẻo nó bị mèo vồ chết bây giờ!" Bảo Trụ vội đứng nép vào bức tường cạnh cửa.
Lát sau, cánh cửa hé mở rồi có một thị nữ cầm đèn lồng bước ra. Bảo Trụ liền nhanh chân lẻn vào. Thấy quý phi đang ngồi ôm chặt cây đàn trong lòng, Bảo Trụ liền xông tới giật lấy rồi đẩy cửa chạy ra ngoài. Quý phi hốt hoảng, hô hoán ầm ĩ:"Đạo tặc! Đạo tặc!" Lính tuần phòng nghe tiếng, hò nhau cầm đèn chạy tới. Thấy một hán tử từ phi cung chạy ra, kẹp cây đàn ở nách, chúng liền đuổi bắt. Thấy hán tử chạy nhanh quá, chúng bèn lấy cung tên mà bắn như mưa song hán tử chẳng bị trúng mũi nào.
Thấy ở dọc hàng rào có một dãy hòe cao, Bảo Trụ liền phóng mình nhảy lên một cây, leo lên ngọn, chuyền từ ngọn nọ sang ngọn kia nhanh như vượn. Xuyên hết dãy cây, lại nhảy xuống đất, chạy vụt qua mấy dãy cung thất, mấy ngôi nhà lầu, rồi về tới điện, nơi nhà vua và quần thần đang yến ẩm.
Bảo Trụ vào điện, tới trước mặt vua, quỳ xuống mà dâng cây đàn. Vua hết sức ngạc nhiên, truyền nội thị chuyển cây đàn cho quần thần coi khắp lượt rồi truyền đem trả lại quý phi.
Ai cũng khen Bảo Trụ là một viên tướng vừa khỏe lại vừa nhanh.
Tiệp tự viên nhu tấn tự hồng
Tì bà thuấn tức đạo thâm cung
Khả lân cụ thử hảo thân thủ
Ngộ lạc Ngô Phiên nghịch để trung
Cuối triều Minh, tổng binh của quân đội triều đình là tướng quân họ Ngô, tên Tam Quế, tên chữ Trường Bạch. Vua Trang Liệt sai Trường Bạch đem quân lên trấn giữ cửa quan Sơn Hải ở Vạn Lý Trường Thành, thuộc huyện Lâm Du, tỉnh Hà Bắc.
Năm Giáp Thân (1644), niên hiệu Sùng Trinh thứ 17, có tướng giặc họ Lý, tên Tự Thành ở tỉnh Thiểm Tây nổi lên chống lại triều đình. Tự Thành đem quân công hãm Bắc Kinh, ép vua thoái vị.
Nghe tin, Trường Bạch vội đem quân về cứu giá song khi về tới nơi thì vua đã thắt cổ tự ải. Thấy khí thế của giặc mạnh quá, Trường Bạch bèn sai thuộc hạ lên mở cửa quan Sơn Hải, rước quân của Ái Tân Giác La về Bắc Kinh giúp mình đánh giặc. Tự Thành thua chạy, phải tự sát.
Lợi dụng cơ hội vào được Bắc Kinh, Ái Tân Giác La liền diệt nhà Minh, lập nhà Thanh, lên ngôi hoàng đế, tức vua Thế Tổ. Đặt niên hiệu là Thuận Trị, phong cho Trường Bạch tước Bình Tây Vương, sai trấn giữ vùng Vân Nam. Ít lâu sau, lại bãi tước của Trường Bạch. Trường Bạch bèn mưu phản, song chưa được bao lâu thì bị bệnh mà chết. Phản quân tan rã.
Sinh thời, Trường Bạch có một tùy tướng tên Bảo Trụ, khỏe như hổ, nhanh như vượn.
Một hôm, Bảo Trụ cho gọi thợ mộc tới tư thất xây cất lầu cao. Thợ vừa dựng xong sườn lầu, Bảo Trụ đã bám vào một góc, leo lên nóc lầu, chạy vùn vụt đủ bốn vòng, rồi nhún mình nhảy xuống đất, thân vẫn thẳng, chân không chùn.
Vua có một quý phi rất thiện nghề đàn hát. Quý phi có một cây đàn tì bà rất quý, phím làm bằng noãn ngọc. Vào mùa đông, khi tiết trời lạnh lẽo, quý phi đem đàn ra gảy thì tiếng đàn làm cho căn phòng ấm áp hẳn lên. Quý phi quý cây đàn ấy lắm, cất giấu thực kỹ, chẳng cho ai coi, trừ khi có chỉ dụ do chính tay vua viết.
Một hôm, vua triệu quần thần về kinh ban yến. Trường Bạch cũng được vời, dắt Bảo Trụ về theo. Tối ấy, trong tiệc, vua kể chuyện lạ về cây đàn của quý phi. Quần thần đều nôn nóng muốn được coi nên đồng thanh tâu: "Muôn tâu bệ hạ, xin bệ hạ truyền cho nội thị đi lấy cây đàn tới đây cho chúng thần được chiêm ngưỡng một lần!" Vua ngần ngại, chẳng muốn cho coi nên đáp:"Trẫm đã hứa với quý phi là chỉ viết dụ để lấy cây đàn vào ban ngày thôi. Bây giờ tối rồi, quý phi cất giấu kỹ lắm, chẳng ai tới lấy được đâu! Sáng mai lâm triều, trẫm sẽ viết dụ sai nội thị tới lấy đem vào triều cho các khanh coi!" Quần thần đều im lặng, chẳng ai dám năn nỉ chi thêm.
Lúc ấy, Bảo Trụ đang ngồi cạnh Trường Bạch, liền đứng dậy lên tiếng:"Muôn tâu bệ hạ, nếu bây giờ bệ hạ truyền mệnh cho hạ thần đi lấy cây đàn tới đây thì hạ thần nghĩ mình chẳng đến nỗi mang tội làm nhục mệnh vua!" Vua chẳng biết nói sao, bèn vẫy một tên nội thị thân tín tới gần, khẽ truyền:"Nhà ngươi hãy tới ngay phi cung, dặn quý phi bắt thị nữ phải canh phòng cẩn mật, không được để cho ai tới lấy cây đàn!" Nội thị phụng mệnh, chạy đi ngay.
Lát sau, vua mới quay qua nói với Bảo Trụ:"Nhà ngươi vừa nói có thể đi lấy được cây đàn của quý phi tới đây. Vậy bây giờ trẫm cho phép nhà ngươi đi lấy đó!" Bảo Trụ liền cúi đầu đáp:"Hạ thần xin phụng mệnh!" Rồi bỏ chạy ra ngoài, lần đường tới phi cung.
Tới nơi, thấy đèn đuốc bên trong thắp sáng chưng, cửa đóng then cài rất kỹ, Bảo Trụ chẳng sao lẻn vào được. Thấy ngoài hành lang có con vẹt đậu trên giá, Bảo Trụ chợt nghĩ ra một kế. Bèn bắt chước tiếng mèo gầm gừ rồi bắt chước tiếng vẹt khiếp hãi. Tiếng mèo gầm gừ càng gần thì tiếng vẹt khiếp hãi càng gấp. Quả nhiên trong phòng có tiếng nữ nhân truyền lệnh:"Duyên nô! Hãy ra mở cửa đem vẹt vào đây kẻo nó bị mèo vồ chết bây giờ!" Bảo Trụ vội đứng nép vào bức tường cạnh cửa.
Lát sau, cánh cửa hé mở rồi có một thị nữ cầm đèn lồng bước ra. Bảo Trụ liền nhanh chân lẻn vào. Thấy quý phi đang ngồi ôm chặt cây đàn trong lòng, Bảo Trụ liền xông tới giật lấy rồi đẩy cửa chạy ra ngoài. Quý phi hốt hoảng, hô hoán ầm ĩ:"Đạo tặc! Đạo tặc!" Lính tuần phòng nghe tiếng, hò nhau cầm đèn chạy tới. Thấy một hán tử từ phi cung chạy ra, kẹp cây đàn ở nách, chúng liền đuổi bắt. Thấy hán tử chạy nhanh quá, chúng bèn lấy cung tên mà bắn như mưa song hán tử chẳng bị trúng mũi nào.
Thấy ở dọc hàng rào có một dãy hòe cao, Bảo Trụ liền phóng mình nhảy lên một cây, leo lên ngọn, chuyền từ ngọn nọ sang ngọn kia nhanh như vượn. Xuyên hết dãy cây, lại nhảy xuống đất, chạy vụt qua mấy dãy cung thất, mấy ngôi nhà lầu, rồi về tới điện, nơi nhà vua và quần thần đang yến ẩm.
Bảo Trụ vào điện, tới trước mặt vua, quỳ xuống mà dâng cây đàn. Vua hết sức ngạc nhiên, truyền nội thị chuyển cây đàn cho quần thần coi khắp lượt rồi truyền đem trả lại quý phi.
Ai cũng khen Bảo Trụ là một viên tướng vừa khỏe lại vừa nhanh.
GÁI CHỒN
(truyện HỒ NỮ)
Chung tình hà ý lai bôn nữ
Thủ lễ thiên tri tị nhược ông
Ám hợp tú châm công ảo hóa
Chu toàn nan đắc loạn ly trung
Huyện Cửu Giang tỉnh Giang Tây có thanh niên họ Y, tên Cổn, mồ côi mẹ, sống với cha là Y ông, một thày lang trong huyện.
Một đêm, Y Cổn đang nằm ngủ, bỗng giật mình tỉnh giấc. Thấy một cô gái đẩy cửa bước vào phòng, Y Cổn kinh hãi, lớn tiếng hỏi:"Nàng là ai?" Cô gái mỉm cười, đáp:"Là chồn!" Hỏi:"Họ tên nàng là gì?" Cười, đáp:"Cần gì phải biết họ tên! Cứ gọi bằng Hồ Nữ là được rồi!" Nói xong, leo lên giường, cởi bỏ áo quần, ôm chặt lấy Y Cổn mà hôn hít, ép phải giao hoan. Tuy biết là chồn song vì thấy cô gái đẹp quá, Y Cổn chẳng sao cưỡng lại được nên truy hoan cuồng loạn. Sáng ra, Hồ Nữ cáo biệt, hẹn tối tối sẽ trở lại. Quả nhiên, từ đó, tối nào Hồ Nữ cũng tới. Y Cổn giấu kín chuyện, chẳng dám thuật lại cho ai nghe.
Ít lâu sau, thấy thân xác con mình mỗi ngày một tiều tụy, Y ông lấy làm lạ, bèn tra hỏi. Y Cổn giấu bặt, nói rằng chính mình cũng chẳng biết tại sao. Y ông chẳng tin, cứ gặng hỏi mãi. Y Cổn đành thú thực. Y ông lo lắm, bèn thuê một thanh niên cường tráng trong làng, họ Cung, tên Đạt, tới ngủ với con để cho Hồ Nữ sợ mà xa lánh. Thế nhưng, Hồ Nữ vẫn cứ tới, ép cả Y Cổn lẫn Cung Đạt cùng giao hoan với mình. Thấy vậy, Y ông giận lắm, chẳng thuê Cung Đạt nữa, tối nào cũng vào ngủ với con. Từ đó, Hồ Nữ lánh mặt.
Một hôm, Y ông bận việc, phải nhờ một thanh niên khác, họ Ninh, tên Hoạt, tới ngủ với con. Hồ Nữ lại tới, ép cả Y Cổn lẫn Ninh Hoạt cùng giao hoan với mình. Thấy thế, Y Cổn lấy làm lạ, hỏi:"Tại sao nàng chỉ sợ có một mình cha ta thôi? Người nào khác tới ngủ với ta, nàng cũng vẫn tới, còn cha ta vào thì nàng lại lánh mặt?" Hồ Nữ đáp:"Thực ra thì thiếp có sợ ai đâu vì người trần thế có ai làm gì được thiếp? Tuy nhiên, thiếp vẫn còn chút luân thường đạo lý, chẳng thể ép cả hai cha con cùng giao hoan với mình được!"
Sáng ra, Y Cổn thuật chuyện lại cho cha nghe. Từ đó, tối nào Y ông cũng vào ngủ với con. Cũng từ đó, Hồ Nữ biệt tăm.
Nửa năm sau, huyện Cửu Giang bị giặc nổi lên cướp phá. Thấy dân chúng trong làng rủ nhau đem thực phẩm chạy giặc, gia đình Y Cổn cũng đem thực phẩm chạy theo, rồi lạc nhau, mỗi người một ngả.
Y Cổn chạy thục mạng vào núi Côn Lôn, từ sáng tới tối mới dám chậm bước. Thấy mặt trời đã lặn mà bốn bề toàn là rừng núi hoang vu, chẳng có ai chạy cùng đường với mình, Y Cổn lo lắm. Chợt thấy thấp thoáng từ xa có bóng một cô gái chạy tới phía mình, Y Cổn mừng quá vì nghĩ rằng mình sắp có bạn để chia sẻ mối lo âu. Khi cô gái tới gần, Y Cổn mới nhận ra cô gái chính là Hồ Nữ. Tuy vẫn sợ Hồ Nữ lại ép mình giao hoan song trong hoàn cảnh ấy, gặp được người quen cũ, Y Cổn cũng mừng lắm. Bèn lên tiếng hỏi:"Nàng đi đâu mà tình cờ chúng ta lại gặp nhau ở chốn này?" Hồ Nữ đáp:"Đâu có phải là tình cờ! Thiếp cố tình tới đây đó chứ!" Hỏi:"Nàng tới đây để làm chi?" Đáp:"Biết chàng chạy giặc tới đây nên thiếp tới để giúp chàng dựng tạm một ngôi nhà mà ngủ qua đêm! Bây giờ tối rồi, chàng chẳng nên đi đâu nữa, cứ đứng ở đây mà chờ, để thiếp dựng nhà cho!" Nói xong, chạy ngược lên phía bắc. Tới một bãi cỏ mãng um tùm, Hồ Nữ dừng chân rồi ngồi thụp xuống.
Lát sau, Hồ Nữ đứng dậy chạy tới chỗ Y Cổn, nắm lấy tay, kéo xuôi xuống phía nam. Kéo được một quãng, Hồ Nữ lại dừng chân, nói:"Chạy tới đây đủ rồi! Ta quay trở lại thôi!" rồi lại nắm tay Y Cổn mà kéo ngược lên phía bắc.
Tới bãi cỏ mãng, Y Cổn sửng sốt vì chợt thấy một ngôi nhà mọc sừng sững giữa khu rừng cổ thụ. Nhìn kỹ, Y Cổn thấy ngôi nhà rất kỳ lạ. Ngôi nhà vuông vức, dựng trên bốn trụ sắt, nằm lọt trong khuôn viên một bức tường đồng, bốn bề kín mít, chẳng cổng ra vào. Thế nhưng, trên tường lại có những hốc lõm nhỏ, có thể tra chân vào để leo lên được. Y Cổn thắc mắc, hỏi:"Lúc nãy tuy nàng có nói là sẽ dựng tạm cho ta một ngôi nhà song ta có thấy nàng dựng lúc nào đâu mà bây giờ lại có ngôi nhà kỳ lạ này?" Hồ Nữ cười, đáp:"Thắc mắc làm chi cho thêm mệt sức? Có nhà thì hãy cứ vào mà ngủ cho qua đêm nay đi đã! Sáng mai rồi sẽ biết!" Nói xong, Hồ Nữ leo tường vào trong sân rồi bảo Y Cổn bắt chước mình mà leo vào. Y Cổn bèn leo vào theo. Thấy ngôi nhà chẳng giống những ngôi nhà bình thường, Y Cổn kinh hãi lắm. Thấy thế, Hồ Nữ cười, nói:"Có thiếp ở đây, chàng đừng có sợ!" Rồi nắm lấy tay Y Cổn mà dắt vào nhà.
Đêm ấy, Hồ Nữ ngủ chung với Y Cổn, lại ép giao hoan. Xong xuôi, Hồ Nữ giả vờ đòi từ biệt. Y Cổn kinh hãi quá, cứ năn nỉ mãi, Hồ Nữ mới chịu ở lại. Quá nửa đêm, Y Cổn đang ngủ say, Hồ Nữ lại lay dậy, nói: "Vì bị cha chàng ghét bỏ nên thiếp đã quyết tâm đoạn tuyệt với chàng. Hôm nay, chẳng hiểu vì cớ gì mà thiếp lại thấy thương hại chàng, muốn tới đây giúp chàng dựng một ngôi nhà để ngủ, chẳng còn giữ nổi cái quyết tâm ấy nữa. Sáng mai thiếp đi, sẽ tặng lại cho chàng ngôi nhà này! Trong nhà có nhiều vàng bạc, chàng có thể lấy mà ăn tiêu suốt đời! Bây giờ chàng hãy giao hoan với thiếp một lần nữa đi đã!" Nghe thấy thế, Y Cổn mừng lắm, bèn lại giao hoan với Hồ Nữ. Rồi nằm lăn ra ngủ.
Sáng sau, khi tỉnh giấc, Y Cổn chẳng thấy Hồ Nữ đâu nữa. Bèn sục sạo tìm vàng bạc trong nhà, song chẳng thấy chi. Chán nản, Y Cổn leo tường ra ngoài.
Xuống tới đất, ngửng đầu nhìn lên, Y Cổn thấy tường, nhà, đều đã biến mất, chỉ còn lại một chiếc hộp gỗ, đặt trên bốn chiếc đinh sắt nhỏ cắm dưới đất, nằm lọt trong khuôn viên một bức tường tí hon, giữa bãi cỏ mãng.
Chung tình hà ý lai bôn nữ
Thủ lễ thiên tri tị nhược ông
Ám hợp tú châm công ảo hóa
Chu toàn nan đắc loạn ly trung
Huyện Cửu Giang tỉnh Giang Tây có thanh niên họ Y, tên Cổn, mồ côi mẹ, sống với cha là Y ông, một thày lang trong huyện.
Một đêm, Y Cổn đang nằm ngủ, bỗng giật mình tỉnh giấc. Thấy một cô gái đẩy cửa bước vào phòng, Y Cổn kinh hãi, lớn tiếng hỏi:"Nàng là ai?" Cô gái mỉm cười, đáp:"Là chồn!" Hỏi:"Họ tên nàng là gì?" Cười, đáp:"Cần gì phải biết họ tên! Cứ gọi bằng Hồ Nữ là được rồi!" Nói xong, leo lên giường, cởi bỏ áo quần, ôm chặt lấy Y Cổn mà hôn hít, ép phải giao hoan. Tuy biết là chồn song vì thấy cô gái đẹp quá, Y Cổn chẳng sao cưỡng lại được nên truy hoan cuồng loạn. Sáng ra, Hồ Nữ cáo biệt, hẹn tối tối sẽ trở lại. Quả nhiên, từ đó, tối nào Hồ Nữ cũng tới. Y Cổn giấu kín chuyện, chẳng dám thuật lại cho ai nghe.
Ít lâu sau, thấy thân xác con mình mỗi ngày một tiều tụy, Y ông lấy làm lạ, bèn tra hỏi. Y Cổn giấu bặt, nói rằng chính mình cũng chẳng biết tại sao. Y ông chẳng tin, cứ gặng hỏi mãi. Y Cổn đành thú thực. Y ông lo lắm, bèn thuê một thanh niên cường tráng trong làng, họ Cung, tên Đạt, tới ngủ với con để cho Hồ Nữ sợ mà xa lánh. Thế nhưng, Hồ Nữ vẫn cứ tới, ép cả Y Cổn lẫn Cung Đạt cùng giao hoan với mình. Thấy vậy, Y ông giận lắm, chẳng thuê Cung Đạt nữa, tối nào cũng vào ngủ với con. Từ đó, Hồ Nữ lánh mặt.
Một hôm, Y ông bận việc, phải nhờ một thanh niên khác, họ Ninh, tên Hoạt, tới ngủ với con. Hồ Nữ lại tới, ép cả Y Cổn lẫn Ninh Hoạt cùng giao hoan với mình. Thấy thế, Y Cổn lấy làm lạ, hỏi:"Tại sao nàng chỉ sợ có một mình cha ta thôi? Người nào khác tới ngủ với ta, nàng cũng vẫn tới, còn cha ta vào thì nàng lại lánh mặt?" Hồ Nữ đáp:"Thực ra thì thiếp có sợ ai đâu vì người trần thế có ai làm gì được thiếp? Tuy nhiên, thiếp vẫn còn chút luân thường đạo lý, chẳng thể ép cả hai cha con cùng giao hoan với mình được!"
Sáng ra, Y Cổn thuật chuyện lại cho cha nghe. Từ đó, tối nào Y ông cũng vào ngủ với con. Cũng từ đó, Hồ Nữ biệt tăm.
Nửa năm sau, huyện Cửu Giang bị giặc nổi lên cướp phá. Thấy dân chúng trong làng rủ nhau đem thực phẩm chạy giặc, gia đình Y Cổn cũng đem thực phẩm chạy theo, rồi lạc nhau, mỗi người một ngả.
Y Cổn chạy thục mạng vào núi Côn Lôn, từ sáng tới tối mới dám chậm bước. Thấy mặt trời đã lặn mà bốn bề toàn là rừng núi hoang vu, chẳng có ai chạy cùng đường với mình, Y Cổn lo lắm. Chợt thấy thấp thoáng từ xa có bóng một cô gái chạy tới phía mình, Y Cổn mừng quá vì nghĩ rằng mình sắp có bạn để chia sẻ mối lo âu. Khi cô gái tới gần, Y Cổn mới nhận ra cô gái chính là Hồ Nữ. Tuy vẫn sợ Hồ Nữ lại ép mình giao hoan song trong hoàn cảnh ấy, gặp được người quen cũ, Y Cổn cũng mừng lắm. Bèn lên tiếng hỏi:"Nàng đi đâu mà tình cờ chúng ta lại gặp nhau ở chốn này?" Hồ Nữ đáp:"Đâu có phải là tình cờ! Thiếp cố tình tới đây đó chứ!" Hỏi:"Nàng tới đây để làm chi?" Đáp:"Biết chàng chạy giặc tới đây nên thiếp tới để giúp chàng dựng tạm một ngôi nhà mà ngủ qua đêm! Bây giờ tối rồi, chàng chẳng nên đi đâu nữa, cứ đứng ở đây mà chờ, để thiếp dựng nhà cho!" Nói xong, chạy ngược lên phía bắc. Tới một bãi cỏ mãng um tùm, Hồ Nữ dừng chân rồi ngồi thụp xuống.
Lát sau, Hồ Nữ đứng dậy chạy tới chỗ Y Cổn, nắm lấy tay, kéo xuôi xuống phía nam. Kéo được một quãng, Hồ Nữ lại dừng chân, nói:"Chạy tới đây đủ rồi! Ta quay trở lại thôi!" rồi lại nắm tay Y Cổn mà kéo ngược lên phía bắc.
Tới bãi cỏ mãng, Y Cổn sửng sốt vì chợt thấy một ngôi nhà mọc sừng sững giữa khu rừng cổ thụ. Nhìn kỹ, Y Cổn thấy ngôi nhà rất kỳ lạ. Ngôi nhà vuông vức, dựng trên bốn trụ sắt, nằm lọt trong khuôn viên một bức tường đồng, bốn bề kín mít, chẳng cổng ra vào. Thế nhưng, trên tường lại có những hốc lõm nhỏ, có thể tra chân vào để leo lên được. Y Cổn thắc mắc, hỏi:"Lúc nãy tuy nàng có nói là sẽ dựng tạm cho ta một ngôi nhà song ta có thấy nàng dựng lúc nào đâu mà bây giờ lại có ngôi nhà kỳ lạ này?" Hồ Nữ cười, đáp:"Thắc mắc làm chi cho thêm mệt sức? Có nhà thì hãy cứ vào mà ngủ cho qua đêm nay đi đã! Sáng mai rồi sẽ biết!" Nói xong, Hồ Nữ leo tường vào trong sân rồi bảo Y Cổn bắt chước mình mà leo vào. Y Cổn bèn leo vào theo. Thấy ngôi nhà chẳng giống những ngôi nhà bình thường, Y Cổn kinh hãi lắm. Thấy thế, Hồ Nữ cười, nói:"Có thiếp ở đây, chàng đừng có sợ!" Rồi nắm lấy tay Y Cổn mà dắt vào nhà.
Đêm ấy, Hồ Nữ ngủ chung với Y Cổn, lại ép giao hoan. Xong xuôi, Hồ Nữ giả vờ đòi từ biệt. Y Cổn kinh hãi quá, cứ năn nỉ mãi, Hồ Nữ mới chịu ở lại. Quá nửa đêm, Y Cổn đang ngủ say, Hồ Nữ lại lay dậy, nói: "Vì bị cha chàng ghét bỏ nên thiếp đã quyết tâm đoạn tuyệt với chàng. Hôm nay, chẳng hiểu vì cớ gì mà thiếp lại thấy thương hại chàng, muốn tới đây giúp chàng dựng một ngôi nhà để ngủ, chẳng còn giữ nổi cái quyết tâm ấy nữa. Sáng mai thiếp đi, sẽ tặng lại cho chàng ngôi nhà này! Trong nhà có nhiều vàng bạc, chàng có thể lấy mà ăn tiêu suốt đời! Bây giờ chàng hãy giao hoan với thiếp một lần nữa đi đã!" Nghe thấy thế, Y Cổn mừng lắm, bèn lại giao hoan với Hồ Nữ. Rồi nằm lăn ra ngủ.
Sáng sau, khi tỉnh giấc, Y Cổn chẳng thấy Hồ Nữ đâu nữa. Bèn sục sạo tìm vàng bạc trong nhà, song chẳng thấy chi. Chán nản, Y Cổn leo tường ra ngoài.
Xuống tới đất, ngửng đầu nhìn lên, Y Cổn thấy tường, nhà, đều đã biến mất, chỉ còn lại một chiếc hộp gỗ, đặt trên bốn chiếc đinh sắt nhỏ cắm dưới đất, nằm lọt trong khuôn viên một bức tường tí hon, giữa bãi cỏ mãng.
HỒI SINH, KHỎI BỆNH TÊ LIỆT
(truyện THANG CÔNG)
Hồi đầu tỏa sự ký đương niên
Thiện ác phân minh tại nhãn tiền
Chỉ thử tính linh lưu nhất điểm
Từ hàng na đắc bất thùy liên
Năm Tân Sửu (1661), niên hiệu Thuận Trị thứ 18, có nho sinh họ Thang, tên Sánh, thi đậu tiến sĩ, được bổ làm quan ở tỉnh Sơn Đông.
Mười một năm sau.
Một hôm, Thang công bị bạo bệnh, lên cơn sốt dữ dội. Gia nhân đi mời thầy lang tới nhà chẩn mạch, hốt thuốc. Ba hôm sau, Thang công hết sốt song chân tay bên phải đã bị tê liệt.
Ba tháng sau. Một sáng, Thang công lại lên cơn sốt dữ dội, phải nằm liệt giường. Gia nhân vội chia nhau săn sóc, người ngồi cạnh nắn bóp, kẻ đi mời thày lang tới nhà chẩn mạch, hốt thuốc.
Thang công đang nằm miên man trên giường thì bỗng thấy một luồng nóng từ lòng bàn chân trái bốc dần lên trên. Luồng nóng tới đùi, thấy cẳng liệt, luồng nóng tới bụng, thấy đùi liệt, luồng nóng tới ngực, thấy bụng liệt. Thế rồi luồng nóng dừng lại ở ngực, chẳng bốc lên nữa. Lát sau, hình ảnh các việc làm trong quá khứ lần lượt hiện ra trong đầu. Thoạt tiên là hình ảnh các việc thiện hiện ra. Thang công cảm thấy người thoải mái dễ chịu, lòng thanh thản. Kế đó là hình ảnh các việc ác từ hồi còn nhỏ hiện ra, như trèo cây, phá tổ chim, giết chim non. Thang công cảm thấy máu nóng dồn lên tim như nước thủy triều, làm cho người khó chịu, lòng bứt rứt, hồi lâu mới nguôi. Sau cùng là hình ảnh các việc ác mới làm gần đây. Thang công cảm thấy luồng nóng lại từ ngực bốc lên, xuyên qua cổ, qua đầu, rồi cuốn mình ra đứng bơ vơ ở giữa đường. Gia nhân thấy chân tay trái của Thang công cũng đã bị tê liệt.
Tối ấy, Thang công mất. Sáng sau, gia nhân khâm liệm thi thể, quàn linh cữu giữa phòng khách.
Thang công còn đang bàng hoàng thì bỗng thấy ở cuối nẻo đường có một người khổng lồ tiến tới gần, cúi xuống bắt mình bỏ vào ống tay áo. Vào trong, thấy có nhiều người đứng chen chúc chật cứng, Thang công muốn thoát ra ngoài song chẳng biết phải làm thế nào. Chợt nhớ tới việc cầu xin nơi đức Phật, Thang công bèn nhắm mắt, chắp tay niệm Phật. Đột nhiên, Thang công thấy mình thoát ra ngoài. Người khổng lồ thấy thế, lại cúi xuống bắt bỏ vào ống tay áo. Thang công lại niệm Phật rồi lại thoát ra. Người khổng lồ lại cúi xuống bắt lần nữa. Thang công lại niệm Phật rồi lại thoát ra. Thấy ba lần bắt, ba lần thoát, người khổng lồ bèn bỏ đi, chẳng bắt nữa.
Đứng bơ vơ ở giữa đường, Thang công phân vân chẳng biết là mình phải đi đâu. Chợt thấy mình đang đứng trên con đường đông tây và nhớ tới câu tây phương cực lạc, Thang công bèn nhắm hướng tây mà đi.
Lát sau, thấy ở bên đường có một thiền sư ngồi nhắm mắt tham thiền, Thang công vội chạy tới hỏi:"Bạch hoà thượng! Xin hòa thượng cho biết đệ tử phải đi đâu?" Thiền sư mở mắt, đáp:"Thí chủ là người khoa bảng, phải tới miếu thờ thần Văn Xương với đức thánh Khổng" Lại hỏi:"Xin hòa thượng cho biết đường nào tới miếu?" Đáp: "Đường này, hướng tây, trăm dặm" rồi lại từ từ nhắm mắt tham thiền. Vừa lên đường, Thang công bỗng cảm thấy thân mình nhẹ nhàng, lướt nhanh như chim bay, lát sau đã tới miếu. Bước vào miếu, Thang công thấy đức thánh Khổng đang ngồi trên điện cao, quay mặt về hướng nam. Thang công bèn sụp lạy, hỏi:"Xin đức thánh cho biết đệ tử phải đi đâu?" Đức thánh mở sổ ra coi rồi đáp: "Phải tới đền đức Đế Quân" Lại hỏi:"Xin đức thánh cho biết đường nào tới đền?" Đáp:"Đường này, hướng tây, trăm dặm" Thang công lại lên đường. Lát sau, Thang công bước vào đền thì thấy bên trong nguy nga tựa như cung điện của các bậc vua chúa.
Ngửng đầu nhìn lên, Thang công thấy một thần nhân ngồi trên điện cao, trông giống hình đức Đế Quân mà thế nhân thường vẽ để thờ. Thang công bèn sụp lạy, hỏi:"Xin đức Đế Quân cho biết đệ tử phải đi đâu?" Đức Đế Quân mở sổ ra coi rồi đáp: "Được trở về dương thế, song tứ chi đã bị tê liệt!" Hỏi: "Xin đức Đế Quân cho biết có ai chữa được không?" Đáp: "Chỉ có đức Bồ Tát chùa Trúc Lâm!" Lại hỏi:"Xin đức Đế Quân cho biết đường nào tới chùa?" Đáp:"Đường này, hướng tây, ngàn dặm" Thang công lại lên đường. Tới khi mặt trời sắp lặn mới đến ngôi chùa ẩn hiện trong khu rừng trúc. Vào trong, Thang công thấy đức Bồ Tát ngồi trên điện cao, khuôn mặt đầy đặn, búi tóc trang nghiêm, bên phải có tiểu thần đứng hầu, bên trái có chậu dương liễu và bình nước trong. Thang công vội sụp lạy, cầu khấn:"Xin đức Bồ Tát mở lượng từ bi, cứu cho đệ tử khỏi bệnh tê liệt!" Đức Bồ Tát nói:"Khó thay!" Thang công cứ rập đầu mà lạy. Đức Bồ Tát còn đang trầm ngâm thì tiểu thần đứng cạnh chợt lên tiếng:"Bạch Đức Bồ Tát, nếu Đức Bồ Tát muốn thí đại pháp lực, cứu thí chủ này khỏi bệnh tê liệt thì xin Đức Bồ Tát hãy bẻ liễu làm xương, nắm đất làm thịt mà đắp vào thân cho gã" Đức Bồ Tát liền đưa tay bẻ một cành dương liễu, bốc một nắm đất, nhúng vào bình nước trong, rồi đắp vào thân Thang công. Thang công bèn phủ phục lạy tạ trước điện. Đức Bồ Tát quay qua bảo tiểu thần:"Hãy dẫn thí chủ này về dương thế!" Tiểu thần đáp:"Xin tuân lệnh!"
Tối ấy, tiểu thần dẫn Thang công về tới nhà, dắt đến cạnh linh cữu, đẩy vào trong, rồi quay mình bỏ đi. Mở mắt nhìn, thấy mình đang nằm trong linh cữu, Thang công bèn đằng hắng ho lên ba tiếng. Nghe tiếng ho, gia nhân kinh hãi lắm song cũng bảo nhau đem đèn lên coi. Thấy Thang công mở mắt, thở phập phồng, chúng bèn xúm lại khiêng ra khỏi linh cữu, đặt lên giường. Lát sau, thấy chân tay mình tự nhiên cử động được, Thang công bèn ngồi nhỏm dậy, hỏi chúng:"Ta chết đã được bao lâu rồi?" Chúng đồng thanh đáp:"Thưa đã được bảy ngày!" Thang công bèn đứng dậy, đi tắm rửa sạch sẽ rồi ra ngồi thuật lại đầu đuôi câu chuyện cho chúng nghe.
Hồi đầu tỏa sự ký đương niên
Thiện ác phân minh tại nhãn tiền
Chỉ thử tính linh lưu nhất điểm
Từ hàng na đắc bất thùy liên
Năm Tân Sửu (1661), niên hiệu Thuận Trị thứ 18, có nho sinh họ Thang, tên Sánh, thi đậu tiến sĩ, được bổ làm quan ở tỉnh Sơn Đông.
Mười một năm sau.
Một hôm, Thang công bị bạo bệnh, lên cơn sốt dữ dội. Gia nhân đi mời thầy lang tới nhà chẩn mạch, hốt thuốc. Ba hôm sau, Thang công hết sốt song chân tay bên phải đã bị tê liệt.
Ba tháng sau. Một sáng, Thang công lại lên cơn sốt dữ dội, phải nằm liệt giường. Gia nhân vội chia nhau săn sóc, người ngồi cạnh nắn bóp, kẻ đi mời thày lang tới nhà chẩn mạch, hốt thuốc.
Thang công đang nằm miên man trên giường thì bỗng thấy một luồng nóng từ lòng bàn chân trái bốc dần lên trên. Luồng nóng tới đùi, thấy cẳng liệt, luồng nóng tới bụng, thấy đùi liệt, luồng nóng tới ngực, thấy bụng liệt. Thế rồi luồng nóng dừng lại ở ngực, chẳng bốc lên nữa. Lát sau, hình ảnh các việc làm trong quá khứ lần lượt hiện ra trong đầu. Thoạt tiên là hình ảnh các việc thiện hiện ra. Thang công cảm thấy người thoải mái dễ chịu, lòng thanh thản. Kế đó là hình ảnh các việc ác từ hồi còn nhỏ hiện ra, như trèo cây, phá tổ chim, giết chim non. Thang công cảm thấy máu nóng dồn lên tim như nước thủy triều, làm cho người khó chịu, lòng bứt rứt, hồi lâu mới nguôi. Sau cùng là hình ảnh các việc ác mới làm gần đây. Thang công cảm thấy luồng nóng lại từ ngực bốc lên, xuyên qua cổ, qua đầu, rồi cuốn mình ra đứng bơ vơ ở giữa đường. Gia nhân thấy chân tay trái của Thang công cũng đã bị tê liệt.
Tối ấy, Thang công mất. Sáng sau, gia nhân khâm liệm thi thể, quàn linh cữu giữa phòng khách.
Thang công còn đang bàng hoàng thì bỗng thấy ở cuối nẻo đường có một người khổng lồ tiến tới gần, cúi xuống bắt mình bỏ vào ống tay áo. Vào trong, thấy có nhiều người đứng chen chúc chật cứng, Thang công muốn thoát ra ngoài song chẳng biết phải làm thế nào. Chợt nhớ tới việc cầu xin nơi đức Phật, Thang công bèn nhắm mắt, chắp tay niệm Phật. Đột nhiên, Thang công thấy mình thoát ra ngoài. Người khổng lồ thấy thế, lại cúi xuống bắt bỏ vào ống tay áo. Thang công lại niệm Phật rồi lại thoát ra. Người khổng lồ lại cúi xuống bắt lần nữa. Thang công lại niệm Phật rồi lại thoát ra. Thấy ba lần bắt, ba lần thoát, người khổng lồ bèn bỏ đi, chẳng bắt nữa.
Đứng bơ vơ ở giữa đường, Thang công phân vân chẳng biết là mình phải đi đâu. Chợt thấy mình đang đứng trên con đường đông tây và nhớ tới câu tây phương cực lạc, Thang công bèn nhắm hướng tây mà đi.
Lát sau, thấy ở bên đường có một thiền sư ngồi nhắm mắt tham thiền, Thang công vội chạy tới hỏi:"Bạch hoà thượng! Xin hòa thượng cho biết đệ tử phải đi đâu?" Thiền sư mở mắt, đáp:"Thí chủ là người khoa bảng, phải tới miếu thờ thần Văn Xương với đức thánh Khổng" Lại hỏi:"Xin hòa thượng cho biết đường nào tới miếu?" Đáp: "Đường này, hướng tây, trăm dặm" rồi lại từ từ nhắm mắt tham thiền. Vừa lên đường, Thang công bỗng cảm thấy thân mình nhẹ nhàng, lướt nhanh như chim bay, lát sau đã tới miếu. Bước vào miếu, Thang công thấy đức thánh Khổng đang ngồi trên điện cao, quay mặt về hướng nam. Thang công bèn sụp lạy, hỏi:"Xin đức thánh cho biết đệ tử phải đi đâu?" Đức thánh mở sổ ra coi rồi đáp: "Phải tới đền đức Đế Quân" Lại hỏi:"Xin đức thánh cho biết đường nào tới đền?" Đáp:"Đường này, hướng tây, trăm dặm" Thang công lại lên đường. Lát sau, Thang công bước vào đền thì thấy bên trong nguy nga tựa như cung điện của các bậc vua chúa.
Ngửng đầu nhìn lên, Thang công thấy một thần nhân ngồi trên điện cao, trông giống hình đức Đế Quân mà thế nhân thường vẽ để thờ. Thang công bèn sụp lạy, hỏi:"Xin đức Đế Quân cho biết đệ tử phải đi đâu?" Đức Đế Quân mở sổ ra coi rồi đáp: "Được trở về dương thế, song tứ chi đã bị tê liệt!" Hỏi: "Xin đức Đế Quân cho biết có ai chữa được không?" Đáp: "Chỉ có đức Bồ Tát chùa Trúc Lâm!" Lại hỏi:"Xin đức Đế Quân cho biết đường nào tới chùa?" Đáp:"Đường này, hướng tây, ngàn dặm" Thang công lại lên đường. Tới khi mặt trời sắp lặn mới đến ngôi chùa ẩn hiện trong khu rừng trúc. Vào trong, Thang công thấy đức Bồ Tát ngồi trên điện cao, khuôn mặt đầy đặn, búi tóc trang nghiêm, bên phải có tiểu thần đứng hầu, bên trái có chậu dương liễu và bình nước trong. Thang công vội sụp lạy, cầu khấn:"Xin đức Bồ Tát mở lượng từ bi, cứu cho đệ tử khỏi bệnh tê liệt!" Đức Bồ Tát nói:"Khó thay!" Thang công cứ rập đầu mà lạy. Đức Bồ Tát còn đang trầm ngâm thì tiểu thần đứng cạnh chợt lên tiếng:"Bạch Đức Bồ Tát, nếu Đức Bồ Tát muốn thí đại pháp lực, cứu thí chủ này khỏi bệnh tê liệt thì xin Đức Bồ Tát hãy bẻ liễu làm xương, nắm đất làm thịt mà đắp vào thân cho gã" Đức Bồ Tát liền đưa tay bẻ một cành dương liễu, bốc một nắm đất, nhúng vào bình nước trong, rồi đắp vào thân Thang công. Thang công bèn phủ phục lạy tạ trước điện. Đức Bồ Tát quay qua bảo tiểu thần:"Hãy dẫn thí chủ này về dương thế!" Tiểu thần đáp:"Xin tuân lệnh!"
Tối ấy, tiểu thần dẫn Thang công về tới nhà, dắt đến cạnh linh cữu, đẩy vào trong, rồi quay mình bỏ đi. Mở mắt nhìn, thấy mình đang nằm trong linh cữu, Thang công bèn đằng hắng ho lên ba tiếng. Nghe tiếng ho, gia nhân kinh hãi lắm song cũng bảo nhau đem đèn lên coi. Thấy Thang công mở mắt, thở phập phồng, chúng bèn xúm lại khiêng ra khỏi linh cữu, đặt lên giường. Lát sau, thấy chân tay mình tự nhiên cử động được, Thang công bèn ngồi nhỏm dậy, hỏi chúng:"Ta chết đã được bao lâu rồi?" Chúng đồng thanh đáp:"Thưa đã được bảy ngày!" Thang công bèn đứng dậy, đi tắm rửa sạch sẽ rồi ra ngồi thuật lại đầu đuôi câu chuyện cho chúng nghe.
CƯỚP ĐỘI LỐT SƯ
(Truyện BỐ THƯƠNG)
Khê hác nan doanh ngốc tử tâm
Tá tương Phật diện khất đa kim
Nhược phi Bồ tát từ bi lực
Phòng hải tướng quân hà xứ tầm
Cử nhân họ Lý ở huyện Phong Nguyên, tỉnh Sơn Đông, thuật chuyện:
Huyện Thanh Châu, tỉnh Sơn Đông, có ngôi chùa bỏ hoang. Một hôm, có khách buôn chở vải từ xa tới huyện bán. Bán hết, khách buộc bọc tiền vào trước bụng rồi đi ngoạn cảnh. Tới chùa, thấy phong cảnh đẹp, khách bèn vào thăm. Nhà sư trụ trì thấy khách tới, vội chạy ra tiếp. Khách thấy nhà sư lực lưỡng như con nhà võ.
Thấy cảnh chùa tiêu sái nhưng chùa lại đổ nát, khách cảm khái, thở dài. Thấy thế, nhà sư nói:"Thí chủ sùng đạo, cúng dường chút ít, sửa sang cái cổng, cũng sáng sủa rồi!" Khách sốt sắng đáp:"Xin cúng dường ngay" Nhà sư mừng lắm, vội dắt khách vào phương trượng, pha trà mời uống. Lát sau, nhà sư nói:"Xin mời thí chủ theo bần tăng đi thăm điện gác trong chùaỢ Khách đáp:"Xin vâng" rồi đi theo nhà sư.
Nhà sư dắt khách đi thăm chùa hết một vòng rồi lại dắt về phương trượng. Bỗng nhà sư nói:"Xin thí chủ cúng dường thêm cho đủ tiền trùng tu ngôi chùa!" Khách đáp:"Bỉ nhân chỉ đủ tiền cúng dường để sửa sang cái cổng thôi!" Nhà sư nài ép:"Thí chủ là đại thương gia, dư tiền cúng dường để trùng tu cả ngôi chùa!" Khách đáp:"Bỉ nhân đi buôn cũng chỉ kiếm đủ tiền nuôi gia đình. Nay thành tâm muốn cúng dường chút ít để sửa sang cái cổng. Còn vốn thì phải giữ lại để đi buôn!" Đột nhiên vẻ mặt nhà sư trở nên cực kỳ hung dữ, sát khí đằng đằng. Thấy thế, khách kinh hãi quá, vội đấu dịu, nói:"Hoà thượng đã muốn vậy thì bỉ nhân xin cúng dường cả vốn lẫn lời để trùng tu ngôi chùa!" Nói xong, cởi bọc tiền trước bụng mà nạp cho nhà sư. Rồi cúi đầu chào, nói: "Bây giờ, bỉ nhân xin phép được ra về!" Nhà sư lắc đầu, rút giải lưng ra, buộc bọc tiền vào trước bụng, rồi khoát tay, nói:"Khoan đã, chẳng được đi vội! Có phải là tự ý thí chủ muốn cúng dường đâu? Bây giờ mất cả bọc tiền, ắt phải thù oán, thế nào mà chẳng nói xấu bần tăng với thiên hạ! Vì thế, bần tăng phải xuống tay trước!" Khách tái mặt. Nhà sư chợt rút từ trong người ra một thanh đao sáng loáng. Khách van lạy, nói:"Xin hòa thượng mở lòng hiếu sinh, tha cho mạng sống" Nhà sư lạnh lùng, đáp: "Không được!" Thấy hết hy vọng sống, song còn hy vọng chết toàn thây, khách lại xin:"Thế thì xin cho tự ải!" Nhà sư gật đầu, nói:"Được! Song phải tự ải ngay!" Rồi lấy ra một cuộn dây thừng đưa cho khách, kề đao vào cổ, ép tới một phòng tối trong chùa, mở cửa đẩy vào, khóa cửa lại rồi nói vọng vào:"Tự xử ngay đi, đừng để bần tăng phải phạm sát giới!"
Vừa lúc ấy, có một võ quan là Phòng Hải Tướng Quân cưỡi ngựa qua chùa. Từ ngoài đường nhìn vào, qua hàng rào đổ nát, võ quan thấy một thiếu nữ áo đỏ, phấn son loè loẹt, đang mỉm cười, bước vào phương trượng. Võ quan cau mày bất bình, thầm nghĩ chắc nhà sư trụ trì thuộc loại hổ mang. Bèn phóng ngựa vào chùa, ngừng trước phương trượng, toan vào cật vấn. Đúng lúc ấy, nhà sư cũng vừa về tới phương trượng. Thấy nhà sư, võ quan cau mày hỏi:"Con gái nào mà lại được phép vào phương trượng nhà chùa?" Thấy võ quan cực kỳ uy dũng, lại đột nhiên vào thăm chùa, nhà sư chột dạ, đáp:"Tướng quân nhìn lầm rồi! Có ai vào phương trượng nhà chùa đâu!" Võ quan càng nghi, nói:"Hãy dẫn bản chức vào phương trượng!" Nhà sư liền đưa tay ra hiệu mời vào. Võ quan vào phương trượng, đảo mắt nhìn quanh thì thấy quả thực chẳng có người nào cả. Chợt nghĩ có thể thiếu nữ đã nhanh chân ẩn núp quanh quất trong chùa, võ quan vội rút gươm, ép nhà sư phải dẫn mình đi khắp nơi để tìm kiếm. Trừ phòng tối nhốt khách, nhà sư dẫn võ quan đi khắp nơi song võ quan chẳng thấy thiếu nữ đâu. Đảo mắt nhìn quanh, chợt thấy ở đằng xa có một căn phòng khóa trái cửa mà nhà sư chưa dẫn mình vào, võ quan liền trỏ gươm về phía căn phòng, quát:"Mở cửa phòng kia ra!" Nhà sư lắc đầu, nói:"Phòng ấy có nhiều ma quái lắm, xin tướng quân chớ vào!" Võ quan nổi giận, ép nhà sư phải dẫn mình tới rồi vung gươm chém sập cánh cửa. Thấy một xác người treo lủng lẳng trên xà nhà, võ quan vội nhảy lên chém đứt dây treo rồi đỡ xác xuống. Thấy xác còn nóng hổi, võ quan vội nới lỏng vòng dây quanh cổ, hy vọng xác còn thở được. Bất đồ, nhà sư dợm quay mình bỏ chạy. Thấy thế, võ quan vội nhảy ra túm lấy nhà sư, kéo vào phòng, cắt dây treo xác, trói chặt vào cột.
Lát sau, khách tỉnh. Võ quan tới gần hỏi chuyện. Khách cứ thực tình mà khai. Võ quan hỏi:"Thế còn thiếu nữ áo đỏ đâu?" Khách ngơ ngác, hỏi lại:"Thiếu nữ áo đỏ nào?" Võ quan bèn thuật chuyện thấy thiếu nữ áo đỏ bước vào phương trượng. Khách kinh ngạc, nói:"Thực tình, từ lúc bỉ nhân vào thăm chùa tới giờ, ngoài nhà sư trụ trì và bỉ nhân ra, chẳng có người nào khác. Chắc là đức Phật muốn cứu bỉ nhân nên mới hiện hình làm thiếu nữ áo đỏ để khiến tướng quân vào chùa mà cứu bỉ nhân đó thôi!" Võ quan đứng lặng, suy nghĩ hồi lâu rồi chợt nói:"Gã này đúng là một tên cướp đội lốt nhà sư! Phải giết gã đi để trừ hại cho dân mới được!" Nói xong, vung gươm chém đầu nhà sư lăn xuống đất. Rồi dùng gươm cắt đứt bọc tiền trước bụng nhà sư mà trả lại cho khách. Khách quỳ lạy, tạ ơn cứu mạng. Võ quan liền tra gươm vào vỏ, nhảy lên lưng ngựa, phóng đi.
Khách lên huyện đường trình bày đầu đuôi câu chuyện với quan tể. Quan liền sai lính tới chùa đem xác nhà sư đi chôn. Câu chuyện được đồn đãi nhanh chóng khắp huyện.
Khách xin quan tể cho mình được phép đứng ra trùng tu ngôi chùa. Quan chấp thuận. Khách bèn mở cuộc lạc quyên, đem cả bọc tiền của mình cộng với số tiền lạc quyên được mà trùng tu ngôi chùa. Rồi khách thỉnh một vị hoà thượng có đức hạnh tới chùa trụ trì.
Từ đó, ngày nào cũng có rất đông Phật tử tới chùa lễ Phật.
Khê hác nan doanh ngốc tử tâm
Tá tương Phật diện khất đa kim
Nhược phi Bồ tát từ bi lực
Phòng hải tướng quân hà xứ tầm
Cử nhân họ Lý ở huyện Phong Nguyên, tỉnh Sơn Đông, thuật chuyện:
Huyện Thanh Châu, tỉnh Sơn Đông, có ngôi chùa bỏ hoang. Một hôm, có khách buôn chở vải từ xa tới huyện bán. Bán hết, khách buộc bọc tiền vào trước bụng rồi đi ngoạn cảnh. Tới chùa, thấy phong cảnh đẹp, khách bèn vào thăm. Nhà sư trụ trì thấy khách tới, vội chạy ra tiếp. Khách thấy nhà sư lực lưỡng như con nhà võ.
Thấy cảnh chùa tiêu sái nhưng chùa lại đổ nát, khách cảm khái, thở dài. Thấy thế, nhà sư nói:"Thí chủ sùng đạo, cúng dường chút ít, sửa sang cái cổng, cũng sáng sủa rồi!" Khách sốt sắng đáp:"Xin cúng dường ngay" Nhà sư mừng lắm, vội dắt khách vào phương trượng, pha trà mời uống. Lát sau, nhà sư nói:"Xin mời thí chủ theo bần tăng đi thăm điện gác trong chùaỢ Khách đáp:"Xin vâng" rồi đi theo nhà sư.
Nhà sư dắt khách đi thăm chùa hết một vòng rồi lại dắt về phương trượng. Bỗng nhà sư nói:"Xin thí chủ cúng dường thêm cho đủ tiền trùng tu ngôi chùa!" Khách đáp:"Bỉ nhân chỉ đủ tiền cúng dường để sửa sang cái cổng thôi!" Nhà sư nài ép:"Thí chủ là đại thương gia, dư tiền cúng dường để trùng tu cả ngôi chùa!" Khách đáp:"Bỉ nhân đi buôn cũng chỉ kiếm đủ tiền nuôi gia đình. Nay thành tâm muốn cúng dường chút ít để sửa sang cái cổng. Còn vốn thì phải giữ lại để đi buôn!" Đột nhiên vẻ mặt nhà sư trở nên cực kỳ hung dữ, sát khí đằng đằng. Thấy thế, khách kinh hãi quá, vội đấu dịu, nói:"Hoà thượng đã muốn vậy thì bỉ nhân xin cúng dường cả vốn lẫn lời để trùng tu ngôi chùa!" Nói xong, cởi bọc tiền trước bụng mà nạp cho nhà sư. Rồi cúi đầu chào, nói: "Bây giờ, bỉ nhân xin phép được ra về!" Nhà sư lắc đầu, rút giải lưng ra, buộc bọc tiền vào trước bụng, rồi khoát tay, nói:"Khoan đã, chẳng được đi vội! Có phải là tự ý thí chủ muốn cúng dường đâu? Bây giờ mất cả bọc tiền, ắt phải thù oán, thế nào mà chẳng nói xấu bần tăng với thiên hạ! Vì thế, bần tăng phải xuống tay trước!" Khách tái mặt. Nhà sư chợt rút từ trong người ra một thanh đao sáng loáng. Khách van lạy, nói:"Xin hòa thượng mở lòng hiếu sinh, tha cho mạng sống" Nhà sư lạnh lùng, đáp: "Không được!" Thấy hết hy vọng sống, song còn hy vọng chết toàn thây, khách lại xin:"Thế thì xin cho tự ải!" Nhà sư gật đầu, nói:"Được! Song phải tự ải ngay!" Rồi lấy ra một cuộn dây thừng đưa cho khách, kề đao vào cổ, ép tới một phòng tối trong chùa, mở cửa đẩy vào, khóa cửa lại rồi nói vọng vào:"Tự xử ngay đi, đừng để bần tăng phải phạm sát giới!"
Vừa lúc ấy, có một võ quan là Phòng Hải Tướng Quân cưỡi ngựa qua chùa. Từ ngoài đường nhìn vào, qua hàng rào đổ nát, võ quan thấy một thiếu nữ áo đỏ, phấn son loè loẹt, đang mỉm cười, bước vào phương trượng. Võ quan cau mày bất bình, thầm nghĩ chắc nhà sư trụ trì thuộc loại hổ mang. Bèn phóng ngựa vào chùa, ngừng trước phương trượng, toan vào cật vấn. Đúng lúc ấy, nhà sư cũng vừa về tới phương trượng. Thấy nhà sư, võ quan cau mày hỏi:"Con gái nào mà lại được phép vào phương trượng nhà chùa?" Thấy võ quan cực kỳ uy dũng, lại đột nhiên vào thăm chùa, nhà sư chột dạ, đáp:"Tướng quân nhìn lầm rồi! Có ai vào phương trượng nhà chùa đâu!" Võ quan càng nghi, nói:"Hãy dẫn bản chức vào phương trượng!" Nhà sư liền đưa tay ra hiệu mời vào. Võ quan vào phương trượng, đảo mắt nhìn quanh thì thấy quả thực chẳng có người nào cả. Chợt nghĩ có thể thiếu nữ đã nhanh chân ẩn núp quanh quất trong chùa, võ quan vội rút gươm, ép nhà sư phải dẫn mình đi khắp nơi để tìm kiếm. Trừ phòng tối nhốt khách, nhà sư dẫn võ quan đi khắp nơi song võ quan chẳng thấy thiếu nữ đâu. Đảo mắt nhìn quanh, chợt thấy ở đằng xa có một căn phòng khóa trái cửa mà nhà sư chưa dẫn mình vào, võ quan liền trỏ gươm về phía căn phòng, quát:"Mở cửa phòng kia ra!" Nhà sư lắc đầu, nói:"Phòng ấy có nhiều ma quái lắm, xin tướng quân chớ vào!" Võ quan nổi giận, ép nhà sư phải dẫn mình tới rồi vung gươm chém sập cánh cửa. Thấy một xác người treo lủng lẳng trên xà nhà, võ quan vội nhảy lên chém đứt dây treo rồi đỡ xác xuống. Thấy xác còn nóng hổi, võ quan vội nới lỏng vòng dây quanh cổ, hy vọng xác còn thở được. Bất đồ, nhà sư dợm quay mình bỏ chạy. Thấy thế, võ quan vội nhảy ra túm lấy nhà sư, kéo vào phòng, cắt dây treo xác, trói chặt vào cột.
Lát sau, khách tỉnh. Võ quan tới gần hỏi chuyện. Khách cứ thực tình mà khai. Võ quan hỏi:"Thế còn thiếu nữ áo đỏ đâu?" Khách ngơ ngác, hỏi lại:"Thiếu nữ áo đỏ nào?" Võ quan bèn thuật chuyện thấy thiếu nữ áo đỏ bước vào phương trượng. Khách kinh ngạc, nói:"Thực tình, từ lúc bỉ nhân vào thăm chùa tới giờ, ngoài nhà sư trụ trì và bỉ nhân ra, chẳng có người nào khác. Chắc là đức Phật muốn cứu bỉ nhân nên mới hiện hình làm thiếu nữ áo đỏ để khiến tướng quân vào chùa mà cứu bỉ nhân đó thôi!" Võ quan đứng lặng, suy nghĩ hồi lâu rồi chợt nói:"Gã này đúng là một tên cướp đội lốt nhà sư! Phải giết gã đi để trừ hại cho dân mới được!" Nói xong, vung gươm chém đầu nhà sư lăn xuống đất. Rồi dùng gươm cắt đứt bọc tiền trước bụng nhà sư mà trả lại cho khách. Khách quỳ lạy, tạ ơn cứu mạng. Võ quan liền tra gươm vào vỏ, nhảy lên lưng ngựa, phóng đi.
Khách lên huyện đường trình bày đầu đuôi câu chuyện với quan tể. Quan liền sai lính tới chùa đem xác nhà sư đi chôn. Câu chuyện được đồn đãi nhanh chóng khắp huyện.
Khách xin quan tể cho mình được phép đứng ra trùng tu ngôi chùa. Quan chấp thuận. Khách bèn mở cuộc lạc quyên, đem cả bọc tiền của mình cộng với số tiền lạc quyên được mà trùng tu ngôi chùa. Rồi khách thỉnh một vị hoà thượng có đức hạnh tới chùa trụ trì.
Từ đó, ngày nào cũng có rất đông Phật tử tới chùa lễ Phật.
HÓA CHỒN VÌ HIẾU SẮC
(truyện KIM LĂNG ẤT)
Lân phụ như hà khả khải du
Hạt y trước thể cánh thành hồ
Tà ma nhất động tâm tiên biến
Mạc nhạ chân long bích thượng phù
Thời xưa, ở Trung quốc, có người tên Trung Sơn, nổi tiếng về biệt tài nấu rượu ngon và say.
Thời nay, ở phường Khương Thủy, thủ phủ Kim Lăng (tên cũ của Nam Kinh), tỉnh Giang Tô, có người họ Bành, tên Túy Toàn, có vợ họ Lang và hai con. Túy Toàn cũng nổi tiếng về biệt tài nấu rượu ngon và say nên dân phường tặng cho Túy Toàn mỹ danh là Bành Trung Sơn. Mỗi lần nấu rượu xong, Túy Toàn lại pha thuốc say vào rượu rồi mới đem bán. Bợm rượu nào dù tỉnh tới đâu, chỉ cần uống hai chén rượu của Túy Toàn là đã say mèm. Rượu bán chạy quá, Túy Toàn phải đốc thúc cả vợ con phụ nấu suốt ngày đêm mà vẫn không đủ rượu để bán. Nhờ tài nấu rượu, Túy Toàn trở thành cự phú.
Thời ấy, dân phường Khương Thủy rất lo sợ về nạn chồn biến thành thanh niên tuấn tú, tới nhà cưỡng chiếm phụ nữ. Trong phường, có hai anh em nhà giàu họ Tôn, cùng có vợ đẹp, cư ngụ chung trong một ngôi nhà. Người anh tên Mạnh, người em tên Trọng. Vợ Tôn Mạnh thường bị chồn tới cưỡng chiếm.
Một đêm, Túy Toàn thức khuya nấu rượu. Nấu xong, pha thuốc say vào chum, đậy nắp thực kỹ rồi đi ngủ. Sáng sau, vào bếp lấy rượu ra cho vợ con đem bán, Túy Toàn thấy một chồn say mèm, nằm mê man cạnh chum. Túy Toàn liền dón dén đi lấy dây trói chặt bốn chân chồn lại rồi lấy dao toan giết. Chồn chợt tỉnh, van lạy:"Xin tiên sinh tha mạng cho! Tiên sinh có việc chi sai bảo tiểu nhân cũng xin làm ngay!" Túy Toàn hỏi:"Mi có nói thực không?" Chồn đáp:"Thưa thực!" Túy Toàn liền cởi trói tha cho chồn. Đột nhiên, chồn biến thành một thanh niên tuấn tú. Chợt nhớ tới chuyện vợ Tôn Mạnh bị chồn cưỡng chiếm, Túy Toàn hỏi:"Chồn thường lui tới nhà họ Tôn là chồn nào?"
Đáp:"Thưa chính là tiểu nhân!" Thấy vợ Tôn Trọng còn đẹp hơn vợ Tôn Mạnh, Túy Toàn nói:"Mi phải dắt ta tới cưỡng chiếm vợ Tôn Trọng!" Đáp: "Tiên sinh sai bảo bất cứ việc gì khác tiểu nhân cũng xin làm song riêng việc này thì tiểu nhân xin chịu!" Nói:"Mi vừa hứa buông miệng với ta để được tha mạng, bây giờ mi lại toan nuốt lời phải không?" Chồn thở dài, đáp:"Tiên sinh đã muốn thế thì hãy đi theo tiểu nhân!" Túy Toàn bèn nói với vợ con rằng mình có việc phải đi ra ngoài, rồi đi theo chồn.
Chồn dẫn Túy Toàn ra khỏi thành, đi thực xa. Tới một hang núi, chồn vào hang lấy ra một chiếc áo màu vàng đưa cho Túy Toàn, nói:"Chiếc áo này là tàng hình y! Ai mặc vào người thì mắt thế nhân chẳng thể nhìn thấy, chỉ có mắt loài chồn tiểu nhân mới nhìn thấy được thôi! Nếu tiên sinh mặc chiếc áo này mà tới nhà họ Tôn thì chẳng ai nhìn thấy được!" Nghe thấy thế, Túy Toàn cũng chỉ nửa tin nửa ngờ. Bèn hỏi:"Mi lấy chiếc áo này ở đâu ra?" Đáp:"Chiếc áo này là di vật của tiện huynh. Từ ngày tiện huynh qua đời, tiểu nhân vẫn cất giữ làm kỷ vật. Nay đã trót hứa với tiên sinh nên phải lấy ra biếu!" Lại hỏi: "Thế mi định bao giờ mới dắt ta tới nhà họ Tôn?" Đáp: "Tối mai, giờ dậu, tiểu nhân sẽ tới nhà tiên sinh!" Túy Toàn mừng lắm. Để thử xem lời chồn nói có đúng hay không, Túy Toàn bèn mặc chiếc áo vào người rồi ra về. Về nhà, thấy vợ con không nhìn thấy mình, Túy Toàn mừng lắm. Vào phòng thay áo rồi đi ra, thấy vợ con lại nhìn thấy mình, Túy Toàn mới tin lời chồn là đúng.
Tối sau, đúng hẹn, chồn tới. Túy Toàn bèn lấy chiếc áo mặc vào người rồi đi theo. Tới nhà họ Tôn, chồn dắt Túy Toàn chui qua hàng rào vào sân. Tới hành lang, cả hai cùng nhìn thấy trên tường có một đạo bùa dán cạnh một ngọn đèn leo lét. Thấy trên đạo bùa có vẽ một nét lớn, ngoằn ngoèo như rồng rắn, chồn tái mặt, nói: "Đạo bùa này là của Âu Dương hoà thượng. Pháp thuật của hoà thượng này cao cường lắm. Anh em họ Tôn đã mời được hoà thượng này về đây thì tiểu nhân chẳng dám vào đâu!" Nói xong, ù té bỏ chạy. Thấy thế, Túy Toàn đã toan chạy theo, song vì còn tiếc rẻ cô vợ nhan sắc của Tôn Trọng nên chưa chịu chạy ngay, cứ lượn đi lượn lại trước đạo bùa để quan sát. Đột nhiên, nét vẽ trên đạo bùa biến thành rồng, cuộn thành vòng, ngửng đầu chực bay. Lúc đó Túy Toàn mới hết hồn, co cẳng chạy. Vừa chui qua hàng rào ra tới đường, bỗng Túy Toàn thấy một nhà sư hình dung cổ quái, đứng ở giữa đường, tay trái cầm đèn, tay phải cầm bùa, miệng lẩm nhẩm đọc thần chú, hướng về phía mình mà làm phép. Kinh hãi quá, Túy Toàn cắm cổ chạy về nhà, vào phòng nằm ngủ.
Sáng sau, Lang thị thấy chồng ngủ tr, bèn vào đánh thức. Túy Toàn chỉ ú ớ rồi lại ngủ mê man. Lang thị thầm nghĩ chắc chồng mình đêm qua thức khuya nấu rượu nên để yên cho ngủ, chẳng đánh thức nữa.
Trưa ấy, dân phường Khương Thủy nghe đồn anh em nhà họ Tôn đã thỉnh được Âu Dương hoà thượng tới nhà lập đàn trừ chồn cho phường nên rất vui mừng, rủ nhau tới nhà họ Tôn coi. Lang thị vào đánh thức chồng dậy để cùng đi coi với mình. Thấy chồng vẫn còn ngủ say nên Lang thị ra rủ hai đứa con. Tới nơi, Lang thị thấy nhà sư đã lập xong đàn tràng. Lát sau, nhà sư làm phép rồi niệm thần chú, gọi chồn tới quy phục. Đột nhiên mọi người thấy Túy Toàn, từ ngoài cổng chạy huỳnh huỵch vào nhà, mặc chiếc áo màu vàng, sắc mặt nhợt nhạt. Tới trước đàn, đột nhiên Túy Toàn ngã quỵ xuống đất, hóa thành chồn, chiếc áo màu vàng vẫn còn khoác trên thân. Ai nấy đều kinh hãi.
Lúc thấy chồng chạy tới, Lang thị đã ngạc nhiên. Nay thấy chồng biến thành chồn, Lang thị lại càng kinh hãi. Nhà sư rút dao ra toan giết. Thấy thế, Lang thị vội quỳ xuống đất, khẩn cầu:"Xin hoà thượng mở lượng hải hà, tha chết cho chồng tiện thiếp. Tiện thiếp chắc rằng chồng tiện thiếp đã bị mắc mưu của chồn nên mới hóa thành chồn" Nhà sư gật đầu, nói:"Nếu thế thì hãy dắt về mà chăm sóc!"
Lang thị và hai con bèn dắt chồn về, chăm sóc chu đáo. Dọn cơm rượu cho ăn, dọn giường nệm cho ngủ, những mong chồn hóa trở lại thành người. Thế nhưng, ba hôm sau, chồn vẫn là chồn, chẳng thể hóa trở lại thành người được nữa.
Tối ấy, đột nhiên chồn lăn ra chết.
Lân phụ như hà khả khải du
Hạt y trước thể cánh thành hồ
Tà ma nhất động tâm tiên biến
Mạc nhạ chân long bích thượng phù
Thời xưa, ở Trung quốc, có người tên Trung Sơn, nổi tiếng về biệt tài nấu rượu ngon và say.
Thời nay, ở phường Khương Thủy, thủ phủ Kim Lăng (tên cũ của Nam Kinh), tỉnh Giang Tô, có người họ Bành, tên Túy Toàn, có vợ họ Lang và hai con. Túy Toàn cũng nổi tiếng về biệt tài nấu rượu ngon và say nên dân phường tặng cho Túy Toàn mỹ danh là Bành Trung Sơn. Mỗi lần nấu rượu xong, Túy Toàn lại pha thuốc say vào rượu rồi mới đem bán. Bợm rượu nào dù tỉnh tới đâu, chỉ cần uống hai chén rượu của Túy Toàn là đã say mèm. Rượu bán chạy quá, Túy Toàn phải đốc thúc cả vợ con phụ nấu suốt ngày đêm mà vẫn không đủ rượu để bán. Nhờ tài nấu rượu, Túy Toàn trở thành cự phú.
Thời ấy, dân phường Khương Thủy rất lo sợ về nạn chồn biến thành thanh niên tuấn tú, tới nhà cưỡng chiếm phụ nữ. Trong phường, có hai anh em nhà giàu họ Tôn, cùng có vợ đẹp, cư ngụ chung trong một ngôi nhà. Người anh tên Mạnh, người em tên Trọng. Vợ Tôn Mạnh thường bị chồn tới cưỡng chiếm.
Một đêm, Túy Toàn thức khuya nấu rượu. Nấu xong, pha thuốc say vào chum, đậy nắp thực kỹ rồi đi ngủ. Sáng sau, vào bếp lấy rượu ra cho vợ con đem bán, Túy Toàn thấy một chồn say mèm, nằm mê man cạnh chum. Túy Toàn liền dón dén đi lấy dây trói chặt bốn chân chồn lại rồi lấy dao toan giết. Chồn chợt tỉnh, van lạy:"Xin tiên sinh tha mạng cho! Tiên sinh có việc chi sai bảo tiểu nhân cũng xin làm ngay!" Túy Toàn hỏi:"Mi có nói thực không?" Chồn đáp:"Thưa thực!" Túy Toàn liền cởi trói tha cho chồn. Đột nhiên, chồn biến thành một thanh niên tuấn tú. Chợt nhớ tới chuyện vợ Tôn Mạnh bị chồn cưỡng chiếm, Túy Toàn hỏi:"Chồn thường lui tới nhà họ Tôn là chồn nào?"
Đáp:"Thưa chính là tiểu nhân!" Thấy vợ Tôn Trọng còn đẹp hơn vợ Tôn Mạnh, Túy Toàn nói:"Mi phải dắt ta tới cưỡng chiếm vợ Tôn Trọng!" Đáp: "Tiên sinh sai bảo bất cứ việc gì khác tiểu nhân cũng xin làm song riêng việc này thì tiểu nhân xin chịu!" Nói:"Mi vừa hứa buông miệng với ta để được tha mạng, bây giờ mi lại toan nuốt lời phải không?" Chồn thở dài, đáp:"Tiên sinh đã muốn thế thì hãy đi theo tiểu nhân!" Túy Toàn bèn nói với vợ con rằng mình có việc phải đi ra ngoài, rồi đi theo chồn.
Chồn dẫn Túy Toàn ra khỏi thành, đi thực xa. Tới một hang núi, chồn vào hang lấy ra một chiếc áo màu vàng đưa cho Túy Toàn, nói:"Chiếc áo này là tàng hình y! Ai mặc vào người thì mắt thế nhân chẳng thể nhìn thấy, chỉ có mắt loài chồn tiểu nhân mới nhìn thấy được thôi! Nếu tiên sinh mặc chiếc áo này mà tới nhà họ Tôn thì chẳng ai nhìn thấy được!" Nghe thấy thế, Túy Toàn cũng chỉ nửa tin nửa ngờ. Bèn hỏi:"Mi lấy chiếc áo này ở đâu ra?" Đáp:"Chiếc áo này là di vật của tiện huynh. Từ ngày tiện huynh qua đời, tiểu nhân vẫn cất giữ làm kỷ vật. Nay đã trót hứa với tiên sinh nên phải lấy ra biếu!" Lại hỏi: "Thế mi định bao giờ mới dắt ta tới nhà họ Tôn?" Đáp: "Tối mai, giờ dậu, tiểu nhân sẽ tới nhà tiên sinh!" Túy Toàn mừng lắm. Để thử xem lời chồn nói có đúng hay không, Túy Toàn bèn mặc chiếc áo vào người rồi ra về. Về nhà, thấy vợ con không nhìn thấy mình, Túy Toàn mừng lắm. Vào phòng thay áo rồi đi ra, thấy vợ con lại nhìn thấy mình, Túy Toàn mới tin lời chồn là đúng.
Tối sau, đúng hẹn, chồn tới. Túy Toàn bèn lấy chiếc áo mặc vào người rồi đi theo. Tới nhà họ Tôn, chồn dắt Túy Toàn chui qua hàng rào vào sân. Tới hành lang, cả hai cùng nhìn thấy trên tường có một đạo bùa dán cạnh một ngọn đèn leo lét. Thấy trên đạo bùa có vẽ một nét lớn, ngoằn ngoèo như rồng rắn, chồn tái mặt, nói: "Đạo bùa này là của Âu Dương hoà thượng. Pháp thuật của hoà thượng này cao cường lắm. Anh em họ Tôn đã mời được hoà thượng này về đây thì tiểu nhân chẳng dám vào đâu!" Nói xong, ù té bỏ chạy. Thấy thế, Túy Toàn đã toan chạy theo, song vì còn tiếc rẻ cô vợ nhan sắc của Tôn Trọng nên chưa chịu chạy ngay, cứ lượn đi lượn lại trước đạo bùa để quan sát. Đột nhiên, nét vẽ trên đạo bùa biến thành rồng, cuộn thành vòng, ngửng đầu chực bay. Lúc đó Túy Toàn mới hết hồn, co cẳng chạy. Vừa chui qua hàng rào ra tới đường, bỗng Túy Toàn thấy một nhà sư hình dung cổ quái, đứng ở giữa đường, tay trái cầm đèn, tay phải cầm bùa, miệng lẩm nhẩm đọc thần chú, hướng về phía mình mà làm phép. Kinh hãi quá, Túy Toàn cắm cổ chạy về nhà, vào phòng nằm ngủ.
Sáng sau, Lang thị thấy chồng ngủ tr, bèn vào đánh thức. Túy Toàn chỉ ú ớ rồi lại ngủ mê man. Lang thị thầm nghĩ chắc chồng mình đêm qua thức khuya nấu rượu nên để yên cho ngủ, chẳng đánh thức nữa.
Trưa ấy, dân phường Khương Thủy nghe đồn anh em nhà họ Tôn đã thỉnh được Âu Dương hoà thượng tới nhà lập đàn trừ chồn cho phường nên rất vui mừng, rủ nhau tới nhà họ Tôn coi. Lang thị vào đánh thức chồng dậy để cùng đi coi với mình. Thấy chồng vẫn còn ngủ say nên Lang thị ra rủ hai đứa con. Tới nơi, Lang thị thấy nhà sư đã lập xong đàn tràng. Lát sau, nhà sư làm phép rồi niệm thần chú, gọi chồn tới quy phục. Đột nhiên mọi người thấy Túy Toàn, từ ngoài cổng chạy huỳnh huỵch vào nhà, mặc chiếc áo màu vàng, sắc mặt nhợt nhạt. Tới trước đàn, đột nhiên Túy Toàn ngã quỵ xuống đất, hóa thành chồn, chiếc áo màu vàng vẫn còn khoác trên thân. Ai nấy đều kinh hãi.
Lúc thấy chồng chạy tới, Lang thị đã ngạc nhiên. Nay thấy chồng biến thành chồn, Lang thị lại càng kinh hãi. Nhà sư rút dao ra toan giết. Thấy thế, Lang thị vội quỳ xuống đất, khẩn cầu:"Xin hoà thượng mở lượng hải hà, tha chết cho chồng tiện thiếp. Tiện thiếp chắc rằng chồng tiện thiếp đã bị mắc mưu của chồn nên mới hóa thành chồn" Nhà sư gật đầu, nói:"Nếu thế thì hãy dắt về mà chăm sóc!"
Lang thị và hai con bèn dắt chồn về, chăm sóc chu đáo. Dọn cơm rượu cho ăn, dọn giường nệm cho ngủ, những mong chồn hóa trở lại thành người. Thế nhưng, ba hôm sau, chồn vẫn là chồn, chẳng thể hóa trở lại thành người được nữa.
Tối ấy, đột nhiên chồn lăn ra chết.
THI LÀM THÀNH HOÀNG
(truyện KHẢO THÀNH HOÀNG)
Nhân sinh bách hạnh hiếu vi tiên
Minh nghĩa khai tông đệ nhất thiên
Khấp thế trần tình dư giả nhật
Hoan thừa huyên thảo hỷ diên niên
Anh rể bản nhân thuật chuyện:
Ông nội của anh rể bản nhân là Tống công, húy Đào. Sinh thời, công là một nho sĩ, được hưởng lương một ấp. Năm ấy, công 51 tuổi, rước lão mẫu, 71 tuổi, về ở chung để tiện bề phụng dưỡng.
Một hôm, công bị bạo bệnh, lên giường nằm rồi mất. Lão mẫu thuê người khâm liệm, quàn linh cữu ở phòng khách.
Hôm ấy, công vừa lên giường nằm thì chợt thấy một lính cưỡi ngựa, tay cầm văn thư, dắt theo một ngựa trắng, vào sân nhà, buộc ngựa ở ngoài sân rồi vào phòng, nói:"Có lệnh trên sai tiểu nhân tới mời tiên sinh đi thi" Công liền dồn dập hỏi:"Lệnh của ai? Thi cái gì? Ai là giám khảo?" Lính chẳng đáp, chỉ giục:"Xin tiên sinh hãy sửa soạn mau cho!" Công đang bị bệnh nên yếu sức, song cũng cố gắng ngồi dậy mặc áo quần. Lính bèn dìu công ra sân, đỡ lên lưng ngựa trắng rồi bảo công rong ngựa theo mình. Đường đi thực là lạ lùng, vắng vẻ.
Lát sau, tới một đô thị sầm uất, trông tựa chốn đế đô, lính dẫn công vào một dinh thự nguy nga, bảo công xuống ngựa, rồi trao cả hai ngựa cho lính canh. Lính dẫn công qua cổng, qua sân, lên thềm cao, bước vào một cung điện. Ngửng đầu nhìn lên, công thấy cung điện cực kỳ tráng lệ. Thấy ở cuối điện có mười một vị thần đang ngồi trên bục cao, công cố đoán xem các vị ấy là ai song chẳng sao đoán được trừ vị ngồi chính giữa thì công đoán chắc là Quan Đế đời Tam Quốc vì trông giống hình Quan Đế mà thế nhân thường vẽ để thờ. Dưới sàn thấp, mỗi bên phải trái đều có bày một ghế, một bàn, trên có để sẵn giấy bút. Ghế phải đã có một nho sĩ ngồi, còn ghế trái thì để trống. Một vị lấy tay chỉ ghế trống, bảo công tới ngồi. Công vội tuân lệnh. Vị ấy đứng dậy, xuống phát cho mỗi người một đề thi, rồi nói:"Viết bài ngay đi!" Công mở đề, chỉ thấy vẻn vẹn có tám chữ:"Nhất nhân, nhị nhân, hữu tâm, vô tâm" (Một người, hai người, cố tình, vô ý). Nho sĩ với công cùng cặm cụi viết bài. Hai người viết xong, cùng đưa bài lên nạp rồi trở về chỗ ngồi. Chư thần truyền tay nhau đọc.
Lát sau, một vị nói:"Hai bài cùng hay. Tuy nhiên, bài của Tống sinh có hai câu xuất sắc: Cố tình mà làm điều thiện, tuy thiện song chẳng nên thưởng. Vô ý mà làm điều ác, tuy ác song chẳng nên phạt" Chư thần đều gật gù, khen hay rồi xúm quanh Quan Đế mà bàn bạc.
Hồi lâu, một vị gọi công lên gần bục, nói:"Tỉnh Hà Nam khuyết chức thành hoàng, nhà ngươi đáng được sung vào chức ấy!" Bấy giờ công mới hiểu là nho sĩ và mình cùng được gọi tới để chư thần chọn một người đi làm thành hoàng. Công vội quỳ xuống sàn, rập đầu khóc, thưa:"Được chư thần đoái thương, cho đi làm thành hoàng, thực chẳng dám chối từ. Song chư thần xét cho, dương thế còn mẹ già, đã bảy mươi mốt tuổi, chẳng biết cậy vào ai. Nay mong được ở nhà, phụng dưỡng mẹ cho trót, rồi sẽ xin tuân lệnh" Một vị ra lệnh cho viên chủ bạ râu dài đứng cạnh:"Hãy lấy thọ bạ ra coi xem thân mẫu của Tống sinh còn được hưởng bao nhiêu tuổi nữa?" Viên chủ bạ vào phòng trong bưng ra một cuốn sổ dày, đặt lên bàn, lật trang tìm đọc. Lát sau, thưa:"Còn được hưởng chín tuổi nữa" Chư thần đưa mắt nhìn nhau như để hỏi ý. Chợt Quan Đế phán:"Thôi được. Bây giờ hãy tạm sung Trương sinh vào chức ấy trong chín năm. Sau đó, sẽ trao lại cho Tống sinh" Phán xong, Quan Đế quay qua bảo công:"Đáng lẽ nhà ngươi phải đi phó nhậm ngay song vì nhà ngươi có hiếu nên được về phụng dưỡng mẹ già thêm chín năm nữa. Hết hạn, sẽ cho gọi lại!" Công vội rập đầu lạy tạ. Quan Đế lại sai lính gọi nho sĩ kia tới gần bục mà bảo:"Nhà ngươi chẳng còn mẹ. Vậy hãy tạm đi phó nhậm chức thành hoàng ở Hà Nam thay cho Tống sinh. Sau chín năm, sẽ được sung vào chức khác!" Nho sĩ cũng rập đầu lạy tạ.
Lính dắt hai người ra sân. Nho sĩ bước tới nắm tay công, tự giới thiệu:"Bỉ nhân họ Trương, quê ở huyện Trường Sơn!" Công cũng đáp lễ, nói:"Bỉ nhân họ Tống, quê ở huyện Chuy Xuyên!" Nho sĩ bèn làm một bài thơ tặng công. Công cũng làm một bài thơ tặng lại. Chợt thấy người lính dắt hai ngựa ra sân, đỡ công lên lưng ngựa trắng, bảo công rong ngựa theo mình. Công cúi đầu chào nho sĩ rồi rong ngựa theo lính.
Lát sau, về tới sân nhà, công xuống ngựa. Lính nói: "Thôi, tiên sinh vào nhà đi!" rồi quay ngựa ra khỏi cổng, dắt theo ngựa trắng. Công vừa bước chân vào phòng khách thì chợt bừng mắt tỉnh, thấy mình đang nằm trong linh cữu chưa đậy nắp. Công trở mình. Lão mẫu nghe có tiếng động trong linh cữu, bèn bước tới coi. Thấy công đã hồi sinh, lão mẫu mừng lắm, vội đỡ công dậy, dìu vào phòng trong. Chiều ấy, công tỉnh hẳn, nói năng được như thường. Công hỏi chuyện thì lão mẫu nói công đã mất được ba ngày. Công bèn thuật chuyện mình thấy cho lão mẫu nghe. Lão mẫu bảo công đọc bài thơ của nho sĩ tặng thì công chỉ còn nhớ được có hai câu:
Hữu hoa, hữu tửu, xuân thường tại,
Vô nguyệt, vô đăng, dạ tự minh
(Có hoa, có rượu, xuân luôn còn,
Không trăng, không đèn, đêm tự sáng)
Hôm sau, công nhờ người sang huyện Trường Sơn hỏi thăm thì được biết quả có nho sĩ họ Trương trong huyện mới mất được bốn ngày, đúng vào ngày công mất.
Chín năm sau, quả nhiên lão mẫu qua đời. Làm tang lễ cho lão mẫu xong, công tắm gội sạch sẽ, mặc quần áo mới, đi giày mới, chít khăn đỏ, lên giường nằm mà mất.
Chiều ấy, nhạc gia của công cư ngụ ở cửa tây huyện thành bỗng thấy công chít khăn đỏ, cưỡi ngựa trắng, tới nhà mình cùng với một đoàn xa mã hộ tống. Công xuống ngựa, vào phòng khách, chẳng nói một lời, sụp lạy nhạc gia một lạy rồi trở ra, lên ngựa mà đi. Nhạc gia kinh nghi, liền cho người chạy tới nhà công coi thì được biết công mới mất được mấy giờ.
Sinh thời, công có viết một tập tiểu truyện, thuật lại thực rõ ràng từng chi tiết của câu chuyện. Anh rể bản nhân vẫn cất giữ tập truyện ấy. Tiếc rằng sau cơn binh lửa năm Giáp Thân (1644), tập truyện ấy bị thất lạc. Anh rể bản nhân chỉ còn nhớ được sơ lược có bấy nhiêu thôi.
Nhân sinh bách hạnh hiếu vi tiên
Minh nghĩa khai tông đệ nhất thiên
Khấp thế trần tình dư giả nhật
Hoan thừa huyên thảo hỷ diên niên
Anh rể bản nhân thuật chuyện:
Ông nội của anh rể bản nhân là Tống công, húy Đào. Sinh thời, công là một nho sĩ, được hưởng lương một ấp. Năm ấy, công 51 tuổi, rước lão mẫu, 71 tuổi, về ở chung để tiện bề phụng dưỡng.
Một hôm, công bị bạo bệnh, lên giường nằm rồi mất. Lão mẫu thuê người khâm liệm, quàn linh cữu ở phòng khách.
Hôm ấy, công vừa lên giường nằm thì chợt thấy một lính cưỡi ngựa, tay cầm văn thư, dắt theo một ngựa trắng, vào sân nhà, buộc ngựa ở ngoài sân rồi vào phòng, nói:"Có lệnh trên sai tiểu nhân tới mời tiên sinh đi thi" Công liền dồn dập hỏi:"Lệnh của ai? Thi cái gì? Ai là giám khảo?" Lính chẳng đáp, chỉ giục:"Xin tiên sinh hãy sửa soạn mau cho!" Công đang bị bệnh nên yếu sức, song cũng cố gắng ngồi dậy mặc áo quần. Lính bèn dìu công ra sân, đỡ lên lưng ngựa trắng rồi bảo công rong ngựa theo mình. Đường đi thực là lạ lùng, vắng vẻ.
Lát sau, tới một đô thị sầm uất, trông tựa chốn đế đô, lính dẫn công vào một dinh thự nguy nga, bảo công xuống ngựa, rồi trao cả hai ngựa cho lính canh. Lính dẫn công qua cổng, qua sân, lên thềm cao, bước vào một cung điện. Ngửng đầu nhìn lên, công thấy cung điện cực kỳ tráng lệ. Thấy ở cuối điện có mười một vị thần đang ngồi trên bục cao, công cố đoán xem các vị ấy là ai song chẳng sao đoán được trừ vị ngồi chính giữa thì công đoán chắc là Quan Đế đời Tam Quốc vì trông giống hình Quan Đế mà thế nhân thường vẽ để thờ. Dưới sàn thấp, mỗi bên phải trái đều có bày một ghế, một bàn, trên có để sẵn giấy bút. Ghế phải đã có một nho sĩ ngồi, còn ghế trái thì để trống. Một vị lấy tay chỉ ghế trống, bảo công tới ngồi. Công vội tuân lệnh. Vị ấy đứng dậy, xuống phát cho mỗi người một đề thi, rồi nói:"Viết bài ngay đi!" Công mở đề, chỉ thấy vẻn vẹn có tám chữ:"Nhất nhân, nhị nhân, hữu tâm, vô tâm" (Một người, hai người, cố tình, vô ý). Nho sĩ với công cùng cặm cụi viết bài. Hai người viết xong, cùng đưa bài lên nạp rồi trở về chỗ ngồi. Chư thần truyền tay nhau đọc.
Lát sau, một vị nói:"Hai bài cùng hay. Tuy nhiên, bài của Tống sinh có hai câu xuất sắc: Cố tình mà làm điều thiện, tuy thiện song chẳng nên thưởng. Vô ý mà làm điều ác, tuy ác song chẳng nên phạt" Chư thần đều gật gù, khen hay rồi xúm quanh Quan Đế mà bàn bạc.
Hồi lâu, một vị gọi công lên gần bục, nói:"Tỉnh Hà Nam khuyết chức thành hoàng, nhà ngươi đáng được sung vào chức ấy!" Bấy giờ công mới hiểu là nho sĩ và mình cùng được gọi tới để chư thần chọn một người đi làm thành hoàng. Công vội quỳ xuống sàn, rập đầu khóc, thưa:"Được chư thần đoái thương, cho đi làm thành hoàng, thực chẳng dám chối từ. Song chư thần xét cho, dương thế còn mẹ già, đã bảy mươi mốt tuổi, chẳng biết cậy vào ai. Nay mong được ở nhà, phụng dưỡng mẹ cho trót, rồi sẽ xin tuân lệnh" Một vị ra lệnh cho viên chủ bạ râu dài đứng cạnh:"Hãy lấy thọ bạ ra coi xem thân mẫu của Tống sinh còn được hưởng bao nhiêu tuổi nữa?" Viên chủ bạ vào phòng trong bưng ra một cuốn sổ dày, đặt lên bàn, lật trang tìm đọc. Lát sau, thưa:"Còn được hưởng chín tuổi nữa" Chư thần đưa mắt nhìn nhau như để hỏi ý. Chợt Quan Đế phán:"Thôi được. Bây giờ hãy tạm sung Trương sinh vào chức ấy trong chín năm. Sau đó, sẽ trao lại cho Tống sinh" Phán xong, Quan Đế quay qua bảo công:"Đáng lẽ nhà ngươi phải đi phó nhậm ngay song vì nhà ngươi có hiếu nên được về phụng dưỡng mẹ già thêm chín năm nữa. Hết hạn, sẽ cho gọi lại!" Công vội rập đầu lạy tạ. Quan Đế lại sai lính gọi nho sĩ kia tới gần bục mà bảo:"Nhà ngươi chẳng còn mẹ. Vậy hãy tạm đi phó nhậm chức thành hoàng ở Hà Nam thay cho Tống sinh. Sau chín năm, sẽ được sung vào chức khác!" Nho sĩ cũng rập đầu lạy tạ.
Lính dắt hai người ra sân. Nho sĩ bước tới nắm tay công, tự giới thiệu:"Bỉ nhân họ Trương, quê ở huyện Trường Sơn!" Công cũng đáp lễ, nói:"Bỉ nhân họ Tống, quê ở huyện Chuy Xuyên!" Nho sĩ bèn làm một bài thơ tặng công. Công cũng làm một bài thơ tặng lại. Chợt thấy người lính dắt hai ngựa ra sân, đỡ công lên lưng ngựa trắng, bảo công rong ngựa theo mình. Công cúi đầu chào nho sĩ rồi rong ngựa theo lính.
Lát sau, về tới sân nhà, công xuống ngựa. Lính nói: "Thôi, tiên sinh vào nhà đi!" rồi quay ngựa ra khỏi cổng, dắt theo ngựa trắng. Công vừa bước chân vào phòng khách thì chợt bừng mắt tỉnh, thấy mình đang nằm trong linh cữu chưa đậy nắp. Công trở mình. Lão mẫu nghe có tiếng động trong linh cữu, bèn bước tới coi. Thấy công đã hồi sinh, lão mẫu mừng lắm, vội đỡ công dậy, dìu vào phòng trong. Chiều ấy, công tỉnh hẳn, nói năng được như thường. Công hỏi chuyện thì lão mẫu nói công đã mất được ba ngày. Công bèn thuật chuyện mình thấy cho lão mẫu nghe. Lão mẫu bảo công đọc bài thơ của nho sĩ tặng thì công chỉ còn nhớ được có hai câu:
Hữu hoa, hữu tửu, xuân thường tại,
Vô nguyệt, vô đăng, dạ tự minh
(Có hoa, có rượu, xuân luôn còn,
Không trăng, không đèn, đêm tự sáng)
Hôm sau, công nhờ người sang huyện Trường Sơn hỏi thăm thì được biết quả có nho sĩ họ Trương trong huyện mới mất được bốn ngày, đúng vào ngày công mất.
Chín năm sau, quả nhiên lão mẫu qua đời. Làm tang lễ cho lão mẫu xong, công tắm gội sạch sẽ, mặc quần áo mới, đi giày mới, chít khăn đỏ, lên giường nằm mà mất.
Chiều ấy, nhạc gia của công cư ngụ ở cửa tây huyện thành bỗng thấy công chít khăn đỏ, cưỡi ngựa trắng, tới nhà mình cùng với một đoàn xa mã hộ tống. Công xuống ngựa, vào phòng khách, chẳng nói một lời, sụp lạy nhạc gia một lạy rồi trở ra, lên ngựa mà đi. Nhạc gia kinh nghi, liền cho người chạy tới nhà công coi thì được biết công mới mất được mấy giờ.
Sinh thời, công có viết một tập tiểu truyện, thuật lại thực rõ ràng từng chi tiết của câu chuyện. Anh rể bản nhân vẫn cất giữ tập truyện ấy. Tiếc rằng sau cơn binh lửa năm Giáp Thân (1644), tập truyện ấy bị thất lạc. Anh rể bản nhân chỉ còn nhớ được sơ lược có bấy nhiêu thôi.
PHÁP THUẬT ĐẠO SĨ
(HÀN NGUYỆT PHÙ CỪ)
Năng tương ảo thuật kinh quan tể
Khoảnh khắc hoa khai thuật diệc thần
Phách án đại gia tề khiếu tán
Thụ hình nhân thị lạm hình nhân
Thủ phủ Tế Nam, tỉnh Sơn Đông, có đạo sĩ không tên họ, không quê quán. Tuy nhiên, đạo sĩ có pháp thuật biến hồ nước trong thành hồ hoa sen nên thiên hạ thường gọi đạo sĩ là Phù cừ đạo sĩ.
Quanh năm, đạo sĩ chỉ mặc một bộ quần áo vá, thắt một chiếc dây lưng màu vàng, búi tóc củ hành, cài một lược gãy, đội một nón rách. Ban ngày, đạo sĩ ra chợ trình diễn pháp thuật, được thiên hạ đua nhau thưởng tiền. Ban đêm, đạo sĩ ngủ ở ven lộ. Đêm đông tuyết xuống đầy đường nhưng chung quanh chỗ nằm của đạo sĩ, băng tuyết đều tan.
Một hôm, có một tên vô lại, họ Như tên Tập, đem rượu tới biếu, xin được truyền nghề, song bị đạo sĩ từ chối. Như Tập tức lắm, bèn quyết tâm tìm cách ép đạo sĩ phải truyền nghề. Sáng sau, Như Tập theo rình. Tới trưa, thấy đạo sĩ ra bờ sông, cởi quần áo và dây lưng để trên bờ, lội xuống sông tắm, Như Tập bèn từ chỗ núp ù té chạy ra, ôm đống quần áo cùng dây lưng, nói:"Nếu chịu truyền nghề thì mới trả lại!" Đạo sĩ cười, đáp:"Được! Trả lại trước, truyền nghề sau!" Như Tập nói:"Không! Truyền nghề trước, trả lại sau!" Đạo sĩ hỏi:"Nhất định chẳng chịu trả lại trước, phải không?" Như Tập trả lời:"Phải!" Đạo sĩ chẳng nói chi thêm, quay ra tắm tiếp. Bỗng Như Tập thấy chiếc dây lưng động đậy, hóa thành rắn, thân to bằng cánh tay, vùng lên quấn chặt lấy thân mình rồi ngửng đầu, trừng mắt, le lưỡi, hướng vào mặt mình. Như Tập kinh hãi quá, mặt mày tái mét, hơi thở hổn hển, quỳ ngay xuống đất, khấu đầu van lạy, khẩn khoản xin tha. Đạo sĩ bèn lên bờ, rút rắn ra thì rắn lại hóa thành dây lưng. Như Tập đưa mắt nhìn quanh thì chợt thấy một rắn bò ngoằn ngoèo dọc theo bờ sông, rồi chui vào một bụi rậm mà biến mất.
Tiếng tăm đạo sĩ mỗi ngày một nổi. Có một thày đồ nghe chuyện, thích đạo sĩ lắm, mời tới nhà kết bạn. Từ đó, đạo sĩ thường lui tới nhà thày đồ. Các quan địa phương nghe danh, mỗi khi có yến tiệc, thường mời đạo sĩ tới dự, xin trình diễn pháp thuật cho coi.
Một hôm, có vị quan mời đạo sĩ tới dự tiệc rồi nói đùa:"Hôm nào tới lượt đạo sĩ làm chủ tiệc chứ?" Đạo sĩ đáp:"Xin lãnh ý!"
Đầu tháng chạp. Một hôm, các quan đều nhận được thiếp mời, chẳng biết là của ai và từ đâu bay tới, nằm ngay ngắn trên án thư. Mở coi, mới biết là của đạo sĩ mời mình dắt kẻ tùy tùng tới dự tiệc ở đình Tam Độ, thủ phủ Tế Nam vào lúc đúng ngọ ngày rằm tháng chạp. Đúng ngày, các quan dắt kẻ tùy tùng tới. Đạo sĩ ra đón hết vào đình. Thấy đình trống rỗng, không bàn ghế, rượu thịt, các quan đều cho là đạo sĩ vọng thỉnh. Đạo sĩ chắp tay, nói:"Vì bần đạo chẳng có quân hầu đày tớ nên xin quý quan cho mượn tạm mấy kẻ tùy tùng để giúp bần đạo một tay" Các quan đều ưng thuận. Đạo sĩ bèn đến bên tường, lấy bút lớn vẽ hai cánh cổng có ổ khóa rồi giơ tay gõ cổng. Bỗng trong tường có tiếng khóa mở lách cách rồi hai cánh cổng tự động mở ra. Mọi người xúm lại coi thì thấy trong cổng có rất nhiều phu khuân vác, đang di chuyển bàn ghế, sập phản, bình phong, ra khỏi cổng. Đạo sĩ bèn nói với đám tùy tùng:"Làm ơn tới đỡ lấy, đem xuống bày trong đình nhưng chớ trò chuyện với người trong tường!" Chúng đều vâng dạ. Bên trong khuân ra, bên ngoài đỡ xuống, nhưng hai bên chỉ nhìn nhau mỉm cười chứ chẳng ai nói với ai một lời. Lát sau, khi đồ đạc đã được bày xong, cảnh đình trông thực tráng lệ. Rồi bát đũa, chén đĩa, rượu thịt cũng được chuyển từ trong tường ra. Đám tùy tùng tới đỡ lấy, đem bày lên khắp mọi bàn. Thấy thế, ai cũng phải kinh ngạc.
Đạo sĩ bèn mời các quan nhập tiệc. Có những bàn dành riêng cho đám tùy tùng. Rượu nồng ngào ngạt, thịt nướng ngậy thơm.
Đình Tam Độ có một hồ sen lớn trước mặt, rộng chừng hai chục mẫu. Hàng năm, vào khoảng đầu tháng sáu, hoa nở rộ đầy hồ, màu hoa đỏ ối, trông cực kỳ ngoạn mục. Nhưng vào dạo ấy, tiết trời lạnh căm, trông ra hồ chỉ thấy bàng bạc một màu nước biếc. Có vị buột miệng than:"Hôm nay được yến ẩm vui vẻ, rượu thịt thơm ngon, chỉ tiếc một điều là hồ sen chẳng có hoa để điểm xuyết cho bữa tiệc!" Các quan đều khen là lời nói phải. Bỗng có kẻ tùy tùng chạy vào báo:"Tự nhiên có muôn vàn lá sen xanh rờn, mọc kín cả mặt hồ!" Các quan đều kinh ngạc, đứng cả dậy, chạy ra coi. Đạo sĩ cũng theo ra.
Tới hồ, các quan thấy quả là kẻ tùy tùng nói đúng. Lát sau, lại thấy muôn vàn nụ sen nhô lên khắp mặt hồ rồi có muôn vàn hoa sen cùng nở, vô cùng ngoạn mục. Gió bấc thổi tới, hương thơm tỏa khắp vùng, ai cũng phải kinh ngạc. Có vị quan thấy ở giữa hồ có ba bông sen lớn, liền sai kẻ tùy tùng chèo thuyền nhỏ ra hái. Kẻ tùy tùng ra tới giữa hồ thì mất hút vào đám lá sen. Lát sau, chèo thuyền không vào bờ. Vị quan hỏi:"Sao chẳng hái được bông nào?" Kẻ tùy tùng đáp:"Tiểu nhân chèo thuyền tới giữa hồ thì thấy ba bông sen đã di chuyển lên phía bắc. Chèo thuyền lên phía bắc thì lại thấy ba bông sen đã di chuyển xuống phía nam" Đạo sĩ cười, nói:"Có hoa thực đâu mà hái! Ba bông sen mà quý vị nhìn thấy chỉ là hoa trong ảo giác thôi!" Nói xong, lại mời các quan trở vào đình tiếp tục dự tiệc.
Tiệc tan, các quan ra hồ coi thì thấy hoa đã tàn hết, chỉ còn trơ lại ít lá xanh. Chợt có một luồng gió thổi qua, làm gãy hết các cành sen rồi bao nhiêu cây sen trong hồ đều biến mất. Mặt hồ lại bàng bạc một màu nước biếc.
Án sát Tế Đông nghe danh đạo sĩ thì thích lắm. Bèn sai người đi mời đạo sĩ vào tư dinh cư ngụ. Đạo sĩ nhận lời. Ngày ngày, hai người đàm đạo rất tương đắc. Chiều chiều, án sát thường rủ đạo sĩ tới các thắng cảnh ngồi yến ẩm, thưởng ngoạn.
Một tối, án sát mời quan khách tới tư dinh dự tiệc, mời cả đạo sĩ cùng dự. Án sát có một thùng rượu gia truyền rất ngon, niêm phong rất kỹ, cất ở trong kho, khóa kín cửa. Mỗi lần đãi khách, án sát chỉ mời mỗi người một chén chứ chẳng cho ai uống thỏa thích. Tối ấy, có khách uống xong, thấy còn thòm thèm, bèn đòi uống thêm. Án sát nói:"Hết rồi!" Đạo sĩ cười, nói:"Còn! Vị nào muốn uống thêm thì cứ nói, bần đạo sẽ lấy cho!" Mọi người đều đua nhau xin thêm. Đạo sĩ bèn cầm chiếc bình không cho vào tay áo. Lát sau, lấy bình ra thì bình đã đầy rượu. Đạo sĩ cầm bình rót cho mỗi người một chén mà bình vẫn chưa vơi. Quan khách uống thì thấy đúng là rượu của án sát. Mọi người cùng yến ẩm vui vẻ, đua nhau rót hết chén này tới chén khác mà bình vẫn đầy nguyên. Khi tiệc tan, quan khách ra về, án sát sinh nghi, bèn xuống kho coi. Thấy cửa kho vẫn khóa, án sát mở khóa mà vào. Thấy dấu niêm ngoài thùng vẫn còn, án sát phá dấu niêm, mở thùng ra coi thì thấy rượu trong thùng đã hết, chẳng còn một giọt. Án sát vừa ngượng, vừa tức.
Sáng sau, án sát đăng đường, ghép đạo sĩ vào tội dùng tà thuật để lấy trộm rượu, rồi sai lính đánh đòn. Tuy đùi đạo sĩ bị roi quất túi bụi song đạo sĩ chẳng đau đớn chi, chỉ đứng cười. Trong khi ấy, án sát ngồi trên ghế cao thì lại thấy đùi mình bị đau nhói. Án sát liền thét lính ngưng đánh, rồi sai đuổi đạo sĩ ra khỏi địa phận Tế Đông.
Chẳng ai biết là đạo sĩ đi đâu.
Năm sau, có người từ Tế Đông tới Kim Lăng chơi, tình cờ gặp đạo sĩ ở ngoài chợ, vẫn búi tóc củ hành, phục sức như cũ. Hỏi chuyện, đạo sĩ chỉ cười chứ không đáp.
Năng tương ảo thuật kinh quan tể
Khoảnh khắc hoa khai thuật diệc thần
Phách án đại gia tề khiếu tán
Thụ hình nhân thị lạm hình nhân
Thủ phủ Tế Nam, tỉnh Sơn Đông, có đạo sĩ không tên họ, không quê quán. Tuy nhiên, đạo sĩ có pháp thuật biến hồ nước trong thành hồ hoa sen nên thiên hạ thường gọi đạo sĩ là Phù cừ đạo sĩ.
Quanh năm, đạo sĩ chỉ mặc một bộ quần áo vá, thắt một chiếc dây lưng màu vàng, búi tóc củ hành, cài một lược gãy, đội một nón rách. Ban ngày, đạo sĩ ra chợ trình diễn pháp thuật, được thiên hạ đua nhau thưởng tiền. Ban đêm, đạo sĩ ngủ ở ven lộ. Đêm đông tuyết xuống đầy đường nhưng chung quanh chỗ nằm của đạo sĩ, băng tuyết đều tan.
Một hôm, có một tên vô lại, họ Như tên Tập, đem rượu tới biếu, xin được truyền nghề, song bị đạo sĩ từ chối. Như Tập tức lắm, bèn quyết tâm tìm cách ép đạo sĩ phải truyền nghề. Sáng sau, Như Tập theo rình. Tới trưa, thấy đạo sĩ ra bờ sông, cởi quần áo và dây lưng để trên bờ, lội xuống sông tắm, Như Tập bèn từ chỗ núp ù té chạy ra, ôm đống quần áo cùng dây lưng, nói:"Nếu chịu truyền nghề thì mới trả lại!" Đạo sĩ cười, đáp:"Được! Trả lại trước, truyền nghề sau!" Như Tập nói:"Không! Truyền nghề trước, trả lại sau!" Đạo sĩ hỏi:"Nhất định chẳng chịu trả lại trước, phải không?" Như Tập trả lời:"Phải!" Đạo sĩ chẳng nói chi thêm, quay ra tắm tiếp. Bỗng Như Tập thấy chiếc dây lưng động đậy, hóa thành rắn, thân to bằng cánh tay, vùng lên quấn chặt lấy thân mình rồi ngửng đầu, trừng mắt, le lưỡi, hướng vào mặt mình. Như Tập kinh hãi quá, mặt mày tái mét, hơi thở hổn hển, quỳ ngay xuống đất, khấu đầu van lạy, khẩn khoản xin tha. Đạo sĩ bèn lên bờ, rút rắn ra thì rắn lại hóa thành dây lưng. Như Tập đưa mắt nhìn quanh thì chợt thấy một rắn bò ngoằn ngoèo dọc theo bờ sông, rồi chui vào một bụi rậm mà biến mất.
Tiếng tăm đạo sĩ mỗi ngày một nổi. Có một thày đồ nghe chuyện, thích đạo sĩ lắm, mời tới nhà kết bạn. Từ đó, đạo sĩ thường lui tới nhà thày đồ. Các quan địa phương nghe danh, mỗi khi có yến tiệc, thường mời đạo sĩ tới dự, xin trình diễn pháp thuật cho coi.
Một hôm, có vị quan mời đạo sĩ tới dự tiệc rồi nói đùa:"Hôm nào tới lượt đạo sĩ làm chủ tiệc chứ?" Đạo sĩ đáp:"Xin lãnh ý!"
Đầu tháng chạp. Một hôm, các quan đều nhận được thiếp mời, chẳng biết là của ai và từ đâu bay tới, nằm ngay ngắn trên án thư. Mở coi, mới biết là của đạo sĩ mời mình dắt kẻ tùy tùng tới dự tiệc ở đình Tam Độ, thủ phủ Tế Nam vào lúc đúng ngọ ngày rằm tháng chạp. Đúng ngày, các quan dắt kẻ tùy tùng tới. Đạo sĩ ra đón hết vào đình. Thấy đình trống rỗng, không bàn ghế, rượu thịt, các quan đều cho là đạo sĩ vọng thỉnh. Đạo sĩ chắp tay, nói:"Vì bần đạo chẳng có quân hầu đày tớ nên xin quý quan cho mượn tạm mấy kẻ tùy tùng để giúp bần đạo một tay" Các quan đều ưng thuận. Đạo sĩ bèn đến bên tường, lấy bút lớn vẽ hai cánh cổng có ổ khóa rồi giơ tay gõ cổng. Bỗng trong tường có tiếng khóa mở lách cách rồi hai cánh cổng tự động mở ra. Mọi người xúm lại coi thì thấy trong cổng có rất nhiều phu khuân vác, đang di chuyển bàn ghế, sập phản, bình phong, ra khỏi cổng. Đạo sĩ bèn nói với đám tùy tùng:"Làm ơn tới đỡ lấy, đem xuống bày trong đình nhưng chớ trò chuyện với người trong tường!" Chúng đều vâng dạ. Bên trong khuân ra, bên ngoài đỡ xuống, nhưng hai bên chỉ nhìn nhau mỉm cười chứ chẳng ai nói với ai một lời. Lát sau, khi đồ đạc đã được bày xong, cảnh đình trông thực tráng lệ. Rồi bát đũa, chén đĩa, rượu thịt cũng được chuyển từ trong tường ra. Đám tùy tùng tới đỡ lấy, đem bày lên khắp mọi bàn. Thấy thế, ai cũng phải kinh ngạc.
Đạo sĩ bèn mời các quan nhập tiệc. Có những bàn dành riêng cho đám tùy tùng. Rượu nồng ngào ngạt, thịt nướng ngậy thơm.
Đình Tam Độ có một hồ sen lớn trước mặt, rộng chừng hai chục mẫu. Hàng năm, vào khoảng đầu tháng sáu, hoa nở rộ đầy hồ, màu hoa đỏ ối, trông cực kỳ ngoạn mục. Nhưng vào dạo ấy, tiết trời lạnh căm, trông ra hồ chỉ thấy bàng bạc một màu nước biếc. Có vị buột miệng than:"Hôm nay được yến ẩm vui vẻ, rượu thịt thơm ngon, chỉ tiếc một điều là hồ sen chẳng có hoa để điểm xuyết cho bữa tiệc!" Các quan đều khen là lời nói phải. Bỗng có kẻ tùy tùng chạy vào báo:"Tự nhiên có muôn vàn lá sen xanh rờn, mọc kín cả mặt hồ!" Các quan đều kinh ngạc, đứng cả dậy, chạy ra coi. Đạo sĩ cũng theo ra.
Tới hồ, các quan thấy quả là kẻ tùy tùng nói đúng. Lát sau, lại thấy muôn vàn nụ sen nhô lên khắp mặt hồ rồi có muôn vàn hoa sen cùng nở, vô cùng ngoạn mục. Gió bấc thổi tới, hương thơm tỏa khắp vùng, ai cũng phải kinh ngạc. Có vị quan thấy ở giữa hồ có ba bông sen lớn, liền sai kẻ tùy tùng chèo thuyền nhỏ ra hái. Kẻ tùy tùng ra tới giữa hồ thì mất hút vào đám lá sen. Lát sau, chèo thuyền không vào bờ. Vị quan hỏi:"Sao chẳng hái được bông nào?" Kẻ tùy tùng đáp:"Tiểu nhân chèo thuyền tới giữa hồ thì thấy ba bông sen đã di chuyển lên phía bắc. Chèo thuyền lên phía bắc thì lại thấy ba bông sen đã di chuyển xuống phía nam" Đạo sĩ cười, nói:"Có hoa thực đâu mà hái! Ba bông sen mà quý vị nhìn thấy chỉ là hoa trong ảo giác thôi!" Nói xong, lại mời các quan trở vào đình tiếp tục dự tiệc.
Tiệc tan, các quan ra hồ coi thì thấy hoa đã tàn hết, chỉ còn trơ lại ít lá xanh. Chợt có một luồng gió thổi qua, làm gãy hết các cành sen rồi bao nhiêu cây sen trong hồ đều biến mất. Mặt hồ lại bàng bạc một màu nước biếc.
Án sát Tế Đông nghe danh đạo sĩ thì thích lắm. Bèn sai người đi mời đạo sĩ vào tư dinh cư ngụ. Đạo sĩ nhận lời. Ngày ngày, hai người đàm đạo rất tương đắc. Chiều chiều, án sát thường rủ đạo sĩ tới các thắng cảnh ngồi yến ẩm, thưởng ngoạn.
Một tối, án sát mời quan khách tới tư dinh dự tiệc, mời cả đạo sĩ cùng dự. Án sát có một thùng rượu gia truyền rất ngon, niêm phong rất kỹ, cất ở trong kho, khóa kín cửa. Mỗi lần đãi khách, án sát chỉ mời mỗi người một chén chứ chẳng cho ai uống thỏa thích. Tối ấy, có khách uống xong, thấy còn thòm thèm, bèn đòi uống thêm. Án sát nói:"Hết rồi!" Đạo sĩ cười, nói:"Còn! Vị nào muốn uống thêm thì cứ nói, bần đạo sẽ lấy cho!" Mọi người đều đua nhau xin thêm. Đạo sĩ bèn cầm chiếc bình không cho vào tay áo. Lát sau, lấy bình ra thì bình đã đầy rượu. Đạo sĩ cầm bình rót cho mỗi người một chén mà bình vẫn chưa vơi. Quan khách uống thì thấy đúng là rượu của án sát. Mọi người cùng yến ẩm vui vẻ, đua nhau rót hết chén này tới chén khác mà bình vẫn đầy nguyên. Khi tiệc tan, quan khách ra về, án sát sinh nghi, bèn xuống kho coi. Thấy cửa kho vẫn khóa, án sát mở khóa mà vào. Thấy dấu niêm ngoài thùng vẫn còn, án sát phá dấu niêm, mở thùng ra coi thì thấy rượu trong thùng đã hết, chẳng còn một giọt. Án sát vừa ngượng, vừa tức.
Sáng sau, án sát đăng đường, ghép đạo sĩ vào tội dùng tà thuật để lấy trộm rượu, rồi sai lính đánh đòn. Tuy đùi đạo sĩ bị roi quất túi bụi song đạo sĩ chẳng đau đớn chi, chỉ đứng cười. Trong khi ấy, án sát ngồi trên ghế cao thì lại thấy đùi mình bị đau nhói. Án sát liền thét lính ngưng đánh, rồi sai đuổi đạo sĩ ra khỏi địa phận Tế Đông.
Chẳng ai biết là đạo sĩ đi đâu.
Năm sau, có người từ Tế Đông tới Kim Lăng chơi, tình cờ gặp đạo sĩ ở ngoài chợ, vẫn búi tóc củ hành, phục sức như cũ. Hỏi chuyện, đạo sĩ chỉ cười chứ không đáp.
ĐỂ CỦA CHO CON
(truyện LÝ BÁT CANG)
A ông ngụ tạng tí hà trì
Cánh đáo sơn cùng thủy tận thi
Hồi thủ di lưu đương nhật ngữ
Chấp niên khâm lẫm dĩ tiền tri
Triều Tống, tỉnh Sơn Đông có bốc sư họ Lý, tên Xích Vũ, nhà rất giàu. Ngoài ba ngôi nhà lớn, Lý ông còn chôn giấu rất nhiều vàng. Nghe đồn Lý ông có tới tám chum vàng nên người làng đặt cho Lý ông lộng danh là Lý Bát Cang (Lý Tám Chum)
Lý ông không có con gái, chỉ có hai trai là Xích Thành, lên 10, và Nguyệt Sinh, lên 8, theo học cùng một thày đồ.
Tính Xích Thành hiền lành, cần kiệm song vì không thích văn chương nên sau khi biết đọc văn tự, Xích Thành xin cha mẹ cho về quê trông nom gia nhân canh tác. Năm 20 tuổi, Xích Thành được cha mẹ cưới vợ cho rồi cho hai vợ chồng một ngôi nhà để ra ở riêng. Vợ Xích Thành họ Cốc. Cốc thị cũng hiền lành, cần kiệm như chồng nên chỉ ít năm sau, hai vợ chồng đã trở nên giàu có. Xích Thành có ba trai, ba gái.
Tính Nguyệt Sinh cũng đôn hậu nhưng ăn tiêu hoang phí. Vốn ưa thích văn chương, Nguyệt Sinh xin cha mẹ cho theo học tới khi đậu đại khoa. Mười năm sau, Nguyệt Sinh thi đậu thái học sinh (tiến sĩ) song vì không thích ra làm quan nên Nguyệt Sinh xin cha mẹ cho về quê ở chung. Năm 20 tuổi, Nguyệt sinh cũng được cha mẹ cưới vợ cho rồi cho hai vợ chồng một ngôi nhà để ra ở riêng. Vợ Nguyệt Sinh họ Xa, tính rất hiền lành và hay chiều chồng, chẳng bao giờ ngăn cản chồng mình điều chi. Nguyệt Sinh chỉ có hai trai.
Mười năm sau, Lý bà mất. Thấy mình đã già, Lý ông tự biết cũng chẳng còn sống được bao lâu. Bèn đào bảy chum vàng lên rồi cho gọi hai con tới nhà, nói:"Thân mẫu các con đã qua đời mà ta thì cũng chẳng còn sống được bao lâu nữa nên ta muốn chia cho mỗi đứa một phần của cải. Bây giờ ta có bảy chum vàng. Xích Thành đông con, ta cho sáu chum còn Nguyệt Sinh ít con, ta cho một chum. Tuy nhiên, sau khi ta chết thì ngôi nhà ta đang ở với mười mẫu ruộng ta đang cho người cấy sẽ thuộc về Nguyệt Sinh!" Nguyệt Sinh bất mãn nhưng vì sợ cha nên chẳng dám nói. Hai anh em nhận lãnh phần chia rồi tải về nhà.
Biết Nguyệt Sinh bất mãn, một hôm Lý ông cho gọi riêng tới nhà mà bảo:"Chẳng phải là ta thiên vị anh con, cho nó nhiều hơn con đâu. Ta còn một chum nữa, chôn riêng một chỗ, để dành cho con. Khi nào gia đình con vắng người thì ta mới bảo cho biết!"
Ít lâu sau, Lý ông bị bệnh nặng. Nguyệt Sinh sợ cha chết bất thần thì mình sẽ chẳng biết được chỗ chôn vàng, nên sang nhà cha, rình lúc vắng người, lẻn vào hỏi nhỏ:"Chum vàng thân phụ cho con, chôn ở chỗ nào?" Lý ông đáp:"Ta chưa thể nói cho con biết được! Ở đời, mỗi người đều có một phần số riêng, sướng khổ khác nhau. Bây giờ con đang được hưởng cái phước có vợ hiền thì hãy cứ hưởng đi đã! Con thì ăn tiêu hoang phí mà vợ con thì hiền lành thái quá, chẳng biết ngăn cản con. Nếu bây giờ ta có cho con nhiều tiền bạc thì chắc chắn là con cũng sẽ tiêu hết ngay!" Nguyệt Sinh không nghe, cứ năn nỉ xin được biết chỗ chôn vàng. Lý ông liền nổi giận, quát:"Mày thì ăn tiêu hoang phí, chẳng biết giữ của, mà con vợ mày thì chiều mày thái quá, chẳng biết ngăn cản mày. Số mày còn phải nghèo túng trên hai chục năm nữa rồi mới khá được! Bây giờ mà mày có tiền rừng bạc biển thì cũng sẽ hết ngay. Chừng nào mà mày chưa phải là nghèo rớt mùng tơi thì đừng có hy vọng được tao cho thêm!" Nguyệt Sinh sợ cha mà cũng có hiếu nên chẳng dám hỏi chi nữa, chỉ mong sao cho cha chóng khỏi bệnh để mình có dịp dò hỏi được chỗ chôn vàng.
Ba tháng sau, Lý ông trở bệnh nặng rồi mất, Nguyệt Sinh vô cùng thất vọng. Chum vàng cha cho đã đem trả nợ mất gần nửa nên thầm nghĩ bây giờ lại phải chung góp với anh để làm tang lễ cho cha thì sẽ chẳng còn được là bao. May sao, Xích Thành gọi riêng em ra một nơi mà bảo cho biết là mình sẽ đứng ra lo liệu hết tang lễ cho cha. Nguyệt Sinh mừng lắm.
Sau tang lễ, Nguyệt Sinh đưa vợ con tới cư ngụ ở ngôi nhà của cha để lại, còn ngôi nhà của mình thì cho thuê. Đã ăn tiêu hoang phí, lại có tính hiếu khách, ngày nào Nguyệt Sinh cũng sai gia nhân đi mời khách về nhà ngâm vịnh, có ngày sai vợ làm tới bốn bữa cơm thịnh soạn để đãi khách. Đã thế, thấy bạn bè nào than túng, Nguyệt Sinh cũng vào bảo vợ xuất tiền cho vay nên bị bọn vô lại trong làng rủ nhau tới nhà bòn của. Vốn không biết cách quản lý ruộng nương, Nguyệt Sinh chẳng thâu nhập được là bao. Càng ngày Nguyệt Sinh càng nghèo.
Mười năm sau, Nguyệt Sinh rơi vào cảnh túng thiếu. May được Xích Thành tốt bụng, thường lén vợ mà chu cấp cho em nên Nguyệt Sinh cũng chưa đến nỗi nào.
Năm năm sau, Xích Thành bị bệnh rồi mất. Từ đó, Nguyệt Sinh chẳng còn biết trông cậy vào ai. Mùa xuân, Nguyệt Sinh phải đi vay thóc về cho gia đình ăn. Mùa thu, thâu hoạch được chút nào thì lại phải đem đi trả nợ hết, cả vốn lẫn lời. Ít lâu sau, lại phải bán rẻ ngôi nhà cho thuê và mười mẫu ruộng cha để lại cho. Nhiều bữa trong nhà chẳng còn gạo ăn, Nguyệt Sinh phải đôn đáo chạy đi vay mượn. Gia nhân thấy chủ nghèo quá, bèn rủ nhau trốn hết. Ba năm sau, con trai lớn của Nguyệt Sinh bị bệnh mà chết. Vì thương con quá, Xa thị cũng bị bệnh mà chết theo con. Bấy giờ, trong nhà chỉ còn Nguyệt Sinh với đứa con trai nhỏ.
Năm sau, hết tang vợ, Nguyệt Sinh đem chút tiền còn lại đi cưới một cô vợ kế, họ Từ, trước kia là vợ của một người lái dê. Nguyệt Sinh hy vọng Từ thị sẽ giúp mình làm ăn khá giả hơn. Thế nhưng, hai năm sau, Nguyệt Sinh lại càng nghèo thêm. Tính Từ thị rất thô bạo, trái hẳn tính Xa thị thủa trước. Ngày nào hàng xóm cũng thấy Từ thị thóa mạ chồng, cấm chồng không được giao du với bè bạn.
Một đêm, Nguyệt Sinh nằm mộng thấy cha về, nói:"Tình cảnh của con bây giờ có thể nói là nghèo rớt mùng tơi rồi đó! Trước kia ta có hứa cho con một chum vàng, bây giờ có thể lấy lên mà chi tiêu" Nguyệt Sinh vội hỏi:"Chum vàng thân phụ cho con, chôn ở chỗ nào?"Đáp: "Sáng mai ta sẽ chỉ chỗ cho!" Bỗng Nguyệt Sinh tỉnh giấc. Nghĩ lại giấc mộng, Nguyệt Sinh lấy làm lạ nhưng thầm nghĩ chắc mình nghèo quá, ngày nào cũng mơ tưởng tới tiền bạc nên mới sinh ra mộng mị vớ vẩn thế thôi. Vả lại, cha mất đã lâu rồi, chẳng cho mình biết chỗ chôn vàng thì làm sao mà mình có thể tìm thấy được? Vì thế, Nguyệt Sinh cũng chẳng buồn để ý tới giấc mộng nữa.
Sáng sau, đột nhiên bức tường rào ở vườn sau nhà Nguyệt Sinh bị đổ vì đã quá cũ. Từ thị bắt chồng phải ra cuốc đất đắp lại ngay. Sợ vợ, Nguyệt Sinh vội tuân lời. Khi cuốc đất đắp tường, cuốc phải một vật cứng, Nguyệt Sinh nhặt lên coi thì thấy là một mảnh nắp chum. Bèn thử cuốc sâu thêm chút nữa thì thấy lộ ra một chum vàng. Mừng quá, Nguyệt Sinh vội chạy vào nhà tìm vợ con, bảo ra vườn sau giúp mình khuân vàng vào nhà. Từ đó, gia đình Nguyệt Sinh lại trở nên khá giả. Một hôm, nhớ tới câu nói của cha ngày trước:"Khi nào gia đình con vắng người thì ta mới bảo cho biết!" Nguyệt Sinh chợt nghĩ ra cái nghĩa của câu nói đó "Bây giờ vợ cả và con trai lớn của mình đã chết, gia nhân đã rủ nhau trốn hết, thì gia đình mình trở nên vắng người"
Nhờ chum vàng, Nguyệt Sinh được sống trong cảnh sung túc với Từ thị và đứa con trai cho tới hết cuộc đời.
A ông ngụ tạng tí hà trì
Cánh đáo sơn cùng thủy tận thi
Hồi thủ di lưu đương nhật ngữ
Chấp niên khâm lẫm dĩ tiền tri
Triều Tống, tỉnh Sơn Đông có bốc sư họ Lý, tên Xích Vũ, nhà rất giàu. Ngoài ba ngôi nhà lớn, Lý ông còn chôn giấu rất nhiều vàng. Nghe đồn Lý ông có tới tám chum vàng nên người làng đặt cho Lý ông lộng danh là Lý Bát Cang (Lý Tám Chum)
Lý ông không có con gái, chỉ có hai trai là Xích Thành, lên 10, và Nguyệt Sinh, lên 8, theo học cùng một thày đồ.
Tính Xích Thành hiền lành, cần kiệm song vì không thích văn chương nên sau khi biết đọc văn tự, Xích Thành xin cha mẹ cho về quê trông nom gia nhân canh tác. Năm 20 tuổi, Xích Thành được cha mẹ cưới vợ cho rồi cho hai vợ chồng một ngôi nhà để ra ở riêng. Vợ Xích Thành họ Cốc. Cốc thị cũng hiền lành, cần kiệm như chồng nên chỉ ít năm sau, hai vợ chồng đã trở nên giàu có. Xích Thành có ba trai, ba gái.
Tính Nguyệt Sinh cũng đôn hậu nhưng ăn tiêu hoang phí. Vốn ưa thích văn chương, Nguyệt Sinh xin cha mẹ cho theo học tới khi đậu đại khoa. Mười năm sau, Nguyệt Sinh thi đậu thái học sinh (tiến sĩ) song vì không thích ra làm quan nên Nguyệt Sinh xin cha mẹ cho về quê ở chung. Năm 20 tuổi, Nguyệt sinh cũng được cha mẹ cưới vợ cho rồi cho hai vợ chồng một ngôi nhà để ra ở riêng. Vợ Nguyệt Sinh họ Xa, tính rất hiền lành và hay chiều chồng, chẳng bao giờ ngăn cản chồng mình điều chi. Nguyệt Sinh chỉ có hai trai.
Mười năm sau, Lý bà mất. Thấy mình đã già, Lý ông tự biết cũng chẳng còn sống được bao lâu. Bèn đào bảy chum vàng lên rồi cho gọi hai con tới nhà, nói:"Thân mẫu các con đã qua đời mà ta thì cũng chẳng còn sống được bao lâu nữa nên ta muốn chia cho mỗi đứa một phần của cải. Bây giờ ta có bảy chum vàng. Xích Thành đông con, ta cho sáu chum còn Nguyệt Sinh ít con, ta cho một chum. Tuy nhiên, sau khi ta chết thì ngôi nhà ta đang ở với mười mẫu ruộng ta đang cho người cấy sẽ thuộc về Nguyệt Sinh!" Nguyệt Sinh bất mãn nhưng vì sợ cha nên chẳng dám nói. Hai anh em nhận lãnh phần chia rồi tải về nhà.
Biết Nguyệt Sinh bất mãn, một hôm Lý ông cho gọi riêng tới nhà mà bảo:"Chẳng phải là ta thiên vị anh con, cho nó nhiều hơn con đâu. Ta còn một chum nữa, chôn riêng một chỗ, để dành cho con. Khi nào gia đình con vắng người thì ta mới bảo cho biết!"
Ít lâu sau, Lý ông bị bệnh nặng. Nguyệt Sinh sợ cha chết bất thần thì mình sẽ chẳng biết được chỗ chôn vàng, nên sang nhà cha, rình lúc vắng người, lẻn vào hỏi nhỏ:"Chum vàng thân phụ cho con, chôn ở chỗ nào?" Lý ông đáp:"Ta chưa thể nói cho con biết được! Ở đời, mỗi người đều có một phần số riêng, sướng khổ khác nhau. Bây giờ con đang được hưởng cái phước có vợ hiền thì hãy cứ hưởng đi đã! Con thì ăn tiêu hoang phí mà vợ con thì hiền lành thái quá, chẳng biết ngăn cản con. Nếu bây giờ ta có cho con nhiều tiền bạc thì chắc chắn là con cũng sẽ tiêu hết ngay!" Nguyệt Sinh không nghe, cứ năn nỉ xin được biết chỗ chôn vàng. Lý ông liền nổi giận, quát:"Mày thì ăn tiêu hoang phí, chẳng biết giữ của, mà con vợ mày thì chiều mày thái quá, chẳng biết ngăn cản mày. Số mày còn phải nghèo túng trên hai chục năm nữa rồi mới khá được! Bây giờ mà mày có tiền rừng bạc biển thì cũng sẽ hết ngay. Chừng nào mà mày chưa phải là nghèo rớt mùng tơi thì đừng có hy vọng được tao cho thêm!" Nguyệt Sinh sợ cha mà cũng có hiếu nên chẳng dám hỏi chi nữa, chỉ mong sao cho cha chóng khỏi bệnh để mình có dịp dò hỏi được chỗ chôn vàng.
Ba tháng sau, Lý ông trở bệnh nặng rồi mất, Nguyệt Sinh vô cùng thất vọng. Chum vàng cha cho đã đem trả nợ mất gần nửa nên thầm nghĩ bây giờ lại phải chung góp với anh để làm tang lễ cho cha thì sẽ chẳng còn được là bao. May sao, Xích Thành gọi riêng em ra một nơi mà bảo cho biết là mình sẽ đứng ra lo liệu hết tang lễ cho cha. Nguyệt Sinh mừng lắm.
Sau tang lễ, Nguyệt Sinh đưa vợ con tới cư ngụ ở ngôi nhà của cha để lại, còn ngôi nhà của mình thì cho thuê. Đã ăn tiêu hoang phí, lại có tính hiếu khách, ngày nào Nguyệt Sinh cũng sai gia nhân đi mời khách về nhà ngâm vịnh, có ngày sai vợ làm tới bốn bữa cơm thịnh soạn để đãi khách. Đã thế, thấy bạn bè nào than túng, Nguyệt Sinh cũng vào bảo vợ xuất tiền cho vay nên bị bọn vô lại trong làng rủ nhau tới nhà bòn của. Vốn không biết cách quản lý ruộng nương, Nguyệt Sinh chẳng thâu nhập được là bao. Càng ngày Nguyệt Sinh càng nghèo.
Mười năm sau, Nguyệt Sinh rơi vào cảnh túng thiếu. May được Xích Thành tốt bụng, thường lén vợ mà chu cấp cho em nên Nguyệt Sinh cũng chưa đến nỗi nào.
Năm năm sau, Xích Thành bị bệnh rồi mất. Từ đó, Nguyệt Sinh chẳng còn biết trông cậy vào ai. Mùa xuân, Nguyệt Sinh phải đi vay thóc về cho gia đình ăn. Mùa thu, thâu hoạch được chút nào thì lại phải đem đi trả nợ hết, cả vốn lẫn lời. Ít lâu sau, lại phải bán rẻ ngôi nhà cho thuê và mười mẫu ruộng cha để lại cho. Nhiều bữa trong nhà chẳng còn gạo ăn, Nguyệt Sinh phải đôn đáo chạy đi vay mượn. Gia nhân thấy chủ nghèo quá, bèn rủ nhau trốn hết. Ba năm sau, con trai lớn của Nguyệt Sinh bị bệnh mà chết. Vì thương con quá, Xa thị cũng bị bệnh mà chết theo con. Bấy giờ, trong nhà chỉ còn Nguyệt Sinh với đứa con trai nhỏ.
Năm sau, hết tang vợ, Nguyệt Sinh đem chút tiền còn lại đi cưới một cô vợ kế, họ Từ, trước kia là vợ của một người lái dê. Nguyệt Sinh hy vọng Từ thị sẽ giúp mình làm ăn khá giả hơn. Thế nhưng, hai năm sau, Nguyệt Sinh lại càng nghèo thêm. Tính Từ thị rất thô bạo, trái hẳn tính Xa thị thủa trước. Ngày nào hàng xóm cũng thấy Từ thị thóa mạ chồng, cấm chồng không được giao du với bè bạn.
Một đêm, Nguyệt Sinh nằm mộng thấy cha về, nói:"Tình cảnh của con bây giờ có thể nói là nghèo rớt mùng tơi rồi đó! Trước kia ta có hứa cho con một chum vàng, bây giờ có thể lấy lên mà chi tiêu" Nguyệt Sinh vội hỏi:"Chum vàng thân phụ cho con, chôn ở chỗ nào?"Đáp: "Sáng mai ta sẽ chỉ chỗ cho!" Bỗng Nguyệt Sinh tỉnh giấc. Nghĩ lại giấc mộng, Nguyệt Sinh lấy làm lạ nhưng thầm nghĩ chắc mình nghèo quá, ngày nào cũng mơ tưởng tới tiền bạc nên mới sinh ra mộng mị vớ vẩn thế thôi. Vả lại, cha mất đã lâu rồi, chẳng cho mình biết chỗ chôn vàng thì làm sao mà mình có thể tìm thấy được? Vì thế, Nguyệt Sinh cũng chẳng buồn để ý tới giấc mộng nữa.
Sáng sau, đột nhiên bức tường rào ở vườn sau nhà Nguyệt Sinh bị đổ vì đã quá cũ. Từ thị bắt chồng phải ra cuốc đất đắp lại ngay. Sợ vợ, Nguyệt Sinh vội tuân lời. Khi cuốc đất đắp tường, cuốc phải một vật cứng, Nguyệt Sinh nhặt lên coi thì thấy là một mảnh nắp chum. Bèn thử cuốc sâu thêm chút nữa thì thấy lộ ra một chum vàng. Mừng quá, Nguyệt Sinh vội chạy vào nhà tìm vợ con, bảo ra vườn sau giúp mình khuân vàng vào nhà. Từ đó, gia đình Nguyệt Sinh lại trở nên khá giả. Một hôm, nhớ tới câu nói của cha ngày trước:"Khi nào gia đình con vắng người thì ta mới bảo cho biết!" Nguyệt Sinh chợt nghĩ ra cái nghĩa của câu nói đó "Bây giờ vợ cả và con trai lớn của mình đã chết, gia nhân đã rủ nhau trốn hết, thì gia đình mình trở nên vắng người"
Nhờ chum vàng, Nguyệt Sinh được sống trong cảnh sung túc với Từ thị và đứa con trai cho tới hết cuộc đời.
HỔ TRẢ ƠN NGƯỜI
(truyện NHỊ BAN)
Tam niên tiền sự vị toàn vong
Báo đức hô nhi đại trục lang
Y sĩ thảng vi Tôn tứ Mạc
Hựu tòng nguyên quật đắc tiên phương
Tỉnh Vân Nam, có y sư họ Ân, tên Nguyên Lễ, chuyên nghề châm cứu.
Năm ấy, vùng Vân Nam bị mất mùa, làng nào cũng bị giặc giã nổi lên cướp phá. Nguyên Lễ phải bỏ làng mà chạy, băng qua một ngọn núi để tới xin lánh nạn tại nhà một người bạn ở cách làng chừng trăm dặm.
Chạy từ sáng tới tối, khi mặt trời sắp lặn, Nguyên Lễ mới đến lưng chừng núi. Nhìn quanh, thấy mình đang đứng bơ vơ giữa chốn núi rừng hoang vu, chẳng bạn đồng hành, Nguyên Lễ kinh hãi lắm, những lo bị hổ sói xông ra ăn thịt. Chợt thấy ở phía trước mặt có hai người sánh vai nhau đi, Nguyên Lễ đoán chừng họ cũng đang chạy loạn như mình nên cắm đầu chạy theo để xin nhập bọn. Khi bắt kịp, Nguyên Lễ lên tiếng:"Xin nhị vị cho bỉ nhân được nhập bọn kẻo một mình đi qua núi đêm khuya, sợ bị hổ sói xông ra ăn thịt!" Người lớn tuổi đưa mắt nhìn Nguyên Lễ từ đầu đến chân rồi cau mày hỏi: "Tên chi, làm nghề gì?" Đáp:"Bỉ nhân họ Ân, tên Nguyên Lễ, làm nghề châm cứu!" Đột nhiên, người ấy thay đổi hẳn thái độ, cung kính chắp tay vái chào Nguyên Lễ mà nói:"Thế ra tiên sinh là Ân đại nhân, vị danh y nổi tiếng trong vùng này đó ư? Trong vùng này, ai chẳng biết đại danh của tiên sinh! Huynh đệ tiểu nhân ngưỡng mộ đại danh của tiên sinh đã từ lâu! Nay được gặp mặt, thực là vạn hạnh!" Hỏi:"Nhị vị họ chi?" Đáp:"Huynh đệ tiểu nhân họ Ban. Tiểu nhân tên Trảo, còn tiện đệ đây, tên Nha!" Rồi tiếp:"Phải chăng tiên sinh đang chạy loạn?" Đáp: "Thưa phải!" Ban Trảo nói:"Huynh đệ tiểu nhân cũng mới chạy loạn tới đây được ít lâu, có cất được một gian nhà tranh ở gần đây để tạm trú. Xin mời tiên sinh quá bộ tới tệ xá nghỉ chân đêm nay. Nhân tiện cũng xin nhờ tiên sinh giúp cho một việc!" Thấy có chỗ ngủ qua đêm, Nguyên Lễ mừng lắm, vội hỏi:"Nhị vị muốn nhờ bỉ nhân giúp việc chi?" Đáp:"Để lát nữa tới tệ xá, huynh đệ tiểu nhân sẽ xin thưa chuyện!" Nguyên Lễ bèn đi theo hai anh em.
Lát sau, hai anh em dắt Nguyên Lễ vào một gian nhà tranh mới cất, cạnh cửa một hang đá. Ban Trảo đi lấy củi đem ra sân đốt để soi sáng gian nhà. Dưới ánh lửa, thấy hai anh em có thân hình vạm vỡ, nét mặt dữ tợn, dáng vẻ bất hảo, Nguyên Lễ kinh hãi lắm. Song vì trời đã tối, chẳng biết đi đâu nên đành ở lại. Chợt nghe có tiếng người rên, Nguyên Lễ đảo mắt nhìn thì thấy một bà lão đang nằm rên trên một chiếc giường kê ở góc gian nhà. Đoán chừng bà lão là mẹ của hai anh em, Nguyên Lễ hỏi Ban Nha:"Cụ nhà đau gì thế?" Ban Nha đáp:"Thưa, gia mẫu bị hai cái ung to bằng nắm tay, mọc dưới mũi và bên mép, đau nhức lắm, chẳng ăn uống chi được. Chính vì thế mà huynh đệ tiểu nhân muốn nhờ tiên sinh tới đây để chữa giúp cho gia mẫu!" Rồi đốt đuốc giơ cao, mời Nguyên Lễ tới cạnh giường coi bệnh cho mẹ. Nguyên Lễ theo Ban Nha tới giường, hỏi bà lão:"Cụ thấy đau như thế nào?" Bà lão đáp:"Thưa, cái ung nhức lắm mà há miệng ra ăn cũng thấy đau. Vì chẳng ăn ngủ chi được nên người rất mệt mỏi, xin tiên sinh làm ơn chữa cho!" Nguyên Lễ nói:"Ung ngoài da dễ chữa. Để bỉ nhân châm cứu cho! Khi nào ung vỡ mủ, bỉ nhân sẽ dịt thuốc!" Rồi mở bọc lấy ngải và kim, châm cứu cho bà lão trên hai chục mũi. Xong, nói:"Cụ cứ chịu khó nằm yên mà nghỉ, sáng mai ung sẽ vỡ mủ" Hai anh em mừng lắm, vội đi tìm thực phẩm để mời khách. Ban Nha tới gác bếp, lấy xuống một đùi nai tươi, đưa cho anh, nói:"Đại ca hãy nướng đùi nai này lên mà mời tiên sinh dùng đỡ" Ban Trảo gật đầu, đem đùi nai đi nướng rồi bỏ vào mâm đá, bưng tới trước mặt Nguyên Lễ, nói:"Trời đã tối mà chợ thì xa, chẳng có thực phẩm chi khác để mời tiên sinh, mong tiên sinh thứ lỗi!" Nguyên Lễ nói:"Chạy loạn mà còn được ăn thịt nướng như thế này thì còn mong gì hơn?" Vì đang đói, Nguyên Lễ ăn hết quá nửa đùi nai. Chờ khách ăn xong, Ban Trảo mới mời khách lên giường mình nằm nghỉ. Bị nét mặt dữ tợn, dáng vẻ lỗ mãng của hai anh em ám ảnh, Nguyên Lễ cố nhắm mắt song chẳng sao ngủ được, cứ trằn trọc suốt đêm.
Tảng sáng, thấy bà lão thức giấc, Nguyên Lễ vội vùng dậy, chạy tới hỏi:"Cụ thấy đã đỡ chưa?" Bà lão đáp: "Cám ơn tiên sinh, lão thân thấy đã đỡ rồi!" Hỏi:"Cụ có ngủ được không?" Đáp:"Thưa ngủ được!" Hỏi:"Cái ung ra sao?" Đáp:"Thưa, cái ung ướt sũng, chắc là đã vỡ mủ!" Nguyên Lễ bèn đánh thức hai anh em dậy, đi lấy nước vào rửa ung cho bà lão. Rồi Nguyên Lễ mở bọc, lấy thuốc dịt vào ung, băng bó lại. Xong, nói:"Thế là khỏi rồi đó!"
Trời sáng rõ, Nguyên Lễ xin cáo biệt. Ban Trảo nói: "Xin tiên sinh hãy nán lại thêm ít phút để tiểu nhân nướng nốt đùi nai, biếu tiên sinh làm thực phẩm dọc đường!" Nguyên Lễ bèn ở lại chờ. Lát sau, Nguyên Lễ nhận đùi nai nướng rồi cáo biệt, tiếp tục cuộc hành trình.
Tới nhà bạn, Nguyên Lễ thuật lại nạn giặc cướp ở làng mình cho bạn nghe rồi xin được tạm trú. Người bạn vồn vã mời Nguyên Lễ ở lại chơi. Ít lâu sau, nghe tin làng mình hết giặc, Nguyên Lễ xin cáo biệt bạn, trở về nhà.
Ba năm sau, Nguyên Lễ quên hẳn chuyện gặp ba mẹ con bà lão. Một hôm có việc, Nguyên Lễ lại phải tới nhà người bạn năm xưa. Đi từ sáng tới tối, Nguyên Lễ mới đến lưng chừng núi. Chợt thấy hai sói lớn nằm chắn ngang đường, Nguyên Lễ kinh hãi quá, đứng khựng lại, chỉ mong hai sói đi chỗ khác để cho mình có thể tiếp tục lên đường. Thế nhưng, hai sói cứ nằm lỳ bất động. Trời mỗi lúc một tối, Nguyên Lễ càng kinh hãi, chẳng biết làm thế nào. Chợt nghe có tiếng sói đua nhau chu rồi thấy một bày sói sập tới vây quanh mình, Nguyên Lễ thầm nghĩ chắc phen này mình phải chết vì sói. Quả nhiên, bày sói xông vào đè Nguyên Lễ xuống, tranh nhau cắn xé, làm cho quần áo Nguyên Lễ rách tả tơi. Đột nhiên, bày sói ngưng cắn xé, bỏ chạy tán loạn. Nguyên Lễ ngạc nhiên, đưa mắt nhìn quanh. Chợt thấy có hai mãnh hổ đứng ngay cạnh mình, Nguyên Lễ kinh hãi quá, thầm nghĩ chắc phen này mình phải chết vì cọp. Thế nhưng Nguyên Lễ phải ngạc nhiên khi thấy cọp chẳng vồ mình. Bày sói thấy cọp thì chạy tán loạn. Hai mãnh hổ hống lên hai tiếng thực to. Cả bày sói kinh hoàng, nằm mọp xuống đất. Hai mãnh hổ chậm rãi bước tới tát chết từng con rồi lững thững bỏ đi.
May mắn thoát chết, Nguyên Lễ bò dậy, xốc lại quần áo, lếch thếch lên đường. Vì trời tối quá, chẳng thấy đường đi, Nguyên Lễ lo lắng, nảy ý tìm chỗ tạm trú qua đêm. Bỗng có một bà lão, chẳng biết từ đâu tới, lên tiếng hỏi:"Chắc Ân tiên sinh bị sói cắn đau lắm phải không?" Nguyên Lễ giật mình kinh ngạc, lên tiếng hỏi lại:"Sao lão bà lại biết tên bỉ nhân?" Bà lão đáp:"Thế ra tiên sinh quên lão thân rồi ư? Tiên sinh còn nhớ ba năm về trước, tiên sinh có châm cứu cho một bà già để trị hai cái ung dưới mũi và bên mép không?" Bấy giờ Nguyên Lễ mới chợt nhớ ra bà lão là mẹ của hai anh em họ Ban. Bà lão lại nói:"Lão thân chờ tiên sinh ở đây đã từ lâu! Những mong có dịp được gặp lại tiên sinh để trả ơn song chẳng thấy tiên sinh qua lại vùng này nữa! Bây giờ, xin mời tiên sinh đi theo lão thân!" Nguyên Lễ mừng quá, vội đi theo bà lão. Lát sau, bà lão dẫn Nguyên Lễ vào phòng khách của một ngôi nhà rộng lớn, đèn đuốc sáng chưng, rồi vào nhà trong lấy ra một bộ quần áo mới đưa cho Nguyên Lễ, chỉ căn phòng tắm mà nói:"Y phục của tiên sinh bị sói cắn rách hết rồi, xin tiên sinh hãy dùng tạm bộ này!" Nguyên Lễ nói:"Cám ơn cụ!" rồi đem bộ quần áo vào phòng tắm mà thay. Bà lão xuống bếp bưng lên một mâm cỗ thịnh soạn, mời Nguyên Lễ cùng ngồi yến ẩm, ân cần rót rượu, gắp thịt mời Nguyên Lễ, rồi cũng tự rót rượu, gắp thịt mà ăn uống mạnh dạn chứ chẳng rụt rè, nhỏ nhẹ như các bà lão khác. Nguyên Lễ quá chén, say li bì, nằm lăn ra phòng khách mà ngủ.
Sáng sau, khi ánh nắng dọi vào mắt, Nguyên Lễ mới tỉnh giấc. Mở mắt nhìn, chẳng thấy nhà cửa với bà lão đâu mà chỉ thấy vừng thái dương đang chói chang giữa bàu trời, còn mình thì đang nằm trên một tảng đá, Nguyên Lễ kinh hãi quá, đứng bật dậy.
Chợt nghe có tiếng trâu thở phì phò dưới chân núi, Nguyên Lễ nổi tính tò mò, bèn chạy xuống coi. Tới nơi, thấy chẳng phải là trâu mà là một hổ cái già đang nằm ngủ, dưới mũi và bên mép có hai vết sẹo lớn, to bằng bàn tay. Hổ chợt tỉnh giấc. Nguyên Lễ kinh hãi quá, dón dén lẻn đi, tiếp tục cuộc hành trình.
Dọc đường, Nguyên Lễ mới nghĩ ra rằng hai anh em họ Ban chính là hai mãnh hổ đã giết đàn sói còn lão mẫu của họ chính là hổ cái già nằm dưới chân núi.
Tam niên tiền sự vị toàn vong
Báo đức hô nhi đại trục lang
Y sĩ thảng vi Tôn tứ Mạc
Hựu tòng nguyên quật đắc tiên phương
Tỉnh Vân Nam, có y sư họ Ân, tên Nguyên Lễ, chuyên nghề châm cứu.
Năm ấy, vùng Vân Nam bị mất mùa, làng nào cũng bị giặc giã nổi lên cướp phá. Nguyên Lễ phải bỏ làng mà chạy, băng qua một ngọn núi để tới xin lánh nạn tại nhà một người bạn ở cách làng chừng trăm dặm.
Chạy từ sáng tới tối, khi mặt trời sắp lặn, Nguyên Lễ mới đến lưng chừng núi. Nhìn quanh, thấy mình đang đứng bơ vơ giữa chốn núi rừng hoang vu, chẳng bạn đồng hành, Nguyên Lễ kinh hãi lắm, những lo bị hổ sói xông ra ăn thịt. Chợt thấy ở phía trước mặt có hai người sánh vai nhau đi, Nguyên Lễ đoán chừng họ cũng đang chạy loạn như mình nên cắm đầu chạy theo để xin nhập bọn. Khi bắt kịp, Nguyên Lễ lên tiếng:"Xin nhị vị cho bỉ nhân được nhập bọn kẻo một mình đi qua núi đêm khuya, sợ bị hổ sói xông ra ăn thịt!" Người lớn tuổi đưa mắt nhìn Nguyên Lễ từ đầu đến chân rồi cau mày hỏi: "Tên chi, làm nghề gì?" Đáp:"Bỉ nhân họ Ân, tên Nguyên Lễ, làm nghề châm cứu!" Đột nhiên, người ấy thay đổi hẳn thái độ, cung kính chắp tay vái chào Nguyên Lễ mà nói:"Thế ra tiên sinh là Ân đại nhân, vị danh y nổi tiếng trong vùng này đó ư? Trong vùng này, ai chẳng biết đại danh của tiên sinh! Huynh đệ tiểu nhân ngưỡng mộ đại danh của tiên sinh đã từ lâu! Nay được gặp mặt, thực là vạn hạnh!" Hỏi:"Nhị vị họ chi?" Đáp:"Huynh đệ tiểu nhân họ Ban. Tiểu nhân tên Trảo, còn tiện đệ đây, tên Nha!" Rồi tiếp:"Phải chăng tiên sinh đang chạy loạn?" Đáp: "Thưa phải!" Ban Trảo nói:"Huynh đệ tiểu nhân cũng mới chạy loạn tới đây được ít lâu, có cất được một gian nhà tranh ở gần đây để tạm trú. Xin mời tiên sinh quá bộ tới tệ xá nghỉ chân đêm nay. Nhân tiện cũng xin nhờ tiên sinh giúp cho một việc!" Thấy có chỗ ngủ qua đêm, Nguyên Lễ mừng lắm, vội hỏi:"Nhị vị muốn nhờ bỉ nhân giúp việc chi?" Đáp:"Để lát nữa tới tệ xá, huynh đệ tiểu nhân sẽ xin thưa chuyện!" Nguyên Lễ bèn đi theo hai anh em.
Lát sau, hai anh em dắt Nguyên Lễ vào một gian nhà tranh mới cất, cạnh cửa một hang đá. Ban Trảo đi lấy củi đem ra sân đốt để soi sáng gian nhà. Dưới ánh lửa, thấy hai anh em có thân hình vạm vỡ, nét mặt dữ tợn, dáng vẻ bất hảo, Nguyên Lễ kinh hãi lắm. Song vì trời đã tối, chẳng biết đi đâu nên đành ở lại. Chợt nghe có tiếng người rên, Nguyên Lễ đảo mắt nhìn thì thấy một bà lão đang nằm rên trên một chiếc giường kê ở góc gian nhà. Đoán chừng bà lão là mẹ của hai anh em, Nguyên Lễ hỏi Ban Nha:"Cụ nhà đau gì thế?" Ban Nha đáp:"Thưa, gia mẫu bị hai cái ung to bằng nắm tay, mọc dưới mũi và bên mép, đau nhức lắm, chẳng ăn uống chi được. Chính vì thế mà huynh đệ tiểu nhân muốn nhờ tiên sinh tới đây để chữa giúp cho gia mẫu!" Rồi đốt đuốc giơ cao, mời Nguyên Lễ tới cạnh giường coi bệnh cho mẹ. Nguyên Lễ theo Ban Nha tới giường, hỏi bà lão:"Cụ thấy đau như thế nào?" Bà lão đáp:"Thưa, cái ung nhức lắm mà há miệng ra ăn cũng thấy đau. Vì chẳng ăn ngủ chi được nên người rất mệt mỏi, xin tiên sinh làm ơn chữa cho!" Nguyên Lễ nói:"Ung ngoài da dễ chữa. Để bỉ nhân châm cứu cho! Khi nào ung vỡ mủ, bỉ nhân sẽ dịt thuốc!" Rồi mở bọc lấy ngải và kim, châm cứu cho bà lão trên hai chục mũi. Xong, nói:"Cụ cứ chịu khó nằm yên mà nghỉ, sáng mai ung sẽ vỡ mủ" Hai anh em mừng lắm, vội đi tìm thực phẩm để mời khách. Ban Nha tới gác bếp, lấy xuống một đùi nai tươi, đưa cho anh, nói:"Đại ca hãy nướng đùi nai này lên mà mời tiên sinh dùng đỡ" Ban Trảo gật đầu, đem đùi nai đi nướng rồi bỏ vào mâm đá, bưng tới trước mặt Nguyên Lễ, nói:"Trời đã tối mà chợ thì xa, chẳng có thực phẩm chi khác để mời tiên sinh, mong tiên sinh thứ lỗi!" Nguyên Lễ nói:"Chạy loạn mà còn được ăn thịt nướng như thế này thì còn mong gì hơn?" Vì đang đói, Nguyên Lễ ăn hết quá nửa đùi nai. Chờ khách ăn xong, Ban Trảo mới mời khách lên giường mình nằm nghỉ. Bị nét mặt dữ tợn, dáng vẻ lỗ mãng của hai anh em ám ảnh, Nguyên Lễ cố nhắm mắt song chẳng sao ngủ được, cứ trằn trọc suốt đêm.
Tảng sáng, thấy bà lão thức giấc, Nguyên Lễ vội vùng dậy, chạy tới hỏi:"Cụ thấy đã đỡ chưa?" Bà lão đáp: "Cám ơn tiên sinh, lão thân thấy đã đỡ rồi!" Hỏi:"Cụ có ngủ được không?" Đáp:"Thưa ngủ được!" Hỏi:"Cái ung ra sao?" Đáp:"Thưa, cái ung ướt sũng, chắc là đã vỡ mủ!" Nguyên Lễ bèn đánh thức hai anh em dậy, đi lấy nước vào rửa ung cho bà lão. Rồi Nguyên Lễ mở bọc, lấy thuốc dịt vào ung, băng bó lại. Xong, nói:"Thế là khỏi rồi đó!"
Trời sáng rõ, Nguyên Lễ xin cáo biệt. Ban Trảo nói: "Xin tiên sinh hãy nán lại thêm ít phút để tiểu nhân nướng nốt đùi nai, biếu tiên sinh làm thực phẩm dọc đường!" Nguyên Lễ bèn ở lại chờ. Lát sau, Nguyên Lễ nhận đùi nai nướng rồi cáo biệt, tiếp tục cuộc hành trình.
Tới nhà bạn, Nguyên Lễ thuật lại nạn giặc cướp ở làng mình cho bạn nghe rồi xin được tạm trú. Người bạn vồn vã mời Nguyên Lễ ở lại chơi. Ít lâu sau, nghe tin làng mình hết giặc, Nguyên Lễ xin cáo biệt bạn, trở về nhà.
Ba năm sau, Nguyên Lễ quên hẳn chuyện gặp ba mẹ con bà lão. Một hôm có việc, Nguyên Lễ lại phải tới nhà người bạn năm xưa. Đi từ sáng tới tối, Nguyên Lễ mới đến lưng chừng núi. Chợt thấy hai sói lớn nằm chắn ngang đường, Nguyên Lễ kinh hãi quá, đứng khựng lại, chỉ mong hai sói đi chỗ khác để cho mình có thể tiếp tục lên đường. Thế nhưng, hai sói cứ nằm lỳ bất động. Trời mỗi lúc một tối, Nguyên Lễ càng kinh hãi, chẳng biết làm thế nào. Chợt nghe có tiếng sói đua nhau chu rồi thấy một bày sói sập tới vây quanh mình, Nguyên Lễ thầm nghĩ chắc phen này mình phải chết vì sói. Quả nhiên, bày sói xông vào đè Nguyên Lễ xuống, tranh nhau cắn xé, làm cho quần áo Nguyên Lễ rách tả tơi. Đột nhiên, bày sói ngưng cắn xé, bỏ chạy tán loạn. Nguyên Lễ ngạc nhiên, đưa mắt nhìn quanh. Chợt thấy có hai mãnh hổ đứng ngay cạnh mình, Nguyên Lễ kinh hãi quá, thầm nghĩ chắc phen này mình phải chết vì cọp. Thế nhưng Nguyên Lễ phải ngạc nhiên khi thấy cọp chẳng vồ mình. Bày sói thấy cọp thì chạy tán loạn. Hai mãnh hổ hống lên hai tiếng thực to. Cả bày sói kinh hoàng, nằm mọp xuống đất. Hai mãnh hổ chậm rãi bước tới tát chết từng con rồi lững thững bỏ đi.
May mắn thoát chết, Nguyên Lễ bò dậy, xốc lại quần áo, lếch thếch lên đường. Vì trời tối quá, chẳng thấy đường đi, Nguyên Lễ lo lắng, nảy ý tìm chỗ tạm trú qua đêm. Bỗng có một bà lão, chẳng biết từ đâu tới, lên tiếng hỏi:"Chắc Ân tiên sinh bị sói cắn đau lắm phải không?" Nguyên Lễ giật mình kinh ngạc, lên tiếng hỏi lại:"Sao lão bà lại biết tên bỉ nhân?" Bà lão đáp:"Thế ra tiên sinh quên lão thân rồi ư? Tiên sinh còn nhớ ba năm về trước, tiên sinh có châm cứu cho một bà già để trị hai cái ung dưới mũi và bên mép không?" Bấy giờ Nguyên Lễ mới chợt nhớ ra bà lão là mẹ của hai anh em họ Ban. Bà lão lại nói:"Lão thân chờ tiên sinh ở đây đã từ lâu! Những mong có dịp được gặp lại tiên sinh để trả ơn song chẳng thấy tiên sinh qua lại vùng này nữa! Bây giờ, xin mời tiên sinh đi theo lão thân!" Nguyên Lễ mừng quá, vội đi theo bà lão. Lát sau, bà lão dẫn Nguyên Lễ vào phòng khách của một ngôi nhà rộng lớn, đèn đuốc sáng chưng, rồi vào nhà trong lấy ra một bộ quần áo mới đưa cho Nguyên Lễ, chỉ căn phòng tắm mà nói:"Y phục của tiên sinh bị sói cắn rách hết rồi, xin tiên sinh hãy dùng tạm bộ này!" Nguyên Lễ nói:"Cám ơn cụ!" rồi đem bộ quần áo vào phòng tắm mà thay. Bà lão xuống bếp bưng lên một mâm cỗ thịnh soạn, mời Nguyên Lễ cùng ngồi yến ẩm, ân cần rót rượu, gắp thịt mời Nguyên Lễ, rồi cũng tự rót rượu, gắp thịt mà ăn uống mạnh dạn chứ chẳng rụt rè, nhỏ nhẹ như các bà lão khác. Nguyên Lễ quá chén, say li bì, nằm lăn ra phòng khách mà ngủ.
Sáng sau, khi ánh nắng dọi vào mắt, Nguyên Lễ mới tỉnh giấc. Mở mắt nhìn, chẳng thấy nhà cửa với bà lão đâu mà chỉ thấy vừng thái dương đang chói chang giữa bàu trời, còn mình thì đang nằm trên một tảng đá, Nguyên Lễ kinh hãi quá, đứng bật dậy.
Chợt nghe có tiếng trâu thở phì phò dưới chân núi, Nguyên Lễ nổi tính tò mò, bèn chạy xuống coi. Tới nơi, thấy chẳng phải là trâu mà là một hổ cái già đang nằm ngủ, dưới mũi và bên mép có hai vết sẹo lớn, to bằng bàn tay. Hổ chợt tỉnh giấc. Nguyên Lễ kinh hãi quá, dón dén lẻn đi, tiếp tục cuộc hành trình.
Dọc đường, Nguyên Lễ mới nghĩ ra rằng hai anh em họ Ban chính là hai mãnh hổ đã giết đàn sói còn lão mẫu của họ chính là hổ cái già nằm dưới chân núi.
TRƯƠNG PHI MỜI DỰ TIỆC
(truyện HOÀN HẦU)
Hảo tá thần câu nghênh viễn khách
Kiêm thân chủ nghị yến giai tân
Đăng đường thôi vãn quăng nhu chiết
Tưởng kiến tướng quân dũng tuyệt luân
Huyện Kinh Châu, tỉnh Hồ Nam, có thanh niên họ Bành, tên Hiếu Sĩ.
Một hôm, Hiếu Sĩ cưỡi ngựa đi dự tiệc ở xa. Lúc về, thấy phong cảnh bên đường đẹp quá, Hiếu Sĩ buông cương cho ngựa thong dong cất bước còn mình thì ngồi trên lưng ngựa ngoạn cảnh. Lát sau, ngựa rẽ vào một bãi cỏ lạ, có hoa màu vàng rất đẹp, chẳng biết tên chi.
Hiếu Sĩ xuống ngựa, để mặc cho ngựa gặm cỏ, còn mình thì leo lên một tảng đá ngồi ngắm hoa. Thấy cỏ lạ, Hiếu Sĩ bứt mấy cọng đưa lên mũi ngửi. Thấy mùi thơm kỳ lạ, Hiếu Sĩ cất vào túi. Để cho ngựa gặm cỏ thoả thuê, Hiếu Sĩ mới lên ngựa phóng đi.
Khi mặt trời đã ngả về tây, Hiếu Sĩ quay cương ra về thì chợt biết là mình đang bị lạc giữa chốn núi rừng hoang dã, chẳng sao nhận ra được phương hướng. Đột nhiên, có một người áo xanh từ xa bước tới, làm cho ngựa hoảng sợ, hí vang, chồm hai vó trước. Người áo xanh chạy tới nắm dàm ngựa, nói:"Trời tối rồi! Bản chủ nhân thỉnh tiên sinh quá bộ tới trang trại dự tiệc" Hỏi: "Quý chủ nhân là ai?" Đáp:"Xin cứ tới thì sẽ biết" Hỏi: "Nơi đây thuộc tỉnh nào?" Đáp:"Tứ Xuyên" Vì biết Tứ Xuyên cách Hồ Nam trên ngàn dặm, Hiếu Sĩ kinh ngạc lắm, thầm nghĩ mới có nửa ngày, làm sao mà ngựa của mình có thể phóng được từ Hồ Nam tới Tứ Xuyên? Bèn hỏi:"Dãy núi này tên chi?" Đáp:"Lãng Trung" Hỏi:"Trang trại có ở xa đây không?" Đáp:"Cũng ở gần đây thôi!" rồi nắm dàm ngựa kéo đi. Đột nhiên, Hiếu Sĩ thấy cả người lẫn ngựa cùng bay bổng lên không trung theo người áo xanh. Qua đỉnh núi, sang phía bên kia, Hiếu Sĩ thấy quả có một trang trại với hàng rào vây quanh. Chớp mắt, người áo xanh đã kéo ngựa cùng Hiếu Sĩ hạ xuống trước cổng trang trại. Thấy có một sứ giả, mũ áo chỉnh tề, đứng ở cổng như để chờ đón khách, Hiếu Sĩ vội xuống ngựa chắp tay vái chào. Sứ giả đáp lễ rồi dẫn vào trong. Người áo xanh dắt ngựa đi.
Vào trong, Hiếu Sĩ thấy có một đám khách rất đông, đang đứng túm năm tụm ba ở giữa sân như để chờ đợi một người nào. Bỗng Hiếu Sĩ thấy từ trong sảnh đường trên đài cao có một đại hán dáng vẻ uy mãnh, y phục khác lạ, bước ra hành lang. Hán tử đảo mắt nhìn khắp sân một lượt rồi gật đầu chào khách. Đám khách vội cung kính chắp tay, cúi đầu đáp lễ. Hiếu Sĩ cũng bắt chước đáp lễ rồi quay nhìn sứ giả, hỏi nhỏ:"Phải chăng đây là quý chủ nhân?" Sứ giả đáp:"Thưa phải!" Bỗng chủ nhân từ trên hành lang bước xuống sân, tiến tới chỗ Hiếu Sĩ, đưa tay mời lên đài. Hiếu Sĩ vội khiêm tốn từ tạ, thưa rằng mình chẳng dám lên trước. Chủ nhân bèn nắm lấy cánh tay mà dắt lên. Thấy cánh tay bị đau song Hiếu Sĩ chẳng dám kêu, cắn răng chịu đựng, nhắm mắt bước theo. Tới hành lang, chủ nhân buông Hiếu Sĩ ra rồi lại xuống sân dắt khách khác. Khách nào cũng riu ríu bước theo. Lát sau, khi khách đã lên hết, chủ nhân nói:"Xin mời vào nội sảnh!" Đám khách lại riu ríu tuân lời. Vào trong, Hiếu Sĩ thấy nội sảnh được trần thiết cực kỳ tráng lệ. Khi khách đã vào đầy đủ, chủ nhân nói:"Xin cứ tự động ngồi vào bàn, mỗi bàn hai vị!" Đám khách lại riu ríu tuân lời. Vì chẳng quen ai để rủ ngồi chung, Hiếu Sĩ đành chọn một bàn mà ngồi một mình. Lát sau, có một gia nhân dẫn một khách tới, xin cho khách ngồi chung. Hiếu Sĩ vội đứng dậy, nói:"Rất hân hạnh được ngồi chung bàn với túc hạ! Chẳng hay quý danh là chi?" Khách đáp:"Bỉ nhân họ Lưu, tên Tử Huy" Hiếu Sĩ hỏi nhỏ:"Túc hạ có biết chủ nhân đây là ai chăng?" Khách ngạc nhiên, hỏi lại:"Thế ra túc hạ không biết hay sao?" Hiếu Sĩ lắc đầu, đáp:"Thưa không!" Khách nói:"Chủ nhân đây là tướng quân Trương Phi đời Tam Quốc, tên thụy là Hoàn Hầu!" Nghe thấy thế, Hiếu Sĩ sợ tái mặt, chẳng dám hỏi chi thêm, cứ ngồi câm như hến. Nhìn quanh, Hiếu Sĩ thấy cả cử tọa cũng đều ngồi câm như mình.
Khi đám khách đã an tọa, Hoàn Hầu mới lên ngồi trên bục cao, nói:"Năm nào cũng quấy quả quý vị trong thôn phải cúng tế. Hôm nay muốn mời quý vị tới dự tiệc để đáp lễ. Có chút rượu lạt, mong quý vị cạn chén cho!" Đám khách dạ ran. Chợt Hoàn Hầu nói:"Đặc biệt hôm nay, có một tân khách ở tận Hồ Nam tới đây dự tiệc. Thực là hạnh ngộ!" Đám khách ngơ ngác nhìn nhau, chẳng hiểu là ai. Chợt thấy Hoàn Hầu đưa mắt nhìn xuống bàn Hiếu Sĩ, cả đám đều đưa mắt nhìn theo. Hiếu Sĩ nghe thấy Hoàn Hầu hỏi mình:"Muốn xin một vật, song chẳng hiểu có thấy tiếc không?" thì vội đứng dậy thưa:"Kính xin Đại Tướng Quân cho biết vật ấy là vật chi?" Đáp:"Là con ngựa vừa cưỡi tới! Ngựa có tiên cốt rồi, người trần thế chẳng cưỡi được nữa! Sẽ sai gia nhân đổi cho một ngựa khác! Có chịu không?" Hiếu Sĩ vội thưa: "Xin kính biếu Đại Tướng Quân chứ chẳng dám nhận ngựa đổi!" Nói:"Đã quyết định đổi cho một ngựa tốt và biếu thêm một vạn đồng vàng rồi!" Hiếu Sĩ vội dời bàn tiệc, bước tới trước bục, quỳ gối lạy tạ. Hoàn Hầu bèn sai gia nhân hầu cận bước xuống đỡ dậy.
Trời tối sẫm. Hoàn Hầu sai gia nhân thắp đèn, dọn tiệc. Rượu thịt được bày la liệt trên khắp mọi bàn. Hoàn Hầu đưa tay ra hiệu mời khách yến ẩm. Tới khuya, đám khách lục tục đứng dậy, xin cáo biệt. Hiếu Sĩ cũng đứng dậy theo. Hoàn Hầu nói:"Hãy nán lại ít phút để uống chén rượu tiễn biệt đã!" Đám khách đồng thanh vâng dạ. Hoàn Hầu sai gia nhân lấy chén lớn rót rượu, mời mỗi khách một chén. Rồi bước xuống bục, tới cạnh Hiếu Sĩ, hỏi:"Nhà xa đây lắm, sao về?" Hiếu Sĩ đưa mắt nhìn Tử Huy, đáp:"Kính thưa Đại Tướng Quân, Lưu quân đây đã cho phép tới nhà ngủ nhờ đêm nay!" Hoàn Hầu gật đầu, nói:"Thế thì tốt! Trong túi có bảy cọng cỏ quý. Động vật trần gian nào ăn cỏ này thì sẽ có tiên cốt. Ngựa vừa cưỡi tới đã ăn cỏ này nên đã có tiên cốt. Để cỏ khô đi thì có thể dùng để điểm đá hóa vàng. Bảy cọng cỏ khô trong túi có thể điểm được một vạn đồng vàng!" Nói xong, sai tiểu đồng vào điện lấy ra một cuốn sách ghi bí quyết điểm vàng mà trao cho. Hiếu Sĩ lại quỳ gối lạy tạ. Hoàn Hầu nói:"Ngày mai ra chợ, thấy ngựa nào vừa ý thì cứ việc mua, khỏi cần phải mặc cả. Sẽ có người trả tiền cho!" Rồi quay ra nói chung với đám khách:"Tân khách này từ xa tới đây dự tiệc nên mới được đặc biệt tặng chút lộ phí!" Đám khách lại đồng thanh vâng dạ.
Uống rượu xong, đám khách cung kính chắp tay vái chào Hoàn Hầu, xin cáo biệt. Hiếu Sĩ cũng bắt chước vái chào rồi theo Tử Huy ra về. Đám khách cùng rủ nhau về nhà Tử Huy trò chuyện. Qua đỉnh, sang tới phía bên kia, nhìn xuống chân núi, Hiếu Sĩ thấy có một thôn xóm.
Tới nhà, Tử Huy sai gia nhân pha trà mời khách. Hiếu Sĩ thắc mắc, hỏi:"Xin quý vị cho biết tại sao Hoàn Hầu lại cho gọi chúng ta tới dự tiệc?" Tử Huy đáp: "Nguyên là trong bản thôn có một ngôi miếu cổ thờ Hoàn Hầu. Hàng năm, cứ tới ngày giỗ Hoàn Hầu là chúng tôi lại theo cổ lệ, giết gà, mổ trâu để cúng tế rồi rước một gánh hát về diễn lại sự tích Hoàn Hầu thời Tam Quốc, có ghi trong sử sách. Năm nay thôn dân bàu bỉ nhân làm trưởng ban. Cuộc tế lễ mới hoàn tất được ba hôm nay. Chiều hôm lễ tất, nhà nào trong thôn cũng thấy có một người lạ tới hẹn chiều nay phải trèo núi, qua phía bên kia dự tiệc. Chúng tôi hỏi Ai mời? thì người lạ chỉ đáp gọn Thế nào cũng phải tới! Chúng tôi đều kinh ngạc song ai cũng phải tuân lệnh!" Hiếu Sĩ hỏi:"Sao quý vị lại biết chủ nhân trang trại là Hoàn Hầu?" Tử Huy đáp:"Chiều nay, chúng tôi kéo nhau qua đỉnh núi thì thấy ở phía bên kia quả có một trang trại mới mọc. Tới cổng, nghe sứ giả nói, chúng tôi mới biết chủ nhân là Hoàn Hầu. Vì thế, chẳng ai dám bỏ ra về. Sứ giả mời chúng tôi vào tụ tập ở giữa sân để chờ một tân khách từ xa tới. Lát sau, thấy túc hạ đến, chúng tôi mới biết tân khách ấy chính là túc hạ!" Nghe xong, Hiếu Sĩ kinh dị lắm. Khách tới dự tiệc đều bị Hoàn Hầu nắm cánh tay dắt lên sảnh đường nên đều cảm thấy đau. Cởi áo ra coi, ai cũng thấy cánh tay mình có một vết bầm. Hiếu Sĩ cũng cởi áo ra coi thì cũng thấy có một vết bầm như thế. Uống trà xong, đám khách xin cáo biệt. Tử Huy tiễn đám khách ra cổng rồi quay vào nhà, sai gia nhân dọn giường cho Hiếu Sĩ đi nghỉ.
Sáng sau, thôn dân tranh nhau tới nhà Tử Huy mời Hiếu Sĩ đến nhà mình dùng bữa rồi dắt ra chợ xem ngựa. Trong mười một ngày ở lại thôn chơi, ngày nào Hiếu Sĩ cũng ra chợ xem ngựa song vẫn chưa thấy có con nào vừa ý. Tối ấy, nghĩ mình vắng nhà đã gần nửa tháng, e người nhà lo sợ, Hiếu Sĩ bèn quyết định sáng mai ra chợ, thế nào cũng phải mua bừa một con để cưỡi về Hồ Nam.
Sáng sau, Hiếu Sĩ ra chợ xem ngựa. Chợt gặp một con vừa ý, Hiếu Sĩ bèn xin chủ ngựa cho mình cưỡi thử. Chủ ngựa ưng thuận. Hiếu Sĩ liền cưỡi thử một vòng thì thấy ngựa quá hay, bình sinh mình chưa từng thấy ngựa nào hay như thế. Hiếu Sĩ vội quay lại để hỏi mua thì chủ ngựa đã bỏ đi đâu mất. Hỏi thăm thôn dân xem chủ ngựa là ai thì chẳng có người nào biết. Hiếu Sĩ bèn đoán là ngựa của Hoàn Hầu cho mình nên cưỡi về nhà Tử Huy, xin cáo biệt. Thu xếp hành trang, đi chào từng nhà rồi cưỡi ngựa lên đường. Thôn dân đi tiễn rất đông, đưa tặng rất nhiều thức ăn cùng lộ phí.
Mỗi ngày ngựa phóng được trên năm trăm dặm. Hai ngày sau, Hiếu Sĩ về tới nhà. Thuật lại chuyện cho người nhà nghe thì chẳng ai tin. Hiếu Sĩ phải lấy thức ăn Tứ Xuyên ra cho coi thì người nhà mới tin. Ai cũng cho là một truyện lạ hiếm có.
Hôm sau, Hiếu Sĩ lấy nắm cỏ khô trong túi ra đếm thì thấy có đúng bảy cọng. Bèn lấy cuốn bí quyết ra đọc rồi theo phương pháp chỉ dẫn mà điểm thì quả nhiên được một vạn đồng vàng. Vì thế, Hiếu Sĩ đột nhiên trở thành cự phú.
Hiếu Sĩ liền đem tiền bạc trở lại Tứ Xuyên, tới thôn cũ ở Lãng Trung, sửa lễ rất hậu mà tế Hoàn Hầu. Hôm sau, lại mời một gánh hát danh tiếng tới thôn để diễn lại sự tích Hoàn Hầu trong ba ngày đêm liên tiếp cho thôn dân tới dự khán.
Hiếu Sĩ lưu lại thôn nửa tháng để đãi tiệc tất cả thôn dân rồi mới lên đường trở về Hồ Nam.
Hảo tá thần câu nghênh viễn khách
Kiêm thân chủ nghị yến giai tân
Đăng đường thôi vãn quăng nhu chiết
Tưởng kiến tướng quân dũng tuyệt luân
Huyện Kinh Châu, tỉnh Hồ Nam, có thanh niên họ Bành, tên Hiếu Sĩ.
Một hôm, Hiếu Sĩ cưỡi ngựa đi dự tiệc ở xa. Lúc về, thấy phong cảnh bên đường đẹp quá, Hiếu Sĩ buông cương cho ngựa thong dong cất bước còn mình thì ngồi trên lưng ngựa ngoạn cảnh. Lát sau, ngựa rẽ vào một bãi cỏ lạ, có hoa màu vàng rất đẹp, chẳng biết tên chi.
Hiếu Sĩ xuống ngựa, để mặc cho ngựa gặm cỏ, còn mình thì leo lên một tảng đá ngồi ngắm hoa. Thấy cỏ lạ, Hiếu Sĩ bứt mấy cọng đưa lên mũi ngửi. Thấy mùi thơm kỳ lạ, Hiếu Sĩ cất vào túi. Để cho ngựa gặm cỏ thoả thuê, Hiếu Sĩ mới lên ngựa phóng đi.
Khi mặt trời đã ngả về tây, Hiếu Sĩ quay cương ra về thì chợt biết là mình đang bị lạc giữa chốn núi rừng hoang dã, chẳng sao nhận ra được phương hướng. Đột nhiên, có một người áo xanh từ xa bước tới, làm cho ngựa hoảng sợ, hí vang, chồm hai vó trước. Người áo xanh chạy tới nắm dàm ngựa, nói:"Trời tối rồi! Bản chủ nhân thỉnh tiên sinh quá bộ tới trang trại dự tiệc" Hỏi: "Quý chủ nhân là ai?" Đáp:"Xin cứ tới thì sẽ biết" Hỏi: "Nơi đây thuộc tỉnh nào?" Đáp:"Tứ Xuyên" Vì biết Tứ Xuyên cách Hồ Nam trên ngàn dặm, Hiếu Sĩ kinh ngạc lắm, thầm nghĩ mới có nửa ngày, làm sao mà ngựa của mình có thể phóng được từ Hồ Nam tới Tứ Xuyên? Bèn hỏi:"Dãy núi này tên chi?" Đáp:"Lãng Trung" Hỏi:"Trang trại có ở xa đây không?" Đáp:"Cũng ở gần đây thôi!" rồi nắm dàm ngựa kéo đi. Đột nhiên, Hiếu Sĩ thấy cả người lẫn ngựa cùng bay bổng lên không trung theo người áo xanh. Qua đỉnh núi, sang phía bên kia, Hiếu Sĩ thấy quả có một trang trại với hàng rào vây quanh. Chớp mắt, người áo xanh đã kéo ngựa cùng Hiếu Sĩ hạ xuống trước cổng trang trại. Thấy có một sứ giả, mũ áo chỉnh tề, đứng ở cổng như để chờ đón khách, Hiếu Sĩ vội xuống ngựa chắp tay vái chào. Sứ giả đáp lễ rồi dẫn vào trong. Người áo xanh dắt ngựa đi.
Vào trong, Hiếu Sĩ thấy có một đám khách rất đông, đang đứng túm năm tụm ba ở giữa sân như để chờ đợi một người nào. Bỗng Hiếu Sĩ thấy từ trong sảnh đường trên đài cao có một đại hán dáng vẻ uy mãnh, y phục khác lạ, bước ra hành lang. Hán tử đảo mắt nhìn khắp sân một lượt rồi gật đầu chào khách. Đám khách vội cung kính chắp tay, cúi đầu đáp lễ. Hiếu Sĩ cũng bắt chước đáp lễ rồi quay nhìn sứ giả, hỏi nhỏ:"Phải chăng đây là quý chủ nhân?" Sứ giả đáp:"Thưa phải!" Bỗng chủ nhân từ trên hành lang bước xuống sân, tiến tới chỗ Hiếu Sĩ, đưa tay mời lên đài. Hiếu Sĩ vội khiêm tốn từ tạ, thưa rằng mình chẳng dám lên trước. Chủ nhân bèn nắm lấy cánh tay mà dắt lên. Thấy cánh tay bị đau song Hiếu Sĩ chẳng dám kêu, cắn răng chịu đựng, nhắm mắt bước theo. Tới hành lang, chủ nhân buông Hiếu Sĩ ra rồi lại xuống sân dắt khách khác. Khách nào cũng riu ríu bước theo. Lát sau, khi khách đã lên hết, chủ nhân nói:"Xin mời vào nội sảnh!" Đám khách lại riu ríu tuân lời. Vào trong, Hiếu Sĩ thấy nội sảnh được trần thiết cực kỳ tráng lệ. Khi khách đã vào đầy đủ, chủ nhân nói:"Xin cứ tự động ngồi vào bàn, mỗi bàn hai vị!" Đám khách lại riu ríu tuân lời. Vì chẳng quen ai để rủ ngồi chung, Hiếu Sĩ đành chọn một bàn mà ngồi một mình. Lát sau, có một gia nhân dẫn một khách tới, xin cho khách ngồi chung. Hiếu Sĩ vội đứng dậy, nói:"Rất hân hạnh được ngồi chung bàn với túc hạ! Chẳng hay quý danh là chi?" Khách đáp:"Bỉ nhân họ Lưu, tên Tử Huy" Hiếu Sĩ hỏi nhỏ:"Túc hạ có biết chủ nhân đây là ai chăng?" Khách ngạc nhiên, hỏi lại:"Thế ra túc hạ không biết hay sao?" Hiếu Sĩ lắc đầu, đáp:"Thưa không!" Khách nói:"Chủ nhân đây là tướng quân Trương Phi đời Tam Quốc, tên thụy là Hoàn Hầu!" Nghe thấy thế, Hiếu Sĩ sợ tái mặt, chẳng dám hỏi chi thêm, cứ ngồi câm như hến. Nhìn quanh, Hiếu Sĩ thấy cả cử tọa cũng đều ngồi câm như mình.
Khi đám khách đã an tọa, Hoàn Hầu mới lên ngồi trên bục cao, nói:"Năm nào cũng quấy quả quý vị trong thôn phải cúng tế. Hôm nay muốn mời quý vị tới dự tiệc để đáp lễ. Có chút rượu lạt, mong quý vị cạn chén cho!" Đám khách dạ ran. Chợt Hoàn Hầu nói:"Đặc biệt hôm nay, có một tân khách ở tận Hồ Nam tới đây dự tiệc. Thực là hạnh ngộ!" Đám khách ngơ ngác nhìn nhau, chẳng hiểu là ai. Chợt thấy Hoàn Hầu đưa mắt nhìn xuống bàn Hiếu Sĩ, cả đám đều đưa mắt nhìn theo. Hiếu Sĩ nghe thấy Hoàn Hầu hỏi mình:"Muốn xin một vật, song chẳng hiểu có thấy tiếc không?" thì vội đứng dậy thưa:"Kính xin Đại Tướng Quân cho biết vật ấy là vật chi?" Đáp:"Là con ngựa vừa cưỡi tới! Ngựa có tiên cốt rồi, người trần thế chẳng cưỡi được nữa! Sẽ sai gia nhân đổi cho một ngựa khác! Có chịu không?" Hiếu Sĩ vội thưa: "Xin kính biếu Đại Tướng Quân chứ chẳng dám nhận ngựa đổi!" Nói:"Đã quyết định đổi cho một ngựa tốt và biếu thêm một vạn đồng vàng rồi!" Hiếu Sĩ vội dời bàn tiệc, bước tới trước bục, quỳ gối lạy tạ. Hoàn Hầu bèn sai gia nhân hầu cận bước xuống đỡ dậy.
Trời tối sẫm. Hoàn Hầu sai gia nhân thắp đèn, dọn tiệc. Rượu thịt được bày la liệt trên khắp mọi bàn. Hoàn Hầu đưa tay ra hiệu mời khách yến ẩm. Tới khuya, đám khách lục tục đứng dậy, xin cáo biệt. Hiếu Sĩ cũng đứng dậy theo. Hoàn Hầu nói:"Hãy nán lại ít phút để uống chén rượu tiễn biệt đã!" Đám khách đồng thanh vâng dạ. Hoàn Hầu sai gia nhân lấy chén lớn rót rượu, mời mỗi khách một chén. Rồi bước xuống bục, tới cạnh Hiếu Sĩ, hỏi:"Nhà xa đây lắm, sao về?" Hiếu Sĩ đưa mắt nhìn Tử Huy, đáp:"Kính thưa Đại Tướng Quân, Lưu quân đây đã cho phép tới nhà ngủ nhờ đêm nay!" Hoàn Hầu gật đầu, nói:"Thế thì tốt! Trong túi có bảy cọng cỏ quý. Động vật trần gian nào ăn cỏ này thì sẽ có tiên cốt. Ngựa vừa cưỡi tới đã ăn cỏ này nên đã có tiên cốt. Để cỏ khô đi thì có thể dùng để điểm đá hóa vàng. Bảy cọng cỏ khô trong túi có thể điểm được một vạn đồng vàng!" Nói xong, sai tiểu đồng vào điện lấy ra một cuốn sách ghi bí quyết điểm vàng mà trao cho. Hiếu Sĩ lại quỳ gối lạy tạ. Hoàn Hầu nói:"Ngày mai ra chợ, thấy ngựa nào vừa ý thì cứ việc mua, khỏi cần phải mặc cả. Sẽ có người trả tiền cho!" Rồi quay ra nói chung với đám khách:"Tân khách này từ xa tới đây dự tiệc nên mới được đặc biệt tặng chút lộ phí!" Đám khách lại đồng thanh vâng dạ.
Uống rượu xong, đám khách cung kính chắp tay vái chào Hoàn Hầu, xin cáo biệt. Hiếu Sĩ cũng bắt chước vái chào rồi theo Tử Huy ra về. Đám khách cùng rủ nhau về nhà Tử Huy trò chuyện. Qua đỉnh, sang tới phía bên kia, nhìn xuống chân núi, Hiếu Sĩ thấy có một thôn xóm.
Tới nhà, Tử Huy sai gia nhân pha trà mời khách. Hiếu Sĩ thắc mắc, hỏi:"Xin quý vị cho biết tại sao Hoàn Hầu lại cho gọi chúng ta tới dự tiệc?" Tử Huy đáp: "Nguyên là trong bản thôn có một ngôi miếu cổ thờ Hoàn Hầu. Hàng năm, cứ tới ngày giỗ Hoàn Hầu là chúng tôi lại theo cổ lệ, giết gà, mổ trâu để cúng tế rồi rước một gánh hát về diễn lại sự tích Hoàn Hầu thời Tam Quốc, có ghi trong sử sách. Năm nay thôn dân bàu bỉ nhân làm trưởng ban. Cuộc tế lễ mới hoàn tất được ba hôm nay. Chiều hôm lễ tất, nhà nào trong thôn cũng thấy có một người lạ tới hẹn chiều nay phải trèo núi, qua phía bên kia dự tiệc. Chúng tôi hỏi Ai mời? thì người lạ chỉ đáp gọn Thế nào cũng phải tới! Chúng tôi đều kinh ngạc song ai cũng phải tuân lệnh!" Hiếu Sĩ hỏi:"Sao quý vị lại biết chủ nhân trang trại là Hoàn Hầu?" Tử Huy đáp:"Chiều nay, chúng tôi kéo nhau qua đỉnh núi thì thấy ở phía bên kia quả có một trang trại mới mọc. Tới cổng, nghe sứ giả nói, chúng tôi mới biết chủ nhân là Hoàn Hầu. Vì thế, chẳng ai dám bỏ ra về. Sứ giả mời chúng tôi vào tụ tập ở giữa sân để chờ một tân khách từ xa tới. Lát sau, thấy túc hạ đến, chúng tôi mới biết tân khách ấy chính là túc hạ!" Nghe xong, Hiếu Sĩ kinh dị lắm. Khách tới dự tiệc đều bị Hoàn Hầu nắm cánh tay dắt lên sảnh đường nên đều cảm thấy đau. Cởi áo ra coi, ai cũng thấy cánh tay mình có một vết bầm. Hiếu Sĩ cũng cởi áo ra coi thì cũng thấy có một vết bầm như thế. Uống trà xong, đám khách xin cáo biệt. Tử Huy tiễn đám khách ra cổng rồi quay vào nhà, sai gia nhân dọn giường cho Hiếu Sĩ đi nghỉ.
Sáng sau, thôn dân tranh nhau tới nhà Tử Huy mời Hiếu Sĩ đến nhà mình dùng bữa rồi dắt ra chợ xem ngựa. Trong mười một ngày ở lại thôn chơi, ngày nào Hiếu Sĩ cũng ra chợ xem ngựa song vẫn chưa thấy có con nào vừa ý. Tối ấy, nghĩ mình vắng nhà đã gần nửa tháng, e người nhà lo sợ, Hiếu Sĩ bèn quyết định sáng mai ra chợ, thế nào cũng phải mua bừa một con để cưỡi về Hồ Nam.
Sáng sau, Hiếu Sĩ ra chợ xem ngựa. Chợt gặp một con vừa ý, Hiếu Sĩ bèn xin chủ ngựa cho mình cưỡi thử. Chủ ngựa ưng thuận. Hiếu Sĩ liền cưỡi thử một vòng thì thấy ngựa quá hay, bình sinh mình chưa từng thấy ngựa nào hay như thế. Hiếu Sĩ vội quay lại để hỏi mua thì chủ ngựa đã bỏ đi đâu mất. Hỏi thăm thôn dân xem chủ ngựa là ai thì chẳng có người nào biết. Hiếu Sĩ bèn đoán là ngựa của Hoàn Hầu cho mình nên cưỡi về nhà Tử Huy, xin cáo biệt. Thu xếp hành trang, đi chào từng nhà rồi cưỡi ngựa lên đường. Thôn dân đi tiễn rất đông, đưa tặng rất nhiều thức ăn cùng lộ phí.
Mỗi ngày ngựa phóng được trên năm trăm dặm. Hai ngày sau, Hiếu Sĩ về tới nhà. Thuật lại chuyện cho người nhà nghe thì chẳng ai tin. Hiếu Sĩ phải lấy thức ăn Tứ Xuyên ra cho coi thì người nhà mới tin. Ai cũng cho là một truyện lạ hiếm có.
Hôm sau, Hiếu Sĩ lấy nắm cỏ khô trong túi ra đếm thì thấy có đúng bảy cọng. Bèn lấy cuốn bí quyết ra đọc rồi theo phương pháp chỉ dẫn mà điểm thì quả nhiên được một vạn đồng vàng. Vì thế, Hiếu Sĩ đột nhiên trở thành cự phú.
Hiếu Sĩ liền đem tiền bạc trở lại Tứ Xuyên, tới thôn cũ ở Lãng Trung, sửa lễ rất hậu mà tế Hoàn Hầu. Hôm sau, lại mời một gánh hát danh tiếng tới thôn để diễn lại sự tích Hoàn Hầu trong ba ngày đêm liên tiếp cho thôn dân tới dự khán.
Hiếu Sĩ lưu lại thôn nửa tháng để đãi tiệc tất cả thôn dân rồi mới lên đường trở về Hồ Nam.
HỌC TÀI THI PHẬN
(truyện DIỆP SINH)
Ân thâm tri kỷ úy bình sinh
Hồn mộng tương tùy thiên lý hành
Mạc đạo hoàng chung chung hủy khí
Tu tri nhụ tử dĩ thành danh
Huyện Hoài Dương, tỉnh Hà Nam có nho sinh họ Diệp, tên Tuấn Bình, có vợ họ Hạnh và một trai tên Mạnh Hùng, mười hai tuổi. Tuấn Bình nổi tiếng là đệ nhất danh sĩ trong vùng, văn chương từ phú quán tuyệt đương thời, song cứ đi thi là hỏng.
Thời đó, quan tể huyện Hoài Dương là người họ Đinh, tên Thừa Hạc, có vợ họ Tuyên và một trai tên Tại Xương, mười sáu tuổi. Thấy Tuấn Bình có văn tài kỳ tuyệt, Đinh công cho gọi vào huyện đường đàm đạo. Thấy Tuấn Bình có tư tưởng uẩn súc sâu xa, Đinh công quý trọng lắm, bảo dọn vào cư ngụ trong thư phòng huyện đường mà đọc sách cho tĩnh. Đinh công lại sai lính đem tiền bạc, thóc gạo ra tận nhà mà chu cấp cho vợ con Tuấn Bình.
Mùa thu năm ấy, triều đình mở khoa thi hương ở Hà Nam. Đinh công nghĩ chắc thế nào kỳ này Tuấn Bình cũng đậu thủ khoa nên hy vọng lắm. Nhân có quan học sứ tới thăm, Đinh công đem văn chương của Tuấn Bình ra bàn luận rồi cứ tấm tắc khen hay.
Tới buổi Tuấn Bình đi thi về, Đinh công bảo đưa văn bài cho mình coi. Coi xong, lại khen. Thế nhưng, vận số cản người, văn chương ghét mệnh. Cũng giống như những lần trước, tới ngày đi coi bảng, thấy chẳng có tên mình, Tuấn Bình ngậm ngùi ra về.
Hỏng thi đã buồn, Tuấn Bình lại còn hổ thẹn vì đã làm phụ lòng tin tưởng của người tri kỷ. Thấy Tuấn Bình tiều tụy, ngơ ngác, người cứ ngây ra như tượng gỗ, Đinh công bèn gọi lên vỗ về an ủi. Tuấn Bình chỉ im lặng ứa nước mắt, chẳng nói lời nào.
Tháng sau, Đinh công nhận được lệnh của triều đình thuyên chuyển về kinh đô. Bèn bảo Tuấn Bình dọn theo gia quyến mình. Chẳng muốn làm phiền Đinh công, Tuấn Bình từ tạ, xin dọn về ở với vợ con.
Từ đó, suốt ngày Tuấn Bình chỉ nằm nhà, chẳng muốn đi đâu, mà cũng chẳng muốn gặp ai. Vì phẫn chí nên tuần sau bị bệnh uất kết, phải nằm liệt giường. Đinh công được tin, vội viết thư thăm hỏi và sai gia nhân đem quà tới biếu tặng. Lại thỉnh thày lang tới tận nhà xem mạch, hốt thuốc cho song bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Mấy hôm sau, bệnh tình lại có vẻ trầm trọng hơn.
Đinh công sắp lên đường về kinh đô thì xảy ra vụ làm mích lòng một vị thượng quan. Vị này dâng sớ kể tội với triều đình nên Đinh công bị bãi chức. Bàn giao chức vụ xong, toan đưa gia quyến về quê, Đinh công chợt nghĩ tới Tuấn Bình đang lâm trọng bệnh, không người tri kỷ ở gần bên nên lại đổi ý, đưa gia quyến ra phố thuê nhà cư ngụ, quyết lưu lại Hoài Dương thêm ít bữa để chờ Tuấn Bình khỏi bệnh rồi mời theo gia quyến mình về quê. Đinh công bèn viết cho Tuấn Bình một lá thư, đại ý như sau:"Tại hạ toan đưa gia quyến về quê song lại lo cho bệnh tình của túc hạ nên đã quyết lưu lại Hoài Dương thêm ít bữa. Mong túc hạ chóng bình phục để về tệ quán dùi mài kinh sử, đợi chờ khoa sau. Ngày nào túc hạ bình phục, tới được tệ xá thì ngày ấy tại hạ sẽ cho gia quyến khởi hành ngay!" Rồi sai gia nhân đưa thư tới nhà Tuấn Bình, vào tận giường bệnh mà trao. Đọc thư xong, Tuấn Bình ứa nước mắt, thều thào nói với người đưa thư:"Làm ơn về trình lại với quan tể rằng bản nhân bị bệnh nặng, chẳng thể cầm bút phúc thư được. Vậy xin quan tể cùng bảo quyến cứ về quê trước. Chừng nào bản nhân khỏi bệnh sẽ tìm tới sau để xin ở nhờ!"
Gia nhân về trình lại. Đinh công vẫn chẳng nỡ đi, cứ nấn ná lưu lại để chờ.
Ba hôm sau, vào lúc nhá nhem tối, Đinh công đang ngồi trong nhà, chợt thấy gia nhân chạy vào báo: "Thưa tướng công, có Diệp tiên sinh tới!" Đinh công mừng quá, vội chạy ra cửa đón chào, hỏi:"Túc hạ đã bình phục rồi đó ư?" Tuấn Bình đáp:"Đa tạ phu tử! Khuyển mã đã khỏi rồi!" Hỏi:"Túc hạ thấy trong người đã khỏe hẳn chưa?" Đáp:"Thưa đã! Vì bệnh tình của khuyển mã mà phu tử phải nấn ná lưu lại để chờ, làm cho khuyển mã vô cùng áy náy. Nay đã khỏi bệnh, xin tới đây để theo gót phu tử về quý quán!" Đinh công bèn ra lệnh cho gia nhân đi thuê xe ngựa, chất hành lý lên xe. Ngay đêm đó, Đinh công trả nhà, đưa gia quyến cùng Tuấn Bình khởi hành về quê.
Tới quê, Đinh công bắt Tại Xương lạy Tuấn Bình làm thày, ngày ngày theo học. Tại Xương học rất thông minh, bài nào cũng chỉ đọc một lần là thuộc.
Năm sau, Tại Xương đã tự làm văn được. Lại nhờ có cha chỉ bảo nên Tại Xương rất mau tấn tới, thi đậu vào học ở trường huyện. Tuấn Bình bèn đem hết sở học của mình ra mà truyền lại cho Tại Xương.
Mùa thu năm ấy, Tại Xương đi thi hương, đậu á nguyên. Thấy con đậu hạng nhì, chỉ sau có giải nguyên, Đinh công thích lắm, nói với Tuấn Bình:"Túc hạ chỉ dùng có một chút chữ thừa mà cũng đủ khiến cho nhụ tử được thành danh! Thế mới biết chuông đất thì thường hay được người đời nhắc tới còn chuông vàng thì lại thường hay bị bỏ quên!" Tuấn Bình đáp:"Con người ta, mỗi người đều có một phần số. Khuyển mã đã dám mượn cái phúc trạch của nhà phu tử để nhả cái khí văn chương của mình ra, làm cho thiên hạ biết mình là kẻ nửa đời lận đận nơi trường ốc, quả đã đắc tội với phu tử! Được phu tử tha không bắt tội, đã là có phước, đâu còn dám mong được ai nhắc tới? Vả lại, kẻ sĩ ở đời chỉ cần được một người tri kỷ hiểu mình cũng đủ khỏi di hận ngàn thu, chứ đâu cần được mọi người nhắc tới mới cảm thấy nhẹ nhõm hay sao?"
Đinh công thấy Tuấn Bình đã chịu về nhà mình trên một năm để dạy con mình học, nếu bây giờ mình tiếp tục giữ nữa thì e làm mất thì giờ chuẩn bị thi cử của Tuấn Bình, nên khuyên:"Túc hạ đã chịu về đây giúp cho nhụ tử thành danh, cha con tại hạ xin vô vàn cảm tạ. Tuy nhiên, túc hạ cũng phải nghĩ tới tiền đồ của mình!" Tuấn Bình thở dài không đáp, nét mặt chẳng vui. Thấy thế, Đinh công cũng thôi, không đả động chi tới chuyện ấy nữa.
Năm sau, Tại Xương sửa soạn lên kinh đô thi hội. Đinh công dặn:"Con lên kinh đô, phải nhớ tìm cách tiến cử phu tử của con!" Tại Xương vâng dạ.
Lên kinh đô ứng thí, Tại Xương đậu tiến sĩ, được triều đình bổ nhậm vào chức chủ chính ở kinh đô. Tại Xương bèn xin cho thày được vào học ở quốc tử giám, rồi về quê đón thày lên kinh đô ở chung.
Năm sau. Tuấn Bình đi thi, đậu hiếu liêm (cử nhân) Triều đình bổ nhậm cả hai thày trò về làm quan tại thủ phủ Trịnh Châu, tỉnh Hà Nam. Tại Xương nói:"Bây giờ phu tử và đệ tử cùng được về phó nhậm tại Trịnh Châu, gần lệnh quán Hoài Dương. Phu tử xa nhà đã lâu, chắc sư mẫu với Hùng đệ ở nhà mong lắm. Đệ tử thiết nghĩ trước khi đi phó nhậm, phu tử nên ghé về thăm nhà ít bữa!" Tuấn Bình cho là phải nên theo lời. Tại Xương bèn chọn ngày lành tháng tốt, sai một đoàn bộ tốt hộ tống Tuấn Bình với mình lên đường.
Tới ranh giới Hoài Dương, Tại Xương nói:"Bây giờ xin phu tử hãy ghé về thăm nhà. Đệ tử xin phép được tới Trịnh Châu trước" Tuấn Bình gật đầu. Tại Xương bèn sai hai bộ tốt hộ tống Tuấn Bình về Hoài Dương. Tới ngõ, Tuấn Bình cho hai bộ tốt tự do đi tìm quán cơm ăn uống, còn mình thì xuống ngựa, buộc ở ngoài cổng, bước vào sân. Thấy nhà cửa tiêu điều, Tuấn Bình bùi ngùi tấc dạ, cứ rụt rè quanh quẩn, chưa dám bước lên hành lang.
Lát sau, Hạnh thị cầm rá gạo từ trong nhà đi ra. Toan xuống bếp nấu cơm, chợt thấy chồng mình đang quanh quẩn ở ngoài sân, Hạnh thị kinh hãi quá, quăng cả rá gạo xuống đất, bỏ chạy ra hàng rào, rúc vào bụi trúc. Thấy thế, Tuấn Bình buồn lắm, nói lớn:"Bây giờ ta đã thi đậu, ra làm quan. Mới xa nhau chưa đầy bốn năm mà nàng đã chẳng nhận ra ta sao?" Từ bụi trúc, Hạnh thị nói vọng vào:"Lang quân đã chết được hơn ba năm rồi mà sao bây giờ lại nói là đã thi đậu, ra làm quan? Linh cữu vẫn còn quàn ở trong nhà kia kìa!" Thấy vợ nói thế, Tuấn Bình kinh ngạc lắm. Vừa nghi hoặc vừa buồn bã, Tuấn Bình hỏi vợ:"Nàng nói ta đã chết được hơn ba năm mà sao linh cữu ta vẫn còn quàn ở trong nhà?" Đáp:"Vì thiếp chưa để dành được đủ tiền chôn cất!" Hỏi:"Thế bao giờ nàng mới định chôn cất cho ta?" Đáp:"Cũng sắp rồi! Thiếp đã để dành được gần đủ tiền chôn cất rồi, xin lang quân đừng hiện về doạ nạt vợ con nữa!" Tuấn Bình bèn thở dài, hỏi:"Thằng Mạnh Hùng đâu?" Hạnh thị đáp:"Nó đi học, cũng sắp về rồi!"
Vì tò mò muốn biết linh cữu mình ra sao, Tuấn Bình dón dén bước lên hành lang. Nhìn vào phòng khách, thấy ở giữa phòng có bài vị của mình đặt trên linh cữu, đột nhiên Tuấn Bình ngã xuống đất.
Từ bụi trúc, Hạnh thị vẫn chú mục theo dõi hành động của chồng. Thấy chồng ngã xuống đất, Hạnh thị vội chạy vào coi.
Lên tới hành lang, chẳng thấy chồng đâu, chỉ thấy một bộ quần áo với mũ mãng, giày dép nằm yên dưới đất, trông giống như xác lột của côn trùng, Hạnh thị thương cảm quá, vội ôm lấy bộ quần áo của chồng, đem vào ngồi ở cạnh linh cữu mà gào khóc thảm thiết.
Lát sau, Mạnh Hùng đi học về. Thấy có ngựa lạ buộc ở ngoài cổng, Mạnh Hùng kinh hãi lắm, chẳng biết là ngựa của ai. Lo lắng cho mẹ ở nhà một mình, chẳng hiểu có gặp chuyện gì nguy hiểm hay không, Mạnh Hùng bèn lớn tiếng gọi mẹ. Hạnh thị bèn gạt nước mắt chạy ra cổng đón con, thuật lại chuyện chồng về cho con nghe.
Lát sau, hai bộ tốt trở lại đón Tuấn Bình. Hạnh thị bèn mời vào nhà, dắt tới linh cữu, chỉ bộ quần áo cho coi, rồi thuật lại chuyện cho nghe.
Hai bộ tốt bèn về Trịnh Châu, trình lại với Tại Xương. Tại Xương cũng thương cảm, rơi nước mắt. Rồi sai gia nhân rong xe cho mình sang ngay Hoài Dương.
Tới nơi, Tại Xương lấy lễ hiếu liêm chôn cất cho phu tử rồi lấy tiền bạc của mình chu cấp cho sư mẫu. Lại rước thày đồ tới nhà dạy học cho Mạnh Hùng.
Năm sau, Tại Xương lại sang Hoài Dương thăm sư mẫu và Mạnh Hùng.
Rồi tìm gặp quan học sứ Hoài Dương, xin cho Mạnh Hùng được vào học ở trường huyện.
Ân thâm tri kỷ úy bình sinh
Hồn mộng tương tùy thiên lý hành
Mạc đạo hoàng chung chung hủy khí
Tu tri nhụ tử dĩ thành danh
Huyện Hoài Dương, tỉnh Hà Nam có nho sinh họ Diệp, tên Tuấn Bình, có vợ họ Hạnh và một trai tên Mạnh Hùng, mười hai tuổi. Tuấn Bình nổi tiếng là đệ nhất danh sĩ trong vùng, văn chương từ phú quán tuyệt đương thời, song cứ đi thi là hỏng.
Thời đó, quan tể huyện Hoài Dương là người họ Đinh, tên Thừa Hạc, có vợ họ Tuyên và một trai tên Tại Xương, mười sáu tuổi. Thấy Tuấn Bình có văn tài kỳ tuyệt, Đinh công cho gọi vào huyện đường đàm đạo. Thấy Tuấn Bình có tư tưởng uẩn súc sâu xa, Đinh công quý trọng lắm, bảo dọn vào cư ngụ trong thư phòng huyện đường mà đọc sách cho tĩnh. Đinh công lại sai lính đem tiền bạc, thóc gạo ra tận nhà mà chu cấp cho vợ con Tuấn Bình.
Mùa thu năm ấy, triều đình mở khoa thi hương ở Hà Nam. Đinh công nghĩ chắc thế nào kỳ này Tuấn Bình cũng đậu thủ khoa nên hy vọng lắm. Nhân có quan học sứ tới thăm, Đinh công đem văn chương của Tuấn Bình ra bàn luận rồi cứ tấm tắc khen hay.
Tới buổi Tuấn Bình đi thi về, Đinh công bảo đưa văn bài cho mình coi. Coi xong, lại khen. Thế nhưng, vận số cản người, văn chương ghét mệnh. Cũng giống như những lần trước, tới ngày đi coi bảng, thấy chẳng có tên mình, Tuấn Bình ngậm ngùi ra về.
Hỏng thi đã buồn, Tuấn Bình lại còn hổ thẹn vì đã làm phụ lòng tin tưởng của người tri kỷ. Thấy Tuấn Bình tiều tụy, ngơ ngác, người cứ ngây ra như tượng gỗ, Đinh công bèn gọi lên vỗ về an ủi. Tuấn Bình chỉ im lặng ứa nước mắt, chẳng nói lời nào.
Tháng sau, Đinh công nhận được lệnh của triều đình thuyên chuyển về kinh đô. Bèn bảo Tuấn Bình dọn theo gia quyến mình. Chẳng muốn làm phiền Đinh công, Tuấn Bình từ tạ, xin dọn về ở với vợ con.
Từ đó, suốt ngày Tuấn Bình chỉ nằm nhà, chẳng muốn đi đâu, mà cũng chẳng muốn gặp ai. Vì phẫn chí nên tuần sau bị bệnh uất kết, phải nằm liệt giường. Đinh công được tin, vội viết thư thăm hỏi và sai gia nhân đem quà tới biếu tặng. Lại thỉnh thày lang tới tận nhà xem mạch, hốt thuốc cho song bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Mấy hôm sau, bệnh tình lại có vẻ trầm trọng hơn.
Đinh công sắp lên đường về kinh đô thì xảy ra vụ làm mích lòng một vị thượng quan. Vị này dâng sớ kể tội với triều đình nên Đinh công bị bãi chức. Bàn giao chức vụ xong, toan đưa gia quyến về quê, Đinh công chợt nghĩ tới Tuấn Bình đang lâm trọng bệnh, không người tri kỷ ở gần bên nên lại đổi ý, đưa gia quyến ra phố thuê nhà cư ngụ, quyết lưu lại Hoài Dương thêm ít bữa để chờ Tuấn Bình khỏi bệnh rồi mời theo gia quyến mình về quê. Đinh công bèn viết cho Tuấn Bình một lá thư, đại ý như sau:"Tại hạ toan đưa gia quyến về quê song lại lo cho bệnh tình của túc hạ nên đã quyết lưu lại Hoài Dương thêm ít bữa. Mong túc hạ chóng bình phục để về tệ quán dùi mài kinh sử, đợi chờ khoa sau. Ngày nào túc hạ bình phục, tới được tệ xá thì ngày ấy tại hạ sẽ cho gia quyến khởi hành ngay!" Rồi sai gia nhân đưa thư tới nhà Tuấn Bình, vào tận giường bệnh mà trao. Đọc thư xong, Tuấn Bình ứa nước mắt, thều thào nói với người đưa thư:"Làm ơn về trình lại với quan tể rằng bản nhân bị bệnh nặng, chẳng thể cầm bút phúc thư được. Vậy xin quan tể cùng bảo quyến cứ về quê trước. Chừng nào bản nhân khỏi bệnh sẽ tìm tới sau để xin ở nhờ!"
Gia nhân về trình lại. Đinh công vẫn chẳng nỡ đi, cứ nấn ná lưu lại để chờ.
Ba hôm sau, vào lúc nhá nhem tối, Đinh công đang ngồi trong nhà, chợt thấy gia nhân chạy vào báo: "Thưa tướng công, có Diệp tiên sinh tới!" Đinh công mừng quá, vội chạy ra cửa đón chào, hỏi:"Túc hạ đã bình phục rồi đó ư?" Tuấn Bình đáp:"Đa tạ phu tử! Khuyển mã đã khỏi rồi!" Hỏi:"Túc hạ thấy trong người đã khỏe hẳn chưa?" Đáp:"Thưa đã! Vì bệnh tình của khuyển mã mà phu tử phải nấn ná lưu lại để chờ, làm cho khuyển mã vô cùng áy náy. Nay đã khỏi bệnh, xin tới đây để theo gót phu tử về quý quán!" Đinh công bèn ra lệnh cho gia nhân đi thuê xe ngựa, chất hành lý lên xe. Ngay đêm đó, Đinh công trả nhà, đưa gia quyến cùng Tuấn Bình khởi hành về quê.
Tới quê, Đinh công bắt Tại Xương lạy Tuấn Bình làm thày, ngày ngày theo học. Tại Xương học rất thông minh, bài nào cũng chỉ đọc một lần là thuộc.
Năm sau, Tại Xương đã tự làm văn được. Lại nhờ có cha chỉ bảo nên Tại Xương rất mau tấn tới, thi đậu vào học ở trường huyện. Tuấn Bình bèn đem hết sở học của mình ra mà truyền lại cho Tại Xương.
Mùa thu năm ấy, Tại Xương đi thi hương, đậu á nguyên. Thấy con đậu hạng nhì, chỉ sau có giải nguyên, Đinh công thích lắm, nói với Tuấn Bình:"Túc hạ chỉ dùng có một chút chữ thừa mà cũng đủ khiến cho nhụ tử được thành danh! Thế mới biết chuông đất thì thường hay được người đời nhắc tới còn chuông vàng thì lại thường hay bị bỏ quên!" Tuấn Bình đáp:"Con người ta, mỗi người đều có một phần số. Khuyển mã đã dám mượn cái phúc trạch của nhà phu tử để nhả cái khí văn chương của mình ra, làm cho thiên hạ biết mình là kẻ nửa đời lận đận nơi trường ốc, quả đã đắc tội với phu tử! Được phu tử tha không bắt tội, đã là có phước, đâu còn dám mong được ai nhắc tới? Vả lại, kẻ sĩ ở đời chỉ cần được một người tri kỷ hiểu mình cũng đủ khỏi di hận ngàn thu, chứ đâu cần được mọi người nhắc tới mới cảm thấy nhẹ nhõm hay sao?"
Đinh công thấy Tuấn Bình đã chịu về nhà mình trên một năm để dạy con mình học, nếu bây giờ mình tiếp tục giữ nữa thì e làm mất thì giờ chuẩn bị thi cử của Tuấn Bình, nên khuyên:"Túc hạ đã chịu về đây giúp cho nhụ tử thành danh, cha con tại hạ xin vô vàn cảm tạ. Tuy nhiên, túc hạ cũng phải nghĩ tới tiền đồ của mình!" Tuấn Bình thở dài không đáp, nét mặt chẳng vui. Thấy thế, Đinh công cũng thôi, không đả động chi tới chuyện ấy nữa.
Năm sau, Tại Xương sửa soạn lên kinh đô thi hội. Đinh công dặn:"Con lên kinh đô, phải nhớ tìm cách tiến cử phu tử của con!" Tại Xương vâng dạ.
Lên kinh đô ứng thí, Tại Xương đậu tiến sĩ, được triều đình bổ nhậm vào chức chủ chính ở kinh đô. Tại Xương bèn xin cho thày được vào học ở quốc tử giám, rồi về quê đón thày lên kinh đô ở chung.
Năm sau. Tuấn Bình đi thi, đậu hiếu liêm (cử nhân) Triều đình bổ nhậm cả hai thày trò về làm quan tại thủ phủ Trịnh Châu, tỉnh Hà Nam. Tại Xương nói:"Bây giờ phu tử và đệ tử cùng được về phó nhậm tại Trịnh Châu, gần lệnh quán Hoài Dương. Phu tử xa nhà đã lâu, chắc sư mẫu với Hùng đệ ở nhà mong lắm. Đệ tử thiết nghĩ trước khi đi phó nhậm, phu tử nên ghé về thăm nhà ít bữa!" Tuấn Bình cho là phải nên theo lời. Tại Xương bèn chọn ngày lành tháng tốt, sai một đoàn bộ tốt hộ tống Tuấn Bình với mình lên đường.
Tới ranh giới Hoài Dương, Tại Xương nói:"Bây giờ xin phu tử hãy ghé về thăm nhà. Đệ tử xin phép được tới Trịnh Châu trước" Tuấn Bình gật đầu. Tại Xương bèn sai hai bộ tốt hộ tống Tuấn Bình về Hoài Dương. Tới ngõ, Tuấn Bình cho hai bộ tốt tự do đi tìm quán cơm ăn uống, còn mình thì xuống ngựa, buộc ở ngoài cổng, bước vào sân. Thấy nhà cửa tiêu điều, Tuấn Bình bùi ngùi tấc dạ, cứ rụt rè quanh quẩn, chưa dám bước lên hành lang.
Lát sau, Hạnh thị cầm rá gạo từ trong nhà đi ra. Toan xuống bếp nấu cơm, chợt thấy chồng mình đang quanh quẩn ở ngoài sân, Hạnh thị kinh hãi quá, quăng cả rá gạo xuống đất, bỏ chạy ra hàng rào, rúc vào bụi trúc. Thấy thế, Tuấn Bình buồn lắm, nói lớn:"Bây giờ ta đã thi đậu, ra làm quan. Mới xa nhau chưa đầy bốn năm mà nàng đã chẳng nhận ra ta sao?" Từ bụi trúc, Hạnh thị nói vọng vào:"Lang quân đã chết được hơn ba năm rồi mà sao bây giờ lại nói là đã thi đậu, ra làm quan? Linh cữu vẫn còn quàn ở trong nhà kia kìa!" Thấy vợ nói thế, Tuấn Bình kinh ngạc lắm. Vừa nghi hoặc vừa buồn bã, Tuấn Bình hỏi vợ:"Nàng nói ta đã chết được hơn ba năm mà sao linh cữu ta vẫn còn quàn ở trong nhà?" Đáp:"Vì thiếp chưa để dành được đủ tiền chôn cất!" Hỏi:"Thế bao giờ nàng mới định chôn cất cho ta?" Đáp:"Cũng sắp rồi! Thiếp đã để dành được gần đủ tiền chôn cất rồi, xin lang quân đừng hiện về doạ nạt vợ con nữa!" Tuấn Bình bèn thở dài, hỏi:"Thằng Mạnh Hùng đâu?" Hạnh thị đáp:"Nó đi học, cũng sắp về rồi!"
Vì tò mò muốn biết linh cữu mình ra sao, Tuấn Bình dón dén bước lên hành lang. Nhìn vào phòng khách, thấy ở giữa phòng có bài vị của mình đặt trên linh cữu, đột nhiên Tuấn Bình ngã xuống đất.
Từ bụi trúc, Hạnh thị vẫn chú mục theo dõi hành động của chồng. Thấy chồng ngã xuống đất, Hạnh thị vội chạy vào coi.
Lên tới hành lang, chẳng thấy chồng đâu, chỉ thấy một bộ quần áo với mũ mãng, giày dép nằm yên dưới đất, trông giống như xác lột của côn trùng, Hạnh thị thương cảm quá, vội ôm lấy bộ quần áo của chồng, đem vào ngồi ở cạnh linh cữu mà gào khóc thảm thiết.
Lát sau, Mạnh Hùng đi học về. Thấy có ngựa lạ buộc ở ngoài cổng, Mạnh Hùng kinh hãi lắm, chẳng biết là ngựa của ai. Lo lắng cho mẹ ở nhà một mình, chẳng hiểu có gặp chuyện gì nguy hiểm hay không, Mạnh Hùng bèn lớn tiếng gọi mẹ. Hạnh thị bèn gạt nước mắt chạy ra cổng đón con, thuật lại chuyện chồng về cho con nghe.
Lát sau, hai bộ tốt trở lại đón Tuấn Bình. Hạnh thị bèn mời vào nhà, dắt tới linh cữu, chỉ bộ quần áo cho coi, rồi thuật lại chuyện cho nghe.
Hai bộ tốt bèn về Trịnh Châu, trình lại với Tại Xương. Tại Xương cũng thương cảm, rơi nước mắt. Rồi sai gia nhân rong xe cho mình sang ngay Hoài Dương.
Tới nơi, Tại Xương lấy lễ hiếu liêm chôn cất cho phu tử rồi lấy tiền bạc của mình chu cấp cho sư mẫu. Lại rước thày đồ tới nhà dạy học cho Mạnh Hùng.
Năm sau, Tại Xương lại sang Hoài Dương thăm sư mẫu và Mạnh Hùng.
Rồi tìm gặp quan học sứ Hoài Dương, xin cho Mạnh Hùng được vào học ở trường huyện.
PHÚC THẨM ÁN TỬ HÌNH
(truyện THI NGHIỆN)
Ngục tù dĩ cụ thục bình phiên
Cự nhãn hà kỳ ngộ Lịch Viên
Chuyển hạnh đương niên di phiến tại
Nhất thi cánh tuyết phúc bàn oan
Huyện Thanh Châu, tỉnh Sơn Đông, có người họ Phạm, tên Tiểu Sơn, làm nghề buôn bút viết. Tiểu Sơn có vợ họ Hạ, rất đẹp.
Cùng làng với Tiểu Sơn có phú nhân họ Ngô, tên Phi Khanh. Phi Khanh có vợ họ Trịnh, rất mộ đạo Phật. Trong nhà, Trịnh thị lập một bàn thờ Phật, hàng ngày niệm Phật, tụng kinh. Phi Khanh tuy đã có vợ song vẫn nổi tiếng là kẻ trăng hoa. Vì thế, Tiểu Sơn rất ghét Phi Khanh.
Năm ấy, vào một ngày thượng tuần tháng tư, tiết trời còn lạnh, Tiểu Sơn lên đường đi buôn xa, để vợ ở nhà một mình. Đêm ấy, trời mưa to gió lớn. Sáng sau, như thường lệ, hàng xóm gọi Hạ thị để hỏi thăm thì không thấy tiếng Hạ thị trả lời. Họ kinh ngạc lắm, bèn rủ nhau chạy sang coi thì thấy Hạ thị nằm chết ở trên giường, xác bị nhiều nhát dao đâm. Họ sợ quá, rủ nhau chạy lên huyện đường trình quan tể. Quan sai lính tới nhà liệm xác Hạ thị, đặt giữa phòng khách, rồi sai thuộc hạ truy tầm hung thủ.
Ba hôm sau, Tiểu Sơn đi buôn về. Hàng xóm tranh nhau chạy sang thuật chuyện. Tiểu Sơn đau đớn lắm. Làm tang lễ cho vợ xong, Tiểu Sơn ra sức phụ giúp thuộc hạ của quan truy tầm hung thủ giết vợ mình. Thế nhưng cả tháng mà vẫn chưa ai tìm ra manh mối.
Một hôm, Tiểu Sơn quét sân, bắt được một chiếc quạt ở góc sân. Mở ra coi, thấy trên quạt có đề một bài thơ với dòng chữ Vương Thịnh tặng Ngô Phi Khanh. Tiểu Sơn chẳng biết Vương Thịnh là ai song vì biết Phi Khanh quá rõ nên nghi ngay là Phi Khanh đã giết vợ mình. Tiểu Sơn cho người làng coi quạt thì ai cũng nghi như thế. Tiểu Sơn bèn viết đơn kiện, kèm theo quạt, nạp quan tể. Quan đọc đơn, cũng nghi Phi Khanh là hung thủ, liền sai lính đi bắt về huyện đường thẩm vấn. Phi Khanh chối cãi, khai chẳng giết người. Quan sai lính tra tấn, Phi Khanh vẫn một mực kêu oan. Quan cứ kết tội rồi khép án tử hình, giải lên tỉnh. Tỉnh quan phúc thẩm rồi y án.
Thời đó, theo phép vua, các tỉnh quan phải giam giữ tử tội ba năm, chờ triều đình cử các vị tuần án tới phúc thẩm để giải oan cho các vụ ngộ xử. Thông thường thì các quan tuần án lại y án cũ rồi cho phép hành hình. Nằm trong ngục, Phi Khanh thầm nghĩ: "Số mình giàu nhưng lại yểu. Bây giờ sắp chết rồi, giữ nhiều ruộng đất để làm chi?" Bèn viết thư cho vợ, dặn giữ lại vàng bạc, nữ trang mà sinh sống, còn bao nhiêu ruộng đất thì đem bán hết, lấy tiền mua quần áo lạnh mà bố thí cho kẻ cơ hàn. Đọc thư chồng, Trịnh thị khóc ròng vì thương cảm. Tuân theo ý chồng, Trịnh thị bán hết ruộng đất, mua quần áo lạnh, rồi thỉnh mọi người tới nhà tụng kinh niệm Phật, xin Trời Phật phù hộ cho chồng mình. Trịnh thị đặt lệ ai tới tụng niệm một ngày thì được lãnh một chiếc quần, hai ngày thì được lãnh một chiếc áo mỏng, ba ngày thì được lãnh một chiếc áo dầy. Ăn mày trong vùng nghe tin, rủ nhau kéo tới nhà đông như chợ. Tiếng tụng niệm vang rền khắp xóm suốt ngày đêm.
Ba năm sau. Sắp tới ngày phúc thẩm, Phi Khanh nghĩ mình cũng sẽ bị y án. Bèn lấy tiền hối lộ cai ngục, nhờ mua giùm thuốc độc để tự tử, hầu tránh bị xử trảm. Cai ngục hẹn hôm sau sẽ mua. Đêm ấy, Phi Khanh nằm mộng thấy thần nhân tới, bảo:"Đừng tự tử. Trước bị oan, nay được giải" Tỉnh giấc, Phi Khanh cho là mộng mị hão huyền. Nhắm mắt ngủ, Phi Khanh lại mộng thấy như thế. Phi Khanh bèn đâm ra hồ nghi, chẳng biết hư thực ra sao, nên bỏ ý định tự tử.
Tuần sau, triều đình cử tuần án họ Chu, tên Nguyên Lượng, tới Sơn Đông phúc thẩm các án tử hình. Trên đường đi, Chu công vào nghỉ trong quán trọ Nam Quách ở Thanh Châu.
Tới Sơn Đông, Chu công đem các án tử hình ra tái xét. Khi xét tới vụ án Ngô Phi Khanh, Chu công nhắm mắt suy nghĩ hồi lâu rồi bừng mắt, ký trát cho lính đi Thanh Châu đòi Tiểu Sơn lên tỉnh đường. Tiểu Sơn tới. Chu công hỏi:"Nhà ngươi kiện Ngô Phi Khanh giết vợ nhà ngươi, vậy lấy chi làm bằng chứng?" Tiểu Sơn đáp:"Bẩm đại quan, có cái quạt đề thơ" Chu công lấy quạt ra đọc kỹ lại bài thơ rồi hỏi:"Vương Thịnh là ai?" Tiểu Sơn đáp:"Bẩm đại quan, tiểu nhân chẳng được rõ" Đột nhiên, Chu công phán:"Phi Khanh chẳng phải là hung thủ!" Tiểu Sơn cãi: "Bẩm đại quan, chính gã là hung thủ!" Chu công đập bàn, quát:"Sao nhà ngươi lại dám quả quyết như thế? Muốn giết kẻ mình tình nghi đâu có dễ? Muốn giết kẻ mình thù ghét đâu có xong?" Tiểu Sơn không dám cãi nữa. Chu công liền đuổi Tiểu Sơn về rồi ký giấy phóng thích Phi Khanh. Phi Khanh mừng quá, vội lên lạy tạ Chu công rồi ra về. Ai cũng cho là Chu công thiên vị Phi Khanh song vì chức tuần án là chức quan lớn của triều đình nên chẳng ai dám bàn ra tán vào.
Đột nhiên, Chu công ký trát cho lính đi Thanh Châu bắt chủ quán Nam Quách. Chủ quán kinh hãi, hỏi thăm lính xem mình mắc tội chi. Lính đáp không biết rồi cứ giải về tỉnh đường, dẫn vào trình.
Chu công hỏi:"Trên tường trong quán có bài thơ của Lý Tú. Vậy Lý Tú là ai?"
Chủ quán đáp:"Bẩm đại quan, Lý Tú là một nho sinh"
Hỏi:"Sao y lại vào quán đề thơ?"
Đáp:"Bẩm đại quan, một đêm y dẫn hai nho sinh bạn tới tệ quán ngủ trọ. Cả ba cùng uống rượu say rồi cùng đề thơ lên tường"
Hỏi:"Đêm ấy là đêm nào?"
Đáp:"Bẩm đại quan, tiểu nhân không nhớ rõ ngày, song đã từ năm ngoái!"
Hỏi:"Quê y ở đâu?"
Đáp:"Bẩm đại quan, quê y ở huyện Nhật Chiếu"
Hỏi:"Sao biết?"
Đáp:"Bẩm đại quan, y nói thế"
Chu công bèn thả cho chủ quán ra về.
Chu công lại ký trát cho lính đi Nhật Chiếu bắt Lý Tú. Lính giải về trình.
Chu công mắng:"Là nho sinh, biết đạo lý thánh hiền, sao còn sát nhân?"
Lý Tú kinh hãi, rập đầu, thưa:"Bẩm đại quan, tiểu sinh chẳng hề sát nhân"
Chu công bèn ném chiếc quạt cho coi rồi hỏi:"Làm bài thơ này, sao lại đề tên Vương Thịnh?"
Đáp:"Bẩm đại quan, quả là tiểu sinh có làm bài thơ này, song chẳng hề viết lên quạt"
Nói:"Nếu chẳng viết thì kẻ viết cũng phải là bạn quen. Chỉ có bạn quen mới thuộc thơ của mình chứ người ngoài, ai biết đâu mà thuộc? Vậy tuồng chữ này là tuồng chữ của ai?"
Đáp:"Bẩm đại quan, thực tình tiểu sinh chẳng được rõ song tuồng chữ này trông giống như tuồng chữ của người bạn tiểu sinh, họ Vương, tên Tá"
Hỏi:"Y ở đâu?"
Đáp:"Bẩm đại quan, y ở huyện Nghi Châu"
Chu công bèn thả cho Lý Tú ra về.
Chu công lại ký trát cho lính đi Nghi Châu bắt Vương Tá. Lính giải về trình.
Chu công đưa quạt cho coi rồi hỏi:"Có nhận ra tuồng chữ của ai không?"
Vương Tá đáp:"Bẩm đại quan, đúng là chữ của tiểu sinh"
Hỏi:"Viết thơ lên quạt, sao lại đi đề tên người khác?"
Đáp:"Bẩm đại quan, tiểu sinh được người ta mướn viết, trả tiền công"
Hỏi:"Ai mướn?" Đáp:"Bẩm đại quan, Trương Thành"
Hỏi: "Trương Thành làm nghề gì?”
Đáp:"Bẩm đại quan, y làm nghề buôn sắt"
Hỏi:"Quê y ở đâu?"
Đáp:"Bẩm đại quan, quê y ở huyện Ích Đô"
Hỏi:"Còn tên Vương Thịnh là ai?"
Đáp: "Bẩm đại quan, y là anh họ của Trương Thành"
Chu công bèn thả cho Vương Tá ra về.
Chu công lại ký trát cho lính đi Ích Đô bắt Trương Thành. Lính giải về trình.
Chu công hỏi:"Tại sao lại giết người?"
Trương Thành chối:"Bẩm đại quan, tiểu nhân chẳng hề giết người!"
Chu công liền hạ lệnh cho lính tra tấn. Bị khảo đả đau quá, Trương Thành van lạy, nói:"Xin ngừng tay để cung khai!" Lính liền giải vào công đường.
Chu công hỏi:"Muốn cung khai việc gì?"
Trương Thành đáp:"Bẩm đại quan, việc giết Hạ thị"
Hỏi:"Sao lại giết?"
Đáp:"Bẩm đại quan, trong lúc cùng quẫn, tiểu nhân phải giết để thoát thân"
Hỏi:"Quen biết với y thị đã lâu chưa?"
Đáp:"Bẩm đại quan, tiểu nhân mới gặp y thị ở chợ. Thấy y thị đẹp nên tiểu nhân rắp tâm tới nhà dụ dỗ ái ân. Tiểu nhân đề phòng trường hợp y thị chẳng nghe mà còn làm ầm ĩ thì sẽ đổ tội lên đầu người khác".
Hỏi:"Đổ tội cho ai?"
Đáp:"Bẩm đại quan, cho Ngô Phi Khanh"
Hỏi:"Thù oán chi với y mà đổ cho y?"
Đáp:"Bẩm đại quan, tiểu nhân chẳng thù oán chi với y cả. Chỉ vì y nổi tiếng là kẻ trăng hoa nên đổ tội cho y thì thiên hạ dễ tin"
Hỏi:"Âm mưu đổ tội như thế nào?"
Đáp:"Bẩm đại quan, tiểu nhân mướn Vương Tá viết giùm bài thơ lên quạt, ghi là của người anh họ tên Vương Thịnh tặng Ngô Phi Khanh. Tiểu nhân giắt quạt trong mình để phòng khi việc chẳng xuôi thì sẽ ném quạt lại, đổ tội cho Phi Khanh"
Hỏi:"Chỉ định đổ tội thôi, sao lại giết người?"
Đáp:"Bẩm đại quan, thực tâm tiểu nhân chẳng muốn giết người. Nguyên là hôm ấy tiểu nhân biết chồng thị đi vắng nên mới tới nhà, trèo tường vào dụ dỗ. Vì thị chẳng nghe nên tiểu nhân mới xông tới, toan lột y phục để cưỡng chiếm. Chẳng dè thị rút dao tự vệ giắt sẵn trong người ra chém. Tiểu nhân kinh hãi, đoạt dao bỏ chạy. Thị nắm vạt áo kéo lại, kêu ầm lên để hàng xóm chạy sang bắt, nhưng vì đêm ấy trời mưa to gió lớn nên chẳng ai nghe tiếng. Trong lúc khẩn cấp, tiểu nhân phải giết thị để thoát thân. Tiểu nhân bế xác thị đặt lên giường rồi xách dao bỏ chạy. Ra tới sân, sực nhớ tới chiếc quạt nên tiểu nhân mới ném lại" Chu công bèn khép Trương Thành vào án tử hình, thay cho Phi Khanh.
Ba năm sau, Trương Thành bị hành quyết. Vụ án kết thúc. Cả vùng Sơn Đông ai cũng ca tụng tài xét xử thần minh của Chu công. Một hôm, có người bạn đồng liêu của Chu công là Trịnh công tới chơi. Nghe chuyện phúc thẩm vụ án Phi Khanh, Trịnh công hỏi:"Sao tôn huynh lại biết là Phi Khanh bị xử oan?" Chu công đáp:"Khi đọc hồ sơ, đệ thấy trong hồ sơ có ghi là Hạ thị bị giết chết vào một đêm mưa gió, thượng tuần tháng tư. Hồi đó tiết trời còn lạnh, đâu đã phải dùng đến quạt? Vả lại, đi làm điều phi pháp, ai dại gì lại đem theo vật có tên mình? Lỡ bỏ quên hay đánh rơi, có phải là mang họa vào thân không? Vì thế nên đệ biết là Phi Khanh bị xử oan" Trịnh công lại hỏi:"Sao tôn huynh lại biết Trương Thành là hung thủ?" Chu công đáp:"Trên đường tới Sơn Đông phúc thẩm, đệ vào nghỉ đêm trong quán trọ Nam Quách ở Thanh Châu. Trong phòng, thấy trên tường có đề nhiều thơ nên đệ đọc qua vài bài. Thấy một bài khá hay, đề tên Lý Tú, nên đệ thuộc. Khi đọc thơ trên quạt, thấy giống thơ Lý Tú nên đệ mới cho bắt chủ quán để điều tra. Nhân đó mà phanh dần ra manh mối. Tìm ra hung thủ chẳng qua cũng chỉ là một sự tình cờ!" Trịnh công nghe chuyện, lấy làm bội phục.
Ngục tù dĩ cụ thục bình phiên
Cự nhãn hà kỳ ngộ Lịch Viên
Chuyển hạnh đương niên di phiến tại
Nhất thi cánh tuyết phúc bàn oan
Huyện Thanh Châu, tỉnh Sơn Đông, có người họ Phạm, tên Tiểu Sơn, làm nghề buôn bút viết. Tiểu Sơn có vợ họ Hạ, rất đẹp.
Cùng làng với Tiểu Sơn có phú nhân họ Ngô, tên Phi Khanh. Phi Khanh có vợ họ Trịnh, rất mộ đạo Phật. Trong nhà, Trịnh thị lập một bàn thờ Phật, hàng ngày niệm Phật, tụng kinh. Phi Khanh tuy đã có vợ song vẫn nổi tiếng là kẻ trăng hoa. Vì thế, Tiểu Sơn rất ghét Phi Khanh.
Năm ấy, vào một ngày thượng tuần tháng tư, tiết trời còn lạnh, Tiểu Sơn lên đường đi buôn xa, để vợ ở nhà một mình. Đêm ấy, trời mưa to gió lớn. Sáng sau, như thường lệ, hàng xóm gọi Hạ thị để hỏi thăm thì không thấy tiếng Hạ thị trả lời. Họ kinh ngạc lắm, bèn rủ nhau chạy sang coi thì thấy Hạ thị nằm chết ở trên giường, xác bị nhiều nhát dao đâm. Họ sợ quá, rủ nhau chạy lên huyện đường trình quan tể. Quan sai lính tới nhà liệm xác Hạ thị, đặt giữa phòng khách, rồi sai thuộc hạ truy tầm hung thủ.
Ba hôm sau, Tiểu Sơn đi buôn về. Hàng xóm tranh nhau chạy sang thuật chuyện. Tiểu Sơn đau đớn lắm. Làm tang lễ cho vợ xong, Tiểu Sơn ra sức phụ giúp thuộc hạ của quan truy tầm hung thủ giết vợ mình. Thế nhưng cả tháng mà vẫn chưa ai tìm ra manh mối.
Một hôm, Tiểu Sơn quét sân, bắt được một chiếc quạt ở góc sân. Mở ra coi, thấy trên quạt có đề một bài thơ với dòng chữ Vương Thịnh tặng Ngô Phi Khanh. Tiểu Sơn chẳng biết Vương Thịnh là ai song vì biết Phi Khanh quá rõ nên nghi ngay là Phi Khanh đã giết vợ mình. Tiểu Sơn cho người làng coi quạt thì ai cũng nghi như thế. Tiểu Sơn bèn viết đơn kiện, kèm theo quạt, nạp quan tể. Quan đọc đơn, cũng nghi Phi Khanh là hung thủ, liền sai lính đi bắt về huyện đường thẩm vấn. Phi Khanh chối cãi, khai chẳng giết người. Quan sai lính tra tấn, Phi Khanh vẫn một mực kêu oan. Quan cứ kết tội rồi khép án tử hình, giải lên tỉnh. Tỉnh quan phúc thẩm rồi y án.
Thời đó, theo phép vua, các tỉnh quan phải giam giữ tử tội ba năm, chờ triều đình cử các vị tuần án tới phúc thẩm để giải oan cho các vụ ngộ xử. Thông thường thì các quan tuần án lại y án cũ rồi cho phép hành hình. Nằm trong ngục, Phi Khanh thầm nghĩ: "Số mình giàu nhưng lại yểu. Bây giờ sắp chết rồi, giữ nhiều ruộng đất để làm chi?" Bèn viết thư cho vợ, dặn giữ lại vàng bạc, nữ trang mà sinh sống, còn bao nhiêu ruộng đất thì đem bán hết, lấy tiền mua quần áo lạnh mà bố thí cho kẻ cơ hàn. Đọc thư chồng, Trịnh thị khóc ròng vì thương cảm. Tuân theo ý chồng, Trịnh thị bán hết ruộng đất, mua quần áo lạnh, rồi thỉnh mọi người tới nhà tụng kinh niệm Phật, xin Trời Phật phù hộ cho chồng mình. Trịnh thị đặt lệ ai tới tụng niệm một ngày thì được lãnh một chiếc quần, hai ngày thì được lãnh một chiếc áo mỏng, ba ngày thì được lãnh một chiếc áo dầy. Ăn mày trong vùng nghe tin, rủ nhau kéo tới nhà đông như chợ. Tiếng tụng niệm vang rền khắp xóm suốt ngày đêm.
Ba năm sau. Sắp tới ngày phúc thẩm, Phi Khanh nghĩ mình cũng sẽ bị y án. Bèn lấy tiền hối lộ cai ngục, nhờ mua giùm thuốc độc để tự tử, hầu tránh bị xử trảm. Cai ngục hẹn hôm sau sẽ mua. Đêm ấy, Phi Khanh nằm mộng thấy thần nhân tới, bảo:"Đừng tự tử. Trước bị oan, nay được giải" Tỉnh giấc, Phi Khanh cho là mộng mị hão huyền. Nhắm mắt ngủ, Phi Khanh lại mộng thấy như thế. Phi Khanh bèn đâm ra hồ nghi, chẳng biết hư thực ra sao, nên bỏ ý định tự tử.
Tuần sau, triều đình cử tuần án họ Chu, tên Nguyên Lượng, tới Sơn Đông phúc thẩm các án tử hình. Trên đường đi, Chu công vào nghỉ trong quán trọ Nam Quách ở Thanh Châu.
Tới Sơn Đông, Chu công đem các án tử hình ra tái xét. Khi xét tới vụ án Ngô Phi Khanh, Chu công nhắm mắt suy nghĩ hồi lâu rồi bừng mắt, ký trát cho lính đi Thanh Châu đòi Tiểu Sơn lên tỉnh đường. Tiểu Sơn tới. Chu công hỏi:"Nhà ngươi kiện Ngô Phi Khanh giết vợ nhà ngươi, vậy lấy chi làm bằng chứng?" Tiểu Sơn đáp:"Bẩm đại quan, có cái quạt đề thơ" Chu công lấy quạt ra đọc kỹ lại bài thơ rồi hỏi:"Vương Thịnh là ai?" Tiểu Sơn đáp:"Bẩm đại quan, tiểu nhân chẳng được rõ" Đột nhiên, Chu công phán:"Phi Khanh chẳng phải là hung thủ!" Tiểu Sơn cãi: "Bẩm đại quan, chính gã là hung thủ!" Chu công đập bàn, quát:"Sao nhà ngươi lại dám quả quyết như thế? Muốn giết kẻ mình tình nghi đâu có dễ? Muốn giết kẻ mình thù ghét đâu có xong?" Tiểu Sơn không dám cãi nữa. Chu công liền đuổi Tiểu Sơn về rồi ký giấy phóng thích Phi Khanh. Phi Khanh mừng quá, vội lên lạy tạ Chu công rồi ra về. Ai cũng cho là Chu công thiên vị Phi Khanh song vì chức tuần án là chức quan lớn của triều đình nên chẳng ai dám bàn ra tán vào.
Đột nhiên, Chu công ký trát cho lính đi Thanh Châu bắt chủ quán Nam Quách. Chủ quán kinh hãi, hỏi thăm lính xem mình mắc tội chi. Lính đáp không biết rồi cứ giải về tỉnh đường, dẫn vào trình.
Chu công hỏi:"Trên tường trong quán có bài thơ của Lý Tú. Vậy Lý Tú là ai?"
Chủ quán đáp:"Bẩm đại quan, Lý Tú là một nho sinh"
Hỏi:"Sao y lại vào quán đề thơ?"
Đáp:"Bẩm đại quan, một đêm y dẫn hai nho sinh bạn tới tệ quán ngủ trọ. Cả ba cùng uống rượu say rồi cùng đề thơ lên tường"
Hỏi:"Đêm ấy là đêm nào?"
Đáp:"Bẩm đại quan, tiểu nhân không nhớ rõ ngày, song đã từ năm ngoái!"
Hỏi:"Quê y ở đâu?"
Đáp:"Bẩm đại quan, quê y ở huyện Nhật Chiếu"
Hỏi:"Sao biết?"
Đáp:"Bẩm đại quan, y nói thế"
Chu công bèn thả cho chủ quán ra về.
Chu công lại ký trát cho lính đi Nhật Chiếu bắt Lý Tú. Lính giải về trình.
Chu công mắng:"Là nho sinh, biết đạo lý thánh hiền, sao còn sát nhân?"
Lý Tú kinh hãi, rập đầu, thưa:"Bẩm đại quan, tiểu sinh chẳng hề sát nhân"
Chu công bèn ném chiếc quạt cho coi rồi hỏi:"Làm bài thơ này, sao lại đề tên Vương Thịnh?"
Đáp:"Bẩm đại quan, quả là tiểu sinh có làm bài thơ này, song chẳng hề viết lên quạt"
Nói:"Nếu chẳng viết thì kẻ viết cũng phải là bạn quen. Chỉ có bạn quen mới thuộc thơ của mình chứ người ngoài, ai biết đâu mà thuộc? Vậy tuồng chữ này là tuồng chữ của ai?"
Đáp:"Bẩm đại quan, thực tình tiểu sinh chẳng được rõ song tuồng chữ này trông giống như tuồng chữ của người bạn tiểu sinh, họ Vương, tên Tá"
Hỏi:"Y ở đâu?"
Đáp:"Bẩm đại quan, y ở huyện Nghi Châu"
Chu công bèn thả cho Lý Tú ra về.
Chu công lại ký trát cho lính đi Nghi Châu bắt Vương Tá. Lính giải về trình.
Chu công đưa quạt cho coi rồi hỏi:"Có nhận ra tuồng chữ của ai không?"
Vương Tá đáp:"Bẩm đại quan, đúng là chữ của tiểu sinh"
Hỏi:"Viết thơ lên quạt, sao lại đi đề tên người khác?"
Đáp:"Bẩm đại quan, tiểu sinh được người ta mướn viết, trả tiền công"
Hỏi:"Ai mướn?" Đáp:"Bẩm đại quan, Trương Thành"
Hỏi: "Trương Thành làm nghề gì?”
Đáp:"Bẩm đại quan, y làm nghề buôn sắt"
Hỏi:"Quê y ở đâu?"
Đáp:"Bẩm đại quan, quê y ở huyện Ích Đô"
Hỏi:"Còn tên Vương Thịnh là ai?"
Đáp: "Bẩm đại quan, y là anh họ của Trương Thành"
Chu công bèn thả cho Vương Tá ra về.
Chu công lại ký trát cho lính đi Ích Đô bắt Trương Thành. Lính giải về trình.
Chu công hỏi:"Tại sao lại giết người?"
Trương Thành chối:"Bẩm đại quan, tiểu nhân chẳng hề giết người!"
Chu công liền hạ lệnh cho lính tra tấn. Bị khảo đả đau quá, Trương Thành van lạy, nói:"Xin ngừng tay để cung khai!" Lính liền giải vào công đường.
Chu công hỏi:"Muốn cung khai việc gì?"
Trương Thành đáp:"Bẩm đại quan, việc giết Hạ thị"
Hỏi:"Sao lại giết?"
Đáp:"Bẩm đại quan, trong lúc cùng quẫn, tiểu nhân phải giết để thoát thân"
Hỏi:"Quen biết với y thị đã lâu chưa?"
Đáp:"Bẩm đại quan, tiểu nhân mới gặp y thị ở chợ. Thấy y thị đẹp nên tiểu nhân rắp tâm tới nhà dụ dỗ ái ân. Tiểu nhân đề phòng trường hợp y thị chẳng nghe mà còn làm ầm ĩ thì sẽ đổ tội lên đầu người khác".
Hỏi:"Đổ tội cho ai?"
Đáp:"Bẩm đại quan, cho Ngô Phi Khanh"
Hỏi:"Thù oán chi với y mà đổ cho y?"
Đáp:"Bẩm đại quan, tiểu nhân chẳng thù oán chi với y cả. Chỉ vì y nổi tiếng là kẻ trăng hoa nên đổ tội cho y thì thiên hạ dễ tin"
Hỏi:"Âm mưu đổ tội như thế nào?"
Đáp:"Bẩm đại quan, tiểu nhân mướn Vương Tá viết giùm bài thơ lên quạt, ghi là của người anh họ tên Vương Thịnh tặng Ngô Phi Khanh. Tiểu nhân giắt quạt trong mình để phòng khi việc chẳng xuôi thì sẽ ném quạt lại, đổ tội cho Phi Khanh"
Hỏi:"Chỉ định đổ tội thôi, sao lại giết người?"
Đáp:"Bẩm đại quan, thực tâm tiểu nhân chẳng muốn giết người. Nguyên là hôm ấy tiểu nhân biết chồng thị đi vắng nên mới tới nhà, trèo tường vào dụ dỗ. Vì thị chẳng nghe nên tiểu nhân mới xông tới, toan lột y phục để cưỡng chiếm. Chẳng dè thị rút dao tự vệ giắt sẵn trong người ra chém. Tiểu nhân kinh hãi, đoạt dao bỏ chạy. Thị nắm vạt áo kéo lại, kêu ầm lên để hàng xóm chạy sang bắt, nhưng vì đêm ấy trời mưa to gió lớn nên chẳng ai nghe tiếng. Trong lúc khẩn cấp, tiểu nhân phải giết thị để thoát thân. Tiểu nhân bế xác thị đặt lên giường rồi xách dao bỏ chạy. Ra tới sân, sực nhớ tới chiếc quạt nên tiểu nhân mới ném lại" Chu công bèn khép Trương Thành vào án tử hình, thay cho Phi Khanh.
Ba năm sau, Trương Thành bị hành quyết. Vụ án kết thúc. Cả vùng Sơn Đông ai cũng ca tụng tài xét xử thần minh của Chu công. Một hôm, có người bạn đồng liêu của Chu công là Trịnh công tới chơi. Nghe chuyện phúc thẩm vụ án Phi Khanh, Trịnh công hỏi:"Sao tôn huynh lại biết là Phi Khanh bị xử oan?" Chu công đáp:"Khi đọc hồ sơ, đệ thấy trong hồ sơ có ghi là Hạ thị bị giết chết vào một đêm mưa gió, thượng tuần tháng tư. Hồi đó tiết trời còn lạnh, đâu đã phải dùng đến quạt? Vả lại, đi làm điều phi pháp, ai dại gì lại đem theo vật có tên mình? Lỡ bỏ quên hay đánh rơi, có phải là mang họa vào thân không? Vì thế nên đệ biết là Phi Khanh bị xử oan" Trịnh công lại hỏi:"Sao tôn huynh lại biết Trương Thành là hung thủ?" Chu công đáp:"Trên đường tới Sơn Đông phúc thẩm, đệ vào nghỉ đêm trong quán trọ Nam Quách ở Thanh Châu. Trong phòng, thấy trên tường có đề nhiều thơ nên đệ đọc qua vài bài. Thấy một bài khá hay, đề tên Lý Tú, nên đệ thuộc. Khi đọc thơ trên quạt, thấy giống thơ Lý Tú nên đệ mới cho bắt chủ quán để điều tra. Nhân đó mà phanh dần ra manh mối. Tìm ra hung thủ chẳng qua cũng chỉ là một sự tình cờ!" Trịnh công nghe chuyện, lấy làm bội phục.
CUNG NỮ CUỐI TRIỀU MINH
(truyện LÂM TỨ NƯƠNG)
Phiêu linh thân thế cảm tang thương
Thê tuyệt đương niên Lâm Tứ Nương
Hảo cú tự hàm vong quốc hận
Man thành do tự độ Y Lương
Triều Thanh, huyện Tấn Giang, tỉnh Phúc Kiến, có nho sinh họ Trần, tên Bảo Thược, tên chữ Duyên Nhai.
Năm quý mão (1663), niên hiệu Khang Hy thứ 2, Duyên Nhai đi thi hội, đậu tiến sĩ. Ít lâu sau, được triều đình bổ nhậm làm quan kiểm sự huyện Thanh Châu, tỉnh Sơn Đông, Duyên Nhai lên đường phó nhậm, rước thân mẫu và đem gia quyến cùng đi. Tới nơi, nghe đồn dinh kiểm sự có ma, Duyên Nhai cũng chẳng quan tâm, cứ sai gia nhân dọn vào ở. Ban đêm, Duyên Nhai vẫn thường ra công đường ngồi đọc sách một mình cho yên tĩnh.
Mùa đông năm ấy, vào một đêm cuối tháng chạp, trời lạnh lắm, Duyên Nhai vừa ra công đường, đóng cửa đọc sách thì bỗng nghe có tiếng gõ cửa. Liền lên tiếng hỏi, song chẳng có tiếng trả lời. Lúc đó Duyên Nhai mới nghĩ rằng có lẽ lời đồn dinh thự có ma là đúng.
Đêm sau, quả nhiên có ma hiện hình dọa nạt gia nhân cùng binh sĩ. Duyên Nhai bèn sai mời thày pháp vào dinh làm phép yểm trừ ma nhưng vô hiệu. Từ đó, đêm nào ma cũng hiện hình, ném gạch đá, làm sập một góc dinh, đổ một góc tường. Duyên Nhai lo lắng lắm.
Tuần sau, có một người bạn học cũ của Duyên Nhai, họ Lưu, tên Vọng Linh, có việc đi qua Thanh Châu, ghé vào thăm bạn. Tối ấy, cơm nước xong, Duyên Nhai mời bạn ra công đường đàm đạo. Trong lúc hàn huyên, Duyên Nhai thuật lại cho bạn nghe chuyện ma quấy phá, chuyện mình mời thày pháp vào dinh làm phép yểm trừ ma và nỗi lo lắng của mình. Nghe xong, Vọng Linh cười, nói:"Túc hạ tự rước lấy cái lo vào thân rồi! Cái lý trong thiên hạ là có dương thì phải có âm, có tốt thì phải có xấu, chẳng thể nào diệt trừ hẳn một bên được! Nếu túc hạ chẳng mời thày pháp vào dinh làm phép yểm trừ ma thì ma đâu có quấy phá túc hạ đến độ phải lo lắng như thế?" Vọng Linh vừa nói xong thì đột nhiên cả hai người cùng nghe thấy tiếng nói của một nữ lang:"Xin cám ơn Lưu tiên sinh đã giảng giải cái lý trong thiên hạ cho quan kiểm sự nghe!" Sáng sau, Vọng Linh từ giã bạn mà lên đường.
Tối ấy, Duyên Nhai lại ra công đường ngồi đọc sách. Tới khuya, bỗng thấy một nữ lang trẻ đẹp, phục sức cung trang, vén màn cửa bước vào. Duyên Nhai chưa kịp lên tiếng thì nữ lang đã mỉm cười, lên tiếng trước:"Kính chào cao nhân! Đêm khuya thanh vắng, đọc sách một mình, tĩnh lắm phải không?" Biết là ma, Duyên Nhai bèn hỏi:"Nương tử tên chi?" Nữ lang đáp:"Thiếp họ Lâm, tên Tứ Nương" Hỏi:"Nhà ở đâu?" Đáp:"Cũng ở gần đây thôi!" Hỏi:"Gần như thế nào?" Đáp:"Cách đây bốn nhà!" Hỏi:"Ở một mình hay ở với ai?" Đáp:"Ở với tì nữ tên Đông Cô và tiểu đồng tên Bảo Đạo!" Tuy biết là ma song vì thấy trẻ đẹp nên Duyên Nhai vẫn cảm thấy thích thú. Bèn buông sách, đứng dậy kéo ghế mời ngồi. Hỏi:"Đêm khuya thanh vắng, thân gái một mình, tới đây làm chi?" Đáp:"Nếu có lòng thương, xin tin lời nói. Một đời kiên trinh, chẳng gặp nam nhân. Nay muốn kết bạn văn chương lâu dài nên mới liều tới. Tuy nhiên, xin hiểu cho rằng chẳng nên sàm sỡ!" Duyên Nhai gật đầu. Bèn cùng nhau ngồi bình luận văn chương. Lát sau, Tứ Nương mệt mỏi, dựa lưng vào thành ghế mà ngủ. Song chỉ ngủ rất ít, lát sau đã thức giấc. Gà vừa gáy sáng, đã đứng dậy, xin cáo biệt.
Từ đó, tối nào Tứ Nương cũng tới, đòi đóng cửa, lấy rượu ngồi đối ẩm, bình luận văn chương. Gặp câu nào vướng mắc cũng phê bình, gặp câu nào tuyệt hay thì lại đằng hắng sửa giọng, cất âm thanh cao nhã mà ngâm nga. Gần sáng, lại xin cáo biệt.
Một tối, Duyên Nhai hỏi:"Có bao giờ nương tử làm thơ chăng?" Đáp:"Cũng có. Hồi sinh tiền, thỉnh thoảng cũng có làm ít bài" Nói:"Vậy thì bây giờ xin vui lòng làm tặng cho một bài!" Cười, đáp:"Văn thơ nữ giới kém cỏi, sao đủ cho cao nhân thưởng thức?" Duyên Nhai cố ép song Tứ Nương nhất định chẳng chịu làm.
Tối khác, Duyên Nhai lại hỏi:"Nương tử có biết nhiều về âm nhạc chăng?" Đáp:"Cũng có biết chút ít" Duyên Nhai thử hỏi về âm luật thì thấy Tứ Nương rất am tường. Lại hỏi:"Thế nương tử có biết hát chăng?" Đáp:"Vì hồi nhỏ có tập nên cũng biết chút ít!" Nói:"Vậy thì xin hát cho nghe một khúc!" Đáp:"Đã lâu chẳng hát, tiết tấu quên gần hết, chỉ sợ người nghe cười cho thôi!" Duyên Nhai cứ nài giục. Tứ Nương bèn đằng hắng sửa giọng, cất âm thanh ai oán mà hát khúc Y Lương, rồi cúi đầu lau nước mắt. Thấy thế, Duyên Nhai cũng cảm thấy thương tâm, bèn an ủi:"Chẳng nên hát khúc ca mất nước ấy! Người nghe cũng còn cảm thấy mủi lòng, huống hồ là kẻ hát!" Đáp:"Âm thanh lúc nào cũng diễn tả hiện cảm của con người! Lòng đang buồn thì tiếng hát làm sao mà vui cho được, cũng như lòng đang vui thì tiếng hát làm sao mà buồn cho được?" Gần sáng, Tứ Nương lại xin cáo biệt.
Hai bên ý hợp tâm đầu, khắng khít như vợ chồng. Lâu dần, tì bộc biết chuyện, tối nào cũng kéo nhau tới núp ở ngoài công đường để nghe tiếng hát. Thấy âm thanh ai oán, ai cũng rơi lệ. Chuyện lạ tới tai phu nhân.
Một tối, phu nhân theo tì bộc tới núp ở ngoài công đường để nhòm trộm Tứ Nương. Sáng sau, phu nhân nói với chồng:"Tối qua, thiếp đã nhìn thấy dung nhan của Tứ Nương rồi! Người trần đâu có ai yểu điệu, đẹp đẽ đến thế? Nếu chẳng là ma thì cũng là hồ. Phu quân nên liệu mà dứt đi, kẻo bị hãm hại đó!" Duyên Nhai chỉ cười. Tối sau, khi Tứ Nương tới, Duyên Nhai nói:"Phu nhân ta nói nếu nương tử chẳng là ma thì cũng là hồ, e tới đây để hãm hại ta!" Tứ Nương buồn rầu, đáp:"Thú thực với cao nhân, cha con thiếp là người huyện Bồ Điền, tỉnh Phúc Kiến. Vào đời vua Sùng Trinh, cuối triều Minh, gia phụ được bổ làm quan thủ khố ở phủ Giang Ninh, còn thiếp thì bị sung vào làm cung nhân trong hành phủ của phiên vương. Vì trinh tiết bị tình nghi nên thiếp tự ải để minh oan, tính đến nay đã được mười bảy năm. Thấy cao nhân là người cùng quê ở Phúc Kiến, lại là người thanh nhã nên thiếp muốn tới để kết bạn văn chương chứ đâu có phải là tới để hãm hại? Bây giờ đã có lòng kinh nghi thì từ nay xin vĩnh biệt!" Duyên Nhai nói:"Chẳng phải là ta có lòng kinh nghi! Chỉ vì đã kết bạn văn chương khắng khít nên ta muốn dò hỏi cho biết cho rõ ngọn nguồn thế thôi!" Rồi nói lảng sang chuyện khác. Khi Duyên Nhai hỏi về chuyện cung đình cuối triều đại trước thì Tứ Nương trả lời rất rõ ràng rành mạch. Khi hỏi:"Sao vào đời vua Sùng Trinh, triều Minh lại suy vi đến thế?" thì Tứ Nương chỉ bưng mặt nghẹn ngào chứ chẳng trả lời.
Một tối, Duyên Nhai hỏi:"Dưới cửu tuyền có Phật chăng?" Đáp:"Có! Dưới cửu tuyền cũng có Phật như trên trần thế vậy! Kiếp trước, trên trần thế, thiếp bị luân lạc nên giờ đây, dưới cửu tuyền, ngày nào thiếp cũng tụng kinh Kim Cương để cầu xin đức Phật độ trì cho kiếp sau!"
Ba năm sau. Một tối, Tứ Nương tới công đường, vẻ mặt buồn thảm, thở dài, nói:"Đêm nay thiếp tới để vĩnh biệt!" Duyên Nhai kinh hãi, hỏi:"Sao lại phải vĩnh biệt?" Tứ Nương gượng cười, đáp:"Vì lúc sinh tiền thiếp là kẻ vô tội, lúc tử hậu thiếp lại chịu khó niệm Phật tụng kinh nên giờ đây thiếp được Diêm Vương cho đi đầu thai làm con gái một nhà họ Vương trên trần thế. Tối nay thiếp tới để vĩnh biệt cao nhân vì chẳng còn dịp nào chúng mình được gặp lại nhau nữa!" Nói xong, vẻ mặt càng buồn thảm hơn. Duyên Nhai nhìn thấy cũng phải rơi nước mắt. Bèn đứng dậy đi lấy rượu đem tới, mời ngồi đối ẩm. Cạn chén, Tứ Nương hứng khởi, tự nhiên cất tiếng hát, âm thanh ai oán. Hát tới đoạn nào bi thương thì lại nghẹn ngào. Mấy lần hát, mấy lần ngưng. Hát xong, lại uống. Gần sáng, toan đứng dậy vĩnh biệt thì bị Duyên Nhai níu áo nên lại ngồi xuống. Lát sau, khi gà gáy sáng, vội đứng dậy, nói:"Bây giờ thì phải đi rồi! Chẳng thể nào ngồi nán thêm được nữa!" Duyên Nhai đành đứng dậy tiễn biệt. Tứ Nương toan cất bước đi thì đột nhiên lại dừng mà nói: "Trước kia cao nhân cứ ép thiếp làm thơ tặng mà thiếp thì cứ một mực chối từ vì lúc đó thiếp chẳng muốn phô bày cái văn thơ nữ giới của mình ra. Song bây giờ là giây phút chia tay vĩnh viễn, thiếp lại muốn làm tặng cao nhân một bài thơ kỷ niệm. Vậy xin cho giấy bút!" Duyên Nhai vội làm theo lời. Tứ Nương lại ngồi xuống, cầm bút viết mười hai câu thơ lên trang giấy. Rồi đứng dậy, gấp tờ giấy làm tư, trao cho Duyên Nhai mà nói:"Vì tâm bi nên ý loạn, khiến bài thơ có âm tiết hỗn độn, chẳng thể nào hay được. Vậy chỉ viết để một mình cao nhân đọc mà thôi! Xin lưu tâm cho, chớ để người ngoài xem được!" Trao thơ xong, Tứ Nương lấy tay áo che mặt mà cất bước đi. Duyên Nhai mở cửa tiễn ra khỏi công đường. Đột nhiên Tứ Nương biến mất.
Duyên Nhai đứng thẫn thờ ở ngoài cửa hồi lâu. Khi trở vào công đường, Duyên Nhai mở tờ thơ ra đọc thì thấy tuồng chữ rất ngay ngắn, đúng là tuồng chữ của một nữ lang đoan chính.
Bài thơ ấy như sau:
Tĩnh toả thâm cung thập thất niên
Thùy tương cố quốc vấn thanh thiên
Nhàn khan điện vũ phong kiều mộc
Khấp vọng quân vương hóa đỗ quyên.
Hải quốc ba đào tà tịch chiếu
Hán gia tiêu cổ tĩnh phong yên
Hồng nhan lực nhược nan vi lệ
Huệ chất tâm bi chỉ vấn thiền.
Nhật tụng bồ đề thiên bách cú
Nhàn khan bối diệp lưỡng tam thiên
Cao xướng lê viên ca đại khốc
Thỉnh quân độc thính diệc tiềm nhiên<
Phỏng dịch:
Khóa kín thâm cung mười bảy năm
Ai về cố quốc hỏi trời xanh
Rảnh nhìn mái điện cây cao phủ
Khóc nhớ quân vương hóa đỗ quyên.
Hải quốc sóng cồn xiên nắng chiếu
Hán gia trống sáo tĩnh phong yên
Má hồng sức yếu làm chi được
Thân mảnh lòng đau chỉ hỏi thiền.
Ngày tụng bồ đề trăm vạn chữ
Rảnh coi lá bối một vài thiên
Ca bản phưòng chèo mà khóc mướn
Nhắc chàng giữ kín chuyện văn duyên
Duyên Nhai quý bài thơ ấy lắm. Đọc xong, gấp tờ giấy lại, cất vào tráp.
Tuy nhiên, bài thơ ấy có nhiều chỗ trùng điệp. Có thể là do người thuật chuyện đã đọc sai đi chăng?
Phiêu linh thân thế cảm tang thương
Thê tuyệt đương niên Lâm Tứ Nương
Hảo cú tự hàm vong quốc hận
Man thành do tự độ Y Lương
Triều Thanh, huyện Tấn Giang, tỉnh Phúc Kiến, có nho sinh họ Trần, tên Bảo Thược, tên chữ Duyên Nhai.
Năm quý mão (1663), niên hiệu Khang Hy thứ 2, Duyên Nhai đi thi hội, đậu tiến sĩ. Ít lâu sau, được triều đình bổ nhậm làm quan kiểm sự huyện Thanh Châu, tỉnh Sơn Đông, Duyên Nhai lên đường phó nhậm, rước thân mẫu và đem gia quyến cùng đi. Tới nơi, nghe đồn dinh kiểm sự có ma, Duyên Nhai cũng chẳng quan tâm, cứ sai gia nhân dọn vào ở. Ban đêm, Duyên Nhai vẫn thường ra công đường ngồi đọc sách một mình cho yên tĩnh.
Mùa đông năm ấy, vào một đêm cuối tháng chạp, trời lạnh lắm, Duyên Nhai vừa ra công đường, đóng cửa đọc sách thì bỗng nghe có tiếng gõ cửa. Liền lên tiếng hỏi, song chẳng có tiếng trả lời. Lúc đó Duyên Nhai mới nghĩ rằng có lẽ lời đồn dinh thự có ma là đúng.
Đêm sau, quả nhiên có ma hiện hình dọa nạt gia nhân cùng binh sĩ. Duyên Nhai bèn sai mời thày pháp vào dinh làm phép yểm trừ ma nhưng vô hiệu. Từ đó, đêm nào ma cũng hiện hình, ném gạch đá, làm sập một góc dinh, đổ một góc tường. Duyên Nhai lo lắng lắm.
Tuần sau, có một người bạn học cũ của Duyên Nhai, họ Lưu, tên Vọng Linh, có việc đi qua Thanh Châu, ghé vào thăm bạn. Tối ấy, cơm nước xong, Duyên Nhai mời bạn ra công đường đàm đạo. Trong lúc hàn huyên, Duyên Nhai thuật lại cho bạn nghe chuyện ma quấy phá, chuyện mình mời thày pháp vào dinh làm phép yểm trừ ma và nỗi lo lắng của mình. Nghe xong, Vọng Linh cười, nói:"Túc hạ tự rước lấy cái lo vào thân rồi! Cái lý trong thiên hạ là có dương thì phải có âm, có tốt thì phải có xấu, chẳng thể nào diệt trừ hẳn một bên được! Nếu túc hạ chẳng mời thày pháp vào dinh làm phép yểm trừ ma thì ma đâu có quấy phá túc hạ đến độ phải lo lắng như thế?" Vọng Linh vừa nói xong thì đột nhiên cả hai người cùng nghe thấy tiếng nói của một nữ lang:"Xin cám ơn Lưu tiên sinh đã giảng giải cái lý trong thiên hạ cho quan kiểm sự nghe!" Sáng sau, Vọng Linh từ giã bạn mà lên đường.
Tối ấy, Duyên Nhai lại ra công đường ngồi đọc sách. Tới khuya, bỗng thấy một nữ lang trẻ đẹp, phục sức cung trang, vén màn cửa bước vào. Duyên Nhai chưa kịp lên tiếng thì nữ lang đã mỉm cười, lên tiếng trước:"Kính chào cao nhân! Đêm khuya thanh vắng, đọc sách một mình, tĩnh lắm phải không?" Biết là ma, Duyên Nhai bèn hỏi:"Nương tử tên chi?" Nữ lang đáp:"Thiếp họ Lâm, tên Tứ Nương" Hỏi:"Nhà ở đâu?" Đáp:"Cũng ở gần đây thôi!" Hỏi:"Gần như thế nào?" Đáp:"Cách đây bốn nhà!" Hỏi:"Ở một mình hay ở với ai?" Đáp:"Ở với tì nữ tên Đông Cô và tiểu đồng tên Bảo Đạo!" Tuy biết là ma song vì thấy trẻ đẹp nên Duyên Nhai vẫn cảm thấy thích thú. Bèn buông sách, đứng dậy kéo ghế mời ngồi. Hỏi:"Đêm khuya thanh vắng, thân gái một mình, tới đây làm chi?" Đáp:"Nếu có lòng thương, xin tin lời nói. Một đời kiên trinh, chẳng gặp nam nhân. Nay muốn kết bạn văn chương lâu dài nên mới liều tới. Tuy nhiên, xin hiểu cho rằng chẳng nên sàm sỡ!" Duyên Nhai gật đầu. Bèn cùng nhau ngồi bình luận văn chương. Lát sau, Tứ Nương mệt mỏi, dựa lưng vào thành ghế mà ngủ. Song chỉ ngủ rất ít, lát sau đã thức giấc. Gà vừa gáy sáng, đã đứng dậy, xin cáo biệt.
Từ đó, tối nào Tứ Nương cũng tới, đòi đóng cửa, lấy rượu ngồi đối ẩm, bình luận văn chương. Gặp câu nào vướng mắc cũng phê bình, gặp câu nào tuyệt hay thì lại đằng hắng sửa giọng, cất âm thanh cao nhã mà ngâm nga. Gần sáng, lại xin cáo biệt.
Một tối, Duyên Nhai hỏi:"Có bao giờ nương tử làm thơ chăng?" Đáp:"Cũng có. Hồi sinh tiền, thỉnh thoảng cũng có làm ít bài" Nói:"Vậy thì bây giờ xin vui lòng làm tặng cho một bài!" Cười, đáp:"Văn thơ nữ giới kém cỏi, sao đủ cho cao nhân thưởng thức?" Duyên Nhai cố ép song Tứ Nương nhất định chẳng chịu làm.
Tối khác, Duyên Nhai lại hỏi:"Nương tử có biết nhiều về âm nhạc chăng?" Đáp:"Cũng có biết chút ít" Duyên Nhai thử hỏi về âm luật thì thấy Tứ Nương rất am tường. Lại hỏi:"Thế nương tử có biết hát chăng?" Đáp:"Vì hồi nhỏ có tập nên cũng biết chút ít!" Nói:"Vậy thì xin hát cho nghe một khúc!" Đáp:"Đã lâu chẳng hát, tiết tấu quên gần hết, chỉ sợ người nghe cười cho thôi!" Duyên Nhai cứ nài giục. Tứ Nương bèn đằng hắng sửa giọng, cất âm thanh ai oán mà hát khúc Y Lương, rồi cúi đầu lau nước mắt. Thấy thế, Duyên Nhai cũng cảm thấy thương tâm, bèn an ủi:"Chẳng nên hát khúc ca mất nước ấy! Người nghe cũng còn cảm thấy mủi lòng, huống hồ là kẻ hát!" Đáp:"Âm thanh lúc nào cũng diễn tả hiện cảm của con người! Lòng đang buồn thì tiếng hát làm sao mà vui cho được, cũng như lòng đang vui thì tiếng hát làm sao mà buồn cho được?" Gần sáng, Tứ Nương lại xin cáo biệt.
Hai bên ý hợp tâm đầu, khắng khít như vợ chồng. Lâu dần, tì bộc biết chuyện, tối nào cũng kéo nhau tới núp ở ngoài công đường để nghe tiếng hát. Thấy âm thanh ai oán, ai cũng rơi lệ. Chuyện lạ tới tai phu nhân.
Một tối, phu nhân theo tì bộc tới núp ở ngoài công đường để nhòm trộm Tứ Nương. Sáng sau, phu nhân nói với chồng:"Tối qua, thiếp đã nhìn thấy dung nhan của Tứ Nương rồi! Người trần đâu có ai yểu điệu, đẹp đẽ đến thế? Nếu chẳng là ma thì cũng là hồ. Phu quân nên liệu mà dứt đi, kẻo bị hãm hại đó!" Duyên Nhai chỉ cười. Tối sau, khi Tứ Nương tới, Duyên Nhai nói:"Phu nhân ta nói nếu nương tử chẳng là ma thì cũng là hồ, e tới đây để hãm hại ta!" Tứ Nương buồn rầu, đáp:"Thú thực với cao nhân, cha con thiếp là người huyện Bồ Điền, tỉnh Phúc Kiến. Vào đời vua Sùng Trinh, cuối triều Minh, gia phụ được bổ làm quan thủ khố ở phủ Giang Ninh, còn thiếp thì bị sung vào làm cung nhân trong hành phủ của phiên vương. Vì trinh tiết bị tình nghi nên thiếp tự ải để minh oan, tính đến nay đã được mười bảy năm. Thấy cao nhân là người cùng quê ở Phúc Kiến, lại là người thanh nhã nên thiếp muốn tới để kết bạn văn chương chứ đâu có phải là tới để hãm hại? Bây giờ đã có lòng kinh nghi thì từ nay xin vĩnh biệt!" Duyên Nhai nói:"Chẳng phải là ta có lòng kinh nghi! Chỉ vì đã kết bạn văn chương khắng khít nên ta muốn dò hỏi cho biết cho rõ ngọn nguồn thế thôi!" Rồi nói lảng sang chuyện khác. Khi Duyên Nhai hỏi về chuyện cung đình cuối triều đại trước thì Tứ Nương trả lời rất rõ ràng rành mạch. Khi hỏi:"Sao vào đời vua Sùng Trinh, triều Minh lại suy vi đến thế?" thì Tứ Nương chỉ bưng mặt nghẹn ngào chứ chẳng trả lời.
Một tối, Duyên Nhai hỏi:"Dưới cửu tuyền có Phật chăng?" Đáp:"Có! Dưới cửu tuyền cũng có Phật như trên trần thế vậy! Kiếp trước, trên trần thế, thiếp bị luân lạc nên giờ đây, dưới cửu tuyền, ngày nào thiếp cũng tụng kinh Kim Cương để cầu xin đức Phật độ trì cho kiếp sau!"
Ba năm sau. Một tối, Tứ Nương tới công đường, vẻ mặt buồn thảm, thở dài, nói:"Đêm nay thiếp tới để vĩnh biệt!" Duyên Nhai kinh hãi, hỏi:"Sao lại phải vĩnh biệt?" Tứ Nương gượng cười, đáp:"Vì lúc sinh tiền thiếp là kẻ vô tội, lúc tử hậu thiếp lại chịu khó niệm Phật tụng kinh nên giờ đây thiếp được Diêm Vương cho đi đầu thai làm con gái một nhà họ Vương trên trần thế. Tối nay thiếp tới để vĩnh biệt cao nhân vì chẳng còn dịp nào chúng mình được gặp lại nhau nữa!" Nói xong, vẻ mặt càng buồn thảm hơn. Duyên Nhai nhìn thấy cũng phải rơi nước mắt. Bèn đứng dậy đi lấy rượu đem tới, mời ngồi đối ẩm. Cạn chén, Tứ Nương hứng khởi, tự nhiên cất tiếng hát, âm thanh ai oán. Hát tới đoạn nào bi thương thì lại nghẹn ngào. Mấy lần hát, mấy lần ngưng. Hát xong, lại uống. Gần sáng, toan đứng dậy vĩnh biệt thì bị Duyên Nhai níu áo nên lại ngồi xuống. Lát sau, khi gà gáy sáng, vội đứng dậy, nói:"Bây giờ thì phải đi rồi! Chẳng thể nào ngồi nán thêm được nữa!" Duyên Nhai đành đứng dậy tiễn biệt. Tứ Nương toan cất bước đi thì đột nhiên lại dừng mà nói: "Trước kia cao nhân cứ ép thiếp làm thơ tặng mà thiếp thì cứ một mực chối từ vì lúc đó thiếp chẳng muốn phô bày cái văn thơ nữ giới của mình ra. Song bây giờ là giây phút chia tay vĩnh viễn, thiếp lại muốn làm tặng cao nhân một bài thơ kỷ niệm. Vậy xin cho giấy bút!" Duyên Nhai vội làm theo lời. Tứ Nương lại ngồi xuống, cầm bút viết mười hai câu thơ lên trang giấy. Rồi đứng dậy, gấp tờ giấy làm tư, trao cho Duyên Nhai mà nói:"Vì tâm bi nên ý loạn, khiến bài thơ có âm tiết hỗn độn, chẳng thể nào hay được. Vậy chỉ viết để một mình cao nhân đọc mà thôi! Xin lưu tâm cho, chớ để người ngoài xem được!" Trao thơ xong, Tứ Nương lấy tay áo che mặt mà cất bước đi. Duyên Nhai mở cửa tiễn ra khỏi công đường. Đột nhiên Tứ Nương biến mất.
Duyên Nhai đứng thẫn thờ ở ngoài cửa hồi lâu. Khi trở vào công đường, Duyên Nhai mở tờ thơ ra đọc thì thấy tuồng chữ rất ngay ngắn, đúng là tuồng chữ của một nữ lang đoan chính.
Bài thơ ấy như sau:
Tĩnh toả thâm cung thập thất niên
Thùy tương cố quốc vấn thanh thiên
Nhàn khan điện vũ phong kiều mộc
Khấp vọng quân vương hóa đỗ quyên.
Hải quốc ba đào tà tịch chiếu
Hán gia tiêu cổ tĩnh phong yên
Hồng nhan lực nhược nan vi lệ
Huệ chất tâm bi chỉ vấn thiền.
Nhật tụng bồ đề thiên bách cú
Nhàn khan bối diệp lưỡng tam thiên
Cao xướng lê viên ca đại khốc
Thỉnh quân độc thính diệc tiềm nhiên<
Phỏng dịch:
Khóa kín thâm cung mười bảy năm
Ai về cố quốc hỏi trời xanh
Rảnh nhìn mái điện cây cao phủ
Khóc nhớ quân vương hóa đỗ quyên.
Hải quốc sóng cồn xiên nắng chiếu
Hán gia trống sáo tĩnh phong yên
Má hồng sức yếu làm chi được
Thân mảnh lòng đau chỉ hỏi thiền.
Ngày tụng bồ đề trăm vạn chữ
Rảnh coi lá bối một vài thiên
Ca bản phưòng chèo mà khóc mướn
Nhắc chàng giữ kín chuyện văn duyên
Duyên Nhai quý bài thơ ấy lắm. Đọc xong, gấp tờ giấy lại, cất vào tráp.
Tuy nhiên, bài thơ ấy có nhiều chỗ trùng điệp. Có thể là do người thuật chuyện đã đọc sai đi chăng?
NGỰ SỬ BỊ LỪA TIỀN
(truyện CỤC TRÁ)
Tuẫn cẩu dăng doanh mộ dạ kim
Tiếu tha xảo hoạn hệ viên tâm
Ô đài khống tự thông quan tiết
Mặc sắc tà phong hà xứ tầm
Ở kinh đô có quan ngự sử họ Triệu, nuôi một gia nhân thân tín họ Chu, tên Tiệp. Một hôm rảnh việc, Chu Tiệp xin phép chủ cho ra chợ coi thuật nhân diễn trò. Triệu công bằng lòng cho đi.
Dọc đường, Chu Tiệp thấy từ xa có một khách lạ, áo quần mới tinh, đang đi ngược lại phía mình. Khi gặp Chu Tiệp, khách dừng chân, gật đầu chào. Chu Tiệp cũng dừng chân, gật đầu đáp lễ. Khách nói:"Mấy hôm nay trời đẹp, ngày nào đệ cũng ra chợ coi thuật nhân diễn trò. Có nhiều trò hay lắm, huynh đã được coi chưa?" Chu Tiệp đáp:"Chưa" Khách nói:"Thế thì để hôm nào đệ có thì giờ sẽ mời huynh đi coi! Hay lắm!" Chu Tiệp đáp:"Cám ơn" Khách bèn nói lảng sang chuyện khác, toàn là những chuyện trời mưa, trời nắng rồi tự giới thiệu:"Đệ họ Vương, tên Bảo, làm nội sử trong hoàng cung, hầu hạ công chúa. Còn quý danh là gì, làm việc ở đâu?" Chu Tiệp đáp:"Đệ họ Chu, tên Tiệp, làm gia nhân cho Triệu ngự sử" Vương Bảo cười, nói:"Thế ra chúng mình cùng có số đi làm nô bộc cả! Huynh có biết quan ngự sử nhà ta năm nay được bao nhiêu tuổi rồi không?" Chu Tiệp lắc đầu, đáp:"Đệ chẳng rõ song chắc cũng cỡ gần năm mươi" Vương Bảo chép miệng nói:"Nghĩ cho cùng, tuy chúng mình nghèo, phải đi làm nô bộc, song đi làm như thế mà lại thanh thản, chứ các quan ở kinh đô, quan nào cũng bị lao tâm khổ tứ! Đệ hầu hạ trong hoàng cung lâu ngày nên biết! Quan nào chẳng chịu dựa vào thế lực của một vị hoàng thân thì dễ bị mất chức như chơi, vì thiếu gì người đang dòm ngó chức vị của các quan! Huynh có thấy quan ngự sử nhà ta dựa vào thế lực của ai không?" Chu Tiệp lắc đầu, đáp:"Đệ chẳng rõ, song chắc là không!" Vương Bảo nói:"Nếu quả vậy thì nguy hiểm lắm. Huynh thử nghĩ coi, giả dụ quan ngự sử nhà ta bị kẻ nào ghen ghét dèm pha rồi bị triều đình bãi chức thì ai là người đứng ra che chở cho?" Chu Tiệp vội hỏi:"Theo ý huynh, nếu chưa có chỗ dựa thì bây giờ nên dựa vào ai?" Vương Bảo đáp:"Có thể dựa vào công chúa được" Chu Tiệp hỏi:"Muốn dựa vào công chúa thì phải nhờ ai tiến dẫn?" Vương Bảo đáp: "Chính đệ có thể tiến dẫn được vì công chúa tin đệ lắm! Huynh có biết không? Quan thị lang Tôn Tất Giang ở chốn kinh đô này cũng nhờ đệ tiến dẫn đấy! Chỉ cần quan ngự sử nhà ta chịu bỏ ra ngàn vàng biếu công chúa thì đệ bảo đảm là có thể tiến dẫn được!" Chu Tiệp mừng thầm là mình đã gặp may, có dịp giúp được chủ một việc quan trọng. Bèn hỏi:"Nhà huynh ở đâu?" Vương Bảo cười, đáp:"Huynh hỏi ngớ ngẩn quá! Làm nội sử trong hoàng cung thì phải ở trong hoàng cung chứ còn ở đâu? Tuy nhiên, thỉnh thoảng đệ cũng được công chúa cho phép về ngủ ở nhà riêng một đêm. Muốn tìm đệ, sáng sớm cứ thử tới nhà riêng của đệ ở ngoài phố xem sao, may ra hôm đó đệ được về nhà cũng chưa biết chừng!" Rồi lấy chiếc que bên đường vạch bản đồ xuống đất mà chỉ nhà. Chu Tiệp gật gù, nói: "Đệ biết căn nhà này vì nó ở gần nhà quan ngự sử" Vương Bảo cười, nói: "Té ra chúng mình là hàng xóm với nhau đã từ lâu mà bây giờ mới biết!" Rồi chào từ biệt.
Về nhà, Chu Tiệp thuật lại với chủ việc mình gặp khách lạ. Nghe xong, Triệu công mừng lắm.
Sáng sau, Triệu công sai Chu Tiệp tới nhà Vương Bảo mời y tới nhà mình dự tiệc ngay tối ấy. Chu Tiệp tới nơi, gặp Vương Bảo đang ở nhà, bèn chuyển lời mời của chủ. Vương Bảo nhận lời.
Tối ấy, đúng giờ, Vương Bảo tới. Sau khi chào hỏi, Triệu công mời nhập tiệc. Trong tiệc, Triệu công hỏi dò về tính tình công chúa. Vương Bảo trả lời rất trôi chảy. Triệu công lại hỏi dò về mấy việc vừa xảy ra trong phủ đệ công chúa. Vương Bảo cũng trả lời rất trơn tru. Thấy vững bụng, Triệu công mới hỏi:"Nếu việc tiến dẫn mà thành thì phải thưởng công như thế nào?" Vương Bảo đáp:"Tiểu nhân chỉ muốn tiến dẫn ngài với công chúa thôi chứ chẳng mong được thưởng! Nếu chẳng có duyên được làm bạn với Chu huynh trong quý phủ thì dù có được thưởng trăm đồng vàng tiểu nhân cũng chẳng dám nhận lời tiến dẫn!" Thấy khách chẳng chịu nhận thưởng, Triệu công lại càng tin tưởng, nể trọng hơn. Lát sau, Vương Bảo đứng dậy, nói:"Tiểu nhân xin cám ơn ngài đã cho phép được ngồi hầu tiệc tối nay. Xin ngài cứ chuẩn bị sẵn sàng đầy đủ cho. Khi nào có dịp trình lên công chúa, tiểu nhân sẽ xin kính báo ngay để ngài rõ. Tiểu nhân sẽ cố gắng thu xếp công việc cho chóng xong để đền đáp lại tấm thịnh tình của ngài. Bây giờ khuya rồi, tiểu nhân xin phép được cáo biệt" Triệu công bèn tiễn khách ra tận cổng.
Khi trở vào nhà, Triệu công lấy ngay ngàn vàng dành dụm, cho vào túi gấm lớn, cất kỹ trong phòng ngủ.
Hai hôm sau, chẳng được tin tức gì.
Đột nhiên, trưa hôm thứ ba, Triệu công nghe có tiếng gõ cổng, vội sai Chu Tiệp chạy ra coi. Thấy Vương Bảo cưỡi tuấn mã rất đẹp, đứng ở bên ngoài, Chu Tiệp vội mở cổng mời vào. Vào phòng khách, nhìn thấy Triệu công, Vương Bảo chắp tay vái chào rồi nói:"Xin ngài sửa soạn ngay cho để cùng tiểu nhân tới phủ đệ công chúa. Công chúa đã chấp thuận việc tiếp kiến, truyền cho tiểu nhân phải sắp xếp giờ giấc. Từ sáng tới giờ, công chúa bận nhiều công việc quá, phải tiếp hết đám này tới đám khác, chưa có lúc nào được nghỉ ngơi. Tiểu nhân thấy chiều nay công chúa có một lúc rảnh rỗi nên vội chạy tới đây mời ngài, kẻo chẳng biết bao giờ mới lại gặp được một dịp thuận tiện như thế!" Triệu công hỏi:"Phủ đệ công chúa ở trong khuôn viên hoàng cung. Bản chức không có giấy phép xuất nhập, làm sao mà vào?" Vương Bảo cười, nói:"Công chúa làm việc kín đáo lắm, đâu có lộ liễu đến độ tiếp kiến các quan đại thần trong khuôn viên hoàng cung! Công chúa có một phủ đệ riêng ở ngoài phố, chỉ dùng để tiếp kiến các quan đại thần thôi!" Triệu công nói:"Thế sao chẳng nói sớm cho biết, để bản chức cứ thắc mắc mãi! Xin chờ một chút để bản chức sửa soạn!" Nói xong, Triệu công quay qua bảo Chu Tiệp:"Xuống dắt con tuấn mã lên đây!" Chu Tiệp vâng dạ. Vương Bảo hối thúc Triệu công:"Xin ngài sửa soạn mau lên cho!" Triệu công bèn vào phòng ngủ, thay quần áo, lấy túi vàng đem ra sân. Đúng lúc ấy, Chu Tiệp dắt ngựa tới. Triệu công bèn lên ngựa, theo Vương Bảo ra khỏi nhà.
Vương Bảo dẫn Triệu công đi lòng vòng đến hơn mười dặm rồi mới dẫn tới cổng một phủ đệ. Qua cổng, vào sân, Triệu công thấy hai cánh cửa chánh điện đóng im lìm. Thấy Vương Bảo xuống ngựa, buộc ở góc sân, Triệu công cũng bắt chước. Vương Bảo nói:"Xin ngài vui lòng đứng chờ ở ngoài này một lát để tiểu nhân vào trình công chúa trước!" Rồi Vương Bảo bước vào điện, để Triệu công đứng chờ ở ngoài sân một mình.
Lát sau, Vương Bảo chạy ra, tới gần Triệu công, ghé tai thì thầm:"Xin ngài vui lòng trao túi vàng cho tiểu nhân đem vào đệ lên công chúa trước!" Triệu công bèn trao.
Lát sau, hai cánh cửa điện đột nhiên mở rộng. Rồi một toán chừng hai chục thị nữ từ trong điện bước ra, đứng dàn thành hai hàng dọc, từ cửa điện tới ngoài sân, sát chỗ Triệu công đứng. Chợt có tiếng Vương Bảo hô vọng ra:"Công chúa cho vời Triệu ngự sử vào diện kiến" Lập tức, hai hàng thị nữ lần lượt lập lại câu hô ấy, từ trong ra ngoài. Triệu công bèn khom lưng, khúm núm cất bước giữa hai hàng thị nữ.
Vào điện, ngửng đầu nhìn lên, Triệu công thấy một nữ nhân, dung nhan diễm lệ, trang sức lộng lẫy, tác phong quý phái, đang ngồi trên bục cao. Vì chưa được biết mặt công chúa, Triệu công thầm nghĩ nữ nhân này là công chúa! Thấy hai bên tả hữu có tám thị nữ mặc áo gấm thêu, đứng dàn thành hai hàng ngang, tuốt kiếm đứng hầu, còn Vương Bảo thì đứng chắp tay ở góc điện, Triệu công bèn phủ phục xuống chiếc thảm hoa trước bục mà lạy hai lạy, hết sức cung kính. Nữ nhân lên tiếng: "Quan ngự sử hãy bình thân!" Triệu công bèn đứng dậy. Nữ nhân lại nói:"Quan ngự sử hãy an tọa!" Triệu công bèn tới ngồi trên chiếc ghế mà thị nữ đã đặt sẵn. Nữ nhân truyền lệnh:"Thị nữ đâu! Hãy dâng trà mời quan ngự sử!" Lập tức có một thị nữ từ phòng trong bước ra, hai tay bưng một chiếc khay trên có một chén vàng đựng trà nóng, khói bay nghi ngút, mùi thơm ngào ngạt, đem tới đặt lên chiếc đôn ở cạnh Triệu công. Nữ nhân mời: "Quan ngự sử hãy dùng trà!" Triệu công bèn nâng chén trà lên môi. Lúc đó, nữ nhân mới nói:"Quan ngự sử cứ yên tâm mà làm việc ở chốn kinh đô. Có điều chi trở ngại cứ nói cho ta biết!" Triệu công chỉ líu ríu vâng dạ.
Lát sau, Triệu công đứng dậy, xin cáo biệt. Nữ nhân nói:"Quan ngự sử hãy khoan! Để ta biếu chút quà!" Rồi truyền lệnh:"Thị nữ đâu! Hãy đem quà ra biếu quan ngự sử!" Lập tức có hai thị nữ từ phòng trong bước ra, hai tay bưng hai chiếc hộp rất đẹp đem tới đặt cạnh khay trà. Trong một hộp có một mũ điêu mới, trong hộp kia có một đôi hài đoạn mới. Triệu công bèn chắp tay vái tạ nữ nhân. Nữ nhân nói:"Quan ngự sử cứ yên tâm mà làm việc, có điều chi trở ngại cứ để mặc ta lo liệu!" Lúc đó, Vương Bảo mới từ góc điện bước tới chỗ Triệu công đứng, ôm hai hộp quà đem ra sân. Triệu công bèn chắp tay vái chào nữ nhân rồi quay người bước theo Vương Bảo.
Tới góc sân, Vương Bảo tháo ngựa, bỏ quà vào hai túi bên mình ngựa, trao dây cương cho Triệu công, tiễn ra khỏi cổng rồi mới quay vào. Trên đường về, Triệu công mừng lắm, cứ thầm cám ơn Vương Bảo.
Sáng sau, Triệu công bảo Chu Tiệp dắt mình tới nhà Vương Bảo để cám ơn. Tới nơi, thấy cửa đóng then cài, hai thày trò đành ra về. Ba sáng liền như vậy, hai thày trò bàn tán với nhau chắc Vương Bảo bận việc trong hoàng cung nên không xin được phép về nhà. Vì thế, hai thày trò cũng chẳng quan tâm.
Hơn một tuần sau, thấy Vương Bảo vẫn vắng bóng Triệu công mới bắt đầu chột dạ. Triệu công bèn gọi Chu Tiệp lên mà tỏ nỗi lo âu, rồi chỉ đường cho, bảo tới phủ đệ nữ nhân ở ngoài phố để dò hỏi. Chu Tiệp liền tuân lệnh chủ. Tới nơi, thấy phủ đệ vắng tanh, Chu Tiệp đánh bạo vào nhà ông lão hàng xóm, hỏi thăm: "Mấy hôm nay, cụ có thấy công chúa trong hoàng cung ra đây chơi không?" Ông lão ngạc nhiên, hỏi lại: "Công chúa nào?" Đáp: "Công chúa trong hoàng cung, ái nữ của đương kim hoàng đế chứ còn công chúa nào!" Ông lão ngơ ngác, nói: "Lão ở đây đã gần cả đời người, có thấy công chúa nào trong hoàng cung ra ngoài này chơi bao giờ đâu! Phủ đệ này là của gia đình họ Cự. Vì chẳng có người thuê, họ Cự bỏ trống đã từ lâu. Tháng trước, lão thấy có một bọn người kéo nhau tới đây thuê để ở. Họ Cự bằng lòng cho thuê. Bọn người dọn tới ở, song chỉ ở có ít bữa thì lại dọn đi ngay. Cũng đã được hơn một tuần rồi!"
Nghe nói, Chu Tiệp kinh hãi quá, vội cáo biệt ông lão rồi chạy về trình lại với chủ. Nghe trình, Triệu công đứng lặng người hồi lâu. Thế rồi cả hai thày trò chỉ còn biết nhìn nhau mà thở dài, tiếc của.
Tuẫn cẩu dăng doanh mộ dạ kim
Tiếu tha xảo hoạn hệ viên tâm
Ô đài khống tự thông quan tiết
Mặc sắc tà phong hà xứ tầm
Ở kinh đô có quan ngự sử họ Triệu, nuôi một gia nhân thân tín họ Chu, tên Tiệp. Một hôm rảnh việc, Chu Tiệp xin phép chủ cho ra chợ coi thuật nhân diễn trò. Triệu công bằng lòng cho đi.
Dọc đường, Chu Tiệp thấy từ xa có một khách lạ, áo quần mới tinh, đang đi ngược lại phía mình. Khi gặp Chu Tiệp, khách dừng chân, gật đầu chào. Chu Tiệp cũng dừng chân, gật đầu đáp lễ. Khách nói:"Mấy hôm nay trời đẹp, ngày nào đệ cũng ra chợ coi thuật nhân diễn trò. Có nhiều trò hay lắm, huynh đã được coi chưa?" Chu Tiệp đáp:"Chưa" Khách nói:"Thế thì để hôm nào đệ có thì giờ sẽ mời huynh đi coi! Hay lắm!" Chu Tiệp đáp:"Cám ơn" Khách bèn nói lảng sang chuyện khác, toàn là những chuyện trời mưa, trời nắng rồi tự giới thiệu:"Đệ họ Vương, tên Bảo, làm nội sử trong hoàng cung, hầu hạ công chúa. Còn quý danh là gì, làm việc ở đâu?" Chu Tiệp đáp:"Đệ họ Chu, tên Tiệp, làm gia nhân cho Triệu ngự sử" Vương Bảo cười, nói:"Thế ra chúng mình cùng có số đi làm nô bộc cả! Huynh có biết quan ngự sử nhà ta năm nay được bao nhiêu tuổi rồi không?" Chu Tiệp lắc đầu, đáp:"Đệ chẳng rõ song chắc cũng cỡ gần năm mươi" Vương Bảo chép miệng nói:"Nghĩ cho cùng, tuy chúng mình nghèo, phải đi làm nô bộc, song đi làm như thế mà lại thanh thản, chứ các quan ở kinh đô, quan nào cũng bị lao tâm khổ tứ! Đệ hầu hạ trong hoàng cung lâu ngày nên biết! Quan nào chẳng chịu dựa vào thế lực của một vị hoàng thân thì dễ bị mất chức như chơi, vì thiếu gì người đang dòm ngó chức vị của các quan! Huynh có thấy quan ngự sử nhà ta dựa vào thế lực của ai không?" Chu Tiệp lắc đầu, đáp:"Đệ chẳng rõ, song chắc là không!" Vương Bảo nói:"Nếu quả vậy thì nguy hiểm lắm. Huynh thử nghĩ coi, giả dụ quan ngự sử nhà ta bị kẻ nào ghen ghét dèm pha rồi bị triều đình bãi chức thì ai là người đứng ra che chở cho?" Chu Tiệp vội hỏi:"Theo ý huynh, nếu chưa có chỗ dựa thì bây giờ nên dựa vào ai?" Vương Bảo đáp:"Có thể dựa vào công chúa được" Chu Tiệp hỏi:"Muốn dựa vào công chúa thì phải nhờ ai tiến dẫn?" Vương Bảo đáp: "Chính đệ có thể tiến dẫn được vì công chúa tin đệ lắm! Huynh có biết không? Quan thị lang Tôn Tất Giang ở chốn kinh đô này cũng nhờ đệ tiến dẫn đấy! Chỉ cần quan ngự sử nhà ta chịu bỏ ra ngàn vàng biếu công chúa thì đệ bảo đảm là có thể tiến dẫn được!" Chu Tiệp mừng thầm là mình đã gặp may, có dịp giúp được chủ một việc quan trọng. Bèn hỏi:"Nhà huynh ở đâu?" Vương Bảo cười, đáp:"Huynh hỏi ngớ ngẩn quá! Làm nội sử trong hoàng cung thì phải ở trong hoàng cung chứ còn ở đâu? Tuy nhiên, thỉnh thoảng đệ cũng được công chúa cho phép về ngủ ở nhà riêng một đêm. Muốn tìm đệ, sáng sớm cứ thử tới nhà riêng của đệ ở ngoài phố xem sao, may ra hôm đó đệ được về nhà cũng chưa biết chừng!" Rồi lấy chiếc que bên đường vạch bản đồ xuống đất mà chỉ nhà. Chu Tiệp gật gù, nói: "Đệ biết căn nhà này vì nó ở gần nhà quan ngự sử" Vương Bảo cười, nói: "Té ra chúng mình là hàng xóm với nhau đã từ lâu mà bây giờ mới biết!" Rồi chào từ biệt.
Về nhà, Chu Tiệp thuật lại với chủ việc mình gặp khách lạ. Nghe xong, Triệu công mừng lắm.
Sáng sau, Triệu công sai Chu Tiệp tới nhà Vương Bảo mời y tới nhà mình dự tiệc ngay tối ấy. Chu Tiệp tới nơi, gặp Vương Bảo đang ở nhà, bèn chuyển lời mời của chủ. Vương Bảo nhận lời.
Tối ấy, đúng giờ, Vương Bảo tới. Sau khi chào hỏi, Triệu công mời nhập tiệc. Trong tiệc, Triệu công hỏi dò về tính tình công chúa. Vương Bảo trả lời rất trôi chảy. Triệu công lại hỏi dò về mấy việc vừa xảy ra trong phủ đệ công chúa. Vương Bảo cũng trả lời rất trơn tru. Thấy vững bụng, Triệu công mới hỏi:"Nếu việc tiến dẫn mà thành thì phải thưởng công như thế nào?" Vương Bảo đáp:"Tiểu nhân chỉ muốn tiến dẫn ngài với công chúa thôi chứ chẳng mong được thưởng! Nếu chẳng có duyên được làm bạn với Chu huynh trong quý phủ thì dù có được thưởng trăm đồng vàng tiểu nhân cũng chẳng dám nhận lời tiến dẫn!" Thấy khách chẳng chịu nhận thưởng, Triệu công lại càng tin tưởng, nể trọng hơn. Lát sau, Vương Bảo đứng dậy, nói:"Tiểu nhân xin cám ơn ngài đã cho phép được ngồi hầu tiệc tối nay. Xin ngài cứ chuẩn bị sẵn sàng đầy đủ cho. Khi nào có dịp trình lên công chúa, tiểu nhân sẽ xin kính báo ngay để ngài rõ. Tiểu nhân sẽ cố gắng thu xếp công việc cho chóng xong để đền đáp lại tấm thịnh tình của ngài. Bây giờ khuya rồi, tiểu nhân xin phép được cáo biệt" Triệu công bèn tiễn khách ra tận cổng.
Khi trở vào nhà, Triệu công lấy ngay ngàn vàng dành dụm, cho vào túi gấm lớn, cất kỹ trong phòng ngủ.
Hai hôm sau, chẳng được tin tức gì.
Đột nhiên, trưa hôm thứ ba, Triệu công nghe có tiếng gõ cổng, vội sai Chu Tiệp chạy ra coi. Thấy Vương Bảo cưỡi tuấn mã rất đẹp, đứng ở bên ngoài, Chu Tiệp vội mở cổng mời vào. Vào phòng khách, nhìn thấy Triệu công, Vương Bảo chắp tay vái chào rồi nói:"Xin ngài sửa soạn ngay cho để cùng tiểu nhân tới phủ đệ công chúa. Công chúa đã chấp thuận việc tiếp kiến, truyền cho tiểu nhân phải sắp xếp giờ giấc. Từ sáng tới giờ, công chúa bận nhiều công việc quá, phải tiếp hết đám này tới đám khác, chưa có lúc nào được nghỉ ngơi. Tiểu nhân thấy chiều nay công chúa có một lúc rảnh rỗi nên vội chạy tới đây mời ngài, kẻo chẳng biết bao giờ mới lại gặp được một dịp thuận tiện như thế!" Triệu công hỏi:"Phủ đệ công chúa ở trong khuôn viên hoàng cung. Bản chức không có giấy phép xuất nhập, làm sao mà vào?" Vương Bảo cười, nói:"Công chúa làm việc kín đáo lắm, đâu có lộ liễu đến độ tiếp kiến các quan đại thần trong khuôn viên hoàng cung! Công chúa có một phủ đệ riêng ở ngoài phố, chỉ dùng để tiếp kiến các quan đại thần thôi!" Triệu công nói:"Thế sao chẳng nói sớm cho biết, để bản chức cứ thắc mắc mãi! Xin chờ một chút để bản chức sửa soạn!" Nói xong, Triệu công quay qua bảo Chu Tiệp:"Xuống dắt con tuấn mã lên đây!" Chu Tiệp vâng dạ. Vương Bảo hối thúc Triệu công:"Xin ngài sửa soạn mau lên cho!" Triệu công bèn vào phòng ngủ, thay quần áo, lấy túi vàng đem ra sân. Đúng lúc ấy, Chu Tiệp dắt ngựa tới. Triệu công bèn lên ngựa, theo Vương Bảo ra khỏi nhà.
Vương Bảo dẫn Triệu công đi lòng vòng đến hơn mười dặm rồi mới dẫn tới cổng một phủ đệ. Qua cổng, vào sân, Triệu công thấy hai cánh cửa chánh điện đóng im lìm. Thấy Vương Bảo xuống ngựa, buộc ở góc sân, Triệu công cũng bắt chước. Vương Bảo nói:"Xin ngài vui lòng đứng chờ ở ngoài này một lát để tiểu nhân vào trình công chúa trước!" Rồi Vương Bảo bước vào điện, để Triệu công đứng chờ ở ngoài sân một mình.
Lát sau, Vương Bảo chạy ra, tới gần Triệu công, ghé tai thì thầm:"Xin ngài vui lòng trao túi vàng cho tiểu nhân đem vào đệ lên công chúa trước!" Triệu công bèn trao.
Lát sau, hai cánh cửa điện đột nhiên mở rộng. Rồi một toán chừng hai chục thị nữ từ trong điện bước ra, đứng dàn thành hai hàng dọc, từ cửa điện tới ngoài sân, sát chỗ Triệu công đứng. Chợt có tiếng Vương Bảo hô vọng ra:"Công chúa cho vời Triệu ngự sử vào diện kiến" Lập tức, hai hàng thị nữ lần lượt lập lại câu hô ấy, từ trong ra ngoài. Triệu công bèn khom lưng, khúm núm cất bước giữa hai hàng thị nữ.
Vào điện, ngửng đầu nhìn lên, Triệu công thấy một nữ nhân, dung nhan diễm lệ, trang sức lộng lẫy, tác phong quý phái, đang ngồi trên bục cao. Vì chưa được biết mặt công chúa, Triệu công thầm nghĩ nữ nhân này là công chúa! Thấy hai bên tả hữu có tám thị nữ mặc áo gấm thêu, đứng dàn thành hai hàng ngang, tuốt kiếm đứng hầu, còn Vương Bảo thì đứng chắp tay ở góc điện, Triệu công bèn phủ phục xuống chiếc thảm hoa trước bục mà lạy hai lạy, hết sức cung kính. Nữ nhân lên tiếng: "Quan ngự sử hãy bình thân!" Triệu công bèn đứng dậy. Nữ nhân lại nói:"Quan ngự sử hãy an tọa!" Triệu công bèn tới ngồi trên chiếc ghế mà thị nữ đã đặt sẵn. Nữ nhân truyền lệnh:"Thị nữ đâu! Hãy dâng trà mời quan ngự sử!" Lập tức có một thị nữ từ phòng trong bước ra, hai tay bưng một chiếc khay trên có một chén vàng đựng trà nóng, khói bay nghi ngút, mùi thơm ngào ngạt, đem tới đặt lên chiếc đôn ở cạnh Triệu công. Nữ nhân mời: "Quan ngự sử hãy dùng trà!" Triệu công bèn nâng chén trà lên môi. Lúc đó, nữ nhân mới nói:"Quan ngự sử cứ yên tâm mà làm việc ở chốn kinh đô. Có điều chi trở ngại cứ nói cho ta biết!" Triệu công chỉ líu ríu vâng dạ.
Lát sau, Triệu công đứng dậy, xin cáo biệt. Nữ nhân nói:"Quan ngự sử hãy khoan! Để ta biếu chút quà!" Rồi truyền lệnh:"Thị nữ đâu! Hãy đem quà ra biếu quan ngự sử!" Lập tức có hai thị nữ từ phòng trong bước ra, hai tay bưng hai chiếc hộp rất đẹp đem tới đặt cạnh khay trà. Trong một hộp có một mũ điêu mới, trong hộp kia có một đôi hài đoạn mới. Triệu công bèn chắp tay vái tạ nữ nhân. Nữ nhân nói:"Quan ngự sử cứ yên tâm mà làm việc, có điều chi trở ngại cứ để mặc ta lo liệu!" Lúc đó, Vương Bảo mới từ góc điện bước tới chỗ Triệu công đứng, ôm hai hộp quà đem ra sân. Triệu công bèn chắp tay vái chào nữ nhân rồi quay người bước theo Vương Bảo.
Tới góc sân, Vương Bảo tháo ngựa, bỏ quà vào hai túi bên mình ngựa, trao dây cương cho Triệu công, tiễn ra khỏi cổng rồi mới quay vào. Trên đường về, Triệu công mừng lắm, cứ thầm cám ơn Vương Bảo.
Sáng sau, Triệu công bảo Chu Tiệp dắt mình tới nhà Vương Bảo để cám ơn. Tới nơi, thấy cửa đóng then cài, hai thày trò đành ra về. Ba sáng liền như vậy, hai thày trò bàn tán với nhau chắc Vương Bảo bận việc trong hoàng cung nên không xin được phép về nhà. Vì thế, hai thày trò cũng chẳng quan tâm.
Hơn một tuần sau, thấy Vương Bảo vẫn vắng bóng Triệu công mới bắt đầu chột dạ. Triệu công bèn gọi Chu Tiệp lên mà tỏ nỗi lo âu, rồi chỉ đường cho, bảo tới phủ đệ nữ nhân ở ngoài phố để dò hỏi. Chu Tiệp liền tuân lệnh chủ. Tới nơi, thấy phủ đệ vắng tanh, Chu Tiệp đánh bạo vào nhà ông lão hàng xóm, hỏi thăm: "Mấy hôm nay, cụ có thấy công chúa trong hoàng cung ra đây chơi không?" Ông lão ngạc nhiên, hỏi lại: "Công chúa nào?" Đáp: "Công chúa trong hoàng cung, ái nữ của đương kim hoàng đế chứ còn công chúa nào!" Ông lão ngơ ngác, nói: "Lão ở đây đã gần cả đời người, có thấy công chúa nào trong hoàng cung ra ngoài này chơi bao giờ đâu! Phủ đệ này là của gia đình họ Cự. Vì chẳng có người thuê, họ Cự bỏ trống đã từ lâu. Tháng trước, lão thấy có một bọn người kéo nhau tới đây thuê để ở. Họ Cự bằng lòng cho thuê. Bọn người dọn tới ở, song chỉ ở có ít bữa thì lại dọn đi ngay. Cũng đã được hơn một tuần rồi!"
Nghe nói, Chu Tiệp kinh hãi quá, vội cáo biệt ông lão rồi chạy về trình lại với chủ. Nghe trình, Triệu công đứng lặng người hồi lâu. Thế rồi cả hai thày trò chỉ còn biết nhìn nhau mà thở dài, tiếc của.
PHÓ TƯỚNG QUÂN BỊ LỪA TIỀN
(truyện CỤC TRÁ NHỊ)
Di duyên hoạn thụ ác binh phù
Lãng trịch hoàng kim tiếu vũ phu
Cam trụy thuật trung thiên bất ngộ
Thụ quan tằng kiến vãn triều vô
Đời Khang Hy, tỉnh Sơn Đông có viên phó tướng quân họ Tôn, tên Thành, tuy chẳng giàu có chi lắm song cũng để dành được chút ít tiền bạc. Vì muốn có danh vọng với đời, một hôm Tôn Thành nảy ý đem tiền bạc lên kinh đô để chạy một chức võ quan.
Tôn Thành dắt tiểu đồng lên kinh đô thuê nhà cư ngụ rồi đi kiếm môi nhân để tiến dẫn mình với binh bộ thượng thư Lý tư mã. Tuy kiếm được mấy môi nhân song chẳng ai quen biết với Lý tư mã nên việc chẳng thành.
Ba tháng sau. Một hôm, có một khách phục sức cực kỳ sang trọng, khoác áo cừu, cưỡi ngựa tứ, tới gõ cổng. Tôn Thành chạy ra mở. Khách cúi đầu, chắp tay vái chào. Tôn Thành đáp lễ.
Khách nói:"Xin tướng quân cho bỉ nhân vào nhà thưa chuyện"
Tôn Thành gật đầu rồi đưa tay mời vào. Khách xuống ngựa, dắt vào buộc ở góc sân. Tôn Thành mời khách vào nhà ngồi rồi gọi tiểu đồng pha trà.
Sau tuần trà, Tôn Thành hỏi: "Chẳng hay quý tính là chi?"
Khách đáp: "Bỉ nhân họ Phàn, tên Đường Long!"
Tôn Thành hỏi: "Chẳng hay tôn ông tới đây có điều chi dạy bảo?"
Khách đáp: "Chẳng dám! Chỉ vì đương kim hoàng đế vừa truyền lệnh cho quần thần tiến dẫn một võ quan để bổ nhậm vào chức vụ tướng quân tỉnh Hà Bắc mà bỉ nhân lại được nghe đại danh của tướng quân nên muốn tới đây để báo tin hầu tướng quân đó thôi!"
Tôn Thành nói: "Cám ơn tôn ông song bản nhân chưa tìm được người tiến dẫn!"
Khách nói: "Chính vì việc ấy mà bỉ nhân mới tới đây!"
Tôn Thành nói: "Xin tôn ông nói rõ cho bản nhân hiểu!"
Khách nói:"Nguyên bỉ nhân có người nội huynh (anh vợ) họ Điền, tên Tử Bình, làm cận vệ thân tín của đương kim hoàng đế. Nếu tướng quân chẳng tiếc tiền thì bỉ nhân có thể nói với gia huynh tiến dẫn tướng quân lên hoàng đế rồi thỉnh cầu hoàng đế bổ nhậm tướng quân vào chức vụ ấy!"
Tôn Thành thầm nghĩ mình chẳng hề nhờ cậy gã mà tự nhiên gã lại mò tới để bàn chuyện tiến dẫn thì ắt là gã đã phải tính trước một mưu gian. Vì thế, Tôn Thành lặng im, chẳng đáp.
Thấy Tôn Thành có vẻ nghi ngờ mình, Đường Long vội nói:"Việc chi mà tướng quân phải tỏ vẻ nghi ngại? Nếu tướng quân bằng lòng nhờ gia huynh tiến dẫn thì trước hết chúng ta hãy thỏa thuận giá cả đã. Sau đó, chúng ta sẽ ký giao ước với nhau, hẹn rằng chỉ khi nào chính hoàng đế truyền triệu tướng quân vào triều kiến rồi chính hoàng đế truyền lệnh bổ nhậm tướng quân vào chức vụ ấy thì tướng quân mới phải trao khoản tiền ghi trong giao ước cho bỉ nhân để bỉ nhân đem về cho gia huynh!"
Tôn Thành hỏi:"Ngoài khoản tiền ghi trong giao ước, bản nhân còn phải trả riêng cho tôn ông bao nhiêu thù lao môi giới?"
Đáp:"Bỉ nhân tới đây cũng chỉ vì muốn được chia chác chút ít với gia huynh thôi chứ tuyệt nhiên chẳng có ý định xin xỏ gì nơi tướng quân cả!"
Nghe Đường Long quả quyết như thế, đột nhiên Tôn Thành hết hẳn nghi ngờ rồi lại đâm ra hy vọng. Tôn Thành bèn gật đầu, hỏi:"Lệnh nội huynh định tiến dẫn người như thế nào?"
Đường Long đáp:"Khi gia huynh vào chầu hoàng đế thì sẽ khoa trương tài cán của tướng quân trước mặt hoàng đế. Khi hoàng đế đã tin lời mà bổ nhậm tướng quân vào chức vụ ấy thì chẳng ai có thể đoạt lại được, kể cả binh bộ thượng thư Lý tư mã!"
Tôn Thành hỏi:"Nếu vậy thì giá cả ra sao?"
Đường Long cười, đáp:"Bỉ nhân có biết gia huynh muốn đòi bao nhiêu đâu! Để bỉ nhân về hỏi xem sao đã rồi sẽ viết sẵn hai bản giao ước. Ngày mai bỉ nhân sẽ tới đây đón tướng quân tới nhà gia huynh nói chuyện rồi chúng ta cùng ký tên vào hai bản giao ước trước mặt gia huynh!"
Tôn Thành gật đầu ưng thuận. Đường Long bèn cáo biệt.
Hôm sau, quả nhiên Đường Long lại cưỡi ngựa tới, mời Tôn Thành cưỡi ngựa theo mình. Tôn Thành liền xuống chuồng tháo ngựa, cưỡi theo Đường Long.
Tới nhà Tử Bình, Tôn Thành thấy nhà cửa nguy nga lộng lẫy, trang trí như tư thất của các bậc công hầu, tì nữ nô bộc đi đứng nghiêm chỉnh, theo đúng khuôn phép đại gia. Đường Long giới thiệu Tử Bình với Tôn Thành:"Đây là nội huynh bỉ nhân!" rồi giới thiệu Tôn Thành với Tử Bình:"Còn đây là Tôn tướng quân!" Tôn Thành chắp tay vái chào. Tử Bình đưa mắt nhìn, chỉ khẽ gật đầu đáp lễ, vẻ kiêu ngạo lạnh lùng hiện rõ trên nét mặt. Đường Long mời Tôn Thành ngồi còn Tử Bình thì leo lên ngồi trên chiếc ghế cao ở đằng xa.
Đường Long rút từ trong tay áo ra hai bản giao ước, đưa cho Tôn Thành, bảo đọc. Chờ cho Tôn Thành đọc xong, Đường Long mới hỏi:"Chắc tướng quân đã đọc khoản tiền một vạn đồng ghi trong hai bản giao ước này rồi chứ?" Tôn Thành gật đầu.
Đường Long nói:"Hôm qua, bỉ nhân có xin với gia huynh bớt cho tướng quân chút ít song gia huynh chẳng thuận, nói rằng chỉ chịu khoa trương tài cán của người khác trước mặt hoàng đế với giá từ một vạn đồng trở lên thôi! Nếu tướng quân ưng thuận giá cả này thì xin tướng quân hãy ký tên vào đây cho!" Rồi gọi tì nữ bưng bút nghiên tới chỗ Tôn Thành.
Tử Bình ngồi trên ghế cao, bỗng giơ tay ra ngăn lại, nói:"Hãy khoan! Ngày nay lòng người hay tráo trở lật lọng lắm, ta chẳng muốn nói giúp ai điều chi cả! Đừng ký nữa!" Đường Long cười, nói:"Sao đại ca lại lo xa đến thế? Đại ca đã có thể tâu với hoàng đế ban chức cho người ta thì đại ca cũng có thể tâu với hoàng đế cất chức của người ta đi cơ mà! Vả lại tiền đồ của tướng quân đây còn xa lắm, đời nào tướng quân đây lại đi lật lọng đại ca?" rồi bảo tì nữ cứ bưng bút nghiên tới chỗ Tôn Thành.
Tôn Thành cũng nói:"Nếu việc mà thành thì bản nhân xin thề là sẽ chẳng khi nào tráo trở lật lọng ai cả!" Tử Bình im lặng. Tôn Thành hăm hở cầm bút ký. Đường Long cũng cầm bút ký theo rồi giữ lại một bản, trao cho Tôn Thành một bản. Tôn Thành đứng dậy, chắp tay vái chào Tử Bình, xin cáo biệt. Tử Bình vẫn ngồi yên trên ghế cao, chỉ khẽ gật đầu đáp lễ. Đường Long tiễn Tôn Thành ra tận cổng, nói:"Tướng quân cứ an tâm! Ba hôm nữa, bỉ nhân sẽ xin tới gặp tướng quân!"
Mới được hai hôm, vào lúc nhá nhem tối, bỗng có một nhóm sáu người ngồi xe ngựa phóng tới nhà Tôn Thành, gõ cổng. Tiểu đồng ra mở. Ba người xuống xe, chạy sồng sộc vào nhà tìm Tôn Thành, vừa thở vừa nói: "Thưa tướng quân, hoàng thượng truyền lệnh cho bọn tiểu nhân phải tới đón tướng quân vào triều kiến ngay. Hoàng thượng đang chờ tướng quân!" Tôn Thành vừa mừng vừa sợ, vội đem bộ quần áo sang trọng nhất ra mặc rồi theo ba người lên xe vào triều. Qua nhiều lần cổng có lính canh, tới sân ngự điện, bọn người bảo Tôn Thành xuống xe đứng chờ, rồi rong xe đi. Lát sau, có một thị vệ từ trong điện bước ra bảo Tôn Thành theo mình vào điện. Tôn Thành liền líu ríu theo vào.
Vào điện, Tôn Thành hoa mắt vì sự trần thiết tráng lệ, run sợ vì không khí uy nghiêm. Thấy một vị vương giả ngồi ở ngai vàng trên bệ cao, Tôn Thành đinh ninh đó là đương kim hoàng đế vì Tôn Thành chưa hề được nhìn thấy đương kim hoàng đế bao giờ. Thấy triều thần cùng thị vệ đứng xếp hàng nghiêm chỉnh ở hai bên, Tôn Thành vội sụp xuống thảm mà lạy Hoàng đế. Hoàng đế truyền lệnh cho thị vệ đỡ Tôn Thành dậy, dắt ra ghế, bảo ngồi. Hoàng đế phủ dụ Tôn Thành rồi quay qua nói với tả hữu:"Trước kia, trẫm có nghe quần thần tâu rằng Tôn tướng quân là một vị tướng vũ liệt phi thường, song trẫm vẫn còn nghi ngờ. Nay thấy mặt Tôn tướng quân, trẫm mới thấy lời tâu của quần thần là đúng!" Rồi lại quay qua nói với Tôn Thành:"Vùng Hà Bắc rất hiểm yếu. Nay trẫm ủy thác cho khanh giữ chức vụ tướng quân vùng đó thì khanh phải tận tụy đôn đốc quân sĩ canh phòng cẩn mật, chớ để cho bắc di xâm nhập mà phụ lòng tin cậy của trẫm! Nếu khanh tỏ ra là một vị tướng có tài thì trong tương lai, trẫm sẽ phong thưởng cho!" Tôn Thành mừng quá, lại sụp lạy tạ. Hoàng đế bèn truyền lệnh cho thị vệ đỡ Tôn Thành dậy, dắt ra xe.
Vừa về tới nhà, Tôn Thành đã thấy Đường Long đứng chờ ở ngoài cổng, tay cầm bản giao ước. Tôn Thành vừa xuống xe thì Đường Long đã chạy tới, nói:"Việc đã thành, xin tướng quân cho xin khoản tiền ghi trong giao ước!" Tôn Thành gật đầu, dắt vào nhà, lấy tiền trao cho. Đường Long vội đỡ lấy tiền mà xin cáo biệt.
Tối ấy, Tôn Thành vui mừng hí hửng, nói chuyện huyên thiên với tiểu đồng. Sáng sau, Tôn Thành đem chuyện ra khoe với bà con bạn bè ở chốn kinh đô, rồi nằm chờ giấy của Lý tư mã gọi đi phó nhậm.
Thế nhưng, chờ quá một tuần mà vẫn chẳng thấy chi. Tôn Thành sốt ruột, bèn nhờ nhiều người đi nghe ngóng tin tức ở binh bộ. Ba hôm sau, có người tới nhà Tôn Thành báo tin là Lý tư mã đã ký giấy bổ nhậm một vị tướng quân họ Ngô đi giữ chức vụ tướng quân Hà Bắc. Tôn Thành sững sờ kinh ngạc rồi nổi giận đùng đùng, lấy giấy bút viết ngay một lá thư khiếu nại, gửi Lý tư mã. Nhận được thư, Lý tư mã mở ra coi thì thấy đại ý như sau:"Chính hoàng đế đã bổ nhậm tiểu chức vào chức vụ tướng quân tỉnh Hà Bắc, sao đại quan lại đoạt chức vụ ấy mà trao cho người khác?" Lý tư mã rất đỗi ngạc nhiên, chẳng hiểu đầu đuôi câu chuyện ra sao, bèn cho lính đi gọi Tôn Thành vào bộ để hỏi chuyện. Tôn Thành theo lính vào. Lý tư mã hỏi:"Hoàng đế truyền triệu tướng quân vào triều kiến hôm nào?" Tôn Thành đáp:"Bẩm đại quan, cách đây đúng hai tuần!" Hỏi:"Tại sao hoàng đế lại biết đến tướng quân mà cho triệu vào triều kiến?" Đáp:"Bẩm đại quan, vì tiểu chức được cận vệ Điền Tử Bình của hoàng đế tiến dẫn!" Thấy Tôn Thành nói toàn những chuyện hoang đường như kẻ điên khùng, Lý tư mã nổi giận, sai lính giải Tôn Thành sang hình bộ. Quan hình bộ thượng thư cho gọi Tôn Thành vào, hỏi:"Ai tiến dẫn tướng quân với hoàng đế?" Tôn Thành đáp:"Bẩm đại quan, cận vệ Điền Tử Bình của hoàng đế!" Thượng thư bèn ra lệnh cho chủ bạ duyệt sổ cận vệ của đương kim hoàng đế xem Điền Tử Bình là ai? Chủ bạ duyệt sổ rồi trình rằng chẳng có cận vệ nào của đương kim hoàng đế tên là Điền Tử Bình cả! Lúc đó Tôn Thành mới vỡ lẽ là mình đã bị kẻ gian lường gạt. Thượng thư bèn thả cho Tôn Thành ra về.
Thấy truyện lạ thì bản nhân chép vào đây, chứ trong thâm tâm, bản nhân vẫn có điều thắc mắc: Có thể là Tôn Thành quá khờ khạo để bị kẻ gian lường gạt song làm thế nào mà kẻ gian lại có thể tạo ra cả một triều đình giả với một đương kim hoàng đế giả? Bản nhân ngờ rằng kẻ gian đã dùng thuật thôi miên để làm cho Tôn Thành bị mê đi, sống mơ màng trong ảo giới, rồi đoạt tiền của Tôn Thành, cũng giống như những kẻ gian vẫn dùng bùa mê để đoạt tiền của thiên hạ mà người Trung quốc chúng ta thường gọi là kẻ cướp không vũ khí vậy.
Di duyên hoạn thụ ác binh phù
Lãng trịch hoàng kim tiếu vũ phu
Cam trụy thuật trung thiên bất ngộ
Thụ quan tằng kiến vãn triều vô
Đời Khang Hy, tỉnh Sơn Đông có viên phó tướng quân họ Tôn, tên Thành, tuy chẳng giàu có chi lắm song cũng để dành được chút ít tiền bạc. Vì muốn có danh vọng với đời, một hôm Tôn Thành nảy ý đem tiền bạc lên kinh đô để chạy một chức võ quan.
Tôn Thành dắt tiểu đồng lên kinh đô thuê nhà cư ngụ rồi đi kiếm môi nhân để tiến dẫn mình với binh bộ thượng thư Lý tư mã. Tuy kiếm được mấy môi nhân song chẳng ai quen biết với Lý tư mã nên việc chẳng thành.
Ba tháng sau. Một hôm, có một khách phục sức cực kỳ sang trọng, khoác áo cừu, cưỡi ngựa tứ, tới gõ cổng. Tôn Thành chạy ra mở. Khách cúi đầu, chắp tay vái chào. Tôn Thành đáp lễ.
Khách nói:"Xin tướng quân cho bỉ nhân vào nhà thưa chuyện"
Tôn Thành gật đầu rồi đưa tay mời vào. Khách xuống ngựa, dắt vào buộc ở góc sân. Tôn Thành mời khách vào nhà ngồi rồi gọi tiểu đồng pha trà.
Sau tuần trà, Tôn Thành hỏi: "Chẳng hay quý tính là chi?"
Khách đáp: "Bỉ nhân họ Phàn, tên Đường Long!"
Tôn Thành hỏi: "Chẳng hay tôn ông tới đây có điều chi dạy bảo?"
Khách đáp: "Chẳng dám! Chỉ vì đương kim hoàng đế vừa truyền lệnh cho quần thần tiến dẫn một võ quan để bổ nhậm vào chức vụ tướng quân tỉnh Hà Bắc mà bỉ nhân lại được nghe đại danh của tướng quân nên muốn tới đây để báo tin hầu tướng quân đó thôi!"
Tôn Thành nói: "Cám ơn tôn ông song bản nhân chưa tìm được người tiến dẫn!"
Khách nói: "Chính vì việc ấy mà bỉ nhân mới tới đây!"
Tôn Thành nói: "Xin tôn ông nói rõ cho bản nhân hiểu!"
Khách nói:"Nguyên bỉ nhân có người nội huynh (anh vợ) họ Điền, tên Tử Bình, làm cận vệ thân tín của đương kim hoàng đế. Nếu tướng quân chẳng tiếc tiền thì bỉ nhân có thể nói với gia huynh tiến dẫn tướng quân lên hoàng đế rồi thỉnh cầu hoàng đế bổ nhậm tướng quân vào chức vụ ấy!"
Tôn Thành thầm nghĩ mình chẳng hề nhờ cậy gã mà tự nhiên gã lại mò tới để bàn chuyện tiến dẫn thì ắt là gã đã phải tính trước một mưu gian. Vì thế, Tôn Thành lặng im, chẳng đáp.
Thấy Tôn Thành có vẻ nghi ngờ mình, Đường Long vội nói:"Việc chi mà tướng quân phải tỏ vẻ nghi ngại? Nếu tướng quân bằng lòng nhờ gia huynh tiến dẫn thì trước hết chúng ta hãy thỏa thuận giá cả đã. Sau đó, chúng ta sẽ ký giao ước với nhau, hẹn rằng chỉ khi nào chính hoàng đế truyền triệu tướng quân vào triều kiến rồi chính hoàng đế truyền lệnh bổ nhậm tướng quân vào chức vụ ấy thì tướng quân mới phải trao khoản tiền ghi trong giao ước cho bỉ nhân để bỉ nhân đem về cho gia huynh!"
Tôn Thành hỏi:"Ngoài khoản tiền ghi trong giao ước, bản nhân còn phải trả riêng cho tôn ông bao nhiêu thù lao môi giới?"
Đáp:"Bỉ nhân tới đây cũng chỉ vì muốn được chia chác chút ít với gia huynh thôi chứ tuyệt nhiên chẳng có ý định xin xỏ gì nơi tướng quân cả!"
Nghe Đường Long quả quyết như thế, đột nhiên Tôn Thành hết hẳn nghi ngờ rồi lại đâm ra hy vọng. Tôn Thành bèn gật đầu, hỏi:"Lệnh nội huynh định tiến dẫn người như thế nào?"
Đường Long đáp:"Khi gia huynh vào chầu hoàng đế thì sẽ khoa trương tài cán của tướng quân trước mặt hoàng đế. Khi hoàng đế đã tin lời mà bổ nhậm tướng quân vào chức vụ ấy thì chẳng ai có thể đoạt lại được, kể cả binh bộ thượng thư Lý tư mã!"
Tôn Thành hỏi:"Nếu vậy thì giá cả ra sao?"
Đường Long cười, đáp:"Bỉ nhân có biết gia huynh muốn đòi bao nhiêu đâu! Để bỉ nhân về hỏi xem sao đã rồi sẽ viết sẵn hai bản giao ước. Ngày mai bỉ nhân sẽ tới đây đón tướng quân tới nhà gia huynh nói chuyện rồi chúng ta cùng ký tên vào hai bản giao ước trước mặt gia huynh!"
Tôn Thành gật đầu ưng thuận. Đường Long bèn cáo biệt.
Hôm sau, quả nhiên Đường Long lại cưỡi ngựa tới, mời Tôn Thành cưỡi ngựa theo mình. Tôn Thành liền xuống chuồng tháo ngựa, cưỡi theo Đường Long.
Tới nhà Tử Bình, Tôn Thành thấy nhà cửa nguy nga lộng lẫy, trang trí như tư thất của các bậc công hầu, tì nữ nô bộc đi đứng nghiêm chỉnh, theo đúng khuôn phép đại gia. Đường Long giới thiệu Tử Bình với Tôn Thành:"Đây là nội huynh bỉ nhân!" rồi giới thiệu Tôn Thành với Tử Bình:"Còn đây là Tôn tướng quân!" Tôn Thành chắp tay vái chào. Tử Bình đưa mắt nhìn, chỉ khẽ gật đầu đáp lễ, vẻ kiêu ngạo lạnh lùng hiện rõ trên nét mặt. Đường Long mời Tôn Thành ngồi còn Tử Bình thì leo lên ngồi trên chiếc ghế cao ở đằng xa.
Đường Long rút từ trong tay áo ra hai bản giao ước, đưa cho Tôn Thành, bảo đọc. Chờ cho Tôn Thành đọc xong, Đường Long mới hỏi:"Chắc tướng quân đã đọc khoản tiền một vạn đồng ghi trong hai bản giao ước này rồi chứ?" Tôn Thành gật đầu.
Đường Long nói:"Hôm qua, bỉ nhân có xin với gia huynh bớt cho tướng quân chút ít song gia huynh chẳng thuận, nói rằng chỉ chịu khoa trương tài cán của người khác trước mặt hoàng đế với giá từ một vạn đồng trở lên thôi! Nếu tướng quân ưng thuận giá cả này thì xin tướng quân hãy ký tên vào đây cho!" Rồi gọi tì nữ bưng bút nghiên tới chỗ Tôn Thành.
Tử Bình ngồi trên ghế cao, bỗng giơ tay ra ngăn lại, nói:"Hãy khoan! Ngày nay lòng người hay tráo trở lật lọng lắm, ta chẳng muốn nói giúp ai điều chi cả! Đừng ký nữa!" Đường Long cười, nói:"Sao đại ca lại lo xa đến thế? Đại ca đã có thể tâu với hoàng đế ban chức cho người ta thì đại ca cũng có thể tâu với hoàng đế cất chức của người ta đi cơ mà! Vả lại tiền đồ của tướng quân đây còn xa lắm, đời nào tướng quân đây lại đi lật lọng đại ca?" rồi bảo tì nữ cứ bưng bút nghiên tới chỗ Tôn Thành.
Tôn Thành cũng nói:"Nếu việc mà thành thì bản nhân xin thề là sẽ chẳng khi nào tráo trở lật lọng ai cả!" Tử Bình im lặng. Tôn Thành hăm hở cầm bút ký. Đường Long cũng cầm bút ký theo rồi giữ lại một bản, trao cho Tôn Thành một bản. Tôn Thành đứng dậy, chắp tay vái chào Tử Bình, xin cáo biệt. Tử Bình vẫn ngồi yên trên ghế cao, chỉ khẽ gật đầu đáp lễ. Đường Long tiễn Tôn Thành ra tận cổng, nói:"Tướng quân cứ an tâm! Ba hôm nữa, bỉ nhân sẽ xin tới gặp tướng quân!"
Mới được hai hôm, vào lúc nhá nhem tối, bỗng có một nhóm sáu người ngồi xe ngựa phóng tới nhà Tôn Thành, gõ cổng. Tiểu đồng ra mở. Ba người xuống xe, chạy sồng sộc vào nhà tìm Tôn Thành, vừa thở vừa nói: "Thưa tướng quân, hoàng thượng truyền lệnh cho bọn tiểu nhân phải tới đón tướng quân vào triều kiến ngay. Hoàng thượng đang chờ tướng quân!" Tôn Thành vừa mừng vừa sợ, vội đem bộ quần áo sang trọng nhất ra mặc rồi theo ba người lên xe vào triều. Qua nhiều lần cổng có lính canh, tới sân ngự điện, bọn người bảo Tôn Thành xuống xe đứng chờ, rồi rong xe đi. Lát sau, có một thị vệ từ trong điện bước ra bảo Tôn Thành theo mình vào điện. Tôn Thành liền líu ríu theo vào.
Vào điện, Tôn Thành hoa mắt vì sự trần thiết tráng lệ, run sợ vì không khí uy nghiêm. Thấy một vị vương giả ngồi ở ngai vàng trên bệ cao, Tôn Thành đinh ninh đó là đương kim hoàng đế vì Tôn Thành chưa hề được nhìn thấy đương kim hoàng đế bao giờ. Thấy triều thần cùng thị vệ đứng xếp hàng nghiêm chỉnh ở hai bên, Tôn Thành vội sụp xuống thảm mà lạy Hoàng đế. Hoàng đế truyền lệnh cho thị vệ đỡ Tôn Thành dậy, dắt ra ghế, bảo ngồi. Hoàng đế phủ dụ Tôn Thành rồi quay qua nói với tả hữu:"Trước kia, trẫm có nghe quần thần tâu rằng Tôn tướng quân là một vị tướng vũ liệt phi thường, song trẫm vẫn còn nghi ngờ. Nay thấy mặt Tôn tướng quân, trẫm mới thấy lời tâu của quần thần là đúng!" Rồi lại quay qua nói với Tôn Thành:"Vùng Hà Bắc rất hiểm yếu. Nay trẫm ủy thác cho khanh giữ chức vụ tướng quân vùng đó thì khanh phải tận tụy đôn đốc quân sĩ canh phòng cẩn mật, chớ để cho bắc di xâm nhập mà phụ lòng tin cậy của trẫm! Nếu khanh tỏ ra là một vị tướng có tài thì trong tương lai, trẫm sẽ phong thưởng cho!" Tôn Thành mừng quá, lại sụp lạy tạ. Hoàng đế bèn truyền lệnh cho thị vệ đỡ Tôn Thành dậy, dắt ra xe.
Vừa về tới nhà, Tôn Thành đã thấy Đường Long đứng chờ ở ngoài cổng, tay cầm bản giao ước. Tôn Thành vừa xuống xe thì Đường Long đã chạy tới, nói:"Việc đã thành, xin tướng quân cho xin khoản tiền ghi trong giao ước!" Tôn Thành gật đầu, dắt vào nhà, lấy tiền trao cho. Đường Long vội đỡ lấy tiền mà xin cáo biệt.
Tối ấy, Tôn Thành vui mừng hí hửng, nói chuyện huyên thiên với tiểu đồng. Sáng sau, Tôn Thành đem chuyện ra khoe với bà con bạn bè ở chốn kinh đô, rồi nằm chờ giấy của Lý tư mã gọi đi phó nhậm.
Thế nhưng, chờ quá một tuần mà vẫn chẳng thấy chi. Tôn Thành sốt ruột, bèn nhờ nhiều người đi nghe ngóng tin tức ở binh bộ. Ba hôm sau, có người tới nhà Tôn Thành báo tin là Lý tư mã đã ký giấy bổ nhậm một vị tướng quân họ Ngô đi giữ chức vụ tướng quân Hà Bắc. Tôn Thành sững sờ kinh ngạc rồi nổi giận đùng đùng, lấy giấy bút viết ngay một lá thư khiếu nại, gửi Lý tư mã. Nhận được thư, Lý tư mã mở ra coi thì thấy đại ý như sau:"Chính hoàng đế đã bổ nhậm tiểu chức vào chức vụ tướng quân tỉnh Hà Bắc, sao đại quan lại đoạt chức vụ ấy mà trao cho người khác?" Lý tư mã rất đỗi ngạc nhiên, chẳng hiểu đầu đuôi câu chuyện ra sao, bèn cho lính đi gọi Tôn Thành vào bộ để hỏi chuyện. Tôn Thành theo lính vào. Lý tư mã hỏi:"Hoàng đế truyền triệu tướng quân vào triều kiến hôm nào?" Tôn Thành đáp:"Bẩm đại quan, cách đây đúng hai tuần!" Hỏi:"Tại sao hoàng đế lại biết đến tướng quân mà cho triệu vào triều kiến?" Đáp:"Bẩm đại quan, vì tiểu chức được cận vệ Điền Tử Bình của hoàng đế tiến dẫn!" Thấy Tôn Thành nói toàn những chuyện hoang đường như kẻ điên khùng, Lý tư mã nổi giận, sai lính giải Tôn Thành sang hình bộ. Quan hình bộ thượng thư cho gọi Tôn Thành vào, hỏi:"Ai tiến dẫn tướng quân với hoàng đế?" Tôn Thành đáp:"Bẩm đại quan, cận vệ Điền Tử Bình của hoàng đế!" Thượng thư bèn ra lệnh cho chủ bạ duyệt sổ cận vệ của đương kim hoàng đế xem Điền Tử Bình là ai? Chủ bạ duyệt sổ rồi trình rằng chẳng có cận vệ nào của đương kim hoàng đế tên là Điền Tử Bình cả! Lúc đó Tôn Thành mới vỡ lẽ là mình đã bị kẻ gian lường gạt. Thượng thư bèn thả cho Tôn Thành ra về.
Thấy truyện lạ thì bản nhân chép vào đây, chứ trong thâm tâm, bản nhân vẫn có điều thắc mắc: Có thể là Tôn Thành quá khờ khạo để bị kẻ gian lường gạt song làm thế nào mà kẻ gian lại có thể tạo ra cả một triều đình giả với một đương kim hoàng đế giả? Bản nhân ngờ rằng kẻ gian đã dùng thuật thôi miên để làm cho Tôn Thành bị mê đi, sống mơ màng trong ảo giới, rồi đoạt tiền của Tôn Thành, cũng giống như những kẻ gian vẫn dùng bùa mê để đoạt tiền của thiên hạ mà người Trung quốc chúng ta thường gọi là kẻ cướp không vũ khí vậy.
ĐạO SĨ LỪA NHO SINH
(Truyện CỤC TRÁ TAM)
Nhất khúc Tương Phi khiếp tố tâm
Bí tàng bất tích thị tri âm
Nhân cầm nhất khứ vô tiêu tức
Lưu thủy cao sơn hà xứ tầm
Huyện Gia Tường, tỉnh Sơn Đông có nho sinh họ Lý, tên Hiếu Tấn, còn độc thân, cư ngụ với một tiểu đồng. Nhờ văn chương từ phú quán tuyệt đương thời, Hiếu Tấn nổi tiếng danh sĩ trong huyện. Ngoài sách vở, Hiếu Tấn chỉ thích âm nhạc chứ chẳng thích giao thiệp với ai nên rất ít bạn bè.
Một hôm, Hiếu Tấn ra cửa đông huyện thành hóng mát, gặp một đám thổ phu đang đào đất đắp thành, bèn đứng lại coi. Bỗng thấy có người bắt được một cây đàn cổ, Hiếu Tấn vội chạy tới coi rồi trả giá xin mua. Vì người ấy chẳng biết chi về âm nhạc mà lại thấy cây đàn đã quá cũ nên thuận bán cho Hiếu Tấn với giá rẻ.
Hiếu Tấn đem đàn về nhà lau chùi sạch sẽ thì thấy đàn phát ra một thứ ánh sáng kỳ lạ. Lấy phím gảy thử thì thấy đàn phát ra một thứ âm điệu trong trẻo, mãnh liệt. Hiếu Tấn mừng lắm, tưởng chừng như bắt được ngọc bích, bèn mua ngay một túi gấm để đựng đàn, cất giấu thực kỹ, chẳng cho ai coi, kể cả người thân.
Ở huyện đường có viên huyện thừa họ Trình, tên Đắc Lộc, làm việc dưới quyền quan tể. Vì nghe tiếng Hiếu Tấn là danh sĩ trong huyện, Đắc Lộc muốn làm quen nên tới nhà gõ cổng. Tiểu đồng ra mở, Đắc Lộc đưa danh thiếp, bảo cầm vào trình chủ. Hiếu Tấn coi danh thiếp, thấy vị khách muốn xin vào gặp mình là viên huyện thừa ở huyện đường nên vội sai tiểu đồng ra mời vào. Sau khi thi lễ, phân ngôi chủ khách, Hiếu Tấn sai tiểu đồng pha trà mời khách. Hiếu Tấn hỏi:"Phải chăng quý quán cũng ở huyện này?" Đắc Lộc đáp:"Thưa chẳng phải! Quê tại hạ ở thành Vũ Xương tỉnh Hồ Bắc" Hỏi:"Túc hạ tới đây làm việc đã được lâu chưa?" Đáp:"Cũng đã được gần ba năm nay!" Hỏi:"Túc hạ tới tệ xá có điều chi dạy bảo?" Đáp: "Chẳng dám! Chỉ vì được nghe đại danh của túc hạ nên muốn tới xin kết bạn đó thôi!" Hiếu Tấn bèn xin địa chỉ của khách. Đàm đạo hồi lâu, khách xin cáo biệt.
Chiều sau, Hiếu Tấn tới đáp lễ. Đắc Lộc mời ở lại yến ẩm nhưng Hiếu Tấn từ chối. Vì Đắc Lộc cứ ân cần mời mọc mãi nên Hiếu Tấn đành nhận lời. Trong tiệc, Hiếu Tấn thấy Đắc Lộc có ngôn từ phong nhã, nghị luận tiêu sái thì mến phục lắm.
Để đáp lễ, hôm sau Hiếu Tấn sai tiểu đồng đem thiếp đi mời Đắc Lộc tới nhà mình dự tiệc. Đắc Lộc nhận lời ngay. Chiều ấy, hai người yến ẩm rất hoan lạc, đàm đạo rất tương đắc.
Giao thiệp qua lại như thế được nửa năm thì hai người trở thành bạn thân. Rồi mỗi kỳ có hoa sớm trăng khuya, hai người lại rủ nhau cùng ngồi yến ẩm, đàm đạo, thưởng thức.
Năm sau. Một hôm, Hiếu Tấn tới nhà Đắc Lộc chơi. Thấy trên bàn có một cây đàn bọc trong túi gấm, Hiếu Tấn bèn xin coi. Đắc Lộc liền mở túi, lấy đàn ra cho coi, rồi hỏi: "Túc hạ có hay gảy đàn chăng?" Hiếu Tấn đáp:"Tuy tiểu sinh chẳng có tài gảy đàn song tiểu sinh lại rất thích được nghe đàn!" Đắc Lộc nói:"Nghe túc hạ nói thế, tại hạ cũng đủ hiểu là túc hạ có tuyệt kỹ gảy đàn rồi! Chúng ta đã là bạn thân với nhau, sao túc hạ chẳng cho tại hạ được thưởng thức tài nghệ? Để tại hạ đi quạt đỉnh đốt trầm rồi xin túc hạ trổ tài cho nghe một lần!" Chẳng muốn từ chối thêm, Hiếu Tấn nhận lời. Đắc Lộc vội đi quạt đỉnh, đốt trầm. Hương trầm lan tỏa khắp phòng. Hiếu Tấn bèn ôm đàn, chọn khúc đắc ý nhất mà gảy. Nghe xong, Đắc Lộc mỉm cười, nói:"Túc hạ quả là một đại cao thủ về cầm thuật! Xin cám ơn túc hạ đã trổ tài cho biết! Bây giờ tới lượt tại hạ xin gảy một khúc để đáp lễ! Thế nhưng, xin túc hạ đừng cười là quê mùa mà dám múa rìu qua mắt thợ!" Nói xong, Đắc Lộc ôm đàn gảy khúc Ngự Phong. Thấy âm thanh trầm bổng, đượm vẻ xuất thần, Hiếu Tấn biết là cầm thuật của Đắc Lộc cao hơn mình nhiều, nên khâm phục lắm. Bèn xin làm học trò. Chẳng khách sáo, Đắc Lộc nhận lời ngay. Thế là ngày nào Đắc Lộc cũng tới nhà Hiếu Tấn để truyền nghề và rồi mỗi ngày hai người một thêm thân thiết.
Năm sau. Nhờ được Đắc Lộc truyền cho tuyệt kỹ gảy đàn nên Hiếu Tấn cảm thấy cầm thuật của mình đã tiến bộ nhiều. Tuy nhiên, mỗi lần Đắc Lộc tới nhà chơi, Hiếu Tấn chỉ đem một cây đàn thường ra để hai người cùng gảy chứ chẳng hề tiết lộ chuyện cây đàn cổ cho Đắc Lộc biết.
Một tối, Hiếu Tấn mời Đắc Lộc tới nhà dự tiệc. Khi đã ngà ngà say, Đắc Lộc nói:"Tại hạ vừa tập gảy xong một khúc nhạc mới, chẳng hay túc hạ có muốn nghe chăng?" Hiếu Tấn đáp:"Dĩ nhiên là có rồi, song khúc ấy tên chi?" Đắc Lộc đáp:"Tên Tương Phi" Hiếu Tấn nói: "Xin túc hạ hãy cho thưởng thức ngay!" Đắc Lộc bèn ôm đàn mà gảy. Thấy âm điệu tuyệt hay, đượm vẻ ai oán bi thương của tiếng thiếu phụ nức nở, Hiếu Tấn cứ tấm tắc khen mãi. Đắc Lộc nói:"Chỉ tiếc cây đàn này chẳng phải là thần cầm! Nếu có thần cầm mà gảy thì tại hạ chắc rằng âm điệu còn hay hơn nữa!" Trong cơn tửu hứng, Hiếu Tấn tiết lộ:"Tiểu sinh có một cây đàn cổ rất kỳ lạ, vẫn cất giấu xưa nay. Bây giờ được gặp kẻ tri âm, lẽ nào còn dám cất giấu nữa!" Bèn đứng dậy, vào nhà lấy cây đàn cổ đem ra cho Đắc Lộc coi. Đắc Lộc vội đỡ lấy cây đàn, ngắm nghía hồi lâu rồi dùng vạt áo lau bụi, ôm đàn tựa án, gảy lại khúc Tương Phi. Lần này, Hiếu Tấn cảm thấy tâm hồn mình bị chấn động mãnh liệt vì âm điệu phát ra quả thực là bất phàm. Hiếu Tấn phải ngồi tựa án cúi đầu mà chau mày nhăn mặt. Tiếng đàn vừa dứt, Hiếu Tấn vụt đứng dậy, tận lực vỗ tay tán thưởng. Đắc Lộc nói:"Tại hạ đã dùng hết chút khả năng nhỏ nhoi của mình để gảy song vẫn tự biết mình chẳng đủ tài sử dụng thần cầm này! Phải chi có tiện nội ở đây, dùng thần cầm này mà gảy thì tại hạ chắc rằng thế nào cũng có một vài âm nghe được!" Hiếu Tấn giật mình kinh hãi, hỏi:"Quý phu nhân tinh thông cầm thuật đến mức ấy cơ ư?" Đắc Lộc cười, đáp: "Về cầm thuật thì tại hạ chỉ là học trò của tiện nội! Khúc Tương Phi mà tại hạ vừa gảy chính là do tiện nội mới chỉ dạy cho!" Hiếu Tấn nói:"Tiếc rằng quý phu nhân chỉ gảy đàn ở nơi khuê các nên tiểu sinh chẳng có dịp được thưởng thức!" Đắc Lộc cười, nói:"Đã là chỗ bằng hữu thâm giao thì chẳng nên lấy cái lễ bên ngoài mà hạn chế cái tình bên trong! Chiều mai, nếu túc hạ chịu đem thần cầm này tới tệ xá thì tại hạ sẽ bảo tiện nội ngồi sau rèm mà gảy để túc hạ thẩm lượng!" Hiếu Tấn mừng lắm, vội nhận lời ngay. Đắc Lộc bèn xin cáo biệt.
Chiều sau, Hiếu Tấn đem cây đàn cổ tới nhà Đắc Lộc thì thấy Đắc Lộc đã cho bày sẵn một bàn tiệc ở phòng khách. Hiếu Tấn đưa mắt nhìn quanh thì thấy căn phòng đã được ngăn đôi bằng một bức rèm trúc và ẩn hiện sau rèm có một tràng kỷ kê cạnh một chiếc án.
Lát sau, Đắc Lộc mời Hiếu Tấn nhập tiệc. Rượu được một tuần, bỗng Đắc Lộc đứng dậy, nói:"Tại hạ xin phép được đem thần cầm này vào nhà trong để cho tiện nội được coi trước!" Hiếu Tấn gật đầu, nói:"Xin túc hạ cứ tự nhiên!" Đắc Lộc bèn đứng dậy đem đàn vào nhà trong, rồi lại trở ra ngồi thù tạc với Hiếu Tấn.
Lát sau, thấy có hương trầm lan tỏa khắp bàn tiệc, Hiếu Tấn đưa mắt nhìn qua rèm thì thấy lờ mờ có một đỉnh đồng, khói hương nghi ngút, mới được đặt lên án. Rồi thấy thấp thoáng có bóng một giai nhân mảnh mai yểu điệu, áng chừng ngoài đôi mươi, từ nhà trong ôm đàn bước ra, ngồi xuống tràng kỷ, so dây rung phím. Tiếng đàn khe khẽ nổi lên. Hiếu Tấn buông đũa, đặt chén xuống bàn, nhắm mắt định thần để lắng nghe thì thấy âm điệu quả thực là thần kỳ, làm lòng mình nôn nao, xương thịt mềm nhũn, hồn vía lâng lâng. Khi tiếng đàn vừa dứt, Đắc Lộc thấy vẻ mặt của Hiếu Tấn khờ dại hẳn đi thì mỉm cười, lấy ly rót rượu, khẩn khoản mời uống. Hiếu Tấn nhận ly mà uống một hơi cạn sạch. Sau rèm, giai nhân lại so dây, gảy khúc Nhàn Tình. Tiếng đàn vừa khởi phát, Hiếu Tấn đã cảm thấy cả hồn lẫn xác mình cùng bị mê hoặc.
Tiếng đàn vừa dứt, Hiếu Tấn chợt nhận ra là mình đã quá say nên vội đứng dậy sửa lại khăn áo, nói:"Tiểu sinh say quá rồi! Bây giờ xin cáo biệt! Dám phiền túc hạ làm ơn cho xin lại cây đàn!" Đắc Lộc cười, nói:"Quả là túc hạ đã quá say, cũng nên về đi nghỉ! Thế nhưng đang say, đem thần cầm về, lỡ ra dọc đường, sảy chân vấp ngã, thần cầm tan vỡ, chẳng uổng phí ru? Chi bằng để đây, sáng mai tới lấy, đâu đã muộn gì? Vả lại tại hạ còn muốn bảo tiện nội mượn thần cầm này để trổ hết tài nghệ mà cống hiến túc hạ thêm vài ba khúc!" Thấy Đắc Lộc lo cho cây đàn của mình, Hiếu Tấn cảm động lắm nên xin cáo biệt, ra về tay không. Sáng sau, khi Hiếu Tấn tới nhà Đắc Lộc xin lại cây đàn thì bỗng thấy cảnh nhà khác lạ, trống vắng, im lìm. Hiếu Tấn đưa tay gõ cổng thì thấy có một người lệ già lững thững bước ra mở. Hiếu Tấn vội hỏi:"Trình ông có nhà không?" Người lệ già đáp:"Thưa không!" Hỏi:"Đi đâu?" Đáp:"Thưa lão nô chẳng được rõ!" Hỏi:"Đi từ lúc nào?" Đáp:"Thưa đi từ lúc canh năm, khi trời vừa sáng" Hỏi:"Đi một mình hay đi với ai?" Đáp:"Thưa đi với cả gia quyến" Hỏi:"Có nói là bao giờ sẽ về không?" Đáp:"Thưa có! Nói là chừng ba hôm nữa sẽ về" Hỏi:"Có dặn lại điều chi không?" Đáp:"Thưa không! Chỉ dặn lão nô phải ở nhà trông nhà!" Hiếu Tấn buồn rầu lắm song chẳng biết phải làm thế nào, đành chào người lệ già mà ra về.
Ba hôm sau. Hiếu Tấn tới nhà Đắc Lộc ngồi chờ, song chờ từ sáng tới tối cũng chẳng thấy Đắc Lộc về.
Ở huyện đường, nha lại thấy viên huyện thừa vắng mặt ba ngày liền thì bàn tán xôn xao rồi trình quan tể. Quan ra lệnh cho lính tới nhà phá cửa vào coi thì thấy cảnh nhà trống vắng, im lìm, chẳng một bóng người, chỉ có hai chiếc bàn với hai chiếc ghế. Huyện tể bèn trình lên thượng quan. Thượng quan liền ra lệnh cho thuộc hạ phải truy tầm tung tích của viên huyện thừa. Thế nhưng chẳng ai tìm ra được tung tích gì.
Hiếu Tấn mất cây đàn cổ thì buồn rầu lắm, bỏ ăn bỏ ngủ ba ngày đêm liên tiếp. Nhớ lời Đắc Lộc nói là quê quán ở Vũ Xương, Hiếu Tấn chẳng quản đường xá xa xôi, lặn lội đi tìm.
Tới nơi, Hiếu Tấn hỏi thăm cư dân trong thành: "Tiểu sinh họ Lý, tên Hiếu Tấn, quán tại huyện Gia Tường, tỉnh Sơn Đông, có một người bạn thân, quán tại thành này, là tiên sinh Trình Đắc Lộc, rất giỏi cầm thuật, giữ chức huyện thừa ở tệ quán. Nếu quý vị biết nơi cư trú của Trình tiên sinh thì xin làm ơn chỉ cho tiểu sinh biết!" Ai cũng lắc đầu, đáp:"Chúng tôi chẳng biết tiên sinh Trình Đắc Lộc là ai cả!" Cuối cùng, có một ông lão đáp: "Lão phu chỉ biết trước kia, ở thành Vũ Xương này cũng có một người họ Trình, song chẳng rõ tên, cũng giỏi cầm thuật. Thế nhưng người ấy là đạo sĩ chứ chẳng phải là huyện thừa!" Hiếu Tấn vội hỏi:"Thưa lão trượng, bây giờ đạo sĩ ấy ở đâu?" Ông lão đáp:"Lão phu cũng chẳng rõ! Trình đạo sĩ đã bỏ thành này ra đi biệt tích từ năm năm nay! Chẳng ai thấy đạo sĩ trở về đây nữa!" Hiếu Tấn bèn hỏi ông lão về dung mạo và tuổi tác của đạo sĩ. Nghe ông lão mô tả, Hiếu Tấn càng tin rằng Trình đạo sĩ chính là viên huyện thừa Trình Đắc Lộc.
Ngẫm cho cùng thì cơ mưu lường gạt trong thiên hạ có đủ thiên hình vạn trạng. Tuy nhiên, nếu Trình đạo sĩ quả là viên huyện thừa Trình Đắc Lộc thì phong cách lường gạt của đạo sĩ cũng còn đượm được chút phần cao nhã.
Nhất khúc Tương Phi khiếp tố tâm
Bí tàng bất tích thị tri âm
Nhân cầm nhất khứ vô tiêu tức
Lưu thủy cao sơn hà xứ tầm
Huyện Gia Tường, tỉnh Sơn Đông có nho sinh họ Lý, tên Hiếu Tấn, còn độc thân, cư ngụ với một tiểu đồng. Nhờ văn chương từ phú quán tuyệt đương thời, Hiếu Tấn nổi tiếng danh sĩ trong huyện. Ngoài sách vở, Hiếu Tấn chỉ thích âm nhạc chứ chẳng thích giao thiệp với ai nên rất ít bạn bè.
Một hôm, Hiếu Tấn ra cửa đông huyện thành hóng mát, gặp một đám thổ phu đang đào đất đắp thành, bèn đứng lại coi. Bỗng thấy có người bắt được một cây đàn cổ, Hiếu Tấn vội chạy tới coi rồi trả giá xin mua. Vì người ấy chẳng biết chi về âm nhạc mà lại thấy cây đàn đã quá cũ nên thuận bán cho Hiếu Tấn với giá rẻ.
Hiếu Tấn đem đàn về nhà lau chùi sạch sẽ thì thấy đàn phát ra một thứ ánh sáng kỳ lạ. Lấy phím gảy thử thì thấy đàn phát ra một thứ âm điệu trong trẻo, mãnh liệt. Hiếu Tấn mừng lắm, tưởng chừng như bắt được ngọc bích, bèn mua ngay một túi gấm để đựng đàn, cất giấu thực kỹ, chẳng cho ai coi, kể cả người thân.
Ở huyện đường có viên huyện thừa họ Trình, tên Đắc Lộc, làm việc dưới quyền quan tể. Vì nghe tiếng Hiếu Tấn là danh sĩ trong huyện, Đắc Lộc muốn làm quen nên tới nhà gõ cổng. Tiểu đồng ra mở, Đắc Lộc đưa danh thiếp, bảo cầm vào trình chủ. Hiếu Tấn coi danh thiếp, thấy vị khách muốn xin vào gặp mình là viên huyện thừa ở huyện đường nên vội sai tiểu đồng ra mời vào. Sau khi thi lễ, phân ngôi chủ khách, Hiếu Tấn sai tiểu đồng pha trà mời khách. Hiếu Tấn hỏi:"Phải chăng quý quán cũng ở huyện này?" Đắc Lộc đáp:"Thưa chẳng phải! Quê tại hạ ở thành Vũ Xương tỉnh Hồ Bắc" Hỏi:"Túc hạ tới đây làm việc đã được lâu chưa?" Đáp:"Cũng đã được gần ba năm nay!" Hỏi:"Túc hạ tới tệ xá có điều chi dạy bảo?" Đáp: "Chẳng dám! Chỉ vì được nghe đại danh của túc hạ nên muốn tới xin kết bạn đó thôi!" Hiếu Tấn bèn xin địa chỉ của khách. Đàm đạo hồi lâu, khách xin cáo biệt.
Chiều sau, Hiếu Tấn tới đáp lễ. Đắc Lộc mời ở lại yến ẩm nhưng Hiếu Tấn từ chối. Vì Đắc Lộc cứ ân cần mời mọc mãi nên Hiếu Tấn đành nhận lời. Trong tiệc, Hiếu Tấn thấy Đắc Lộc có ngôn từ phong nhã, nghị luận tiêu sái thì mến phục lắm.
Để đáp lễ, hôm sau Hiếu Tấn sai tiểu đồng đem thiếp đi mời Đắc Lộc tới nhà mình dự tiệc. Đắc Lộc nhận lời ngay. Chiều ấy, hai người yến ẩm rất hoan lạc, đàm đạo rất tương đắc.
Giao thiệp qua lại như thế được nửa năm thì hai người trở thành bạn thân. Rồi mỗi kỳ có hoa sớm trăng khuya, hai người lại rủ nhau cùng ngồi yến ẩm, đàm đạo, thưởng thức.
Năm sau. Một hôm, Hiếu Tấn tới nhà Đắc Lộc chơi. Thấy trên bàn có một cây đàn bọc trong túi gấm, Hiếu Tấn bèn xin coi. Đắc Lộc liền mở túi, lấy đàn ra cho coi, rồi hỏi: "Túc hạ có hay gảy đàn chăng?" Hiếu Tấn đáp:"Tuy tiểu sinh chẳng có tài gảy đàn song tiểu sinh lại rất thích được nghe đàn!" Đắc Lộc nói:"Nghe túc hạ nói thế, tại hạ cũng đủ hiểu là túc hạ có tuyệt kỹ gảy đàn rồi! Chúng ta đã là bạn thân với nhau, sao túc hạ chẳng cho tại hạ được thưởng thức tài nghệ? Để tại hạ đi quạt đỉnh đốt trầm rồi xin túc hạ trổ tài cho nghe một lần!" Chẳng muốn từ chối thêm, Hiếu Tấn nhận lời. Đắc Lộc vội đi quạt đỉnh, đốt trầm. Hương trầm lan tỏa khắp phòng. Hiếu Tấn bèn ôm đàn, chọn khúc đắc ý nhất mà gảy. Nghe xong, Đắc Lộc mỉm cười, nói:"Túc hạ quả là một đại cao thủ về cầm thuật! Xin cám ơn túc hạ đã trổ tài cho biết! Bây giờ tới lượt tại hạ xin gảy một khúc để đáp lễ! Thế nhưng, xin túc hạ đừng cười là quê mùa mà dám múa rìu qua mắt thợ!" Nói xong, Đắc Lộc ôm đàn gảy khúc Ngự Phong. Thấy âm thanh trầm bổng, đượm vẻ xuất thần, Hiếu Tấn biết là cầm thuật của Đắc Lộc cao hơn mình nhiều, nên khâm phục lắm. Bèn xin làm học trò. Chẳng khách sáo, Đắc Lộc nhận lời ngay. Thế là ngày nào Đắc Lộc cũng tới nhà Hiếu Tấn để truyền nghề và rồi mỗi ngày hai người một thêm thân thiết.
Năm sau. Nhờ được Đắc Lộc truyền cho tuyệt kỹ gảy đàn nên Hiếu Tấn cảm thấy cầm thuật của mình đã tiến bộ nhiều. Tuy nhiên, mỗi lần Đắc Lộc tới nhà chơi, Hiếu Tấn chỉ đem một cây đàn thường ra để hai người cùng gảy chứ chẳng hề tiết lộ chuyện cây đàn cổ cho Đắc Lộc biết.
Một tối, Hiếu Tấn mời Đắc Lộc tới nhà dự tiệc. Khi đã ngà ngà say, Đắc Lộc nói:"Tại hạ vừa tập gảy xong một khúc nhạc mới, chẳng hay túc hạ có muốn nghe chăng?" Hiếu Tấn đáp:"Dĩ nhiên là có rồi, song khúc ấy tên chi?" Đắc Lộc đáp:"Tên Tương Phi" Hiếu Tấn nói: "Xin túc hạ hãy cho thưởng thức ngay!" Đắc Lộc bèn ôm đàn mà gảy. Thấy âm điệu tuyệt hay, đượm vẻ ai oán bi thương của tiếng thiếu phụ nức nở, Hiếu Tấn cứ tấm tắc khen mãi. Đắc Lộc nói:"Chỉ tiếc cây đàn này chẳng phải là thần cầm! Nếu có thần cầm mà gảy thì tại hạ chắc rằng âm điệu còn hay hơn nữa!" Trong cơn tửu hứng, Hiếu Tấn tiết lộ:"Tiểu sinh có một cây đàn cổ rất kỳ lạ, vẫn cất giấu xưa nay. Bây giờ được gặp kẻ tri âm, lẽ nào còn dám cất giấu nữa!" Bèn đứng dậy, vào nhà lấy cây đàn cổ đem ra cho Đắc Lộc coi. Đắc Lộc vội đỡ lấy cây đàn, ngắm nghía hồi lâu rồi dùng vạt áo lau bụi, ôm đàn tựa án, gảy lại khúc Tương Phi. Lần này, Hiếu Tấn cảm thấy tâm hồn mình bị chấn động mãnh liệt vì âm điệu phát ra quả thực là bất phàm. Hiếu Tấn phải ngồi tựa án cúi đầu mà chau mày nhăn mặt. Tiếng đàn vừa dứt, Hiếu Tấn vụt đứng dậy, tận lực vỗ tay tán thưởng. Đắc Lộc nói:"Tại hạ đã dùng hết chút khả năng nhỏ nhoi của mình để gảy song vẫn tự biết mình chẳng đủ tài sử dụng thần cầm này! Phải chi có tiện nội ở đây, dùng thần cầm này mà gảy thì tại hạ chắc rằng thế nào cũng có một vài âm nghe được!" Hiếu Tấn giật mình kinh hãi, hỏi:"Quý phu nhân tinh thông cầm thuật đến mức ấy cơ ư?" Đắc Lộc cười, đáp: "Về cầm thuật thì tại hạ chỉ là học trò của tiện nội! Khúc Tương Phi mà tại hạ vừa gảy chính là do tiện nội mới chỉ dạy cho!" Hiếu Tấn nói:"Tiếc rằng quý phu nhân chỉ gảy đàn ở nơi khuê các nên tiểu sinh chẳng có dịp được thưởng thức!" Đắc Lộc cười, nói:"Đã là chỗ bằng hữu thâm giao thì chẳng nên lấy cái lễ bên ngoài mà hạn chế cái tình bên trong! Chiều mai, nếu túc hạ chịu đem thần cầm này tới tệ xá thì tại hạ sẽ bảo tiện nội ngồi sau rèm mà gảy để túc hạ thẩm lượng!" Hiếu Tấn mừng lắm, vội nhận lời ngay. Đắc Lộc bèn xin cáo biệt.
Chiều sau, Hiếu Tấn đem cây đàn cổ tới nhà Đắc Lộc thì thấy Đắc Lộc đã cho bày sẵn một bàn tiệc ở phòng khách. Hiếu Tấn đưa mắt nhìn quanh thì thấy căn phòng đã được ngăn đôi bằng một bức rèm trúc và ẩn hiện sau rèm có một tràng kỷ kê cạnh một chiếc án.
Lát sau, Đắc Lộc mời Hiếu Tấn nhập tiệc. Rượu được một tuần, bỗng Đắc Lộc đứng dậy, nói:"Tại hạ xin phép được đem thần cầm này vào nhà trong để cho tiện nội được coi trước!" Hiếu Tấn gật đầu, nói:"Xin túc hạ cứ tự nhiên!" Đắc Lộc bèn đứng dậy đem đàn vào nhà trong, rồi lại trở ra ngồi thù tạc với Hiếu Tấn.
Lát sau, thấy có hương trầm lan tỏa khắp bàn tiệc, Hiếu Tấn đưa mắt nhìn qua rèm thì thấy lờ mờ có một đỉnh đồng, khói hương nghi ngút, mới được đặt lên án. Rồi thấy thấp thoáng có bóng một giai nhân mảnh mai yểu điệu, áng chừng ngoài đôi mươi, từ nhà trong ôm đàn bước ra, ngồi xuống tràng kỷ, so dây rung phím. Tiếng đàn khe khẽ nổi lên. Hiếu Tấn buông đũa, đặt chén xuống bàn, nhắm mắt định thần để lắng nghe thì thấy âm điệu quả thực là thần kỳ, làm lòng mình nôn nao, xương thịt mềm nhũn, hồn vía lâng lâng. Khi tiếng đàn vừa dứt, Đắc Lộc thấy vẻ mặt của Hiếu Tấn khờ dại hẳn đi thì mỉm cười, lấy ly rót rượu, khẩn khoản mời uống. Hiếu Tấn nhận ly mà uống một hơi cạn sạch. Sau rèm, giai nhân lại so dây, gảy khúc Nhàn Tình. Tiếng đàn vừa khởi phát, Hiếu Tấn đã cảm thấy cả hồn lẫn xác mình cùng bị mê hoặc.
Tiếng đàn vừa dứt, Hiếu Tấn chợt nhận ra là mình đã quá say nên vội đứng dậy sửa lại khăn áo, nói:"Tiểu sinh say quá rồi! Bây giờ xin cáo biệt! Dám phiền túc hạ làm ơn cho xin lại cây đàn!" Đắc Lộc cười, nói:"Quả là túc hạ đã quá say, cũng nên về đi nghỉ! Thế nhưng đang say, đem thần cầm về, lỡ ra dọc đường, sảy chân vấp ngã, thần cầm tan vỡ, chẳng uổng phí ru? Chi bằng để đây, sáng mai tới lấy, đâu đã muộn gì? Vả lại tại hạ còn muốn bảo tiện nội mượn thần cầm này để trổ hết tài nghệ mà cống hiến túc hạ thêm vài ba khúc!" Thấy Đắc Lộc lo cho cây đàn của mình, Hiếu Tấn cảm động lắm nên xin cáo biệt, ra về tay không. Sáng sau, khi Hiếu Tấn tới nhà Đắc Lộc xin lại cây đàn thì bỗng thấy cảnh nhà khác lạ, trống vắng, im lìm. Hiếu Tấn đưa tay gõ cổng thì thấy có một người lệ già lững thững bước ra mở. Hiếu Tấn vội hỏi:"Trình ông có nhà không?" Người lệ già đáp:"Thưa không!" Hỏi:"Đi đâu?" Đáp:"Thưa lão nô chẳng được rõ!" Hỏi:"Đi từ lúc nào?" Đáp:"Thưa đi từ lúc canh năm, khi trời vừa sáng" Hỏi:"Đi một mình hay đi với ai?" Đáp:"Thưa đi với cả gia quyến" Hỏi:"Có nói là bao giờ sẽ về không?" Đáp:"Thưa có! Nói là chừng ba hôm nữa sẽ về" Hỏi:"Có dặn lại điều chi không?" Đáp:"Thưa không! Chỉ dặn lão nô phải ở nhà trông nhà!" Hiếu Tấn buồn rầu lắm song chẳng biết phải làm thế nào, đành chào người lệ già mà ra về.
Ba hôm sau. Hiếu Tấn tới nhà Đắc Lộc ngồi chờ, song chờ từ sáng tới tối cũng chẳng thấy Đắc Lộc về.
Ở huyện đường, nha lại thấy viên huyện thừa vắng mặt ba ngày liền thì bàn tán xôn xao rồi trình quan tể. Quan ra lệnh cho lính tới nhà phá cửa vào coi thì thấy cảnh nhà trống vắng, im lìm, chẳng một bóng người, chỉ có hai chiếc bàn với hai chiếc ghế. Huyện tể bèn trình lên thượng quan. Thượng quan liền ra lệnh cho thuộc hạ phải truy tầm tung tích của viên huyện thừa. Thế nhưng chẳng ai tìm ra được tung tích gì.
Hiếu Tấn mất cây đàn cổ thì buồn rầu lắm, bỏ ăn bỏ ngủ ba ngày đêm liên tiếp. Nhớ lời Đắc Lộc nói là quê quán ở Vũ Xương, Hiếu Tấn chẳng quản đường xá xa xôi, lặn lội đi tìm.
Tới nơi, Hiếu Tấn hỏi thăm cư dân trong thành: "Tiểu sinh họ Lý, tên Hiếu Tấn, quán tại huyện Gia Tường, tỉnh Sơn Đông, có một người bạn thân, quán tại thành này, là tiên sinh Trình Đắc Lộc, rất giỏi cầm thuật, giữ chức huyện thừa ở tệ quán. Nếu quý vị biết nơi cư trú của Trình tiên sinh thì xin làm ơn chỉ cho tiểu sinh biết!" Ai cũng lắc đầu, đáp:"Chúng tôi chẳng biết tiên sinh Trình Đắc Lộc là ai cả!" Cuối cùng, có một ông lão đáp: "Lão phu chỉ biết trước kia, ở thành Vũ Xương này cũng có một người họ Trình, song chẳng rõ tên, cũng giỏi cầm thuật. Thế nhưng người ấy là đạo sĩ chứ chẳng phải là huyện thừa!" Hiếu Tấn vội hỏi:"Thưa lão trượng, bây giờ đạo sĩ ấy ở đâu?" Ông lão đáp:"Lão phu cũng chẳng rõ! Trình đạo sĩ đã bỏ thành này ra đi biệt tích từ năm năm nay! Chẳng ai thấy đạo sĩ trở về đây nữa!" Hiếu Tấn bèn hỏi ông lão về dung mạo và tuổi tác của đạo sĩ. Nghe ông lão mô tả, Hiếu Tấn càng tin rằng Trình đạo sĩ chính là viên huyện thừa Trình Đắc Lộc.
Ngẫm cho cùng thì cơ mưu lường gạt trong thiên hạ có đủ thiên hình vạn trạng. Tuy nhiên, nếu Trình đạo sĩ quả là viên huyện thừa Trình Đắc Lộc thì phong cách lường gạt của đạo sĩ cũng còn đượm được chút phần cao nhã.
SUÝT BỊ CHẾT CHÉM VÌ GIẢ GÁI
(Truyện NHÂN YÊU)
Tương truyền tà thuật khởi Tang Xung
Đa thiểu hồng khuê ẩm hận đồng
Thiên khiến Mã sinh thi diệu kế
Mê ly hà xứ biện thư hùng
Thôn Vĩnh Lạc, huyện Đông Xương, tỉnh Sơn Đông có nho sinh họ Mã, tên Vạn Bảo, tính rất phóng đãng, có vợ họ Điền. Tính Điền thị cởi mở, chẳng ghen tuông nên hai vợ chồng chung sống rất tương đắc. Phía đông nhà Vạn Bảo là nhà của một bà lão họ Hoắc, góa chồng, cư ngụ một mình.
Một hôm, Hoắc bà đang ngồi trong nhà, bỗng nghe có tiếng gọi cổng, bèn bước ra mở. Thấy một thiếu nữ lạ, Hoắc bà hỏi:"Cô tên chi?" Thiếu nữ đáp:"Cháu tên Nhị Thư!" Hỏi:"Họ gì?" Đáp:"Họ Vương" Hỏi:"Bao nhiêu tuổi?" Đáp:"Mười tám" Hỏi:"Có chồng chưa?" Đáp:"Mới lấy chồng được một năm" Hỏi:"Quê chồng ở đâu?" Đáp: "Ở huyện Tân Thành" Hỏi:"Có việc chi mà tới nhà lão thân?" Đáp:"Vì bố mẹ chồng ác nghiệt, cháu chịu không nổi nên phải bỏ nhà, trốn tới vùng này. Xin bà cho cháu được vào nhà bà tạm trú, làm việc không công cho bà" Thấy thiếu nữ trẻ đẹp, hiền lành, ăn nói lễ độ, Hoắc bà thương hại, gật đầu ưng thuận. Rồi dắt vào nhà, chỉ phòng cho ở.
Nhị Thư rất đảm đang, dành làm hết mọi công việc trong nhà, chẳng để Hoắc bà phải nhúng tay. Nhị Thư lại có tài may vá, nhận đồ may thuê, kiếm tiền nạp Hoắc bà nên Hoắc bà mừng lắm, giữ ở lại luôn, nhận làm nghĩa nữ.
Một hôm, Nhị Thư thấy Hoắc bà bị nhức mỏi, bèn khoe rằng mình biết nghề đấm bóp cho phụ nữ. Hoắc bà chẳng tin song cũng cứ bảo Nhị Thư thử đấm bóp xem sao thì thấy quả đúng như lời khoe. Hôm sau, Hoắc bà sang khoe với Điền thị về tài đấm bóp của nghĩa nữ. Vì Điền thị khỏe mạnh, chưa hề bị nhức mỏi bao giờ nên chỉ ậm ừ cho qua. Hoắc bà thấy thế bèn nói lảng sang chuyện khác, rồi xin cáo biệt.
Tuần sau. Một hôm Vạn Bảo ra vườn sau ngắm hoa. Tình cờ đưa mắt nhìn qua khe hàng rào, thấy thấp thoáng có bóng dáng kiều mị của một thiếu nữ bên nhà Hoắc bà, Vạn Bảo vội chạy vào nhà hỏi vợ:"Thiếu nữ bên nhà Hoắc bà là ai thế?" Điền thị đáp:"Cô ấy là Nhị Thư, họ Vương, bỏ chồng, tới nhà Hoắc bà xin ở, được Hoắc bà nhận làm nghĩa nữ!" Nghe vợ nói thế, dâm tính nổi dậy, Vạn Bảo liền nói:"Nàng có thể tìm cách cho ta được vui vầy với cô ấy một đêm chăng?" Điền thị mỉm cười rồi nhắm mắt suy nghĩ. Lát sau, mở mắt, nói:"Thiếp vừa nghĩ được một kế!" Hỏi:"Kế gì?" Đáp:"Bây giờ chàng sang nói với Hoắc bà rằng thiếp mới bị bệnh nhức mỏi, rồi xin Hoắc bà cho Nhị Thư sang đây đấm bóp cho thiếp một đêm. Nếu Nhị Thư sang thì chàng sẽ đóng vai thiếp mà liệu bề xoay sở!" Vạn Bảo mừng lắm, nói:"Kế của nàng hay quá!"
Vạn Bảo sang nói với Hoắc bà. Hoắc bà đáp:"Để lát nữa lão thân sẽ sang nói chuyện với nương tử rồi sẽ tính sau! Tiên sinh cứ về trước đi!" Vạn Bảo bèn cáo biệt.
Lát sau, Hoắc bà sang nhà Vạn Bảo, hỏi:"Nương tử đâu?" Vạn Bảo chỉ phòng ngủ, đáp:"Tiện nội ở trong này!" Hoắc bà liền bước vào phòng, đóng kỹ cửa lại rồi hỏi: "Nương tử mới bị bệnh nhức mỏi từ bao giờ?" Điền thị đáp:"Mới bị cách đây mấy bữa!" Hoắc bà nói:"Cám ơn nương tử đã có lòng chiếu cố tới tài nghề đấm bóp của tiện nữ, song tính nó sợ nam nhân lắm. Nếu nương tử làm thế nào để tiên sinh nhà ta chẳng vào phòng ngủ đêm nay thì lão thân sẽ dắt nó sang đây đấm bóp hầu nương tử!" Điền thị đáp:"Tệ xá hẹp lắm, hai vợ chồng chỉ có một phòng ngủ này thôi, biết làm sao bây giờ?" Nghe Điền thị nói thế Hoắc bà cũng cảm thấy khó nghĩ. Chợt Điền thị lại nói:"À thôi! Tối nay tệ phu được ông cậu bên thôn Tây gọi sang đối ẩm. Để thiếp bảo tệ phu cứ ở lại bên ấy mà ngủ, sáng mai hãy về!" Hoắc bà mừng lắm, nói:"Nếu được như thế thì tối nay lão thân sẽ dắt tiện nữ sang đây đấm bóp hầu nương tử!" Hoắc bà vừa cáo biệt thì Vạn Bảo đã vội vào phòng, hỏi vợ:"Sao? Có được việc gì không?" Điền thị cười, đáp:"Làm chi mà nôn nóng thế? Được rồi đó! Tối nay cứ xuống bếp mà chờ, để thiếp đón Nhị Thư sang ngủ. Thiếp sẽ giả vờ xuống bếp đóng cửa rồi vợ chồng mình sẽ đổi lẫn quần áo cho nhau. Sau đó, chàng giả làm thiếp, lên đây mà chung giường với Nhị Thư!" Vạn Bảo mừng lắm, gật đầu nói:"Kế của nàng hay thực!" Hai vợ chồng đắc ý nhìn nhau, phá lên cười.
Tối ấy, Hoắc bà đưa Nhị Thư sang, dắt thẳng vào phòng ngủ. Sau khi chào hỏi, Nhị Thư cứ bồn chồn lo sợ, rồi lên tiếng hỏi trước: "Thưa nương tử, đêm nay tiên sinh nhà ta có về không?" Điền thị đáp: "Không! Sáng mai tệ phu mới về!" Nhị Thư lộ vẻ vui mừng ra nét mặt, nói: "Nếu thế thì tốt quá!" Hoắc bà bèn bảo Nhị Thư: "Đêm nay tiểu nhi cứ ở lại đây mà đấm bóp hầu nương tử. Sáng mai ta sẽ sang đón về!" Nhị Thư đáp: "Thưa vâng" Hoắc bà bèn xin cáo biệt.
Tiễn Hoắc bà về rồi, Điền thị trở vào phòng, trải chăn nệm, bảo Nhị Thư lên giường nằm trước. Rồi Điền thị cởi quần áo, tắt đèn, lên nằm với Nhị Thư. Vừa đặt mình nằm, bỗng Điền thị lại vùng dậy, la lên:"Trời ơi! Quên chưa đóng cửa bếp! Suýt nữa thì đêm nay con chó nhà tôi lại vào lục lọi được một bữa no! Tiểu nương cứ nằm ở đây, để tôi xuống bếp đóng cửa rồi lại lên ngay!" Nói xong, vụt ngồi dậy mặc quần áo rồi xuống bếp.
Vạn Bảo đổi quần áo với vợ xong, liền giả làm Điền thị, lên phòng ngủ, khóa chặt cửa, rồi cứ mặc nguyên quần áo của vợ mà leo lên giường. Nhị Thư nói giọng run run:"Để tiểu nữ bắt đầu đấm bóp hầu nương tử nhé!" Vạn Bảo nằm im chẳng đáp. Nhị Thư bèn nắm tay đấm lưng cho Vạn Bảo rồi dần dần luồn tay sang bụng, xuống rốn, xuống nữa, xuống nữa. Chợt Nhị Thư dừng tay, vẻ mặt cực kỳ kinh hãi, tựa như kẻ nắm phải rắn rết. Nhị Thư vội tụt xuống giường, toan đẩy cửa chạy ra ngoài, song cửa đã bị khóa. Vạn Bảo cũng kinh hãi, sợ Nhị Thư làm to chuyện, vội lớn tiếng gọi vợ:"Nàng hãy thắp đèn đem lên đây ngay cho ta!" Ở dưới bếp, nghe tiếng chồng gọi, Điền thị cũng kinh hãi, nghĩ rằng chuyện đã vỡ lở. Bèn thắp đèn đem lên, định bụng sẽ năn nỉ điều đình với Nhị Thư giùm chồng cho êm chuyện. Vạn Bảo ra mở cửa cho vợ vào.
Hai vợ chồng còn đang đưa mắt nhìn nhau như để tìm lời xin lỗi thì chợt thấy Nhị Thư quỳ xuống đất, lạy như tế sao. Hai vợ chồng cùng trố mắt nhìn nhau, chẳng hiểu tại sao. Nhị Thư lên tiếng:"Xin tiên sinh và nương tử tha tội cho!" Vạn Bảo ngạc nhiên, hỏi:"Tiểu nương có tội chi mà phải xin tha?" Đáp:"Thú thực với tiên sinh và nương tử, tiểu nhân chẳng phải là nữ tử mà là nam nhân!" Nghe Nhị Thư nói thế, Vạn Bảo hoàn hồn, quay qua hoạnh hoẹ:"Tên họ thực của mi là chi?" Nhị Thư đáp:"Tiểu nhân đúng là người họ Vương, song tên là Nhị Hỷ chứ chẳng phải Nhị Thư" Hỏi:"Quê quán mi ở đâu?" Đáp:"Ở hang núi Cốc Thành, tỉnh Thiểm Tây" Hỏi:"Ai xui mi giả gái?" Đáp:"Con yêu Tang Xung" Hỏi:"Ai giới thiệu mi với con yêu?" Đáp:"Gia huynh" Hỏi:"Anh mi tên chi?" Đáp:"Tên Đại Hỷ" Hỏi:"Con yêu xui mi giả gái để làm chi?" Đáp:"Gia huynh cùng sáu người nữa rủ tiểu nhân lên Thái Sơn làm môn đệ con yêu. Nó dạy bọn tiểu nhân thuật hóa trang làm nữ tử, rồi dạy thuật đấm bóp cho phụ nữ để mê hoặc mà thông dâm" Hỏi:"Mi đã mê hoặc được bao nhiêu phụ nữ rồi?" Đáp:"Vì tiểu nhân mới xuống núi được ít lâu nên mới mê hoặc được mười sáu người thôi!" Nói:"Ta sẽ trói mi giải lên quan tể để quan xử tội! Thế nào quan cũng ghép mi vào tội tử hình!" Nhị Hỷ oà lên khóc rồi van lạy:"Xin tiên sinh và nương tử tha mạng cho tiểu nhân!" Thấy Nhị Hỷ đẹp trai, tuấn tú, Vạn Bảo cũng chẳng nỡ để y bị chết chém, bèn quay qua hỏi vợ:"Nàng nghĩ sao? Có nên tha mạng cho y không?" Điền thị gật đầu. Vạn Bảo nói:"Tha mạng thì được chứ tha tội thì không!" Rồi bảo vợ:"Nàng hãy xuống bếp lấy cuộn dây thừng với con dao sắc lên đây cho ta" Điền thị làm theo lời chồng. Vạn Bảo liền bẻ quặt hai cánh tay Nhị Hỷ ra sau lưng, trói chặt lại, bế lên giường, đặt nằm ngửa, trói hai chân vào cột giường, rồi lột quần, lấy dao xẻo đứt hạ bộ. Máu chảy lênh láng, Nhị Hỷ đau quá ngất đi. Vạn Bảo bèn đem hạ bộ của Nhị Hỷ ra vườn sau chôn. Điền thị thì đi lấy nước lau chùi hết mọi vết máu ở trong phòng.
Chôn hạ bộ của Nhị Hỷ xong, Vạn Bảo vào nhà lục rương tìm thuốc, dịt vào vết thương cho Nhị Hỷ rồi lấy chăn đắp cho. Hai vợ chồng ngồi chờ xem vết thương của Nhị Hỷ biến chuyển ra sao. Lát sau, thấy vết thương cầm máu rồi Nhị Hỷ tỉnh lại, Vạn Bảo bèn cởi trói cho, nói: "Bây giờ, nếu mi chịu ở lại đây làm đày tớ không công cho vợ chồng ta suốt đời thì ta sẽ tha mạng cho. Bằng không, sáng mai ta sẽ chở mi lên huyện nạp quan tể!" Nhị Hỷ thều thào đáp:"Tiểu nhân xin ở lại đây làm đày tớ hầu hạ tiên sinh và nương tử suốt đời!"
Sáng sau, Hoắc bà sang đón Nhị Thư về. Gặp Vạn Bảo, Hoắc bà hỏi:"Tiện nữ đâu?" Vạn Bảo đáp:"Đang nằm ở trong phòng" rồi vừa dắt Hoắc bà vào phòng vừa nói: "Tưởng nó là ai, hóa ra là con gái gia tỉ. Gia tỉ mới gả chồng cho nó năm ngoái song vì nó ái nam ái nữ nên bị chồng đuổi, phải chạy tới nhà lão bà xin tạm trú. Đêm qua, nghe nó kể lai lịch, tiện nội mới nhận ra nó là điệt nữ của tiểu sinh. Nó kể lai lịch xong thì bị xúc động quá mà sinh bệnh, phải nằm nghỉ" Hoắc bà vào phòng, thấy Nhị Hỷ mặt xám như tro thì tin ngay lời Vạn Bảo. Bèn tới gần giường, hỏi:"Tiểu nhi làm sao thế?" Nhị Hỷ thều thào đáp:"Đêm qua, tự nhiên chỗ kín của tiểu nữ bị sưng lên. Tiểu nữ đang lo là bị ung thư"
Nghe thấy thế, Hoắc bà lại tin ngay. Vạn Bảo nói:"Tiểu sinh sắp ra chợ nhờ thày lang hốt thuốc cho nó. Nhân thể, sẽ ghé qua báo tin cho gia tỉ biết rồi xin cho nó được ở lại tệ xá làm nghĩa nữ, bàu bạn với tiện nội" Hoắc bà tỏ ý tán thành rồi xin cáo biệt.
Vạn Bảo ra chợ phao tin là cháu gái mình bị tai nạn rồi tới phòng mạch thày lang mua thuốc uống và thuốc dịt, đem về điều trị cho Nhị Hỷ. Vết thương của Nhị Hỷ đỡ dần rồi khỏi hẳn. Nhị Hỷ giữ lời, ở lại hầu hạ vợ chồng Vạn Bảo. Hàng ngày, Nhị Hỷ phụ giúp Điền thị nấu ăn, quét dọn, khâu vá, cứ như là vợ lẽ của Vạn Bảo vậy.
Nửa năm sau.
Một hôm, quan tể Đông Xương nhận được tờ trình của dân chúng, thưa rằng có một con yêu cùng bảy môn đệ hóa trang làm nữ tử, giả danh hành nghề đấm bóp cho phụ nữ, đi mê hoặc phụ nữ trong huyện để thông dâm. Quan liền ra lệnh cho lính rình bắt.
Lính rình rập, vây bắt được cả bọn, đem về trình quan. Quan liền ra lệnh tra tấn. Bị khảo đả đau quá, cả bọn cùng nhận tội. Quan quát hỏi:"Tên nào là đầu sỏ của tụi bay?" Chúng cùng chỉ con yêu rồi đồng thanh đáp: "Bẩm đại quan, chính là con yêu này!" Hỏi:"Y tên chi?" Cả bọn lại đồng thanh đáp:"Bẩm đại quan, y tên Tang Xung!" Quan quay nhìn Tang Xung, quát hỏi:"Bay chỉ có bảy tên môn đệ này hay là còn nhiều tên khác nữa?" Tang Xung chỉ Vương Đại Hỷ, đáp:"Bẩm đại quan, còn một tên nữa, em trai tên này!" Hỏi:"Y tên chi?" Đáp:"Bẩm đại quan, y tên Vương Nhị Hỷ!" Hỏi:"Hiện thời y ở đâu?" Đáp:"Bẩm đại quan, tiểu nhân không được rõ!"
Quan bèn lên án tử hình cả tám tên, truyền cho lính đem ra chợ chém rồi bêu đầu. Quan lại ra bố cáo cho dân chúng trong huyện rõ:"Ai biết tung tích của Vương Nhị Hỷ ở đâu thì phải cáo giác ngay. Nếu biết mà không cáo giác thì sẽ bị coi như đồng lõa"
Dân thôn Vĩnh Lạc nghi ngờ Vương Nhị Thư là Vương Nhị Hỷ nên kéo nhau tới nhà Hoắc bà, nhờ Hoắc bà sang nhà Vạn Bảo dò xét. Vì sợ bị ghép tội đồng lõa, Hoắc bà phải nhận lời.
Một trưa, Hoắc bà rình biết Nhị Hỷ đang ngủ, bèn sang nhà Vạn Bảo xin phép được vào phòng Nhị Hỷ nói chuyện. Vạn Bảo ưng thuận. Hoắc bà vào phòng, thấy Nhị Hỷ đang ngủ say, liền luồn tay vào quần để dò xét thì thấy phẳng lì. Hoắc bà bèn về kể lại cho thôn dân nghe. Từ đó, thôn dân mới hết nghi ngờ.
Nhị Hỷ thầm cám ơn vợ chồng Vạn Bảo đã tha mạng cho mình nên tận tụy phụng sự hai vợ chồng. Bảy năm sau.
Nhị Hỷ bị bệnh rồi chết. Vợ chồng Vạn Bảo bèn cho chôn cất Nhị Hỷ trong nghĩa trang riêng của gia đình họ Mã, ở góc tây nam thôn Vĩnh Lạc. Tới nay, ngôi mộ ấy vẫn còn.
Tương truyền tà thuật khởi Tang Xung
Đa thiểu hồng khuê ẩm hận đồng
Thiên khiến Mã sinh thi diệu kế
Mê ly hà xứ biện thư hùng
Thôn Vĩnh Lạc, huyện Đông Xương, tỉnh Sơn Đông có nho sinh họ Mã, tên Vạn Bảo, tính rất phóng đãng, có vợ họ Điền. Tính Điền thị cởi mở, chẳng ghen tuông nên hai vợ chồng chung sống rất tương đắc. Phía đông nhà Vạn Bảo là nhà của một bà lão họ Hoắc, góa chồng, cư ngụ một mình.
Một hôm, Hoắc bà đang ngồi trong nhà, bỗng nghe có tiếng gọi cổng, bèn bước ra mở. Thấy một thiếu nữ lạ, Hoắc bà hỏi:"Cô tên chi?" Thiếu nữ đáp:"Cháu tên Nhị Thư!" Hỏi:"Họ gì?" Đáp:"Họ Vương" Hỏi:"Bao nhiêu tuổi?" Đáp:"Mười tám" Hỏi:"Có chồng chưa?" Đáp:"Mới lấy chồng được một năm" Hỏi:"Quê chồng ở đâu?" Đáp: "Ở huyện Tân Thành" Hỏi:"Có việc chi mà tới nhà lão thân?" Đáp:"Vì bố mẹ chồng ác nghiệt, cháu chịu không nổi nên phải bỏ nhà, trốn tới vùng này. Xin bà cho cháu được vào nhà bà tạm trú, làm việc không công cho bà" Thấy thiếu nữ trẻ đẹp, hiền lành, ăn nói lễ độ, Hoắc bà thương hại, gật đầu ưng thuận. Rồi dắt vào nhà, chỉ phòng cho ở.
Nhị Thư rất đảm đang, dành làm hết mọi công việc trong nhà, chẳng để Hoắc bà phải nhúng tay. Nhị Thư lại có tài may vá, nhận đồ may thuê, kiếm tiền nạp Hoắc bà nên Hoắc bà mừng lắm, giữ ở lại luôn, nhận làm nghĩa nữ.
Một hôm, Nhị Thư thấy Hoắc bà bị nhức mỏi, bèn khoe rằng mình biết nghề đấm bóp cho phụ nữ. Hoắc bà chẳng tin song cũng cứ bảo Nhị Thư thử đấm bóp xem sao thì thấy quả đúng như lời khoe. Hôm sau, Hoắc bà sang khoe với Điền thị về tài đấm bóp của nghĩa nữ. Vì Điền thị khỏe mạnh, chưa hề bị nhức mỏi bao giờ nên chỉ ậm ừ cho qua. Hoắc bà thấy thế bèn nói lảng sang chuyện khác, rồi xin cáo biệt.
Tuần sau. Một hôm Vạn Bảo ra vườn sau ngắm hoa. Tình cờ đưa mắt nhìn qua khe hàng rào, thấy thấp thoáng có bóng dáng kiều mị của một thiếu nữ bên nhà Hoắc bà, Vạn Bảo vội chạy vào nhà hỏi vợ:"Thiếu nữ bên nhà Hoắc bà là ai thế?" Điền thị đáp:"Cô ấy là Nhị Thư, họ Vương, bỏ chồng, tới nhà Hoắc bà xin ở, được Hoắc bà nhận làm nghĩa nữ!" Nghe vợ nói thế, dâm tính nổi dậy, Vạn Bảo liền nói:"Nàng có thể tìm cách cho ta được vui vầy với cô ấy một đêm chăng?" Điền thị mỉm cười rồi nhắm mắt suy nghĩ. Lát sau, mở mắt, nói:"Thiếp vừa nghĩ được một kế!" Hỏi:"Kế gì?" Đáp:"Bây giờ chàng sang nói với Hoắc bà rằng thiếp mới bị bệnh nhức mỏi, rồi xin Hoắc bà cho Nhị Thư sang đây đấm bóp cho thiếp một đêm. Nếu Nhị Thư sang thì chàng sẽ đóng vai thiếp mà liệu bề xoay sở!" Vạn Bảo mừng lắm, nói:"Kế của nàng hay quá!"
Vạn Bảo sang nói với Hoắc bà. Hoắc bà đáp:"Để lát nữa lão thân sẽ sang nói chuyện với nương tử rồi sẽ tính sau! Tiên sinh cứ về trước đi!" Vạn Bảo bèn cáo biệt.
Lát sau, Hoắc bà sang nhà Vạn Bảo, hỏi:"Nương tử đâu?" Vạn Bảo chỉ phòng ngủ, đáp:"Tiện nội ở trong này!" Hoắc bà liền bước vào phòng, đóng kỹ cửa lại rồi hỏi: "Nương tử mới bị bệnh nhức mỏi từ bao giờ?" Điền thị đáp:"Mới bị cách đây mấy bữa!" Hoắc bà nói:"Cám ơn nương tử đã có lòng chiếu cố tới tài nghề đấm bóp của tiện nữ, song tính nó sợ nam nhân lắm. Nếu nương tử làm thế nào để tiên sinh nhà ta chẳng vào phòng ngủ đêm nay thì lão thân sẽ dắt nó sang đây đấm bóp hầu nương tử!" Điền thị đáp:"Tệ xá hẹp lắm, hai vợ chồng chỉ có một phòng ngủ này thôi, biết làm sao bây giờ?" Nghe Điền thị nói thế Hoắc bà cũng cảm thấy khó nghĩ. Chợt Điền thị lại nói:"À thôi! Tối nay tệ phu được ông cậu bên thôn Tây gọi sang đối ẩm. Để thiếp bảo tệ phu cứ ở lại bên ấy mà ngủ, sáng mai hãy về!" Hoắc bà mừng lắm, nói:"Nếu được như thế thì tối nay lão thân sẽ dắt tiện nữ sang đây đấm bóp hầu nương tử!" Hoắc bà vừa cáo biệt thì Vạn Bảo đã vội vào phòng, hỏi vợ:"Sao? Có được việc gì không?" Điền thị cười, đáp:"Làm chi mà nôn nóng thế? Được rồi đó! Tối nay cứ xuống bếp mà chờ, để thiếp đón Nhị Thư sang ngủ. Thiếp sẽ giả vờ xuống bếp đóng cửa rồi vợ chồng mình sẽ đổi lẫn quần áo cho nhau. Sau đó, chàng giả làm thiếp, lên đây mà chung giường với Nhị Thư!" Vạn Bảo mừng lắm, gật đầu nói:"Kế của nàng hay thực!" Hai vợ chồng đắc ý nhìn nhau, phá lên cười.
Tối ấy, Hoắc bà đưa Nhị Thư sang, dắt thẳng vào phòng ngủ. Sau khi chào hỏi, Nhị Thư cứ bồn chồn lo sợ, rồi lên tiếng hỏi trước: "Thưa nương tử, đêm nay tiên sinh nhà ta có về không?" Điền thị đáp: "Không! Sáng mai tệ phu mới về!" Nhị Thư lộ vẻ vui mừng ra nét mặt, nói: "Nếu thế thì tốt quá!" Hoắc bà bèn bảo Nhị Thư: "Đêm nay tiểu nhi cứ ở lại đây mà đấm bóp hầu nương tử. Sáng mai ta sẽ sang đón về!" Nhị Thư đáp: "Thưa vâng" Hoắc bà bèn xin cáo biệt.
Tiễn Hoắc bà về rồi, Điền thị trở vào phòng, trải chăn nệm, bảo Nhị Thư lên giường nằm trước. Rồi Điền thị cởi quần áo, tắt đèn, lên nằm với Nhị Thư. Vừa đặt mình nằm, bỗng Điền thị lại vùng dậy, la lên:"Trời ơi! Quên chưa đóng cửa bếp! Suýt nữa thì đêm nay con chó nhà tôi lại vào lục lọi được một bữa no! Tiểu nương cứ nằm ở đây, để tôi xuống bếp đóng cửa rồi lại lên ngay!" Nói xong, vụt ngồi dậy mặc quần áo rồi xuống bếp.
Vạn Bảo đổi quần áo với vợ xong, liền giả làm Điền thị, lên phòng ngủ, khóa chặt cửa, rồi cứ mặc nguyên quần áo của vợ mà leo lên giường. Nhị Thư nói giọng run run:"Để tiểu nữ bắt đầu đấm bóp hầu nương tử nhé!" Vạn Bảo nằm im chẳng đáp. Nhị Thư bèn nắm tay đấm lưng cho Vạn Bảo rồi dần dần luồn tay sang bụng, xuống rốn, xuống nữa, xuống nữa. Chợt Nhị Thư dừng tay, vẻ mặt cực kỳ kinh hãi, tựa như kẻ nắm phải rắn rết. Nhị Thư vội tụt xuống giường, toan đẩy cửa chạy ra ngoài, song cửa đã bị khóa. Vạn Bảo cũng kinh hãi, sợ Nhị Thư làm to chuyện, vội lớn tiếng gọi vợ:"Nàng hãy thắp đèn đem lên đây ngay cho ta!" Ở dưới bếp, nghe tiếng chồng gọi, Điền thị cũng kinh hãi, nghĩ rằng chuyện đã vỡ lở. Bèn thắp đèn đem lên, định bụng sẽ năn nỉ điều đình với Nhị Thư giùm chồng cho êm chuyện. Vạn Bảo ra mở cửa cho vợ vào.
Hai vợ chồng còn đang đưa mắt nhìn nhau như để tìm lời xin lỗi thì chợt thấy Nhị Thư quỳ xuống đất, lạy như tế sao. Hai vợ chồng cùng trố mắt nhìn nhau, chẳng hiểu tại sao. Nhị Thư lên tiếng:"Xin tiên sinh và nương tử tha tội cho!" Vạn Bảo ngạc nhiên, hỏi:"Tiểu nương có tội chi mà phải xin tha?" Đáp:"Thú thực với tiên sinh và nương tử, tiểu nhân chẳng phải là nữ tử mà là nam nhân!" Nghe Nhị Thư nói thế, Vạn Bảo hoàn hồn, quay qua hoạnh hoẹ:"Tên họ thực của mi là chi?" Nhị Thư đáp:"Tiểu nhân đúng là người họ Vương, song tên là Nhị Hỷ chứ chẳng phải Nhị Thư" Hỏi:"Quê quán mi ở đâu?" Đáp:"Ở hang núi Cốc Thành, tỉnh Thiểm Tây" Hỏi:"Ai xui mi giả gái?" Đáp:"Con yêu Tang Xung" Hỏi:"Ai giới thiệu mi với con yêu?" Đáp:"Gia huynh" Hỏi:"Anh mi tên chi?" Đáp:"Tên Đại Hỷ" Hỏi:"Con yêu xui mi giả gái để làm chi?" Đáp:"Gia huynh cùng sáu người nữa rủ tiểu nhân lên Thái Sơn làm môn đệ con yêu. Nó dạy bọn tiểu nhân thuật hóa trang làm nữ tử, rồi dạy thuật đấm bóp cho phụ nữ để mê hoặc mà thông dâm" Hỏi:"Mi đã mê hoặc được bao nhiêu phụ nữ rồi?" Đáp:"Vì tiểu nhân mới xuống núi được ít lâu nên mới mê hoặc được mười sáu người thôi!" Nói:"Ta sẽ trói mi giải lên quan tể để quan xử tội! Thế nào quan cũng ghép mi vào tội tử hình!" Nhị Hỷ oà lên khóc rồi van lạy:"Xin tiên sinh và nương tử tha mạng cho tiểu nhân!" Thấy Nhị Hỷ đẹp trai, tuấn tú, Vạn Bảo cũng chẳng nỡ để y bị chết chém, bèn quay qua hỏi vợ:"Nàng nghĩ sao? Có nên tha mạng cho y không?" Điền thị gật đầu. Vạn Bảo nói:"Tha mạng thì được chứ tha tội thì không!" Rồi bảo vợ:"Nàng hãy xuống bếp lấy cuộn dây thừng với con dao sắc lên đây cho ta" Điền thị làm theo lời chồng. Vạn Bảo liền bẻ quặt hai cánh tay Nhị Hỷ ra sau lưng, trói chặt lại, bế lên giường, đặt nằm ngửa, trói hai chân vào cột giường, rồi lột quần, lấy dao xẻo đứt hạ bộ. Máu chảy lênh láng, Nhị Hỷ đau quá ngất đi. Vạn Bảo bèn đem hạ bộ của Nhị Hỷ ra vườn sau chôn. Điền thị thì đi lấy nước lau chùi hết mọi vết máu ở trong phòng.
Chôn hạ bộ của Nhị Hỷ xong, Vạn Bảo vào nhà lục rương tìm thuốc, dịt vào vết thương cho Nhị Hỷ rồi lấy chăn đắp cho. Hai vợ chồng ngồi chờ xem vết thương của Nhị Hỷ biến chuyển ra sao. Lát sau, thấy vết thương cầm máu rồi Nhị Hỷ tỉnh lại, Vạn Bảo bèn cởi trói cho, nói: "Bây giờ, nếu mi chịu ở lại đây làm đày tớ không công cho vợ chồng ta suốt đời thì ta sẽ tha mạng cho. Bằng không, sáng mai ta sẽ chở mi lên huyện nạp quan tể!" Nhị Hỷ thều thào đáp:"Tiểu nhân xin ở lại đây làm đày tớ hầu hạ tiên sinh và nương tử suốt đời!"
Sáng sau, Hoắc bà sang đón Nhị Thư về. Gặp Vạn Bảo, Hoắc bà hỏi:"Tiện nữ đâu?" Vạn Bảo đáp:"Đang nằm ở trong phòng" rồi vừa dắt Hoắc bà vào phòng vừa nói: "Tưởng nó là ai, hóa ra là con gái gia tỉ. Gia tỉ mới gả chồng cho nó năm ngoái song vì nó ái nam ái nữ nên bị chồng đuổi, phải chạy tới nhà lão bà xin tạm trú. Đêm qua, nghe nó kể lai lịch, tiện nội mới nhận ra nó là điệt nữ của tiểu sinh. Nó kể lai lịch xong thì bị xúc động quá mà sinh bệnh, phải nằm nghỉ" Hoắc bà vào phòng, thấy Nhị Hỷ mặt xám như tro thì tin ngay lời Vạn Bảo. Bèn tới gần giường, hỏi:"Tiểu nhi làm sao thế?" Nhị Hỷ thều thào đáp:"Đêm qua, tự nhiên chỗ kín của tiểu nữ bị sưng lên. Tiểu nữ đang lo là bị ung thư"
Nghe thấy thế, Hoắc bà lại tin ngay. Vạn Bảo nói:"Tiểu sinh sắp ra chợ nhờ thày lang hốt thuốc cho nó. Nhân thể, sẽ ghé qua báo tin cho gia tỉ biết rồi xin cho nó được ở lại tệ xá làm nghĩa nữ, bàu bạn với tiện nội" Hoắc bà tỏ ý tán thành rồi xin cáo biệt.
Vạn Bảo ra chợ phao tin là cháu gái mình bị tai nạn rồi tới phòng mạch thày lang mua thuốc uống và thuốc dịt, đem về điều trị cho Nhị Hỷ. Vết thương của Nhị Hỷ đỡ dần rồi khỏi hẳn. Nhị Hỷ giữ lời, ở lại hầu hạ vợ chồng Vạn Bảo. Hàng ngày, Nhị Hỷ phụ giúp Điền thị nấu ăn, quét dọn, khâu vá, cứ như là vợ lẽ của Vạn Bảo vậy.
Nửa năm sau.
Một hôm, quan tể Đông Xương nhận được tờ trình của dân chúng, thưa rằng có một con yêu cùng bảy môn đệ hóa trang làm nữ tử, giả danh hành nghề đấm bóp cho phụ nữ, đi mê hoặc phụ nữ trong huyện để thông dâm. Quan liền ra lệnh cho lính rình bắt.
Lính rình rập, vây bắt được cả bọn, đem về trình quan. Quan liền ra lệnh tra tấn. Bị khảo đả đau quá, cả bọn cùng nhận tội. Quan quát hỏi:"Tên nào là đầu sỏ của tụi bay?" Chúng cùng chỉ con yêu rồi đồng thanh đáp: "Bẩm đại quan, chính là con yêu này!" Hỏi:"Y tên chi?" Cả bọn lại đồng thanh đáp:"Bẩm đại quan, y tên Tang Xung!" Quan quay nhìn Tang Xung, quát hỏi:"Bay chỉ có bảy tên môn đệ này hay là còn nhiều tên khác nữa?" Tang Xung chỉ Vương Đại Hỷ, đáp:"Bẩm đại quan, còn một tên nữa, em trai tên này!" Hỏi:"Y tên chi?" Đáp:"Bẩm đại quan, y tên Vương Nhị Hỷ!" Hỏi:"Hiện thời y ở đâu?" Đáp:"Bẩm đại quan, tiểu nhân không được rõ!"
Quan bèn lên án tử hình cả tám tên, truyền cho lính đem ra chợ chém rồi bêu đầu. Quan lại ra bố cáo cho dân chúng trong huyện rõ:"Ai biết tung tích của Vương Nhị Hỷ ở đâu thì phải cáo giác ngay. Nếu biết mà không cáo giác thì sẽ bị coi như đồng lõa"
Dân thôn Vĩnh Lạc nghi ngờ Vương Nhị Thư là Vương Nhị Hỷ nên kéo nhau tới nhà Hoắc bà, nhờ Hoắc bà sang nhà Vạn Bảo dò xét. Vì sợ bị ghép tội đồng lõa, Hoắc bà phải nhận lời.
Một trưa, Hoắc bà rình biết Nhị Hỷ đang ngủ, bèn sang nhà Vạn Bảo xin phép được vào phòng Nhị Hỷ nói chuyện. Vạn Bảo ưng thuận. Hoắc bà vào phòng, thấy Nhị Hỷ đang ngủ say, liền luồn tay vào quần để dò xét thì thấy phẳng lì. Hoắc bà bèn về kể lại cho thôn dân nghe. Từ đó, thôn dân mới hết nghi ngờ.
Nhị Hỷ thầm cám ơn vợ chồng Vạn Bảo đã tha mạng cho mình nên tận tụy phụng sự hai vợ chồng. Bảy năm sau.
Nhị Hỷ bị bệnh rồi chết. Vợ chồng Vạn Bảo bèn cho chôn cất Nhị Hỷ trong nghĩa trang riêng của gia đình họ Mã, ở góc tây nam thôn Vĩnh Lạc. Tới nay, ngôi mộ ấy vẫn còn.
THIỆN ÁC KHÓ PHÂN
(truyện LƯU TÍNH)
Hoang niên phu phụ lại hoàn toàn
Tam bách thanh đồng thọ khả diên
Ngã nguyện thế nhân tri thử ý
Tích công nguyên bất tại đa tiền
Cuối triều Minh, năm Canh Thìn (1640), niên hiệu Sùng Trinh thứ 13, ở huyện Chuy, tỉnh Sơn Đông, có người cai lệ họ Lưu tên Tích, được quan tể cho cai quản một toán lính lệ, chuyên đi lùng bắt phạm nhân.
Năm ấy, vùng Sơn Đông bị mất mùa. Vì thiếu gạo ăn, một số dân nghèo phải ăn thịt người.
Một hôm, Lưu Tích ra chợ mua gạo và dầu ăn. Dọc đường, thấy một cặp vợ chồng trẻ đang ngồi ôm nhau khóc ở bên đường, Lưu Tích tới gần, hỏi:"Vợ chồng anh tên chi?" Người chồng đáp:"Tôi họ Phương tên Đán, còn vợ tôi đây họ Liễu" Hỏi:"Tại sao lại khóc?" Đáp:"Vợ chồng chúng tôi mới lấy nhau được hơn mười tháng. Năm nay trời làm đói kém, chúng tôi thấy khó lòng mà sống qua nạn đói này để được đoàn tụ với nhau nên buồn khổ mà khóc!" Lưu Tích chẳng hỏi chi thêm, ra chợ mua gạo.
Lát sau, Lưu Tích vào mua dầu ăn ở tiệm của chủ nhân họ Mã, tên Thành thì lại gặp vợ chồng Phương Đán. Thấy Phương Đán đang to tiếng với Mã Thành, Lưu Tích hiếu kỳ, bèn tới gần, hỏi:"Có chuyện gì thế?" Mã Thành đáp:"Vợ chồng y đói gần chết, ngày nào cũng tới đây xin ăn. Hôm nay y lại đem vợ tới đây, bắt tôi phải mua với giá cao! Ông thử nghĩ xem làm như thế có nực cười không?" Phương Đán liền phân trần với Lưu Tích:"Tôi có bắt ông ấy phải mua vợ tôi với giá cao đâu! Tôi chỉ xin ông ấy mua giúp tôi với giá 300 đồng để tôi có đủ lộ phí mà thoát khỏi vùng này thôi!" Lưu Tích hỏi Mã Thành:"Sao ông không mua giúp y?" Mã Thành đáp:"Năm nay thiếu gì người nghèo bán vợ? Tôi đã mua giúp mười mấy người rồi, đâu có cần phải mua thêm nữa? Bây giờ nếu y chịu bán rẻ thì tôi mua giúp, còn nếu y đòi đắt quá thì thôi!" Lưu Tính quay qua hỏi Phương Đán: "Sao anh lại đòi đắt thế?" Phương Đán đáp: "Năm nay gạo quý như ngọc. Vợ chồng chúng tôi đã bàn tính với nhau hết lẽ, thấy chỉ còn có cách là tôi phải đem vợ đi bán để cả hai vợ chồng cùng được sống sót. Tôi tính nếu không bán được vợ với giá 300 đồng thì chẳng thể nào có đủ lộ phí mà thoát khỏi vùng này! Ông thử nghĩ xem, bán vợ để sống thì mới bán chứ bán vợ để chết thì bán làm gì?" Nghe thấy thế, Lưu Tích động lòng thương hại hai vợ chồng. Bèn hỏi Mã Thành:"Ông trả giá bao nhiêu?" Mã Thành đáp:"Tôi trả theo thời giá!" Lưu Tích hỏi: "Thời giá là bao nhiêu?" Mã Thành đáp: "Hôm nay giá đàn bà chỉ có 100 đồng một người thôi!" Lưu Tích bèn ra tay nghĩa hiệp, nói:"Ông chỉ cần mua giúp y với giá 150 đồng thôi, còn tôi sẽ cho y 150 đồng!" Mã Thành nói: "Tôi đâu có cần phải mua với giá cao như thế? Nếu y bằng lòng bán với giá 100 đồng thì tôi mua giúp chứ nếu y đòi thêm một đồng thì tôi nhất định chẳng mua!" Bỗng Lưu Tích tỏ vẻ bất bình với Mã Thành, rồi quay qua nói với Phương Đán :"Anh chẳng cần phải năn nỉ nữa! Để tôi cho hai vợ chồng anh 300 đồng! Hai vợ chồng anh có thể dắt nhau thoát khỏi vùng này mà đoàn tụ với nhau!" Nói xong, dốc túi đếm tiền cho hai vợ chồng. Hai vợ chồng cùng ngỡ ngàng, sụp xuống đất lạy tạ Lưu Tích rồi đứng dậy cầm tiền, dắt nhau đi.
Trong huyện, Lưu Tích có quen một phú thương họ Lý, tên Vĩnh Khang, tên chữ Thúy Thạch. Thúy Thạch có tính thương người, gặp ai hoạn nạn cũng vui vẻ giúp đỡ, chẳng hề tính toán thiệt hơn. Lưu Tích nể Thúy Thạch lắm. Vì huyện Chuy thưa dân nên Thúy Thạch di cư sang lập nghiệp ở huyện Nghi, mở tiệm cầm đồ.
Lưu Tích làm cai lệ ở huyện Chuy được hơn hai mươi năm thì xin nghỉ việc. Quan tể chấp thuận.
Từ khi nghỉ việc, Lưu Tích đổi hẳn tính nết, trở thành người hung ác nhất huyện. Bị huyện dân chán ghét rồi tẩy chay, Lưu Tích bèn tính chuyện di cư. Nghĩ tới Thúy Thạch, Lưu Tích liền quyết định dọn sang định cư ở huyện Nghi, mua nhà tậu ruộng ở làng Chu. Tới trú quán mới, Lưu Tích vẫn giữ nguyên tính hung ác cũ.
Ở làng Chu có nông dân họ Miêu, tên Thắng, tính tình hiền lành chất phác, chăm chỉ làm ăn. Miêu Thắng có một mẫu ruộng ở ngoài đồng nên chiết mấy cành đào ở nhà đem ra trồng ở bờ ruộng. Lưu Tích tậu mấy mẫu ruộng thì tình cờ lại chung bờ với ruộng của Miêu Thắng. Thấy trên bờ ruộng chung có mấy cây đào, Lưu Tích chẳng thèm hỏi người bán, cứ cho ngay là đào thuộc ruộng mình.
Một hôm, đứa con út của Miêu Thắng ra thăm ruộng. Thấy đào đã chín, đứa bé hái ăn. Hôm ấy, tình cờ Lưu Tích cũng ra thăm ruộng. Thấy đứa bé hái đào, Lưu Tích nổi giận, mắng chửi đuổi đi. Đứa bé khóc lóc, chạy về mách cha. Miêu Thắng còn đang kinh ngạc thì đã thấy Lưu Tích tới tận ngõ nhà mình mà thóa mạ, dọa sẽ đi kiện nơi quan tể. Miêu Thắng sợ quá, vội chạy ra cổng, gượng cười xin lỗi. Lưu Tích đứng hậm hực hồi lâu rồi mới ra về.
Sáng sau, Lưu Tích viết đơn kiện Miêu Thắng rồi đem lên huyện. Tới huyện, gặp Thúy Thạch ở ngoài đường. Thúy Thạch hỏi:"Anh lên đây có chuyện chi?" Lưu Tích đáp:"Tôi đi kiện thằng cha Miêu Thắng" Hỏi:"Anh kiện hắn về tội gì?" Đáp:"Về tội hắn đoạt mấy cây đào của tôi rồi để cho con hắn hái đào ăn" Nói xong, đưa đơn kiện cho Thúy Thạch coi. Thúy Thạch cười, nói:"Tôi cũng quen Miêu Thắng. Hắn là người hiền lành tốt bụng, lẽ nào lại đi đoạt mấy cây đào của anh? Ở huyện này, bây giờ ai cũng đồn rằng anh đã đổi tính, trở thành kẻ hung ác. Vì thế, tôi chắc là anh đoạt mấy cây đào của hắn thì đúng hơn!" Nói xong, Thúy Thạch đọc qua loa đơn kiện rồi xé đi, bảo Lưu Tích theo mình về tiệm nói chuyện. Vốn nể Thúy Thạch, Lưu Tích đành phải theo lời song trong lòng vẫn còn hậm hực và vẫn giữ ý định đi kiện Miêu Thắng.
Tới tiệm, Thúy Thạch thấy có nhiều khách đang chờ mình, vội quay ra tiếp. Nhân lúc Thúy Thạch bận việc, Lưu Tích lén lấy giấy bút trong tiệm, viết một đơn kiện khác, rồi gấp lại, giấu vào túi áo.
Lát sau, tình cờ Miêu Thắng cũng ở làng Chu lên huyện có việc, ghé vào tiệm thăm Thúy Thạch. Thúy Thạch liền thuật cho Miêu Thắng nghe chuyện Lưu Tích viết đơn kiện. Miêu Thắng kinh hãi quá, vội trình bày đầu đuôi câu chuyện, rồi nói:"Tôi là dân cày. Quá nửa đời người chưa từng phải bước chân tới cửa quan. Nay nếu ông ấy chịu bãi bỏ vụ kiện thì tôi xin vui lòng biếu ông ấy mấy cây đào, chẳng dám nhận là của tôi nữa!"
Thúy Thạch bèn bảo Lưu Tích theo mình vào nhà trong, rồi thuật lại ý kiến của Miêu Thắng cho nghe. Lưu Tích ngần ngừ hồi lâu rồi mới ưng thuận. Hai người lại trở ra cửa tiệm.
Thúy Thạch báo tin cho Miêu Thắng biết. Miêu Thắng mừng lắm nhưng Lưu Tích thì vẫn còn hậm hực. Lưu Tích lại chỉ mặt Miêu Thắng mà thóa mạ còn Miêu Thắng thì cứ đứng im, chẳng dám cãi. Lát sau Miêu Thắng xin cáo biệt. Miêu Thắng đi rồi mà Lưu Tích vẫn còn đứng chỉ trời vạch đất, thóa mạ Miêu Thắng hồi lâu rồi mới chịu ra về.
Năm hôm sau, có người ở làng Chu lên huyện thành, vào tiệm Thúy Thạch, báo tin cho Thúy Thạch biết là Lưu Tích đã chết. Thúy Thạch nghe tin cũng cảm thấy thương hại Lưu Tích.
Tháng sau, Thúy Thạch có việc phải về làng Chu. Tới làng, thấy ở đằng xa có người trông giống Lưu Tích, đang chống gậy đi lại phía mình, Thúy Thạch kinh ngạc lắm. Khi người ấy tới gần, Thúy Thạch nhận ra đúng là Lưu Tích thì lại càng kinh ngạc. Trái lại, Lưu Tích thấy Thúy Thạch thì vồn vã chạy tới hỏi thăm:"Anh Lý đó ư? Về đây làm gì? Vẫn được mạnh khoẻ đấy chứ?" Thúy Thạch chỉ gật đầu, mắt cứ nhìn tròng trọc vào mặt Lưu Tích. Lưu Tích lại nói:"Xin mời anh về nhà tôi nghỉ ngơi để ta cùng yến ấm, hàn huyên!" Thúy Thạch ngần ngừ hồi lâu rồi nói:"Tháng trước, tôi nghe đồn là anh đã chết! Nay gặp anh ở đây tôi mới biết là thiên hạ đồn nhảm!" Lưu Tích chẳng đáp lời, chỉ mời Thúy Thạch theo mình về nhà.
Tới nhà, Lưu Tích sai gia nhân bày tiệc đãi khách. Trong lúc yến ẩm, đột nhiên Lưu Tích nói:"Cám ơn anh đã đứng ra hoà giải vụ mấy cây đào giữa tôi với Miêu Thắng!" Thúy Thạch nói:"Anh đã biết lỗi về phần mình như thế là tốt rồi!" Lưu Tích lại nói:"Hồi sáng, anh có nói là thiên hạ đồn nhảm rằng tôi đã chết! Quả tình, tôi đã chết thực! Chết từ hôm mồng 2 tháng trước rồi!" Thúy Thạch kinh ngạc, hỏi:"Anh đã chết rồi mà sao bây giờ vẫn còn sống?" Đáp:"Để tôi thuật lại cho anh nghe. Sáng hôm mồng 2 tháng trước, tôi đi thăm ruộng. Vừa ra khỏi cổng thì gặp hai tên lính lệ tới nhà, bắt tôi phải đi theo chúng lên trình diện quan. Tôi hỏi Quan nào? thì chúng đáp Không biết! Vì đã làm cai lệ nơi huyện đường trên hai mươi năm, tôi đâu có ngán gì việc lên trình diện quan! Tôi liền mạnh dạn đi theo chúng. Chúng dẫn tôi đi thực xa. Tới một cung điện, chúng mở cổng, dẫn tôi lên hành lang, rồi mở cửa công đường, đẩy tôi vào, còn chúng thì đứng ở bên ngoài!" Hỏi:"Cung điện ở đâu?" Đáp:"Ở âm phủ!" Hỏi:"Sao anh biết là ở âm phủ?" Đáp:"Khi vào công đường, tôi thấy mấy chục quỷ sứ cầm khí giới đứng dàn hai bên bục thì tôi biết ngay là cung điện của Diêm Vương!" Hỏi:"Anh có nhìn thấy Diêm Vương không?" Đáp:"Có! Tôi ngửng đầu nhìn lên bục thì thấy Diêm Vương ngồi quay mặt về hướng nam, sắc mặt đầy vẻ giận dữ. Tôi nhìn vào góc công đường thì thấy một viên chủ bạ đứng bưng một cuốn sổ!" Hỏi:"Diêm Vương có nói gì với anh không?" Đáp:"Có! Vừa thấy mặt tôi, Diêm Vương đã lớn tiếng hạch hỏi Có phải mi tên là Lưu Tích không? Tôi đáp Thưa phải! Diêm Vương nói Mi đã làm quá nhiều tội ác mà chẳng chịu hối cải! Loại người hoành hành ngang ngược như mi thì chỉ đáng cho vào vạc dầu! Bỗng viên chủ bạ bưng cuốn sổ bước tới cạnh thư án mà trình lên, rồi khoanh tay thưa Người này chưa đáng tội chết vì trước kia y có làm được một việc thiện! Diêm Vương cầm sổ đọc xong thì sắc mặt bớt vẻ giận dữ rồi phán Vậy thì hãy tạm thả cho y về! Mấy chục quỷ sứ cùng dạ ran. Một tên chạy ra hành lang gọi hai tên lính vào!" Thúy Thạch hỏi:"Anh có biết vì tội gì mà anh bị bắt xuống âm phủ không?" Lưu Tích đáp:"Có! Tôi hỏi viên chủ bạ thì ông ấy nói là vì tôi đoạt mấy cây đào của người khác làm vật của mình!" Thúy Thạch lại hỏi:"Thế anh có biết vì cớ gì mà anh lại được thả về không?" Lưu Tích đáp:"Có! Tôi hỏi viên chủ bạ thì ông ấy tới cạnh thư án của Diêm Vương bưng cuốn sổ xuống, chỉ vào một dòng chữ, bảo tôi đọc. Tôi đọc thấy như sau Niên hiệu Sùng Trinh thứ 13, Lưu Tích có dùng 300 đồng để giúp cho một cặp vợ chồng trẻ được đoàn tụ. Tôi đọc xong thì ông ấy nói May cho anh lắm! Nếu chẳng có việc này thì hôm nay anh đã phải tuyệt mạng và sẽ phải đi đầu thai làm súc vật! Nghe thấy thế, tôi kinh hãi lắm!" Hỏi:"Ai dẫn anh trở về dương thế?" Đáp:"Lại là hai tên lính đã tới nhà bắt tôi. Tôi đang nói chuyện với viên chủ bạ thì chúng ở hành lang bước vào, bảo tôi đi theo!" Hỏi:"Nghe nói ở âm phủ, lính cũng hay đòi tiền hối lộ như ở dương thế. Điều đó có đúng không?" Đáp:"Đúng! Vừa ra khỏi công đường, chúng đã đòi tôi phải nạp tiền hối lộ thì chúng mới chịu dẫn tôi trở về dương thế. Tôi nổi giận, nói Các ngươi chẳng biết Lưu mỗ này là ai hay sao? Ở dương thế, Lưu mỗ này đã làm cai lệ ở huyện đường trên hai chục năm trời! Chỉ có Lưu mỗ này mới dám đòi tiền hối lộ của kẻ khác chứ chưa có kẻ nào dám đòi tiền hối lộ của Lưu mỗ này cả! Sao bây giờ các ngươi lại dám cả gan tính chuyện ăn thịt con hổ già này vậy?" Nghe thấy thế, chúng nín khe chẳng dám hó hé chi nữa. Chúng đưa tôi về tận cổng nhà rồi cung kính chắp tay vái chào tôi mà nói Xin ông biết cho rằng chúng tôi đã đưa ông về tận nhà mà cũng chẳng dám xin ông lấy một ngụm nước để uống cho đỡ khát! Rồi chúng quay mình bỏ đi!" Hỏi:"Vào nhà, anh có thấy điều gì khác lạ không?" Đáp:"Có! Vào nhà, tôi thấy một linh cữu đang được quàn ở giữa phòng khách, thì biết là linh cữu của mình. Tôi bèn nhập vào xác ở bên trong mà sống lại!" Hỏi:"Lúc đó anh có biết là anh đã chết được bao lâu rồi không?" Đáp:"Có! Tôi hỏi lũ gia nhân thì chúng đều đáp rằng tôi đã chết được hai ngày!" Hỏi:"Thế còn việc anh giúp cho một cặp vợ chồng trẻ được đoàn tụ là như thế nào?" Lưu Tích bèn thuật lại cho Thúy Thạch nghe câu chuyện Phương Đán. Nghe xong, Thúy Thạch cứ ngợi khen Lưu Tích mãi.
Thế nhưng, năm sau, một hôm Thúy Thạch có việc phải về làng Chu thì lại thấy Lưu Tích đang đứng ở giữa đường mà cãi nhau với người ta. Dân làng xúm lại can song Lưu Tích vẫn chẳng chịu thôi. Thúy Thạch bèn tới gần, vẫy Lưu Tích ra một nơi mà hỏi:"Chắc là anh lại toan đi kiện người nào đó về mấy cây đào phải không?" Đột nhiên, Lưu Tích như người tỉnh mộng, biến đổi hẳn nét mặt, ấp úng hồi lâu rồi lủi thủi bỏ đi. Từ đó, Lưu Tích bớt hẳn tính hung ác. Năm Lưu Tích 70 tuổi, dân làng thấy Lưu Tích vẫn còn tráng kiện lắm.
Lại nói về chuyện Thúy Thạch. Cách huyện Chuy chừng ba mươi dặm về phía tây nam có con sông lớn tên Long Tuyền, làm cản trở sự lưu thông. Muốn qua sông, phải dùng đò. Năm ấy, cư dân trong vùng họp nhau lại bàn tính rồi quyết định quyên góp tiền bạc để bắc một cây cầu qua sông cho tiện việc đi lại. Thúy Thạch thấy họ quyên góp mãi mà vẫn chưa đủ nên bỏ gần hết sản nghiệp của mình ra giúp họ hoàn thành cây cầu.
Năm sau, dân thôn Tiêu thấy thế cũng bắt chước, quyết định quyên góp tiền bạc để sửa lại cây cầu cũ trong thôn. Thúy Thạch lại bỏ tiền ra giúp. Đang sửa dở dang thì Thúy Thạch qua đời. Em ruột Thúy Thạch là Vĩnh Dự, muốn hoàn thành ước nguyện của anh, liền bỏ tiền ra giúp họ sửa nốt cây cầu.
Thời ấy, quan tể huyện Chuy là người họ Trương, tên Công My. Thấy Thúy Thạch làm nhiều việc nghĩa, Trương công bèn tự tay viết bốn chữ khen tặng rồi thuê thợ khắc trên một bức hoành, sai lính đem tới biếu vợ con Thúy Thạch, bảo treo trước cổng nhà.
Dân chúng hai huyện Chuy và Nghi đều rất kính trọng Thúy Thạch.
Hoang niên phu phụ lại hoàn toàn
Tam bách thanh đồng thọ khả diên
Ngã nguyện thế nhân tri thử ý
Tích công nguyên bất tại đa tiền
Cuối triều Minh, năm Canh Thìn (1640), niên hiệu Sùng Trinh thứ 13, ở huyện Chuy, tỉnh Sơn Đông, có người cai lệ họ Lưu tên Tích, được quan tể cho cai quản một toán lính lệ, chuyên đi lùng bắt phạm nhân.
Năm ấy, vùng Sơn Đông bị mất mùa. Vì thiếu gạo ăn, một số dân nghèo phải ăn thịt người.
Một hôm, Lưu Tích ra chợ mua gạo và dầu ăn. Dọc đường, thấy một cặp vợ chồng trẻ đang ngồi ôm nhau khóc ở bên đường, Lưu Tích tới gần, hỏi:"Vợ chồng anh tên chi?" Người chồng đáp:"Tôi họ Phương tên Đán, còn vợ tôi đây họ Liễu" Hỏi:"Tại sao lại khóc?" Đáp:"Vợ chồng chúng tôi mới lấy nhau được hơn mười tháng. Năm nay trời làm đói kém, chúng tôi thấy khó lòng mà sống qua nạn đói này để được đoàn tụ với nhau nên buồn khổ mà khóc!" Lưu Tích chẳng hỏi chi thêm, ra chợ mua gạo.
Lát sau, Lưu Tích vào mua dầu ăn ở tiệm của chủ nhân họ Mã, tên Thành thì lại gặp vợ chồng Phương Đán. Thấy Phương Đán đang to tiếng với Mã Thành, Lưu Tích hiếu kỳ, bèn tới gần, hỏi:"Có chuyện gì thế?" Mã Thành đáp:"Vợ chồng y đói gần chết, ngày nào cũng tới đây xin ăn. Hôm nay y lại đem vợ tới đây, bắt tôi phải mua với giá cao! Ông thử nghĩ xem làm như thế có nực cười không?" Phương Đán liền phân trần với Lưu Tích:"Tôi có bắt ông ấy phải mua vợ tôi với giá cao đâu! Tôi chỉ xin ông ấy mua giúp tôi với giá 300 đồng để tôi có đủ lộ phí mà thoát khỏi vùng này thôi!" Lưu Tích hỏi Mã Thành:"Sao ông không mua giúp y?" Mã Thành đáp:"Năm nay thiếu gì người nghèo bán vợ? Tôi đã mua giúp mười mấy người rồi, đâu có cần phải mua thêm nữa? Bây giờ nếu y chịu bán rẻ thì tôi mua giúp, còn nếu y đòi đắt quá thì thôi!" Lưu Tính quay qua hỏi Phương Đán: "Sao anh lại đòi đắt thế?" Phương Đán đáp: "Năm nay gạo quý như ngọc. Vợ chồng chúng tôi đã bàn tính với nhau hết lẽ, thấy chỉ còn có cách là tôi phải đem vợ đi bán để cả hai vợ chồng cùng được sống sót. Tôi tính nếu không bán được vợ với giá 300 đồng thì chẳng thể nào có đủ lộ phí mà thoát khỏi vùng này! Ông thử nghĩ xem, bán vợ để sống thì mới bán chứ bán vợ để chết thì bán làm gì?" Nghe thấy thế, Lưu Tích động lòng thương hại hai vợ chồng. Bèn hỏi Mã Thành:"Ông trả giá bao nhiêu?" Mã Thành đáp:"Tôi trả theo thời giá!" Lưu Tích hỏi: "Thời giá là bao nhiêu?" Mã Thành đáp: "Hôm nay giá đàn bà chỉ có 100 đồng một người thôi!" Lưu Tích bèn ra tay nghĩa hiệp, nói:"Ông chỉ cần mua giúp y với giá 150 đồng thôi, còn tôi sẽ cho y 150 đồng!" Mã Thành nói: "Tôi đâu có cần phải mua với giá cao như thế? Nếu y bằng lòng bán với giá 100 đồng thì tôi mua giúp chứ nếu y đòi thêm một đồng thì tôi nhất định chẳng mua!" Bỗng Lưu Tích tỏ vẻ bất bình với Mã Thành, rồi quay qua nói với Phương Đán :"Anh chẳng cần phải năn nỉ nữa! Để tôi cho hai vợ chồng anh 300 đồng! Hai vợ chồng anh có thể dắt nhau thoát khỏi vùng này mà đoàn tụ với nhau!" Nói xong, dốc túi đếm tiền cho hai vợ chồng. Hai vợ chồng cùng ngỡ ngàng, sụp xuống đất lạy tạ Lưu Tích rồi đứng dậy cầm tiền, dắt nhau đi.
Trong huyện, Lưu Tích có quen một phú thương họ Lý, tên Vĩnh Khang, tên chữ Thúy Thạch. Thúy Thạch có tính thương người, gặp ai hoạn nạn cũng vui vẻ giúp đỡ, chẳng hề tính toán thiệt hơn. Lưu Tích nể Thúy Thạch lắm. Vì huyện Chuy thưa dân nên Thúy Thạch di cư sang lập nghiệp ở huyện Nghi, mở tiệm cầm đồ.
Lưu Tích làm cai lệ ở huyện Chuy được hơn hai mươi năm thì xin nghỉ việc. Quan tể chấp thuận.
Từ khi nghỉ việc, Lưu Tích đổi hẳn tính nết, trở thành người hung ác nhất huyện. Bị huyện dân chán ghét rồi tẩy chay, Lưu Tích bèn tính chuyện di cư. Nghĩ tới Thúy Thạch, Lưu Tích liền quyết định dọn sang định cư ở huyện Nghi, mua nhà tậu ruộng ở làng Chu. Tới trú quán mới, Lưu Tích vẫn giữ nguyên tính hung ác cũ.
Ở làng Chu có nông dân họ Miêu, tên Thắng, tính tình hiền lành chất phác, chăm chỉ làm ăn. Miêu Thắng có một mẫu ruộng ở ngoài đồng nên chiết mấy cành đào ở nhà đem ra trồng ở bờ ruộng. Lưu Tích tậu mấy mẫu ruộng thì tình cờ lại chung bờ với ruộng của Miêu Thắng. Thấy trên bờ ruộng chung có mấy cây đào, Lưu Tích chẳng thèm hỏi người bán, cứ cho ngay là đào thuộc ruộng mình.
Một hôm, đứa con út của Miêu Thắng ra thăm ruộng. Thấy đào đã chín, đứa bé hái ăn. Hôm ấy, tình cờ Lưu Tích cũng ra thăm ruộng. Thấy đứa bé hái đào, Lưu Tích nổi giận, mắng chửi đuổi đi. Đứa bé khóc lóc, chạy về mách cha. Miêu Thắng còn đang kinh ngạc thì đã thấy Lưu Tích tới tận ngõ nhà mình mà thóa mạ, dọa sẽ đi kiện nơi quan tể. Miêu Thắng sợ quá, vội chạy ra cổng, gượng cười xin lỗi. Lưu Tích đứng hậm hực hồi lâu rồi mới ra về.
Sáng sau, Lưu Tích viết đơn kiện Miêu Thắng rồi đem lên huyện. Tới huyện, gặp Thúy Thạch ở ngoài đường. Thúy Thạch hỏi:"Anh lên đây có chuyện chi?" Lưu Tích đáp:"Tôi đi kiện thằng cha Miêu Thắng" Hỏi:"Anh kiện hắn về tội gì?" Đáp:"Về tội hắn đoạt mấy cây đào của tôi rồi để cho con hắn hái đào ăn" Nói xong, đưa đơn kiện cho Thúy Thạch coi. Thúy Thạch cười, nói:"Tôi cũng quen Miêu Thắng. Hắn là người hiền lành tốt bụng, lẽ nào lại đi đoạt mấy cây đào của anh? Ở huyện này, bây giờ ai cũng đồn rằng anh đã đổi tính, trở thành kẻ hung ác. Vì thế, tôi chắc là anh đoạt mấy cây đào của hắn thì đúng hơn!" Nói xong, Thúy Thạch đọc qua loa đơn kiện rồi xé đi, bảo Lưu Tích theo mình về tiệm nói chuyện. Vốn nể Thúy Thạch, Lưu Tích đành phải theo lời song trong lòng vẫn còn hậm hực và vẫn giữ ý định đi kiện Miêu Thắng.
Tới tiệm, Thúy Thạch thấy có nhiều khách đang chờ mình, vội quay ra tiếp. Nhân lúc Thúy Thạch bận việc, Lưu Tích lén lấy giấy bút trong tiệm, viết một đơn kiện khác, rồi gấp lại, giấu vào túi áo.
Lát sau, tình cờ Miêu Thắng cũng ở làng Chu lên huyện có việc, ghé vào tiệm thăm Thúy Thạch. Thúy Thạch liền thuật cho Miêu Thắng nghe chuyện Lưu Tích viết đơn kiện. Miêu Thắng kinh hãi quá, vội trình bày đầu đuôi câu chuyện, rồi nói:"Tôi là dân cày. Quá nửa đời người chưa từng phải bước chân tới cửa quan. Nay nếu ông ấy chịu bãi bỏ vụ kiện thì tôi xin vui lòng biếu ông ấy mấy cây đào, chẳng dám nhận là của tôi nữa!"
Thúy Thạch bèn bảo Lưu Tích theo mình vào nhà trong, rồi thuật lại ý kiến của Miêu Thắng cho nghe. Lưu Tích ngần ngừ hồi lâu rồi mới ưng thuận. Hai người lại trở ra cửa tiệm.
Thúy Thạch báo tin cho Miêu Thắng biết. Miêu Thắng mừng lắm nhưng Lưu Tích thì vẫn còn hậm hực. Lưu Tích lại chỉ mặt Miêu Thắng mà thóa mạ còn Miêu Thắng thì cứ đứng im, chẳng dám cãi. Lát sau Miêu Thắng xin cáo biệt. Miêu Thắng đi rồi mà Lưu Tích vẫn còn đứng chỉ trời vạch đất, thóa mạ Miêu Thắng hồi lâu rồi mới chịu ra về.
Năm hôm sau, có người ở làng Chu lên huyện thành, vào tiệm Thúy Thạch, báo tin cho Thúy Thạch biết là Lưu Tích đã chết. Thúy Thạch nghe tin cũng cảm thấy thương hại Lưu Tích.
Tháng sau, Thúy Thạch có việc phải về làng Chu. Tới làng, thấy ở đằng xa có người trông giống Lưu Tích, đang chống gậy đi lại phía mình, Thúy Thạch kinh ngạc lắm. Khi người ấy tới gần, Thúy Thạch nhận ra đúng là Lưu Tích thì lại càng kinh ngạc. Trái lại, Lưu Tích thấy Thúy Thạch thì vồn vã chạy tới hỏi thăm:"Anh Lý đó ư? Về đây làm gì? Vẫn được mạnh khoẻ đấy chứ?" Thúy Thạch chỉ gật đầu, mắt cứ nhìn tròng trọc vào mặt Lưu Tích. Lưu Tích lại nói:"Xin mời anh về nhà tôi nghỉ ngơi để ta cùng yến ấm, hàn huyên!" Thúy Thạch ngần ngừ hồi lâu rồi nói:"Tháng trước, tôi nghe đồn là anh đã chết! Nay gặp anh ở đây tôi mới biết là thiên hạ đồn nhảm!" Lưu Tích chẳng đáp lời, chỉ mời Thúy Thạch theo mình về nhà.
Tới nhà, Lưu Tích sai gia nhân bày tiệc đãi khách. Trong lúc yến ẩm, đột nhiên Lưu Tích nói:"Cám ơn anh đã đứng ra hoà giải vụ mấy cây đào giữa tôi với Miêu Thắng!" Thúy Thạch nói:"Anh đã biết lỗi về phần mình như thế là tốt rồi!" Lưu Tích lại nói:"Hồi sáng, anh có nói là thiên hạ đồn nhảm rằng tôi đã chết! Quả tình, tôi đã chết thực! Chết từ hôm mồng 2 tháng trước rồi!" Thúy Thạch kinh ngạc, hỏi:"Anh đã chết rồi mà sao bây giờ vẫn còn sống?" Đáp:"Để tôi thuật lại cho anh nghe. Sáng hôm mồng 2 tháng trước, tôi đi thăm ruộng. Vừa ra khỏi cổng thì gặp hai tên lính lệ tới nhà, bắt tôi phải đi theo chúng lên trình diện quan. Tôi hỏi Quan nào? thì chúng đáp Không biết! Vì đã làm cai lệ nơi huyện đường trên hai mươi năm, tôi đâu có ngán gì việc lên trình diện quan! Tôi liền mạnh dạn đi theo chúng. Chúng dẫn tôi đi thực xa. Tới một cung điện, chúng mở cổng, dẫn tôi lên hành lang, rồi mở cửa công đường, đẩy tôi vào, còn chúng thì đứng ở bên ngoài!" Hỏi:"Cung điện ở đâu?" Đáp:"Ở âm phủ!" Hỏi:"Sao anh biết là ở âm phủ?" Đáp:"Khi vào công đường, tôi thấy mấy chục quỷ sứ cầm khí giới đứng dàn hai bên bục thì tôi biết ngay là cung điện của Diêm Vương!" Hỏi:"Anh có nhìn thấy Diêm Vương không?" Đáp:"Có! Tôi ngửng đầu nhìn lên bục thì thấy Diêm Vương ngồi quay mặt về hướng nam, sắc mặt đầy vẻ giận dữ. Tôi nhìn vào góc công đường thì thấy một viên chủ bạ đứng bưng một cuốn sổ!" Hỏi:"Diêm Vương có nói gì với anh không?" Đáp:"Có! Vừa thấy mặt tôi, Diêm Vương đã lớn tiếng hạch hỏi Có phải mi tên là Lưu Tích không? Tôi đáp Thưa phải! Diêm Vương nói Mi đã làm quá nhiều tội ác mà chẳng chịu hối cải! Loại người hoành hành ngang ngược như mi thì chỉ đáng cho vào vạc dầu! Bỗng viên chủ bạ bưng cuốn sổ bước tới cạnh thư án mà trình lên, rồi khoanh tay thưa Người này chưa đáng tội chết vì trước kia y có làm được một việc thiện! Diêm Vương cầm sổ đọc xong thì sắc mặt bớt vẻ giận dữ rồi phán Vậy thì hãy tạm thả cho y về! Mấy chục quỷ sứ cùng dạ ran. Một tên chạy ra hành lang gọi hai tên lính vào!" Thúy Thạch hỏi:"Anh có biết vì tội gì mà anh bị bắt xuống âm phủ không?" Lưu Tích đáp:"Có! Tôi hỏi viên chủ bạ thì ông ấy nói là vì tôi đoạt mấy cây đào của người khác làm vật của mình!" Thúy Thạch lại hỏi:"Thế anh có biết vì cớ gì mà anh lại được thả về không?" Lưu Tích đáp:"Có! Tôi hỏi viên chủ bạ thì ông ấy tới cạnh thư án của Diêm Vương bưng cuốn sổ xuống, chỉ vào một dòng chữ, bảo tôi đọc. Tôi đọc thấy như sau Niên hiệu Sùng Trinh thứ 13, Lưu Tích có dùng 300 đồng để giúp cho một cặp vợ chồng trẻ được đoàn tụ. Tôi đọc xong thì ông ấy nói May cho anh lắm! Nếu chẳng có việc này thì hôm nay anh đã phải tuyệt mạng và sẽ phải đi đầu thai làm súc vật! Nghe thấy thế, tôi kinh hãi lắm!" Hỏi:"Ai dẫn anh trở về dương thế?" Đáp:"Lại là hai tên lính đã tới nhà bắt tôi. Tôi đang nói chuyện với viên chủ bạ thì chúng ở hành lang bước vào, bảo tôi đi theo!" Hỏi:"Nghe nói ở âm phủ, lính cũng hay đòi tiền hối lộ như ở dương thế. Điều đó có đúng không?" Đáp:"Đúng! Vừa ra khỏi công đường, chúng đã đòi tôi phải nạp tiền hối lộ thì chúng mới chịu dẫn tôi trở về dương thế. Tôi nổi giận, nói Các ngươi chẳng biết Lưu mỗ này là ai hay sao? Ở dương thế, Lưu mỗ này đã làm cai lệ ở huyện đường trên hai chục năm trời! Chỉ có Lưu mỗ này mới dám đòi tiền hối lộ của kẻ khác chứ chưa có kẻ nào dám đòi tiền hối lộ của Lưu mỗ này cả! Sao bây giờ các ngươi lại dám cả gan tính chuyện ăn thịt con hổ già này vậy?" Nghe thấy thế, chúng nín khe chẳng dám hó hé chi nữa. Chúng đưa tôi về tận cổng nhà rồi cung kính chắp tay vái chào tôi mà nói Xin ông biết cho rằng chúng tôi đã đưa ông về tận nhà mà cũng chẳng dám xin ông lấy một ngụm nước để uống cho đỡ khát! Rồi chúng quay mình bỏ đi!" Hỏi:"Vào nhà, anh có thấy điều gì khác lạ không?" Đáp:"Có! Vào nhà, tôi thấy một linh cữu đang được quàn ở giữa phòng khách, thì biết là linh cữu của mình. Tôi bèn nhập vào xác ở bên trong mà sống lại!" Hỏi:"Lúc đó anh có biết là anh đã chết được bao lâu rồi không?" Đáp:"Có! Tôi hỏi lũ gia nhân thì chúng đều đáp rằng tôi đã chết được hai ngày!" Hỏi:"Thế còn việc anh giúp cho một cặp vợ chồng trẻ được đoàn tụ là như thế nào?" Lưu Tích bèn thuật lại cho Thúy Thạch nghe câu chuyện Phương Đán. Nghe xong, Thúy Thạch cứ ngợi khen Lưu Tích mãi.
Thế nhưng, năm sau, một hôm Thúy Thạch có việc phải về làng Chu thì lại thấy Lưu Tích đang đứng ở giữa đường mà cãi nhau với người ta. Dân làng xúm lại can song Lưu Tích vẫn chẳng chịu thôi. Thúy Thạch bèn tới gần, vẫy Lưu Tích ra một nơi mà hỏi:"Chắc là anh lại toan đi kiện người nào đó về mấy cây đào phải không?" Đột nhiên, Lưu Tích như người tỉnh mộng, biến đổi hẳn nét mặt, ấp úng hồi lâu rồi lủi thủi bỏ đi. Từ đó, Lưu Tích bớt hẳn tính hung ác. Năm Lưu Tích 70 tuổi, dân làng thấy Lưu Tích vẫn còn tráng kiện lắm.
Lại nói về chuyện Thúy Thạch. Cách huyện Chuy chừng ba mươi dặm về phía tây nam có con sông lớn tên Long Tuyền, làm cản trở sự lưu thông. Muốn qua sông, phải dùng đò. Năm ấy, cư dân trong vùng họp nhau lại bàn tính rồi quyết định quyên góp tiền bạc để bắc một cây cầu qua sông cho tiện việc đi lại. Thúy Thạch thấy họ quyên góp mãi mà vẫn chưa đủ nên bỏ gần hết sản nghiệp của mình ra giúp họ hoàn thành cây cầu.
Năm sau, dân thôn Tiêu thấy thế cũng bắt chước, quyết định quyên góp tiền bạc để sửa lại cây cầu cũ trong thôn. Thúy Thạch lại bỏ tiền ra giúp. Đang sửa dở dang thì Thúy Thạch qua đời. Em ruột Thúy Thạch là Vĩnh Dự, muốn hoàn thành ước nguyện của anh, liền bỏ tiền ra giúp họ sửa nốt cây cầu.
Thời ấy, quan tể huyện Chuy là người họ Trương, tên Công My. Thấy Thúy Thạch làm nhiều việc nghĩa, Trương công bèn tự tay viết bốn chữ khen tặng rồi thuê thợ khắc trên một bức hoành, sai lính đem tới biếu vợ con Thúy Thạch, bảo treo trước cổng nhà.
Dân chúng hai huyện Chuy và Nghi đều rất kính trọng Thúy Thạch.
CÔ GÁI HỌ PHÒNG
(truyện PHÒNG VĂN THỤC)
Lai tự vô đoan khứ tuyệt tông
Nan dương thủ vĩ kiến thần long
Liệu ưng túc thế kỳ duyên hợp
Thiên tứ lân nhi nhất vãn phùng
Phủ Khai Phong, tỉnh Hà Nam, có nho sinh họ Đặng, tên Thành Đức, nhà rất nghèo. Thành Đức có vợ họ Lâu nhưng chưa có con.
Năm ấy, Thành Đức quyết tâm đi du học ở Cổn Châu, Sơn Đông. Một hôm, Thành Đức nói với vợ:"Nàng để ta đi du học, đỗ đạt rồi sẽ về. Tuy đi xa song cuối năm nào ta cũng sẽ về quê ăn Tết với nàng" Lâu thị gật đầu ưng thuận.
Tới Cổn Châu, Thành Đức không có tiền thuê phòng trọ, phải tới chùa Tường Minh xin ở nhờ. Nhà sư trụ trì cho ở. Sáng sau, Thành Đức lên huyện đường, xin quan tể cho một việc làm để lấy tiền ăn học. Quan cho làm chủ bạ, chuyên sao chép danh sách huyện dân.
Cuối năm, nhà sư trụ trì lên kinh đô hội Phật, cho chú tiểu và người làm trong chùa về quê ăn Tết. Mọi người đều lên đường về quê, chỉ có một mình Thành Đức là ở lại chùa. Nhớ lời hứa với vợ, Thành Đức cũng định lên đường về quê ăn Tết với vợ. Sáng ngày 17 tháng chạp, nghe có tiếng gõ cổng chùa, Thành Đức chạy ra mở thì thấy một thiếu nữ tuyệt đẹp bước vào chùa, đi thẳng tới điện thờ Phật, thắp hương quỳ l, rồi đứng dậy về ngay. Sáng ngày 18, thiếu nữ lại tới chùa l Phật như thế. Thành Đức lấy làm lạ, bèn chạy tới hỏi:"Nương tử có thể cho biết quý danh chăng?" Thiếu nữ đáp:"Thiếp họ Phòng, tên Văn Thục" Hỏi:"Nương tử cư ngụ với ai?" Đáp:"Với ông cậu" Sáng ngày 19, thấy Văn Thục tới gõ cổng chùa sớm hơn hai hôm trước, Thành Đức vội chạy ra mở, hỏi:"Sao hôm nay nương tử lại tới chùa sớm thế?" Văn Thục đáp:"Thiếp muốn tới l Phật sớm, lúc chùa còn vắng người, nhưng tới sớm quá thì lại sợ làm hiền lang mất ngủ. Sáng nay, thiếp tới đây từ lúc tờ mờ sáng song cứ đứng chờ ở bên ngoài. Vừa rồi, thấy trong chùa có ánh đèn, biết là hiền lang đã thức nên mới dám gõ cổng" Thành Đức bèn giở giọng tròng ghẹo:"Dạo này trong chùa không có người, hãy về xin phép ông cậu lên đây mà ngủ qua đêm cho tiện! Sáng ra, đỡ phải chạy đi chạy về!" Văn Thục mỉm cười, đáp:"Nói trong chùa không có người thì chẳng hóa ra hiền lang là ma hay sao? Túi chẳng có một đồng, đã phải lên chùa ở nhờ, mà còn mơ tưởng hão!" Thành Đức năn nỉ:"Hãy lên đây ở chung cho có bạn! Ở một mình buồn lắm!" Văn Thục lắc đầu, đáp: "Quanh đây có nhiều người biết thiếp nên thiếp chẳng thể nào lên đây ở chung được!" Thành Đức hỏi:"Thế thì có nơi nào để cùng tới ở chung được không?" Văn Thục gật đầu, đáp:"Có!" Thành Đức vội hỏi:"Nơi nào?" Văn Thục đáp:"Cách đây ba mươi dặm về phía bắc có thôn Tiền An. Vì thiếp chẳng phải là thôn dân mà cũng chẳng quen biết ai ở trong thôn nên có thể cùng tới đó mà ở chung!" Thành Đức vội rủ:"Vậy thì hãy cùng tới đó ở chung đi!" Văn Thục cười, nói:"Túi chẳng có một đồng mà cũng đòi có vợ! Phải kiếm được việc làm để có tiền trước đã rồi hãy tính tới chuyện vợ con sau!" Thành Đức nói:"Thôn đã nhỏ, lại chẳng quen biết ai thì làm sao mà kiếm được việc làm?" Văn Thục đáp:"Thôn dân vừa xây cất xong một ngôi trường dạy trẻ nhưng chưa tuyển được thày dạy. Người tuyển thày dạy là thôn trưởng Lý Tiền Xuyên. Nếu xin được Lý ông cho việc dạy học thì thiếp sẽ tới ở chung, trông nom săn sóc cho! Đó mới là kế lâu dài!" Thành Đức hỏi:"Nếu xin được việc thì thuê nhà ở đâu?" Văn Thục cười, đáp:"Nếu xin được việc thì khỏi phải thuê nhà!" Thành Đức hỏi:"Sao lại lạ thế?" Văn Thục đáp:"Lệ của thôn ấy là thày dạy nào có vợ ở chung thì được cấp nhà! Cứ nói với Lý ông rằng mình có vợ ở chung thì Lý ông sẽ cấp nhà cho!" Thành Đức vẫn còn e ngại, nói:"Lỡ thôn dân biết được mình chẳng phải là vợ chồng thì tội nặng lắm! Vừa bị mất việc mà lại vừa bị đuổi khỏi thôn!" Văn Thục đáp:"Đừng có lo! Mình có quen biết với ai ở trong thôn đâu mà sợ người ta biết rằng mình chẳng phải là vợ chồng? Nếu muốn ở chung thì hãy tới đó mà xin việc ngay đi!" Thành Đức mừng lắm, nói:"Xin đi ngay!"
Văn Thục về rồi, Thành Đức liền tới thôn Tiền An, tìm gặp thôn trưởng Lý Tiền Xuyên. Lý ông hỏi:"Ông tới đây có chuyện gì?" Thành Đức đáp:"Thưa, muốn xin việc dạy học!" Lý ông hỏi chuyện văn chương. Thành Đức đối đáp trôi chảy. Lý ông bèn thuận cho việc dạy học. Thành Đức nói là có vợ ở chung. Lý ông bèn cấp cho một căn nhà. Lý ông hỏi:"Định hôm nào thì dọn tới?" Thành Đức đáp:"Thưa, mồng một Tết"
Thành Đức về huyện, xin quan cho nghỉ việc. Quan chấp thuận.
Sáng ngày 20 tháng chạp, Văn Thục tới l Phật. Thành Đức đem chuyện ra kể. Văn Thục nói:"Trưa mồng một Tết, thiếp sẽ chờ chàng ở dọc đường tới thôn!" Thành Đức bèn đi chào từ biệt bạn bè ở trong huyện.
Tối ba mươi Tết, Thành Đức đi thuê ngựa để dọn nhà. Sáng mồng một Tết, Thành Đức chất hành lý lên lưng ngựa, cưỡi tới thôn Tiền An. Dọc đường, quả nhiên thấy Văn Thục đang đứng chờ ở bên lộ. Thành Đức vội xuống ngựa, nhường cho Văn Thục cưỡi, còn mình thì đi chân dắt ngựa. Tới nơi, Văn Thục quét dọn nhà cửa, kê lại giường chiếu, bày biện lại đồ đạc cũ ở trong nhà.
Tối ấy, hai người ân ái với nhau cực kỳ hoan lạc.
Từ đó, ban ngày thì Thành Đức đi dạy học, Văn Thục ở nhà nấu ăn, giặt giũ, quét dọn, tối đến thì hai người lại lên giường mặn nồng ân ái. Thành Đức bèn quyết tâm bỏ học, bỏ thi mà cũng quên luôn cả lời hứa cuối năm về quê ăn Tết với vợ. Tuy chung sống rất tương đắc với Văn Thục song Thành Đức vẫn thắc mắc về lai lịch của Văn Thục, nghi là con gái bỏ nhà trốn đi.
Sáu năm sau. Thành Đức chẳng thấy ai tới thôn để tìm con gái bỏ nhà trốn đi nên cũng yên tâm. Thôn dân thì mặc nhiên coi Thành Đức với Văn Thục là một cặp vợ chồng có cưới hỏi chính thức.
Đầu năm thứ bảy, Văn Thục hoài thai. Gần cuối năm, Văn Thục sanh con trai. Thành Đức mừng lắm, nghĩ rằng nhờ đi du học ở Cổn Châu mà sanh được đứa bé nên đặt tên nó là Cổn Sinh. Một hôm, Văn Thục nói: "Chẳng phải là vợ chồng thì khó lòng mà ăn đời ở kiếp với nhau được! Toan vĩnh biệt chàng thì lại sanh ra cái của nợ này, biết làm sao bây giờ?" Thành Đức nói:"Ta đã dành dụm được chút tiền, toan đưa mẹ con nàng về quê chung sống với chính thất, sao lại tính chuyện vĩnh biệt?" Văn Thục nói:"Thôi đi chàng ơi! Cám ơn chàng lắm song thiếp chẳng muốn làm lẽ ai cả vì không chịu nổi đòn ghen! Mà thiếp cũng chẳng thích nuôi con nít vì không chịu nổi tiếng khóc!" Thành Đức nói:"Bảo đảm với nàng rằng chính thất ta hiền lắm, chẳng biết ghen tuông là gì! Ta sẽ trao đứa bé cho chính thất nuôi, nàng có phải nuôi đâu mà sợ?" Văn Thục lặng im, chẳng đáp. Thành Đức lại nói:"Dạy học thì chẳng thể nào giàu có được. Nay ta đã dành dụm được chút vốn, sẽ bỏ nghề dạy học để đi buôn, may ra thì khá!" Văn Thục vẫn lặng im, chẳng đáp.
Sáng sau, Thành Đức tìm gặp Lý ông, xin Lý ông tìm thày dạy khác thay thế mình.
Tháng sau, Lý ông tìm được thày dạy mới.
Ngày rằm tháng chạp, Thành Đức thuê được căn nhà mới, dọn sang ở, trả lại nhà cho Lý ông. Tối ấy, hai người cùng đứa con đang nằm trên giường thì bỗng Văn Thục vùng dậy mặc quần áo, ẵm đứa con lên tay. Thành Đức hỏi:"Làm gì thế?" Văn Thục đáp:"Vĩnh biệt!" Thành Đức toan lên tiếng ngăn cản thì chợt thấy hai mẹ con đã biến mất mà cửa phòng thì vẫn khóa. Thành Đức kinh hãi lắm, chợt vỡ lẽ rằng Văn Thục chẳng phải là người. Sáng sau, hàng xóm sang hỏi thăm:"Vợ con đâu?" Thành Đức đáp:"Vợ bế con về thăm ông bà ngoại rồi!" Vì dạy học ở thôn lâu năm, Thành Đức quen thân với thương gia Ngân Tiêu, con trai Lý ông. Thấy vợ con đi rồi, Thành Đức bèn nói với Ngân Tiêu cho mình chung vốn đi buôn. Ngân Tiêu ưng thuận. Thành Đức bèn trả nhà rồi theo Ngân Tiêu đi buôn.
Ở quê nhà, suốt bảy năm trời, Lâu thị chẳng được tin tức chồng. Dân làng đồn rằng Thành Đức đã chết. Nghe lời đồn, người anh của Lâu thị tới nhà em, nói: "Chồng cô đã chết mà cô lại chưa có con, để tôi gả chồng khác cho cô!" Lâu thị thưa:"Người ta đồn thế chứ chắc gì chồng em đã chết? Xin anh cho em được chờ chồng em thêm ba năm nữa!" Người anh im lặng, chẳng nói chi thêm. Thế rồi, hàng ngày Lâu thị vẫn lủi thủi một mình, chăn tầm kéo tơ, đem ra chợ bán để lấy tiền sinh sống.
Năm ấy, tối rằm tháng chạp, trăng sáng vằng vặc, Lâu thị ra đóng cổng thì thấy một thiếu phụ trẻ đẹp, chỉ chừng ngoài đôi mươi, dáng vẻ hiền lành tử tế, tay bế một đứa bé, đang đứng sớ rớ ở trước cổng nhà mình. Thấy Lâu thị ra đóng cổng, thiếu phụ vội lên tiếng:"Em bế con về thăm ông bà ngoại nó, song tới đây thì trời vừa tối, chẳng đi được nữa. Xin chị cho mẹ con em vào ngủ nhờ qua đêm. Sáng mai em sẽ xin bế con đi sớm!" Lâu thị hỏi:"Cô tên chi?" Thiếu phụ đáp:"Em tên Văn Thục" Hỏi: "Đứa bé này là trai hay gái?" Đáp:"Nó là trai" Hỏi:"Nó tên chi?" Đáp:"Nó tên Cổn Sinh" Lâu thị bèn cho hai mẹ con vào ngủ nhờ.
Tối ấy, Lâu thị cho hai mẹ con ngủ chung giường với mình. Thấy đứa bé kháu khỉnh d thương, Lâu thị chép miệng than:"Giá tôi có được một thằng nhỏ như thế này mà nuôi thì thích quá!" Văn Thục nói:"Em chỉ sợ chị ghét con nít thôi chứ nếu chị thích thì em xin biếu chị đó!" Lâu thị nói:"Cô nói đùa thế chứ làm sao mà cô dứt được tình mẫu tử?" Văn Thục nghiêm nét mặt, nói:"Em nói thực đó!" Lâu thị nói:"Thế nhưng dù cô có cho thì tôi cũng chẳng lấy đâu ra sữa mà nuôi nó!" Văn Thục nói: "Chuyện ấy thì có khó gì? Lúc mới sanh, em cũng đâu có sữa! May được người ta chỉ cho một tiệm bán thuốc lợi nhũ. Thuốc này hay lắm, uống vào là đầy sữa ngay! Em mới mua được một t, đã dùng hết một nửa, còn nửa kia, em xin biếu chị!" Nói xong, mở bọc lấy ra nửa t thuốc, đặt lên bàn. Lâu thị chỉ ậm ừ cho qua. Rồi cả ba cùng ngủ. Nửa đêm thức giấc, Lâu thị thấy đứa bé đang ngủ say song mẹ nó thì đã biến đâu mất tích. Nhìn ra ngõ, thấy cánh cổng mở toang, Lâu thị kinh hãi quá, vội lên tiếng gọi:"Cô Văn Thục! Cô Văn Thục!" song tuyệt nhiên chẳng có tiếng trả lời. Lâu thị đành ra đóng cổng rồi lại vào ngủ tiếp. Sáng ra, đứa bé đói, khóc oe oe, Lâu thị chẳng biết phải làm thế nào, đành thử lấy thuốc trên bàn ra uống, hy vọng có sữa cho đứa bé. Nửa giờ sau, quả nhiên thấy ngực tức vú căng, Lâu thị bèn cho đứa bé bú.
Hơn một năm sau, đứa bé mũm mĩm hẳn ra, bắt đầu tập nói. Lâu thị mừng lắm, yêu thương chẳng khác chi con đẻ. Vì thế, Lâu thị bỏ hẳn ý nghĩ lấy chồng khác. Thế nhưng, vì bận rộn với đứa bé, chẳng đủ thì giờ chăn tằm kéo tơ, nhà đã nghèo lại nghèo thêm.
Một hôm, Lâu thị thấy Văn Thục trở lại nhà mình. Sợ Văn Thục tới đòi con, Lâu thị nói phủ đầu:"Sao năm ngoái, giữa ban đêm cô lại trốn đi, vứt thằng nhỏ ở lại, chẳng nói với tôi một lời? Tôi phải uống thuốc để lấy sữa nuôi nó, bây giờ nó mới được như thế này. Bận rộn với nó, chẳng đủ thì giờ chăn tằm kéo tơ, nhà đã nghèo lại nghèo thêm!" Văn Thục cười, nói:"Chị cứ tưởng chị kể lể công lao khó nhọc như thế là em sẽ phải để thằng nhỏ này ở lại đây cho chị hay sao?" Rồi giơ tay ra đón đứa bé. Thấy người lạ, đứa bé khóc thét lên, chẳng chịu theo, cứ chạy tới rúc đầu vào lòng Lâu thị. Văn Thục mắng con: "Thằng khỉ này, mày chẳng nhận ra mẹ mày sao?" Rồi quay qua nói với Lâu thị:"Thằng nhỏ này kháu khỉnh lắm, có trăm đồng vàng cũng khó lòng mà mua được một đứa như nó. Nhưng thôi, chị đã muốn mua nó thì hãy vào phòng lấy trăm đồng ra đây trả cho em, em sẽ làm giấy bán cho!" Lâu thị tưởng thực, sợ xanh cả mặt. Thấy thế, Văn Thục thương hại, vội cười, nói:"Chị đừng sợ! Em nói đùa chị đó thôi! Hôm nay em trở lại đây cũng chính là vì thằng nhỏ này. Năm ngoái, khi em trốn đi, em cũng biết là chị nghèo lắm, chẳng lấy chi mà nuôi nó được nên em cứ ân hận mãi. Em cố kiếm tiền gửi chị để chị nuôi nó giùm em song em kiếm mãi chẳng ra. Hôm nay em mới mượn được người ta mươi lạng vàng nên vội đem tới đây gửi chị để chị nuôi nó giùm em!" Nói xong, lấy ra một túi vàng đưa cho Lâu thị. Lâu thị sợ Văn Thục đem vàng tới chuộc con nên không dám nhận. Thấy thế, Văn Thục bèn bỏ túi vàng lên bàn rồi xách nón ra đi. Lâu thị vội bế đứa bé, cầm túi vàng chạy theo mà gọi:"Cô Văn Thục! Cô Văn Thục!" song Văn Thục đã đi xa, chẳng ngoái cổ lại. Lâu thị đành quay về, trong lòng cứ nghi hoặc, chẳng hiểu Văn Thục có ác ý chi không? Ít lâu sau, thấy chẳng có chuyện chi lạ, Lâu thị mới yên tâm. Nhờ túi vàng, cả hai mẹ con cùng được ăn uống may mặc đầy đủ.
Sau bốn năm đi buôn chung với Ngân Tiêu, Thành Đức đã dành dụm được một số vốn lớn nên quyết định nghỉ buôn, đem tiền về quê ở với vợ.
Tới nhà, hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi, kể cho nhau nghe mọi nỗi gian truân. Trong lúc hàn huyên, Thành Đức thấy một đứa bé chừng bốn năm tuổi từ dưới bếp bước lên nhà trên thì hỏi vợ:"Thằng nhỏ này là con cái nhà ai?" Lâu thị đáp:"Nó là con nuôi của thiếp!" Hỏi:"Nàng xin được nó ở đâu?" Đáp: "Cách đây bốn năm, một tối mẹ nó bế nó tới đứng sớ rớ ở trước cổng nhà mình. Lúc thiếp ra đóng cổng, mẹ nó nói là bế nó về thăm ông bà ngoại, gặp trời tối, chẳng đi được nữa nên xin thiếp cho vào ngủ nhờ! Thiếp bèn cho hai mẹ con vào nhà ngủ với thiếp. Nửa đêm mẹ nó trốn đi, vứt nó ở lại. Vì thế thiếp mới nuôi nó làm con nuôi!" Hỏi: "Nàng đặt tên nó là gì?" Đáp:"Thiếp thấy mẹ nó gọi nó là Cổn Sinh nên thiếp cũng cứ gọi nó là Cổn Sinh!" Thành Đức giật mình kinh ngạc, hỏi:"Nàng có biết mẹ nó tên gì không?" Đáp:"Có! Mẹ nó tên Văn Thục!" Hỏi:"Nàng có nhớ hai mẹ con nó tới đây vào tối hôm nào không?" Đáp: "Có! Vào tối hôm rằm tháng chạp! Tối ấy trăng sáng lắm!" Thành Đức vụt đứng dậy, nói:"Nếu thế thì nó là con ta rồi!" Tới lượt Lâu thị kinh ngạc, hỏi chồng:"Sao nó lại là con chàng?" Thành Đức bèn đem đầu đuôi câu chuyện ở chùa Tường Minh ra kể cho vợ nghe. Nghe xong, Lâu thị mừng lắm vì biết rằng đứa bé chính là con chồng mình.
Hai vợ chồng chỉ mong Văn Thục trở lại một lần song Văn Thục đã biệt tăm, chẳng bao giờ trở lại nữa.
Lai tự vô đoan khứ tuyệt tông
Nan dương thủ vĩ kiến thần long
Liệu ưng túc thế kỳ duyên hợp
Thiên tứ lân nhi nhất vãn phùng
Phủ Khai Phong, tỉnh Hà Nam, có nho sinh họ Đặng, tên Thành Đức, nhà rất nghèo. Thành Đức có vợ họ Lâu nhưng chưa có con.
Năm ấy, Thành Đức quyết tâm đi du học ở Cổn Châu, Sơn Đông. Một hôm, Thành Đức nói với vợ:"Nàng để ta đi du học, đỗ đạt rồi sẽ về. Tuy đi xa song cuối năm nào ta cũng sẽ về quê ăn Tết với nàng" Lâu thị gật đầu ưng thuận.
Tới Cổn Châu, Thành Đức không có tiền thuê phòng trọ, phải tới chùa Tường Minh xin ở nhờ. Nhà sư trụ trì cho ở. Sáng sau, Thành Đức lên huyện đường, xin quan tể cho một việc làm để lấy tiền ăn học. Quan cho làm chủ bạ, chuyên sao chép danh sách huyện dân.
Cuối năm, nhà sư trụ trì lên kinh đô hội Phật, cho chú tiểu và người làm trong chùa về quê ăn Tết. Mọi người đều lên đường về quê, chỉ có một mình Thành Đức là ở lại chùa. Nhớ lời hứa với vợ, Thành Đức cũng định lên đường về quê ăn Tết với vợ. Sáng ngày 17 tháng chạp, nghe có tiếng gõ cổng chùa, Thành Đức chạy ra mở thì thấy một thiếu nữ tuyệt đẹp bước vào chùa, đi thẳng tới điện thờ Phật, thắp hương quỳ l, rồi đứng dậy về ngay. Sáng ngày 18, thiếu nữ lại tới chùa l Phật như thế. Thành Đức lấy làm lạ, bèn chạy tới hỏi:"Nương tử có thể cho biết quý danh chăng?" Thiếu nữ đáp:"Thiếp họ Phòng, tên Văn Thục" Hỏi:"Nương tử cư ngụ với ai?" Đáp:"Với ông cậu" Sáng ngày 19, thấy Văn Thục tới gõ cổng chùa sớm hơn hai hôm trước, Thành Đức vội chạy ra mở, hỏi:"Sao hôm nay nương tử lại tới chùa sớm thế?" Văn Thục đáp:"Thiếp muốn tới l Phật sớm, lúc chùa còn vắng người, nhưng tới sớm quá thì lại sợ làm hiền lang mất ngủ. Sáng nay, thiếp tới đây từ lúc tờ mờ sáng song cứ đứng chờ ở bên ngoài. Vừa rồi, thấy trong chùa có ánh đèn, biết là hiền lang đã thức nên mới dám gõ cổng" Thành Đức bèn giở giọng tròng ghẹo:"Dạo này trong chùa không có người, hãy về xin phép ông cậu lên đây mà ngủ qua đêm cho tiện! Sáng ra, đỡ phải chạy đi chạy về!" Văn Thục mỉm cười, đáp:"Nói trong chùa không có người thì chẳng hóa ra hiền lang là ma hay sao? Túi chẳng có một đồng, đã phải lên chùa ở nhờ, mà còn mơ tưởng hão!" Thành Đức năn nỉ:"Hãy lên đây ở chung cho có bạn! Ở một mình buồn lắm!" Văn Thục lắc đầu, đáp: "Quanh đây có nhiều người biết thiếp nên thiếp chẳng thể nào lên đây ở chung được!" Thành Đức hỏi:"Thế thì có nơi nào để cùng tới ở chung được không?" Văn Thục gật đầu, đáp:"Có!" Thành Đức vội hỏi:"Nơi nào?" Văn Thục đáp:"Cách đây ba mươi dặm về phía bắc có thôn Tiền An. Vì thiếp chẳng phải là thôn dân mà cũng chẳng quen biết ai ở trong thôn nên có thể cùng tới đó mà ở chung!" Thành Đức vội rủ:"Vậy thì hãy cùng tới đó ở chung đi!" Văn Thục cười, nói:"Túi chẳng có một đồng mà cũng đòi có vợ! Phải kiếm được việc làm để có tiền trước đã rồi hãy tính tới chuyện vợ con sau!" Thành Đức nói:"Thôn đã nhỏ, lại chẳng quen biết ai thì làm sao mà kiếm được việc làm?" Văn Thục đáp:"Thôn dân vừa xây cất xong một ngôi trường dạy trẻ nhưng chưa tuyển được thày dạy. Người tuyển thày dạy là thôn trưởng Lý Tiền Xuyên. Nếu xin được Lý ông cho việc dạy học thì thiếp sẽ tới ở chung, trông nom săn sóc cho! Đó mới là kế lâu dài!" Thành Đức hỏi:"Nếu xin được việc thì thuê nhà ở đâu?" Văn Thục cười, đáp:"Nếu xin được việc thì khỏi phải thuê nhà!" Thành Đức hỏi:"Sao lại lạ thế?" Văn Thục đáp:"Lệ của thôn ấy là thày dạy nào có vợ ở chung thì được cấp nhà! Cứ nói với Lý ông rằng mình có vợ ở chung thì Lý ông sẽ cấp nhà cho!" Thành Đức vẫn còn e ngại, nói:"Lỡ thôn dân biết được mình chẳng phải là vợ chồng thì tội nặng lắm! Vừa bị mất việc mà lại vừa bị đuổi khỏi thôn!" Văn Thục đáp:"Đừng có lo! Mình có quen biết với ai ở trong thôn đâu mà sợ người ta biết rằng mình chẳng phải là vợ chồng? Nếu muốn ở chung thì hãy tới đó mà xin việc ngay đi!" Thành Đức mừng lắm, nói:"Xin đi ngay!"
Văn Thục về rồi, Thành Đức liền tới thôn Tiền An, tìm gặp thôn trưởng Lý Tiền Xuyên. Lý ông hỏi:"Ông tới đây có chuyện gì?" Thành Đức đáp:"Thưa, muốn xin việc dạy học!" Lý ông hỏi chuyện văn chương. Thành Đức đối đáp trôi chảy. Lý ông bèn thuận cho việc dạy học. Thành Đức nói là có vợ ở chung. Lý ông bèn cấp cho một căn nhà. Lý ông hỏi:"Định hôm nào thì dọn tới?" Thành Đức đáp:"Thưa, mồng một Tết"
Thành Đức về huyện, xin quan cho nghỉ việc. Quan chấp thuận.
Sáng ngày 20 tháng chạp, Văn Thục tới l Phật. Thành Đức đem chuyện ra kể. Văn Thục nói:"Trưa mồng một Tết, thiếp sẽ chờ chàng ở dọc đường tới thôn!" Thành Đức bèn đi chào từ biệt bạn bè ở trong huyện.
Tối ba mươi Tết, Thành Đức đi thuê ngựa để dọn nhà. Sáng mồng một Tết, Thành Đức chất hành lý lên lưng ngựa, cưỡi tới thôn Tiền An. Dọc đường, quả nhiên thấy Văn Thục đang đứng chờ ở bên lộ. Thành Đức vội xuống ngựa, nhường cho Văn Thục cưỡi, còn mình thì đi chân dắt ngựa. Tới nơi, Văn Thục quét dọn nhà cửa, kê lại giường chiếu, bày biện lại đồ đạc cũ ở trong nhà.
Tối ấy, hai người ân ái với nhau cực kỳ hoan lạc.
Từ đó, ban ngày thì Thành Đức đi dạy học, Văn Thục ở nhà nấu ăn, giặt giũ, quét dọn, tối đến thì hai người lại lên giường mặn nồng ân ái. Thành Đức bèn quyết tâm bỏ học, bỏ thi mà cũng quên luôn cả lời hứa cuối năm về quê ăn Tết với vợ. Tuy chung sống rất tương đắc với Văn Thục song Thành Đức vẫn thắc mắc về lai lịch của Văn Thục, nghi là con gái bỏ nhà trốn đi.
Sáu năm sau. Thành Đức chẳng thấy ai tới thôn để tìm con gái bỏ nhà trốn đi nên cũng yên tâm. Thôn dân thì mặc nhiên coi Thành Đức với Văn Thục là một cặp vợ chồng có cưới hỏi chính thức.
Đầu năm thứ bảy, Văn Thục hoài thai. Gần cuối năm, Văn Thục sanh con trai. Thành Đức mừng lắm, nghĩ rằng nhờ đi du học ở Cổn Châu mà sanh được đứa bé nên đặt tên nó là Cổn Sinh. Một hôm, Văn Thục nói: "Chẳng phải là vợ chồng thì khó lòng mà ăn đời ở kiếp với nhau được! Toan vĩnh biệt chàng thì lại sanh ra cái của nợ này, biết làm sao bây giờ?" Thành Đức nói:"Ta đã dành dụm được chút tiền, toan đưa mẹ con nàng về quê chung sống với chính thất, sao lại tính chuyện vĩnh biệt?" Văn Thục nói:"Thôi đi chàng ơi! Cám ơn chàng lắm song thiếp chẳng muốn làm lẽ ai cả vì không chịu nổi đòn ghen! Mà thiếp cũng chẳng thích nuôi con nít vì không chịu nổi tiếng khóc!" Thành Đức nói:"Bảo đảm với nàng rằng chính thất ta hiền lắm, chẳng biết ghen tuông là gì! Ta sẽ trao đứa bé cho chính thất nuôi, nàng có phải nuôi đâu mà sợ?" Văn Thục lặng im, chẳng đáp. Thành Đức lại nói:"Dạy học thì chẳng thể nào giàu có được. Nay ta đã dành dụm được chút vốn, sẽ bỏ nghề dạy học để đi buôn, may ra thì khá!" Văn Thục vẫn lặng im, chẳng đáp.
Sáng sau, Thành Đức tìm gặp Lý ông, xin Lý ông tìm thày dạy khác thay thế mình.
Tháng sau, Lý ông tìm được thày dạy mới.
Ngày rằm tháng chạp, Thành Đức thuê được căn nhà mới, dọn sang ở, trả lại nhà cho Lý ông. Tối ấy, hai người cùng đứa con đang nằm trên giường thì bỗng Văn Thục vùng dậy mặc quần áo, ẵm đứa con lên tay. Thành Đức hỏi:"Làm gì thế?" Văn Thục đáp:"Vĩnh biệt!" Thành Đức toan lên tiếng ngăn cản thì chợt thấy hai mẹ con đã biến mất mà cửa phòng thì vẫn khóa. Thành Đức kinh hãi lắm, chợt vỡ lẽ rằng Văn Thục chẳng phải là người. Sáng sau, hàng xóm sang hỏi thăm:"Vợ con đâu?" Thành Đức đáp:"Vợ bế con về thăm ông bà ngoại rồi!" Vì dạy học ở thôn lâu năm, Thành Đức quen thân với thương gia Ngân Tiêu, con trai Lý ông. Thấy vợ con đi rồi, Thành Đức bèn nói với Ngân Tiêu cho mình chung vốn đi buôn. Ngân Tiêu ưng thuận. Thành Đức bèn trả nhà rồi theo Ngân Tiêu đi buôn.
Ở quê nhà, suốt bảy năm trời, Lâu thị chẳng được tin tức chồng. Dân làng đồn rằng Thành Đức đã chết. Nghe lời đồn, người anh của Lâu thị tới nhà em, nói: "Chồng cô đã chết mà cô lại chưa có con, để tôi gả chồng khác cho cô!" Lâu thị thưa:"Người ta đồn thế chứ chắc gì chồng em đã chết? Xin anh cho em được chờ chồng em thêm ba năm nữa!" Người anh im lặng, chẳng nói chi thêm. Thế rồi, hàng ngày Lâu thị vẫn lủi thủi một mình, chăn tầm kéo tơ, đem ra chợ bán để lấy tiền sinh sống.
Năm ấy, tối rằm tháng chạp, trăng sáng vằng vặc, Lâu thị ra đóng cổng thì thấy một thiếu phụ trẻ đẹp, chỉ chừng ngoài đôi mươi, dáng vẻ hiền lành tử tế, tay bế một đứa bé, đang đứng sớ rớ ở trước cổng nhà mình. Thấy Lâu thị ra đóng cổng, thiếu phụ vội lên tiếng:"Em bế con về thăm ông bà ngoại nó, song tới đây thì trời vừa tối, chẳng đi được nữa. Xin chị cho mẹ con em vào ngủ nhờ qua đêm. Sáng mai em sẽ xin bế con đi sớm!" Lâu thị hỏi:"Cô tên chi?" Thiếu phụ đáp:"Em tên Văn Thục" Hỏi: "Đứa bé này là trai hay gái?" Đáp:"Nó là trai" Hỏi:"Nó tên chi?" Đáp:"Nó tên Cổn Sinh" Lâu thị bèn cho hai mẹ con vào ngủ nhờ.
Tối ấy, Lâu thị cho hai mẹ con ngủ chung giường với mình. Thấy đứa bé kháu khỉnh d thương, Lâu thị chép miệng than:"Giá tôi có được một thằng nhỏ như thế này mà nuôi thì thích quá!" Văn Thục nói:"Em chỉ sợ chị ghét con nít thôi chứ nếu chị thích thì em xin biếu chị đó!" Lâu thị nói:"Cô nói đùa thế chứ làm sao mà cô dứt được tình mẫu tử?" Văn Thục nghiêm nét mặt, nói:"Em nói thực đó!" Lâu thị nói:"Thế nhưng dù cô có cho thì tôi cũng chẳng lấy đâu ra sữa mà nuôi nó!" Văn Thục nói: "Chuyện ấy thì có khó gì? Lúc mới sanh, em cũng đâu có sữa! May được người ta chỉ cho một tiệm bán thuốc lợi nhũ. Thuốc này hay lắm, uống vào là đầy sữa ngay! Em mới mua được một t, đã dùng hết một nửa, còn nửa kia, em xin biếu chị!" Nói xong, mở bọc lấy ra nửa t thuốc, đặt lên bàn. Lâu thị chỉ ậm ừ cho qua. Rồi cả ba cùng ngủ. Nửa đêm thức giấc, Lâu thị thấy đứa bé đang ngủ say song mẹ nó thì đã biến đâu mất tích. Nhìn ra ngõ, thấy cánh cổng mở toang, Lâu thị kinh hãi quá, vội lên tiếng gọi:"Cô Văn Thục! Cô Văn Thục!" song tuyệt nhiên chẳng có tiếng trả lời. Lâu thị đành ra đóng cổng rồi lại vào ngủ tiếp. Sáng ra, đứa bé đói, khóc oe oe, Lâu thị chẳng biết phải làm thế nào, đành thử lấy thuốc trên bàn ra uống, hy vọng có sữa cho đứa bé. Nửa giờ sau, quả nhiên thấy ngực tức vú căng, Lâu thị bèn cho đứa bé bú.
Hơn một năm sau, đứa bé mũm mĩm hẳn ra, bắt đầu tập nói. Lâu thị mừng lắm, yêu thương chẳng khác chi con đẻ. Vì thế, Lâu thị bỏ hẳn ý nghĩ lấy chồng khác. Thế nhưng, vì bận rộn với đứa bé, chẳng đủ thì giờ chăn tằm kéo tơ, nhà đã nghèo lại nghèo thêm.
Một hôm, Lâu thị thấy Văn Thục trở lại nhà mình. Sợ Văn Thục tới đòi con, Lâu thị nói phủ đầu:"Sao năm ngoái, giữa ban đêm cô lại trốn đi, vứt thằng nhỏ ở lại, chẳng nói với tôi một lời? Tôi phải uống thuốc để lấy sữa nuôi nó, bây giờ nó mới được như thế này. Bận rộn với nó, chẳng đủ thì giờ chăn tằm kéo tơ, nhà đã nghèo lại nghèo thêm!" Văn Thục cười, nói:"Chị cứ tưởng chị kể lể công lao khó nhọc như thế là em sẽ phải để thằng nhỏ này ở lại đây cho chị hay sao?" Rồi giơ tay ra đón đứa bé. Thấy người lạ, đứa bé khóc thét lên, chẳng chịu theo, cứ chạy tới rúc đầu vào lòng Lâu thị. Văn Thục mắng con: "Thằng khỉ này, mày chẳng nhận ra mẹ mày sao?" Rồi quay qua nói với Lâu thị:"Thằng nhỏ này kháu khỉnh lắm, có trăm đồng vàng cũng khó lòng mà mua được một đứa như nó. Nhưng thôi, chị đã muốn mua nó thì hãy vào phòng lấy trăm đồng ra đây trả cho em, em sẽ làm giấy bán cho!" Lâu thị tưởng thực, sợ xanh cả mặt. Thấy thế, Văn Thục thương hại, vội cười, nói:"Chị đừng sợ! Em nói đùa chị đó thôi! Hôm nay em trở lại đây cũng chính là vì thằng nhỏ này. Năm ngoái, khi em trốn đi, em cũng biết là chị nghèo lắm, chẳng lấy chi mà nuôi nó được nên em cứ ân hận mãi. Em cố kiếm tiền gửi chị để chị nuôi nó giùm em song em kiếm mãi chẳng ra. Hôm nay em mới mượn được người ta mươi lạng vàng nên vội đem tới đây gửi chị để chị nuôi nó giùm em!" Nói xong, lấy ra một túi vàng đưa cho Lâu thị. Lâu thị sợ Văn Thục đem vàng tới chuộc con nên không dám nhận. Thấy thế, Văn Thục bèn bỏ túi vàng lên bàn rồi xách nón ra đi. Lâu thị vội bế đứa bé, cầm túi vàng chạy theo mà gọi:"Cô Văn Thục! Cô Văn Thục!" song Văn Thục đã đi xa, chẳng ngoái cổ lại. Lâu thị đành quay về, trong lòng cứ nghi hoặc, chẳng hiểu Văn Thục có ác ý chi không? Ít lâu sau, thấy chẳng có chuyện chi lạ, Lâu thị mới yên tâm. Nhờ túi vàng, cả hai mẹ con cùng được ăn uống may mặc đầy đủ.
Sau bốn năm đi buôn chung với Ngân Tiêu, Thành Đức đã dành dụm được một số vốn lớn nên quyết định nghỉ buôn, đem tiền về quê ở với vợ.
Tới nhà, hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi, kể cho nhau nghe mọi nỗi gian truân. Trong lúc hàn huyên, Thành Đức thấy một đứa bé chừng bốn năm tuổi từ dưới bếp bước lên nhà trên thì hỏi vợ:"Thằng nhỏ này là con cái nhà ai?" Lâu thị đáp:"Nó là con nuôi của thiếp!" Hỏi:"Nàng xin được nó ở đâu?" Đáp: "Cách đây bốn năm, một tối mẹ nó bế nó tới đứng sớ rớ ở trước cổng nhà mình. Lúc thiếp ra đóng cổng, mẹ nó nói là bế nó về thăm ông bà ngoại, gặp trời tối, chẳng đi được nữa nên xin thiếp cho vào ngủ nhờ! Thiếp bèn cho hai mẹ con vào nhà ngủ với thiếp. Nửa đêm mẹ nó trốn đi, vứt nó ở lại. Vì thế thiếp mới nuôi nó làm con nuôi!" Hỏi: "Nàng đặt tên nó là gì?" Đáp:"Thiếp thấy mẹ nó gọi nó là Cổn Sinh nên thiếp cũng cứ gọi nó là Cổn Sinh!" Thành Đức giật mình kinh ngạc, hỏi:"Nàng có biết mẹ nó tên gì không?" Đáp:"Có! Mẹ nó tên Văn Thục!" Hỏi:"Nàng có nhớ hai mẹ con nó tới đây vào tối hôm nào không?" Đáp: "Có! Vào tối hôm rằm tháng chạp! Tối ấy trăng sáng lắm!" Thành Đức vụt đứng dậy, nói:"Nếu thế thì nó là con ta rồi!" Tới lượt Lâu thị kinh ngạc, hỏi chồng:"Sao nó lại là con chàng?" Thành Đức bèn đem đầu đuôi câu chuyện ở chùa Tường Minh ra kể cho vợ nghe. Nghe xong, Lâu thị mừng lắm vì biết rằng đứa bé chính là con chồng mình.
Hai vợ chồng chỉ mong Văn Thục trở lại một lần song Văn Thục đã biệt tăm, chẳng bao giờ trở lại nữa.
LÀM BẠN VỚI CHỒN VÔ HÌNH
(truyện HỒ TỨ TƯỚNG CÔNG)
Tặng kim đặc trọng cố nhân tình
Dị loại hữu bằng thắng đệ huynh
Nhất diện hữu duyên nan tái kiến
Thần giao diệc túc úy bình sinh
Huyện Lai Vu, tỉnh Sơn Đông, có hai anh em nho sĩ họ Trương. Người em tên Đạo Nhất, làm quan học sứ tỉnh Tứ Xuyên, gia tư khá giả. Người anh tên Hư Nhất, tính rất dũng cảm. Tai thì thường được nghe nhiều chuyện về chồn tinh ma quỷ, song mắt thì chưa từng được nhìn thấy bao giờ. Hư Nhất cư ngụ trong huyện thành Lai Vu, gia tư thanh bần.
Ở góc đông nam huyện thành có một căn nhà bỏ hoang. Huyện dân đồn rằng có một chồn đực có thuật tàng hình, dắt một lũ chồn tiểu yêu đến chiếm ngụ căn nhà nên chẳng ai dám bén mảng tới. Nghe tin đồn, Hư Nhất quyết tâm đến thăm, mong được gặp chồn một lần cho biết. Hư Nhất bèn bảo đứa tiểu đồng cùng mình chay tịnh một tuần.
Tuần sau, hai thày trò tắm gội sạch sẽ, mũ áo chỉnh tề, dắt nhau đến căn nhà. Tới nơi, thấy hai cánh cửa tự động mở ra, tiểu đồng kinh hãi, quay mình bỏ chạy. Hư Nhất gọi thế nào tiểu đồng cũng không dám trở lại. Hư Nhất bèn quyết tâm vào căn nhà một mình. Hư Nhất chỉnh lại mũ áo rồi bước vào nhà thì thấy đồ đạc được bày biện ngăn nắp song trong nhà vắng ngắt, chẳng một bóng người. Hư Nhất bèn chắp tay vái chào, khấn:"Đệ thành tâm trai giới để đến đây xin gặp túc hạ. Vừa rồi đệ ở ngoài cửa, túc hạ đã chẳng cho gặp mặt, bây giờ đệ vào trong nhà, túc hạ vẫn chưa cho gặp mặt hay sao?" Chợt có tiếng đáp:"Đa tạ túc hạ đã giá lâm!" rồi có hai chiếc ghế tự động di chuyển ra giữa phòng khách, quay mặt đối nhau. Sau đó, có tiếng nói:"Mời túc hạ ngồi chơi, đệ sẽ xin hầu chuyện!" Hư Nhất bèn mạnh dạn ngồi xuống ghế. Chợt có một chiếc bàn lớn trạm trổ công phu, sơn son thiếp vàng, tự động di chuyển, len vào giữa hai chiếc ghế. Hư Nhất đưa mắt nhìn thì thấy trên bàn có hai chén trà nóng, khói bốc nghi ngút. Chợt lại có tiếng nói: "Mời túc hạ dùng trà" Hư Nhất nâng một chén lên thì thấy chén kia cũng được nâng lên rồi có tiếng miệng thổi cho trà bớt nóng song tuyệt nhiên chẳng thấy một bóng người. Hư Nhất lên tiếng hỏi:"Túc hạ có thể cho biết quý danh chăng?" Có tiếng đáp:"Đệ họ Hồ song chẳng có tên!" Hỏi:"Thế thì thiên hạ thường xưng hô với túc hạ như thế nào?" Đáp:"Thiên hạ thường gọi đệ là Hồ tứ tướng công vì đệ là người con thứ tư trong gia đình" Sau một tuần trà, lại có tiếng nói:"Chẳng mấy khi túc hạ giá lâm, xin túc hạ lưu lại dùng với đệ một bữa rượu lạt!" Hư Nhất nhận lời ngay, đáp:"Xin vâng"
Lát sau, Hư Nhất thấy trong phòng dường như có tiếng chân của nhiều tiểu đồng chạy ra chạy vào, rồi thấy có bình chén, bát đũa, nem chả, ba ba, khô nai, rau thơm được đem ra bày kín mặt bàn. Rồi có tiếng nghiêng bình rót rượu và tiếng mời:"Mời túc hạ nâng chén!" Hư Nhất chẳng khách sáo, nâng chén yến ẩm thì thấy rượu và thức ăn rất ngon, y như ở các tửu quán thượng đẳng vậy. Hai bên thù tạc, đàm đạo văn chương thế sự, rất mực tương đắc. Đang yến ẩm, bỗng Hư Nhất thầm nghĩ giá bây giờ có một chén trà nóng mà uống thì thích quá. Lập tức có một chén trà nóng được đem tới đặt ngay trước mắt Hư Nhất. Thế rồi mỗi lần Hư Nhất thầm ước một vật gì thì vật ấy lập tức hiện ra ngay trước mắt. Hư Nhất rất lấy làm kinh ngạc song cũng rất lấy làm thích thú. Sau khi yến ẩm no say, Hư Nhất xin cáo biệt.
Từ đó, cứ ba ngày một lần, Hư Nhất lại tới thăm tướng công. Thỉnh thoảng, tướng công cũng tới đáp lễ Hư Nhất, song trước sau Hư Nhất cũng chỉ nghe thấy tiếng chân đi, tiếng miệng nói chứ chưa hề nhìn thấy hình dáng người bao giờ.
Một hôm, Hư Nhất cưỡi ngựa đến nhà tướng công dự tiệc. Trong lúc yến ẩm, Hư Nhất nói:"Đệ có quen một bà đồng ở Nam Thành. Người ta đồn rằng bà ấy khoe là có nuôi được một chồn thày thuốc để sai đi chữa bệnh cho thiên hạ, kiếm được rất nhiều tiền. Theo ý túc hạ, có đúng thế chăng?" Tướng công đáp:"Lời đồn của thiên hạ thì đúng nhưng lời khoe của bà đồng thì sai!" Lát sau, Hư Nhất đứng dậy, xin phép ra ngoài đi tiểu thì chợt nghe thấy tiếng thì thầm bên tai:"Lũ tiểu nhân vừa được nghe tiên sinh nói chuyện với tướng công về bà đồng ở Nam Thành. Vậy lát nữa, xin tiên sinh nói với tướng công cho lũ tiểu nhân được theo tiên sinh tới Nam Thành một chuyến để xem mặt mũi bà ấy ra sao?" Biết là tiếng nói của lũ chồn tiểu yêu, Hư Nhất đáp:"Được!" Khi trở lại bàn tiệc, Hư Nhất nói với tướng công:"Xin túc hạ cho mấy tiểu đồng theo đệ tới Nam Thành một chuyến để xem lời khoe của bà đồng là đúng hay sai?" Tướng công cười, đáp:"Đã biết lời khoe của bà ấy là sai rồi thì còn phải tới làm chi?" Hư Nhất năn nỉ:"Xin túc hạ cứ cho mấy tiểu đồng theo đệ tới đó một chuyến xem sao!" Tướng công cười, đáp:"Túc hạ đã muốn thế thì đệ xin vâng!"
Tiệc tan, Hư Nhất xin cáo biệt. Vừa toan ra tháo ngựa thì đã thấy ngựa đang chậm rãi bước tới trước cửa, tựa hồ như có người đang dắt tới vậy. Hư Nhất vừa leo lên lưng ngựa thì chợt nghe có tiếng tướng công sai bốn tiểu đồng đi theo mình tới Nam Thành.
Dọc đường, Hư Nhất thấy một làn gió nhẹ, thổi cát bụi bám vào vạt áo rồi có tiếng thì thầm bên tai:"Xin tiên sinh hiểu cho rằng khi nào tiên sinh đi đường mà thấy một làn gió nhẹ, thổi cát bụi bám vào vạt áo, tức là có lũ tiểu nhân đang theo hầu!" Hư Nhất gật đầu.
Tới nhà bà đồng, Hư Nhất gõ cổng. Bà đồng từ trong nhà bước qua sân, ra mở cổng. Thấy Hư Nhất, bà cười, hỏi:"Ngọn gió nào đưa quý nhân tới đây thế?" Hư Nhất đáp:"Bỉ nhân tự ý tới đây để hỏi thăm bà một chuyện!" Bà hỏi:"Chuyện chi mà quan trọng thế?" Hư Nhất đáp:"Người ta đồn rằng bà khoe là có nuôi được một con chồn thày thuốc để sai đi chữa bệnh cho thiên hạ, có đúng thế chăng?" Bà chợt nghiêm nét mặt, trách: "Quý nhân là người nho nhã, sao lại ăn nói khinh bạc như thế?" Hư Nhất hỏi:"Bỉ nhân ăn nói khinh bạc như thế nào?" Bà trách:"Sao quý nhân lại gọi Chị Hoa nhà lão thân là con chồn? Chị Hoa nhà lão thân mà nghe thấy thế thì buồn lắm đó!"
Bà vừa trách xong thì bỗng có một miếng gạch ném trúng cánh tay bà. Tưởng là Hư Nhất ném mình, bà tức giận, trách:"Sao quý nhân lại ném lão thân? Lão thân có xúc phạm chi tới quý nhân đâu?" Biết là lũ chồn tiểu yêu ném bà, Hư Nhất cười, đáp:"Bỉ nhân ném bà hồi nào? Bà thong manh rồi hay sao?" Nghe thấy thế, bà kinh hãi quá, cứ đứng suy nghĩ, chẳng hiểu là ai ném mình. Bỗng lại có một viên đá ném trúng đầu bà, làm bà té xuống đất. Bà chưa kịp nghĩ xem là ai ném thì lại có bùn nhơ ném trúng mặt bà, làm cho mặt bà trông tựa mặt quỷ. Bà kinh hãi quá, gào khóc, van xin:"Xin đừng ném nữa! Nếu lão thân có làm điều chi xúc phạm thì xin hãy tha tội cho!" Thấy thế, Hư Nhất cũng thương hại, bèn lớn tiếng quát lũ chồn tiểu yêu:"Không được ném nữa!" Lập tức bùn ngưng bay tới. Bà lồm cồm bò dậy, băng qua sân, chạy vào nhà, đóng chặt cửa, đi rửa mặt rồi ngồi ở trong nhà, chẳng dám ló ra ngoài. Hư Nhất chạy theo bà, tới gõ cửa, hỏi:"Chồn thày thuốc của bà có thể ném được gạch đá, bùn đất như chồn của bỉ nhân chăng?" Từ trong nhà, bà nói vọng ra:"Người ta đồn thế chứ lão thân có khoe là mình nuôi được chồn bao giờ đâu? Xin quý nhân đừng tin ở những lời đồn đại!" Hư Nhất ngửa mặt lên trời cười rồi quát lũ chồn tiểu yêu:"Cấm không được ném nữa!" Xong, lại quay ra nói với bà:"Bỉ nhân đã cấm lũ chồn không được ném nữa rồi! Bà đừng sợ! Hãy ra đây cho bỉ nhân dặn một điều!" Nghe thấy thế, bà mới dám hé cửa ra, hỏi:"Quý nhân muốn dạy bảo điều chi?" Hư Nhất đáp: "Chỉ muốn dặn bà một điều là từ nay trở đi, bà đừng lường gạt bệnh nhân nữa!" Bà nói:"Xin vâng!" Hư Nhất bèn cáo biệt. Từ đó, mỗi lần Hư Nhất đi đâu mà thấy một làn gió nhẹ, thổi cát bụi bám vào vạt áo thì biết ngay là có lũ chồn tiểu yêu đang theo hầu. Thế rồi, mỗi lần đi xa, muốn có người đồng hành để đề phòng thú dữ, giặc cướp hoặc để nói chuyện cho vui, Hư Nhất chỉ cần lên tiếng gọi lũ chồn là lập tức chúng đáp lời ngay.
Thấm thoắt, Hư Nhất đã giao du với tướng công được hơn một năm. Hai bên chuyện trò rất tâm đầu ý hợp, chẳng hề trái ý nhau bao giờ.
Một hôm, Hư Nhất hỏi:"Năm nay, túc hạ bao nhiêu tuổi?" Tướng công đáp:"Đệ quên mất rồi! Song mỗi lần nhớ tới việc mình chứng kiến vụ Hoàng Sào làm phản vào cuối triều Đường thì đệ lại thấy tựa hồ như mới ngày hôm qua!" Nghe thấy thế, Hư Nhất kinh hãi quá, chẳng dám hỏi chi thêm.
Một trưa, Hư Nhất đến nhà tướng công dự tiệc. Chợt nghe thấy tiếng gà kêu quang quác ở hàng rào, Hư Nhất lấy làm lạ, hỏi:"Sao giữa ban ngày mà lại có tiếng gà kêu như thế?" Tướng công đáp:"Chắc là lại do Tam ca nhà đệ gây ra!" Hỏi:"Sao túc hạ chẳng mời lệnh huynh vào đây yến ẩm, đàm đạo cho vui?" Đáp:"Gia huynh chẳng thích gặp đệ. Vả lại tư tưởng của gia huynh nông cạn lắm, biết lấy chi mà đàm đạo?" Hỏi:"Lệnh huynh ưa cuộc sống như thế nào?" Đáp:"Gia huynh chỉ ưa cuộc sống đi bắt trộm gà để nhắm rượu. Thế nhưng, nghĩ cho cùng thì đối với gia huynh, cuộc sống như thế cũng đủ rồi, cần chi phải có tư tưởng cao siêu!" Hư Nhất bèn nói lảng sang chuyện khác. Lát sau, bỗng Hư Nhất nói:"Đã hơn một năm nay, giao tình giữa chúng ta có thể nói là rất tốt đẹp song đệ thấy đệ vẫn còn một điều ấm ức, chưa giải tỏa được!" Tướng công cười, hỏi:"Điều ấy là điều chi?" Đáp:"Điều ấy là điều túc hạ chưa cho đệ được nhìn thấy tôn nhan!" Cười, nói:"Giao du với nhau thì chỉ cần giữ được chân tình, thiện cảm chứ cần chi phải biết mặt nhau?" Hư Nhất lặng im, chẳng nói chi thêm.
Tháng sau. Một hôm tướng công bày tiệc rượu thịnh soạn, sai lũ chồn tiểu yêu đi mời Hư Nhất đến dự. Hư Nhất vội mặc quần áo đi theo.
Tới nơi, tướng công mời Hư Nhất nhập tiệc. Giữa tiệc, đột nhiên tướng công nói: "Hôm nay đệ mời túc hạ đến đây để chúng mình yến ẩm đàm đạo với nhau lần chót!" Hư Nhất kinh ngạc, hỏi: "Sao vậy? Túc hạ sắp đi đâu?" Đáp: "Vì quê đệ ở Thiểm Tây nên nay đệ lại muốn hồi cư về đó!" Rồi cười, nói tiếp:"Trong hơn một năm qua, túc hạ cứ ấm ức là chẳng biết mặt mũi đệ ra sao. Nay sắp chia tay, đệ muốn để túc hạ nhìn thấy đệ một lần cho biết, kẻo sau này có dịp tái kiến, túc hạ lại chẳng nhận ra!" Hư Nhất quay đầu nhìn quanh song chẳng thấy ai, nên hỏi: "Túc hạ ở đâu?" Đáp: "Đệ ở trong phòng ngủ. Túc hạ hãy đến mở cửa ra thì thấy!" Hư Nhất bèn đứng dậy, bước tới phòng ngủ, mở cửa nhìn vào thì thấy quả có một thiếu niên anh tuấn, mặt đẹp như ngọc, y phục mới tinh, sang trọng lịch sự, đang ngồi trên giường, nhìn mình mỉm cười. Hư Nhất toan lên tiếng hỏi thì thiếu niên đã biến mất. Hư Nhất bèn khép cửa phòng ngủ, trở lại bàn tiệc. Nghe có tiếng chân người bước ở đằng sau, Hư Nhất quay đầu nhìn lại song chẳng thấy ai. Hư Nhất vừa an tọa thì nghe có tiếng cười, hỏi: "Phải chăng bữa nay đệ đã giải tỏa được điều ấm ức của túc hạ?" Hư Nhất chẳng đáp. Hai người lại tiếp tục yến ẩm, đàm đạo.
Tới khuya, thấy Hư Nhất vẫn chưa đứng dậy cáo biệt như mọi lần, tướng công biết là Hư Nhất còn lưu luyến tình bạn ở căn nhà này, nên cười, nói:"Mọi việc ở đời, kể cả hợp tan, đều đã có định số, túc hạ lưu luyến làm chi?" Hư Nhất lặng im, chẳng đáp. Tướng công bèn sai tiểu yêu đi lấy hai chén lớn, rồi tự tay rót đầy rượu, đưa một chén mời Hư Nhất, nói:"Đây là chén rượu ly biệt" Hai bên cùng cạn chén. Thấy Hư Nhất đã say, tướng công bèn sai lũ tiểu yêu hộ tống về nhà.
Sáng sau, khi tỉnh rượu, Hư Nhất vội tắm gội sạch sẽ rồi cưỡi ngựa đến thăm tướng công. Tới nơi, Hư Nhất thấy căn nhà đã hoàn toàn vắng lặng, chẳng còn một tiếng động. Từ đó, căn nhà hết chồn.
Mười năm sau, Hư Nhất vẫn thanh bần như xưa.
Một hôm, Hư Nhất cưỡi ngựa từ Sơn Đông xuống Tứ Xuyên thăm em. Tới nơi, thấy em mình có nhà cao cửa rộng, đồ đạc sang trọng, Hư Nhất cảm khái, thở dài. Ở chơi với em được hơn một tháng, Hư Nhất cáo biệt.
Dọc đường về, Hư Nhất buông cương cho ngựa bước tự do, còn mình thì ngồi trên lưng ngựa, suy nghĩ miên man về sự quý hiển của em, sót thương cho thân phận mình, rồi bất giác thở dài. Chợt nghe có tiếng vó ngựa ở đằng sau, Hư Nhất quay đầu nhìn lại thì thấy một thiếu niên anh tuấn, dáng vẻ phong nhã, mặc áo lông cừu, đang phóng một thanh câu đuổi theo mình. Hư Nhất bèn dừng cương, ghìm ngựa, đứng chờ. Khi thiếu niên tới gần, Hư Nhất gật đầu chào. Thiếu niên cung kính chắp tay đáp lễ. Hư Nhất hỏi: "Túc hạ đi đâu vậy?" Thiếu niên đáp: "Đệ tới huyện thành ở gần đây!" Rồi hỏi lại: "Thế còn túc hạ đi đâu?" Hư Nhất đáp:" Đệ từ Sơn Đông xuống đây thăm người em ruột, bây giờ lại trở về Sơn Đông" Thiếu niên nói: "Túc hạ xuống đây thăm lệnh đệ thì lẽ ra trông phải vui lắm mới đúng chứ sao trông lại buồn bã thế?" Hư Nhất thở dài, đáp: "Gia đệ thì quý hiển, nhà cao cửa rộng, còn đệ thì từ bao năm nay vẫn lận đận long đong. Vì nghĩ mình chẳng bằng em nên buồn!" Thiếu niên nói: "Trời sinh ra con người, cho mỗi người một phần số, túc hạ so sánh làm chi? Cứ an nhiên tự tại thì có phải là thanh thản hơn không?" Rồi nói lảng sang chuyện khác.
Rong ngựa cùng đi được hơn một dặm, tới ngã rẽ nhỏ, thiếu niên dừng cương, chắp tay nói: "Bây giờ thì đệ phải rẽ vào con đường này. Mong túc hạ tự bảo trọng!" Hư Nhất cũng chắp tay nói:"Xin cám ơn túc hạ!" Thiếu niên vừa dợm phóng thanh câu đi thì như chợt nhớ ra điều gì, lại dừng cương, nói: "Lát nữa đây, nếu túc hạ có gặp ai nhờ túc hạ đem một vật gì về Sơn Đông trao cho một người quen của túc hạ thì xin túc hạ làm ơn nhận giùm cho!" Rồi vái chào, phóng thanh câu đi. Hư Nhất thắc mắc, toan lên tiếng hỏi thì thanh câu đã mất dạng trên con đường nhỏ. Hư Nhất bèn tiếp tục lên đường.
Đi được chừng ba dặm, quả nhiên Hư Nhất thấy một ông lão đứng ở bên đường, tay xách một giỏ trúc trông có vẻ nặng. Hư Nhất vừa rong ngựa tới thì ông lão đã vội chạy ra nắm lấy dây cương, nói:"Xin tiên sinh tha cho lão nô tội đường đột! Dám hỏi tiên sinh đang đi đâu đó?" Hư Nhất đáp:"Bỉ nhân đang trên đường về Sơn Đông!" Ông lão nói:"Thế thì may cho lão nô quá! Bản chủ nhân cũng vừa sai lão nô đem chiếc giỏ này đi Sơn Đông để trao cho một người quen của tiên sinh! Nay được biết tiên sinh đang trên đường về Sơn Đông, lão nô dám mạo muội nhờ tiên sinh đem chiếc giỏ này về trao cho người ấy!" Hư Nhất đáp:"Được! Song phải nói rõ người ấy là ai vì bỉ nhân có nhiều người quen lắm!" Ông lão đáp:"Người ấy là Trương Hư Nhất tiên sinh!Ợ Hư Nhất kinh ngạc, nói: "Bỉ nhân chính là Trương Hư Nhất đây!" Rồi hỏi ông lão: "Quý chủ nhân là ai?" Ông lão đáp:"Bản chủ nhân là Hồ tứ tướng công!" Lúc đó Hư Nhất mới vỡ lẽ rằng thiếu niên mình vừa gặp chính là Hồ tứ tướng công và tướng công muốn tặng mình chiếc giỏ này. Ông lão trao giỏ. Hư Nhất giơ tay ra nhận. Hư Nhất toan lên tiếng hỏi thêm thì ông lão đã biến mất.
Mở giỏ ra coi, Hư Nhất thấy trong giỏ có một gói lớn, bọc bằng lụa đỏ, ngoài có dán một tấm giấy vàng, trên đề mấy chữ:"Hồ tứ tướng công kính tặng Trương Hư Nhất tiên sinh" Hư Nhất mở gói ra coi thì thấy toàn là vàng, ngọc.
Hư Nhất bèn buộc chặt chiếc giỏ trên mình ngựa rồi phóng về quê ở Lai Vu, Sơn Đông.
Tặng kim đặc trọng cố nhân tình
Dị loại hữu bằng thắng đệ huynh
Nhất diện hữu duyên nan tái kiến
Thần giao diệc túc úy bình sinh
Huyện Lai Vu, tỉnh Sơn Đông, có hai anh em nho sĩ họ Trương. Người em tên Đạo Nhất, làm quan học sứ tỉnh Tứ Xuyên, gia tư khá giả. Người anh tên Hư Nhất, tính rất dũng cảm. Tai thì thường được nghe nhiều chuyện về chồn tinh ma quỷ, song mắt thì chưa từng được nhìn thấy bao giờ. Hư Nhất cư ngụ trong huyện thành Lai Vu, gia tư thanh bần.
Ở góc đông nam huyện thành có một căn nhà bỏ hoang. Huyện dân đồn rằng có một chồn đực có thuật tàng hình, dắt một lũ chồn tiểu yêu đến chiếm ngụ căn nhà nên chẳng ai dám bén mảng tới. Nghe tin đồn, Hư Nhất quyết tâm đến thăm, mong được gặp chồn một lần cho biết. Hư Nhất bèn bảo đứa tiểu đồng cùng mình chay tịnh một tuần.
Tuần sau, hai thày trò tắm gội sạch sẽ, mũ áo chỉnh tề, dắt nhau đến căn nhà. Tới nơi, thấy hai cánh cửa tự động mở ra, tiểu đồng kinh hãi, quay mình bỏ chạy. Hư Nhất gọi thế nào tiểu đồng cũng không dám trở lại. Hư Nhất bèn quyết tâm vào căn nhà một mình. Hư Nhất chỉnh lại mũ áo rồi bước vào nhà thì thấy đồ đạc được bày biện ngăn nắp song trong nhà vắng ngắt, chẳng một bóng người. Hư Nhất bèn chắp tay vái chào, khấn:"Đệ thành tâm trai giới để đến đây xin gặp túc hạ. Vừa rồi đệ ở ngoài cửa, túc hạ đã chẳng cho gặp mặt, bây giờ đệ vào trong nhà, túc hạ vẫn chưa cho gặp mặt hay sao?" Chợt có tiếng đáp:"Đa tạ túc hạ đã giá lâm!" rồi có hai chiếc ghế tự động di chuyển ra giữa phòng khách, quay mặt đối nhau. Sau đó, có tiếng nói:"Mời túc hạ ngồi chơi, đệ sẽ xin hầu chuyện!" Hư Nhất bèn mạnh dạn ngồi xuống ghế. Chợt có một chiếc bàn lớn trạm trổ công phu, sơn son thiếp vàng, tự động di chuyển, len vào giữa hai chiếc ghế. Hư Nhất đưa mắt nhìn thì thấy trên bàn có hai chén trà nóng, khói bốc nghi ngút. Chợt lại có tiếng nói: "Mời túc hạ dùng trà" Hư Nhất nâng một chén lên thì thấy chén kia cũng được nâng lên rồi có tiếng miệng thổi cho trà bớt nóng song tuyệt nhiên chẳng thấy một bóng người. Hư Nhất lên tiếng hỏi:"Túc hạ có thể cho biết quý danh chăng?" Có tiếng đáp:"Đệ họ Hồ song chẳng có tên!" Hỏi:"Thế thì thiên hạ thường xưng hô với túc hạ như thế nào?" Đáp:"Thiên hạ thường gọi đệ là Hồ tứ tướng công vì đệ là người con thứ tư trong gia đình" Sau một tuần trà, lại có tiếng nói:"Chẳng mấy khi túc hạ giá lâm, xin túc hạ lưu lại dùng với đệ một bữa rượu lạt!" Hư Nhất nhận lời ngay, đáp:"Xin vâng"
Lát sau, Hư Nhất thấy trong phòng dường như có tiếng chân của nhiều tiểu đồng chạy ra chạy vào, rồi thấy có bình chén, bát đũa, nem chả, ba ba, khô nai, rau thơm được đem ra bày kín mặt bàn. Rồi có tiếng nghiêng bình rót rượu và tiếng mời:"Mời túc hạ nâng chén!" Hư Nhất chẳng khách sáo, nâng chén yến ẩm thì thấy rượu và thức ăn rất ngon, y như ở các tửu quán thượng đẳng vậy. Hai bên thù tạc, đàm đạo văn chương thế sự, rất mực tương đắc. Đang yến ẩm, bỗng Hư Nhất thầm nghĩ giá bây giờ có một chén trà nóng mà uống thì thích quá. Lập tức có một chén trà nóng được đem tới đặt ngay trước mắt Hư Nhất. Thế rồi mỗi lần Hư Nhất thầm ước một vật gì thì vật ấy lập tức hiện ra ngay trước mắt. Hư Nhất rất lấy làm kinh ngạc song cũng rất lấy làm thích thú. Sau khi yến ẩm no say, Hư Nhất xin cáo biệt.
Từ đó, cứ ba ngày một lần, Hư Nhất lại tới thăm tướng công. Thỉnh thoảng, tướng công cũng tới đáp lễ Hư Nhất, song trước sau Hư Nhất cũng chỉ nghe thấy tiếng chân đi, tiếng miệng nói chứ chưa hề nhìn thấy hình dáng người bao giờ.
Một hôm, Hư Nhất cưỡi ngựa đến nhà tướng công dự tiệc. Trong lúc yến ẩm, Hư Nhất nói:"Đệ có quen một bà đồng ở Nam Thành. Người ta đồn rằng bà ấy khoe là có nuôi được một chồn thày thuốc để sai đi chữa bệnh cho thiên hạ, kiếm được rất nhiều tiền. Theo ý túc hạ, có đúng thế chăng?" Tướng công đáp:"Lời đồn của thiên hạ thì đúng nhưng lời khoe của bà đồng thì sai!" Lát sau, Hư Nhất đứng dậy, xin phép ra ngoài đi tiểu thì chợt nghe thấy tiếng thì thầm bên tai:"Lũ tiểu nhân vừa được nghe tiên sinh nói chuyện với tướng công về bà đồng ở Nam Thành. Vậy lát nữa, xin tiên sinh nói với tướng công cho lũ tiểu nhân được theo tiên sinh tới Nam Thành một chuyến để xem mặt mũi bà ấy ra sao?" Biết là tiếng nói của lũ chồn tiểu yêu, Hư Nhất đáp:"Được!" Khi trở lại bàn tiệc, Hư Nhất nói với tướng công:"Xin túc hạ cho mấy tiểu đồng theo đệ tới Nam Thành một chuyến để xem lời khoe của bà đồng là đúng hay sai?" Tướng công cười, đáp:"Đã biết lời khoe của bà ấy là sai rồi thì còn phải tới làm chi?" Hư Nhất năn nỉ:"Xin túc hạ cứ cho mấy tiểu đồng theo đệ tới đó một chuyến xem sao!" Tướng công cười, đáp:"Túc hạ đã muốn thế thì đệ xin vâng!"
Tiệc tan, Hư Nhất xin cáo biệt. Vừa toan ra tháo ngựa thì đã thấy ngựa đang chậm rãi bước tới trước cửa, tựa hồ như có người đang dắt tới vậy. Hư Nhất vừa leo lên lưng ngựa thì chợt nghe có tiếng tướng công sai bốn tiểu đồng đi theo mình tới Nam Thành.
Dọc đường, Hư Nhất thấy một làn gió nhẹ, thổi cát bụi bám vào vạt áo rồi có tiếng thì thầm bên tai:"Xin tiên sinh hiểu cho rằng khi nào tiên sinh đi đường mà thấy một làn gió nhẹ, thổi cát bụi bám vào vạt áo, tức là có lũ tiểu nhân đang theo hầu!" Hư Nhất gật đầu.
Tới nhà bà đồng, Hư Nhất gõ cổng. Bà đồng từ trong nhà bước qua sân, ra mở cổng. Thấy Hư Nhất, bà cười, hỏi:"Ngọn gió nào đưa quý nhân tới đây thế?" Hư Nhất đáp:"Bỉ nhân tự ý tới đây để hỏi thăm bà một chuyện!" Bà hỏi:"Chuyện chi mà quan trọng thế?" Hư Nhất đáp:"Người ta đồn rằng bà khoe là có nuôi được một con chồn thày thuốc để sai đi chữa bệnh cho thiên hạ, có đúng thế chăng?" Bà chợt nghiêm nét mặt, trách: "Quý nhân là người nho nhã, sao lại ăn nói khinh bạc như thế?" Hư Nhất hỏi:"Bỉ nhân ăn nói khinh bạc như thế nào?" Bà trách:"Sao quý nhân lại gọi Chị Hoa nhà lão thân là con chồn? Chị Hoa nhà lão thân mà nghe thấy thế thì buồn lắm đó!"
Bà vừa trách xong thì bỗng có một miếng gạch ném trúng cánh tay bà. Tưởng là Hư Nhất ném mình, bà tức giận, trách:"Sao quý nhân lại ném lão thân? Lão thân có xúc phạm chi tới quý nhân đâu?" Biết là lũ chồn tiểu yêu ném bà, Hư Nhất cười, đáp:"Bỉ nhân ném bà hồi nào? Bà thong manh rồi hay sao?" Nghe thấy thế, bà kinh hãi quá, cứ đứng suy nghĩ, chẳng hiểu là ai ném mình. Bỗng lại có một viên đá ném trúng đầu bà, làm bà té xuống đất. Bà chưa kịp nghĩ xem là ai ném thì lại có bùn nhơ ném trúng mặt bà, làm cho mặt bà trông tựa mặt quỷ. Bà kinh hãi quá, gào khóc, van xin:"Xin đừng ném nữa! Nếu lão thân có làm điều chi xúc phạm thì xin hãy tha tội cho!" Thấy thế, Hư Nhất cũng thương hại, bèn lớn tiếng quát lũ chồn tiểu yêu:"Không được ném nữa!" Lập tức bùn ngưng bay tới. Bà lồm cồm bò dậy, băng qua sân, chạy vào nhà, đóng chặt cửa, đi rửa mặt rồi ngồi ở trong nhà, chẳng dám ló ra ngoài. Hư Nhất chạy theo bà, tới gõ cửa, hỏi:"Chồn thày thuốc của bà có thể ném được gạch đá, bùn đất như chồn của bỉ nhân chăng?" Từ trong nhà, bà nói vọng ra:"Người ta đồn thế chứ lão thân có khoe là mình nuôi được chồn bao giờ đâu? Xin quý nhân đừng tin ở những lời đồn đại!" Hư Nhất ngửa mặt lên trời cười rồi quát lũ chồn tiểu yêu:"Cấm không được ném nữa!" Xong, lại quay ra nói với bà:"Bỉ nhân đã cấm lũ chồn không được ném nữa rồi! Bà đừng sợ! Hãy ra đây cho bỉ nhân dặn một điều!" Nghe thấy thế, bà mới dám hé cửa ra, hỏi:"Quý nhân muốn dạy bảo điều chi?" Hư Nhất đáp: "Chỉ muốn dặn bà một điều là từ nay trở đi, bà đừng lường gạt bệnh nhân nữa!" Bà nói:"Xin vâng!" Hư Nhất bèn cáo biệt. Từ đó, mỗi lần Hư Nhất đi đâu mà thấy một làn gió nhẹ, thổi cát bụi bám vào vạt áo thì biết ngay là có lũ chồn tiểu yêu đang theo hầu. Thế rồi, mỗi lần đi xa, muốn có người đồng hành để đề phòng thú dữ, giặc cướp hoặc để nói chuyện cho vui, Hư Nhất chỉ cần lên tiếng gọi lũ chồn là lập tức chúng đáp lời ngay.
Thấm thoắt, Hư Nhất đã giao du với tướng công được hơn một năm. Hai bên chuyện trò rất tâm đầu ý hợp, chẳng hề trái ý nhau bao giờ.
Một hôm, Hư Nhất hỏi:"Năm nay, túc hạ bao nhiêu tuổi?" Tướng công đáp:"Đệ quên mất rồi! Song mỗi lần nhớ tới việc mình chứng kiến vụ Hoàng Sào làm phản vào cuối triều Đường thì đệ lại thấy tựa hồ như mới ngày hôm qua!" Nghe thấy thế, Hư Nhất kinh hãi quá, chẳng dám hỏi chi thêm.
Một trưa, Hư Nhất đến nhà tướng công dự tiệc. Chợt nghe thấy tiếng gà kêu quang quác ở hàng rào, Hư Nhất lấy làm lạ, hỏi:"Sao giữa ban ngày mà lại có tiếng gà kêu như thế?" Tướng công đáp:"Chắc là lại do Tam ca nhà đệ gây ra!" Hỏi:"Sao túc hạ chẳng mời lệnh huynh vào đây yến ẩm, đàm đạo cho vui?" Đáp:"Gia huynh chẳng thích gặp đệ. Vả lại tư tưởng của gia huynh nông cạn lắm, biết lấy chi mà đàm đạo?" Hỏi:"Lệnh huynh ưa cuộc sống như thế nào?" Đáp:"Gia huynh chỉ ưa cuộc sống đi bắt trộm gà để nhắm rượu. Thế nhưng, nghĩ cho cùng thì đối với gia huynh, cuộc sống như thế cũng đủ rồi, cần chi phải có tư tưởng cao siêu!" Hư Nhất bèn nói lảng sang chuyện khác. Lát sau, bỗng Hư Nhất nói:"Đã hơn một năm nay, giao tình giữa chúng ta có thể nói là rất tốt đẹp song đệ thấy đệ vẫn còn một điều ấm ức, chưa giải tỏa được!" Tướng công cười, hỏi:"Điều ấy là điều chi?" Đáp:"Điều ấy là điều túc hạ chưa cho đệ được nhìn thấy tôn nhan!" Cười, nói:"Giao du với nhau thì chỉ cần giữ được chân tình, thiện cảm chứ cần chi phải biết mặt nhau?" Hư Nhất lặng im, chẳng nói chi thêm.
Tháng sau. Một hôm tướng công bày tiệc rượu thịnh soạn, sai lũ chồn tiểu yêu đi mời Hư Nhất đến dự. Hư Nhất vội mặc quần áo đi theo.
Tới nơi, tướng công mời Hư Nhất nhập tiệc. Giữa tiệc, đột nhiên tướng công nói: "Hôm nay đệ mời túc hạ đến đây để chúng mình yến ẩm đàm đạo với nhau lần chót!" Hư Nhất kinh ngạc, hỏi: "Sao vậy? Túc hạ sắp đi đâu?" Đáp: "Vì quê đệ ở Thiểm Tây nên nay đệ lại muốn hồi cư về đó!" Rồi cười, nói tiếp:"Trong hơn một năm qua, túc hạ cứ ấm ức là chẳng biết mặt mũi đệ ra sao. Nay sắp chia tay, đệ muốn để túc hạ nhìn thấy đệ một lần cho biết, kẻo sau này có dịp tái kiến, túc hạ lại chẳng nhận ra!" Hư Nhất quay đầu nhìn quanh song chẳng thấy ai, nên hỏi: "Túc hạ ở đâu?" Đáp: "Đệ ở trong phòng ngủ. Túc hạ hãy đến mở cửa ra thì thấy!" Hư Nhất bèn đứng dậy, bước tới phòng ngủ, mở cửa nhìn vào thì thấy quả có một thiếu niên anh tuấn, mặt đẹp như ngọc, y phục mới tinh, sang trọng lịch sự, đang ngồi trên giường, nhìn mình mỉm cười. Hư Nhất toan lên tiếng hỏi thì thiếu niên đã biến mất. Hư Nhất bèn khép cửa phòng ngủ, trở lại bàn tiệc. Nghe có tiếng chân người bước ở đằng sau, Hư Nhất quay đầu nhìn lại song chẳng thấy ai. Hư Nhất vừa an tọa thì nghe có tiếng cười, hỏi: "Phải chăng bữa nay đệ đã giải tỏa được điều ấm ức của túc hạ?" Hư Nhất chẳng đáp. Hai người lại tiếp tục yến ẩm, đàm đạo.
Tới khuya, thấy Hư Nhất vẫn chưa đứng dậy cáo biệt như mọi lần, tướng công biết là Hư Nhất còn lưu luyến tình bạn ở căn nhà này, nên cười, nói:"Mọi việc ở đời, kể cả hợp tan, đều đã có định số, túc hạ lưu luyến làm chi?" Hư Nhất lặng im, chẳng đáp. Tướng công bèn sai tiểu yêu đi lấy hai chén lớn, rồi tự tay rót đầy rượu, đưa một chén mời Hư Nhất, nói:"Đây là chén rượu ly biệt" Hai bên cùng cạn chén. Thấy Hư Nhất đã say, tướng công bèn sai lũ tiểu yêu hộ tống về nhà.
Sáng sau, khi tỉnh rượu, Hư Nhất vội tắm gội sạch sẽ rồi cưỡi ngựa đến thăm tướng công. Tới nơi, Hư Nhất thấy căn nhà đã hoàn toàn vắng lặng, chẳng còn một tiếng động. Từ đó, căn nhà hết chồn.
Mười năm sau, Hư Nhất vẫn thanh bần như xưa.
Một hôm, Hư Nhất cưỡi ngựa từ Sơn Đông xuống Tứ Xuyên thăm em. Tới nơi, thấy em mình có nhà cao cửa rộng, đồ đạc sang trọng, Hư Nhất cảm khái, thở dài. Ở chơi với em được hơn một tháng, Hư Nhất cáo biệt.
Dọc đường về, Hư Nhất buông cương cho ngựa bước tự do, còn mình thì ngồi trên lưng ngựa, suy nghĩ miên man về sự quý hiển của em, sót thương cho thân phận mình, rồi bất giác thở dài. Chợt nghe có tiếng vó ngựa ở đằng sau, Hư Nhất quay đầu nhìn lại thì thấy một thiếu niên anh tuấn, dáng vẻ phong nhã, mặc áo lông cừu, đang phóng một thanh câu đuổi theo mình. Hư Nhất bèn dừng cương, ghìm ngựa, đứng chờ. Khi thiếu niên tới gần, Hư Nhất gật đầu chào. Thiếu niên cung kính chắp tay đáp lễ. Hư Nhất hỏi: "Túc hạ đi đâu vậy?" Thiếu niên đáp: "Đệ tới huyện thành ở gần đây!" Rồi hỏi lại: "Thế còn túc hạ đi đâu?" Hư Nhất đáp:" Đệ từ Sơn Đông xuống đây thăm người em ruột, bây giờ lại trở về Sơn Đông" Thiếu niên nói: "Túc hạ xuống đây thăm lệnh đệ thì lẽ ra trông phải vui lắm mới đúng chứ sao trông lại buồn bã thế?" Hư Nhất thở dài, đáp: "Gia đệ thì quý hiển, nhà cao cửa rộng, còn đệ thì từ bao năm nay vẫn lận đận long đong. Vì nghĩ mình chẳng bằng em nên buồn!" Thiếu niên nói: "Trời sinh ra con người, cho mỗi người một phần số, túc hạ so sánh làm chi? Cứ an nhiên tự tại thì có phải là thanh thản hơn không?" Rồi nói lảng sang chuyện khác.
Rong ngựa cùng đi được hơn một dặm, tới ngã rẽ nhỏ, thiếu niên dừng cương, chắp tay nói: "Bây giờ thì đệ phải rẽ vào con đường này. Mong túc hạ tự bảo trọng!" Hư Nhất cũng chắp tay nói:"Xin cám ơn túc hạ!" Thiếu niên vừa dợm phóng thanh câu đi thì như chợt nhớ ra điều gì, lại dừng cương, nói: "Lát nữa đây, nếu túc hạ có gặp ai nhờ túc hạ đem một vật gì về Sơn Đông trao cho một người quen của túc hạ thì xin túc hạ làm ơn nhận giùm cho!" Rồi vái chào, phóng thanh câu đi. Hư Nhất thắc mắc, toan lên tiếng hỏi thì thanh câu đã mất dạng trên con đường nhỏ. Hư Nhất bèn tiếp tục lên đường.
Đi được chừng ba dặm, quả nhiên Hư Nhất thấy một ông lão đứng ở bên đường, tay xách một giỏ trúc trông có vẻ nặng. Hư Nhất vừa rong ngựa tới thì ông lão đã vội chạy ra nắm lấy dây cương, nói:"Xin tiên sinh tha cho lão nô tội đường đột! Dám hỏi tiên sinh đang đi đâu đó?" Hư Nhất đáp:"Bỉ nhân đang trên đường về Sơn Đông!" Ông lão nói:"Thế thì may cho lão nô quá! Bản chủ nhân cũng vừa sai lão nô đem chiếc giỏ này đi Sơn Đông để trao cho một người quen của tiên sinh! Nay được biết tiên sinh đang trên đường về Sơn Đông, lão nô dám mạo muội nhờ tiên sinh đem chiếc giỏ này về trao cho người ấy!" Hư Nhất đáp:"Được! Song phải nói rõ người ấy là ai vì bỉ nhân có nhiều người quen lắm!" Ông lão đáp:"Người ấy là Trương Hư Nhất tiên sinh!Ợ Hư Nhất kinh ngạc, nói: "Bỉ nhân chính là Trương Hư Nhất đây!" Rồi hỏi ông lão: "Quý chủ nhân là ai?" Ông lão đáp:"Bản chủ nhân là Hồ tứ tướng công!" Lúc đó Hư Nhất mới vỡ lẽ rằng thiếu niên mình vừa gặp chính là Hồ tứ tướng công và tướng công muốn tặng mình chiếc giỏ này. Ông lão trao giỏ. Hư Nhất giơ tay ra nhận. Hư Nhất toan lên tiếng hỏi thêm thì ông lão đã biến mất.
Mở giỏ ra coi, Hư Nhất thấy trong giỏ có một gói lớn, bọc bằng lụa đỏ, ngoài có dán một tấm giấy vàng, trên đề mấy chữ:"Hồ tứ tướng công kính tặng Trương Hư Nhất tiên sinh" Hư Nhất mở gói ra coi thì thấy toàn là vàng, ngọc.
Hư Nhất bèn buộc chặt chiếc giỏ trên mình ngựa rồi phóng về quê ở Lai Vu, Sơn Đông.
MÊ SÁCH
(truyện THƯ SI)
Bất tin thư trung cánh hữu ma
Ngọc nhan kim ốc lưỡng vô ngoa
Tổ long nhất cự tuy do số
Dã quái si nhi phúc vị đa
Huyện Bành Thành, tỉnh Tứ Xuyên, có nho sinh họ Lang, tên Ngọc Trụ, tính rất mê sách.
Ông nội Ngọc Trụ là thái thú Lang Ngọc Phương. Sinh thời, tuy là một đại quan song vì tính thanh liêm, gia tư thanh bạch, thái thú chỉ sống nhờ bổng lộc triều đình. Vì mê sách, thái thú dành tiền mua đủ mọi loại, lập thành một thư viện ở trong nhà.
Cha Ngọc Trụ là giáo thụ Lang Ngọc Tùng. Vì Ngọc Tùng cũng mê sách như cha nên khi cha mất, Ngọc Tùng vẫn giữ nguyên thư viện cũ. Ngọc Tùng có người bạn học cũ là Tô công, làm quan ở kinh đô và người học trò cũ là Lỗ sinh, làm thày thuốc ở Bành Thành. Ngọc Tùng dạy con học, tự tay chép thiên Khuyến Học của vua Tống Chân Tông, dán lên tường, bên trái bàn học của con, cốt để cho con thường xuyên trông thấy. Trong thiên này, có những câu như:
Trong sách tự có thóc
Trong sách tự có vàng
Trong sách tự có ngựa
Trong sách tự có người đẹp
Hàng ngày, Ngọc Trụ tụng thiên này, lấy lụa trắng phủ lên cho khỏi cũ. Chẳng phải là Ngọc Trụ muốn cầu lợi lộc song trong thâm tâm, Ngọc Trụ tin những câu này là đúng. Nói về chuyện mê sách thì Ngọc Trụ còn mê sách hơn cả ông cha.
Năm Ngọc Trụ 20 tuổi, cha mất. Sau tang lễ, Ngọc Trụ chỉ miệt mài đọc sách, chẳng biết thời tiết nóng lạnh là gì.
Ba năm sau, Ngọc Trụ hết tang cha, được nhiều khách tới làm mối vợ cho, song đều từ chối, nói rằng chỉ cần đọc sách thì tự nhiên sẽ có người đẹp trong sách tới làm vợ. Khách nào tới nói chuyện, Ngọc Trụ cũng chỉ nói vài câu xã giao rồi lại quay ra đọc sách. Khách ngồi một mình, đâm ra bực tức, đứng dậy bỏ về.
Ngọc Trụ đọc sách đã nhiều, song cứ đi thi là hỏng. Vì chỉ ngồi đọc sách, chẳng kiếm ra tiền nên nhà đã nghèo lại nghèo thêm, phải bán dần vật dụng trong nhà để lấy tiền sinh sống. Ai tới nhà hỏi mua vật gì Ngọc Trụ cũng bán, song sách của ông cha để lại thì nhất định chẳng chịu bán một cuốn.
Một hôm, Ngọc Trụ ngồi đọc sách. Bỗng có một cơn gió mạnh thổi bay sách ra vườn. Ngọc Trụ bèn đứng dậy đuổi theo, bất đồ thụt chân xuống một hố lớn. Ngọc Trụ cúi xuống coi thì thấy hố đầy thóc nhưng thóc đã mục, không ăn được nữa. Tuy nhiên, Ngọc Trụ vẫn tin là trong sách tự có thóc.
Hôm khác, Ngọc Trụ bắc thang lên giá cao tìm sách, chợt bắt gặp một khám thờ Phật bằng vàng của ông nội để lại, đường kính dài hơn thước. Ngọc Trụ mừng lắm, vội lấy xuống đem tới tiệm thợ bạc hỏi giá. Thợ bạc cho biết là vàng mạ chứ chẳng phải vàng thực, song Ngọc Trụ vẫn tin là trong sách tự có vàng.
Tháng sau. Một hôm, triều đình cử Tô công tới tuần duyệt ở Bành Thành. Có kẻ biết Tô công là bạn học cũ của giáo thụ Ngọc Tùng nên khuyên Ngọc Trụ đem chiếc khám ra biếu. Ngọc Trụ liền theo lời. Gặp con của bạn cũ, Tô công mừng lắm, hỏi thăm chuyện gia đình rồi tặng cho Ngọc Trụ ba trăm đồng vàng và hai con ngựa. Vì thế, Ngọc Trụ càng tin là trong sách tự có ngựa.
Rồi Ngọc Trụ càng cố công đọc sách.
Mười năm sau, Ngọc Trụ 33 tuổi. Bạn bè khuyên: "Ngoài ba mươi rồi, cưới vợ đi kẻo trễ" Ngọc Trụ đáp:"Cứ chăm đọc sách thì tự nhiên sẽ có người đẹp trong sách tới làm vợ, cần chi phải cưới!" Bạn bè đều cười.
Đọc sách thêm ba năm nữa cũng chẳng thấy ai tới làm vợ, Ngọc Trụ bị bạn bè chế giễu. Một hôm, ở Tứ Xuyên có tin đồn cháu gái Thượng Đế là Chức Nữ vừa bỏ trời, trốn xuống trần gian, bạn bè bèn rủ nhau tới nhà Ngọc Trụ, nói đùa:"Chức Nữ ở trên trời một mình buồn quá, đã trốn xuống trần gian, đang đi tìm huynh đó!" Biết là mình bị bạn bè chế giễu, Ngọc Trụ chỉ im lặng.
Một tối, Ngọc Trụ ngồi đọc cuốn Hán Thư thứ tám. Chợt thấy lờ mờ trên trang giấy có hình bóng một nữ lang kiều diễm, Ngọc Trụ hồi hộp lắm, thầm nghĩ chắc đó là người đẹp trong sách. Tuy nhiên, vì thấy chỉ có hình bóng nên Ngọc Trụ cũng thất vọng, cứ ước ao sao cho có một người thực. Lật mặt sau, thấy lờ mờ có hai chữ Chức Nữ nho nhỏ, Ngọc Trụ càng hồi hộp. Khi lật trở lại, thấy mặt mày hình bóng đã có vẻ sống động, Ngọc Trụ vội đem sách đặt lên bàn thờ, thắp hương khấn vái. Rồi ngồi ngây người ra mà ngắm, bỏ cả ăn ngủ.
Tối sau, Ngọc Trụ đang ngồi ngắm hình bóng trên trang giấy thì chợt thấy hình bóng biến thành một người đẹp nhỏ thó, vặn mình bước ra khỏi sách, đứng trên bàn thờ, nhìn mình mỉm cười. Trống ngực đánh thình thình, Ngọc Trụ vội sụp xuống lạy. Khi ngửng đầu lên, thấy người đẹp đã bước xuống đất, đứng ngay cạnh mình, vóc người thon nhỏ, mặt đẹp như ngọc, quả là một trang quốc sắc, Ngọc Trụ cứ ngây người ra ngắm. Thấy Ngọc Trụ ngắm mình như thế, người đẹp mỉm cười rồi tới ngồi trên chiếc ghế cạnh bàn thờ. Ngọc Trụ càng hồi hộp, sụp xuống lạy lần nữa, rồi đứng dậy, hỏi:"Nương tử là thần tiên ở chốn nào?" Người đẹp mỉm cười, đáp:"Thần tiên chi đâu! Chỉ là người thường trong cuốn sách vẫn đọc hàng ngày đó thôi! Chẳng nhận ra nhau sao?" Hỏi: "Nương tử có họ tên chi không?" Đáp:"Có chứ sao không?" Hỏi:"Quý danh là gì?" Đáp:"Họ Nhan, tên Như Ngọc" Hỏi:"Nương tử hiện ra đây để làm gì?" Đáp:"Để cho người đời tin rằng những điều cổ nhân viết trong kinh sách là đúng!" Ngọc Trụ mừng quá, vội hỏi:"Vậy thì có phải bây giờ nương tử tới đây để phối hợp với tiểu sinh không?" Như Ngọc gật đầu, đáp:"Phải!" Nghe thấy thế, Ngọc Trụ mừng quá, vội chạy tới ôm chầm lấy Như Ngọc. Như Ngọc mỉm cười, khẽ giơ tay cản lại, nói:"Tuy nhiên, nếu chịu bỏ hẳn đọc sách thì mới ở lại, còn nếu cứ tiếp tục đọc sách thì sẽ đi ngay!" Ngọc Trụ gật đầu rồi dìu Như Ngọc lên giường mà ân ái. Đêm ấy, hai người cực kỳ hoan lạc.
Sáng sau, ngủ dậy, Ngọc Trụ nói:"Có nàng ở cạnh, đọc sách sẽ thông, đi thi sẽ đậu!" Như Ngọc đáp:"Chẳng phải thế! Muốn thi đậu thì không được đọc sách nữa!" Hỏi:"Sao lại lạ vậy? Không đọc sách nữa thì làm sao mà đậu?" Đáp:"Chính vì đọc sách nhiều quá mà không đậu. Thử nghĩ coi! Những kẻ đậu, có kẻ nào đọc sách nhiều như thế đâu?" Ngọc Trụ chẳng dám cãi song trong tâm chẳng phục.
Lát sau, Như Ngọc xuống bếp dọn dẹp. Một mình ở nhà trên, Ngọc Trụ lại lấy sách ra đọc. Ở dưới bếp lên, thấy Ngọc Trụ đang đọc sách, Như Ngọc liền biến mất. Ngọc Trụ ngửng đầu nhìn, thấy Như Ngọc đã biến mất thì tiếc ngẩn ngơ, vội quỳ xuống trước bàn thờ, khấn vái, xin Như Ngọc tái hiện, song chẳng thấy chi. Ngọc Trụ bèn lấy cuốn Hán Thư trên bàn thờ xuống coi. Thấy lờ mờ hình bóng Như Ngọc trên trang giấy, Ngọc Trụ vội lên tiếng gọi:"Như Ngọc! Như Ngọc!" song hình bóng vẫn bất động. Chẳng biết làm sao hơn, Ngọc Trụ đành đem cuốn sách đặt trở lại bàn thờ, rồi thắp hương, phủ phục xuống đất, khấn:"Xin tái hiện! Xin tái hiện!" Bỗng Như Ngọc hiện ra, nói: "Lần này, nếu chẳng chịu bỏ hẳn đọc sách thì nhất quyết sẽ tuyệt tình!" Ngọc Trụ vội đáp: "Xin vâng!" Hỏi:"Nhà có bàn cờ không?" Đáp:"Có!" Nói:"Hãy lấy ra đây, thử đấu vài ván xem sao!" Ngọc Trụ vội đi lấy đem ra. Vì chẳng thích đấu cờ, Ngọc Trụ thua liền hai ván.
Hỏi: "Ngoài việc đọc sách ra, chẳng có tài nghề chi, sao đòi có vợ đẹp?" Đáp: "Sẽ xin học từ từ!" Tới tối, lại cùng Như Ngọc mặn nồng ân ái.
Sáng sau, khi thức giấc, Ngọc Trụ muốn đọc sách song lại sợ Như Ngọc biến mất. Chợt nghĩ nếu giấu cuốn Hán thư đi thì Như Ngọc sẽ chẳng còn chỗ biến vào nên Ngọc Trụ tới bàn thờ, lén lấy cuốn Hán Thư giấu xuống đống sách vứt bừa bãi dưới đất, rồi tới bàn thắp đèn, ngồi miệt mài đọc sách từ sáng tới trưa. Khi ngửng đầu lên, thấy Như Ngọc đang đứng ở cạnh mình, Ngọc Trụ vội giấu cuốn sách xuống gầm bàn song Như Ngọc đã biến mất. Ngọc Trụ kinh hãi quá, chẳng hiểu tại sao Như Ngọc lại biết được chỗ mình giấu cuốn Hán Thư mà biến vào. Bèn lục đống sách dưới đất, lấy cuốn Hán Thư đem đặt lên bàn thờ, rồi thắp hương, quỳ xuống đất, khấn: "Như Ngọc! Như Ngọc! Nếu lần này nàng chịu tái hiện để chung sống thì ta thề sẽ chẳng bao giờ đọc sách nữa!" Đột nhiên, Như Ngọc lại hiện ra, nói:"Hãy thề là sẽ giữ lời đi!" Ngọc Trụ vội đáp: "Xin thề!" Như Ngọc lại nói:"Hãy lấy bàn cờ ra đây!" Ngọc Trụ vội lấy ra. Như Ngọc nói: "Hẹn cho ba ngày mà không thắng nổi một ván thì nhất quyết sẽ tuyệt tình!" Ngọc Trụ đáp:"Xin vâng!" Hai ngày đầu, Ngọc Trụ thua liên miên. Sang ngày thứ ba, vì sợ quá, Ngọc Trụ phải chú tâm nghĩ nước nên thắng được một ván. Ngọc Trụ mừng quá, thở phào nhẹ nhõm, chạy tới ôm chầm lấy Như Ngọc, dìu lên giường mà ân ái.
Sáng sau, ngủ dậy, Như Ngọc hỏi:"Nhà có đàn không?" Ngọc Trụ đáp:"Có! Song không biết gảy" Như Ngọc nói:"Cứ lấy ra đây!" Ngọc Trụ vội lấy ra. Như Ngọc dạy cách gảy đàn rồi đưa cho một khúc nhạc, nói:"Hẹn cho năm ngày mà chẳng gảy được khúc nhạc này thì nhất quyết sẽ bỏ đi!" Bốn ngày đầu, Ngọc Trụ loay hoay mãi, chẳng sao gảy được. Sang ngày thứ năm, vì sợ quá, mồ hôi toát ra như tắm, phải chú tâm tập gảy nên hốt nhiên gảy được. Mừng quá, Ngọc Trụ ôm cả đàn mà múa theo điệu nhạc. Thấy thế, Như Ngọc cũng phải mỉm cười. Ngọc Trụ lại chạy tới ôm chầm lấy Như Ngọc, dìu lên giường mà ân ái.
Sáng sau, ngủ dậy, Như Ngọc hỏi:"Nhà có rượu không?" Ngọc Trụ đáp:"Có! Song không biết uống!" Như Ngọc nói:"Cứ lấy ra đây!" Ngọc Trụ vội lấy ra. Như Ngọc liền rót đầy hai chén, đưa cho Ngọc Trụ một chén, bắt ngồi đối ẩm. Ngọc Trụ nhăn mặt mà nuốt. Như Ngọc lại rót thêm, bắt uống tiếp. Lát sau, Ngọc Trụ uống quen, thấy mùi rượu thơm ngon, bèn tự rót thêm mà uống. Khi đã ngà ngà say, đầu óc lâng lâng, người nóng ran, Ngọc Trụ chạy tới ôm chầm lấy Như Ngọc, dìu lên giường mà ân ái.
Sáng sau, ngủ dậy, Như Ngọc hỏi:"Có giao du thân thiết với bạn bè nào không?" Ngọc Trụ đáp:"Bạn sơ thì có chứ bạn thân thì không!" Nói:"Chẳng thể thế được! Phải chọn bạn mà kết thân!" Bất đắc dĩ, Ngọc Trụ phải đi thăm bạn bè ngày trước, mời tới nhà đấu cờ, gảy đàn, uống rượu. Vì thế, đột nhiên Ngọc Trụ nổi tiếng là nho sinh quảng giao nhất huyện. Từ đó, ngày thì cùng bạn bè cười đùa vui vẻ, đêm thì cùng Như Ngọc hoan lạc ái ân. Lâu dần, Ngọc Trụ quên hẳn việc đọc sách. Như Ngọc thấy thế thì mỉm cười, nói:"Nếu cứ chịu khó bỏ đọc sách như thế này, thì thi khoa nào mà chẳng đậu?"
Mười tháng sau Như Ngọc sanh con trai, đặt tên là Ngọc Thư. Như Ngọc chẳng cho con bú, chỉ thuê một bà vú tới nhà nuôi đứa bé và mua cho Ngọc Trụ một tì nữ để sai bảo.
Hai tháng sau, một hôm Như Ngọc nói:"Đã ở với nhau được một năm. Đã sanh với nhau được một trai. Bây giờ là lúc phải vĩnh biệt!" Ngọc Trụ kinh hãi, hỏi: "Sao lại phải vĩnh biệt?" Đáp:"Vì càng ở lâu thì họa càng lớn! Lúc đó có hối cũng chẳng kịp!" Ngọc Trụ hỏi:"Họa gì?" Như Ngọc lặng im, chẳng đáp. Ngọc Trụ khóc, hỏi: "Chẳng nhớ ta đã đành song cũng chẳng nhớ con sao?" Như Ngọc buồn rầu, im lặng hồi lâu rồi mới đáp:"Nhớ chứ! Song vĩnh biệt thì vẫn phải vĩnh biệt!" Hỏi: "Có cách chi giữ nàng ở lại được không?" Đáp: "Muốn giữ ở lại thì chỉ còn cách là đốt hết sách vở trong thư viện đi thôi!" Ngọc Trụ kinh hãi, nói: "Sách vở là quê quán của nàng, mà cũng là tính mệnh của ta, sao lại ép ta phải đốt?" Như Ngọc thở dài, đáp: "Có ép ai đâu? Chỉ khuyên thế thôi! Nếu chẳng chịu đốt thì họa sẽ tới. Mà họa có tới cũng là tại số!" Ngọc Trụ chẳng hiểu tại sao đốt sách mà lại tránh được họa, song cũng chẳng muốn hỏi chi thêm.
Bạn bè thân sơ tới lui nườm nượp. Thấy Ngọc Trụ không cưới vợ mà tự nhiên lại có vợ đẹp, sanh được con trai, ai cũng thắc mắc. Bèn luân phiên nhau dò hỏi cho thỏa tính tò mò. Ngọc Trụ vốn không quen nói dối song cũng chẳng muốn cho ai biết sự thực, nên chỉ ậm ừ, chẳng trả lời rành mạch. Bạn bè bèn loan tin là Ngọc Trụ có vợ tiên. Như Ngọc nghe tin, buồn rầu, nói:"Họa tới nơi rồi!" Rồi gọi bà vú lên, đưa cho một gói vàng, bảo:"Hãy bế thằng bé này tới Thiểm Tây mà cư ngụ!" Ngọc Trụ ngạc nhiên, hỏi:"Sao tự nhiên lại bắt con phải xa cha mẹ?" Đáp:"Để tránh họa!" Hỏi:"Họa gì?" Đáp:"Rồi sẽ biết!" Tối ấy, Như Ngọc rủ Ngọc Trụ lên giường ân ái hoan lạc suốt đêm. Ngọc Trụ lấy làm lạ vì thấy đây lần đầu tiên Như Ngọc rủ mình như thế.
Sáng sau, Như Ngọc dậy sớm pha trà, gọi Ngọc Trụ dậy đối ẩm. Sau một tuần trà, bỗng Như Ngọc buông chén, nói:"Tới giờ rồi! Vĩnh biệt thôi!" Ngọc Trụ chưa kịp lên tiếng thì Như Ngọc đã biến mất. Ngọc Trụ kinh hãi quá, trống ngực đánh thình thình, thần trí cứ ngơ ngẩn như kẻ mất hồn.
Tỉnh Phúc Kiến có nho sinh họ Sử, trẻ tuổi, thông minh. Năm ấy, thi đậu tiến sĩ, được triều đình bổ nhậm đi làm quan tể huyện Bành Thành. Sử công rất hiếu sắc, đã cưới hai cô vợ mà vẫn còn mua thêm nhiều nàng hầu. Trong số các nàng hầu, có một nàng đẹp lắm, họ Nghê, được Sử công rất say mê.
Tuy nhiên, khi tới Bành Thành phó nhậm, nghe đồn Ngọc Trụ có cô vợ tên Như Ngọc, đẹp như tiên, từ trong sách hiện ra, Sử công vẫn động lòng hiếu sắc, muốn chiếm đoạt. Sử công bèn kết tội vợ chồng Ngọc Trụ đã dùng yêu đạo để huyễn hoặc huyện dân, rồi sai lính đi bắt cả hai vợ chồng. Lính tới nhà Ngọc Trụ thì thấy chỉ có một mình Ngọc Trụ đang ngồi bần thần ở nhà trên và một tì nữ đang nấu ăn ở nhà dưới. Lính bèn bắt trói Ngọc Trụ, giải về huyện đường. Sử công thấy lính không bắt được Như Ngọc thì nổi giận, ra lệnh lột mũ áo nho sinh của Ngọc Trụ, gông cùm thực kỹ, tống giam vào ngục. Sử công nghĩ rằng mình làm như thế thì Như Ngọc sẽ phải tới huyện đường lạy lục để xin tha cho chồng. Thế nhưng, sau bảy ngày đêm, Sử công vẫn chẳng thấy Như Ngọc đâu. Sử công bèn sai lính đem Ngọc Trụ ra tra khảo, bắt phải cung khai sự thực. Ngọc Trụ bị đánh gần chết song vẫn chẳng chịu khai gì. Sử công lại sai lính tới nhà Ngọc Trụ bắt nốt tì nữ, đem về tra khảo. Tì nữ khai rằng mình mới được mua về nên cũng chẳng được biết chi nhiều. Chẳng biết làm sao hơn, Sử công bèn sai lính nhốt cả Ngọc Trụ với tì nữ vào ngục.
Sáng sau, Sử công sai lính rong xe, hộ tống mình tới nhà Ngọc Trụ khám xét thì thấy nhà cửa nghèo nàn, chẳng có chi đáng giá, ngoại trừ một thư viện đầy kinh sách. Sử công muốn tìm cuốn sách có hình bóng Như Ngọc như tin đồn, song vì thư viện đầy sách nên chẳng biết phải tìm ở cuốn nào. Sử công nổi giận, bèn sai lính đốt nhà. Khói bốc lên cao, tỏa um cả ngõ trước vườn sau.
Về huyện đường, Sử công nghĩ rằng chắc Như Ngọc là một loài yêu quái nên nếu bây giờ có tiếp tục nhốt Ngọc Trụ với tì nữ thì cũng chẳng chiếm được Như Ngọc. Vì thế, Sử công quyết định thả cho Ngọc Trụ và tì nữ ra về.
Ngọc Trụ dắt tì nữ về tới nhà thì thấy nhà đã bị cháy rụi. Ngọc Trụ liền trả tự do cho tì nữ, còn mình thì tới xin ở nhờ nhà Lỗ sinh. Ngọc Trụ lại nhờ Lỗ sinh lên huyện đường xin cho mình được tái phục mũ áo nho sinh. Vì nể Lỗ sinh, Sử công chấp thuận.
Mùa thu năm ấy, triều đình mở khoa thi hương ở Tứ Xuyên. Ngọc Trụ đi thi, đậu cử nhân. Mùa thu năm sau, Ngọc Trụ lên kinh đô thi hội, đậu tiến sĩ. Vì uất hận Sử công, Ngọc Trụ chẳng về quê, thuê nhà ở kinh đô cư ngụ. Trong nhà, Ngọc Trụ thiết lập một bàn thờ Như Ngọc, sớm tối thắp hương, cầu khấn Như Ngọc phù hộ cho mình được làm quan ở Phúc Kiến.
Năm sau, Ngọc Trụ nhận được chỉ dụ của vua bổ nhậm đi làm tuần vũ tỉnh Phúc Kiến. Tới nơi phó nhậm, Ngọc Trụ gặp người biểu huynh họ Vi, đang giữ chức quan tư lý, cai quản các ngục tù ở trong tỉnh.
Vì Sử công tham nhũng, giết hại dân lành nên bị dân Bành Thành khiếu nại tới tận kinh đô. Triều đình liền huyền chức Sử công, đuổi về quê, rồi sai Ngọc Trụ điều tra tội ác của Sử công. Ngọc Trụ điều tra xong, dâng sớ tâu vua. Đọc sớ xong, vua liền truyền lệnh tịch thu tài sản của Sử công rồi bắt Sử công bỏ ngục.
Thấy Ngọc Trụ chưa có vợ, Vi công nảy ý muốn bắt Nghê Cơ cho Ngọc Trụ làm vợ nên ép Sử công phải nạp Nghê Cơ cho mình để khỏi bị tra tấn. Bất đắc dĩ, Sử công phải bằng lòng. Vi công liền đem Nghê Cơ tới dinh Ngọc Trụ gửi tạm. Ngọc Trụ hỏi là ai thì Vi công nói dối là một tì nữ mình mới mua được, nhưng vì tì nữ đẹp, sợ vợ ghen, nên phải đem tới gửi tạm. Ngọc Trụ tưởng thực nên nhận lời.
Ba tháng sau, triều đình kết án Sử công, đày đi làm lính thú ở Liêu Ninh. Lúc đó, Vi công mới nói thực cho Ngọc Trụ biết rằng Nghê cơ vốn là ái cơ của Sử công, rồi khuyên Ngọc Trụ nên nạp Nghê Cơ làm vợ. Ngọc Trụ bèn theo lời. Sau đó, Ngọc Trụ sai người đi Thiểm Tây đón con là Ngọc Thư và bà vú về ở với mình.
Bất tin thư trung cánh hữu ma
Ngọc nhan kim ốc lưỡng vô ngoa
Tổ long nhất cự tuy do số
Dã quái si nhi phúc vị đa
Huyện Bành Thành, tỉnh Tứ Xuyên, có nho sinh họ Lang, tên Ngọc Trụ, tính rất mê sách.
Ông nội Ngọc Trụ là thái thú Lang Ngọc Phương. Sinh thời, tuy là một đại quan song vì tính thanh liêm, gia tư thanh bạch, thái thú chỉ sống nhờ bổng lộc triều đình. Vì mê sách, thái thú dành tiền mua đủ mọi loại, lập thành một thư viện ở trong nhà.
Cha Ngọc Trụ là giáo thụ Lang Ngọc Tùng. Vì Ngọc Tùng cũng mê sách như cha nên khi cha mất, Ngọc Tùng vẫn giữ nguyên thư viện cũ. Ngọc Tùng có người bạn học cũ là Tô công, làm quan ở kinh đô và người học trò cũ là Lỗ sinh, làm thày thuốc ở Bành Thành. Ngọc Tùng dạy con học, tự tay chép thiên Khuyến Học của vua Tống Chân Tông, dán lên tường, bên trái bàn học của con, cốt để cho con thường xuyên trông thấy. Trong thiên này, có những câu như:
Trong sách tự có thóc
Trong sách tự có vàng
Trong sách tự có ngựa
Trong sách tự có người đẹp
Hàng ngày, Ngọc Trụ tụng thiên này, lấy lụa trắng phủ lên cho khỏi cũ. Chẳng phải là Ngọc Trụ muốn cầu lợi lộc song trong thâm tâm, Ngọc Trụ tin những câu này là đúng. Nói về chuyện mê sách thì Ngọc Trụ còn mê sách hơn cả ông cha.
Năm Ngọc Trụ 20 tuổi, cha mất. Sau tang lễ, Ngọc Trụ chỉ miệt mài đọc sách, chẳng biết thời tiết nóng lạnh là gì.
Ba năm sau, Ngọc Trụ hết tang cha, được nhiều khách tới làm mối vợ cho, song đều từ chối, nói rằng chỉ cần đọc sách thì tự nhiên sẽ có người đẹp trong sách tới làm vợ. Khách nào tới nói chuyện, Ngọc Trụ cũng chỉ nói vài câu xã giao rồi lại quay ra đọc sách. Khách ngồi một mình, đâm ra bực tức, đứng dậy bỏ về.
Ngọc Trụ đọc sách đã nhiều, song cứ đi thi là hỏng. Vì chỉ ngồi đọc sách, chẳng kiếm ra tiền nên nhà đã nghèo lại nghèo thêm, phải bán dần vật dụng trong nhà để lấy tiền sinh sống. Ai tới nhà hỏi mua vật gì Ngọc Trụ cũng bán, song sách của ông cha để lại thì nhất định chẳng chịu bán một cuốn.
Một hôm, Ngọc Trụ ngồi đọc sách. Bỗng có một cơn gió mạnh thổi bay sách ra vườn. Ngọc Trụ bèn đứng dậy đuổi theo, bất đồ thụt chân xuống một hố lớn. Ngọc Trụ cúi xuống coi thì thấy hố đầy thóc nhưng thóc đã mục, không ăn được nữa. Tuy nhiên, Ngọc Trụ vẫn tin là trong sách tự có thóc.
Hôm khác, Ngọc Trụ bắc thang lên giá cao tìm sách, chợt bắt gặp một khám thờ Phật bằng vàng của ông nội để lại, đường kính dài hơn thước. Ngọc Trụ mừng lắm, vội lấy xuống đem tới tiệm thợ bạc hỏi giá. Thợ bạc cho biết là vàng mạ chứ chẳng phải vàng thực, song Ngọc Trụ vẫn tin là trong sách tự có vàng.
Tháng sau. Một hôm, triều đình cử Tô công tới tuần duyệt ở Bành Thành. Có kẻ biết Tô công là bạn học cũ của giáo thụ Ngọc Tùng nên khuyên Ngọc Trụ đem chiếc khám ra biếu. Ngọc Trụ liền theo lời. Gặp con của bạn cũ, Tô công mừng lắm, hỏi thăm chuyện gia đình rồi tặng cho Ngọc Trụ ba trăm đồng vàng và hai con ngựa. Vì thế, Ngọc Trụ càng tin là trong sách tự có ngựa.
Rồi Ngọc Trụ càng cố công đọc sách.
Mười năm sau, Ngọc Trụ 33 tuổi. Bạn bè khuyên: "Ngoài ba mươi rồi, cưới vợ đi kẻo trễ" Ngọc Trụ đáp:"Cứ chăm đọc sách thì tự nhiên sẽ có người đẹp trong sách tới làm vợ, cần chi phải cưới!" Bạn bè đều cười.
Đọc sách thêm ba năm nữa cũng chẳng thấy ai tới làm vợ, Ngọc Trụ bị bạn bè chế giễu. Một hôm, ở Tứ Xuyên có tin đồn cháu gái Thượng Đế là Chức Nữ vừa bỏ trời, trốn xuống trần gian, bạn bè bèn rủ nhau tới nhà Ngọc Trụ, nói đùa:"Chức Nữ ở trên trời một mình buồn quá, đã trốn xuống trần gian, đang đi tìm huynh đó!" Biết là mình bị bạn bè chế giễu, Ngọc Trụ chỉ im lặng.
Một tối, Ngọc Trụ ngồi đọc cuốn Hán Thư thứ tám. Chợt thấy lờ mờ trên trang giấy có hình bóng một nữ lang kiều diễm, Ngọc Trụ hồi hộp lắm, thầm nghĩ chắc đó là người đẹp trong sách. Tuy nhiên, vì thấy chỉ có hình bóng nên Ngọc Trụ cũng thất vọng, cứ ước ao sao cho có một người thực. Lật mặt sau, thấy lờ mờ có hai chữ Chức Nữ nho nhỏ, Ngọc Trụ càng hồi hộp. Khi lật trở lại, thấy mặt mày hình bóng đã có vẻ sống động, Ngọc Trụ vội đem sách đặt lên bàn thờ, thắp hương khấn vái. Rồi ngồi ngây người ra mà ngắm, bỏ cả ăn ngủ.
Tối sau, Ngọc Trụ đang ngồi ngắm hình bóng trên trang giấy thì chợt thấy hình bóng biến thành một người đẹp nhỏ thó, vặn mình bước ra khỏi sách, đứng trên bàn thờ, nhìn mình mỉm cười. Trống ngực đánh thình thình, Ngọc Trụ vội sụp xuống lạy. Khi ngửng đầu lên, thấy người đẹp đã bước xuống đất, đứng ngay cạnh mình, vóc người thon nhỏ, mặt đẹp như ngọc, quả là một trang quốc sắc, Ngọc Trụ cứ ngây người ra ngắm. Thấy Ngọc Trụ ngắm mình như thế, người đẹp mỉm cười rồi tới ngồi trên chiếc ghế cạnh bàn thờ. Ngọc Trụ càng hồi hộp, sụp xuống lạy lần nữa, rồi đứng dậy, hỏi:"Nương tử là thần tiên ở chốn nào?" Người đẹp mỉm cười, đáp:"Thần tiên chi đâu! Chỉ là người thường trong cuốn sách vẫn đọc hàng ngày đó thôi! Chẳng nhận ra nhau sao?" Hỏi: "Nương tử có họ tên chi không?" Đáp:"Có chứ sao không?" Hỏi:"Quý danh là gì?" Đáp:"Họ Nhan, tên Như Ngọc" Hỏi:"Nương tử hiện ra đây để làm gì?" Đáp:"Để cho người đời tin rằng những điều cổ nhân viết trong kinh sách là đúng!" Ngọc Trụ mừng quá, vội hỏi:"Vậy thì có phải bây giờ nương tử tới đây để phối hợp với tiểu sinh không?" Như Ngọc gật đầu, đáp:"Phải!" Nghe thấy thế, Ngọc Trụ mừng quá, vội chạy tới ôm chầm lấy Như Ngọc. Như Ngọc mỉm cười, khẽ giơ tay cản lại, nói:"Tuy nhiên, nếu chịu bỏ hẳn đọc sách thì mới ở lại, còn nếu cứ tiếp tục đọc sách thì sẽ đi ngay!" Ngọc Trụ gật đầu rồi dìu Như Ngọc lên giường mà ân ái. Đêm ấy, hai người cực kỳ hoan lạc.
Sáng sau, ngủ dậy, Ngọc Trụ nói:"Có nàng ở cạnh, đọc sách sẽ thông, đi thi sẽ đậu!" Như Ngọc đáp:"Chẳng phải thế! Muốn thi đậu thì không được đọc sách nữa!" Hỏi:"Sao lại lạ vậy? Không đọc sách nữa thì làm sao mà đậu?" Đáp:"Chính vì đọc sách nhiều quá mà không đậu. Thử nghĩ coi! Những kẻ đậu, có kẻ nào đọc sách nhiều như thế đâu?" Ngọc Trụ chẳng dám cãi song trong tâm chẳng phục.
Lát sau, Như Ngọc xuống bếp dọn dẹp. Một mình ở nhà trên, Ngọc Trụ lại lấy sách ra đọc. Ở dưới bếp lên, thấy Ngọc Trụ đang đọc sách, Như Ngọc liền biến mất. Ngọc Trụ ngửng đầu nhìn, thấy Như Ngọc đã biến mất thì tiếc ngẩn ngơ, vội quỳ xuống trước bàn thờ, khấn vái, xin Như Ngọc tái hiện, song chẳng thấy chi. Ngọc Trụ bèn lấy cuốn Hán Thư trên bàn thờ xuống coi. Thấy lờ mờ hình bóng Như Ngọc trên trang giấy, Ngọc Trụ vội lên tiếng gọi:"Như Ngọc! Như Ngọc!" song hình bóng vẫn bất động. Chẳng biết làm sao hơn, Ngọc Trụ đành đem cuốn sách đặt trở lại bàn thờ, rồi thắp hương, phủ phục xuống đất, khấn:"Xin tái hiện! Xin tái hiện!" Bỗng Như Ngọc hiện ra, nói: "Lần này, nếu chẳng chịu bỏ hẳn đọc sách thì nhất quyết sẽ tuyệt tình!" Ngọc Trụ vội đáp: "Xin vâng!" Hỏi:"Nhà có bàn cờ không?" Đáp:"Có!" Nói:"Hãy lấy ra đây, thử đấu vài ván xem sao!" Ngọc Trụ vội đi lấy đem ra. Vì chẳng thích đấu cờ, Ngọc Trụ thua liền hai ván.
Hỏi: "Ngoài việc đọc sách ra, chẳng có tài nghề chi, sao đòi có vợ đẹp?" Đáp: "Sẽ xin học từ từ!" Tới tối, lại cùng Như Ngọc mặn nồng ân ái.
Sáng sau, khi thức giấc, Ngọc Trụ muốn đọc sách song lại sợ Như Ngọc biến mất. Chợt nghĩ nếu giấu cuốn Hán thư đi thì Như Ngọc sẽ chẳng còn chỗ biến vào nên Ngọc Trụ tới bàn thờ, lén lấy cuốn Hán Thư giấu xuống đống sách vứt bừa bãi dưới đất, rồi tới bàn thắp đèn, ngồi miệt mài đọc sách từ sáng tới trưa. Khi ngửng đầu lên, thấy Như Ngọc đang đứng ở cạnh mình, Ngọc Trụ vội giấu cuốn sách xuống gầm bàn song Như Ngọc đã biến mất. Ngọc Trụ kinh hãi quá, chẳng hiểu tại sao Như Ngọc lại biết được chỗ mình giấu cuốn Hán Thư mà biến vào. Bèn lục đống sách dưới đất, lấy cuốn Hán Thư đem đặt lên bàn thờ, rồi thắp hương, quỳ xuống đất, khấn: "Như Ngọc! Như Ngọc! Nếu lần này nàng chịu tái hiện để chung sống thì ta thề sẽ chẳng bao giờ đọc sách nữa!" Đột nhiên, Như Ngọc lại hiện ra, nói:"Hãy thề là sẽ giữ lời đi!" Ngọc Trụ vội đáp: "Xin thề!" Như Ngọc lại nói:"Hãy lấy bàn cờ ra đây!" Ngọc Trụ vội lấy ra. Như Ngọc nói: "Hẹn cho ba ngày mà không thắng nổi một ván thì nhất quyết sẽ tuyệt tình!" Ngọc Trụ đáp:"Xin vâng!" Hai ngày đầu, Ngọc Trụ thua liên miên. Sang ngày thứ ba, vì sợ quá, Ngọc Trụ phải chú tâm nghĩ nước nên thắng được một ván. Ngọc Trụ mừng quá, thở phào nhẹ nhõm, chạy tới ôm chầm lấy Như Ngọc, dìu lên giường mà ân ái.
Sáng sau, ngủ dậy, Như Ngọc hỏi:"Nhà có đàn không?" Ngọc Trụ đáp:"Có! Song không biết gảy" Như Ngọc nói:"Cứ lấy ra đây!" Ngọc Trụ vội lấy ra. Như Ngọc dạy cách gảy đàn rồi đưa cho một khúc nhạc, nói:"Hẹn cho năm ngày mà chẳng gảy được khúc nhạc này thì nhất quyết sẽ bỏ đi!" Bốn ngày đầu, Ngọc Trụ loay hoay mãi, chẳng sao gảy được. Sang ngày thứ năm, vì sợ quá, mồ hôi toát ra như tắm, phải chú tâm tập gảy nên hốt nhiên gảy được. Mừng quá, Ngọc Trụ ôm cả đàn mà múa theo điệu nhạc. Thấy thế, Như Ngọc cũng phải mỉm cười. Ngọc Trụ lại chạy tới ôm chầm lấy Như Ngọc, dìu lên giường mà ân ái.
Sáng sau, ngủ dậy, Như Ngọc hỏi:"Nhà có rượu không?" Ngọc Trụ đáp:"Có! Song không biết uống!" Như Ngọc nói:"Cứ lấy ra đây!" Ngọc Trụ vội lấy ra. Như Ngọc liền rót đầy hai chén, đưa cho Ngọc Trụ một chén, bắt ngồi đối ẩm. Ngọc Trụ nhăn mặt mà nuốt. Như Ngọc lại rót thêm, bắt uống tiếp. Lát sau, Ngọc Trụ uống quen, thấy mùi rượu thơm ngon, bèn tự rót thêm mà uống. Khi đã ngà ngà say, đầu óc lâng lâng, người nóng ran, Ngọc Trụ chạy tới ôm chầm lấy Như Ngọc, dìu lên giường mà ân ái.
Sáng sau, ngủ dậy, Như Ngọc hỏi:"Có giao du thân thiết với bạn bè nào không?" Ngọc Trụ đáp:"Bạn sơ thì có chứ bạn thân thì không!" Nói:"Chẳng thể thế được! Phải chọn bạn mà kết thân!" Bất đắc dĩ, Ngọc Trụ phải đi thăm bạn bè ngày trước, mời tới nhà đấu cờ, gảy đàn, uống rượu. Vì thế, đột nhiên Ngọc Trụ nổi tiếng là nho sinh quảng giao nhất huyện. Từ đó, ngày thì cùng bạn bè cười đùa vui vẻ, đêm thì cùng Như Ngọc hoan lạc ái ân. Lâu dần, Ngọc Trụ quên hẳn việc đọc sách. Như Ngọc thấy thế thì mỉm cười, nói:"Nếu cứ chịu khó bỏ đọc sách như thế này, thì thi khoa nào mà chẳng đậu?"
Mười tháng sau Như Ngọc sanh con trai, đặt tên là Ngọc Thư. Như Ngọc chẳng cho con bú, chỉ thuê một bà vú tới nhà nuôi đứa bé và mua cho Ngọc Trụ một tì nữ để sai bảo.
Hai tháng sau, một hôm Như Ngọc nói:"Đã ở với nhau được một năm. Đã sanh với nhau được một trai. Bây giờ là lúc phải vĩnh biệt!" Ngọc Trụ kinh hãi, hỏi: "Sao lại phải vĩnh biệt?" Đáp:"Vì càng ở lâu thì họa càng lớn! Lúc đó có hối cũng chẳng kịp!" Ngọc Trụ hỏi:"Họa gì?" Như Ngọc lặng im, chẳng đáp. Ngọc Trụ khóc, hỏi: "Chẳng nhớ ta đã đành song cũng chẳng nhớ con sao?" Như Ngọc buồn rầu, im lặng hồi lâu rồi mới đáp:"Nhớ chứ! Song vĩnh biệt thì vẫn phải vĩnh biệt!" Hỏi: "Có cách chi giữ nàng ở lại được không?" Đáp: "Muốn giữ ở lại thì chỉ còn cách là đốt hết sách vở trong thư viện đi thôi!" Ngọc Trụ kinh hãi, nói: "Sách vở là quê quán của nàng, mà cũng là tính mệnh của ta, sao lại ép ta phải đốt?" Như Ngọc thở dài, đáp: "Có ép ai đâu? Chỉ khuyên thế thôi! Nếu chẳng chịu đốt thì họa sẽ tới. Mà họa có tới cũng là tại số!" Ngọc Trụ chẳng hiểu tại sao đốt sách mà lại tránh được họa, song cũng chẳng muốn hỏi chi thêm.
Bạn bè thân sơ tới lui nườm nượp. Thấy Ngọc Trụ không cưới vợ mà tự nhiên lại có vợ đẹp, sanh được con trai, ai cũng thắc mắc. Bèn luân phiên nhau dò hỏi cho thỏa tính tò mò. Ngọc Trụ vốn không quen nói dối song cũng chẳng muốn cho ai biết sự thực, nên chỉ ậm ừ, chẳng trả lời rành mạch. Bạn bè bèn loan tin là Ngọc Trụ có vợ tiên. Như Ngọc nghe tin, buồn rầu, nói:"Họa tới nơi rồi!" Rồi gọi bà vú lên, đưa cho một gói vàng, bảo:"Hãy bế thằng bé này tới Thiểm Tây mà cư ngụ!" Ngọc Trụ ngạc nhiên, hỏi:"Sao tự nhiên lại bắt con phải xa cha mẹ?" Đáp:"Để tránh họa!" Hỏi:"Họa gì?" Đáp:"Rồi sẽ biết!" Tối ấy, Như Ngọc rủ Ngọc Trụ lên giường ân ái hoan lạc suốt đêm. Ngọc Trụ lấy làm lạ vì thấy đây lần đầu tiên Như Ngọc rủ mình như thế.
Sáng sau, Như Ngọc dậy sớm pha trà, gọi Ngọc Trụ dậy đối ẩm. Sau một tuần trà, bỗng Như Ngọc buông chén, nói:"Tới giờ rồi! Vĩnh biệt thôi!" Ngọc Trụ chưa kịp lên tiếng thì Như Ngọc đã biến mất. Ngọc Trụ kinh hãi quá, trống ngực đánh thình thình, thần trí cứ ngơ ngẩn như kẻ mất hồn.
Tỉnh Phúc Kiến có nho sinh họ Sử, trẻ tuổi, thông minh. Năm ấy, thi đậu tiến sĩ, được triều đình bổ nhậm đi làm quan tể huyện Bành Thành. Sử công rất hiếu sắc, đã cưới hai cô vợ mà vẫn còn mua thêm nhiều nàng hầu. Trong số các nàng hầu, có một nàng đẹp lắm, họ Nghê, được Sử công rất say mê.
Tuy nhiên, khi tới Bành Thành phó nhậm, nghe đồn Ngọc Trụ có cô vợ tên Như Ngọc, đẹp như tiên, từ trong sách hiện ra, Sử công vẫn động lòng hiếu sắc, muốn chiếm đoạt. Sử công bèn kết tội vợ chồng Ngọc Trụ đã dùng yêu đạo để huyễn hoặc huyện dân, rồi sai lính đi bắt cả hai vợ chồng. Lính tới nhà Ngọc Trụ thì thấy chỉ có một mình Ngọc Trụ đang ngồi bần thần ở nhà trên và một tì nữ đang nấu ăn ở nhà dưới. Lính bèn bắt trói Ngọc Trụ, giải về huyện đường. Sử công thấy lính không bắt được Như Ngọc thì nổi giận, ra lệnh lột mũ áo nho sinh của Ngọc Trụ, gông cùm thực kỹ, tống giam vào ngục. Sử công nghĩ rằng mình làm như thế thì Như Ngọc sẽ phải tới huyện đường lạy lục để xin tha cho chồng. Thế nhưng, sau bảy ngày đêm, Sử công vẫn chẳng thấy Như Ngọc đâu. Sử công bèn sai lính đem Ngọc Trụ ra tra khảo, bắt phải cung khai sự thực. Ngọc Trụ bị đánh gần chết song vẫn chẳng chịu khai gì. Sử công lại sai lính tới nhà Ngọc Trụ bắt nốt tì nữ, đem về tra khảo. Tì nữ khai rằng mình mới được mua về nên cũng chẳng được biết chi nhiều. Chẳng biết làm sao hơn, Sử công bèn sai lính nhốt cả Ngọc Trụ với tì nữ vào ngục.
Sáng sau, Sử công sai lính rong xe, hộ tống mình tới nhà Ngọc Trụ khám xét thì thấy nhà cửa nghèo nàn, chẳng có chi đáng giá, ngoại trừ một thư viện đầy kinh sách. Sử công muốn tìm cuốn sách có hình bóng Như Ngọc như tin đồn, song vì thư viện đầy sách nên chẳng biết phải tìm ở cuốn nào. Sử công nổi giận, bèn sai lính đốt nhà. Khói bốc lên cao, tỏa um cả ngõ trước vườn sau.
Về huyện đường, Sử công nghĩ rằng chắc Như Ngọc là một loài yêu quái nên nếu bây giờ có tiếp tục nhốt Ngọc Trụ với tì nữ thì cũng chẳng chiếm được Như Ngọc. Vì thế, Sử công quyết định thả cho Ngọc Trụ và tì nữ ra về.
Ngọc Trụ dắt tì nữ về tới nhà thì thấy nhà đã bị cháy rụi. Ngọc Trụ liền trả tự do cho tì nữ, còn mình thì tới xin ở nhờ nhà Lỗ sinh. Ngọc Trụ lại nhờ Lỗ sinh lên huyện đường xin cho mình được tái phục mũ áo nho sinh. Vì nể Lỗ sinh, Sử công chấp thuận.
Mùa thu năm ấy, triều đình mở khoa thi hương ở Tứ Xuyên. Ngọc Trụ đi thi, đậu cử nhân. Mùa thu năm sau, Ngọc Trụ lên kinh đô thi hội, đậu tiến sĩ. Vì uất hận Sử công, Ngọc Trụ chẳng về quê, thuê nhà ở kinh đô cư ngụ. Trong nhà, Ngọc Trụ thiết lập một bàn thờ Như Ngọc, sớm tối thắp hương, cầu khấn Như Ngọc phù hộ cho mình được làm quan ở Phúc Kiến.
Năm sau, Ngọc Trụ nhận được chỉ dụ của vua bổ nhậm đi làm tuần vũ tỉnh Phúc Kiến. Tới nơi phó nhậm, Ngọc Trụ gặp người biểu huynh họ Vi, đang giữ chức quan tư lý, cai quản các ngục tù ở trong tỉnh.
Vì Sử công tham nhũng, giết hại dân lành nên bị dân Bành Thành khiếu nại tới tận kinh đô. Triều đình liền huyền chức Sử công, đuổi về quê, rồi sai Ngọc Trụ điều tra tội ác của Sử công. Ngọc Trụ điều tra xong, dâng sớ tâu vua. Đọc sớ xong, vua liền truyền lệnh tịch thu tài sản của Sử công rồi bắt Sử công bỏ ngục.
Thấy Ngọc Trụ chưa có vợ, Vi công nảy ý muốn bắt Nghê Cơ cho Ngọc Trụ làm vợ nên ép Sử công phải nạp Nghê Cơ cho mình để khỏi bị tra tấn. Bất đắc dĩ, Sử công phải bằng lòng. Vi công liền đem Nghê Cơ tới dinh Ngọc Trụ gửi tạm. Ngọc Trụ hỏi là ai thì Vi công nói dối là một tì nữ mình mới mua được, nhưng vì tì nữ đẹp, sợ vợ ghen, nên phải đem tới gửi tạm. Ngọc Trụ tưởng thực nên nhận lời.
Ba tháng sau, triều đình kết án Sử công, đày đi làm lính thú ở Liêu Ninh. Lúc đó, Vi công mới nói thực cho Ngọc Trụ biết rằng Nghê cơ vốn là ái cơ của Sử công, rồi khuyên Ngọc Trụ nên nạp Nghê Cơ làm vợ. Ngọc Trụ bèn theo lời. Sau đó, Ngọc Trụ sai người đi Thiểm Tây đón con là Ngọc Thư và bà vú về ở với mình.
KIM ĐAN CỦA MA CHỒN
(truyện VƯƠNG LAN)
Kim đan thiết đắc để sinh hoàn
Nhân thuật tiên tâm kiến nhất ban
Tụ ẩm Yên Đôn thương tí phỉ
Châu liên cơ thoán Thiết Vi san
Thời xưa, ở Trung quốc, người ta tin rằng người chết thì thành ma, ma chết thì thành tiện, chồn chết thì thành ma chồn, ma chồn chết thì thành tiện chồn. Dù là người hay chồn, ma hay ma chồn, kẻ nào có kim đan mà nuốt cũng thành tiên. Tiên nào cũng có thuật trường sinh bất tử, có phép thần thông.
Huyện Lợi Tân tỉnh Sơn Đông có nho sinh họ Vương, tên Lan, có vợ và hai con. Trong làng, Vương Lan chơi thân với một nho sinh, họ Trương, tên Hội. Trương Hội lại chơi thân với một kẻ vô lại họ Hạ, tên Tài. Hạ Tài chẳng chịu làm ăn, suốt ngày chỉ rượu chè cờ bạc, phung phí hết tài sản của cha mẹ để lại.
Vương Lan đang sống khỏe mạnh, hạnh phúc với vợ con, bỗng bị bạo bệnh mà thác. Quỷ tới bắt hồn, dắt theo để đi bắt các hồn khác. Nửa năm sau, khi đã bắt được đủ số hồn trong danh sách tào ty giao cho, quỷ mới dắt cả xuống âm phủ, trình Diêm Vương. Diêm Vương sai tào quan mở sổ kiểm lại. Kiểm xong, tào quan trình rằng quỷ đã bắt lầm một người tên Vương Lan. Diêm Vương bèn nổi cơn thịnh nộ, cho gọi quỷ lên quát mắng thậm tệ rồi bắt phải đưa Vương Lan trở về dương thế. Quỷ vội đưa Vương Lan về.
Tới nhà, thấy xác Vương Lan quàn trong linh cữu đã rữa, hồn chẳng thể nhập vào được, quỷ kinh hãi quá, thầm nghĩ nếu lại dắt Vương Lan trở xuống trình Diêm Vương thì thế nào Diêm Vương cũng sẽ trị tội mình. Quỷ bèn dụ Vương Lan:"Bây giờ xác anh đã rữa, anh chẳng thể nhập vào để trở lại làm người được nữa! Vậy để tôi đền anh bằng cách khác, anh có chịu không?" Vương Lan hỏi:"Đền bằng cách nào?" Quỷ đáp:"Tôi sẽ giúp anh thành tiên!" Thấy Vương Lan có vẻ ngần ngừ, quỷ dụ tiếp:"Đang làm người mà phải xuống làm ma thì mới khổ, chứ đang làm ma mà được lên làm tiên thì sướng lắm, còn sướng hơn được trở lại làm người nữa!" Vương Lan thở dài, hỏi:"Làm cách nào mà thành tiên được?" Đáp:"Ở âm phủ, tôi biết có một ma chồn hiện đang luyện kim đan. Bây giờ, anh để tôi dẫn anh xuống nhà y, lấy cắp kim đan của y cho anh nuốt thì anh sẽ thành tiên. Anh có chịu không?" Thấy chẳng còn cách chi hơn, Vương Lan đành gật đầu.
Tối đó, nhằm tối nguyên tiêu, trăng sáng vằng vặc. Quỷ dắt Vương Lan xuống âm phủ, vào một biệt thự rộng lớn, tĩnh mịch, núp trong một bụi rậm ở cuối sân. Lát sau, Vương Lan thấy một chồn từ biệt thự bước ra sân, đến ngồi trên một chiếc ghế, chăm chú nhìn trăng. Đột nhiên, chồn phùng mang trợn mắt thổi một kim đan từ trong miệng bay vút lên phía mặt trăng, rồi lại chu miệng hút. Chồn cứ thổi đi hút lại như thế mãi. Núp trong bụi rậm, quỷ nhẩm đếm số lần thổi. Tới lần thứ một trăm, khi chồn đang chu miệng hút thì quỷ nhảy vụt ra, phóng mình lên cao, chặn lấy kim đan, nhảy trở vào bụi, nhét vào miệng Vương Lan, giục:"Nuốt ngay đi!" Vương Lan còn đang bỡ ngỡ, nghe tiếng quỷ giục, liền nuốt. Chồn mất kim đan, nổi cơn thịnh nộ, nhảy theo quỷ, vung quyền đánh, quyết tâm đoạt lại. Vương Lan nhảy ra bênh quỷ. Thấy mình cô thế, khó thắng hai kẻ địch, vả lại thấy kim đan đã bị Vương Lan nuốt, chồn đâm chán nản, quay vào biệt thự, đóng sập cửa lại. Quỷ bèn nói với Vương Lan:"Tôi đã đền anh xong! Bây giờ anh đã thành tiên! Anh có thể biến thành người, trở về dương thế để thăm vợ con được rồi đó! Thôi, tôi đi đây!" Nói xong, quỷ bỏ đi.
Quỷ đi rồi Vương Lan mới sực nhớ là mình chưa hỏi quỷ cách biến thành người và đường về dương thế! Còn đang bực tức, bỗng Vương Lan sửng sốt khi thấy mình đã biến thành người và đang đứng trên dương thế, ngay giữa phòng khách nhà mình. Vừa lúc ấy, vợ con Vương Lan từ phòng trong bước ra. Thấy Vương Lan, ba mẹ con cùng kinh hãi, la hét thất thanh, hò nhau bỏ chạy, cho rằng hồn Vương Lan hiện về để bắt vợ con theo. Vương Lan vội lớn tiếng phân trần: "Nàng và hai con đừng sợ! Hãy đứng lại mà nghe ta nói! Bây giờ ta đã thành tiên rồi, chẳng phải là ma nữa!" Nghe thấy thế, ba mẹ con chỉ nửa tin nửa ngờ, song cũng đứng lại. Vương Lan bèn thuật cho vợ con nghe chuyện mình bị quỷ bắt lầm rồi chuyện mình được nuốt kim đan của ma chồn. Nghe xong, ba mẹ con mới hết sợ. Vương Lan bèn bảo vợ con dọn cho mình một phòng riêng. Ba mẹ con bàn tính với nhau rồi ưng thuận. Từ hôm ấy, ngày nào ba mẹ con cũng bưng cơm nước vào phòng cho Vương Lan ăn uống.
Chín hôm sau, chuyện Vương Lan tái sinh được đồn đãi khắp làng. Trương Hội nghe tin, chạy sang thăm. Vương Lan thuật chuyện cho bạn nghe rồi nói:"Hai ta cùng nghèo. Bây giờ tôi có cách làm giàu cho cả hai ta, anh có chịu không?" Trương Hội hỏi:"Làm giàu bằng cách nào?" Vương Lan đáp:"Bây giờ tôi có thuật chữa bệnh mà không cần phải dùng thuốc. Một mình tôi cũng có thể biến thành thày thuốc, đi chữa bệnh cho thiên hạ để làm giàu cho vợ con. Thế nhưng tôi lại sợ thiên hạ đồn tôi là ma rồi chẳng có ai chịu bỏ tiền ra nhờ tôi chữa bệnh. Vì thế bây giờ tôi muốn truyền thuật chữa bệnh cho anh rồi hai ta cùng lên tỉnh kiếm bệnh nhân. Nếu có ai chịu bỏ tiền ra nhờ anh chữa bệnh thì tiền kiếm được sẽ chia đôi, mỗi người một nửa, anh có chịu không?" Trương Hội gật đầu. Vương Lan bèn giục:"Thế thì anh về sửa soạn hành trang đi!" Trương Hội liền về nhà sửa soạn hành trang rồi gom góp chút tiền bạc, theo Vương Lan lên tỉnh.
Tới tỉnh, hai người vừa vào trọ trong quán Yên Đôn thì thấy trên tường có dán cáo thị:"Bỉ nhân họ Triệu, tên Hà, cư ngụ tại cửa Nam tỉnh này, có một gái tên Ân Ân. Từ hơn một tháng nay, tiện nữ bị hôn mê bất tỉnh. Các thày thuốc trong vùng đều bó tay. Nay, nếu có ai chữa được cho tiện nữ khỏi bệnh thì bỉ nhân xin tạ ngàn vàng" Vương Lan liền ghé tai Trương Hội mà thì thầm. Trương Hội gật đầu lia lịa, miệng lẩm nhẩm học thuộc những điều Vương Lan căn dặn.
Sáng sau, Trương Hội ăn mặc chỉnh tề, tìm tới nhà Triệu ông, quả quyết rằng mình có thể chữa được bệnh cho Ân Ân. Triệu ông nghĩ chắc là Trương Hội cũng chỉ khoác lác như mấy thày thuốc trước nên cũng chẳng tin, song vẫn nói:"Nếu đúng như vậy thì xin tiên sinh hãy giúp ngay cho!" Trương Hội nói:"Xin tôn ông hãy cho bỉ nhân được coi sắc diện của lệnh ái!" Triệu ông bèn dắt Trương Hội vào phòng con. Thấy Ân Ân nằm hôn mê trên giường, Trương Hội ngắm nghía hồi lâu rồi nói:"Bệnh này đã tới thời kỳ nguy kịch song vẫn còn có thể chữa được!" Triệu ông hỏi:"Bệnh này là bệnh gì?" Trương Hội đáp:"Là bệnh lạc hồn!" Hỏi:"Tiên sinh sẽ dùng thuốc gì để chữa?" Đáp:"Bệnh này chẳng cần dùng thuốc mà chỉ cần thỉnh thần linh đi tìm hồn, dẫn về cho nhập vào xác là xong!" Triệu ông chẳng tin, chỉ lắc đầu, thở dài, song vẫn nói: "Thôi thì tiên sinh cứ thử chữa giúp xem sao!" Trương Hội nói:"Xin tôn ông cứ yên chí, thế nào bỉ nhân cũng chữa được! Chỉ xin tôn ông cho lập một bàn thờ giữa phòng khách rồi cho trải một chiếc chiếu trước bàn thờ là đủ!" Triệu ông liền sai gia nhân làm theo lời.
Trương Hội bước vào ngồi ở giữa chiếu, chắp tay lên trán khấn khứa hồi lâu rồi đứng dậy, nói:"Chỉ một giờ nữa là hồn sẽ về tới đây!" Triệu ông bèn sai tì nữ pha trà để cùng khách nhâm nhi, chờ hồn về. Chừng một giờ sau, Trương Hội thấy Vương Lan ghé tai mình thì thầm:"Hồn đã về, nhập vào xác ở trong phòng rồi đó!" Trương Hội bèn đứng dậy, lập lại lời nói của Vương Lan. Triệu ông nửa tin nửa ngờ song cũng đứng dậy, dắt Trương Hội vào phòng con. Tới cạnh giường, Trương Hội vỗ vai Ân Ân, hỏi:"Tiểu nương đã tỉnh chưa?" Đột nhiên Ân Ân vươn vai ngáp, mở to mắt nhìn Trương Hội. Triệu ông thấy con đã tỉnh thì mừng quá, vội chạy tới hỏi: "Con có mệt không?" Ân Ân ngước mắt nhìn cha, đáp: "Con hơi mệt" Hỏi: "Con có nhớ được gì không?" Đáp: "Thưa có!" Hỏi: "Con nhớ được những gì?" Đáp:"Con nhớ là hôm ấy con đang dạo mát trong vườn thì bỗng thấy một kẻ lạ mặt, lưng đeo cung tên, dắt hai tiểu đồng cùng một con ngựa, mở cổng đột nhập vào vườn, giương cung bắn sẻ, song chẳng bắn trúng con nào!" Hỏi:"Thế con có nhớ tại sao con lại bị hôn mê không?" Đáp:"Con không nhớ! Con chỉ nhớ rằng con sợ quá, quay mình bỏ chạy vào nhà thì bị y nhảy tới chặn lại, đưa cung tên cho, bắt tập bắn. Con lắc đầu từ chối rồi lại lách mình bỏ chạy. Y liền giơ tay túm lấy con, bế xốc lên lưng ngựa, phóng ra khỏi cổng. Hai tiểu đồng cũng chạy theo, song vì ngựa phi nhanh quá nên chỉ lát sau, con chẳng thấy chúng đâu nữa!" Hỏi: "Y phóng ngựa đưa con đi đâu?" Đáp: "Y phóng ngựa đưa con tới một ngọn núi! Con gào khóc, chửi mắng y. Y cười, nói Ta chỉ muốn bắt ngươi theo ta một lát để dạy cho ngươi biết cách bắn cung thôi. Hãy im đi, đừng la lối nữa, kẻo ta ném xuống đường bây giờ!" Hỏi: "Thế con có im không?" Đáp: "Thưa không! Con cứ tiếp tục gào khóc, chửi mắng y" Hỏi: "Thế rồi y ném con xuống đường phải không?" Đáp: "Thưa vâng! Y ném con xuống đường rồi phóng ngựa đi mất!" Hỏi: "Thế sao con không chạy về nhà?" Đáp:"Con muốn chạy về nhà lắm song không biết đường về! Con cứ lang thang quanh quẩn ở trong núi, bụng đói miệng khát, chẳng có gì ăn uống. Tới tối, khi gặp một hang núi, con vội chui vào thì vừa lúc con mệt lả, nằm vật xuống ngủ!" Hỏi: "Con ngủ được bao lâu?" Đáp: "Con cũng chẳng nhớ! Con chỉ nhớ là con ngủ miên man cho tới sáng nay mới tỉnh!" Hỏi: "Tỉnh rồi thì con làm gì?" Đáp: "Con vừa tỉnh thì chợt thấy một người lạ mặt tới nắm lấy tay con kéo dậy, lôi đi!" Hỏi: "Lôi đi đâu?" Đáp: "Lôi lên trời! Con sợ quá, nhắm mắt lại thì cảm thấy thân mình nhẹ bỗng, rồi nghe có tiếng gió thổi vù vù bên tai. Vừa rồi, khi hết tiếng gió, con mở mắt ra thì thấy mình đang nằm trên giường này! Cha ơi! Vị khách đây là ai thế?" Triệu ông đáp: "Là Trương y sư, người vừa chữa bệnh cho con đó! Con hãy nằm nghỉ đi! Mai mốt con khoẻ hẳn, cha sẽ thuật lại mọi chuyện cho con nghe!" Rồi Triệu ông mời Trương Hội trở ra phòng khách.
Bấy giờ Triệu ông mới phục tài chữa bệnh của Trương Hội, coi Trương Hội như một vị thần y, sai gia nhân mở kho lấy vàng, đếm đủ ngàn lạng, cho vào túi lớn, trả công Trương Hội. Trương Hội nhận túi vàng rồi xin cáo biệt. Triệu ông vội giữ lại, nói:"Xin tiên sinh hãy vui lòng ngủ lại đây đêm nay để xem bệnh tình của tiện nữ biến chuyển ra sao!" Trương Hội liền bằng lòng ở lại. Triệu ông bèn sai gia nhân dọn cho Trương Hội một phòng riêng. Trương Hội đem túi vàng về phòng.
Tối ấy, Triệu ông sai gia nhân làm tiệc khoản đãi Trương Hội. Tiệc xong, Trương Hội vừa về tới phòng thì thấy Vương Lan đã ở trong phòng. Thấy Trương Hội, Vương Lan nói:"Một mình anh mà đem túi vàng này về quê thì dọc đường dễ bị cướp lắm. Để tôi đem về trước cho. Tôi sẽ chia đôi, trao cho vợ con anh một nửa, vợ con tôi một nửa. Rồi tôi sẽ trở lại đây báo tin anh biết!" Trương Hội gật đầu, nói:"May quá! Tôi cũng đang lo chẳng biết phải làm thế nào để đem được túi vàng này về quê cho an toàn! Nay anh tính thế thì hay quá!" Nói xong, lấy túi vàng ra trao cho Vương Lan. Vương Lan liền đỡ lấy rồi từ giã Trương Hội mà lên đường.
Lát sau, Vương Lan về tới nhà, đánh thức vợ con dậy, chia cho nửa túi vàng rồi dặn sáng sau phải đem nửa túi kia sang trao cho vợ con Trương Hội, nói là của Trương Hội gửi về. Dặn dò xong, Vương Lan lại lên đường tới nhà Triệu ông. Tới nơi, Vương Lan nói với Trương Hội: "Tôi đã chia đều vàng cho vợ con anh và vợ con tôi rồi. Bây giờ anh cứ ở lại đây mà ngủ, tôi đi đây! Sáng mai, ta sẽ gặp nhau ở quán trọ!" Trương Hội gật đầu.
Sáng sau, Trương Hội cáo biệt Triệu ông. Thấy Trương Hội không đem theo túi vàng, Triệu ông nhắc: "Tiên sinh quên túi vàng rồi!" Trương Hội đáp:"Bỉ nhân đã cho gia nhân đem về trước rồi!" Triệu ông lấy làm lạ vì nhớ rằng Trương Hội chỉ tới đây có một mình. Tuy nhiên, Triệu ông cũng chẳng hỏi chi, chỉ lấy thêm ba trăm quan ra biếu Trương Hội làm lộ phí. Trương Hội cám ơn rồi cầm tiền về quán trọ. Dọc đường, Trương Hội gặp Hạ Tài.
Thấy Trương Hội, Hạ Tài mừng quá, vội chạy tới. Trương Hội hỏi:"Mi đi đâu?" Hạ Tài đáp:"Tôi nghe đồn anh vừa được Vương Lan truyền cho thuật chữa bệnh để làm giàu nên tôi lên đây tìm anh để xin chút tiền tiêu!" Trương Hội toan lấy trăm quan ra cho thì chợt có tiếng Vương Lan thì thầm bên tai:"Chỉ cho y mười quan thôi! Rồi đuổi y đi!" Trương Hội bèn nghe lời.
Hạ Tài đem tiền về Lợi Tân rượu chè cờ bạc. Mười ngày sau hết nhẵn, lại lên tỉnh hỏi thăm chỗ ở của Trương Hội. Khi được tin Trương Hội trọ trong quán Yên Đôn thì trời đã tối nên Hạ Tài đành phải chờ sáng sau.
Đêm ấy, Vương Lan ghé tai Trương Hội thì thầm:"Thế nào sáng mai thằng Hạ Tài cũng mò tới đây xin tiền. Nó bê tha rượu chè cờ bạc, anh chẳng nên chơi với nó nữa. Anh nên khuyên nó phải chí thú làm ăn rồi cho nó thêm chín chục quan nữa. Nó sẽ vâng dạ anh để lấy tiền, song nó sẽ chẳng nghe lời anh đâu! Nhưng thôi, anh cứ nên làm thế cho trọn tình bằng hữu. Cho nó ít tiền thì anh còn bị họa nhỏ, chứ cho nó nhiều tiền thì anh sẽ bị họa lớn đó!" Trương Hội đáp:"Tôi hiểu rồi!"
Quả nhiên, sáng sau, Hạ Tài lại mò tới. Trương Hội nói:"Tao đã biết trước là thế nào sáng nay mi cũng tới đây xin tiền. Mi cứ bê tha, rượu chè cờ bạc như thế này thì dù có ngàn vàng mi cũng sẽ tiêu hết ngay. Nếu mi thực tâm hối cải thì tao sẽ cho mi thêm chín chục quan nữa để lấy vốn mà làm ăn!" Hạ Tài vâng dạ rối rít. Trương Hội bèn lấy chín chục quan ra cho Hạ Tài. Hạ Tài lại đem tiền về Lợi Tân, la cà ở các tửu quán, đổ trường. Lính tuần biết Hạ Tài đã sạt nghiệp mà nay lại có tiền vung vãi thì nghi ngờ, bèn bắt giải vào trình quan tể. Quan hỏi Hạ Tài lấy tiền ở đâu ra thì Hạ Tài man khai là tiền của cha mẹ để lại. Quan chẳng tin, sai lính tra khảo. Bị đánh trọng thương, Hạ Tài đành phải khai thực là của Trương Hội cho. Quan bèn bắt Hạ Tài dẫn lính lên quán trọ Yên Đôn để bắt Trương Hội về huyện đối chất xem lời khai của Hạ Tài có đúng hay không. Thế nhưng, vì bị trọng thương nên mới đi được nửa đường, Hạ Tài đã lăn ra chết. Lính đem xác về trình. Quan liền sai lính đem đi chôn, rồi dẹp vụ án.
Hạ Tài chết, hồn bay lên tỉnh, vào phòng trọ của Trương Hội. Gặp hồn ma của Vương Lan ở trong phòng, Hạ Tài kinh hãi quá, quay mình bỏ chạy. Vương Lan gọi giật lại, nói: "Vì anh chẳng nghe lời bạn nên mới bị uổng tử. Nay đã thành ma thì hãy ở lại đây mà chơi với bạn ít bữa vì chỉ mấy hôm nữa thôi là các anh sẽ chẳng bao giờ được gặp lại nhau nữa!" Thấy Vương Lan nói chuyện tử tế với mình, Hạ Tài bèn ở lại.
Tối ấy, Trương Hội đưa tiền nhờ chủ quán đi mua rượu thịt giùm mình để thết đãi hồn ma hai bạn. Hạ Tài được dịp ăn uống thỏa thích, nên say sưa bí tỉ, la hét ầm ĩ. Vương Lan nói:"Anh la hét như thế thì chỉ tổ làm hại bạn anh thôi!" Hạ Tài chẳng nghe, cứ tiếp tục la hét. Vương Lan bèn bỏ đi.
Đêm ấy, quan tuần phương ngự sử dắt lính đi tuần quanh tỉnh. Qua quán trọ Yên Đôn, thấy có tiếng la hét, quan bèn sai lính vào bắt kẻ làm huyên náo. Lính vào hỏi chủ quán:"Tiếng la hét từ đâu vọng ra đường?" Chủ quán chỉ phòng của Trương Hội. Lính ập vào phòng thì chỉ thấy một mình Trương Hội đang ngồi độc ẩm. Lính liền bắt trói Trương Hội, đem ra trình quan. Ngự sử truyền giải Trương Hội về tỉnh đường, nhốt vào ngục.
Sáng sau, ngự sử đăng đường, cho giải Trương Hội lên, hỏi:"Sao đêm qua mi lại uống rượu say, làm huyên náo cả đường phố?" Trương Hội kinh hãi, đáp:"Bẩm đại quan, đó là hồn ma của bạn tiểu nhân chứ chẳng phải là tiểu nhân!" Hỏi:"Bạn mi tên chi?" Đáp:"Bẩm đại quan, y tên Hạ Tài!" Hỏi:"Sao mi biết là hồn ma của y la hét?" Đáp:"Bẩm đại quan, vì đêm qua tiểu nhân có nhờ chủ quán đi mua rượu thịt giùm tiểu nhân để thết đãi hồn ma hai người bạn là Hạ Tài và Vương Lan. Hồn Hạ Tài uống rượu say rồi la hét, hồn Vương Lan khuyên thế nào y cũng chẳng nghe!" Ngự sử nổi giận, quát: "Mi chỉ nói toàn chuyện hoang đường! Chính mi la hét chứ ma với quỷ nào!" Rồi ra lệnh cho lính đánh mười roi, nhốt vào ngục.
Tối ấy, khi ngẫm lại lời khai của Trương Hội, ngự sử lại nửa ngờ nửa tin. Nhân gần công đường có đền Linh Quan, nổi tiếng linh thiêng, ngự sử bèn viết một lá thư Gửi Thần Đền Linh Quan. Trong thư, ngự sử thuật lại lời khai của Trương Hội rồi hỏi:"Trương Hội khai như thế có đúng không?" Sau đó, ngự sử sai lính đem lá thư tới đốt ở lò hương trong đền. Đêm ấy, ngự sử nằm mộng thấy một người, mình mặc giáp vàng, đầu đội mũ thần, tới nói:"Bản chức là thần đền Linh Quan. Nhận được thư của đại quan nên tới đây để trả lời. Trương Hội khai như thế là đúng. Y vốn có hai người bạn là Vương Lan và Hạ Tài. Vương Lan thì bị quỷ bắt lầm rồi sau đó, nhờ có cơ duyên mà được thành tiên. Y vô can trong vụ la hét đêm qua. Ngày mai, bản chức sẽ phụng mệnh Diêm Vương, trao cho y chức Thanh Đạo Sứ, bắt y phải lên đường phó nhậm ngay. Hạ Tài mới là kẻ có tội. Tên này khi sống là kẻ vô lại, khi chết chẳng chừa tật xấu, làm huyên náo cả đường phố ở dương gian. Theo lệnh của Diêm Vương, ngày mai y sẽ bị đày đi làm phu vác đá ở núi Thiết Vi. Còn Trương Hội vô tội, xin đại quan tha cho y!" Sáng ra, ngự sử cũng lấy làm lạ về giấc mộng. Bèn đăng đường, truyền lệnh thả cho Trương Hội ra về.
Trương Hội về quán trọ, kiểm lại tiền bạc, thấy vẫn còn đủ hai trăm quan của Triệu ông biếu. Bèn thanh toán tiền phòng, lên đường về quê. Tới nhà, đem một trăm quan sang biếu vợ con Vương Lan.
Hai gia đình Trương Hội và Vương Lan cùng dùng vàng của Triệu ông trả công để làm vốn đi buôn. Sau, trở thành hai gia đình khá giả ở trong làng.
Kim đan thiết đắc để sinh hoàn
Nhân thuật tiên tâm kiến nhất ban
Tụ ẩm Yên Đôn thương tí phỉ
Châu liên cơ thoán Thiết Vi san
Thời xưa, ở Trung quốc, người ta tin rằng người chết thì thành ma, ma chết thì thành tiện, chồn chết thì thành ma chồn, ma chồn chết thì thành tiện chồn. Dù là người hay chồn, ma hay ma chồn, kẻ nào có kim đan mà nuốt cũng thành tiên. Tiên nào cũng có thuật trường sinh bất tử, có phép thần thông.
Huyện Lợi Tân tỉnh Sơn Đông có nho sinh họ Vương, tên Lan, có vợ và hai con. Trong làng, Vương Lan chơi thân với một nho sinh, họ Trương, tên Hội. Trương Hội lại chơi thân với một kẻ vô lại họ Hạ, tên Tài. Hạ Tài chẳng chịu làm ăn, suốt ngày chỉ rượu chè cờ bạc, phung phí hết tài sản của cha mẹ để lại.
Vương Lan đang sống khỏe mạnh, hạnh phúc với vợ con, bỗng bị bạo bệnh mà thác. Quỷ tới bắt hồn, dắt theo để đi bắt các hồn khác. Nửa năm sau, khi đã bắt được đủ số hồn trong danh sách tào ty giao cho, quỷ mới dắt cả xuống âm phủ, trình Diêm Vương. Diêm Vương sai tào quan mở sổ kiểm lại. Kiểm xong, tào quan trình rằng quỷ đã bắt lầm một người tên Vương Lan. Diêm Vương bèn nổi cơn thịnh nộ, cho gọi quỷ lên quát mắng thậm tệ rồi bắt phải đưa Vương Lan trở về dương thế. Quỷ vội đưa Vương Lan về.
Tới nhà, thấy xác Vương Lan quàn trong linh cữu đã rữa, hồn chẳng thể nhập vào được, quỷ kinh hãi quá, thầm nghĩ nếu lại dắt Vương Lan trở xuống trình Diêm Vương thì thế nào Diêm Vương cũng sẽ trị tội mình. Quỷ bèn dụ Vương Lan:"Bây giờ xác anh đã rữa, anh chẳng thể nhập vào để trở lại làm người được nữa! Vậy để tôi đền anh bằng cách khác, anh có chịu không?" Vương Lan hỏi:"Đền bằng cách nào?" Quỷ đáp:"Tôi sẽ giúp anh thành tiên!" Thấy Vương Lan có vẻ ngần ngừ, quỷ dụ tiếp:"Đang làm người mà phải xuống làm ma thì mới khổ, chứ đang làm ma mà được lên làm tiên thì sướng lắm, còn sướng hơn được trở lại làm người nữa!" Vương Lan thở dài, hỏi:"Làm cách nào mà thành tiên được?" Đáp:"Ở âm phủ, tôi biết có một ma chồn hiện đang luyện kim đan. Bây giờ, anh để tôi dẫn anh xuống nhà y, lấy cắp kim đan của y cho anh nuốt thì anh sẽ thành tiên. Anh có chịu không?" Thấy chẳng còn cách chi hơn, Vương Lan đành gật đầu.
Tối đó, nhằm tối nguyên tiêu, trăng sáng vằng vặc. Quỷ dắt Vương Lan xuống âm phủ, vào một biệt thự rộng lớn, tĩnh mịch, núp trong một bụi rậm ở cuối sân. Lát sau, Vương Lan thấy một chồn từ biệt thự bước ra sân, đến ngồi trên một chiếc ghế, chăm chú nhìn trăng. Đột nhiên, chồn phùng mang trợn mắt thổi một kim đan từ trong miệng bay vút lên phía mặt trăng, rồi lại chu miệng hút. Chồn cứ thổi đi hút lại như thế mãi. Núp trong bụi rậm, quỷ nhẩm đếm số lần thổi. Tới lần thứ một trăm, khi chồn đang chu miệng hút thì quỷ nhảy vụt ra, phóng mình lên cao, chặn lấy kim đan, nhảy trở vào bụi, nhét vào miệng Vương Lan, giục:"Nuốt ngay đi!" Vương Lan còn đang bỡ ngỡ, nghe tiếng quỷ giục, liền nuốt. Chồn mất kim đan, nổi cơn thịnh nộ, nhảy theo quỷ, vung quyền đánh, quyết tâm đoạt lại. Vương Lan nhảy ra bênh quỷ. Thấy mình cô thế, khó thắng hai kẻ địch, vả lại thấy kim đan đã bị Vương Lan nuốt, chồn đâm chán nản, quay vào biệt thự, đóng sập cửa lại. Quỷ bèn nói với Vương Lan:"Tôi đã đền anh xong! Bây giờ anh đã thành tiên! Anh có thể biến thành người, trở về dương thế để thăm vợ con được rồi đó! Thôi, tôi đi đây!" Nói xong, quỷ bỏ đi.
Quỷ đi rồi Vương Lan mới sực nhớ là mình chưa hỏi quỷ cách biến thành người và đường về dương thế! Còn đang bực tức, bỗng Vương Lan sửng sốt khi thấy mình đã biến thành người và đang đứng trên dương thế, ngay giữa phòng khách nhà mình. Vừa lúc ấy, vợ con Vương Lan từ phòng trong bước ra. Thấy Vương Lan, ba mẹ con cùng kinh hãi, la hét thất thanh, hò nhau bỏ chạy, cho rằng hồn Vương Lan hiện về để bắt vợ con theo. Vương Lan vội lớn tiếng phân trần: "Nàng và hai con đừng sợ! Hãy đứng lại mà nghe ta nói! Bây giờ ta đã thành tiên rồi, chẳng phải là ma nữa!" Nghe thấy thế, ba mẹ con chỉ nửa tin nửa ngờ, song cũng đứng lại. Vương Lan bèn thuật cho vợ con nghe chuyện mình bị quỷ bắt lầm rồi chuyện mình được nuốt kim đan của ma chồn. Nghe xong, ba mẹ con mới hết sợ. Vương Lan bèn bảo vợ con dọn cho mình một phòng riêng. Ba mẹ con bàn tính với nhau rồi ưng thuận. Từ hôm ấy, ngày nào ba mẹ con cũng bưng cơm nước vào phòng cho Vương Lan ăn uống.
Chín hôm sau, chuyện Vương Lan tái sinh được đồn đãi khắp làng. Trương Hội nghe tin, chạy sang thăm. Vương Lan thuật chuyện cho bạn nghe rồi nói:"Hai ta cùng nghèo. Bây giờ tôi có cách làm giàu cho cả hai ta, anh có chịu không?" Trương Hội hỏi:"Làm giàu bằng cách nào?" Vương Lan đáp:"Bây giờ tôi có thuật chữa bệnh mà không cần phải dùng thuốc. Một mình tôi cũng có thể biến thành thày thuốc, đi chữa bệnh cho thiên hạ để làm giàu cho vợ con. Thế nhưng tôi lại sợ thiên hạ đồn tôi là ma rồi chẳng có ai chịu bỏ tiền ra nhờ tôi chữa bệnh. Vì thế bây giờ tôi muốn truyền thuật chữa bệnh cho anh rồi hai ta cùng lên tỉnh kiếm bệnh nhân. Nếu có ai chịu bỏ tiền ra nhờ anh chữa bệnh thì tiền kiếm được sẽ chia đôi, mỗi người một nửa, anh có chịu không?" Trương Hội gật đầu. Vương Lan bèn giục:"Thế thì anh về sửa soạn hành trang đi!" Trương Hội liền về nhà sửa soạn hành trang rồi gom góp chút tiền bạc, theo Vương Lan lên tỉnh.
Tới tỉnh, hai người vừa vào trọ trong quán Yên Đôn thì thấy trên tường có dán cáo thị:"Bỉ nhân họ Triệu, tên Hà, cư ngụ tại cửa Nam tỉnh này, có một gái tên Ân Ân. Từ hơn một tháng nay, tiện nữ bị hôn mê bất tỉnh. Các thày thuốc trong vùng đều bó tay. Nay, nếu có ai chữa được cho tiện nữ khỏi bệnh thì bỉ nhân xin tạ ngàn vàng" Vương Lan liền ghé tai Trương Hội mà thì thầm. Trương Hội gật đầu lia lịa, miệng lẩm nhẩm học thuộc những điều Vương Lan căn dặn.
Sáng sau, Trương Hội ăn mặc chỉnh tề, tìm tới nhà Triệu ông, quả quyết rằng mình có thể chữa được bệnh cho Ân Ân. Triệu ông nghĩ chắc là Trương Hội cũng chỉ khoác lác như mấy thày thuốc trước nên cũng chẳng tin, song vẫn nói:"Nếu đúng như vậy thì xin tiên sinh hãy giúp ngay cho!" Trương Hội nói:"Xin tôn ông hãy cho bỉ nhân được coi sắc diện của lệnh ái!" Triệu ông bèn dắt Trương Hội vào phòng con. Thấy Ân Ân nằm hôn mê trên giường, Trương Hội ngắm nghía hồi lâu rồi nói:"Bệnh này đã tới thời kỳ nguy kịch song vẫn còn có thể chữa được!" Triệu ông hỏi:"Bệnh này là bệnh gì?" Trương Hội đáp:"Là bệnh lạc hồn!" Hỏi:"Tiên sinh sẽ dùng thuốc gì để chữa?" Đáp:"Bệnh này chẳng cần dùng thuốc mà chỉ cần thỉnh thần linh đi tìm hồn, dẫn về cho nhập vào xác là xong!" Triệu ông chẳng tin, chỉ lắc đầu, thở dài, song vẫn nói: "Thôi thì tiên sinh cứ thử chữa giúp xem sao!" Trương Hội nói:"Xin tôn ông cứ yên chí, thế nào bỉ nhân cũng chữa được! Chỉ xin tôn ông cho lập một bàn thờ giữa phòng khách rồi cho trải một chiếc chiếu trước bàn thờ là đủ!" Triệu ông liền sai gia nhân làm theo lời.
Trương Hội bước vào ngồi ở giữa chiếu, chắp tay lên trán khấn khứa hồi lâu rồi đứng dậy, nói:"Chỉ một giờ nữa là hồn sẽ về tới đây!" Triệu ông bèn sai tì nữ pha trà để cùng khách nhâm nhi, chờ hồn về. Chừng một giờ sau, Trương Hội thấy Vương Lan ghé tai mình thì thầm:"Hồn đã về, nhập vào xác ở trong phòng rồi đó!" Trương Hội bèn đứng dậy, lập lại lời nói của Vương Lan. Triệu ông nửa tin nửa ngờ song cũng đứng dậy, dắt Trương Hội vào phòng con. Tới cạnh giường, Trương Hội vỗ vai Ân Ân, hỏi:"Tiểu nương đã tỉnh chưa?" Đột nhiên Ân Ân vươn vai ngáp, mở to mắt nhìn Trương Hội. Triệu ông thấy con đã tỉnh thì mừng quá, vội chạy tới hỏi: "Con có mệt không?" Ân Ân ngước mắt nhìn cha, đáp: "Con hơi mệt" Hỏi: "Con có nhớ được gì không?" Đáp: "Thưa có!" Hỏi: "Con nhớ được những gì?" Đáp:"Con nhớ là hôm ấy con đang dạo mát trong vườn thì bỗng thấy một kẻ lạ mặt, lưng đeo cung tên, dắt hai tiểu đồng cùng một con ngựa, mở cổng đột nhập vào vườn, giương cung bắn sẻ, song chẳng bắn trúng con nào!" Hỏi:"Thế con có nhớ tại sao con lại bị hôn mê không?" Đáp:"Con không nhớ! Con chỉ nhớ rằng con sợ quá, quay mình bỏ chạy vào nhà thì bị y nhảy tới chặn lại, đưa cung tên cho, bắt tập bắn. Con lắc đầu từ chối rồi lại lách mình bỏ chạy. Y liền giơ tay túm lấy con, bế xốc lên lưng ngựa, phóng ra khỏi cổng. Hai tiểu đồng cũng chạy theo, song vì ngựa phi nhanh quá nên chỉ lát sau, con chẳng thấy chúng đâu nữa!" Hỏi: "Y phóng ngựa đưa con đi đâu?" Đáp: "Y phóng ngựa đưa con tới một ngọn núi! Con gào khóc, chửi mắng y. Y cười, nói Ta chỉ muốn bắt ngươi theo ta một lát để dạy cho ngươi biết cách bắn cung thôi. Hãy im đi, đừng la lối nữa, kẻo ta ném xuống đường bây giờ!" Hỏi: "Thế con có im không?" Đáp: "Thưa không! Con cứ tiếp tục gào khóc, chửi mắng y" Hỏi: "Thế rồi y ném con xuống đường phải không?" Đáp: "Thưa vâng! Y ném con xuống đường rồi phóng ngựa đi mất!" Hỏi: "Thế sao con không chạy về nhà?" Đáp:"Con muốn chạy về nhà lắm song không biết đường về! Con cứ lang thang quanh quẩn ở trong núi, bụng đói miệng khát, chẳng có gì ăn uống. Tới tối, khi gặp một hang núi, con vội chui vào thì vừa lúc con mệt lả, nằm vật xuống ngủ!" Hỏi: "Con ngủ được bao lâu?" Đáp: "Con cũng chẳng nhớ! Con chỉ nhớ là con ngủ miên man cho tới sáng nay mới tỉnh!" Hỏi: "Tỉnh rồi thì con làm gì?" Đáp: "Con vừa tỉnh thì chợt thấy một người lạ mặt tới nắm lấy tay con kéo dậy, lôi đi!" Hỏi: "Lôi đi đâu?" Đáp: "Lôi lên trời! Con sợ quá, nhắm mắt lại thì cảm thấy thân mình nhẹ bỗng, rồi nghe có tiếng gió thổi vù vù bên tai. Vừa rồi, khi hết tiếng gió, con mở mắt ra thì thấy mình đang nằm trên giường này! Cha ơi! Vị khách đây là ai thế?" Triệu ông đáp: "Là Trương y sư, người vừa chữa bệnh cho con đó! Con hãy nằm nghỉ đi! Mai mốt con khoẻ hẳn, cha sẽ thuật lại mọi chuyện cho con nghe!" Rồi Triệu ông mời Trương Hội trở ra phòng khách.
Bấy giờ Triệu ông mới phục tài chữa bệnh của Trương Hội, coi Trương Hội như một vị thần y, sai gia nhân mở kho lấy vàng, đếm đủ ngàn lạng, cho vào túi lớn, trả công Trương Hội. Trương Hội nhận túi vàng rồi xin cáo biệt. Triệu ông vội giữ lại, nói:"Xin tiên sinh hãy vui lòng ngủ lại đây đêm nay để xem bệnh tình của tiện nữ biến chuyển ra sao!" Trương Hội liền bằng lòng ở lại. Triệu ông bèn sai gia nhân dọn cho Trương Hội một phòng riêng. Trương Hội đem túi vàng về phòng.
Tối ấy, Triệu ông sai gia nhân làm tiệc khoản đãi Trương Hội. Tiệc xong, Trương Hội vừa về tới phòng thì thấy Vương Lan đã ở trong phòng. Thấy Trương Hội, Vương Lan nói:"Một mình anh mà đem túi vàng này về quê thì dọc đường dễ bị cướp lắm. Để tôi đem về trước cho. Tôi sẽ chia đôi, trao cho vợ con anh một nửa, vợ con tôi một nửa. Rồi tôi sẽ trở lại đây báo tin anh biết!" Trương Hội gật đầu, nói:"May quá! Tôi cũng đang lo chẳng biết phải làm thế nào để đem được túi vàng này về quê cho an toàn! Nay anh tính thế thì hay quá!" Nói xong, lấy túi vàng ra trao cho Vương Lan. Vương Lan liền đỡ lấy rồi từ giã Trương Hội mà lên đường.
Lát sau, Vương Lan về tới nhà, đánh thức vợ con dậy, chia cho nửa túi vàng rồi dặn sáng sau phải đem nửa túi kia sang trao cho vợ con Trương Hội, nói là của Trương Hội gửi về. Dặn dò xong, Vương Lan lại lên đường tới nhà Triệu ông. Tới nơi, Vương Lan nói với Trương Hội: "Tôi đã chia đều vàng cho vợ con anh và vợ con tôi rồi. Bây giờ anh cứ ở lại đây mà ngủ, tôi đi đây! Sáng mai, ta sẽ gặp nhau ở quán trọ!" Trương Hội gật đầu.
Sáng sau, Trương Hội cáo biệt Triệu ông. Thấy Trương Hội không đem theo túi vàng, Triệu ông nhắc: "Tiên sinh quên túi vàng rồi!" Trương Hội đáp:"Bỉ nhân đã cho gia nhân đem về trước rồi!" Triệu ông lấy làm lạ vì nhớ rằng Trương Hội chỉ tới đây có một mình. Tuy nhiên, Triệu ông cũng chẳng hỏi chi, chỉ lấy thêm ba trăm quan ra biếu Trương Hội làm lộ phí. Trương Hội cám ơn rồi cầm tiền về quán trọ. Dọc đường, Trương Hội gặp Hạ Tài.
Thấy Trương Hội, Hạ Tài mừng quá, vội chạy tới. Trương Hội hỏi:"Mi đi đâu?" Hạ Tài đáp:"Tôi nghe đồn anh vừa được Vương Lan truyền cho thuật chữa bệnh để làm giàu nên tôi lên đây tìm anh để xin chút tiền tiêu!" Trương Hội toan lấy trăm quan ra cho thì chợt có tiếng Vương Lan thì thầm bên tai:"Chỉ cho y mười quan thôi! Rồi đuổi y đi!" Trương Hội bèn nghe lời.
Hạ Tài đem tiền về Lợi Tân rượu chè cờ bạc. Mười ngày sau hết nhẵn, lại lên tỉnh hỏi thăm chỗ ở của Trương Hội. Khi được tin Trương Hội trọ trong quán Yên Đôn thì trời đã tối nên Hạ Tài đành phải chờ sáng sau.
Đêm ấy, Vương Lan ghé tai Trương Hội thì thầm:"Thế nào sáng mai thằng Hạ Tài cũng mò tới đây xin tiền. Nó bê tha rượu chè cờ bạc, anh chẳng nên chơi với nó nữa. Anh nên khuyên nó phải chí thú làm ăn rồi cho nó thêm chín chục quan nữa. Nó sẽ vâng dạ anh để lấy tiền, song nó sẽ chẳng nghe lời anh đâu! Nhưng thôi, anh cứ nên làm thế cho trọn tình bằng hữu. Cho nó ít tiền thì anh còn bị họa nhỏ, chứ cho nó nhiều tiền thì anh sẽ bị họa lớn đó!" Trương Hội đáp:"Tôi hiểu rồi!"
Quả nhiên, sáng sau, Hạ Tài lại mò tới. Trương Hội nói:"Tao đã biết trước là thế nào sáng nay mi cũng tới đây xin tiền. Mi cứ bê tha, rượu chè cờ bạc như thế này thì dù có ngàn vàng mi cũng sẽ tiêu hết ngay. Nếu mi thực tâm hối cải thì tao sẽ cho mi thêm chín chục quan nữa để lấy vốn mà làm ăn!" Hạ Tài vâng dạ rối rít. Trương Hội bèn lấy chín chục quan ra cho Hạ Tài. Hạ Tài lại đem tiền về Lợi Tân, la cà ở các tửu quán, đổ trường. Lính tuần biết Hạ Tài đã sạt nghiệp mà nay lại có tiền vung vãi thì nghi ngờ, bèn bắt giải vào trình quan tể. Quan hỏi Hạ Tài lấy tiền ở đâu ra thì Hạ Tài man khai là tiền của cha mẹ để lại. Quan chẳng tin, sai lính tra khảo. Bị đánh trọng thương, Hạ Tài đành phải khai thực là của Trương Hội cho. Quan bèn bắt Hạ Tài dẫn lính lên quán trọ Yên Đôn để bắt Trương Hội về huyện đối chất xem lời khai của Hạ Tài có đúng hay không. Thế nhưng, vì bị trọng thương nên mới đi được nửa đường, Hạ Tài đã lăn ra chết. Lính đem xác về trình. Quan liền sai lính đem đi chôn, rồi dẹp vụ án.
Hạ Tài chết, hồn bay lên tỉnh, vào phòng trọ của Trương Hội. Gặp hồn ma của Vương Lan ở trong phòng, Hạ Tài kinh hãi quá, quay mình bỏ chạy. Vương Lan gọi giật lại, nói: "Vì anh chẳng nghe lời bạn nên mới bị uổng tử. Nay đã thành ma thì hãy ở lại đây mà chơi với bạn ít bữa vì chỉ mấy hôm nữa thôi là các anh sẽ chẳng bao giờ được gặp lại nhau nữa!" Thấy Vương Lan nói chuyện tử tế với mình, Hạ Tài bèn ở lại.
Tối ấy, Trương Hội đưa tiền nhờ chủ quán đi mua rượu thịt giùm mình để thết đãi hồn ma hai bạn. Hạ Tài được dịp ăn uống thỏa thích, nên say sưa bí tỉ, la hét ầm ĩ. Vương Lan nói:"Anh la hét như thế thì chỉ tổ làm hại bạn anh thôi!" Hạ Tài chẳng nghe, cứ tiếp tục la hét. Vương Lan bèn bỏ đi.
Đêm ấy, quan tuần phương ngự sử dắt lính đi tuần quanh tỉnh. Qua quán trọ Yên Đôn, thấy có tiếng la hét, quan bèn sai lính vào bắt kẻ làm huyên náo. Lính vào hỏi chủ quán:"Tiếng la hét từ đâu vọng ra đường?" Chủ quán chỉ phòng của Trương Hội. Lính ập vào phòng thì chỉ thấy một mình Trương Hội đang ngồi độc ẩm. Lính liền bắt trói Trương Hội, đem ra trình quan. Ngự sử truyền giải Trương Hội về tỉnh đường, nhốt vào ngục.
Sáng sau, ngự sử đăng đường, cho giải Trương Hội lên, hỏi:"Sao đêm qua mi lại uống rượu say, làm huyên náo cả đường phố?" Trương Hội kinh hãi, đáp:"Bẩm đại quan, đó là hồn ma của bạn tiểu nhân chứ chẳng phải là tiểu nhân!" Hỏi:"Bạn mi tên chi?" Đáp:"Bẩm đại quan, y tên Hạ Tài!" Hỏi:"Sao mi biết là hồn ma của y la hét?" Đáp:"Bẩm đại quan, vì đêm qua tiểu nhân có nhờ chủ quán đi mua rượu thịt giùm tiểu nhân để thết đãi hồn ma hai người bạn là Hạ Tài và Vương Lan. Hồn Hạ Tài uống rượu say rồi la hét, hồn Vương Lan khuyên thế nào y cũng chẳng nghe!" Ngự sử nổi giận, quát: "Mi chỉ nói toàn chuyện hoang đường! Chính mi la hét chứ ma với quỷ nào!" Rồi ra lệnh cho lính đánh mười roi, nhốt vào ngục.
Tối ấy, khi ngẫm lại lời khai của Trương Hội, ngự sử lại nửa ngờ nửa tin. Nhân gần công đường có đền Linh Quan, nổi tiếng linh thiêng, ngự sử bèn viết một lá thư Gửi Thần Đền Linh Quan. Trong thư, ngự sử thuật lại lời khai của Trương Hội rồi hỏi:"Trương Hội khai như thế có đúng không?" Sau đó, ngự sử sai lính đem lá thư tới đốt ở lò hương trong đền. Đêm ấy, ngự sử nằm mộng thấy một người, mình mặc giáp vàng, đầu đội mũ thần, tới nói:"Bản chức là thần đền Linh Quan. Nhận được thư của đại quan nên tới đây để trả lời. Trương Hội khai như thế là đúng. Y vốn có hai người bạn là Vương Lan và Hạ Tài. Vương Lan thì bị quỷ bắt lầm rồi sau đó, nhờ có cơ duyên mà được thành tiên. Y vô can trong vụ la hét đêm qua. Ngày mai, bản chức sẽ phụng mệnh Diêm Vương, trao cho y chức Thanh Đạo Sứ, bắt y phải lên đường phó nhậm ngay. Hạ Tài mới là kẻ có tội. Tên này khi sống là kẻ vô lại, khi chết chẳng chừa tật xấu, làm huyên náo cả đường phố ở dương gian. Theo lệnh của Diêm Vương, ngày mai y sẽ bị đày đi làm phu vác đá ở núi Thiết Vi. Còn Trương Hội vô tội, xin đại quan tha cho y!" Sáng ra, ngự sử cũng lấy làm lạ về giấc mộng. Bèn đăng đường, truyền lệnh thả cho Trương Hội ra về.
Trương Hội về quán trọ, kiểm lại tiền bạc, thấy vẫn còn đủ hai trăm quan của Triệu ông biếu. Bèn thanh toán tiền phòng, lên đường về quê. Tới nhà, đem một trăm quan sang biếu vợ con Vương Lan.
Hai gia đình Trương Hội và Vương Lan cùng dùng vàng của Triệu ông trả công để làm vốn đi buôn. Sau, trở thành hai gia đình khá giả ở trong làng.
BẢY CHỊ EM CHỒN
(truyện TIÊU THẤT)
Phấn nhị chi hương tập ỷ diên
Ôn nhu hương diệc hữu tiền duyên
Tiêu lang vị ẩm tâm tiên túy
Tụ đắc lăng cân cánh diểu nhiên
Huyện Lâm Chuy, tỉnh Sơn Đông, có nho sinh họ Từ, tên Kế Trường, có vợ họ Điền. Điền thị đẹp lắm, đã hiền lành vui vẻ, chẳng biết ghen tuông, lại hay chiều chồng và ưa bỡn cợt với chồng. Kế Trường đi thi hương mãi không đậu nên bỏ học, đi làm chủ bạ.
Một buổi sáng mùa hè, Kế Trường đi dự tiệc ở xa. Chiều về, dọc đường khát nước, Kế Trường đảo mắt kiếm một ngôi nhà để vào xin nước uống thì thấy hai bên đường chỉ toàn là đồng ruộng, với vài ba ngôi cổ mộ rải rác đó đây. Khi miệng đã khô, Kế Trường mới thấy một biệt thự ở đằng xa. Mừng quá, Kế Trường vội rảo bước chạy tới thì thấy một ông lão đang ngồi hóng gió ở ngoài cổng. Kế Trường chắp tay vái chào, nói:"Bỉ nhân khát quá, xin lão trượng làm ơn cho ngụm nước!" Ông lão liền đứng dậy, nói:"Xin mời lang quân hãy đi theo lão phu!"
Sau khi dẫn Kế Trường vào sảnh đường ngồi, ông lão gọi tì nữ bưng trà lạnh lên. Chờ cho Kế Trường uống hết bình trà, ông lão mới nói:"Xin lang quân cho lão phu được biết quý danh!" Kế Trường đáp:"Bỉ nhân họ Từ, tên Kế Trường!" rồi ngồi nói chuyện với ông lão.
Lát sau, Kế Trường đứng dậy cám ơn, xin cáo biệt. Ông lão nói:"Trời tối rồi, khó thấy đường đi, lang quân ở lại đây mà nghỉ, sáng mai hãy về!" Đang bị say rượu, thân thể mỏi nhừ, được mời ở lại, Kế Trường liền đáp:"Xin vâng" Ông lão bèn sai tì nữ đi dọn phòng cho khách rồi quay qua nói với Kế Trường:"Lão phu đã sai dọn phòng để lang quân đi nghỉ, song giờ này còn sớm, mời lang quân ngồi đây nói chuyện với lão phu thêm một lát nữa đã!" Kế Trường đành phải ngồi lại.
Tới nửa đêm, đột nhiên ông lão gọi gia nhân lên, sai bày tiệc rượu cho tám thực khách. Kế Trường ngạc nhiên, chẳng hiểu tại sao giữa nửa đêm còn đi bày tiệc rượu, song cũng chẳng dám hỏi tới việc riêng của chủ nhà. Bỗng ông lão hỏi Kế Trường:"Lang quân có gia thất chưa?" Kế Trường đáp:"Thưa lão trượng, đã!" Ông lão nói:"Lão phu có chuyện riêng muốn thưa cùng lang quân!" Kế Trường vội hỏi:"Thưa lão trượng, chuyện gì?" Ông lão đáp:"Xin chớ chê là lão phu đường đột! Nguyên lão phu có bảy con gái, đã gả chồng hết sáu, chỉ còn đứa út năm nay mười sáu. Nay thấy lang quân là người xứng đôi với nó nên lão phu muốn gả nó cho lang quân làm trắc thất, chẳng hay ý lang quân thế nào?" Kế Trường lúng túng, chẳng biết trả lời ra sao. Bỗng ông lão sai gia nhân sang hàng xóm mời khách sang dự tiệc rồi sai tì nữ vào nhà trong giục cô Bảy trang điểm và trình với phu nhân đưa cô Bảy ra chào khách.
Lát sau, có bốn lão khách từ ngoài cửa bước vào, rồi phu nhân từ nhà trong bước ra, theo sau là hai tì nữ dìu một nữ lang, tư dung diễm lệ, xiêm y sang trọng. Nữ lang cúi đầu chào mọi người. Ông lão bèn đứng dậy giới thiệu mọi người với Kế Trường rồi chỉ Kế Trường mà nói:"Lang quân đây họ Từ, húy Kế Trường. Lão phu vừa quyết định đêm nay làm lễ vu quy cho con gái út sánh duyên cùng lang quân đây! Nửa đêm mà còn đi làm phiền quý vị tới đây chứng giám, mong quý vị thứ lỗi cho!" Mọi người đều nói lời chúc tụng rồi cùng nhập tiệc.
Kế Trường say rượu, thân thể mỏi nhừ, đầu óc rối loạn, chỉ muốn được đi nằm, nhưng trong tình cảnh ấy, cũng phải miễn cưỡng ngồi vào bàn. Rượu được vài tuần, Kế Trường say quá, chẳng còn kham nổi nên đứng dậy xin đi nghỉ. Ông lão cố ép ngồi lại song Kế Trường cương quyết chối từ. Ông lão đành sai tì nữ dẫn khách cùng con gái vào chung phòng. Tì nữ dắt hai người vào căn phòng mới dọn, rồi khép cửa, bỏ đi.
Vào phòng, Kế Trường ngồi xuống giường, còn nữ lang thì đến ngồi trên chiếc ghế đặt ở góc phòng, cạnh ngọn đèn. Kế Trường hỏi:"Nàng họ chi?" Nữ lang đáp: "Thiếp họ Tiêu!" Hỏi:"Nàng tên chi?" Đáp:"Thiếp không có tên!" Hỏi:"Không có tên thì lấy chi mà gọi?" Cười, đáp: "Ai cũng gọi thiếp là cô Bảy vì thiếp là con gái thứ bảy trong gia đình!" Hỏi:"Gia thế nàng ra sao?" Đáp:"Gia thế thiếp thì nghèo hèn thô lậu, chẳng có gì đáng khoe. Tuy nhiên, nay thiếp đã được cha đem gả cho một chủ bạ thì thiếp nghĩ gia thế nhà mình cũng chẳng đến nỗi làm nhục cho gia thế nhà chồng. Do đó, thiếp thiết tưởng chàng cũng chẳng nên căn vặn nữa!" Kế Trường ngượng quá, chẳng dám hỏi chi thêm. Bỗng cô Bảy hỏi:"Bây giờ chàng định đưa thiếp về đâu đây?" Kế Trường hỏi lại:"Ta muốn xin ở rể tại đây có được không?" Nữ lang đáp: "Không được!" Hỏi:"Tại sao?" Đáp:"Vì chàng còn chánh thất ở nhà. Đại nương hiền lành vui vẻ, chẳng biết ghen tuông, sao chẳng dắt thiếp về chung sống?" Thấy Kế Trường ngần ngại, cô Bảy nói tiếp:"Sáng mai, một mình chàng về trước, xin đại nương cho thiếp về ở chung. Nếu đại nương ưng thuận thì xin cho thiếp một phòng riêng. Tối mai thiếp sẽ tự tới, khỏi phải đón rước!" Kế Trường gật đầu. Cô Bảy bèn tắt đèn rồi lên giường vui vầy với Kế Trường. Lát sau, Kế Trường mệt quá, nằm lăn ra ngủ.
Sáng ra, khi ánh nắng rọi vào mắt, Kế Trường tỉnh giấc thì thấy cô Bảy đã biến mất. Kế Trường vội vùng dậy coi thì thấy mình đang đứng dưới một gốc cổ thụ, trên một đống cỏ dày. Kinh hãi quá, Kế Trường vội chỉnh lại mũ áo rồi ra về.
Tới nhà, Kế Trường thuật lại câu chuyện cho vợ nghe. Điền thị chẳng tin, rũ ra cười, nói:"Chắc là tại chàng say rượu, ngã xuống đường mà ngủ rồi nằm mơ thấy thế chứ gì?" Tuy nhiên, vì muốn bỡn cợt chồng, Điền thị vẫn đi dọn một phòng riêng, kê giường nệm gối chăn mới, rồi ra nói: "Thiếp đã dọn xong phòng riêng rồi! Tối nay chàng vào đó mà ngủ với cô dâu mới!" Nói xong, lại rũ ra cười, làm cho Kế Trường cũng phải cười theo.
Tối ấy, cơm nước xong, Điền thị muốn bỡn cợt chồng, bèn đến cạnh chồng, nắm tay lôi tới căn phòng mới dọn, rồi mở cửa phòng, lên tiếng hỏi đùa:"Tân giai nhân đã tới đó ư? Còn chờ gì mà chẳng ra dắt tân lang vào ngủ?" Nói xong, lại rũ ra cười. Chợt thấy ngọn đèn trong phòng loé sáng, Điền thị kinh ngạc, tắt hẳn tiếng cười. Rồi thấy có người từ trên giường tụt xuống đất, xỏ chân vào giày, chạy ra phía cửa. Điền thị đưa mắt nhìn thì thấy một nữ lang xinh đẹp, điểm trang sang trọng như cô dâu ngày cưới. Nữ lang chắp tay vái chào Điền thị. Điền thị gật đầu chào lại rồi hỏi:"Hiền muội tới từ hồi nào?" Nữ lang đáp:"Thiếp vừa mới tới!" Điền thị chỉ Kế Trường, nói:"Bây giờ hiền muội cứ giữ lang quân ở lại đây, để ngu tỉ đi lấy rượu vào cho hai người làm lễ hợp cẩn!" rồi bước ra khỏi phòng. Nhận ra nữ lang là cô Bảy đêm qua, Kế Trường mừng lắm còn cô Bảy thì chỉ che miệng mà cười. Lát sau, Điền thị đem rượu vào phòng rồi trở ra. Đêm ấy, Kế Trường ngủ lại phòng cô Bảy.
Sáng sau, cô Bảy dậy sớm, tự ý lau chùi dọn dẹp nhà cửa. Khi Điền thị ngủ dậy, thấy nhà cửa sạch sẽ tươm tất thì thích lắm, chẳng ngớt lời khen. Từ đó, ba người chung sống hòa thuận, vui vẻ dưới một mái nhà.
Tháng sau. Một sáng, đột nhiên cô Bảy nói với Kế Trường:"Tối nay, sáu tỉ tỉ của thiếp muốn tới đây ăn uống để xem nhà cửa của chàng ra sao" Kế Trường nói:"Nhà ta nghèo lắm, lấy chi mà đãi khách?" Đáp:"Chàng khỏi lo! Vì biết nhà chàng nghèo nên họ sẽ cho người đem thức ăn tới. Chỉ nhờ chàng nói với đại nương tối nay giúp thiếp hâm nóng lại thức ăn một chút mà thôi!" Kế Trường bèn ra nói với vợ. Điền thị vui vẻ nhận lời. Trưa ấy, quả nhiên có người gánh hai thúng đầy rượu thịt vào đặt ở giữa sân nhà rồi bỏ đi. Điền thị liền ra lấy, đem vào nhà bếp.
Tối ấy, khi thấy sáu chị tới, cô Bảy chạy ra mời vào phòng mình rồi giới thiệu từng người với Kế Trường. Kế Trường thấy cô Cả cũng chỉ chừng bốn mươi trở lại, còn cô Sáu thì chỉ chừng mười tám. Cô Sáu có vóc người thon nhỏ, mảnh mai yểu điệu, dáng vẻ vui tươi, ăn nói dí dỏm, chỉ mặc một bộ đồ trắng chứ không trang điểm gì vì mới góa chồng. Điền thị vào bếp hâm nóng thức ăn. Cô Bảy xuống bếp mời Điền thị lên dự tiệc. Điền thị từ chối, nói đã ăn rồi. Cô Bảy bèn bưng thức ăn lên phòng. Mọi người nhập tiệc, chuyện trò vui vẻ. Trong tiệc, Kế Trường ưa nói chuyện với cô Sáu nhất. Lát sau, mọi người cùng say sưa, cười nói ầm ĩ. Thấy tiếng ồn ào trên phòng cô Bảy, Điền thị bèn chạy lên dòm qua cửa sổ để xem có bao nhiêu người thì thấy chỉ có chồng mình với cô Bảy nhưng tai thì vẫn nghe thấy tiếng cười nói của nhiều người. Cả bọn ngồi dự tiệc tới gần sáng mới đứng dậy cáo biệt. Cô Bảy bèn tiễn sáu chị ra về.
Điền thị vào phòng cô Bảy nói chuyện với chồng. Thấy bát đĩa trên bàn nhẵn nhụi, Điền thị cười, hỏi:"Lũ nhỏ đói lắm phải không?" Kế Trường hỏi:"Sao nàng biết?" Điền thị cười, đáp: "Vì bát đĩa nào cũng sạch trơn như chó liếm!" rồi thu dọn bát đĩa, đem xuống bếp rửa.
Tiễn khách về rồi, cô Bảy trở vào phòng thì thấy bát đĩa đã được thu dọn, liền hỏi Kế Trường:"Ai dọn dẹp thế này?" Kế Trường đáp:"Chị ấy dọn, đem xuống bếp rửa rồi!" Cô Bảy vội chạy xuống bếp, giằng lấy bát đĩa trong tay Điền thị mà rửa, giục Điền thị lên nhà đi nghỉ.
Điền thị lên phòng cô Bảy, nói với chồng:"Chàng mời khách tới nhà dự tiệc mà lại để cho khách phải đem thức ăn tới thì thực là kỳ cục, thế nào rồi họ cũng cười cho! Hôm nào chàng gắng kiếm chút tiền để thiếp làm cho một bữa tiệc mà mời khách!" Kế Trường trầm ngâm, chẳng đáp. Lát sau, Điền thị nói:"Tối nay chàng cứ ở lại đây mà ngủ!" rồi về phòng mình.
Tháng sau. Một sáng, Kế Trường đưa tiền cho vợ, nhờ làm tiệc, rồi bảo cô Bảy về nhà mời sáu chị sang dự. Đến tối, Điền thị làm tiệc xong, bày hết lên bàn trong phòng cô Bảy. Lát sau, khách tới. Kế Trường bảo cô Bảy ra mời khách vào phòng nhập tiệc. Khách ngồi vào bàn, ăn uống tự nhiên, chẳng khách sáo chi, song chừa lại bốn bát thức ăn, chẳng đụng đũa tới. Kế Trường lấy làm lạ, hỏi:"Sao các tỉ tỉ chẳng dùng mấy món này?" Khách nhìn nhau mỉm cười, đáp:"Bữa trước phu nhân nói chúng tôi ăn uống thô tục, bát đĩa sạch trơn như chó liếm, nên hôm nay chúng tôi phải chừa lại bốn món, để phần nhà bếp!"
Trong tiệc, cô Sáu cứ buông lời chọc ghẹo Kế Trường làm cho Kế Trường phải đỏ mặt. Thấy thế, bọn chị em liền đặt ra một luật chơi, gọi là tửu lệnh, hẹn rằng hễ ai nói câu gì chọc ghẹo Kế Trường thì bị phạt một chén rượu. Cô nào thì cũng chỉ bị phạt một vài chén, riêng cô Sáu thì bị phạt tới mười hai chén. Vì thế, cô Sáu say lảo đảo, mặt đỏ gay, phải giả vờ đi rửa mặt rồi xuống bếp kiếm chỗ ngả lưng. Kế Trường chờ mãi chẳng thấy cô Sáu trở lại bàn tiệc, bèn thắp đèn đi tìm. Xuống bếp, thấy cô Sáu đang nằm ngủ vùi ở xó bếp, tay nắm chặt một chiếc khăn lụa mỏng, Kế Trường vội cúi xuống gỡ trộm chiếc khăn, cất vào túi áo, rồi trở lên bàn tiệc, nói cô Sáu say quá, đang nằm ngủ ở dưới bếp, xin cứ để yên cho cô ấy ngủ. Đêm ấy, bữa tiệc kéo dài tới gần sáng. Lúc tiệc tan, thấy năm chị lớn đã sửa soạn ra về mà chị Sáu vẫn chưa trở lên phòng tiệc, cô Bảy liền chạy xuống bếp đánh thức. Cô Sáu dụi mắt, uể oải vươn vai, song vẫn còn ngái ngủ, chưa chịu ngồi dậy. Cô Bảy phải giục mãi, cô Sáu mới chịu đứng dậy lên nhà trên, cùng năm chị ra về. Lần này, cô Bảy bảo Kế Trường đi tiễn khách. Được lời, Kế Trường liền đi tiễn một quãng thực xa. Khi trở về, Kế Trường cứ ngẩn ngơ như kẻ mất hồn. Lát sau, Kế Trường lẻn ra vườn sau, móc túi lấy chiếc khăn ra coi thì thấy chiếc khăn đã mất. Kế Trường vừa kinh hãi vừa tiếc rẻ, nghĩ rằng mình đã đánh rớt chiếc khăn ở dọc đường khi đi tiễn khách nên vội thắp đèn đi tìm, song tìm mãi chẳng thấy. Thấy Kế Trường trở về, vẻ mặt buồn rầu, cô Bảy mỉm cười, hỏi:"Đi đâu về thế?" Kế Trường đáp:"Đi đóng cổng!" Hỏi:"Đi đóng cổng thì việc gì mà phải buồn thế?" Chối:"Có buồn chi đâu?" Nói:"Chối làm chi nữa! Khăn của người ta thì người ta lấy lại rồi, tìm làm chi cho mất công vô ích!" Kế Trường kinh hãi quá, đành thú thực:"Ta mê chị Sáu lắm!" Cô Bảy nói: "Thiếp biết chứ! Nhưng chị Sáu với chàng hết duyên nợ rồi!" Hỏi:"Sao nàng biết?" Đáp:"Vì kiếp trước chàng là nho sinh còn chị Sáu là con gái nhà nông. Chàng gặp chị Sáu thì mê song cha mẹ chàng không cho chàng cưới. Vì thế, chàng ốm tương tư, phải nằm liệt giường, nhờ người báo tin cho chị Sáu biết, xin chị Sáu tới thăm và cho chàng nắm tay một lần để lỡ chàng có thác thì cũng đã được toại nguyện. Chị Sáu ưng thuận song cứ chần chờ. Đến tối, khi chị Sáu tới thì chàng đã thác. Vì thế, chị Sáu chỉ nợ chàng có một cái nắm tay thôi. Hôm nay chàng đã được nắm tay chị Sáu để gỡ trộm khăn rồi thì nợ đã hết. Vì thế, hai người khó lòng mà tiến xa hơn được!"
Tháng sau, Kế Trường lại đưa tiền cho vợ, nhờ làm tiệc để mời các cô chị của cô Bảy. Thế nhưng lần này, chỉ có năm cô tới còn cô Sáu không tới. Kế Trường nghi là cô Bảy ghen, không cho cô Sáu tới nên rất oán hận cô Bảy. Cô Bảy phân trần:"Thấy chị Sáu không tới, chàng nghi là thiếp ghen, không cho chị ấy tới. Thực ra thì tại chị ấy không muốn tới chứ chẳng phải là tại thiếp ghen!" Kế Trường vẫn chẳng tin. Cô Bảy bèn tìm đủ cách cho Kế Trường gặp lại cô Sáu nhưng cô Sáu nhất định chẳng chịu gặp lại Kế Trường. Lúc đó Kế Trường mới bớt nghi cô Bảy.
Tám năm sau.
Một sáng, đột nhiên cô Bảy nói với Kế Trường: "Chiều nay, thiếp xin vĩnh biệt chàng!" Kế Trường kinh hãi, hỏi:"Sao lại vĩnh biệt?" Đáp:"Vì duyên nợ với chàng đã hết nên thiếp phải về ở với cha mẹ!" Hỏi:"Nàng chẳng thể ở lại đây được nữa hay sao?" Đáp:"Chẳng thể được! Song trước khi vĩnh biệt, thiếp muốn giúp chàng một việc!" Hỏi:"Việc gì?" Đáp:"Việc gặp lại chị Sáu! Trong tám năm qua lúc nào chàng cũng nhớ tới chị Sáu và oán hận thiếp! Bây giờ, thiếp muốn giúp chàng gặp lại chị Sáu để cho chàng được toại nguyện. Chị Sáu góa chồng, về ở với cha mẹ. Chàng mời chị ấy tới đây dự tiệc thì chị ấy có quyền từ chối, song chàng theo thiếp về thăm cha mẹ thiếp thì chị ấy đâu có quyền cấm cản chàng? Bây giờ chàng cứ đi theo thiếp, biết đâu chị ấy chẳng đổi ý, chịu ra gặp chàng! Xưa nay, nhân định thắng thiên cũng nhiều!" Kế Trường mừng lắm, thuận đi theo cô Bảy.
Chiều ấy, cô Bảy vào chào vĩnh biệt Điền thị rồi cùng Kế Trường ra cổng. Cô Bảy vừa nắm tay Kế Trường thì cả hai cùng bay bổng lên không trung. Lát sau, khi đáp xuống cổng nhà Tiêu lão, Kế Trường thấy ngôi nhà vẫn nguyên như cũ. Thấy Tiêu lão cùng phu nhân đang đứng ở cổng, Kế Trường vội chắp tay vái chào. Tiêu lão cùng phu nhân khẽ gật đầu đáp lễ rồi bảo cô Bảy dẫn Kế Trường vào phòng khách. Vào phòng, phu nhân gọi tì nữ pha trà rồi quay qua nói với Kế Trường:"Con Bảy nhà lão thân được hưởng hạnh phúc với hiền tế trong tám năm qua, lão thân rất cám ơn hiền tế. Vì lão thân già yếu, chẳng tới nhà hiền tế được lần nào, mong hiền tế hiểu cho!" Sau đó, quay qua bảo gia nhân:"Tối nay, hãy bày tiệc rượu cho năm thực khách!" Gia nhân vâng dạ.
Tối ấy, khi gia nhân bày tiệc xong, phu nhân sai tì nữ thắp đèn rồi mời Tiêu lão, Kế Trường và cô Bảy cùng ngồi vào bàn dự tiệc với mình. Cô Bảy hỏi mẹ:"Các chị con đâu? Sao chẳng thấy ai ra dự tiệc?" Phu nhân đáp: "Hôm qua chúng nó kéo nhau về đây đông đủ cả song sáng nay đứa nào cũng theo chồng về nhà rồi! Chỉ còn con Sáu ở lại đây thôi!" Rồi sai tì nữ vào nhà trong mời cô Sáu ra dự tiệc. Kế Trường hồi hộp chờ cô Sáu ra song chờ mãi chẳng thấy. Cô Bảy bèn đứng dậy, chạy vào nhà trong lôi chị ra, kéo ghế ép ngồi, rót rượu ép uống. Kế Trường đưa mắt nhìn thì thấy nét mặt cô Sáu có vẻ trầm ngâm chứ chẳng được vui tươi như trước.
Rượu được vài tuần, Tiêu lão và phu nhân cùng đứng dậy, nói lời cáo từ rồi vào nhà trong. Còn lại ba người ở bàn tiệc, cô Bảy lên tiếng:"Chị cứ khủng khỉnh làm cao để người ta nghi oan cho em mà oán hận em!" Cô Sáu mỉm cười, nói:"Em thử nghĩ coi! Gần gũi với con người khinh bạc, gỡ trộm khăn tay, để làm gì?" Nghe thấy thế, Kế Trường mới tin là mình đã nghi oan cho cô Bảy. Đột nhiên cô Bảy đứng dậy, gỡ hai chén rượu ở tay hai người, đổi lẫn cho nhau, rồi ép hai người phải uống hết. Thấy hai người còn e dè, cô Bảy nói:"Uống hết đi chứ! Còn ngượng ngập nỗi gì?" Hai người bèn cùng nâng chén, uống cạn. Cô Bảy đứng dậy, đi vào nhà trong.
Thấy trong phòng chỉ còn có cô Sáu với mình, Kế Trường vội xô ghế đứng dậy, chạy tới nắm lấy cổ tay cô Sáu. Đột nhiên, ở phía ngoài phòng có tiếng la hét ầm ĩ rồi có ánh đèn chiếu vào cửa phòng. Cô Sáu hoảng hốt giựt tay lại, la lên:"Chết rồi! Tai họa tới bất thần, biết làm sao bây giờ?" Kế Trường còn đang luống cuống thì cô Sáu đã biến mất. Kế Trường buồn bã, ngồi bệt xuống sàn thì bỗng thấy nhà cửa, lầu gác, đèn nến đều biến mất cả, duy chỉ còn mình đang ngồi giữa một bãi tha ma, chung quanh toàn là đồng ruộng, trên đầu là bàu trời đầy sao.
Chợt Kế Trường thấy từ xa có ánh đèn rọi tới rồi có một bọn thợ săn chừng hơn chục người, lưng đeo cung, tay cầm đao, ầm ầm chạy đến. Nhìn thấy Kế Trường, bọn thợ săn kinh hãi, hỏi:"Bằng hữu là ai? Sao đêm khuya lại tới đây mà ngồi?" Kế Trường đáp:"Bỉ nhân làm chủ bạ ở Lâm Chuy! Sáng qua tới nhà bạn dự tiệc, đến tối ra về thì bị lạc đường nên phải ngồi tạm xuống chỗ này nghỉ chân!" Bọn thợ săn hỏi:"Tụi tôi đang đuổi theo một con chồn. Nó vừa chạy qua đây, bằng hữu có thấy không?" Đáp:"Bỉ nhân chẳng thấy chi cả!" rồi đưa mắt nhìn quanh thì nhận thấy mình đang ngồi cạnh một ngôi cổ mộ thuộc gia đình họ Vu. Bọn thợ săn ra về. Kế Trường buồn bã đứng dậy, về theo. Tới nhà, Kế Trường thuật lại câu chuyện cho vợ nghe, làm Điền thị cũng phải kinh ngạc. Kế Trường thầm mong cô Bảy trở lại một lần song trước sau cô Bảy vẫn tuyệt vô âm tín.
Phấn nhị chi hương tập ỷ diên
Ôn nhu hương diệc hữu tiền duyên
Tiêu lang vị ẩm tâm tiên túy
Tụ đắc lăng cân cánh diểu nhiên
Huyện Lâm Chuy, tỉnh Sơn Đông, có nho sinh họ Từ, tên Kế Trường, có vợ họ Điền. Điền thị đẹp lắm, đã hiền lành vui vẻ, chẳng biết ghen tuông, lại hay chiều chồng và ưa bỡn cợt với chồng. Kế Trường đi thi hương mãi không đậu nên bỏ học, đi làm chủ bạ.
Một buổi sáng mùa hè, Kế Trường đi dự tiệc ở xa. Chiều về, dọc đường khát nước, Kế Trường đảo mắt kiếm một ngôi nhà để vào xin nước uống thì thấy hai bên đường chỉ toàn là đồng ruộng, với vài ba ngôi cổ mộ rải rác đó đây. Khi miệng đã khô, Kế Trường mới thấy một biệt thự ở đằng xa. Mừng quá, Kế Trường vội rảo bước chạy tới thì thấy một ông lão đang ngồi hóng gió ở ngoài cổng. Kế Trường chắp tay vái chào, nói:"Bỉ nhân khát quá, xin lão trượng làm ơn cho ngụm nước!" Ông lão liền đứng dậy, nói:"Xin mời lang quân hãy đi theo lão phu!"
Sau khi dẫn Kế Trường vào sảnh đường ngồi, ông lão gọi tì nữ bưng trà lạnh lên. Chờ cho Kế Trường uống hết bình trà, ông lão mới nói:"Xin lang quân cho lão phu được biết quý danh!" Kế Trường đáp:"Bỉ nhân họ Từ, tên Kế Trường!" rồi ngồi nói chuyện với ông lão.
Lát sau, Kế Trường đứng dậy cám ơn, xin cáo biệt. Ông lão nói:"Trời tối rồi, khó thấy đường đi, lang quân ở lại đây mà nghỉ, sáng mai hãy về!" Đang bị say rượu, thân thể mỏi nhừ, được mời ở lại, Kế Trường liền đáp:"Xin vâng" Ông lão bèn sai tì nữ đi dọn phòng cho khách rồi quay qua nói với Kế Trường:"Lão phu đã sai dọn phòng để lang quân đi nghỉ, song giờ này còn sớm, mời lang quân ngồi đây nói chuyện với lão phu thêm một lát nữa đã!" Kế Trường đành phải ngồi lại.
Tới nửa đêm, đột nhiên ông lão gọi gia nhân lên, sai bày tiệc rượu cho tám thực khách. Kế Trường ngạc nhiên, chẳng hiểu tại sao giữa nửa đêm còn đi bày tiệc rượu, song cũng chẳng dám hỏi tới việc riêng của chủ nhà. Bỗng ông lão hỏi Kế Trường:"Lang quân có gia thất chưa?" Kế Trường đáp:"Thưa lão trượng, đã!" Ông lão nói:"Lão phu có chuyện riêng muốn thưa cùng lang quân!" Kế Trường vội hỏi:"Thưa lão trượng, chuyện gì?" Ông lão đáp:"Xin chớ chê là lão phu đường đột! Nguyên lão phu có bảy con gái, đã gả chồng hết sáu, chỉ còn đứa út năm nay mười sáu. Nay thấy lang quân là người xứng đôi với nó nên lão phu muốn gả nó cho lang quân làm trắc thất, chẳng hay ý lang quân thế nào?" Kế Trường lúng túng, chẳng biết trả lời ra sao. Bỗng ông lão sai gia nhân sang hàng xóm mời khách sang dự tiệc rồi sai tì nữ vào nhà trong giục cô Bảy trang điểm và trình với phu nhân đưa cô Bảy ra chào khách.
Lát sau, có bốn lão khách từ ngoài cửa bước vào, rồi phu nhân từ nhà trong bước ra, theo sau là hai tì nữ dìu một nữ lang, tư dung diễm lệ, xiêm y sang trọng. Nữ lang cúi đầu chào mọi người. Ông lão bèn đứng dậy giới thiệu mọi người với Kế Trường rồi chỉ Kế Trường mà nói:"Lang quân đây họ Từ, húy Kế Trường. Lão phu vừa quyết định đêm nay làm lễ vu quy cho con gái út sánh duyên cùng lang quân đây! Nửa đêm mà còn đi làm phiền quý vị tới đây chứng giám, mong quý vị thứ lỗi cho!" Mọi người đều nói lời chúc tụng rồi cùng nhập tiệc.
Kế Trường say rượu, thân thể mỏi nhừ, đầu óc rối loạn, chỉ muốn được đi nằm, nhưng trong tình cảnh ấy, cũng phải miễn cưỡng ngồi vào bàn. Rượu được vài tuần, Kế Trường say quá, chẳng còn kham nổi nên đứng dậy xin đi nghỉ. Ông lão cố ép ngồi lại song Kế Trường cương quyết chối từ. Ông lão đành sai tì nữ dẫn khách cùng con gái vào chung phòng. Tì nữ dắt hai người vào căn phòng mới dọn, rồi khép cửa, bỏ đi.
Vào phòng, Kế Trường ngồi xuống giường, còn nữ lang thì đến ngồi trên chiếc ghế đặt ở góc phòng, cạnh ngọn đèn. Kế Trường hỏi:"Nàng họ chi?" Nữ lang đáp: "Thiếp họ Tiêu!" Hỏi:"Nàng tên chi?" Đáp:"Thiếp không có tên!" Hỏi:"Không có tên thì lấy chi mà gọi?" Cười, đáp: "Ai cũng gọi thiếp là cô Bảy vì thiếp là con gái thứ bảy trong gia đình!" Hỏi:"Gia thế nàng ra sao?" Đáp:"Gia thế thiếp thì nghèo hèn thô lậu, chẳng có gì đáng khoe. Tuy nhiên, nay thiếp đã được cha đem gả cho một chủ bạ thì thiếp nghĩ gia thế nhà mình cũng chẳng đến nỗi làm nhục cho gia thế nhà chồng. Do đó, thiếp thiết tưởng chàng cũng chẳng nên căn vặn nữa!" Kế Trường ngượng quá, chẳng dám hỏi chi thêm. Bỗng cô Bảy hỏi:"Bây giờ chàng định đưa thiếp về đâu đây?" Kế Trường hỏi lại:"Ta muốn xin ở rể tại đây có được không?" Nữ lang đáp: "Không được!" Hỏi:"Tại sao?" Đáp:"Vì chàng còn chánh thất ở nhà. Đại nương hiền lành vui vẻ, chẳng biết ghen tuông, sao chẳng dắt thiếp về chung sống?" Thấy Kế Trường ngần ngại, cô Bảy nói tiếp:"Sáng mai, một mình chàng về trước, xin đại nương cho thiếp về ở chung. Nếu đại nương ưng thuận thì xin cho thiếp một phòng riêng. Tối mai thiếp sẽ tự tới, khỏi phải đón rước!" Kế Trường gật đầu. Cô Bảy bèn tắt đèn rồi lên giường vui vầy với Kế Trường. Lát sau, Kế Trường mệt quá, nằm lăn ra ngủ.
Sáng ra, khi ánh nắng rọi vào mắt, Kế Trường tỉnh giấc thì thấy cô Bảy đã biến mất. Kế Trường vội vùng dậy coi thì thấy mình đang đứng dưới một gốc cổ thụ, trên một đống cỏ dày. Kinh hãi quá, Kế Trường vội chỉnh lại mũ áo rồi ra về.
Tới nhà, Kế Trường thuật lại câu chuyện cho vợ nghe. Điền thị chẳng tin, rũ ra cười, nói:"Chắc là tại chàng say rượu, ngã xuống đường mà ngủ rồi nằm mơ thấy thế chứ gì?" Tuy nhiên, vì muốn bỡn cợt chồng, Điền thị vẫn đi dọn một phòng riêng, kê giường nệm gối chăn mới, rồi ra nói: "Thiếp đã dọn xong phòng riêng rồi! Tối nay chàng vào đó mà ngủ với cô dâu mới!" Nói xong, lại rũ ra cười, làm cho Kế Trường cũng phải cười theo.
Tối ấy, cơm nước xong, Điền thị muốn bỡn cợt chồng, bèn đến cạnh chồng, nắm tay lôi tới căn phòng mới dọn, rồi mở cửa phòng, lên tiếng hỏi đùa:"Tân giai nhân đã tới đó ư? Còn chờ gì mà chẳng ra dắt tân lang vào ngủ?" Nói xong, lại rũ ra cười. Chợt thấy ngọn đèn trong phòng loé sáng, Điền thị kinh ngạc, tắt hẳn tiếng cười. Rồi thấy có người từ trên giường tụt xuống đất, xỏ chân vào giày, chạy ra phía cửa. Điền thị đưa mắt nhìn thì thấy một nữ lang xinh đẹp, điểm trang sang trọng như cô dâu ngày cưới. Nữ lang chắp tay vái chào Điền thị. Điền thị gật đầu chào lại rồi hỏi:"Hiền muội tới từ hồi nào?" Nữ lang đáp:"Thiếp vừa mới tới!" Điền thị chỉ Kế Trường, nói:"Bây giờ hiền muội cứ giữ lang quân ở lại đây, để ngu tỉ đi lấy rượu vào cho hai người làm lễ hợp cẩn!" rồi bước ra khỏi phòng. Nhận ra nữ lang là cô Bảy đêm qua, Kế Trường mừng lắm còn cô Bảy thì chỉ che miệng mà cười. Lát sau, Điền thị đem rượu vào phòng rồi trở ra. Đêm ấy, Kế Trường ngủ lại phòng cô Bảy.
Sáng sau, cô Bảy dậy sớm, tự ý lau chùi dọn dẹp nhà cửa. Khi Điền thị ngủ dậy, thấy nhà cửa sạch sẽ tươm tất thì thích lắm, chẳng ngớt lời khen. Từ đó, ba người chung sống hòa thuận, vui vẻ dưới một mái nhà.
Tháng sau. Một sáng, đột nhiên cô Bảy nói với Kế Trường:"Tối nay, sáu tỉ tỉ của thiếp muốn tới đây ăn uống để xem nhà cửa của chàng ra sao" Kế Trường nói:"Nhà ta nghèo lắm, lấy chi mà đãi khách?" Đáp:"Chàng khỏi lo! Vì biết nhà chàng nghèo nên họ sẽ cho người đem thức ăn tới. Chỉ nhờ chàng nói với đại nương tối nay giúp thiếp hâm nóng lại thức ăn một chút mà thôi!" Kế Trường bèn ra nói với vợ. Điền thị vui vẻ nhận lời. Trưa ấy, quả nhiên có người gánh hai thúng đầy rượu thịt vào đặt ở giữa sân nhà rồi bỏ đi. Điền thị liền ra lấy, đem vào nhà bếp.
Tối ấy, khi thấy sáu chị tới, cô Bảy chạy ra mời vào phòng mình rồi giới thiệu từng người với Kế Trường. Kế Trường thấy cô Cả cũng chỉ chừng bốn mươi trở lại, còn cô Sáu thì chỉ chừng mười tám. Cô Sáu có vóc người thon nhỏ, mảnh mai yểu điệu, dáng vẻ vui tươi, ăn nói dí dỏm, chỉ mặc một bộ đồ trắng chứ không trang điểm gì vì mới góa chồng. Điền thị vào bếp hâm nóng thức ăn. Cô Bảy xuống bếp mời Điền thị lên dự tiệc. Điền thị từ chối, nói đã ăn rồi. Cô Bảy bèn bưng thức ăn lên phòng. Mọi người nhập tiệc, chuyện trò vui vẻ. Trong tiệc, Kế Trường ưa nói chuyện với cô Sáu nhất. Lát sau, mọi người cùng say sưa, cười nói ầm ĩ. Thấy tiếng ồn ào trên phòng cô Bảy, Điền thị bèn chạy lên dòm qua cửa sổ để xem có bao nhiêu người thì thấy chỉ có chồng mình với cô Bảy nhưng tai thì vẫn nghe thấy tiếng cười nói của nhiều người. Cả bọn ngồi dự tiệc tới gần sáng mới đứng dậy cáo biệt. Cô Bảy bèn tiễn sáu chị ra về.
Điền thị vào phòng cô Bảy nói chuyện với chồng. Thấy bát đĩa trên bàn nhẵn nhụi, Điền thị cười, hỏi:"Lũ nhỏ đói lắm phải không?" Kế Trường hỏi:"Sao nàng biết?" Điền thị cười, đáp: "Vì bát đĩa nào cũng sạch trơn như chó liếm!" rồi thu dọn bát đĩa, đem xuống bếp rửa.
Tiễn khách về rồi, cô Bảy trở vào phòng thì thấy bát đĩa đã được thu dọn, liền hỏi Kế Trường:"Ai dọn dẹp thế này?" Kế Trường đáp:"Chị ấy dọn, đem xuống bếp rửa rồi!" Cô Bảy vội chạy xuống bếp, giằng lấy bát đĩa trong tay Điền thị mà rửa, giục Điền thị lên nhà đi nghỉ.
Điền thị lên phòng cô Bảy, nói với chồng:"Chàng mời khách tới nhà dự tiệc mà lại để cho khách phải đem thức ăn tới thì thực là kỳ cục, thế nào rồi họ cũng cười cho! Hôm nào chàng gắng kiếm chút tiền để thiếp làm cho một bữa tiệc mà mời khách!" Kế Trường trầm ngâm, chẳng đáp. Lát sau, Điền thị nói:"Tối nay chàng cứ ở lại đây mà ngủ!" rồi về phòng mình.
Tháng sau. Một sáng, Kế Trường đưa tiền cho vợ, nhờ làm tiệc, rồi bảo cô Bảy về nhà mời sáu chị sang dự. Đến tối, Điền thị làm tiệc xong, bày hết lên bàn trong phòng cô Bảy. Lát sau, khách tới. Kế Trường bảo cô Bảy ra mời khách vào phòng nhập tiệc. Khách ngồi vào bàn, ăn uống tự nhiên, chẳng khách sáo chi, song chừa lại bốn bát thức ăn, chẳng đụng đũa tới. Kế Trường lấy làm lạ, hỏi:"Sao các tỉ tỉ chẳng dùng mấy món này?" Khách nhìn nhau mỉm cười, đáp:"Bữa trước phu nhân nói chúng tôi ăn uống thô tục, bát đĩa sạch trơn như chó liếm, nên hôm nay chúng tôi phải chừa lại bốn món, để phần nhà bếp!"
Trong tiệc, cô Sáu cứ buông lời chọc ghẹo Kế Trường làm cho Kế Trường phải đỏ mặt. Thấy thế, bọn chị em liền đặt ra một luật chơi, gọi là tửu lệnh, hẹn rằng hễ ai nói câu gì chọc ghẹo Kế Trường thì bị phạt một chén rượu. Cô nào thì cũng chỉ bị phạt một vài chén, riêng cô Sáu thì bị phạt tới mười hai chén. Vì thế, cô Sáu say lảo đảo, mặt đỏ gay, phải giả vờ đi rửa mặt rồi xuống bếp kiếm chỗ ngả lưng. Kế Trường chờ mãi chẳng thấy cô Sáu trở lại bàn tiệc, bèn thắp đèn đi tìm. Xuống bếp, thấy cô Sáu đang nằm ngủ vùi ở xó bếp, tay nắm chặt một chiếc khăn lụa mỏng, Kế Trường vội cúi xuống gỡ trộm chiếc khăn, cất vào túi áo, rồi trở lên bàn tiệc, nói cô Sáu say quá, đang nằm ngủ ở dưới bếp, xin cứ để yên cho cô ấy ngủ. Đêm ấy, bữa tiệc kéo dài tới gần sáng. Lúc tiệc tan, thấy năm chị lớn đã sửa soạn ra về mà chị Sáu vẫn chưa trở lên phòng tiệc, cô Bảy liền chạy xuống bếp đánh thức. Cô Sáu dụi mắt, uể oải vươn vai, song vẫn còn ngái ngủ, chưa chịu ngồi dậy. Cô Bảy phải giục mãi, cô Sáu mới chịu đứng dậy lên nhà trên, cùng năm chị ra về. Lần này, cô Bảy bảo Kế Trường đi tiễn khách. Được lời, Kế Trường liền đi tiễn một quãng thực xa. Khi trở về, Kế Trường cứ ngẩn ngơ như kẻ mất hồn. Lát sau, Kế Trường lẻn ra vườn sau, móc túi lấy chiếc khăn ra coi thì thấy chiếc khăn đã mất. Kế Trường vừa kinh hãi vừa tiếc rẻ, nghĩ rằng mình đã đánh rớt chiếc khăn ở dọc đường khi đi tiễn khách nên vội thắp đèn đi tìm, song tìm mãi chẳng thấy. Thấy Kế Trường trở về, vẻ mặt buồn rầu, cô Bảy mỉm cười, hỏi:"Đi đâu về thế?" Kế Trường đáp:"Đi đóng cổng!" Hỏi:"Đi đóng cổng thì việc gì mà phải buồn thế?" Chối:"Có buồn chi đâu?" Nói:"Chối làm chi nữa! Khăn của người ta thì người ta lấy lại rồi, tìm làm chi cho mất công vô ích!" Kế Trường kinh hãi quá, đành thú thực:"Ta mê chị Sáu lắm!" Cô Bảy nói: "Thiếp biết chứ! Nhưng chị Sáu với chàng hết duyên nợ rồi!" Hỏi:"Sao nàng biết?" Đáp:"Vì kiếp trước chàng là nho sinh còn chị Sáu là con gái nhà nông. Chàng gặp chị Sáu thì mê song cha mẹ chàng không cho chàng cưới. Vì thế, chàng ốm tương tư, phải nằm liệt giường, nhờ người báo tin cho chị Sáu biết, xin chị Sáu tới thăm và cho chàng nắm tay một lần để lỡ chàng có thác thì cũng đã được toại nguyện. Chị Sáu ưng thuận song cứ chần chờ. Đến tối, khi chị Sáu tới thì chàng đã thác. Vì thế, chị Sáu chỉ nợ chàng có một cái nắm tay thôi. Hôm nay chàng đã được nắm tay chị Sáu để gỡ trộm khăn rồi thì nợ đã hết. Vì thế, hai người khó lòng mà tiến xa hơn được!"
Tháng sau, Kế Trường lại đưa tiền cho vợ, nhờ làm tiệc để mời các cô chị của cô Bảy. Thế nhưng lần này, chỉ có năm cô tới còn cô Sáu không tới. Kế Trường nghi là cô Bảy ghen, không cho cô Sáu tới nên rất oán hận cô Bảy. Cô Bảy phân trần:"Thấy chị Sáu không tới, chàng nghi là thiếp ghen, không cho chị ấy tới. Thực ra thì tại chị ấy không muốn tới chứ chẳng phải là tại thiếp ghen!" Kế Trường vẫn chẳng tin. Cô Bảy bèn tìm đủ cách cho Kế Trường gặp lại cô Sáu nhưng cô Sáu nhất định chẳng chịu gặp lại Kế Trường. Lúc đó Kế Trường mới bớt nghi cô Bảy.
Tám năm sau.
Một sáng, đột nhiên cô Bảy nói với Kế Trường: "Chiều nay, thiếp xin vĩnh biệt chàng!" Kế Trường kinh hãi, hỏi:"Sao lại vĩnh biệt?" Đáp:"Vì duyên nợ với chàng đã hết nên thiếp phải về ở với cha mẹ!" Hỏi:"Nàng chẳng thể ở lại đây được nữa hay sao?" Đáp:"Chẳng thể được! Song trước khi vĩnh biệt, thiếp muốn giúp chàng một việc!" Hỏi:"Việc gì?" Đáp:"Việc gặp lại chị Sáu! Trong tám năm qua lúc nào chàng cũng nhớ tới chị Sáu và oán hận thiếp! Bây giờ, thiếp muốn giúp chàng gặp lại chị Sáu để cho chàng được toại nguyện. Chị Sáu góa chồng, về ở với cha mẹ. Chàng mời chị ấy tới đây dự tiệc thì chị ấy có quyền từ chối, song chàng theo thiếp về thăm cha mẹ thiếp thì chị ấy đâu có quyền cấm cản chàng? Bây giờ chàng cứ đi theo thiếp, biết đâu chị ấy chẳng đổi ý, chịu ra gặp chàng! Xưa nay, nhân định thắng thiên cũng nhiều!" Kế Trường mừng lắm, thuận đi theo cô Bảy.
Chiều ấy, cô Bảy vào chào vĩnh biệt Điền thị rồi cùng Kế Trường ra cổng. Cô Bảy vừa nắm tay Kế Trường thì cả hai cùng bay bổng lên không trung. Lát sau, khi đáp xuống cổng nhà Tiêu lão, Kế Trường thấy ngôi nhà vẫn nguyên như cũ. Thấy Tiêu lão cùng phu nhân đang đứng ở cổng, Kế Trường vội chắp tay vái chào. Tiêu lão cùng phu nhân khẽ gật đầu đáp lễ rồi bảo cô Bảy dẫn Kế Trường vào phòng khách. Vào phòng, phu nhân gọi tì nữ pha trà rồi quay qua nói với Kế Trường:"Con Bảy nhà lão thân được hưởng hạnh phúc với hiền tế trong tám năm qua, lão thân rất cám ơn hiền tế. Vì lão thân già yếu, chẳng tới nhà hiền tế được lần nào, mong hiền tế hiểu cho!" Sau đó, quay qua bảo gia nhân:"Tối nay, hãy bày tiệc rượu cho năm thực khách!" Gia nhân vâng dạ.
Tối ấy, khi gia nhân bày tiệc xong, phu nhân sai tì nữ thắp đèn rồi mời Tiêu lão, Kế Trường và cô Bảy cùng ngồi vào bàn dự tiệc với mình. Cô Bảy hỏi mẹ:"Các chị con đâu? Sao chẳng thấy ai ra dự tiệc?" Phu nhân đáp: "Hôm qua chúng nó kéo nhau về đây đông đủ cả song sáng nay đứa nào cũng theo chồng về nhà rồi! Chỉ còn con Sáu ở lại đây thôi!" Rồi sai tì nữ vào nhà trong mời cô Sáu ra dự tiệc. Kế Trường hồi hộp chờ cô Sáu ra song chờ mãi chẳng thấy. Cô Bảy bèn đứng dậy, chạy vào nhà trong lôi chị ra, kéo ghế ép ngồi, rót rượu ép uống. Kế Trường đưa mắt nhìn thì thấy nét mặt cô Sáu có vẻ trầm ngâm chứ chẳng được vui tươi như trước.
Rượu được vài tuần, Tiêu lão và phu nhân cùng đứng dậy, nói lời cáo từ rồi vào nhà trong. Còn lại ba người ở bàn tiệc, cô Bảy lên tiếng:"Chị cứ khủng khỉnh làm cao để người ta nghi oan cho em mà oán hận em!" Cô Sáu mỉm cười, nói:"Em thử nghĩ coi! Gần gũi với con người khinh bạc, gỡ trộm khăn tay, để làm gì?" Nghe thấy thế, Kế Trường mới tin là mình đã nghi oan cho cô Bảy. Đột nhiên cô Bảy đứng dậy, gỡ hai chén rượu ở tay hai người, đổi lẫn cho nhau, rồi ép hai người phải uống hết. Thấy hai người còn e dè, cô Bảy nói:"Uống hết đi chứ! Còn ngượng ngập nỗi gì?" Hai người bèn cùng nâng chén, uống cạn. Cô Bảy đứng dậy, đi vào nhà trong.
Thấy trong phòng chỉ còn có cô Sáu với mình, Kế Trường vội xô ghế đứng dậy, chạy tới nắm lấy cổ tay cô Sáu. Đột nhiên, ở phía ngoài phòng có tiếng la hét ầm ĩ rồi có ánh đèn chiếu vào cửa phòng. Cô Sáu hoảng hốt giựt tay lại, la lên:"Chết rồi! Tai họa tới bất thần, biết làm sao bây giờ?" Kế Trường còn đang luống cuống thì cô Sáu đã biến mất. Kế Trường buồn bã, ngồi bệt xuống sàn thì bỗng thấy nhà cửa, lầu gác, đèn nến đều biến mất cả, duy chỉ còn mình đang ngồi giữa một bãi tha ma, chung quanh toàn là đồng ruộng, trên đầu là bàu trời đầy sao.
Chợt Kế Trường thấy từ xa có ánh đèn rọi tới rồi có một bọn thợ săn chừng hơn chục người, lưng đeo cung, tay cầm đao, ầm ầm chạy đến. Nhìn thấy Kế Trường, bọn thợ săn kinh hãi, hỏi:"Bằng hữu là ai? Sao đêm khuya lại tới đây mà ngồi?" Kế Trường đáp:"Bỉ nhân làm chủ bạ ở Lâm Chuy! Sáng qua tới nhà bạn dự tiệc, đến tối ra về thì bị lạc đường nên phải ngồi tạm xuống chỗ này nghỉ chân!" Bọn thợ săn hỏi:"Tụi tôi đang đuổi theo một con chồn. Nó vừa chạy qua đây, bằng hữu có thấy không?" Đáp:"Bỉ nhân chẳng thấy chi cả!" rồi đưa mắt nhìn quanh thì nhận thấy mình đang ngồi cạnh một ngôi cổ mộ thuộc gia đình họ Vu. Bọn thợ săn ra về. Kế Trường buồn bã đứng dậy, về theo. Tới nhà, Kế Trường thuật lại câu chuyện cho vợ nghe, làm Điền thị cũng phải kinh ngạc. Kế Trường thầm mong cô Bảy trở lại một lần song trước sau cô Bảy vẫn tuyệt vô âm tín.
BÁO OÁN
(truyện ĐẬU THỊ)
Khiết tí đương thời cưỡng đế minh
Như hà ủy khí đẳng trần khinh
Kỳ kỳ quái quái tần tu oán
Bất sát hương khuê hận bất bình
Huyện Tấn Dương, tỉnh Sơn Tây, có công tử họ Nam, tên Tam Phục, thuộc dòng dõi thế gia, được dân chúng trong vùng nể trọng. Năm ấy, Tam Phục hai mươi bảy tuổi, góa vợ, chưa có con.
Tam Phục có một ngôi biệt thự ở cách tư thất chừng mươi dặm. Một sáng mùa hè, Tam Phục cưỡi ngựa đi thăm biệt thự. Đi được nửa đường, bỗng trời đổ mưa, Tam Phục bèn xuống ngựa, dắt vào đứng dưới mái cổng căn nhà bên đường để tránh mưa. Chủ nhà là một nông dân, nhận ra khách đứng ở ngoài ngõ là Tam Phục, vội giương dù chạy ra mời vào nhà ngồi chơi. Tam Phục nhận lời. Chủ nhà bèn buộc ngựa của Tam Phục vào cột cổng rồi cung kính che dù cho Tam Phục vào nhà.
Tam Phục thấy nhà nghèo lắm, chỉ có một phòng khách hẹp với hai phòng ngủ nhỏ. Chủ nhà mời Tam Phục ngồi, đi lấy nước rẩy sàn quét nhà cho khỏi bụi rồi pha trà nóng với mật ong, mời Tam Phục uống. Chủ nhà cứ đứng khoanh tay hầu chuyện Tam Phục cho tới khi Tam Phục bảo ngồi, chủ nhà mới dám ngồi.
Tam Phục hỏi: "Ông họ gì?" Chủ nhà đáp:"Tôi họ Đậu, tên Đình Chương" Hỏi:"Bà ấy đâu?" Đáp:"Tiện nội mất đã được ba năm rồi!" Hỏi: "Ông được mấy người con?" Đáp:"Tôi chỉ được một mụn con gái" Hỏi: "Tên chi?" Đáp:"Tiện nữ tên Tố Nga" Hỏi:"Bao nhiêu tuổi?" Đáp:"Tiện nữ mười lăm" Tam Phục cứ hỏi chuyện Đậu ông như thế. Chợt Đậu ông nói:"Chẳng mấy khi công tử tới tệ xá chơi, xin mời công tử ở lại dùng với tôi một bữa rượu!" Tam Phục nói:"Cũng được" Đậu ông bèn xin phép xuống bếp làm cơm.
Lát sau, Đậu ông bưng lên một mâm cơm với thịt gà và rượu, xin phép Tam Phục cho mình được ngồi đối ẩm, chuyện trò. Tam Phục gật đầu. Ăn xong, Đậu ông xuống bếp bảo con pha trà mới rồi lại trở lên tiếp khách.
Tố Nga đun nước sôi pha trà, bưng khay trà lên đặt ở cửa phòng khách rồi lại quay xuống bếp. Đậu ông ra cửa bưng khay trà vào mời Tam Phục. Tuy chỉ nhìn thấy nửa người Tố Nga thấp thoáng ngoài cửa, song Tam Phục cũng biết là Tố Nga đẹp lắm và có mái tóc xõa xuống hai vai. Trời tạnh mưa, Tam Phục xin cáo biệt.
Về nhà, Tam Phục thấy hình bóng Tố Nga cứ lởn vởn trong đầu rồi thấy lòng mình xao xuyến. Hôm sau, Tam Phục sai gia nhân đem gạo và lụa tới biếu Đậu ông để đáp l. Từ đó, cứ ba ngày một lần, Tam Phục lại sai gia nhân đem rượu thịt tới nhà Đậu ông để mình tới đối ẩm, chuyện trò. Lâu dần, Tam Phục với Đậu ông trở thành bạn thân. Vì thế, Tố Nga cũng dạn dần, chẳng còn phải tránh né Tam Phục như trước nữa. Mỗi lần cha gọi pha trà, Tố Nga đã dám bưng thẳng khay trà vào phòng khách. Thấy Tố Nga, Tam Phục cứ ngây người ra ngắm. Bắt gặp Tam Phục ngắm mình, Tố Nga chỉ mỉm cười.
Một hôm, Tam Phục tới gõ cổng nhà Đậu ông để vào thăm. Tố Nga ra mở. Tam Phục hỏi:"Lệnh tôn có nhà không?" Tố Nga đáp:"Gia nghiêm vừa đi vắng!" Hỏi:"Bỉ nhân có thể vào nhà ngồi chờ được không?"Đáp:"Xin mời công tử vào!" Tam Phục bèn vào ngồi ở phòng khách. Tố Nga vào nhà trong, thầm mong cha chóng về tiếp khách.
Chờ mãi chẳng thấy cha về, Tố Nga ngại cho khách phải ngồi lâu, bèn đánh bạo bước ra, thay cha tiếp khách. Tam Phục lợi dụng thời cơ, nắm lấy cổ tay Tố Nga, buông lời chọc ghẹo. Tố Nga ngượng quá, nghiêm sắc mặt, nói: "Nhà thiếp tuy nghèo song cha con thiếp chẳng chịu để cho ai làm nhục cả! Xin công tử chớ cậy mình giàu có mà làm nhục thiếp! Gia nghiêm muốn thiếp phải đứng đắn để lấy được một tấm chồng tử tế!" Tam Phục hoảng sợ, vội chắp tay xin lỗi, nói: "Vì bỉ nhân thành tâm muốn được tiểu nương để ý nên mới trót xúc phạm, mong tiểu nương thứ lỗi cho! Bỉ nhân đã hết tang tiện nội, nay muốn xin cưới tiểu nương về làm kế thất! Nếu tiểu nương ưng thuận thì bỉ nhân sẽ nhờ người tới thưa chuyện với lệnh tôn, khỏi phải nhờ người đi kiếm giùm đám khác!" Tố Nga tỏ vẻ nghi ngờ, nói: "Thiếp thấy khó lòng mà tin được lời công tử! Công tử là con nhà dòng dõi thế gia, khi nào lại chịu đi cưới con gái một gia đình nông dân như thiếp?" Tam Phục nói: "Nếu tiểu nương chẳng tin thì bỉ nhân xin thề độc!" Tố Nga mỉm cười, nói: "Công tử cứ thử thề độc cho thiếp coi xem công tử thề độc tới mức nào?" Tam Phục bèn thề: "Bỉ nhân là Nam Tam Phục, thề sẽ hỏi cưới tiểu nương Đậu Tố Nga làm kế thất, xin quỷ thần chứng giám. Nếu sau này, bỉ nhân bội lời thề này thì xin quỷ thần cứ xử bỉ nhân tội chết!" Thấy lời thề độc, Tố Nga mỉm cười tin tưởng, rồi để mặc cho Tam Phục muốn làm chi thì làm. Tam Phục bèn bồng Tố Nga vào phòng trong mà ân ái. Khi Tam Phục từ biệt Tố Nga, Đậu ông vẫn chưa về.
Từ đó, ngày nào Tam Phục cũng sai gia nhân tới ngõ nhà Đậu ông rình lén. H thấy Đậu ông vừa ra khỏi cổng là gia nhân lại chạy về báo để Tam Phục cưỡi ngựa sang ân ái với Tố Nga.
Mười tháng sau. Một hôm Tố Nga giục Tam Phục: "Công tử cứ lén lút với thiếp mãi như thế này thì chẳng phải là kế lâu dài. Công tử đã thuận cho thiếp được núp bóng thì xin công tử hãy chính thức hỏi cưới thiếp ngay đi! Công tử mà hỏi thì chắc chắn là gia nghiêm sẽ gả ngay chứ chẳng thể nào từ chối, vì chẳng ai có thể đem lại vinh dự cho gia đình thiếp như công tử được! Xin công tử hãy xúc tiến việc cưới hỏi gấp cho, chớ để thiếp phải lo lắng mãi!" Tam Phục gật đầu.
Tối ấy, về nhà, Tam Phục lại nghĩ là mình dòng dõi thế gia, chẳng thể nào hỏi cưới con gái một gia đình nông dân được. Vì thế, hôm sau Tam Phục kiếm cớ nói quanh với Tố Nga để trì hoãn việc cưới hỏi, rồi nhờ bà mối để ý kiếm cho mình một nơi môn đăng hộ đối.
Tháng sau. Một hôm bà mối tới nhà Tam Phục, nói: "Lão thân đã kiếm được cho công tử một đám đăng đối rồi!" Tam Phục hỏi: "Đám nào?" Đáp: "Tô tiểu thư, ái nữ của Tô công!" Hỏi:"Tô công là ai?" Đáp: "Công tử chẳng biết sao? Tô công, quán tại vùng này, được triều đình bổ nhậm đi làm quan tể ở xa, nay mới hồi hưu!" Thấy Tam Phục có vẻ còn trù trừ chưa quyết, bà mối liền tiếp: "Tô tiểu thư đẹp lắm! Sắc nước hương trời, ai nhìn thấy cũng phải mê! Còn Tô công thì giàu có lắm, hứa với ái nữ rằng khi nào vu quy, sẽ cho ngàn vàng làm của hồi môn!" Nghe thấy thế, Tam Phục bèn quyết định nhờ bà mối đi hỏi Tô thị cho mình. Bà mối tới thưa chuyện với Tô công. Tô công ưng thuận, hẹn năm sau cho nghênh hôn.
Một hôm, Đậu ông đi vắng, Tam Phục lại tới nhà ân ái với Tố Nga. Tố Nga nói: "Thiếp muốn nói với công tử một việc quan trọng!" Tam Phục hỏi: "Việc gì?" Đáp: "Thiếp đã mang thai với công tử. Xin công tử hãy xúc tiến việc cưới hỏi gấp cho!" Tam Phục chỉ ậm ừ rồi ra về. Từ hôm ấy, Tam Phục biệt tăm, chẳng bén mảng tới nhà Đậu ông nữa.
Đậu ông thấy bụng con gái mình mỗi ngày một lớn thì tra hỏi. Tố Nga thú thực. Đậu ông bèn nhờ bà mối tới hỏi Tam Phục cho rõ thực hư. Tam Phục chối, nói: "Nếu cô ta mang thai thì bào thai trong bụng cô ta là của đàn ông nào đó chứ đâu có phải là của tôi?" Bà mối về thuật lại. Nghe thấy thế, Đậu ông giận quá, lấy roi đánh con. Tố Nga uất ức lắm song cũng đành chịu, chẳng biết phải biện bạch với cha như thế nào để cho cha tin mình.
Sáu tháng sau. Một chiều đông, Tố Nga sanh con trai. Tối ấy, Tố Nga mệt mỏi, nằm ngủ thiếp đi. Thấy thế, Đậu ông vội vùng dậy, bế đứa cháu đem ra sau nhà, vứt vào thùng rác. Tỉnh giấc, Tố Nga thấy mất con thì biết ngay là con mình đã bị ông ngoại vứt đi, nên lẻn ra vườn sau tìm con. Thấy con nằm trong thùng rác, vẫn còn sống, Tố Nga vội ẵm ra, chạy sang nhà Chương bà ở hàng xóm phía đông, xin ngủ nhờ.
Sáng sau, Tố Nga nhờ Chương bà tới thuật chuyện cho Tam Phục nghe. Nghe xong, Tam Phục cứ lờ đi, chẳng nói năng chi. Thấy vậy, Chương bà nói: "Cô Tố Nga nhờ tôi nhắn với công tử rằng cô ta chẳng xin công tử cưới cô ta đâu mà chỉ xin công tử nhận đứa bé, đem về nuôi thôi!" Tam Phục tỏ vẻ bực mình, nói: "Bà đừng nói nữa! Bà hãy về đi! Đứa bé ấy đâu có phải là con của tôi?" Chương bà đành về nói lại cho Tố Nga nghe.
Tố Nga bế con tới thẳng nhà Tam Phục, xin vào gặp mặt. Người canh cổng không cho vào. Tố Nga nói: "Đứa bé này là con của chủ ông! Nếu ông không cho tôi vào thì nhờ ông vào nói với chủ ông rằng tôi chẳng cần chủ ông phải cưới tôi làm vợ song đứa bé này là con của chủ ông, chẳng lẽ chủ ông lại nỡ để cho nó bị chết đói chết rét hay sao?" Người canh cổng vào trình lại với Tam Phục. Tam Phục nói: "Ra bảo nó bế con cút đi! Nếu nó không chịu đi thì cứ để mặc nó ngồi ở ngoài ngõ chứ không được cho vào trong nhà!" Người canh cổng vâng dạ rồi ra nói lại. Tố Nga cương quyết không đi, cứ ngồi lỳ ở ngoài ngõ, ôm con mà khóc. Tới tối, rồi tới khuya, đói chẳng có chi ăn, rét chẳng có chi đắp. Sáng sau, người canh cổng ra mở cổng thì thấy cả hai mẹ con đều đã chết cóng. Xác Tố Nga ngồi tựa vào thành cổng, hai tay còn ẵm đứa con ở trong lòng. Tam Phục nghe tin, liền sai gia nhân chạy đi báo cho Đậu ông hay. Đậu ông vừa kinh hãi vừa phẫn uất, vội chạy tới đem xác hai mẹ con về, mua quan tài chôn cất.
Hôm sau, Đậu ông làm đơn kiện Tam Phục, đem lên nạp ở huyện đường. Quan tể đọc đơn, sai lính đi bắt Tam Phục vào huyện đường. Quan hỏi: "Đứa bé ấy có phải là con của nhà ngươi không?" Tam Phục chối, đáp: "Bẩm đại quan, không!" Quan bèn cho điều tra. Nha lại phúc trình rằng đứa bé ấy đúng là con của Tam Phục. Quan bèn kết tội Tam Phục bất nghĩa, xử phạt mười năm tù ở. Tam Phục vội nhờ người đem vàng tới hối lộ quan. Quan nhận hối lộ rồi tha bổng Tam Phục.
Đêm ấy, Tô công nằm mộng thấy một thiếu nữ, tay ẵm con, đầu xõa tóc, tới nhà mình, nói: "Tiểu nữ là Đậu Tố Nga, bị tên Nam Tam Phục dụ dỗ cho y ân ái thì y sẽ cưới làm kế thất. Nay tiểu nữ đã có con với y thì y lại hắt hủi cả hai mẹ con để đến nỗi hai mẹ con cùng bị chết cóng. Y lại nhờ bà mối đi hỏi cưới lệnh ái và đã được tôn ông ưng thuận. Bây giờ, xin tôn ông hãy từ hôn với y để tránh cho lệnh ái khỏi bị ải tử. Nếu tôn ông chẳng tin lời tiểu nữ thì sau này xin tôn ông chớ oán trách là tiểu nữ chẳng có lời báo trước!" Nói xong, thiếu nữ biến mất. Tỉnh giấc, Tô công lo sợ lắm, toan từ hôn với Tam Phục nhưng rồi thấy Tam Phục giàu có nên lại nổi lòng tham, cho rằng mộng mị chỉ là chuyện hão huyền. Vì thế, Tô công vẫn quyết định gả con gái cho Tam Phục.
Tới ngày nghênh hôn, Tam Phục thấy Tô thị mi thanh mục tú, có ngàn vàng hồi môn thì mừng lắm. Tuy nhiên, trong suốt ngày cưới, Tam Phục thấy Tô thị lúc nào cũng âu sầu buồn bã thì lại rất ngạc nhiên. Tới tối, khi động phòng hoa chúc, Tam Phục thấy Tô thị cứ ứa nước mắt khóc, bèn hỏi: "Từ sáng tới giờ, lúc nào ta cũng thấy nàng âu sầu buồn bã! Rồi bây giờ lại khóc là nghĩa làm sao?" Tô thị chẳng đáp, làm Tam Phục càng ngạc nhiên. Thế rồi Tam Phục thấy Tô thị cương quyết chẳng chịu thân thiết với mình. Tam Phục bắt đầu linh cảm thấy một điều chi bất tường nên rất bồn chồn.
Tháng sau, Tô công tới nhà con rể thăm con gái. Người canh cổng mở cổng mời vào, rồi chạy vào báo tin cho chủ biết. Từ cổng vào nhà có hai ngả, ngả trước xuyên qua vườn hoa, ngả sau xuyên qua vườn đào. Tô công theo ngả sau mà vào. Khi xuyên qua vườn đào, chợt nhìn thấy một thiếu nữ treo cổ trên cành, dáng dấp trông giống con mình, Tô công kinh hãi quá, vội chạy tới để coi thì thấy đúng là con mình. Tô công cực kỳ hoảng sợ, vội chạy vào phòng khách để tìm con rể song lại chạy lạc vào phòng ngủ. Thấy một thiếu nữ lạ ngồi trên giường của con gái mình, Tô công vừa sợ vừa giận, vội quay người chạy ra. Tam Phục ngồi trong phòng khách chờ nhạc phụ. Thấy nhạc phụ chạy vào phòng ngủ, Tam Phục ngạc nhiên, vội chạy vào theo. Vừa tới cửa phòng ngủ thì thấy nhạc phụ từ trong phòng chạy ra, Tam Phục càng ngạc nhiên hơn. Tam Phục toan lên tiếng hỏi thì chợt thấy nhạc phụ lên tiếng quát: "Ta vào đây qua ngả vườn đào, thấy vợ anh treo cổ chết trên cành! Anh làm chi mà để cho nó phải tự ải? Còn thiếu nữ đang ngồi trên giường kia là ai?" Tam Phục chẳng hiểu đầu đuôi sự thể ra sao nên cực kỳ hoảng hốt, luýnh quýnh la lên: "Trời ơi! Sao lại có chuyện lạ thế này? Nhạc phụ để con coi xem!" Rồi tới gần giường xem thiếu nữ là ai thì bỗng thấy thiếu nữ ngã lăn xuống đất mà chết. Tam Phục nhìn kỹ thì nhận ra là xác Tố Nga. Tô công tới gần, hỏi: "Thiếu nữ này là ai?" Tam Phục đành phải thú thực mọi chuyện với nhạc phụ. Thấy xác Tố Nga phảng phất giống thiếu nữ trong giấc mộng đêm nọ, Tô công vừa căm tức Tam Phục lại vừa hối hận là đã gả con gái cho Tam Phục. Vì thế, Tô công lẳng lặng bỏ về.
Tam Phục nhờ người lên huyện đường trình quan tể về việc vợ mình tự ải và xin được phép mai táng. Mặt khác, Tam Phục sai gia nhân đi báo cho Đậu ông biết về việc xác Tố Nga đang ở nhà mình. Đậu ông nửa tin nửa ngờ, chạy ra mộ con coi thì quả nhiên thấy mộ con đã bị đào tung, quan tài bật nắp, xác con biến mất. Đậu ông bèn sang nhà Tam Phục xin xác con, đem ra mộ chôn lại.
Đậu ông đang phẫn uất về việc con mình bị chết oan, nay lại thấy xảy ra vụ này thì cho là Tam Phục đã dàn cảnh để làm chuyện dâm ô. Bèn lại làm đơn kiện Tam Phục, nạp quan tể. Quan thấy chuyện hoang đường, chưa biết xử ra sao. Tam Phục sợ quá, lại lấy vàng nhờ người đem hối lộ. Quan nhận hối lộ rồi dẹp vụ án. Tam Phục cũng sai gia nhân đem chút tiền bạc tới biếu Đậu ông để cho câu chuyện được êm xuôi.
Từ đó, tự nhiên nhà Tam Phục cứ suy dần, tiền vào thì ít, tiền ra thì nhiều. Năm sau, Tam Phục nhờ bà mối đi kiếm vợ khác cho mình. Bà mối kiếm mãi chẳng được vì người nào trong vùng cũng đều biết chuyện Tam Phục, chẳng ai chịu gả con gái cho. Bà mối bèn tới nói với Tam Phục: "Bây giờ trong vùng này chẳng ai dám gả con gái cho công tử nữa! Nếu công tử muốn hỏi vợ thì phải đi hỏi ở xa. Lão thân biết một đám ở xa, đăng đối với công tử lắm, song chẳng biết công tử có thuận chăng?" Tam Phục hỏi: "Đám nào?" Đáp: "Tào nương, con gái của Tào tiến sĩ!" Hỏi: "Ở tận đâu?" Đáp:"Ở Sơn Đông! Nếu công tử thuận thì lão thân sẽ sang đó hỏi!" Tam Phục chẳng muốn cưới vợ ở xa song vì thấy chẳng còn nơi nào ở gần chịu gả con gái cho mình nên đành ưng thuận. Bà mối bèn sang Sơn Đông hỏi Tào nương cho Tam Phục. Khi về, bà mối tới nói với Tam Phục:"Tào ông đã bằng lòng gả Tào nương cho công tử, hẹn ba tháng nữa sẽ cho nghênh hôn!" Tam Phục bèn nhờ bà mối đem sính l sang Sơn Đông.
Hai tháng sau. Trong dân gian có tin đồn triều đình sắp ra lệnh bắt cung nữ ở các địa phương. Vì thế, nhà nào có con gái đã hứa hôn cũng cho người đưa con về nhà chồng ngay, chẳng cần đợi ngày cưới.
Trong làng của Tam Phục có một vị cử nhân họ Diêu, gia pháp rất nghiêm, có cô con gái tên Tố Tố. Tuy Tam Phục giao du với Diêu ông song vẫn chưa được biết mặt Tố Tố. Một hôm, Tam Phục chợt nghe tin Tố Tố vừa bị bạo bệnh mà thác, liền tới nhà Diêu ông để viếng tang. Tới nơi, Tam Phục thấy linh cữu Tố Tố đã được đậy nắp, đặt giữa phòng khách. Viếng tang xong, Tam Phục xin cáo biệt. Hôm sau, Diêu ông làm l mai táng cho con.
Cũng ngày hôm ấy, Tam Phục đang ngồi trong phòng khách thì chợt thấy người canh cổng chạy vào báo có xe ngựa của Tào ông cho đưa Tào nương sang. Tam Phục vội bảo người canh cổng ra mở cổng mời vào. Xa phu vừa cho xe vào đậu trước cửa phòng khách thì từ trên xe có một bà vú bước xuống, đỡ một thiếu nữ xuống theo, dắt vào phòng. Bà vú chào Tam Phục, nói: "Thưa công tử, triều đình đang ra lệnh bắt cung nữ ở Sơn Đông gấp lắm. Vì thế, Tào ông nhà lão tì quyết định sai lão tì đưa Tào nương sang đây với công tử ngay, chẳng thể chờ ngày cưới được!" Tam Phục thấy ngoài xa phu ra, chỉ có cô dâu với bà vú nên cũng nghi ngờ, hỏi: "Tại sao lại chỉ có một mình lão bà đưa dâu sang? Chẳng có khách khứa nào đi đưa dâu hay sao?" Bà vú cười, đáp: "Thưa công tử có chứ! Xe cô dâu chạy trước, chở đầy quần áo, nữ trang và của hồi môn nên chẳng còn chỗ trống cho khách đưa dâu ngồi. Khách ngồi trên ba xe sau, cũng sắp tới rồi!" Bà vú bèn ra bảo xa phu khuân mấy rương quần áo, nữ trang và của hồi môn của cô dâu vào phòng khách rồi dặn dò cô dâu mấy lời. Xong, bà vú chắp tay vái chào Tam Phục rồi xin phép lên xe. Xa phu liền phóng xe ra khỏi cổng. Tam Phục ngắm nhìn Tào nương, thấy cũng xinh đẹp, bèn tới gần trêu ghẹo, đùa cợt chớt nhả. Tào nương nghiêm nét mặt, nói: "Thiếp đi đường xa mệt mỏi, xin tân lang cho thiếp được vào phòng nằm nghỉ một lát. Tới tối, thiếp sẽ xin hầu tiếp tân lang!" Tam Phục bèn dẫn Tào nương vào phòng ngủ. Tào nương liền cởi bỏ nữ trang, quần áo, rồi lên giường nằm. Thấy điệu bộ của Tào nương giống hệt điệu bộ của Tố Nga, Tam Phục đã cảm thấy chẳng vui, song chưa tiện hỏi. Chợt thấy Tào nương kéo chăn trùm kín đầu để ngủ, Tam Phục hỏi: "Nàng trùm kín đầu như thế thì làm sao mà thở?" Tào nương đáp: "Thiếp có thói quen này từ hồi còn nhỏ, xin tân lang chớ để tâm!" Tam Phục bèn bỏ ra phòng khách, chờ đón ba xe khách đưa dâu.
Chờ đến tối cũng chẳng thấy chi, Tam Phục sinh nghi, bèn chạy vào phòng ngủ hỏi Tào nương. Thấy Tào nương vẫn còn trùm chăn kín đầu, Tam Phục liền lớn tiếng gọi: "Nàng nằm nghỉ đã thấy đỡ mệt chưa? Dậy đi cho ta hỏi một câu!" Chẳng thấy tiếng đáp, Tam Phục bèn chạy tới giường lật chăn ra coi thì thấy Tào nương đã tắt thở. Tam Phục kinh hãi quá, chẳng hiểu tại sao Tào nương lại chết bất thần như thế! Tam Phục vội sai bốn gia nhân tức tốc sang Sơn Đông báo tin cho Tào ông hay.
Bốn gia nhân tới nhà Tào ông, vào báo tin thì Tào ông kinh ngạc, nói: "Gia nữ hiện đang ở nhà đây, chứ ta có cho ai đưa nó sang bên ấy bao giờ đâu?" Bốn gia nhân nghe thấy thế thì chỉ biết giương mắt nhìn nhau, chẳng hiểu đầu đuôi câu chuyện ra sao.
Sáng sau, Diêu ông ra thăm mộ con thì thấy mộ con đã bị khai quật, quan tài bật nắp, xác con biến mất. Diêu ông kinh hãi quá, chẳng hiểu kẻ đào mộ con mình muốn cướp xác con mình để làm chi. Quanh quẩn bên mộ hồi lâu, Diêu ông đành ra về. Vừa về tới nhà thì lại nghe tin cô dâu mới của Tam Phục là Tào nương ở Sơn Đông, sáng qua vừa được bà vú đưa sang nhà Tam Phục thì tối qua đã bất thần lăn ra chết. Diêu ông liền tới nhà Tam Phục để viếng tang.
Thấy Diêu ông sang viếng tang, Tam Phục bèn dẫn vào phòng ngủ cho coi xác Tào nương. Vào phòng, Diêu ông giật mình kinh hãi vì thấy xác Tào nương chính là xác con gái mình. Diêu ông giận quá, chẳng nói chẳng rằng, vội bỏ về ngay, chẳng thèm chào Tam Phục lấy một lời. Tam Phục sững sờ kinh ngạc, chẳng hiểu đầu đuôi câu chuyện ra sao.
Về nhà, Diêu ông bèn làm đơn kiện Tam Phục về tội đã đào mả con mình, đem xác về nhà làm chuyện dâm ô. Quan tể bèn cho lính đi bắt Tam Phục tới huyện đường thẩm vấn. Tam Phục trình bày sự thực song quan chẳng tin vì Tam Phục đã nổi tiếng là một kẻ có nhiều thành tích vô hạnh ở trong vùng.
Thế rồi quan khép Tam Phục vào án tử hình.
Khiết tí đương thời cưỡng đế minh
Như hà ủy khí đẳng trần khinh
Kỳ kỳ quái quái tần tu oán
Bất sát hương khuê hận bất bình
Huyện Tấn Dương, tỉnh Sơn Tây, có công tử họ Nam, tên Tam Phục, thuộc dòng dõi thế gia, được dân chúng trong vùng nể trọng. Năm ấy, Tam Phục hai mươi bảy tuổi, góa vợ, chưa có con.
Tam Phục có một ngôi biệt thự ở cách tư thất chừng mươi dặm. Một sáng mùa hè, Tam Phục cưỡi ngựa đi thăm biệt thự. Đi được nửa đường, bỗng trời đổ mưa, Tam Phục bèn xuống ngựa, dắt vào đứng dưới mái cổng căn nhà bên đường để tránh mưa. Chủ nhà là một nông dân, nhận ra khách đứng ở ngoài ngõ là Tam Phục, vội giương dù chạy ra mời vào nhà ngồi chơi. Tam Phục nhận lời. Chủ nhà bèn buộc ngựa của Tam Phục vào cột cổng rồi cung kính che dù cho Tam Phục vào nhà.
Tam Phục thấy nhà nghèo lắm, chỉ có một phòng khách hẹp với hai phòng ngủ nhỏ. Chủ nhà mời Tam Phục ngồi, đi lấy nước rẩy sàn quét nhà cho khỏi bụi rồi pha trà nóng với mật ong, mời Tam Phục uống. Chủ nhà cứ đứng khoanh tay hầu chuyện Tam Phục cho tới khi Tam Phục bảo ngồi, chủ nhà mới dám ngồi.
Tam Phục hỏi: "Ông họ gì?" Chủ nhà đáp:"Tôi họ Đậu, tên Đình Chương" Hỏi:"Bà ấy đâu?" Đáp:"Tiện nội mất đã được ba năm rồi!" Hỏi: "Ông được mấy người con?" Đáp:"Tôi chỉ được một mụn con gái" Hỏi: "Tên chi?" Đáp:"Tiện nữ tên Tố Nga" Hỏi:"Bao nhiêu tuổi?" Đáp:"Tiện nữ mười lăm" Tam Phục cứ hỏi chuyện Đậu ông như thế. Chợt Đậu ông nói:"Chẳng mấy khi công tử tới tệ xá chơi, xin mời công tử ở lại dùng với tôi một bữa rượu!" Tam Phục nói:"Cũng được" Đậu ông bèn xin phép xuống bếp làm cơm.
Lát sau, Đậu ông bưng lên một mâm cơm với thịt gà và rượu, xin phép Tam Phục cho mình được ngồi đối ẩm, chuyện trò. Tam Phục gật đầu. Ăn xong, Đậu ông xuống bếp bảo con pha trà mới rồi lại trở lên tiếp khách.
Tố Nga đun nước sôi pha trà, bưng khay trà lên đặt ở cửa phòng khách rồi lại quay xuống bếp. Đậu ông ra cửa bưng khay trà vào mời Tam Phục. Tuy chỉ nhìn thấy nửa người Tố Nga thấp thoáng ngoài cửa, song Tam Phục cũng biết là Tố Nga đẹp lắm và có mái tóc xõa xuống hai vai. Trời tạnh mưa, Tam Phục xin cáo biệt.
Về nhà, Tam Phục thấy hình bóng Tố Nga cứ lởn vởn trong đầu rồi thấy lòng mình xao xuyến. Hôm sau, Tam Phục sai gia nhân đem gạo và lụa tới biếu Đậu ông để đáp l. Từ đó, cứ ba ngày một lần, Tam Phục lại sai gia nhân đem rượu thịt tới nhà Đậu ông để mình tới đối ẩm, chuyện trò. Lâu dần, Tam Phục với Đậu ông trở thành bạn thân. Vì thế, Tố Nga cũng dạn dần, chẳng còn phải tránh né Tam Phục như trước nữa. Mỗi lần cha gọi pha trà, Tố Nga đã dám bưng thẳng khay trà vào phòng khách. Thấy Tố Nga, Tam Phục cứ ngây người ra ngắm. Bắt gặp Tam Phục ngắm mình, Tố Nga chỉ mỉm cười.
Một hôm, Tam Phục tới gõ cổng nhà Đậu ông để vào thăm. Tố Nga ra mở. Tam Phục hỏi:"Lệnh tôn có nhà không?" Tố Nga đáp:"Gia nghiêm vừa đi vắng!" Hỏi:"Bỉ nhân có thể vào nhà ngồi chờ được không?"Đáp:"Xin mời công tử vào!" Tam Phục bèn vào ngồi ở phòng khách. Tố Nga vào nhà trong, thầm mong cha chóng về tiếp khách.
Chờ mãi chẳng thấy cha về, Tố Nga ngại cho khách phải ngồi lâu, bèn đánh bạo bước ra, thay cha tiếp khách. Tam Phục lợi dụng thời cơ, nắm lấy cổ tay Tố Nga, buông lời chọc ghẹo. Tố Nga ngượng quá, nghiêm sắc mặt, nói: "Nhà thiếp tuy nghèo song cha con thiếp chẳng chịu để cho ai làm nhục cả! Xin công tử chớ cậy mình giàu có mà làm nhục thiếp! Gia nghiêm muốn thiếp phải đứng đắn để lấy được một tấm chồng tử tế!" Tam Phục hoảng sợ, vội chắp tay xin lỗi, nói: "Vì bỉ nhân thành tâm muốn được tiểu nương để ý nên mới trót xúc phạm, mong tiểu nương thứ lỗi cho! Bỉ nhân đã hết tang tiện nội, nay muốn xin cưới tiểu nương về làm kế thất! Nếu tiểu nương ưng thuận thì bỉ nhân sẽ nhờ người tới thưa chuyện với lệnh tôn, khỏi phải nhờ người đi kiếm giùm đám khác!" Tố Nga tỏ vẻ nghi ngờ, nói: "Thiếp thấy khó lòng mà tin được lời công tử! Công tử là con nhà dòng dõi thế gia, khi nào lại chịu đi cưới con gái một gia đình nông dân như thiếp?" Tam Phục nói: "Nếu tiểu nương chẳng tin thì bỉ nhân xin thề độc!" Tố Nga mỉm cười, nói: "Công tử cứ thử thề độc cho thiếp coi xem công tử thề độc tới mức nào?" Tam Phục bèn thề: "Bỉ nhân là Nam Tam Phục, thề sẽ hỏi cưới tiểu nương Đậu Tố Nga làm kế thất, xin quỷ thần chứng giám. Nếu sau này, bỉ nhân bội lời thề này thì xin quỷ thần cứ xử bỉ nhân tội chết!" Thấy lời thề độc, Tố Nga mỉm cười tin tưởng, rồi để mặc cho Tam Phục muốn làm chi thì làm. Tam Phục bèn bồng Tố Nga vào phòng trong mà ân ái. Khi Tam Phục từ biệt Tố Nga, Đậu ông vẫn chưa về.
Từ đó, ngày nào Tam Phục cũng sai gia nhân tới ngõ nhà Đậu ông rình lén. H thấy Đậu ông vừa ra khỏi cổng là gia nhân lại chạy về báo để Tam Phục cưỡi ngựa sang ân ái với Tố Nga.
Mười tháng sau. Một hôm Tố Nga giục Tam Phục: "Công tử cứ lén lút với thiếp mãi như thế này thì chẳng phải là kế lâu dài. Công tử đã thuận cho thiếp được núp bóng thì xin công tử hãy chính thức hỏi cưới thiếp ngay đi! Công tử mà hỏi thì chắc chắn là gia nghiêm sẽ gả ngay chứ chẳng thể nào từ chối, vì chẳng ai có thể đem lại vinh dự cho gia đình thiếp như công tử được! Xin công tử hãy xúc tiến việc cưới hỏi gấp cho, chớ để thiếp phải lo lắng mãi!" Tam Phục gật đầu.
Tối ấy, về nhà, Tam Phục lại nghĩ là mình dòng dõi thế gia, chẳng thể nào hỏi cưới con gái một gia đình nông dân được. Vì thế, hôm sau Tam Phục kiếm cớ nói quanh với Tố Nga để trì hoãn việc cưới hỏi, rồi nhờ bà mối để ý kiếm cho mình một nơi môn đăng hộ đối.
Tháng sau. Một hôm bà mối tới nhà Tam Phục, nói: "Lão thân đã kiếm được cho công tử một đám đăng đối rồi!" Tam Phục hỏi: "Đám nào?" Đáp: "Tô tiểu thư, ái nữ của Tô công!" Hỏi:"Tô công là ai?" Đáp: "Công tử chẳng biết sao? Tô công, quán tại vùng này, được triều đình bổ nhậm đi làm quan tể ở xa, nay mới hồi hưu!" Thấy Tam Phục có vẻ còn trù trừ chưa quyết, bà mối liền tiếp: "Tô tiểu thư đẹp lắm! Sắc nước hương trời, ai nhìn thấy cũng phải mê! Còn Tô công thì giàu có lắm, hứa với ái nữ rằng khi nào vu quy, sẽ cho ngàn vàng làm của hồi môn!" Nghe thấy thế, Tam Phục bèn quyết định nhờ bà mối đi hỏi Tô thị cho mình. Bà mối tới thưa chuyện với Tô công. Tô công ưng thuận, hẹn năm sau cho nghênh hôn.
Một hôm, Đậu ông đi vắng, Tam Phục lại tới nhà ân ái với Tố Nga. Tố Nga nói: "Thiếp muốn nói với công tử một việc quan trọng!" Tam Phục hỏi: "Việc gì?" Đáp: "Thiếp đã mang thai với công tử. Xin công tử hãy xúc tiến việc cưới hỏi gấp cho!" Tam Phục chỉ ậm ừ rồi ra về. Từ hôm ấy, Tam Phục biệt tăm, chẳng bén mảng tới nhà Đậu ông nữa.
Đậu ông thấy bụng con gái mình mỗi ngày một lớn thì tra hỏi. Tố Nga thú thực. Đậu ông bèn nhờ bà mối tới hỏi Tam Phục cho rõ thực hư. Tam Phục chối, nói: "Nếu cô ta mang thai thì bào thai trong bụng cô ta là của đàn ông nào đó chứ đâu có phải là của tôi?" Bà mối về thuật lại. Nghe thấy thế, Đậu ông giận quá, lấy roi đánh con. Tố Nga uất ức lắm song cũng đành chịu, chẳng biết phải biện bạch với cha như thế nào để cho cha tin mình.
Sáu tháng sau. Một chiều đông, Tố Nga sanh con trai. Tối ấy, Tố Nga mệt mỏi, nằm ngủ thiếp đi. Thấy thế, Đậu ông vội vùng dậy, bế đứa cháu đem ra sau nhà, vứt vào thùng rác. Tỉnh giấc, Tố Nga thấy mất con thì biết ngay là con mình đã bị ông ngoại vứt đi, nên lẻn ra vườn sau tìm con. Thấy con nằm trong thùng rác, vẫn còn sống, Tố Nga vội ẵm ra, chạy sang nhà Chương bà ở hàng xóm phía đông, xin ngủ nhờ.
Sáng sau, Tố Nga nhờ Chương bà tới thuật chuyện cho Tam Phục nghe. Nghe xong, Tam Phục cứ lờ đi, chẳng nói năng chi. Thấy vậy, Chương bà nói: "Cô Tố Nga nhờ tôi nhắn với công tử rằng cô ta chẳng xin công tử cưới cô ta đâu mà chỉ xin công tử nhận đứa bé, đem về nuôi thôi!" Tam Phục tỏ vẻ bực mình, nói: "Bà đừng nói nữa! Bà hãy về đi! Đứa bé ấy đâu có phải là con của tôi?" Chương bà đành về nói lại cho Tố Nga nghe.
Tố Nga bế con tới thẳng nhà Tam Phục, xin vào gặp mặt. Người canh cổng không cho vào. Tố Nga nói: "Đứa bé này là con của chủ ông! Nếu ông không cho tôi vào thì nhờ ông vào nói với chủ ông rằng tôi chẳng cần chủ ông phải cưới tôi làm vợ song đứa bé này là con của chủ ông, chẳng lẽ chủ ông lại nỡ để cho nó bị chết đói chết rét hay sao?" Người canh cổng vào trình lại với Tam Phục. Tam Phục nói: "Ra bảo nó bế con cút đi! Nếu nó không chịu đi thì cứ để mặc nó ngồi ở ngoài ngõ chứ không được cho vào trong nhà!" Người canh cổng vâng dạ rồi ra nói lại. Tố Nga cương quyết không đi, cứ ngồi lỳ ở ngoài ngõ, ôm con mà khóc. Tới tối, rồi tới khuya, đói chẳng có chi ăn, rét chẳng có chi đắp. Sáng sau, người canh cổng ra mở cổng thì thấy cả hai mẹ con đều đã chết cóng. Xác Tố Nga ngồi tựa vào thành cổng, hai tay còn ẵm đứa con ở trong lòng. Tam Phục nghe tin, liền sai gia nhân chạy đi báo cho Đậu ông hay. Đậu ông vừa kinh hãi vừa phẫn uất, vội chạy tới đem xác hai mẹ con về, mua quan tài chôn cất.
Hôm sau, Đậu ông làm đơn kiện Tam Phục, đem lên nạp ở huyện đường. Quan tể đọc đơn, sai lính đi bắt Tam Phục vào huyện đường. Quan hỏi: "Đứa bé ấy có phải là con của nhà ngươi không?" Tam Phục chối, đáp: "Bẩm đại quan, không!" Quan bèn cho điều tra. Nha lại phúc trình rằng đứa bé ấy đúng là con của Tam Phục. Quan bèn kết tội Tam Phục bất nghĩa, xử phạt mười năm tù ở. Tam Phục vội nhờ người đem vàng tới hối lộ quan. Quan nhận hối lộ rồi tha bổng Tam Phục.
Đêm ấy, Tô công nằm mộng thấy một thiếu nữ, tay ẵm con, đầu xõa tóc, tới nhà mình, nói: "Tiểu nữ là Đậu Tố Nga, bị tên Nam Tam Phục dụ dỗ cho y ân ái thì y sẽ cưới làm kế thất. Nay tiểu nữ đã có con với y thì y lại hắt hủi cả hai mẹ con để đến nỗi hai mẹ con cùng bị chết cóng. Y lại nhờ bà mối đi hỏi cưới lệnh ái và đã được tôn ông ưng thuận. Bây giờ, xin tôn ông hãy từ hôn với y để tránh cho lệnh ái khỏi bị ải tử. Nếu tôn ông chẳng tin lời tiểu nữ thì sau này xin tôn ông chớ oán trách là tiểu nữ chẳng có lời báo trước!" Nói xong, thiếu nữ biến mất. Tỉnh giấc, Tô công lo sợ lắm, toan từ hôn với Tam Phục nhưng rồi thấy Tam Phục giàu có nên lại nổi lòng tham, cho rằng mộng mị chỉ là chuyện hão huyền. Vì thế, Tô công vẫn quyết định gả con gái cho Tam Phục.
Tới ngày nghênh hôn, Tam Phục thấy Tô thị mi thanh mục tú, có ngàn vàng hồi môn thì mừng lắm. Tuy nhiên, trong suốt ngày cưới, Tam Phục thấy Tô thị lúc nào cũng âu sầu buồn bã thì lại rất ngạc nhiên. Tới tối, khi động phòng hoa chúc, Tam Phục thấy Tô thị cứ ứa nước mắt khóc, bèn hỏi: "Từ sáng tới giờ, lúc nào ta cũng thấy nàng âu sầu buồn bã! Rồi bây giờ lại khóc là nghĩa làm sao?" Tô thị chẳng đáp, làm Tam Phục càng ngạc nhiên. Thế rồi Tam Phục thấy Tô thị cương quyết chẳng chịu thân thiết với mình. Tam Phục bắt đầu linh cảm thấy một điều chi bất tường nên rất bồn chồn.
Tháng sau, Tô công tới nhà con rể thăm con gái. Người canh cổng mở cổng mời vào, rồi chạy vào báo tin cho chủ biết. Từ cổng vào nhà có hai ngả, ngả trước xuyên qua vườn hoa, ngả sau xuyên qua vườn đào. Tô công theo ngả sau mà vào. Khi xuyên qua vườn đào, chợt nhìn thấy một thiếu nữ treo cổ trên cành, dáng dấp trông giống con mình, Tô công kinh hãi quá, vội chạy tới để coi thì thấy đúng là con mình. Tô công cực kỳ hoảng sợ, vội chạy vào phòng khách để tìm con rể song lại chạy lạc vào phòng ngủ. Thấy một thiếu nữ lạ ngồi trên giường của con gái mình, Tô công vừa sợ vừa giận, vội quay người chạy ra. Tam Phục ngồi trong phòng khách chờ nhạc phụ. Thấy nhạc phụ chạy vào phòng ngủ, Tam Phục ngạc nhiên, vội chạy vào theo. Vừa tới cửa phòng ngủ thì thấy nhạc phụ từ trong phòng chạy ra, Tam Phục càng ngạc nhiên hơn. Tam Phục toan lên tiếng hỏi thì chợt thấy nhạc phụ lên tiếng quát: "Ta vào đây qua ngả vườn đào, thấy vợ anh treo cổ chết trên cành! Anh làm chi mà để cho nó phải tự ải? Còn thiếu nữ đang ngồi trên giường kia là ai?" Tam Phục chẳng hiểu đầu đuôi sự thể ra sao nên cực kỳ hoảng hốt, luýnh quýnh la lên: "Trời ơi! Sao lại có chuyện lạ thế này? Nhạc phụ để con coi xem!" Rồi tới gần giường xem thiếu nữ là ai thì bỗng thấy thiếu nữ ngã lăn xuống đất mà chết. Tam Phục nhìn kỹ thì nhận ra là xác Tố Nga. Tô công tới gần, hỏi: "Thiếu nữ này là ai?" Tam Phục đành phải thú thực mọi chuyện với nhạc phụ. Thấy xác Tố Nga phảng phất giống thiếu nữ trong giấc mộng đêm nọ, Tô công vừa căm tức Tam Phục lại vừa hối hận là đã gả con gái cho Tam Phục. Vì thế, Tô công lẳng lặng bỏ về.
Tam Phục nhờ người lên huyện đường trình quan tể về việc vợ mình tự ải và xin được phép mai táng. Mặt khác, Tam Phục sai gia nhân đi báo cho Đậu ông biết về việc xác Tố Nga đang ở nhà mình. Đậu ông nửa tin nửa ngờ, chạy ra mộ con coi thì quả nhiên thấy mộ con đã bị đào tung, quan tài bật nắp, xác con biến mất. Đậu ông bèn sang nhà Tam Phục xin xác con, đem ra mộ chôn lại.
Đậu ông đang phẫn uất về việc con mình bị chết oan, nay lại thấy xảy ra vụ này thì cho là Tam Phục đã dàn cảnh để làm chuyện dâm ô. Bèn lại làm đơn kiện Tam Phục, nạp quan tể. Quan thấy chuyện hoang đường, chưa biết xử ra sao. Tam Phục sợ quá, lại lấy vàng nhờ người đem hối lộ. Quan nhận hối lộ rồi dẹp vụ án. Tam Phục cũng sai gia nhân đem chút tiền bạc tới biếu Đậu ông để cho câu chuyện được êm xuôi.
Từ đó, tự nhiên nhà Tam Phục cứ suy dần, tiền vào thì ít, tiền ra thì nhiều. Năm sau, Tam Phục nhờ bà mối đi kiếm vợ khác cho mình. Bà mối kiếm mãi chẳng được vì người nào trong vùng cũng đều biết chuyện Tam Phục, chẳng ai chịu gả con gái cho. Bà mối bèn tới nói với Tam Phục: "Bây giờ trong vùng này chẳng ai dám gả con gái cho công tử nữa! Nếu công tử muốn hỏi vợ thì phải đi hỏi ở xa. Lão thân biết một đám ở xa, đăng đối với công tử lắm, song chẳng biết công tử có thuận chăng?" Tam Phục hỏi: "Đám nào?" Đáp: "Tào nương, con gái của Tào tiến sĩ!" Hỏi: "Ở tận đâu?" Đáp:"Ở Sơn Đông! Nếu công tử thuận thì lão thân sẽ sang đó hỏi!" Tam Phục chẳng muốn cưới vợ ở xa song vì thấy chẳng còn nơi nào ở gần chịu gả con gái cho mình nên đành ưng thuận. Bà mối bèn sang Sơn Đông hỏi Tào nương cho Tam Phục. Khi về, bà mối tới nói với Tam Phục:"Tào ông đã bằng lòng gả Tào nương cho công tử, hẹn ba tháng nữa sẽ cho nghênh hôn!" Tam Phục bèn nhờ bà mối đem sính l sang Sơn Đông.
Hai tháng sau. Trong dân gian có tin đồn triều đình sắp ra lệnh bắt cung nữ ở các địa phương. Vì thế, nhà nào có con gái đã hứa hôn cũng cho người đưa con về nhà chồng ngay, chẳng cần đợi ngày cưới.
Trong làng của Tam Phục có một vị cử nhân họ Diêu, gia pháp rất nghiêm, có cô con gái tên Tố Tố. Tuy Tam Phục giao du với Diêu ông song vẫn chưa được biết mặt Tố Tố. Một hôm, Tam Phục chợt nghe tin Tố Tố vừa bị bạo bệnh mà thác, liền tới nhà Diêu ông để viếng tang. Tới nơi, Tam Phục thấy linh cữu Tố Tố đã được đậy nắp, đặt giữa phòng khách. Viếng tang xong, Tam Phục xin cáo biệt. Hôm sau, Diêu ông làm l mai táng cho con.
Cũng ngày hôm ấy, Tam Phục đang ngồi trong phòng khách thì chợt thấy người canh cổng chạy vào báo có xe ngựa của Tào ông cho đưa Tào nương sang. Tam Phục vội bảo người canh cổng ra mở cổng mời vào. Xa phu vừa cho xe vào đậu trước cửa phòng khách thì từ trên xe có một bà vú bước xuống, đỡ một thiếu nữ xuống theo, dắt vào phòng. Bà vú chào Tam Phục, nói: "Thưa công tử, triều đình đang ra lệnh bắt cung nữ ở Sơn Đông gấp lắm. Vì thế, Tào ông nhà lão tì quyết định sai lão tì đưa Tào nương sang đây với công tử ngay, chẳng thể chờ ngày cưới được!" Tam Phục thấy ngoài xa phu ra, chỉ có cô dâu với bà vú nên cũng nghi ngờ, hỏi: "Tại sao lại chỉ có một mình lão bà đưa dâu sang? Chẳng có khách khứa nào đi đưa dâu hay sao?" Bà vú cười, đáp: "Thưa công tử có chứ! Xe cô dâu chạy trước, chở đầy quần áo, nữ trang và của hồi môn nên chẳng còn chỗ trống cho khách đưa dâu ngồi. Khách ngồi trên ba xe sau, cũng sắp tới rồi!" Bà vú bèn ra bảo xa phu khuân mấy rương quần áo, nữ trang và của hồi môn của cô dâu vào phòng khách rồi dặn dò cô dâu mấy lời. Xong, bà vú chắp tay vái chào Tam Phục rồi xin phép lên xe. Xa phu liền phóng xe ra khỏi cổng. Tam Phục ngắm nhìn Tào nương, thấy cũng xinh đẹp, bèn tới gần trêu ghẹo, đùa cợt chớt nhả. Tào nương nghiêm nét mặt, nói: "Thiếp đi đường xa mệt mỏi, xin tân lang cho thiếp được vào phòng nằm nghỉ một lát. Tới tối, thiếp sẽ xin hầu tiếp tân lang!" Tam Phục bèn dẫn Tào nương vào phòng ngủ. Tào nương liền cởi bỏ nữ trang, quần áo, rồi lên giường nằm. Thấy điệu bộ của Tào nương giống hệt điệu bộ của Tố Nga, Tam Phục đã cảm thấy chẳng vui, song chưa tiện hỏi. Chợt thấy Tào nương kéo chăn trùm kín đầu để ngủ, Tam Phục hỏi: "Nàng trùm kín đầu như thế thì làm sao mà thở?" Tào nương đáp: "Thiếp có thói quen này từ hồi còn nhỏ, xin tân lang chớ để tâm!" Tam Phục bèn bỏ ra phòng khách, chờ đón ba xe khách đưa dâu.
Chờ đến tối cũng chẳng thấy chi, Tam Phục sinh nghi, bèn chạy vào phòng ngủ hỏi Tào nương. Thấy Tào nương vẫn còn trùm chăn kín đầu, Tam Phục liền lớn tiếng gọi: "Nàng nằm nghỉ đã thấy đỡ mệt chưa? Dậy đi cho ta hỏi một câu!" Chẳng thấy tiếng đáp, Tam Phục bèn chạy tới giường lật chăn ra coi thì thấy Tào nương đã tắt thở. Tam Phục kinh hãi quá, chẳng hiểu tại sao Tào nương lại chết bất thần như thế! Tam Phục vội sai bốn gia nhân tức tốc sang Sơn Đông báo tin cho Tào ông hay.
Bốn gia nhân tới nhà Tào ông, vào báo tin thì Tào ông kinh ngạc, nói: "Gia nữ hiện đang ở nhà đây, chứ ta có cho ai đưa nó sang bên ấy bao giờ đâu?" Bốn gia nhân nghe thấy thế thì chỉ biết giương mắt nhìn nhau, chẳng hiểu đầu đuôi câu chuyện ra sao.
Sáng sau, Diêu ông ra thăm mộ con thì thấy mộ con đã bị khai quật, quan tài bật nắp, xác con biến mất. Diêu ông kinh hãi quá, chẳng hiểu kẻ đào mộ con mình muốn cướp xác con mình để làm chi. Quanh quẩn bên mộ hồi lâu, Diêu ông đành ra về. Vừa về tới nhà thì lại nghe tin cô dâu mới của Tam Phục là Tào nương ở Sơn Đông, sáng qua vừa được bà vú đưa sang nhà Tam Phục thì tối qua đã bất thần lăn ra chết. Diêu ông liền tới nhà Tam Phục để viếng tang.
Thấy Diêu ông sang viếng tang, Tam Phục bèn dẫn vào phòng ngủ cho coi xác Tào nương. Vào phòng, Diêu ông giật mình kinh hãi vì thấy xác Tào nương chính là xác con gái mình. Diêu ông giận quá, chẳng nói chẳng rằng, vội bỏ về ngay, chẳng thèm chào Tam Phục lấy một lời. Tam Phục sững sờ kinh ngạc, chẳng hiểu đầu đuôi câu chuyện ra sao.
Về nhà, Diêu ông bèn làm đơn kiện Tam Phục về tội đã đào mả con mình, đem xác về nhà làm chuyện dâm ô. Quan tể bèn cho lính đi bắt Tam Phục tới huyện đường thẩm vấn. Tam Phục trình bày sự thực song quan chẳng tin vì Tam Phục đã nổi tiếng là một kẻ có nhiều thành tích vô hạnh ở trong vùng.
Thế rồi quan khép Tam Phục vào án tử hình.
MẸ TRẺ DẠY CON HƯ
(truyện TẾ LIỄU)
Thái tức Cao lang thọ bất cao
Khổ đàn tâm lực vị nhi tào
Ân uy tịnh dụng vô kỳ thị
Phú quý vô vong mẫu thị lao
Huyện Bình Diêu, tỉnh Sơn Tây, có thày đồ họ Triệu, tên Thành Long, có một gái, tên Thường Nga. Vì Thường Nga có eo thon nhỏ, dễ thương, nên dân làng thường gọi đùa bằng lộng danh Tế Liễu (Liễu Nhỏ).
Tế Liễu thực thà chất phác, nói chẳng dư lời, đặc biệt là chẳng nói xấu ai bao giờ. Vì tư chất thông minh lại được cha chỉ dạy nên Tế Liễu rất giỏi văn chương. Tế Liễu ưa đọc sách tướng số, thích xem tướng cho người.
Năm mười ba tuổi, có đám tới hỏi, xin cưới. Triệu bà hỏi ý, Tế Liễu đòi xem mặt, rồi chê xấu tướng, chẳng ưng. Trong sáu năm liền, đám nào tới hỏi, cũng xin xem mặt, rồi chê xấu tướng, chẳng ưng đám nào. Triệu bà giận lắm, nói:"Ai tới hỏi, cũng chê xấu tướng thì định ở vậy tới già hay sao?" Tế Liễu đáp:"Muốn lấy chí người thắng số trời, song số trời mạnh hơn, chẳng sao thắng nổi. Những đám đã tới hỏi đều thấy chẳng vừa ý. Thôi! Từ nay xin để tùy ý cha mẹ!"
Trong huyện, có nho sinh họ Cao, tên Trường Lộc, con nhà dòng dõi, nổi tiếng danh sĩ. Năm mười tám tuổi, Trường Lộc cưới vợ. Năm sau, vợ sanh con trai, đặt tên Trường Phúc. Bốn năm sau, vợ bị bạo bệnh rồi mất. Năm ấy, Trường Lộc hết tang vợ, nhờ bà mối tới hỏi Tế Liễu cho mình làm vợ kế.
Bà mối tới nhà họ Triệu, nói chuyện. Triệu bà gọi Tế Liễu ra, hỏi mát:"Có đám nhà họ Cao tới hỏi, có ưng không hay lại cần phải xem tướng trước đã?" Tế Liễu đáp: "Đã xin thưa là để tùy ý cha mẹ!" Ông bà Triệu bèn nhận lời gả, rồi tháng sau, cho cưới.
Cưới xong, hai vợ chồng rất tương đắc.
Năm ấy, Trường Phúc lên năm. Vì mẹ đẻ đã mất nên quấn quýt mẹ kế, đi đâu cũng đòi đi theo. Không cho đi thì khóc thất thanh, chẳng chịu nín. Tế Liễu trông nom, nuôi nấng rất chu đáo.
Năm sau, Tế Liễu sanh trai, tự đặt tên con là Trường Hỗ. Chồng hỏi:"Trường Hỗ có nghĩa gì?" Tế Liễu đáp:"Chẳng có nghĩa gì cả, chợt nghĩ ra thì đặt thế thôi!" Hỏi:"Mai sau, mong gì ở con?" Đáp:"Chỉ mong con ở gần mình lúc tuổi già" Chồng cười.
Vì là nho sinh nên tuy có chút ruộng đất của cha mẹ để lại song Trường Lộc chỉ biết giữ sổ chi thu, còn canh tác thì phải thuê người. Vì chi tiêu bừa bãi nên bị thiếu hụt luôn, năm nào cũng nạp thuế trễ cho huyện.
Từ ngày về nhà chồng, Tế Liễu chỉ giở sổ chi thu ra coi có một lần. Một hôm, Trường Lộc để sổ lẫn trong đống sách rồi quên đi. Lúc cần sổ để trả công thợ, tìm mãi chẳng thấy. Đang lúng túng chẳng biết phải làm thế nào thì Tế Liễu tới đọc vanh vách từng khoản chi thu trong sổ cho nghe. Ai hiện diện cũng phải kinh ngạc. Tế Liễu bèn nói với chồng:"Xin để cho thiếp trông nom công việc cầy cấy, giữ sổ chi thu trong một năm, xem có làm nổi không?" Trường Lộc cười rồi thuận cho.
Nửa năm sau, thấy vợ trông nom công việc còn giỏi hơn mình, Trường Lộc phục lắm.
Một hôm, giữa mùa thuế, Trường Lộc sang hàng xóm uống rượu. Ở nhà, lính huyện tới đòi thuế, đập cổng ầm ầm. Tế Liễu sai con ở ra khất, nói hôm sau sẽ xin đem thuế lên huyện nạp. Lính chẳng chịu đi, cứ đứng ở cổng quát tháo ầm ĩ. Tế Liễu phải sai tiểu đồng chạy sang hàng xóm mời chồng về. Trường Lộc về, khất với lính thì lính chịu đi. Trường Lộc cười, nói:"Chắc bây giờ nàng mới biết đàn bà thông minh cũng chẳng bằng đàn ông ngu dốt phải không?" Tế Liễu bật khóc. Trường Lộc sợ quá, vội an ủi vợ. Tế Liễu nín, song vẫn buồn. Trường Lộc nói:"Ta thương nàng lắm! Đàn bà mà phải trông nom cả công việc cầy cấy lẫn giữ sổ sách chi thu thì vất vả quá. Thôi để ta trông nom cho!" Tế Liễu chẳng nghe, đáp:"Xin cứ để cho thiếp trông nom thêm một năm nữa xem sao!" Trường Lộc cười, nói:"Tùy ý nàng!"
Tế Liễu thức khuya, dậy sớm, làm lụng chăm chỉ, một mình quán xuyến mọi gia vụ, chẳng để chồng phải nhúng tay. Vì thế, Trường Lộc thầm cám ơn vợ.
Năm sau, Tế Liễu dành riêng tiền thuế một nơi rồi tới ngày đáo hạn, bảo chồng đem lên huyện nạp. Vì thế, nhà chẳng còn bị lính tới đòi thuế nữa. Trường Lộc càng phục vợ.
Tế Liễu dự trù mọi món chi thu cho gia đình đâu vào đấy nên gia đình mỗi ngày một đỡ túng thiếu. Chồng mừng lắm, chỉ việc ăn chơi, ngâm vịnh.
Trường Lộc thường cùng vợ bàn chuyện văn chương, rất tương đắc. Một hôm, Trường Lộc đùa vợ, ra câu đối:"Liễu Nhỏ, sao nhỏ thế! Mày nhỏ, eo nhỏ, gót sen nhỏ, lại mừng lo toan thậm nhỏ" Tế Liễu ứng khẩu, đối: "Chàng Cao, quả là cao! Phẩm cao, chí cao, chữ nghĩa cao, những mong tuổi thọ tột cao"
Một hôm, Tế Liễu đi qua tiệm bán quan tài trong làng. Thấy trong tiệm có một cỗ quan tài rất đẹp, Tế Liễu vào hỏi giá thì chủ tiệm nói giá quá cao. Thấy mình chẳng đủ tiền mua, Tế Liễu bèn về bàn với chồng cho mình đi vay mượn để mua. Trường Lộc can, nói:"Vợ chồng mình còn trẻ, đâu đã cần phải dùng tới quan tài?" Tế Liễu nói:"Xin cứ để cho thiếp được tự quyền định liệu!" Trường Lộc liền ưng thuận. Tế Liễu bèn đi vay mượn để mua, rồi thuê người khiêng về, cất kỹ vào kho.
Năm sau, phú ông họ Tiền trong làng qua đời. Gia nhân nhà phú ông nghe nói Tế Liễu có mua được một cỗ quan tài rất đẹp, bèn tới gặp Trường Lộc, xin mua lại với giá gấp đôi. Trường Lộc thấy lãi quá, bèn vào nhà trong, nói với vợ:"Mua một mà bán được hai thì lãi quá rồi! Bán đi để lấy tiền mà chi tiêu! Lúc nào gặp dịp, sẽ mua cỗ khác!" Tế Liễu đáp:"Thiếp chẳng muốn bán!" Trường Lộc hỏi:"Lãi nhiều như thế, sao chẳng chịu bán?" Tế Liễu lặng im, không đáp. Trường Lộc hỏi:"Sao không trả lời?" Tế Liễu chỉ rưng rưng nước mắt. Trường Lộc lấy làm lạ song vì không muốn làm buồn lòng vợ nên ra phòng khách, nói rằng vợ mình chẳng muốn bán. Gia nhân nhà phú ông đành ra về.
Năm sau. Nhân lễ sinh nhật thứ 25 của chồng, Tế Liễu nói: "Năm nay vận hạn chàng xấu lắm, chỉ nên ở nhà, chẳng nên đi xa" Trường Lộc cười, nói: "Vận hạn xấu thì ở nhà cũng đâu có tốt ra được?" Tế Liễu lại rưng rưng nước mắt. Trường Lộc vội an ủi vợ, song Tế Liễu vẫn chẳng vui. Ngày nào Trường Lộc cũng cưỡi ngựa tới nhà bạn bè, yến ẩm, ngâm vịnh thơ phú. Bữa nào thấy chồng chậm về, Tế Liễu cũng sai tiểu đồng đi tìm ở khắp mọi nhà quen. Bạn bè thấy thế, thường đem chuyện ấy ra chế giễu Trường Lộc để cười đùa với nhau.
Ba tháng sau, một hôm Trường Lộc cưỡi ngựa tới nhà bạn dự tiệc. Đang uống rượu, bỗng thấy trong người khó chịu, bèn xin phép ra về. Dọc đường, bị xây xẩm mặt mày rồi ngã từ trên mình ngựa xuống đất mà chết. Người làng tới báo tin. Tế Liễu òa lên khóc rồi thuê người theo mình đi khiêng xác chồng về khâm liệm.
Sáng sau, người làng tới phúng điếu thì thấy xác Trường Lộc đã được đặt nằm trong cỗ quan tài đẹp. Lúc đó, họ mới phục tài tiên tri của Tế Liễu.
Chồng chết, một mình Tế Liễu vừa phải trông nom công việc làm ăn, vừa phải dạy dỗ con cái.
Ba năm sau, Trường Phúc lên 10. Đầu mùa thu, Tế Liễu cho đi học. Vì cha chết, Trường Phúc chẳng sợ mẹ kế nên thường trốn học để đi theo trẻ chăn trâu. Tế Liễu la mắng thế nào, Trường Phúc cũng chẳng nghe. Dùng roi vọt, vẫn chứng nào tật nấy. Tế Liễu bèn đổi cách dạy con, gọi lên, ôn tồn nói:"Không muốn đi học nữa thì thôi, chẳng ai ép! Tuy nhiên, nhà nghèo, chẳng thể ăn không ngồi rồi được, phải theo gia nhân đi làm. Nếu chẳng nghe, bị đánh đòn, đừng có oán!" Nói xong, bắt cởi quần áo lành, mặc quần áo rách, đi chăn heo. Chăn heo về, bắt rửa nồi, nấu cháo, ngồi ăn với gia nhân.
Ba hôm sau, Trường Phúc thấy mình khổ cực quá, bèn lên gặp mẹ, quỳ xuống đất, thưa:"Con xin đi học lại!" Tế Liễu quay mặt đi, không đáp. Chẳng biết làm thế nào, Trường Phúc đành sụt sùi, quay xuống bếp, tiếp tục nấu cháo, chăn heo. Hết thu sang đông, thân không áo ấm, chân không giày lành, mưa dầm ướt át, co đầu rụt cổ, trông tựa ăn mày. Người làng trông thấy, ai cũng thương con, trách mẹ. Đàn ông trong làng, ai có vợ kế cũng đem chuyện Tế Liễu ra để làm gương răn vợ. Phong thanh nghe thấy lời người làng chê trách, Tế Liễu cứ bỏ mặc ngoài tai, giả vờ như chẳng biết.
Một hôm, Trường Phúc dắt đàn heo đi chăn, thấy mình khổ cực quá, bèn bỏ mặc đàn heo, trốn đi mất tích. Tế Liễu nghe tin, cũng cứ lờ đi, chẳng hỏi han gì.
Ba tháng sau, người làng thấy Trường Phúc rách rưới, thân hình tiều tụy, ốm nhom ốm nhách, ăn mày dọc đường, mon men về nhà. Tới cổng, Trường Phúc chẳng dám vào nhà mà sang nhờ Thái bà ở hàng xóm phía đông sang xin giùm mẹ mình cho mình về. Thái bà thương hại, sang xin giùm. Tế Liễu nói:"Nhờ bà về bảo nó, liệu sức có chịu nổi trăm roi thì hãy xin về! Bằng không, hãy tìm nẻo khác mà đi!" Thái bà về lập lại. Trường Phúc nghe xong, vội chạy vụt về nhà, vào gặp mẹ, òa lên khóc, thưa:"Xin chịu trăm roi!" Tế Liễu hỏi:"Đã hối hận chưa?" Trường Phúc đáp:"Đã hối hận rồi!" Nói:"Đã hối hận rồi thì còn đánh làm chi? Bây giờ, hãy xuống bếp nấu cháo, rồi đi chăn heo! Lần này mà còn trốn nữa thì sẽ cấm cửa, chẳng cho về!" Trường Phúc òa lên khóc, thưa:"Xin đánh trăm roi rồi cho đi học lại!" Tế Liễu nghiêm nét mặt, nói: "Không được!" Trường Phúc lại òa lên khóc, chạy sang nhờ Thái bà. Thái bà thương hại, lại dắt về xin giùm. Tế Liễu nói:"Cho nó đi học, thế nào rồi nó cũng lại trốn đi chơi!" Thái bà nói:"Chắc nó chẳng dám thế nữa đâu!" Tế Liễu hỏi:"Sao bà biết?" Thái bà đáp:"Tôi xin bảo đảm" Tế Liễu nói:"Nể lời bà, tôi cho nó về đi học lại, nhưng trước hết nó phải quỳ xuống đất, lạy tạ bà đi đã!" Trường Phúc vội quỳ ngay xuống đất, lạy tạ Thái bà. Thái bà phải đứng im nhận lạy, chẳng dám né tránh vì sợ Tế Liễu không cho con đi học lại. Thái bà cáo biệt. Tế Liễu bắt Trường Phúc đi tắm gội sạch sẽ, cho mặc quần áo mới rồi cho ăn một bữa ngon.
Hôm sau, Tế Liễu dắt cả hai con cùng tới trường xin học. Trường Phúc vốn thông minh, nay lại đổi hẳn tính nết, học hành chăm chỉ, nên văn hay chữ tốt. Trường Hỗ thì ngu si, lười biếng, học nửa năm mà chưa viết nổi tên mình.
Ba năm sau, thi nhập học trường huyện, Trường Phúc đậu, Trường Hỗ hỏng. Tế Liễu cho Trường Phúc tiền lên huyện trọ học. Quan trung thừa họ Dương ở huyện thấy Trường Phúc văn hay chữ tốt, liền xuất quỹ, phát cho chút học bổng. Vì thế, Tế Liễu cũng đỡ tốn.
Thấy Trường Hỗ dốt nát, Tế Liễu gọi lên, nói: "Học chẳng được thì theo đuổi làm chi? Vừa tốn tiền vừa phí thời giờ, vô ích. Hãy bỏ học, quay về mà làm ruộng" Vốn thích được nhàn rỗi, thoạt nghe nói được bỏ học, Trường Hỗ mừng lắm song khi nghe nói phải làm ruộng thì lại sợ nên đáp: "Bắt bỏ học thì xin vâng nhưng xin đừng bắt đi làm!" Tế Liễu giận lắm, mắng:"Học chẳng được mà lại chẳng chịu đi làm thì toan sống bám vào người khác hay sao?" Trường Hỗ đáp:"Chừng nào không sống bám được thì hãy hay!" Tế Liễu giận quá, lấy roi đánh. Trường Hỗ uất ức song cũng chẳng làm chi được.
Sáng sau, Tế Liễu đánh thức Trường Hỗ dậy sớm, bắt đốc thúc gia nhân ra đồng làm ruộng. Chỉ cho mặc quần áo thường, ăn thức ăn thường, còn bao nhiêu quần áo đẹp, thức ăn ngon đều để dành để gửi lên huyện cho Trường Phúc. Nghĩ mẹ bất công, Trường Hỗ bất bình song chẳng dám nói ra.
Sau mùa gặt, Tế Liễu gọi Trường Hỗ lên, bảo: "Nông vụ đã xong, chẳng thể ăn không ngồi rồi được! Phải đem chút vốn mà tập đi buôn!" Vốn ham mê cờ bạc, được mẹ cho đi buôn, Trường Hỗ mừng lắm. Tế Liễu bèn đưa cho mười lạng vàng, bảo:"Hãy lên tỉnh buôn vải, đem về đây mà bán!" Trường Hỗ lên tỉnh, đem vàng vào sòng đánh bạc. Thua hết, sợ quá, về qua chỗ anh, rủ cùng về thăm mẹ. Trường Phúc liền theo em về. Tới nhà, Tế Liễu hỏi:"Vải đâu?" Trường Hỗ đáp:"Dọc đường, bị giặc cướp hết rồi!" Tế Liễu hỏi:"Chứ không phải là đi đánh bạc, bị thua hết rồi hay sao?" Trường Hỗ sợ quá, chẳng hiểu tại sao mẹ mình lại biết, song vẫn chối:"Bị cướp chứ đâu có đánh bạc!" Tế Liễu hỏi:"Thế không nhìn thấy Trương Bảo trong sòng bạc hay sao?" Lúc đó Trường Hỗ mới vỡ lẽ là con bạc chuyên nghiệp Trương Bảo, người cùng làng, nhìn thấy mình trong sòng bạc nên về mách với mẹ mình. Trương Hỗ đành thú tội:"Xin lỗi mẹ, con trót dại!" Tế Liễu lấy roi quất túi bụi. Trường Phúc bất nhẫn, quỳ xuống đất xin chịu đòn thay em. Tế Liễu quẳng roi đi. Từ đó, cứ mỗi lần Trường Hỗ đi đâu Tế Liễu cũng khám xét xem có ăn cắp tiền nhà để đem đi đánh bạc hay không. Vì thế, cũng đỡ. Nghe nói huyện Lạc Dương, tỉnh Hà Nam, có danh ca họ Lý, đẹp nổi tiếng trong vùng, Trường Hỗ vẫn ước ao được gặp. Cuối năm ấy, nhân dịp đám khách buôn trong làng rủ nhau đi Lạc Dương buôn hàng Tết, Trường Hỗ xin mẹ cho mình theo đám khách đi buôn. Tế Liễu chẳng suy nghĩ, lấy ngay ba mươi lạng vàng vụn và một đĩnh vàng khối đưa cho, nói:"Mới tập đi buôn, chẳng mong kiếm được nhiều lời. Ba mươi lạng vàng vụn này cũng đủ làm vốn. Còn đĩnh vàng khối này là của ông nội mày để lại. Cho để phòng hờ khi bị quẫn bách chứ chẳng phải là cho để tiêu bậy!" Trường Hỗ vâng dạ rối rít, rồi vội cầm vàng, theo đám khách lên đường.
Trường Hỗ vừa đi, Tế Liễu liền lên huyện thành Bình Diêu, tới nhà trọ, nói với Trường Phúc:"Mười ba hôm nữa, mẹ muốn con về làng để mẹ nhờ một việc! Nhớ xin phép nhà trường cho nghỉ học mười ngày, nghe không?" Trường Phúc hỏi:"Thưa, mẹ muốn sai con làm việc gì?" Tế Liễu im lặng chẳng đáp, nét mặt rầu rầu. Trường Phúc chẳng dám hỏi nữa. Tế Liễu ra về.
Ba ngày sau, đám khách buôn tới huyện Lạc Dương. Trường Hỗ nói với đám khách:"Tôi có chút việc, xin được đi riêng!" Đám khách ưng thuận. Trường Hỗ bèn đi riêng, tới thẳng nhà Lý cơ xin ở. Lý cơ đòi tiền trước. Trường Hỗ vội lấy ba mươi lạng vàng vụn đưa ra. Sau mười ngày, Lý cơ nói:"Chỗ vàng vụn ấy hết rồi, còn tiền thì ở lại, hết tiền thì đi đi!" Trương Hỗ yên chí là mình còn một đĩnh vàng khối nên đáp:"Còn chứ hết thế nào được!" Lý cơ hỏi:"Đâu? Đưa coi!" Trương Hỗ liền móc bọc đưa ra. Lý cơ cầm lên soi thì thấy là vàng giả nên giận lắm, nói xiên xỏ:"Công tử mà cũng biết tiêu vàng giả cơ ư?" Trường Hỗ giật mình kinh hãi. Lý cơ lạnh lùng, nói mát:"Công tử muốn ở lại chơi bao lâu mà chẳng được? Đĩnh vàng này còn lâu lắm mới hết!" Trường Hỗ sợ quá, chẳng biết phải làm thế nào, vội năn nỉ:"Xin nghĩ tới tình nghĩa trong mười ngày qua mà cho ở lại thêm ít bữa để xoay sở!" Lý cơ chẳng đáp, đi ra khỏi nhà.
Lát sau, Trường Hỗ đang ngồi tính kế, bỗng thấy hai lính huyện xông vào nhà, giở dây ra, trói mình lại. Trường Hỗ hỏi:"Tôi có tội gì?" Lính đáp:"Tội tiêu vàng giả" Lúc đó Trường Hỗ mới vỡ lẽ là Lý cơ đã lên huyện tố cáo mình. Lính giải Trường Hỗ về huyện.
Quan tể huyện Lạc Dương là người họ Chu, tính rất nghiêm khắc. Chu công ra lệnh cho lính đánh Trường Hỗ đủ trăm roi rồi nhốt vào ngục, bắt nhịn đói một ngày. Trường Hỗ chẳng có tiền để hối lộ quản ngục nên bị ngược đãi. Đói quá, Trường Hỗ phải xin chút cơm tù của tù nhân trong ngục để cầm hơi.
Ở Bình Diêu, Trường Phúc ghi tâm lời mẹ dặn. Đúng mười ba hôm, tới trường xin phép nghỉ học mười ngày rồi về làng trình mẹ, nói:"Hôm nay con đã xin nghỉ học, về đây trình mẹ để mẹ sai bảo!" Tế Liễu hỏi:"Con còn nhớ ngày trước, lúc con bỏ nhà trốn đi không?" Trường Phúc đáp:"Thưa còn!" Tế Liễu nói:"Lúc đó, ai cũng chê trách mẹ là mẹ kế tàn nhẫn với con chồng, nhưng chẳng ai biết là đêm nào nước mắt mẹ cũng ướt đẫm giường chiếu! Lúc đó, nếu mẹ chẳng chịu mang tiếng ác với đời thì sao con có được ngày nay?" Nói xong, bật khóc. Trường Phúc chẳng dám nói một lời, chỉ kính cẩn đứng chắp tay, lắng nghe. Tế Liễu gạt nước mắt, nói tiếp:"Bây giờ, em con cũng đang lang thang như con ngày trước. Nó xin tiền để đi buôn song mẹ chắc nó chỉ muốn xin tiền để đi chơi! Để khuất nhục nó, mẹ đã cho nó một đĩnh vàng giả! Vì thế, giờ này mẹ chắc nó đang bị nằm tù ở huyện Lạc Dương vì tội tiêu vàng giả. Chu huyện tể là học trò cũ của Dương trung thừa. Dương công quý con lắm. Con nên trình bày chuyện này với Dương công rồi xin Dương công viết thư nói với Chu công tha tội cho nó để cho nó có cơ hội hối cải. Nếu Dương công thuận viết thư cho con thì con phải đem ngay đi Lạc Dương mà trình Chu công!" Trường Phúc nói:"Con xin tuân lệnh mẹ! Con đi ngay bây giờ!"
Trường Phúc vội trở lại huyện thành Bình Diêu, tới xin gặp Dương công, trình bày câu chuyện. Dương công bèn viết một lá thư, phong kín lại rồi trao cho Trường Phúc. Trường Phúc nhận thư rồi lạy tạ Dương công, tức tốc lên đường, đem thư đi Lạc Dương.
Tới nơi, Trường Phúc hỏi thăm tin tức thì được biết em mình đã bị tống giam vào ngục từ ba hôm trước. Trường Phúc vội tới thẳng ngục, xin viên quản ngục cho vào gặp em. Thấy Trường Phúc là một nho sinh hiền lành, mặt mũi sáng sủa, viên quản ngục liền cho vào. Thấy anh, Trường Hỗ ngượng quá, chẳng dám ngửng mặt lên, cứ cúi đầu mà khóc. Thấy em mặt mũi bẩn thỉu, thân hình tiều tụy, Trường Phúc cũng khóc theo.
Lát sau, Trường Phúc cám ơn viên quản ngục rồi tới thẳng huyện, trình thư của Dương công lên Chu công. Chu công đọc thư xong liền ra lệnh cho viên quản ngục thả Trường Hỗ. Hai anh em bèn tới huyện lạy tạ Chu công rồi cùng lên đường về quê.
Tới nhà, Trường Hỗ quỳ gối, lết từ ngoài sân vào nhà, tới cạnh mẹ, lạy xin tha tội. Tế Liễu hỏi:"Đã toại nguyện chưa?" Trường Hỗ chẳng dám đáp, chỉ rưng rưng nước mắt. Trường Phúc cũng quỳ gối xuống cạnh em. Tế Liễu quát: "Đứng cả dậy"
Từ đó, Trường Hỗ hối hận, một mình trông nom mọi công việc trong nhà, chẳng để mẹ phải nhúng tay. Trường Hỗ thức khuya dậy sớm, tính toán sổ sách, đốc thúc gia nhân. Hôm nào mệt quá, Trường Hỗ ngủ quên, đến trưa mới dậy, cũng không thấy bị mẹ la mắng như trước nữa. Trường Hỗ muốn đi buôn lắm song chẳng dám nói với mẹ.
Ba tháng sau, Trường Phúc lại về thăm nhà. Trường Hỗ nhờ anh nói với mẹ ý muốn của mình. Trường Phúc trình lại. Tế Liễu mừng lắm, cầm cố, vay mượn, lấy tiền cho Trường Hỗ đi buôn. Hơn nửa năm sau, Trường Hỗ kiếm được rất nhiều lời, đem về nạp mẹ hết. Năm ấy, Trường Phúc đi thi hương, đậu cử nhân.
Ba năm sau. Trường Phúc đi thi hội, đậu tiến sĩ, được bổ làm quan. Trong ba năm ấy, Trường Hỗ đi buôn, lời trên vạn lạng. Từ đó, gia đình Tế Liễu trở thành một gia đình quyền quý ở Sơn Tây.
Một hôm, có một khách buôn, bạn của Trường Hỗ, từ Lạc Dương tới Sơn Tây có việc. Xong việc, khách ghé vào thăm Trường Hỗ. Vào nhà, thấy một vị phu nhân rất trẻ, dáng vẻ quý phái, phục sức giản dị, khách bèn hỏi thăm gia nhân xem là ai thì được biết chính là thân mẫu của Trường Hỗ. Khách về Lạc Dương. Bạn bè tới thăm, hỏi chuyện gia đình Trường Hỗ. Khách thuật chuyện mình thấy Tế Liễu rồi kết luận: "Trông phu nhân còn trẻ lắm, chỉ chừng ngoài ba mươi. Chẳng thể ngờ được phu nhân lại là thân mẫu của bạn Trường Hỗ!"
Thái tức Cao lang thọ bất cao
Khổ đàn tâm lực vị nhi tào
Ân uy tịnh dụng vô kỳ thị
Phú quý vô vong mẫu thị lao
Huyện Bình Diêu, tỉnh Sơn Tây, có thày đồ họ Triệu, tên Thành Long, có một gái, tên Thường Nga. Vì Thường Nga có eo thon nhỏ, dễ thương, nên dân làng thường gọi đùa bằng lộng danh Tế Liễu (Liễu Nhỏ).
Tế Liễu thực thà chất phác, nói chẳng dư lời, đặc biệt là chẳng nói xấu ai bao giờ. Vì tư chất thông minh lại được cha chỉ dạy nên Tế Liễu rất giỏi văn chương. Tế Liễu ưa đọc sách tướng số, thích xem tướng cho người.
Năm mười ba tuổi, có đám tới hỏi, xin cưới. Triệu bà hỏi ý, Tế Liễu đòi xem mặt, rồi chê xấu tướng, chẳng ưng. Trong sáu năm liền, đám nào tới hỏi, cũng xin xem mặt, rồi chê xấu tướng, chẳng ưng đám nào. Triệu bà giận lắm, nói:"Ai tới hỏi, cũng chê xấu tướng thì định ở vậy tới già hay sao?" Tế Liễu đáp:"Muốn lấy chí người thắng số trời, song số trời mạnh hơn, chẳng sao thắng nổi. Những đám đã tới hỏi đều thấy chẳng vừa ý. Thôi! Từ nay xin để tùy ý cha mẹ!"
Trong huyện, có nho sinh họ Cao, tên Trường Lộc, con nhà dòng dõi, nổi tiếng danh sĩ. Năm mười tám tuổi, Trường Lộc cưới vợ. Năm sau, vợ sanh con trai, đặt tên Trường Phúc. Bốn năm sau, vợ bị bạo bệnh rồi mất. Năm ấy, Trường Lộc hết tang vợ, nhờ bà mối tới hỏi Tế Liễu cho mình làm vợ kế.
Bà mối tới nhà họ Triệu, nói chuyện. Triệu bà gọi Tế Liễu ra, hỏi mát:"Có đám nhà họ Cao tới hỏi, có ưng không hay lại cần phải xem tướng trước đã?" Tế Liễu đáp: "Đã xin thưa là để tùy ý cha mẹ!" Ông bà Triệu bèn nhận lời gả, rồi tháng sau, cho cưới.
Cưới xong, hai vợ chồng rất tương đắc.
Năm ấy, Trường Phúc lên năm. Vì mẹ đẻ đã mất nên quấn quýt mẹ kế, đi đâu cũng đòi đi theo. Không cho đi thì khóc thất thanh, chẳng chịu nín. Tế Liễu trông nom, nuôi nấng rất chu đáo.
Năm sau, Tế Liễu sanh trai, tự đặt tên con là Trường Hỗ. Chồng hỏi:"Trường Hỗ có nghĩa gì?" Tế Liễu đáp:"Chẳng có nghĩa gì cả, chợt nghĩ ra thì đặt thế thôi!" Hỏi:"Mai sau, mong gì ở con?" Đáp:"Chỉ mong con ở gần mình lúc tuổi già" Chồng cười.
Vì là nho sinh nên tuy có chút ruộng đất của cha mẹ để lại song Trường Lộc chỉ biết giữ sổ chi thu, còn canh tác thì phải thuê người. Vì chi tiêu bừa bãi nên bị thiếu hụt luôn, năm nào cũng nạp thuế trễ cho huyện.
Từ ngày về nhà chồng, Tế Liễu chỉ giở sổ chi thu ra coi có một lần. Một hôm, Trường Lộc để sổ lẫn trong đống sách rồi quên đi. Lúc cần sổ để trả công thợ, tìm mãi chẳng thấy. Đang lúng túng chẳng biết phải làm thế nào thì Tế Liễu tới đọc vanh vách từng khoản chi thu trong sổ cho nghe. Ai hiện diện cũng phải kinh ngạc. Tế Liễu bèn nói với chồng:"Xin để cho thiếp trông nom công việc cầy cấy, giữ sổ chi thu trong một năm, xem có làm nổi không?" Trường Lộc cười rồi thuận cho.
Nửa năm sau, thấy vợ trông nom công việc còn giỏi hơn mình, Trường Lộc phục lắm.
Một hôm, giữa mùa thuế, Trường Lộc sang hàng xóm uống rượu. Ở nhà, lính huyện tới đòi thuế, đập cổng ầm ầm. Tế Liễu sai con ở ra khất, nói hôm sau sẽ xin đem thuế lên huyện nạp. Lính chẳng chịu đi, cứ đứng ở cổng quát tháo ầm ĩ. Tế Liễu phải sai tiểu đồng chạy sang hàng xóm mời chồng về. Trường Lộc về, khất với lính thì lính chịu đi. Trường Lộc cười, nói:"Chắc bây giờ nàng mới biết đàn bà thông minh cũng chẳng bằng đàn ông ngu dốt phải không?" Tế Liễu bật khóc. Trường Lộc sợ quá, vội an ủi vợ. Tế Liễu nín, song vẫn buồn. Trường Lộc nói:"Ta thương nàng lắm! Đàn bà mà phải trông nom cả công việc cầy cấy lẫn giữ sổ sách chi thu thì vất vả quá. Thôi để ta trông nom cho!" Tế Liễu chẳng nghe, đáp:"Xin cứ để cho thiếp trông nom thêm một năm nữa xem sao!" Trường Lộc cười, nói:"Tùy ý nàng!"
Tế Liễu thức khuya, dậy sớm, làm lụng chăm chỉ, một mình quán xuyến mọi gia vụ, chẳng để chồng phải nhúng tay. Vì thế, Trường Lộc thầm cám ơn vợ.
Năm sau, Tế Liễu dành riêng tiền thuế một nơi rồi tới ngày đáo hạn, bảo chồng đem lên huyện nạp. Vì thế, nhà chẳng còn bị lính tới đòi thuế nữa. Trường Lộc càng phục vợ.
Tế Liễu dự trù mọi món chi thu cho gia đình đâu vào đấy nên gia đình mỗi ngày một đỡ túng thiếu. Chồng mừng lắm, chỉ việc ăn chơi, ngâm vịnh.
Trường Lộc thường cùng vợ bàn chuyện văn chương, rất tương đắc. Một hôm, Trường Lộc đùa vợ, ra câu đối:"Liễu Nhỏ, sao nhỏ thế! Mày nhỏ, eo nhỏ, gót sen nhỏ, lại mừng lo toan thậm nhỏ" Tế Liễu ứng khẩu, đối: "Chàng Cao, quả là cao! Phẩm cao, chí cao, chữ nghĩa cao, những mong tuổi thọ tột cao"
Một hôm, Tế Liễu đi qua tiệm bán quan tài trong làng. Thấy trong tiệm có một cỗ quan tài rất đẹp, Tế Liễu vào hỏi giá thì chủ tiệm nói giá quá cao. Thấy mình chẳng đủ tiền mua, Tế Liễu bèn về bàn với chồng cho mình đi vay mượn để mua. Trường Lộc can, nói:"Vợ chồng mình còn trẻ, đâu đã cần phải dùng tới quan tài?" Tế Liễu nói:"Xin cứ để cho thiếp được tự quyền định liệu!" Trường Lộc liền ưng thuận. Tế Liễu bèn đi vay mượn để mua, rồi thuê người khiêng về, cất kỹ vào kho.
Năm sau, phú ông họ Tiền trong làng qua đời. Gia nhân nhà phú ông nghe nói Tế Liễu có mua được một cỗ quan tài rất đẹp, bèn tới gặp Trường Lộc, xin mua lại với giá gấp đôi. Trường Lộc thấy lãi quá, bèn vào nhà trong, nói với vợ:"Mua một mà bán được hai thì lãi quá rồi! Bán đi để lấy tiền mà chi tiêu! Lúc nào gặp dịp, sẽ mua cỗ khác!" Tế Liễu đáp:"Thiếp chẳng muốn bán!" Trường Lộc hỏi:"Lãi nhiều như thế, sao chẳng chịu bán?" Tế Liễu lặng im, không đáp. Trường Lộc hỏi:"Sao không trả lời?" Tế Liễu chỉ rưng rưng nước mắt. Trường Lộc lấy làm lạ song vì không muốn làm buồn lòng vợ nên ra phòng khách, nói rằng vợ mình chẳng muốn bán. Gia nhân nhà phú ông đành ra về.
Năm sau. Nhân lễ sinh nhật thứ 25 của chồng, Tế Liễu nói: "Năm nay vận hạn chàng xấu lắm, chỉ nên ở nhà, chẳng nên đi xa" Trường Lộc cười, nói: "Vận hạn xấu thì ở nhà cũng đâu có tốt ra được?" Tế Liễu lại rưng rưng nước mắt. Trường Lộc vội an ủi vợ, song Tế Liễu vẫn chẳng vui. Ngày nào Trường Lộc cũng cưỡi ngựa tới nhà bạn bè, yến ẩm, ngâm vịnh thơ phú. Bữa nào thấy chồng chậm về, Tế Liễu cũng sai tiểu đồng đi tìm ở khắp mọi nhà quen. Bạn bè thấy thế, thường đem chuyện ấy ra chế giễu Trường Lộc để cười đùa với nhau.
Ba tháng sau, một hôm Trường Lộc cưỡi ngựa tới nhà bạn dự tiệc. Đang uống rượu, bỗng thấy trong người khó chịu, bèn xin phép ra về. Dọc đường, bị xây xẩm mặt mày rồi ngã từ trên mình ngựa xuống đất mà chết. Người làng tới báo tin. Tế Liễu òa lên khóc rồi thuê người theo mình đi khiêng xác chồng về khâm liệm.
Sáng sau, người làng tới phúng điếu thì thấy xác Trường Lộc đã được đặt nằm trong cỗ quan tài đẹp. Lúc đó, họ mới phục tài tiên tri của Tế Liễu.
Chồng chết, một mình Tế Liễu vừa phải trông nom công việc làm ăn, vừa phải dạy dỗ con cái.
Ba năm sau, Trường Phúc lên 10. Đầu mùa thu, Tế Liễu cho đi học. Vì cha chết, Trường Phúc chẳng sợ mẹ kế nên thường trốn học để đi theo trẻ chăn trâu. Tế Liễu la mắng thế nào, Trường Phúc cũng chẳng nghe. Dùng roi vọt, vẫn chứng nào tật nấy. Tế Liễu bèn đổi cách dạy con, gọi lên, ôn tồn nói:"Không muốn đi học nữa thì thôi, chẳng ai ép! Tuy nhiên, nhà nghèo, chẳng thể ăn không ngồi rồi được, phải theo gia nhân đi làm. Nếu chẳng nghe, bị đánh đòn, đừng có oán!" Nói xong, bắt cởi quần áo lành, mặc quần áo rách, đi chăn heo. Chăn heo về, bắt rửa nồi, nấu cháo, ngồi ăn với gia nhân.
Ba hôm sau, Trường Phúc thấy mình khổ cực quá, bèn lên gặp mẹ, quỳ xuống đất, thưa:"Con xin đi học lại!" Tế Liễu quay mặt đi, không đáp. Chẳng biết làm thế nào, Trường Phúc đành sụt sùi, quay xuống bếp, tiếp tục nấu cháo, chăn heo. Hết thu sang đông, thân không áo ấm, chân không giày lành, mưa dầm ướt át, co đầu rụt cổ, trông tựa ăn mày. Người làng trông thấy, ai cũng thương con, trách mẹ. Đàn ông trong làng, ai có vợ kế cũng đem chuyện Tế Liễu ra để làm gương răn vợ. Phong thanh nghe thấy lời người làng chê trách, Tế Liễu cứ bỏ mặc ngoài tai, giả vờ như chẳng biết.
Một hôm, Trường Phúc dắt đàn heo đi chăn, thấy mình khổ cực quá, bèn bỏ mặc đàn heo, trốn đi mất tích. Tế Liễu nghe tin, cũng cứ lờ đi, chẳng hỏi han gì.
Ba tháng sau, người làng thấy Trường Phúc rách rưới, thân hình tiều tụy, ốm nhom ốm nhách, ăn mày dọc đường, mon men về nhà. Tới cổng, Trường Phúc chẳng dám vào nhà mà sang nhờ Thái bà ở hàng xóm phía đông sang xin giùm mẹ mình cho mình về. Thái bà thương hại, sang xin giùm. Tế Liễu nói:"Nhờ bà về bảo nó, liệu sức có chịu nổi trăm roi thì hãy xin về! Bằng không, hãy tìm nẻo khác mà đi!" Thái bà về lập lại. Trường Phúc nghe xong, vội chạy vụt về nhà, vào gặp mẹ, òa lên khóc, thưa:"Xin chịu trăm roi!" Tế Liễu hỏi:"Đã hối hận chưa?" Trường Phúc đáp:"Đã hối hận rồi!" Nói:"Đã hối hận rồi thì còn đánh làm chi? Bây giờ, hãy xuống bếp nấu cháo, rồi đi chăn heo! Lần này mà còn trốn nữa thì sẽ cấm cửa, chẳng cho về!" Trường Phúc òa lên khóc, thưa:"Xin đánh trăm roi rồi cho đi học lại!" Tế Liễu nghiêm nét mặt, nói: "Không được!" Trường Phúc lại òa lên khóc, chạy sang nhờ Thái bà. Thái bà thương hại, lại dắt về xin giùm. Tế Liễu nói:"Cho nó đi học, thế nào rồi nó cũng lại trốn đi chơi!" Thái bà nói:"Chắc nó chẳng dám thế nữa đâu!" Tế Liễu hỏi:"Sao bà biết?" Thái bà đáp:"Tôi xin bảo đảm" Tế Liễu nói:"Nể lời bà, tôi cho nó về đi học lại, nhưng trước hết nó phải quỳ xuống đất, lạy tạ bà đi đã!" Trường Phúc vội quỳ ngay xuống đất, lạy tạ Thái bà. Thái bà phải đứng im nhận lạy, chẳng dám né tránh vì sợ Tế Liễu không cho con đi học lại. Thái bà cáo biệt. Tế Liễu bắt Trường Phúc đi tắm gội sạch sẽ, cho mặc quần áo mới rồi cho ăn một bữa ngon.
Hôm sau, Tế Liễu dắt cả hai con cùng tới trường xin học. Trường Phúc vốn thông minh, nay lại đổi hẳn tính nết, học hành chăm chỉ, nên văn hay chữ tốt. Trường Hỗ thì ngu si, lười biếng, học nửa năm mà chưa viết nổi tên mình.
Ba năm sau, thi nhập học trường huyện, Trường Phúc đậu, Trường Hỗ hỏng. Tế Liễu cho Trường Phúc tiền lên huyện trọ học. Quan trung thừa họ Dương ở huyện thấy Trường Phúc văn hay chữ tốt, liền xuất quỹ, phát cho chút học bổng. Vì thế, Tế Liễu cũng đỡ tốn.
Thấy Trường Hỗ dốt nát, Tế Liễu gọi lên, nói: "Học chẳng được thì theo đuổi làm chi? Vừa tốn tiền vừa phí thời giờ, vô ích. Hãy bỏ học, quay về mà làm ruộng" Vốn thích được nhàn rỗi, thoạt nghe nói được bỏ học, Trường Hỗ mừng lắm song khi nghe nói phải làm ruộng thì lại sợ nên đáp: "Bắt bỏ học thì xin vâng nhưng xin đừng bắt đi làm!" Tế Liễu giận lắm, mắng:"Học chẳng được mà lại chẳng chịu đi làm thì toan sống bám vào người khác hay sao?" Trường Hỗ đáp:"Chừng nào không sống bám được thì hãy hay!" Tế Liễu giận quá, lấy roi đánh. Trường Hỗ uất ức song cũng chẳng làm chi được.
Sáng sau, Tế Liễu đánh thức Trường Hỗ dậy sớm, bắt đốc thúc gia nhân ra đồng làm ruộng. Chỉ cho mặc quần áo thường, ăn thức ăn thường, còn bao nhiêu quần áo đẹp, thức ăn ngon đều để dành để gửi lên huyện cho Trường Phúc. Nghĩ mẹ bất công, Trường Hỗ bất bình song chẳng dám nói ra.
Sau mùa gặt, Tế Liễu gọi Trường Hỗ lên, bảo: "Nông vụ đã xong, chẳng thể ăn không ngồi rồi được! Phải đem chút vốn mà tập đi buôn!" Vốn ham mê cờ bạc, được mẹ cho đi buôn, Trường Hỗ mừng lắm. Tế Liễu bèn đưa cho mười lạng vàng, bảo:"Hãy lên tỉnh buôn vải, đem về đây mà bán!" Trường Hỗ lên tỉnh, đem vàng vào sòng đánh bạc. Thua hết, sợ quá, về qua chỗ anh, rủ cùng về thăm mẹ. Trường Phúc liền theo em về. Tới nhà, Tế Liễu hỏi:"Vải đâu?" Trường Hỗ đáp:"Dọc đường, bị giặc cướp hết rồi!" Tế Liễu hỏi:"Chứ không phải là đi đánh bạc, bị thua hết rồi hay sao?" Trường Hỗ sợ quá, chẳng hiểu tại sao mẹ mình lại biết, song vẫn chối:"Bị cướp chứ đâu có đánh bạc!" Tế Liễu hỏi:"Thế không nhìn thấy Trương Bảo trong sòng bạc hay sao?" Lúc đó Trường Hỗ mới vỡ lẽ là con bạc chuyên nghiệp Trương Bảo, người cùng làng, nhìn thấy mình trong sòng bạc nên về mách với mẹ mình. Trương Hỗ đành thú tội:"Xin lỗi mẹ, con trót dại!" Tế Liễu lấy roi quất túi bụi. Trường Phúc bất nhẫn, quỳ xuống đất xin chịu đòn thay em. Tế Liễu quẳng roi đi. Từ đó, cứ mỗi lần Trường Hỗ đi đâu Tế Liễu cũng khám xét xem có ăn cắp tiền nhà để đem đi đánh bạc hay không. Vì thế, cũng đỡ. Nghe nói huyện Lạc Dương, tỉnh Hà Nam, có danh ca họ Lý, đẹp nổi tiếng trong vùng, Trường Hỗ vẫn ước ao được gặp. Cuối năm ấy, nhân dịp đám khách buôn trong làng rủ nhau đi Lạc Dương buôn hàng Tết, Trường Hỗ xin mẹ cho mình theo đám khách đi buôn. Tế Liễu chẳng suy nghĩ, lấy ngay ba mươi lạng vàng vụn và một đĩnh vàng khối đưa cho, nói:"Mới tập đi buôn, chẳng mong kiếm được nhiều lời. Ba mươi lạng vàng vụn này cũng đủ làm vốn. Còn đĩnh vàng khối này là của ông nội mày để lại. Cho để phòng hờ khi bị quẫn bách chứ chẳng phải là cho để tiêu bậy!" Trường Hỗ vâng dạ rối rít, rồi vội cầm vàng, theo đám khách lên đường.
Trường Hỗ vừa đi, Tế Liễu liền lên huyện thành Bình Diêu, tới nhà trọ, nói với Trường Phúc:"Mười ba hôm nữa, mẹ muốn con về làng để mẹ nhờ một việc! Nhớ xin phép nhà trường cho nghỉ học mười ngày, nghe không?" Trường Phúc hỏi:"Thưa, mẹ muốn sai con làm việc gì?" Tế Liễu im lặng chẳng đáp, nét mặt rầu rầu. Trường Phúc chẳng dám hỏi nữa. Tế Liễu ra về.
Ba ngày sau, đám khách buôn tới huyện Lạc Dương. Trường Hỗ nói với đám khách:"Tôi có chút việc, xin được đi riêng!" Đám khách ưng thuận. Trường Hỗ bèn đi riêng, tới thẳng nhà Lý cơ xin ở. Lý cơ đòi tiền trước. Trường Hỗ vội lấy ba mươi lạng vàng vụn đưa ra. Sau mười ngày, Lý cơ nói:"Chỗ vàng vụn ấy hết rồi, còn tiền thì ở lại, hết tiền thì đi đi!" Trương Hỗ yên chí là mình còn một đĩnh vàng khối nên đáp:"Còn chứ hết thế nào được!" Lý cơ hỏi:"Đâu? Đưa coi!" Trương Hỗ liền móc bọc đưa ra. Lý cơ cầm lên soi thì thấy là vàng giả nên giận lắm, nói xiên xỏ:"Công tử mà cũng biết tiêu vàng giả cơ ư?" Trường Hỗ giật mình kinh hãi. Lý cơ lạnh lùng, nói mát:"Công tử muốn ở lại chơi bao lâu mà chẳng được? Đĩnh vàng này còn lâu lắm mới hết!" Trường Hỗ sợ quá, chẳng biết phải làm thế nào, vội năn nỉ:"Xin nghĩ tới tình nghĩa trong mười ngày qua mà cho ở lại thêm ít bữa để xoay sở!" Lý cơ chẳng đáp, đi ra khỏi nhà.
Lát sau, Trường Hỗ đang ngồi tính kế, bỗng thấy hai lính huyện xông vào nhà, giở dây ra, trói mình lại. Trường Hỗ hỏi:"Tôi có tội gì?" Lính đáp:"Tội tiêu vàng giả" Lúc đó Trường Hỗ mới vỡ lẽ là Lý cơ đã lên huyện tố cáo mình. Lính giải Trường Hỗ về huyện.
Quan tể huyện Lạc Dương là người họ Chu, tính rất nghiêm khắc. Chu công ra lệnh cho lính đánh Trường Hỗ đủ trăm roi rồi nhốt vào ngục, bắt nhịn đói một ngày. Trường Hỗ chẳng có tiền để hối lộ quản ngục nên bị ngược đãi. Đói quá, Trường Hỗ phải xin chút cơm tù của tù nhân trong ngục để cầm hơi.
Ở Bình Diêu, Trường Phúc ghi tâm lời mẹ dặn. Đúng mười ba hôm, tới trường xin phép nghỉ học mười ngày rồi về làng trình mẹ, nói:"Hôm nay con đã xin nghỉ học, về đây trình mẹ để mẹ sai bảo!" Tế Liễu hỏi:"Con còn nhớ ngày trước, lúc con bỏ nhà trốn đi không?" Trường Phúc đáp:"Thưa còn!" Tế Liễu nói:"Lúc đó, ai cũng chê trách mẹ là mẹ kế tàn nhẫn với con chồng, nhưng chẳng ai biết là đêm nào nước mắt mẹ cũng ướt đẫm giường chiếu! Lúc đó, nếu mẹ chẳng chịu mang tiếng ác với đời thì sao con có được ngày nay?" Nói xong, bật khóc. Trường Phúc chẳng dám nói một lời, chỉ kính cẩn đứng chắp tay, lắng nghe. Tế Liễu gạt nước mắt, nói tiếp:"Bây giờ, em con cũng đang lang thang như con ngày trước. Nó xin tiền để đi buôn song mẹ chắc nó chỉ muốn xin tiền để đi chơi! Để khuất nhục nó, mẹ đã cho nó một đĩnh vàng giả! Vì thế, giờ này mẹ chắc nó đang bị nằm tù ở huyện Lạc Dương vì tội tiêu vàng giả. Chu huyện tể là học trò cũ của Dương trung thừa. Dương công quý con lắm. Con nên trình bày chuyện này với Dương công rồi xin Dương công viết thư nói với Chu công tha tội cho nó để cho nó có cơ hội hối cải. Nếu Dương công thuận viết thư cho con thì con phải đem ngay đi Lạc Dương mà trình Chu công!" Trường Phúc nói:"Con xin tuân lệnh mẹ! Con đi ngay bây giờ!"
Trường Phúc vội trở lại huyện thành Bình Diêu, tới xin gặp Dương công, trình bày câu chuyện. Dương công bèn viết một lá thư, phong kín lại rồi trao cho Trường Phúc. Trường Phúc nhận thư rồi lạy tạ Dương công, tức tốc lên đường, đem thư đi Lạc Dương.
Tới nơi, Trường Phúc hỏi thăm tin tức thì được biết em mình đã bị tống giam vào ngục từ ba hôm trước. Trường Phúc vội tới thẳng ngục, xin viên quản ngục cho vào gặp em. Thấy Trường Phúc là một nho sinh hiền lành, mặt mũi sáng sủa, viên quản ngục liền cho vào. Thấy anh, Trường Hỗ ngượng quá, chẳng dám ngửng mặt lên, cứ cúi đầu mà khóc. Thấy em mặt mũi bẩn thỉu, thân hình tiều tụy, Trường Phúc cũng khóc theo.
Lát sau, Trường Phúc cám ơn viên quản ngục rồi tới thẳng huyện, trình thư của Dương công lên Chu công. Chu công đọc thư xong liền ra lệnh cho viên quản ngục thả Trường Hỗ. Hai anh em bèn tới huyện lạy tạ Chu công rồi cùng lên đường về quê.
Tới nhà, Trường Hỗ quỳ gối, lết từ ngoài sân vào nhà, tới cạnh mẹ, lạy xin tha tội. Tế Liễu hỏi:"Đã toại nguyện chưa?" Trường Hỗ chẳng dám đáp, chỉ rưng rưng nước mắt. Trường Phúc cũng quỳ gối xuống cạnh em. Tế Liễu quát: "Đứng cả dậy"
Từ đó, Trường Hỗ hối hận, một mình trông nom mọi công việc trong nhà, chẳng để mẹ phải nhúng tay. Trường Hỗ thức khuya dậy sớm, tính toán sổ sách, đốc thúc gia nhân. Hôm nào mệt quá, Trường Hỗ ngủ quên, đến trưa mới dậy, cũng không thấy bị mẹ la mắng như trước nữa. Trường Hỗ muốn đi buôn lắm song chẳng dám nói với mẹ.
Ba tháng sau, Trường Phúc lại về thăm nhà. Trường Hỗ nhờ anh nói với mẹ ý muốn của mình. Trường Phúc trình lại. Tế Liễu mừng lắm, cầm cố, vay mượn, lấy tiền cho Trường Hỗ đi buôn. Hơn nửa năm sau, Trường Hỗ kiếm được rất nhiều lời, đem về nạp mẹ hết. Năm ấy, Trường Phúc đi thi hương, đậu cử nhân.
Ba năm sau. Trường Phúc đi thi hội, đậu tiến sĩ, được bổ làm quan. Trong ba năm ấy, Trường Hỗ đi buôn, lời trên vạn lạng. Từ đó, gia đình Tế Liễu trở thành một gia đình quyền quý ở Sơn Tây.
Một hôm, có một khách buôn, bạn của Trường Hỗ, từ Lạc Dương tới Sơn Tây có việc. Xong việc, khách ghé vào thăm Trường Hỗ. Vào nhà, thấy một vị phu nhân rất trẻ, dáng vẻ quý phái, phục sức giản dị, khách bèn hỏi thăm gia nhân xem là ai thì được biết chính là thân mẫu của Trường Hỗ. Khách về Lạc Dương. Bạn bè tới thăm, hỏi chuyện gia đình Trường Hỗ. Khách thuật chuyện mình thấy Tế Liễu rồi kết luận: "Trông phu nhân còn trẻ lắm, chỉ chừng ngoài ba mươi. Chẳng thể ngờ được phu nhân lại là thân mẫu của bạn Trường Hỗ!"
MA ĐI THI GIÙM
(truyện CHỬ SINH)
Sư môn phong nghĩa cảm bình sinh
Hiếu học lân tài lưỡng dụng tình
Tự thị tư văn đồng cốt nhục
Báo ân nguyên bất vấn u minh
Huyện Thuận Thiên, tỉnh Hà Bắc, có núi Nùng Sơn. Trên núi, có chùa Chánh Đô. Trong huyện, có thương gia họ Trần, rất giàu có, mở một cửa tiệm lớn ở chợ huyện. Trần ông góa vợ, có một trai tên Quân, đậu cử nhân. Trần Quân thuật chuyện:
Trước kia, nhà sư trụ trì chùa Chánh Đô mở lớp dạy học, thu học phí vào cuối tháng. Dân chúng trong vùng cho con lên theo học rất đông. Trần ông cũng cho con lên theo học. Trong đám học trò có một nho sinh vừa giỏi lại vừa chăm, được nhà sư cho cư ngụ ngay trong chùa. Trần Quân ưa thích nho sinh ấy lắm, muốn được kết bạn. Một hôm, Trần Quân tới gần làm quen, nói:"Đệ họ Trần. Huynh họ chi?" Nho sinh đáp:"Đệ họ Chử" Hỏi: "Phải chăng quê huynh cũng ở vùng này?" Đáp:"Chẳng phải! Quê đệ ở huyện Đông Sơn, tỉnh Triết Giang!" Vì hợp tính nhau, chẳng bao lâu, hai người trở thành bạn thân.
Cuối năm, học trò ở xa đều xin phép về quê ăn Tết, duy có Chử sinh là không xin về. Trần Quân ngạc nhiên, hỏi:"Sao huynh không xin phép về quê ăn Tết?" Chử sinh đáp:"Đường thì xa mà nhà thì nghèo, đệ không có tiền về, phải ở lại đây đi làm để kiếm tiền trả học phí!" Hỏi:"Huynh có hay học khuya không?" Đáp:"Có! Đêm nào đệ cũng thức khuya để học cho khỏi uổng học phí vì kiếm tiền vất vả lắm! Thời gian đệ học trong hai ngày có thể nói là bằng thời gian các bạn đồng môn học trong ba ngày!" Trần Quân cảm phục lắm, nói:"Đệ muốn về xin phép gia nghiêm cho lên đây ở chung với huynh để học, huynh có chịu không?" Chử sinh lắc đầu, can:"Không nên! Nhà sư chùa này văn chương dở lắm, chẳng đáng làm thày mình lâu đâu. Ở Triết Giang, vùng quê đệ, có vị túc nho, văn chương giỏi lắm, đáng làm thày mình. Tiên sinh sang vùng này kinh doanh song vì còn thiếu vốn nên tạm thời phải mở lớp dạy học ở cửa Phụ Thành, nhận học trò nội trú. Hết tháng này, đệ sẽ xin thôi học ở đây để sang đó xin theo học. Huynh cũng nên sang đó mà xin theo học!" Hỏi:"Ai thế?" Đáp:"Lã tiên sinh!" Trần Quân bèn về xin cha cho mình tới nội trú ở nhà Lã tiên sinh. Trần ông chấp thuận.
Cuối tháng, hai người trang trải xong học phí cho nhà sư rồi rủ nhau tới nhà Lã tiên sinh, xin nội trú để theo học. Tiên sinh nhận lời, cho hai người ở chung một phòng. Hai người bèn dọn tới ở nhà thày, ban ngày cùng học một bàn, ban đêm cùng nằm một giường. Chử sinh học rất thông minh, lướt mắt đọc một lần là nhớ, lắng tai nghe một lượt là thông nên được thày rất nể trọng.
Tháng sau, một hôm Chử sinh xin thày cho mình về quê thăm nhà ít bữa. Trần Quân lấy làm lạ vì thấy trước kia, khi còn ở chùa, chẳng bao giờ Chử sinh xin về quê thăm nhà, mà bây giờ mới tới đây học được có một tháng đã xin về. Mười ngày sau, thấy Chử sinh chưa trở lại nhà thày, Trần Quân càng lấy làm lạ.
Hôm sau, Trần Quân có việc phải lên chùa Thiên Ninh. Tình cờ nhìn thấy Chử sinh đang ngồi làm diêm ở hành lang chùa, Trần Quân kinh ngạc, vội chạy tới hỏi: "Sao huynh lại nghỉ học?" Thấy bạn tới, Chử sinh tỏ vẻ ngượng ngùng, đứng dậy nắm tay bạn, nhìn thẳng vào mắt hồi lâu, rồi buồn bã đáp:"Đệ nghèo lắm, cuối tháng chẳng có học phí nạp thày nên phải tới đây làm diêm để kiếm tiền nạp. Nạp xong, đệ mới xin theo học tiếp!" Trần Quân cảm khái, suy nghĩ hồi lâu, rồi nói:"Huynh hãy trở lại nhà thày học đi! Đệ sẽ nạp học phí cho!" Chử sinh lắc đầu, hỏi:"Huynh lấy tiền ở đâu ra mà nạp cho đệ?" Trần Quân đáp:"Đệ đã có cách, xin huynh chớ hỏi!" Chử sinh đứng suy nghĩ hồi lâu rồi thở dài, nói:"Nể lời huynh, đệ xin vâng!" Nói xong, thu dọn đồ nghề làm diêm, đem trả lại nhà chùa. Trên đường về nhà thày, Chử sinh dặn:"Xin huynh chớ tiết lộ chuyện đệ làm diêm với thày! Nếu thày có hỏi tại sao đệ về thăm nhà lâu thế thì huynh cứ nói giùm là đệ bận việc nhà!" Trần Quân gật đầu.
Hôm sau, Trần Quân về nhà, lấy trộm tiền của cha, đem tới nạp thày, nói là tiền của Chử sinh gửi nạp học phí. Thày tưởng thực nên nhận. Mấy hôm sau, Trần ông kiểm soát lại sổ sách thì thấy là mình bị mất tiền.
Tháng sau, Trần Quân về thăm nhà. Trần ông hỏi: "Mày có lấy trộm tiền của tao không?" Trần Quân thú thực:"Thưa có!" Hỏi:"Mày lấy để làm gì?" Đáp:"Con lấy để giúp người bạn họ Chử nạp học phí!" Trần ông mắng: "Sao mày ngu thế?" rồi bắt Trần Quân phải xin nghỉ học.
Chử sinh biết chuyện, ngượng quá, cũng xin nghỉ học theo. Tiên sinh hỏi:"Sao lại xin nghỉ học?" Chử sinh đáp:"Con nghèo lắm, chẳng có học phí nạp thày nên Trần sinh phải lấy trộm tiền của thân phụ để nạp giùm con. Trần ông biết chuyện, bắt Trần sinh phải xin nghỉ học. Vì thế, con ngượng quá, cũng xin nghỉ theo!" Tiên sinh mắng:"Không có tiền, sao chẳng nói? Bây giờ cứ ở lại đây mà học, chẳng phải nạp tiền ăn, tiền ở, tiền học chi hết!" Chử sinh lặng im, chẳng đáp. Tiên sinh bèn trả lại học phí cho Chử sinh, sai đem hoàn lại Trần ông. Từ đó, tiên sinh coi Chử sinh như con ruột.
Trần Quân nhớ bạn, tới lớp học mời Chử sinh đi uống rượu. Chử sinh từ chối. Trần Quân cứ cố mời. Chử sinh vẫn từ chối. Trần Quân rơm rớm nước mắt, hỏi: "Huynh muốn tuyệt tình bạn hay sao?" Chử sinh thở dài, đáp:"Chẳng phải thế, song đi một lần thì thành lệ, mà thành lệ thì tốn tiền của huynh! Nếu huynh hứa rằng vài ba tháng mới tới rủ một lần thì đệ xin vâng!" Trần Quân gật đầu rồi mời đi. Chử sinh đành chiều bạn. Từ đó, cứ hai tháng một lần, Trần Quân lại tới lớp học mời Chử sinh đi uống rượu.
Hai năm sau, Trần ông mất. Trần Quân được thừa hưởng gia sản lớn của cha. Làm tang lễ cho cha xong, Trần Quân tới nhà tiên sinh xin theo học lại. Tiên sinh hỏi:"Có gia sản lớn, còn xin theo học làm chi?" Đáp:"Xin theo học để biết thêm nghĩa lý" Tiên sinh bèn cho theo học. Tuy nhiên, vì bỏ học đã hai năm nên so với Chử sinh, chữ nghĩa văn chương của Trần Quân thua sút lắm.
Nửa năm sau, thân mẫu tiên sinh mất ở Triết Giang. Trưởng nam tiên sinh là Lã Huỳnh bèn lên đường tới Hà Bắc rước cha về quê làm tang lễ cho bà nội. Vì nghèo quá, Lã Huỳnh phải đi ăn xin ở dọc đường để tìm tới lớp học của cha. Được tin thân mẫu thày mất, học trò bảo nhau góp tiền phúng điếu và biếu thày lộ phí về quê. Trần Quân góp nhiều gấp đôi. Chử sinh không có tiền góp, cứ rơm rớm nước mắt, thở dài. Trần Quân an ủi:"Đệ đã góp cả phần của huynh rồi!" Trước khi từ biệt đám học trò, tiên sinh gọi riêng Trần Quân ra một nơi mà bảo: "Học thày chẳng tày học bạn. Mời Chử sinh về nhà mà học!" Trần Quân đáp:"Xin vâng" Tiên sinh đi rồi, Trần Quân liền mời Chử sinh về nhà mình ở, dạy mình học. Chử sinh ưng thuận. Chẳng bao lâu, Trần Quân được nhận vào học ở trường huyện.
Năm sau, triều đình mở khoa thi hương ở Hà Bắc từ ngày 10 đến ngày 15 tháng 8. Trần Quân rủ Chử sinh: "Ta cùng đi thi, huynh nghĩ thế nào?" Chử sinh đáp:"Đệ chẳng cầu công danh thì đi thi để làm chi?" Trần Quân nói:"Văn chương của đệ kém lắm! Đi thi một mình, không người giúp đỡ, khó lòng mà đậu!" Chử sinh nói:"Nếu thế thì để đệ đi thi giùm cho!" Trần Quân nói:"Làm sao mà đi thi giùm được? Quan trường mà biết thì cả hai cùng bị ngồi tù!" Chử sinh nói:"Chẳng sao đâu! Đệ đã có cách!" Trần Quân hỏi:"Cách nào?" Chử sinh lắc đầu, đáp:"Xin đừng hỏi! Cứ để từ từ rồi sẽ rõ!"
Sáng ngày 10 tháng 8, Chử sinh dậy sớm, ra khỏi nhà. Lát sau, trở về, dắt theo một khách lạ, giới thiệu với Trần Quân:"Đây là Lưu ca, húy Thiên Nhược, biểu huynh của đệ, nhà cũng ở gần đây! Hôm nay, đệ đi thi giùm huynh nên đến nhờ Lưu ca tới đây dắt huynh về nhà Lưu ca chơi. Năm hôm nữa, khi trường thi đóng cửa, Lưu ca sẽ đưa huynh về. Huynh đừng có lo chi tới chuyện thi cử cả, cứ an tâm mà ở chơi với Lưu ca!" Trần Quân gật đầu rồi đi theo Thiên Nhược. Hai người vừa bước ra khỏi cổng thì chợt Chử sinh tất tưởi chạy theo, gọi:"Trần huynh! Hãy chờ đệ dặn điều này!" Trần Quân vội đứng lại. Thiên Nhược cũng đứng lại theo. Chử sinh chạy tới nắm lấy ống tay áo của Trần Quân mà kéo lại, làm cho Trần Quân ngã chúi xuống đất. Thiên Nhược vội đỡ Trần Quân dậy rồi nói với Chử sinh: "Hiền đệ cứ về đi! Để ngu ca dặn lại Trần huynh cho!" Chử sinh bèn quay về. Trần Quân hỏi Thiên Nhược:"Chử huynh muốn dặn đệ điều chi?" Thiên Nhược chỉ mỉm cười, không đáp. Thấy thế, Trần Quân cũng thôi không hỏi nữa, tiếp tục đi theo Thiên Nhược.
Tới nhà Thiên Nhược, Trần Quân thấy trong nhà chỉ có một tiểu đồng chứ chẳng có đàn bà con gái. Thiên Nhược sai tiểu đồng đi dọn một phòng riêng cho Trần Quân rồi đi bày tiệc rượu. Sau khi yến ẩm, Thiên Nhược dắt Trần Quân đi ngoạn cảnh ở quanh vùng.
Hôm sau, trong lúc ngồi đàm đạo với Trần Quân, Thiên Nhược hỏi:"Ở gần đây có hoa viên nhà Lý hoàng thân đẹp nổi tiếng, huynh có biết không?" Trần Quân đáp:"Đệ có nghe nói, song chưa tới bao giờ" Hỏi:"Có kỹ viện Mai Hoa cũng nổi tiếng lắm, huynh có biết không?" Đáp:"Đệ cũng nghe nói, song cũng chưa tới bao giờ! Tuy nhiên, đệ có quen với một kỹ nữ ở trong viện!" Hỏi:"Sao huynh chưa tới kỹ viện mà lại quen với kỹ nữ ở trong viện?" Đáp:"Vì trước kia đệ được bạn bè giới thiệu rồi dẫn tới nhà riêng của kỹ nữ ấy để nghe ca hát và xướng họa" Hỏi:"Ai thế?" Đáp:"Lý Át Vân!" Hỏi:"Huynh thấy Át Vân thế nào?" Đáp:"Đệ thấy Át Vân ca hát đã hay mà xướng họa lại giỏi, chẳng hổ danh là đệ nhất kỹ nữ ở vùng này!"
Bốn hôm sau, nhằm tết trung thu, Thiên Nhược nói:"Chiều nay, tết trung thu, nhà Lý hoàng thân sẽ mở cổng hoa viên cho du khách vào coi. Ta cũng nên bắt chước du khách, đem chút rượu vào, vừa uống vừa thưởng hoa cho đỡ buồn. Lúc nào chán, huynh cứ nói, đệ sẽ đưa về!" Trần Quân ưng thuận. Thiên Nhược bèn bảo tiểu đồng đem rượu với chén theo. Tới nơi, thấy du khách đông quá, Trần Quân còn đang tìm cách chen chân thì chợt thấy Thiên Nhược nắm tay mình kéo vào vườn. Tới hồ sen, Thiên Nhược dắt Trần Quân đến gốc liễu, rồi dắt xuống ngồi trên chiếc thuyền nhỏ neo ở cạnh bờ. Tiểu đồng theo sát hai người. Thiên Nhược bảo tiểu đồng lấy chén rót rượu. Thiên Nhược mời Trần Quân đối ẩm với mình. Rượu được vài tuần, bỗng Thiên Nhược nói với tiểu đồng:"Thày nghe nói kỹ viện Mai Hoa mới mộ được một kỹ nữ nổi danh. Con thử tới hỏi xem hiện thời cô ấy có mặt ở trong viện không? Nếu có, con cứ nói với viện chủ rằng thày muốn xin cho cô ấy được theo con về đây một lát!" Tiểu đồng vâng dạ rồi chạy đi ngay.
Lát sau, tiểu đồng trở về, dắt theo một kỹ nữ. Thấy kỹ nữ chính là Át Vân, Trần Quân vội đứng dậy chào. Át Vân có vẻ mặt rầu rầu, chỉ khẽ gật đầu chào lại. Thấy Át Vân chẳng vồn vã như xưa, Trần Quân lấy làm lạ. Thiên Nhược bèn bảo Át Vân ngồi xuống ghế, cạnh hai người, rồi nói:"Bữa nay, ta có vị khách quý đây tới thăm, nàng hãy hát cho nghe một khúc!" Át Vân khẽ đáp:"Xin vâng!" rồi cất tiếng hát khúc Vĩnh biệt, giọng hát thê lương. Trần Quân chẳng vui, nói:"Hôm nay là tết trung thu vui vẻ, chúng tôi tới đây là để thưởng hoa chứ có phải là để dự tang lễ đâu mà nàng lại hát khúc sầu muộn ấy? Tôi chắc Lưu huynh đây cũng cùng một ý như tôi!" Thiên Nhược chẳng nói chi, còn Át Vân thì gượng mỉm cười, nói:"Xin cố nhân thứ lỗi cho!" Rồi đứng dậy, cố lấy vẻ mặt vui tươi, cất tiếng hát khúc Diễm tình. Thấy thế, Trần Quân vui lắm, cũng đứng dậy, tới cầm tay Át Vân, nói:"Lần trước gặp nàng, được nghe nàng hát khúc Giặt khăn bên suối, tôi có thuộc lòng nhưng vì lâu rồi nên đã quên hết! Bây giờ nàng có thể hát lại khúc ấy cho nghe một lần nữa được chăng?" Át Vân gật đầu, sửa giọng rồi hát:
Tròng đầy nước mắt, đứng soi gương,
Thấp thoáng trong dòng, bóng mỹ nương.
Cúi xuống ngắm nhìn, đôi gót nhỏ,
Gượng cười, đôi má lúm đồng tiền.
Tay áo gạt ngang, lau nước mắt,
Sợ người trông thấy, lại bi thương
Trần Quân vui lắm, nhẩm thuộc lòng khúc ấy. Thiên Nhược bèn sai tiểu đồng lấy tiền ra trả cho Át Vân, rồi dắt trở về kỹ viện.
Át Vân đi rồi, Thiên Nhược quay qua nói với Trần Quân:"Bây giờ ta hãy lên bờ coi hoa!" rồi đứng dậy, bước lên bờ. Trần Quân vội bước theo. Vào một hành lang, thấy trên vách có đề rất nhiều thơ phú của du khách, ca tụng thắng cảnh trong hoa viên, Trần Quân bỗng nổi hứng, cũng rút bút trên giá, đề lên vách một bài thơ.
Khi mặt trời bắt đầu lặn, Thiên Nhược nói:"Chắc giờ này thì trường thi đã đóng cửa! Thôi, để đệ đưa huynh về!" rồi rảo bước lên đường. Trần Quân cũng vội rảo bước đi theo. Lát sau, tới cổng nhà Trần Quân, Thiên Nhược nói:"Thôi, huynh vào nhà đi, đệ về đây!" rồi quay người bước đi. Trần Quân nhìn theo, chớp mắt đã thấy Thiên Nhược đi xa tắp, trông chỉ còn nhỏ bằng ngón tay.
Trần Quân đóng cổng, vào nhà thì thấy nhà tối om, chẳng một bóng người. Toan lên tiếng gọi gia nhân thắp đèn thì chợt thấy Chử sinh lù lù từ ngoài sân bước vào phòng khách. Dụi mắt nhìn thì thấy Chử sinh đã biến thành khách lạ. Còn đang kinh hãi, đột nhiên Trần Quân thấy khách lạ bước tới gần mình, ngã lăn xuống đất. Rồi có tiếng gia nhân gọi nhau ơi ới:"Thắp đèn đem lên coi! Công tử nhà ta đi thi về rồi! Chắc là công tử nghĩ bài thi mệt quá nên bây giờ bị ngã, đang nằm hôn mê bất tỉnh trên phòng khách kia kìa!"
Gia nhân vội thắp đèn đem lên, xúm nhau lại khiêng khách lạ lên giường. Trần Quân dụi mắt nhìn thì thấy mình đang nằm trên giường, chung quanh toàn là gia nhân đứng cầm đèn. Lúc đó Trần Quân mới vỡ lẽ rằng khách lạ chính là mình chứ chẳng phải là ai khác.
Trần Quân vùng dậy nhìn quanh. Thấy Chử sinh ngồi ở mép giường, Trần Quân vội đuổi hết gia nhân xuống nhà dưới để mình nói chuyện với Chử sinh. Chử sinh lên iếng:"Trước hết, xin huynh hãy bình tĩnh mà nghe đệ nói, chớ có kinh hãi! Thú thực với huynh, đệ là ma chứ chẳng phải là người! Đáng lẽ đệ phải đi đầu thai từ lâu rồi, song vì cảm cái tình bạn quý báu của huynh nên đệ đã xin với Diêm Vương cho hoãn ít bữa, để ở lại đi thi giùm huynh. Hôm nọ đệ kéo cho huynh ngã chúi ở ngoài cổng là cốt để đẩy hồn huynh ra khỏi xác, nhờ Lưu ca dắt xuống âm phủ chơi dăm ngày, còn đệ thì nhập vào xác của huynh mà đi thi giùm. Bây giờ, việc thi giùm đã xong, đệ xin trả lại xác cho huynh!" Trần Quân vội hỏi: "Thế huynh đi thi giùm đệ, làm bài có được không?" Chử sinh đáp:"Chắc là được!" Nói:"Nếu thế thì xin huynh ở lại thêm ít lâu để đi thi hội giùm đệ!" Chử sinh lắc đầu, đáp: "Chẳng được đâu!" Hỏi:"Sao vậy?" Đáp:"Vì kiếp trước huynh không tu nhân tích đức nên kiếp này phúc phận mỏng lắm, chẳng sao đậu tiến sĩ được! Vả lại cũng tới ngày đệ phải đi đầu thai rồi!" Hỏi:"Huynh phải đi đầu thai làm con ai?" Đáp:"Đệ cũng chưa biết, song đệ muốn được đi đầu thai làm con thày Lã ở Triết Giang vì thày đã lấy tình cha con mà đối xử với đệ!" Hỏi:"Muốn đi đầu thai làm con thày thì phải làm thế nào?" Đáp:"Phải nhờ người xin với Diêm Vương!" Hỏi:"Huynh đã nhờ ai chưa?" Đáp:"Đã! Đệ đã nhờ Lưu ca vì Lưu ca hiện đang làm quan lớn dưới âm phủ, quyền thế lắm!" Hỏi:"Đã có kết quả gì chưa?" Đáp:"Chưa! Cũng chẳng biết là có được hay không!" Hỏi:"Thế nhưng hôm nay thì huynh vẫn còn ở lại đây với đệ chứ?" Đáp:"Không đâu! Bây giờ đệ phải đi ngay! Tuy nhiên, tối mai đệ sẽ trở lại đây lần chót để báo tin cho huynh biết về kết quả thi cử!" Nói xong, Chử sinh xăm xăm bước ra khỏi cửa. Trần Quân thấy đói, kêu gia nhân bưng cơm lên cho ăn, rồi đi ngủ.
Sáng sau, Trần Quân dậy sớm, tắm rửa sạch sẽ, tìm tới hoa viên nhà Lý hoàng thân, xin vào thưởng hoa. Được người canh cổng cho vào, Trần Quân tới thẳng hành lang để xem có bài thơ của mình đề trên vách hay không thì thấy có, song nét mực đã phai, tựa hồ như bị ai lấy nước kỳ cọ tẩy xóa vậy. Lúc đó, Trần Quân mới vỡ lẽ rằng hôm qua Thiên Nhược đã dắt hồn mình tới đây. Dời hoa viên, Trần Quân tìm tới kỹ viện Mai Hoa, xin được gặp Át Vân. Mụ chủ cho biết là Át Vân đã chết được ba ngày. Lúc đó, Trần Quân mới vỡ lẽ rằng kỹ nữ mà hôm qua Thiên Nhược sai tiểu đồng đi mời tới hoa viên chính là hồn ma của Át Vân. Trên đường về, Trần Quân cứ suy nghĩ mãi về các sự việc kỳ lạ này.
Tối ấy, quả nhiên Trần Quân thấy Chử sinh bước vào nhà, nói:"Việc đệ thi giùm huynh đã có kết quả. Huynh đã đậu thủ khoa! Còn việc đệ nhờ Lưu ca giúp cũng đã có kết quả. Diêm Vương đã cho đệ đi đầu thai làm con thày Lã ở Triết Giang!" Rồi tiếp:"Huynh làm ơn lấy bút son ra viết giùm hai chữ Chử đỏ vào hai bàn tay cho đệ!" Trần Quân lấy bút ra viết rồi nói:"Để đệ bảo gia nhân bày tiệc rượu cho chúng ta yến ẩm đàm đạo" Chử sinh gạt đi, nói:"Không được đâu! Bây giờ đệ phải đi ngay, chẳng có thì giờ ở lại! Nếu huynh còn nhớ tới tình bạn thì sau khi đi xem bảng tân khoa, hãy tới nhà thày Lã ở Triết Giang mà gặp đệ. Thôi, đệ phải đi đây!" Trần Quân cảm động, rơm rớm nước mắt, tiễn Chử sinh ra cổng. Tới cổng, Trần Quân thấy một người đang đứng lảng vảng ở bên ngoài, lưng đeo túi lớn. Chử sinh vừa bước ra khỏi cổng thì liền bị người ấy xòe bàn tay, ấn vào đỉnh đầu, làm cho thân hình xẹp xuống. Khi Chử sinh chỉ còn bằng ngón tay, người ấy cúi xuống nhặt bỏ vào túi đeo trên lưng, buộc kỹ miệng túi, rồi cất bước đi.
Đầu tháng 9, Trần Quân đi xem bảng thì quả nhiên thấy mình đậu thủ khoa. Trần Quân mừng lắm, trong lòng cứ thầm cám ơn Chử sinh.
Tuần sau, Trần Quân sắm sửa hành trang, tiền bạc, quà cáp, đem đi Triết Giang. Tới nơi, hỏi thăm được nhà thày Lã, bèn tìm tới. Thày trò gặp nhau, hàn huyên mọi nỗi. Trần Quân hỏi:"Thày có khỏe không?" Tiên sinh đáp:"Khỏe" Hỏi:"Cô có khỏe không?" Đáp:"Khỏe! Hôm qua cô vừa sanh em trai. Cô nghỉ sanh đã hơn mười năm, bỗng năm nay lại hoài thai!" Hỏi:"Em bé có khỏe không?" Đáp:"Khỏe, duy có điều là hai bàn tay cứ nắm chặt, gia nhân lực lưỡng mở cũng chẳng ra!" Nói:"Thày để con vào mở hai nắm tay cho em bé!" Hỏi:"Anh có bùa phép gì?" Đáp:"Con đâu có bùa phép gì song con nghĩ là con mở được vì em bé với con là chỗ bạn thân. Trong hai bàn tay của em bé, thế nào cũng có hai chữ Chử đỏ!" Tiên sinh lắc đầu chẳng tin song vẫn dắt Trần quân vào thăm đứa bé. Cả nhà cùng theo vào.
Vừa nhìn thấy Trần Quân, đứa bé liền xoè hai bàn tay, duỗi thẳng mười ngón. Cả nhà cùng lấy làm lạ, xúm lại coi. Thấy trong hai bàn tay đứa bé có hai chữ Chử đỏ, cả nhà cùng kinh hãi, còn Trần Quân thì nhận ra đúng là bút tích của mình. Tiên sinh hỏi:"Sao anh lại biết rõ thế?" Trần Quân bèn thuật lại cho mọi người nghe chuyện Chử sinh thú thực rằng mình là ma cũng như chuyện Chử sinh đi thi giùm. Ai cũng cho là chuyện kỳ lạ. Tiên sinh liền đặt tên cho đứa bé là Lã Chử. Trần Quân bèn đem tiền bạc quà cáp ra tạ thày về việc thày đã dạy dỗ mình. Hôm sau, Trần Quân xin cáo biệt thày để về quê, dọn nhà lên kinh đô cư ngụ, làm ăn, buôn bán.
Mười ba năm sau.
Đầu mùa thu, nhân chuyến lên kinh đô dự khoa thi hội, tiên sinh đem theo cả gia đình đến ở nhờ nhà Trần Quân. Khoa ấy, tiên sinh thi đậu tiến sĩ, rồi thuê nhà cư ngụ luôn ở kinh đô.
Năm ấy, Lã Chử đã mười ba tuổi, học hành thông minh lắm. Cuối năm, được nhận vào học ở quốc tử giám.
Sư môn phong nghĩa cảm bình sinh
Hiếu học lân tài lưỡng dụng tình
Tự thị tư văn đồng cốt nhục
Báo ân nguyên bất vấn u minh
Huyện Thuận Thiên, tỉnh Hà Bắc, có núi Nùng Sơn. Trên núi, có chùa Chánh Đô. Trong huyện, có thương gia họ Trần, rất giàu có, mở một cửa tiệm lớn ở chợ huyện. Trần ông góa vợ, có một trai tên Quân, đậu cử nhân. Trần Quân thuật chuyện:
Trước kia, nhà sư trụ trì chùa Chánh Đô mở lớp dạy học, thu học phí vào cuối tháng. Dân chúng trong vùng cho con lên theo học rất đông. Trần ông cũng cho con lên theo học. Trong đám học trò có một nho sinh vừa giỏi lại vừa chăm, được nhà sư cho cư ngụ ngay trong chùa. Trần Quân ưa thích nho sinh ấy lắm, muốn được kết bạn. Một hôm, Trần Quân tới gần làm quen, nói:"Đệ họ Trần. Huynh họ chi?" Nho sinh đáp:"Đệ họ Chử" Hỏi: "Phải chăng quê huynh cũng ở vùng này?" Đáp:"Chẳng phải! Quê đệ ở huyện Đông Sơn, tỉnh Triết Giang!" Vì hợp tính nhau, chẳng bao lâu, hai người trở thành bạn thân.
Cuối năm, học trò ở xa đều xin phép về quê ăn Tết, duy có Chử sinh là không xin về. Trần Quân ngạc nhiên, hỏi:"Sao huynh không xin phép về quê ăn Tết?" Chử sinh đáp:"Đường thì xa mà nhà thì nghèo, đệ không có tiền về, phải ở lại đây đi làm để kiếm tiền trả học phí!" Hỏi:"Huynh có hay học khuya không?" Đáp:"Có! Đêm nào đệ cũng thức khuya để học cho khỏi uổng học phí vì kiếm tiền vất vả lắm! Thời gian đệ học trong hai ngày có thể nói là bằng thời gian các bạn đồng môn học trong ba ngày!" Trần Quân cảm phục lắm, nói:"Đệ muốn về xin phép gia nghiêm cho lên đây ở chung với huynh để học, huynh có chịu không?" Chử sinh lắc đầu, can:"Không nên! Nhà sư chùa này văn chương dở lắm, chẳng đáng làm thày mình lâu đâu. Ở Triết Giang, vùng quê đệ, có vị túc nho, văn chương giỏi lắm, đáng làm thày mình. Tiên sinh sang vùng này kinh doanh song vì còn thiếu vốn nên tạm thời phải mở lớp dạy học ở cửa Phụ Thành, nhận học trò nội trú. Hết tháng này, đệ sẽ xin thôi học ở đây để sang đó xin theo học. Huynh cũng nên sang đó mà xin theo học!" Hỏi:"Ai thế?" Đáp:"Lã tiên sinh!" Trần Quân bèn về xin cha cho mình tới nội trú ở nhà Lã tiên sinh. Trần ông chấp thuận.
Cuối tháng, hai người trang trải xong học phí cho nhà sư rồi rủ nhau tới nhà Lã tiên sinh, xin nội trú để theo học. Tiên sinh nhận lời, cho hai người ở chung một phòng. Hai người bèn dọn tới ở nhà thày, ban ngày cùng học một bàn, ban đêm cùng nằm một giường. Chử sinh học rất thông minh, lướt mắt đọc một lần là nhớ, lắng tai nghe một lượt là thông nên được thày rất nể trọng.
Tháng sau, một hôm Chử sinh xin thày cho mình về quê thăm nhà ít bữa. Trần Quân lấy làm lạ vì thấy trước kia, khi còn ở chùa, chẳng bao giờ Chử sinh xin về quê thăm nhà, mà bây giờ mới tới đây học được có một tháng đã xin về. Mười ngày sau, thấy Chử sinh chưa trở lại nhà thày, Trần Quân càng lấy làm lạ.
Hôm sau, Trần Quân có việc phải lên chùa Thiên Ninh. Tình cờ nhìn thấy Chử sinh đang ngồi làm diêm ở hành lang chùa, Trần Quân kinh ngạc, vội chạy tới hỏi: "Sao huynh lại nghỉ học?" Thấy bạn tới, Chử sinh tỏ vẻ ngượng ngùng, đứng dậy nắm tay bạn, nhìn thẳng vào mắt hồi lâu, rồi buồn bã đáp:"Đệ nghèo lắm, cuối tháng chẳng có học phí nạp thày nên phải tới đây làm diêm để kiếm tiền nạp. Nạp xong, đệ mới xin theo học tiếp!" Trần Quân cảm khái, suy nghĩ hồi lâu, rồi nói:"Huynh hãy trở lại nhà thày học đi! Đệ sẽ nạp học phí cho!" Chử sinh lắc đầu, hỏi:"Huynh lấy tiền ở đâu ra mà nạp cho đệ?" Trần Quân đáp:"Đệ đã có cách, xin huynh chớ hỏi!" Chử sinh đứng suy nghĩ hồi lâu rồi thở dài, nói:"Nể lời huynh, đệ xin vâng!" Nói xong, thu dọn đồ nghề làm diêm, đem trả lại nhà chùa. Trên đường về nhà thày, Chử sinh dặn:"Xin huynh chớ tiết lộ chuyện đệ làm diêm với thày! Nếu thày có hỏi tại sao đệ về thăm nhà lâu thế thì huynh cứ nói giùm là đệ bận việc nhà!" Trần Quân gật đầu.
Hôm sau, Trần Quân về nhà, lấy trộm tiền của cha, đem tới nạp thày, nói là tiền của Chử sinh gửi nạp học phí. Thày tưởng thực nên nhận. Mấy hôm sau, Trần ông kiểm soát lại sổ sách thì thấy là mình bị mất tiền.
Tháng sau, Trần Quân về thăm nhà. Trần ông hỏi: "Mày có lấy trộm tiền của tao không?" Trần Quân thú thực:"Thưa có!" Hỏi:"Mày lấy để làm gì?" Đáp:"Con lấy để giúp người bạn họ Chử nạp học phí!" Trần ông mắng: "Sao mày ngu thế?" rồi bắt Trần Quân phải xin nghỉ học.
Chử sinh biết chuyện, ngượng quá, cũng xin nghỉ học theo. Tiên sinh hỏi:"Sao lại xin nghỉ học?" Chử sinh đáp:"Con nghèo lắm, chẳng có học phí nạp thày nên Trần sinh phải lấy trộm tiền của thân phụ để nạp giùm con. Trần ông biết chuyện, bắt Trần sinh phải xin nghỉ học. Vì thế, con ngượng quá, cũng xin nghỉ theo!" Tiên sinh mắng:"Không có tiền, sao chẳng nói? Bây giờ cứ ở lại đây mà học, chẳng phải nạp tiền ăn, tiền ở, tiền học chi hết!" Chử sinh lặng im, chẳng đáp. Tiên sinh bèn trả lại học phí cho Chử sinh, sai đem hoàn lại Trần ông. Từ đó, tiên sinh coi Chử sinh như con ruột.
Trần Quân nhớ bạn, tới lớp học mời Chử sinh đi uống rượu. Chử sinh từ chối. Trần Quân cứ cố mời. Chử sinh vẫn từ chối. Trần Quân rơm rớm nước mắt, hỏi: "Huynh muốn tuyệt tình bạn hay sao?" Chử sinh thở dài, đáp:"Chẳng phải thế, song đi một lần thì thành lệ, mà thành lệ thì tốn tiền của huynh! Nếu huynh hứa rằng vài ba tháng mới tới rủ một lần thì đệ xin vâng!" Trần Quân gật đầu rồi mời đi. Chử sinh đành chiều bạn. Từ đó, cứ hai tháng một lần, Trần Quân lại tới lớp học mời Chử sinh đi uống rượu.
Hai năm sau, Trần ông mất. Trần Quân được thừa hưởng gia sản lớn của cha. Làm tang lễ cho cha xong, Trần Quân tới nhà tiên sinh xin theo học lại. Tiên sinh hỏi:"Có gia sản lớn, còn xin theo học làm chi?" Đáp:"Xin theo học để biết thêm nghĩa lý" Tiên sinh bèn cho theo học. Tuy nhiên, vì bỏ học đã hai năm nên so với Chử sinh, chữ nghĩa văn chương của Trần Quân thua sút lắm.
Nửa năm sau, thân mẫu tiên sinh mất ở Triết Giang. Trưởng nam tiên sinh là Lã Huỳnh bèn lên đường tới Hà Bắc rước cha về quê làm tang lễ cho bà nội. Vì nghèo quá, Lã Huỳnh phải đi ăn xin ở dọc đường để tìm tới lớp học của cha. Được tin thân mẫu thày mất, học trò bảo nhau góp tiền phúng điếu và biếu thày lộ phí về quê. Trần Quân góp nhiều gấp đôi. Chử sinh không có tiền góp, cứ rơm rớm nước mắt, thở dài. Trần Quân an ủi:"Đệ đã góp cả phần của huynh rồi!" Trước khi từ biệt đám học trò, tiên sinh gọi riêng Trần Quân ra một nơi mà bảo: "Học thày chẳng tày học bạn. Mời Chử sinh về nhà mà học!" Trần Quân đáp:"Xin vâng" Tiên sinh đi rồi, Trần Quân liền mời Chử sinh về nhà mình ở, dạy mình học. Chử sinh ưng thuận. Chẳng bao lâu, Trần Quân được nhận vào học ở trường huyện.
Năm sau, triều đình mở khoa thi hương ở Hà Bắc từ ngày 10 đến ngày 15 tháng 8. Trần Quân rủ Chử sinh: "Ta cùng đi thi, huynh nghĩ thế nào?" Chử sinh đáp:"Đệ chẳng cầu công danh thì đi thi để làm chi?" Trần Quân nói:"Văn chương của đệ kém lắm! Đi thi một mình, không người giúp đỡ, khó lòng mà đậu!" Chử sinh nói:"Nếu thế thì để đệ đi thi giùm cho!" Trần Quân nói:"Làm sao mà đi thi giùm được? Quan trường mà biết thì cả hai cùng bị ngồi tù!" Chử sinh nói:"Chẳng sao đâu! Đệ đã có cách!" Trần Quân hỏi:"Cách nào?" Chử sinh lắc đầu, đáp:"Xin đừng hỏi! Cứ để từ từ rồi sẽ rõ!"
Sáng ngày 10 tháng 8, Chử sinh dậy sớm, ra khỏi nhà. Lát sau, trở về, dắt theo một khách lạ, giới thiệu với Trần Quân:"Đây là Lưu ca, húy Thiên Nhược, biểu huynh của đệ, nhà cũng ở gần đây! Hôm nay, đệ đi thi giùm huynh nên đến nhờ Lưu ca tới đây dắt huynh về nhà Lưu ca chơi. Năm hôm nữa, khi trường thi đóng cửa, Lưu ca sẽ đưa huynh về. Huynh đừng có lo chi tới chuyện thi cử cả, cứ an tâm mà ở chơi với Lưu ca!" Trần Quân gật đầu rồi đi theo Thiên Nhược. Hai người vừa bước ra khỏi cổng thì chợt Chử sinh tất tưởi chạy theo, gọi:"Trần huynh! Hãy chờ đệ dặn điều này!" Trần Quân vội đứng lại. Thiên Nhược cũng đứng lại theo. Chử sinh chạy tới nắm lấy ống tay áo của Trần Quân mà kéo lại, làm cho Trần Quân ngã chúi xuống đất. Thiên Nhược vội đỡ Trần Quân dậy rồi nói với Chử sinh: "Hiền đệ cứ về đi! Để ngu ca dặn lại Trần huynh cho!" Chử sinh bèn quay về. Trần Quân hỏi Thiên Nhược:"Chử huynh muốn dặn đệ điều chi?" Thiên Nhược chỉ mỉm cười, không đáp. Thấy thế, Trần Quân cũng thôi không hỏi nữa, tiếp tục đi theo Thiên Nhược.
Tới nhà Thiên Nhược, Trần Quân thấy trong nhà chỉ có một tiểu đồng chứ chẳng có đàn bà con gái. Thiên Nhược sai tiểu đồng đi dọn một phòng riêng cho Trần Quân rồi đi bày tiệc rượu. Sau khi yến ẩm, Thiên Nhược dắt Trần Quân đi ngoạn cảnh ở quanh vùng.
Hôm sau, trong lúc ngồi đàm đạo với Trần Quân, Thiên Nhược hỏi:"Ở gần đây có hoa viên nhà Lý hoàng thân đẹp nổi tiếng, huynh có biết không?" Trần Quân đáp:"Đệ có nghe nói, song chưa tới bao giờ" Hỏi:"Có kỹ viện Mai Hoa cũng nổi tiếng lắm, huynh có biết không?" Đáp:"Đệ cũng nghe nói, song cũng chưa tới bao giờ! Tuy nhiên, đệ có quen với một kỹ nữ ở trong viện!" Hỏi:"Sao huynh chưa tới kỹ viện mà lại quen với kỹ nữ ở trong viện?" Đáp:"Vì trước kia đệ được bạn bè giới thiệu rồi dẫn tới nhà riêng của kỹ nữ ấy để nghe ca hát và xướng họa" Hỏi:"Ai thế?" Đáp:"Lý Át Vân!" Hỏi:"Huynh thấy Át Vân thế nào?" Đáp:"Đệ thấy Át Vân ca hát đã hay mà xướng họa lại giỏi, chẳng hổ danh là đệ nhất kỹ nữ ở vùng này!"
Bốn hôm sau, nhằm tết trung thu, Thiên Nhược nói:"Chiều nay, tết trung thu, nhà Lý hoàng thân sẽ mở cổng hoa viên cho du khách vào coi. Ta cũng nên bắt chước du khách, đem chút rượu vào, vừa uống vừa thưởng hoa cho đỡ buồn. Lúc nào chán, huynh cứ nói, đệ sẽ đưa về!" Trần Quân ưng thuận. Thiên Nhược bèn bảo tiểu đồng đem rượu với chén theo. Tới nơi, thấy du khách đông quá, Trần Quân còn đang tìm cách chen chân thì chợt thấy Thiên Nhược nắm tay mình kéo vào vườn. Tới hồ sen, Thiên Nhược dắt Trần Quân đến gốc liễu, rồi dắt xuống ngồi trên chiếc thuyền nhỏ neo ở cạnh bờ. Tiểu đồng theo sát hai người. Thiên Nhược bảo tiểu đồng lấy chén rót rượu. Thiên Nhược mời Trần Quân đối ẩm với mình. Rượu được vài tuần, bỗng Thiên Nhược nói với tiểu đồng:"Thày nghe nói kỹ viện Mai Hoa mới mộ được một kỹ nữ nổi danh. Con thử tới hỏi xem hiện thời cô ấy có mặt ở trong viện không? Nếu có, con cứ nói với viện chủ rằng thày muốn xin cho cô ấy được theo con về đây một lát!" Tiểu đồng vâng dạ rồi chạy đi ngay.
Lát sau, tiểu đồng trở về, dắt theo một kỹ nữ. Thấy kỹ nữ chính là Át Vân, Trần Quân vội đứng dậy chào. Át Vân có vẻ mặt rầu rầu, chỉ khẽ gật đầu chào lại. Thấy Át Vân chẳng vồn vã như xưa, Trần Quân lấy làm lạ. Thiên Nhược bèn bảo Át Vân ngồi xuống ghế, cạnh hai người, rồi nói:"Bữa nay, ta có vị khách quý đây tới thăm, nàng hãy hát cho nghe một khúc!" Át Vân khẽ đáp:"Xin vâng!" rồi cất tiếng hát khúc Vĩnh biệt, giọng hát thê lương. Trần Quân chẳng vui, nói:"Hôm nay là tết trung thu vui vẻ, chúng tôi tới đây là để thưởng hoa chứ có phải là để dự tang lễ đâu mà nàng lại hát khúc sầu muộn ấy? Tôi chắc Lưu huynh đây cũng cùng một ý như tôi!" Thiên Nhược chẳng nói chi, còn Át Vân thì gượng mỉm cười, nói:"Xin cố nhân thứ lỗi cho!" Rồi đứng dậy, cố lấy vẻ mặt vui tươi, cất tiếng hát khúc Diễm tình. Thấy thế, Trần Quân vui lắm, cũng đứng dậy, tới cầm tay Át Vân, nói:"Lần trước gặp nàng, được nghe nàng hát khúc Giặt khăn bên suối, tôi có thuộc lòng nhưng vì lâu rồi nên đã quên hết! Bây giờ nàng có thể hát lại khúc ấy cho nghe một lần nữa được chăng?" Át Vân gật đầu, sửa giọng rồi hát:
Tròng đầy nước mắt, đứng soi gương,
Thấp thoáng trong dòng, bóng mỹ nương.
Cúi xuống ngắm nhìn, đôi gót nhỏ,
Gượng cười, đôi má lúm đồng tiền.
Tay áo gạt ngang, lau nước mắt,
Sợ người trông thấy, lại bi thương
Trần Quân vui lắm, nhẩm thuộc lòng khúc ấy. Thiên Nhược bèn sai tiểu đồng lấy tiền ra trả cho Át Vân, rồi dắt trở về kỹ viện.
Át Vân đi rồi, Thiên Nhược quay qua nói với Trần Quân:"Bây giờ ta hãy lên bờ coi hoa!" rồi đứng dậy, bước lên bờ. Trần Quân vội bước theo. Vào một hành lang, thấy trên vách có đề rất nhiều thơ phú của du khách, ca tụng thắng cảnh trong hoa viên, Trần Quân bỗng nổi hứng, cũng rút bút trên giá, đề lên vách một bài thơ.
Khi mặt trời bắt đầu lặn, Thiên Nhược nói:"Chắc giờ này thì trường thi đã đóng cửa! Thôi, để đệ đưa huynh về!" rồi rảo bước lên đường. Trần Quân cũng vội rảo bước đi theo. Lát sau, tới cổng nhà Trần Quân, Thiên Nhược nói:"Thôi, huynh vào nhà đi, đệ về đây!" rồi quay người bước đi. Trần Quân nhìn theo, chớp mắt đã thấy Thiên Nhược đi xa tắp, trông chỉ còn nhỏ bằng ngón tay.
Trần Quân đóng cổng, vào nhà thì thấy nhà tối om, chẳng một bóng người. Toan lên tiếng gọi gia nhân thắp đèn thì chợt thấy Chử sinh lù lù từ ngoài sân bước vào phòng khách. Dụi mắt nhìn thì thấy Chử sinh đã biến thành khách lạ. Còn đang kinh hãi, đột nhiên Trần Quân thấy khách lạ bước tới gần mình, ngã lăn xuống đất. Rồi có tiếng gia nhân gọi nhau ơi ới:"Thắp đèn đem lên coi! Công tử nhà ta đi thi về rồi! Chắc là công tử nghĩ bài thi mệt quá nên bây giờ bị ngã, đang nằm hôn mê bất tỉnh trên phòng khách kia kìa!"
Gia nhân vội thắp đèn đem lên, xúm nhau lại khiêng khách lạ lên giường. Trần Quân dụi mắt nhìn thì thấy mình đang nằm trên giường, chung quanh toàn là gia nhân đứng cầm đèn. Lúc đó Trần Quân mới vỡ lẽ rằng khách lạ chính là mình chứ chẳng phải là ai khác.
Trần Quân vùng dậy nhìn quanh. Thấy Chử sinh ngồi ở mép giường, Trần Quân vội đuổi hết gia nhân xuống nhà dưới để mình nói chuyện với Chử sinh. Chử sinh lên iếng:"Trước hết, xin huynh hãy bình tĩnh mà nghe đệ nói, chớ có kinh hãi! Thú thực với huynh, đệ là ma chứ chẳng phải là người! Đáng lẽ đệ phải đi đầu thai từ lâu rồi, song vì cảm cái tình bạn quý báu của huynh nên đệ đã xin với Diêm Vương cho hoãn ít bữa, để ở lại đi thi giùm huynh. Hôm nọ đệ kéo cho huynh ngã chúi ở ngoài cổng là cốt để đẩy hồn huynh ra khỏi xác, nhờ Lưu ca dắt xuống âm phủ chơi dăm ngày, còn đệ thì nhập vào xác của huynh mà đi thi giùm. Bây giờ, việc thi giùm đã xong, đệ xin trả lại xác cho huynh!" Trần Quân vội hỏi: "Thế huynh đi thi giùm đệ, làm bài có được không?" Chử sinh đáp:"Chắc là được!" Nói:"Nếu thế thì xin huynh ở lại thêm ít lâu để đi thi hội giùm đệ!" Chử sinh lắc đầu, đáp: "Chẳng được đâu!" Hỏi:"Sao vậy?" Đáp:"Vì kiếp trước huynh không tu nhân tích đức nên kiếp này phúc phận mỏng lắm, chẳng sao đậu tiến sĩ được! Vả lại cũng tới ngày đệ phải đi đầu thai rồi!" Hỏi:"Huynh phải đi đầu thai làm con ai?" Đáp:"Đệ cũng chưa biết, song đệ muốn được đi đầu thai làm con thày Lã ở Triết Giang vì thày đã lấy tình cha con mà đối xử với đệ!" Hỏi:"Muốn đi đầu thai làm con thày thì phải làm thế nào?" Đáp:"Phải nhờ người xin với Diêm Vương!" Hỏi:"Huynh đã nhờ ai chưa?" Đáp:"Đã! Đệ đã nhờ Lưu ca vì Lưu ca hiện đang làm quan lớn dưới âm phủ, quyền thế lắm!" Hỏi:"Đã có kết quả gì chưa?" Đáp:"Chưa! Cũng chẳng biết là có được hay không!" Hỏi:"Thế nhưng hôm nay thì huynh vẫn còn ở lại đây với đệ chứ?" Đáp:"Không đâu! Bây giờ đệ phải đi ngay! Tuy nhiên, tối mai đệ sẽ trở lại đây lần chót để báo tin cho huynh biết về kết quả thi cử!" Nói xong, Chử sinh xăm xăm bước ra khỏi cửa. Trần Quân thấy đói, kêu gia nhân bưng cơm lên cho ăn, rồi đi ngủ.
Sáng sau, Trần Quân dậy sớm, tắm rửa sạch sẽ, tìm tới hoa viên nhà Lý hoàng thân, xin vào thưởng hoa. Được người canh cổng cho vào, Trần Quân tới thẳng hành lang để xem có bài thơ của mình đề trên vách hay không thì thấy có, song nét mực đã phai, tựa hồ như bị ai lấy nước kỳ cọ tẩy xóa vậy. Lúc đó, Trần Quân mới vỡ lẽ rằng hôm qua Thiên Nhược đã dắt hồn mình tới đây. Dời hoa viên, Trần Quân tìm tới kỹ viện Mai Hoa, xin được gặp Át Vân. Mụ chủ cho biết là Át Vân đã chết được ba ngày. Lúc đó, Trần Quân mới vỡ lẽ rằng kỹ nữ mà hôm qua Thiên Nhược sai tiểu đồng đi mời tới hoa viên chính là hồn ma của Át Vân. Trên đường về, Trần Quân cứ suy nghĩ mãi về các sự việc kỳ lạ này.
Tối ấy, quả nhiên Trần Quân thấy Chử sinh bước vào nhà, nói:"Việc đệ thi giùm huynh đã có kết quả. Huynh đã đậu thủ khoa! Còn việc đệ nhờ Lưu ca giúp cũng đã có kết quả. Diêm Vương đã cho đệ đi đầu thai làm con thày Lã ở Triết Giang!" Rồi tiếp:"Huynh làm ơn lấy bút son ra viết giùm hai chữ Chử đỏ vào hai bàn tay cho đệ!" Trần Quân lấy bút ra viết rồi nói:"Để đệ bảo gia nhân bày tiệc rượu cho chúng ta yến ẩm đàm đạo" Chử sinh gạt đi, nói:"Không được đâu! Bây giờ đệ phải đi ngay, chẳng có thì giờ ở lại! Nếu huynh còn nhớ tới tình bạn thì sau khi đi xem bảng tân khoa, hãy tới nhà thày Lã ở Triết Giang mà gặp đệ. Thôi, đệ phải đi đây!" Trần Quân cảm động, rơm rớm nước mắt, tiễn Chử sinh ra cổng. Tới cổng, Trần Quân thấy một người đang đứng lảng vảng ở bên ngoài, lưng đeo túi lớn. Chử sinh vừa bước ra khỏi cổng thì liền bị người ấy xòe bàn tay, ấn vào đỉnh đầu, làm cho thân hình xẹp xuống. Khi Chử sinh chỉ còn bằng ngón tay, người ấy cúi xuống nhặt bỏ vào túi đeo trên lưng, buộc kỹ miệng túi, rồi cất bước đi.
Đầu tháng 9, Trần Quân đi xem bảng thì quả nhiên thấy mình đậu thủ khoa. Trần Quân mừng lắm, trong lòng cứ thầm cám ơn Chử sinh.
Tuần sau, Trần Quân sắm sửa hành trang, tiền bạc, quà cáp, đem đi Triết Giang. Tới nơi, hỏi thăm được nhà thày Lã, bèn tìm tới. Thày trò gặp nhau, hàn huyên mọi nỗi. Trần Quân hỏi:"Thày có khỏe không?" Tiên sinh đáp:"Khỏe" Hỏi:"Cô có khỏe không?" Đáp:"Khỏe! Hôm qua cô vừa sanh em trai. Cô nghỉ sanh đã hơn mười năm, bỗng năm nay lại hoài thai!" Hỏi:"Em bé có khỏe không?" Đáp:"Khỏe, duy có điều là hai bàn tay cứ nắm chặt, gia nhân lực lưỡng mở cũng chẳng ra!" Nói:"Thày để con vào mở hai nắm tay cho em bé!" Hỏi:"Anh có bùa phép gì?" Đáp:"Con đâu có bùa phép gì song con nghĩ là con mở được vì em bé với con là chỗ bạn thân. Trong hai bàn tay của em bé, thế nào cũng có hai chữ Chử đỏ!" Tiên sinh lắc đầu chẳng tin song vẫn dắt Trần quân vào thăm đứa bé. Cả nhà cùng theo vào.
Vừa nhìn thấy Trần Quân, đứa bé liền xoè hai bàn tay, duỗi thẳng mười ngón. Cả nhà cùng lấy làm lạ, xúm lại coi. Thấy trong hai bàn tay đứa bé có hai chữ Chử đỏ, cả nhà cùng kinh hãi, còn Trần Quân thì nhận ra đúng là bút tích của mình. Tiên sinh hỏi:"Sao anh lại biết rõ thế?" Trần Quân bèn thuật lại cho mọi người nghe chuyện Chử sinh thú thực rằng mình là ma cũng như chuyện Chử sinh đi thi giùm. Ai cũng cho là chuyện kỳ lạ. Tiên sinh liền đặt tên cho đứa bé là Lã Chử. Trần Quân bèn đem tiền bạc quà cáp ra tạ thày về việc thày đã dạy dỗ mình. Hôm sau, Trần Quân xin cáo biệt thày để về quê, dọn nhà lên kinh đô cư ngụ, làm ăn, buôn bán.
Mười ba năm sau.
Đầu mùa thu, nhân chuyến lên kinh đô dự khoa thi hội, tiên sinh đem theo cả gia đình đến ở nhờ nhà Trần Quân. Khoa ấy, tiên sinh thi đậu tiến sĩ, rồi thuê nhà cư ngụ luôn ở kinh đô.
Năm ấy, Lã Chử đã mười ba tuổi, học hành thông minh lắm. Cuối năm, được nhận vào học ở quốc tử giám.
VÂN THÚY TIÊN
(truyện VÂN THÚY TIÊN)
Danh hoa cao chiếm nhất chi xuân
Nhẫn thính hoàng ngôn biệt tặng nhân
Lưu đắc hoàng kim vô dụng xứ
Phân minh a mẫu ngộ nhi thân
Thủ phủ Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, có thanh niên họ Lương, tên Hữu Tài, con của một gia đình khá giả.
Được cha mẹ nuông chiều, Hữu Tài thường đàn đúm với lũ bạn du đãng, đứng đầu là thanh niên họ Mã, tên Đắc Lợi. Cha mất, Hữu Tài ở với mẹ. Mẹ mất, Hữu Tài bán nhà, lấy tiền đi rượu chè, cờ bạc với Đắc Lợi và lũ bạn. Bị mọi người trong vùng ghét bỏ, Hữu Tài bèn đem chút tiền còn lại sang thủ phủ Tế Nam, tỉnh Sơn Đông, mua một căn nhà nhỏ để cư ngụ và một gánh hàng xén bán dạo để kiếm kế sinh nhai.
Tỉnh Sơn Đông có dãy Thái Hành Sơn, gồm nhiều ngọn núi cao. Trên đỉnh ngọn Vương Sơn, có ngôi chùa Vương Sơn Tự. Hàng năm, cứ vào ngày rằm tháng tư, khi chùa mở hội Quỳ Hương, có tới hàng ngàn thanh niên nam nữ trong vùng rủ nhau lên chùa trẩy hội. Vào giữa trưa, có một thiền sư ra Phật điện thỉnh chuông rồi thắp một nén hương, cắm vào bát nhang trên bàn thờ Phật. Khách trẩy hội cùng quỳ xuống đất, la liệt trong chùa, ngoài sân. Khi nén hương đã tàn, khách rủ nhau đứng dậy, cùng vào điện lễ Phật.
Năm ấy, sáng ngày rằm tháng tư, Hữu Tài theo đám đông lên chùa trẩy hội. Quá trưa, tới sân chùa, thấy trong đám khách quỳ hương có một nữ lang xinh đẹp, tuổi chừng 17, 18, Hữu Tài thích quá, vội quỳ xuống sân, lê gối lại gần. Thấy có kẻ lạ lê lại gần mình, nữ lang cau mày, lê gối tránh xa. Hữu Tài lại lê theo. Nữ lang tức giận, đứng phắt dậy, bỏ buổi l, rảo bước ra về. Hữu Tài cũng vội đứng dậy chạy theo. Ra tới cổng chùa, thấy nữ lang đã biến mất, Hữu Tài thất vọng, lủi thủi ra về.
Dọc đường, thấy ở phía đằng trước có hai người đang đi, Hữu Tài vội rảo bước. Khi bắt kịp, Hữu Tài nhận ra một người chính là nữ lang trên chùa, còn người kia là một bà lão. Hữu Tài chợt nghe thấy bà lão nói với nữ lang:"Mẹ chỉ có một mình con. Nay con đã lớn, mẹ mong con sớm có chồng. Mẹ vẫn cầu Trời khấn Phật cho con lấy được một tấm chồng đàng hoàng, tử tế, chứ chẳng cần phải danh giá, giàu sang! Nếu con cứ chịu khó theo mẹ lên chùa lễ Phật như thế này thì tốt lắm!" Nghe thấy thế, Hữu Tài mừng lắm, rảo bước vượt qua, rồi quay đầu lại, cúi chào bà lão. Bà lão gật đầu đáp l. Hữu Tài nói: "Thưa lão mẫu, con họ Lương, tên Hữu Tài. Chẳng hay lão mẫu họ chi?" Bà lão đáp:"Lão thân họ Vân!" Nói:"Trưa nay con lên chùa trẩy hội, được gặp hiền muội đây. Chẳng hay hiền muội tên chi?" Đáp:"Em tên Thúy Tiên!" Hỏi:"Bây giờ lão mẫu đi đâu?" Đáp:"Lão thân về nhà!" Hỏi:"Nhà ta ở đâu?" Đáp:"Ở phía tây dãy núi này, cách đây chừng bốn chục dặm!" Hỏi:"Trời tối rồi, làm sao lão mẫu về kịp?" Đáp:"Chính vì thế mà hai mẹ con vừa mới bàn tính với nhau xong!" Hỏi:"Thế lão mẫu quyết định ra sao?" Đáp:"Hai mẹ con đã quyết định tới ngủ nhờ nhà bào huynh của lão thân ở gần đây!" Nói:"Lúc nãy, con đi ở đằng sau, tình cờ được nghe lão mẫu nói với Thúy muội là lão mẫu chỉ mong có một chàng rể đàng hoàng, tử tế nên con nghĩ con có thể xin làm rể của lão mẫu được!" Vân bà bèn quay qua hỏi Thúy Tiên:"Lương lang đây muốn xin cưới con làm vợ đó, con có chịu không?" Thúy Tiên lắc đầu đáp:"Con không chịu!" Hỏi:"Tại sao?" Đáp: "Vì con thấy gã có tướng vô hạnh, bất nghĩa!" Hữu Tài vội nói:"Thưa lão mẫu, Thúy muội mới gặp con có một lần mà đã quyết đoán như vậy thì quả là lầm! Có quỷ thần chứng giám, con xin thề với lão mẫu là con rất đứng đắn, thủy chung!" Nghe thấy thế, Vân bà liền quyết định: "Đã dám thề thốt nặng lời như vậy thì lão thân cũng phải tin thôi! Lão thân bằng lòng gả con cho đó!" Nghe mẹ nói, Thúy Tiên tái mặt song cũng chỉ im lặng, chẳng dám phản đối. Hữu Tài bèn quay qua hỏi chuyện Thúy Tiên. Thúy Tiên chẳng thèm đáp. Thấy thế, Vân bà nói:"Con phải nói chuyện với Lương lang đi chứ" Thúy Tiên đáp: "Có chuyện gì đâu mà nói!" Hữu Tài bèn nói lảng sang chuyện khác:"Chắc từ đây tới nhà cữu phụ cũng còn xa! Xin lão mẫu dừng chân, để con đi thuê kiệu!" Nói xong, chạy đi ngay. Lát sau, Hữu Tài trở lại với bốn phu khiêng, mời Vân bà và Thúy Tiên lên kiệu. Vân bà dắt Thúy Tiên lên ngồi rồi chỉ đường cho nhóm phu khiêng. Hữu Tài đi chân theo sau, trông tựa đầy tớ theo hầu chủ vậy. Hữu Tài luôn miệng nhắc nhở nhóm phu khiêng phải đi chầm chậm cho êm kiệu.
Lát sau, vào một sơn thôn, tới cổng một biệt thự, Vân bà nói:"Đến nơi rồi!" Nhóm phu khiêng liền dừng chân, hạ kiệu. Vân bà dắt Thúy Tiên xuống. Hữu Tài vội lấy tiền ra trả cho nhóm phu khiêng quay về. Vân bà dắt Thúy Tiên và Hữu Tài qua cổng, vào sân. Thấy có hai ông bà lão đang đứng ở giữa sân tựa hồ như chờ khách, Hữu Tài vội chắp tay cúi đầu chào. Hai ông bà đáp l. Vân bà giới thiệu với Hữu Tài:"Đây là đại ca và đại tẩu của mẹ" Rồi quay qua giới thiệu với hai ông bà:"Đây là cháu Hữu Tài, họ Lương, vị hôn phu của cháu Thúy Tiên" Hai ông bà niềm nở mời mọi người vào sảnh đường ngồi uống trà, nói chuyện.
Lát sau, gia nhân bày tiệc. Sau bữa tiệc, ông lão nói với Vân bà:"Hôm nay tốt ngày, hiền muội nên cho hai cháu làm lễ thành hôn ngay!" Vân bà vâng dạ, rồi quay qua nói với Thúy Tiên:"Cữu phụ đã dạy thế thì con hãy đi tắm gội, trang điểm, rồi ra đây làm lễ thành hôn!" Thúy Tiên cau mày, quay nhìn Hữu Tài, nói:"Tôi biết anh là kẻ chẳng ra gì! Giờ đây, tôi vâng lời mẹ tôi mà làm lễ thành hôn với anh! Tuy nhiên, anh chớ nên tính chuyện ăn đời ở kiếp với tôi, kẻo sau này anh lại trách tôi là không nói trước!" Hữu Tài chẳng thèm để ý tới lời nói của Thúy Tiên, chỉ xua tay, đáp:"Được rồi! Được rồi!" Ông lão bèn sai gia nhân bày hương án giữa sảnh đường cho Thúy Tiên và Hữu Tài làm lễ giao bái.
Lễ xong, ông lão sai gia nhân đưa Vân bà đi nghỉ, rồi đưa vợ chồng Thúy Tiên vào chung phòng. Thấy Hữu Tài mặt mũi bẩn thỉu, chân tay nhăn nhúm, ghét bám đầy người, mồ hôi nồng nặc, Thúy Tiên bắt Hữu Tài phải đi tắm rửa sạch sẽ rồi mới cho vào ngủ chung.
Sáng sau, Vân bà bảo Hữu Tài:"Con hãy lên xin phép cữu phụ, cữu mẫu cho về trước. Mẹ sẽ dắt em Thúy Tiên tới sau!" Hữu Tài bèn lên chào ông bà lão rồi xin phép ra về. Tới nhà, Hữu Tài quét dọn phòng khách cho sạch sẽ rồi ngồi chờ. Lát sau, quả nhiên Vân bà dắt Thúy Tiên tới. Vân bà đảo mắt nhìn quanh căn phòng một lượt rồi nói:"Nhà nghèo thế này thì lấy gì mà nuôi vợ? Thôi, để mẹ về sửa soạn cho ít đồ rồi sáng mai mẹ sẽ bảo tụi nhỏ đem sang đây cho!" Nói xong, Vân bà từ biệt.
Sáng sau, quả nhiên Hữu Tài thấy có một bọn tiểu đồng, tì nữ đem đồ đạc, quần áo, thức ăn sang xếp đầy phòng khách nhà mình. Một tì nữ tới nói với Thúy Tiên: "Lão phu nhân sai tiểu tì sang đây ở để hầu hạ tiểu thư!" Thúy Tiên gật đầu. Một tiểu đồng cầm một gói lớn tới trao cho Hữu Tài, nói:"Lão phu nhân sai tiểu nhân đem gói tiền này sang biếu hiền lang!" Hữu Tài mừng lắm, nhận gói, gửi lời cám ơn lão phu nhân rồi mời cả bọn ở lại ăn trưa. Chúng đều từ chối rồi xin phép ra về.
Được gói tiền của Vân bà cho, Hữu Tài quyết tâm bỏ nghề hàng xén, ở nhà ăn chơi. Hữu Tài bèn liên lạc với Đắc Lợi ở Thái Nguyên, bảo gã rủ lũ bạn du đãng ngày trước sang Tế Nam, tới nhà mình rượu chè, cờ bạc, Đắc Lợi bèn dẫn lũ chúng sang. Thúy Tiên lánh mặt, chẳng chịu ra tiếp. Hữu Tài bèn đàn đúm trở lại với lũ chúng.
Cờ bạc được đúng một năm thì Hữu Tài thua vừa hết gói tiền của Vân bà cho. Hữu Tài xin tiền vợ. Thúy Tiên lấy tiền ra cho. Hữu Tài lại đem cờ bạc rồi lại thua hết. Xin lần thứ nhì, Thúy Tiên cũng cho. Xin lần thứ ba, Thúy Tiên cũng cho. Xin lần thứ tư, Thúy Tiên nói:"Hết rồi!" Hữu Tài bèn nói:"Nếu hết rồi thì hãy dắt tôi về nhà lão mẫu để tôi xin!" Thúy Tiên lắc đầu từ chối. Vì thế, tuy đã làm rể hơn một năm mà Hữu Tài vẫn chưa biết nhà mẹ vợ mình ở chốn nào. Muốn có tiền để cờ bạc, Hữu Tài phải lấy cắp nữ trang của vợ đem đi bán. Thúy Tiên biết chuyện nên một hôm nói với chồng:"Anh cờ bạc đã thua hết gói tiền của mẹ tôi cho. Anh xin tôi ba lần, tôi đều lấy tiền ra cho. Anh xin tôi lần thứ tư, tôi chẳng còn tiền để cho anh vì tôi cũng hết rồi. Nay anh lại lấy cắp nữ trang của tôi đem đi bán để lấy tiền cờ bạc thì thực là quá lắm! Nếu bây giờ anh chịu tuyệt giao với lũ bạn của anh thì tôi sẽ xin với mẹ tôi cho anh thêm chút vốn mà làm ăn!" Hữu Tài chỉ ậm ừ, song vẫn chứng nào tật nấy. Thúy Tiên bèn cất giấu hết nữ trang, đề phòng chồng còn hơn đề phòng trộm cướp.
Một sáng, Hữu Tài còn đang ngủ, Đắc Lợi đã dẫn lũ bạn tới gõ cửa. Thúy Tiên lờ đi như không nghe tiếng, song vì chúng cứ gõ mãi nên Thúy Tiên đành phải ra mở, bảo chúng vào ngồi chờ Hữu Tài ở phòng khách. Được nhìn thấy Thúy Tiên lần đầu, chúng đều sững sờ kinh ngạc vì nhan sắc khuynh thành của Thúy Tiên.
Lát sau, Hữu Tài ngủ dậy, ra tiếp bạn. Chúng xúm lại nói đùa:"Anh giàu quá mà cứ than là nghèo!" Hữu Tài hỏi:"Tôi giàu ở chỗ nào?" Đắc Lợi đáp:"Hôm nay tụi tôi mới được gặp chị. Chị đẹp quá! Chắc chị là tiên chứ chẳng phải là phàm! Tuy nhiên, tụi tôi lại nghe nói anh chị chẳng được tương đắc. Vậy thì tại sao anh không đem bán chị đi, lấy tiền mà rượu chè, cờ bạc? Nếu đem bán chị cho nhà giàu thì cũng được năm trăm lạng, còn nếu đem bán chị cho kỹ viện thì có thể được tới ngàn lạng. Anh giàu ở chỗ đó chứ còn ở chỗ nào!" Hữu Tài chẳng đáp song trong bụng mừng thầm là đã được Đắc Lợi gợi cho một ý kiến quá hay. Buổi tối, sau khi tin lũ bạn ra về, Hữu Tài vào phòng than với vợ:"Nàng à! Nhà mình nghèo quá, chẳng biết phải làm sao đây?" Thúy Tiên cứ lờ đi, chẳng đáp. Thấy thế, Hữu Tài tức tối, quay ra đá thúng đụng nia, gọi tì nữ lên la mắng vô lý, cố ý gây sự với vợ. Thúy Tiên vẫn cứ lờ đi, chẳng nói năng chi.
Sáng sau, Thúy Tiên sai tì nữ đi chợ mua rượu thịt về làm một bữa tiệc thịnh soạn cho hai vợ chồng. Giữa tiệc, Thúy Tiên nói:"Thấy anh cứ than nghèo, lo lắng suốt ngày đêm, tôi cũng muốn giúp anh, song tôi hết tiền rồi! Làm vợ mà chẳng giúp được chồng, tôi cũng hổ thẹn lắm. Suy đi nghĩ lại, tôi thấy nhà mình chẳng còn vật chi đáng giá, ngoại trừ con tì nữ. Vì thế, tôi muốn bàn với anh đem bán nó đi, lấy vốn mà làm ăn!" Hữu Tài lắc đầu, nói:"Bán nó đi thì được bao nhiêu?" Thúy Tiên im lặng.
Lát sau, đột nhiên Thúy Tiên nói:"Chắc anh cũng biết rằng khi anh cần tiền mà tôi có là tôi cho anh ngay, chẳng hề từ chối. Song bây giờ tôi cũng kiệt quệ rồi, chẳng còn tiền để cho anh nữa. Tôi có bổn phận phải chia sẻ nỗi lo âu với anh. Tôi nghĩ kỹ rồi! Bây giờ anh chẳng còn cách gì hay hơn là cách đem bán tôi cho nhà giàu. Làm như thế, anh vừa kiếm được nhiều tiền hơn là bán con tì nữ, mà lại vừa giữ được nó ở nhà để sai bảo!" Nghe thấy thế, Hữu Tài mừng lắm song vẫn giả vờ kinh ngạc, nói:"Việc gì mà đã đến nỗi phải làm như vậy?" Thúy Tiên nghiêm nét mặt, nói:"Tôi khuyên anh nên làm như vậy vì chỉ có cách đó mới cứu anh thoát khỏi cảnh túng quẫn mà thôi! Anh cũng chẳng cần phải để ý tới dư luận làm gì!" Trong bụng, Hữu Tài mừng lắm, song ngoài mặt, vẫn làm ra vẻ buồn bã, nói:"Cứ để thủng thẳng xem sao đã!" Tuy nói thế nhưng sáng sớm hôm sau, Hữu Tài đã tìm tới kỹ viện Mai Hoa, ngỏ ý muốn bán vợ. Mụ chủ kỹ viện đòi cho xem mặt. Hữu Tài liền dắt mụ về nhà, gọi Thúy Tiên ra tiếp. Thúy Tiên chỉ ra chào hỏi mụ vài câu rồi lại trở vào phòng. Thấy Thúy Tiên có nhan sắc khuynh thành, mụ mừng lắm, đòi mua ngay. Mụ hỏi:"Đúng giá bao nhiêu?" Hữu Tài đáp:"Ngàn lạng!" Hai bên cò kè bớt một thêm hai rồi giờ lâu ngã giá, thỏa thuận ngoài tám trăm. Sợ Hữu Tài đổi ý, mụ đòi Hữu Tài phải ký ước thư ngay. Hữu Tài liền ký.
Tin khách về rồi, Hữu Tài vào phòng thuật chuyện cho vợ nghe. Thúy Tiên nói:"Thế là kể từ nay tình nghĩa đôi ta đã hết. Tuy nhiên, trước khi vào kỹ viện, tôi phải về thăm mẹ tôi một lần! Trước kia, mẹ tôi có giúp đỡ anh đủ thứ, nay anh đem bán tôi cho kỹ viện thì anh cũng nên theo tôi về mà nói với mẹ tôi một lời!" Hữu Tài nói:"Chỉ sợ lão mẫu ngăn cản, không cho tôi bán nàng thôi!" Thúy Tiên lắc đầu, nói:"Mẹ tôi chẳng ngăn cản anh đâu vì mẹ tôi vẫn biết là tôi chẳng muốn lấy anh mà!" Nghe vợ nói có lý, Hữu Tài bèn theo lời.
Sáng sau, hai vợ chồng dắt tì nữ về thăm Vân bà. Gần nửa đêm, về tới nhà. Qua ba lần cổng, một lần sân, vào tới sảnh đường, thấy nhà cửa đồ sộ, đèn nến sáng chưng, lầu gác nguy nga, kẻ hầu người hạ tấp nập, Hữu Tài kinh ngạc lắm. Trước kia, Hữu Tài có được nghe nói về chuyện giàu sang của Vân bà, song cũng chỉ biết lờ mờ thế thôi chứ chẳng ngờ Vân bà lại giàu sang tới mức ấy! Nay thấy nhà cửa bề thế quá, Hữu Tài lại đâm lo, chỉ sợ Vân bà ngăn cản, không cho mình bán Thúy Tiên! Thúy Tiên bảo tì nữ xuống bếp thăm bè bạn, còn mình thì dắt Hữu Tài lên lầu gặp mẹ. Vân bà thấy con dắt rể về giữa đêm khuya thì sửng sốt, hỏi:"Có việc chi gấp mà nửa đêm lại dắt nhau về đây?" Thúy Tiên lộ vẻ oán hận, lấy ngón tay chỉ mặt Hữu Tài, nói:"Trước kia con đã nói với mẹ rằng gã này có tướng vô hạnh, bất nghĩa mà mẹ chẳng tin, cứ ép con phải lấy gã. Nay thì quả đúng như lời con đã nói! Gã vô hạnh, bất nghĩa quá lắm!" Vân bà hỏi:"Vô hạnh, bất nghĩa như thế nào?" Đáp:"Gã đã cờ bạc thua hết cả tiền ở trong nhà rồi bây giờ gã lại bán con cho kỹ viện!" Đáp xong, Thúy Tiên móc túi lấy ra hai đĩnh vàng, đặt lên bàn, nói:"Hai đĩnh vàng này là của mẹ cho con để gây dựng cơ đồ cho chồng, may mà chưa bị chồng cướp đoạt. Bây giờ thì còn chồng đâu nữa mà gây dựng cơ đồ? Vậy con xin hoàn lại mẹ!" Rồi quay qua Hữu Tài, mắng:"Đồ chó má! Ngày trước anh bán hàng xén, làm ăn vất vả nên mặt mũi lem luốc, chân tay nhăn nhúm, ghét bám đầy người, mồ hôi nồng nặc. Từ khi lấy tôi, anh được mẹ tôi chu cấp tiền bạc, chỉ ở nhà thụ hưởng cơm áo nên da dẻ mới được nhẵn nhụi thế này! Được ăn không ngồi rồi, anh lại đàn đúm với lũ bạn cũ. Có mặt mẹ tôi đây, tôi có vu oan cho anh điều gì không?" Hữu Tài cúi đầu, nín thở, chẳng đáp được lời nào. Thúy Tiên mắng tiếp:"Tôi tự biết là mình chẳng có nhan sắc khuynh thành để lấy được một tấm chồng giàu sang. Vì thế khi mẹ tôi ép tôi lấy anh, tôi đành vâng lời để mẹ tôi mừng là tôi chẳng ế chồng. Tôi về làm vợ anh, có thiếu bổn phận gì không, có phụ bạc gì không, mà anh nỡ đem bán tôi cho kỹ viện? Mẹ tôi cho tôi hai đĩnh vàng để gây dựng cơ đồ cho anh thì tôi dư sức xây nhà cao cửa rộng, mua vườn tậu ruộng cho anh song tôi chẳng làm vì tôi thấy rõ cái chân tướng vô hạnh, bất nghĩa của anh. Anh chỉ có cái tướng đi ăn mày thôi. Tôi chẳng thể làm bạn bạc đầu với anh được!"
Bọn tì nữ nghe thấy tiểu thư to tiếng ở trên lầu thì rủ nhau chạy lên coi. Nghe tiểu thư kể tội Hữu Tài, chúng liền nổi giận, vây chặt lấy Hữu Tài mà mắng chửi thậm tệ, rồi quay qua nói với Thúy Tiên:"Tiểu thư nói làm chi cho mệt? Để tụi tiểu tì giết quách gã đi cho rồi!" Hữu Tài sợ quá, rập đầu xuống đất, van lạy:"Tôi biết tội đã nhiều, tôi hối hận lắm, xin tha cho tôi!" Thúy Tiên càng giận, mắng:"Bán vợ cho nhà giàu thì đã là cái giống đại ác rồi, còn bán vợ cho kỹ viện thì chẳng biết phải gọi là cái giống chi?" Nghe thấy thế, bọn tì nữ căm tức vô cùng, xúm lại xé rách hết quần áo, rồi cùng rút trâm cài đầu, đâm vào người Hữu Tài. Hữu Tài khóc thét lên, năn nỉ: "Xin các tiểu nương tha cho tôi!" Thúy Tiên bèn ngăn bọn tì nữ lại, nói:"Tha cho gã! Trừng trị như thế cũng đủ rồi! Để mặc gã ở đây, ta đi thôi!" Nói xong, bước tới cầm tay Vân bà, dắt xuống lầu. Bọn tì nữ cũng lục tục xuống theo.
Hữu Tài ngồi im trên lầu nghe ngóng. Lát sau, khi thấy lặng tiếng người, Hữu Tài mới nghĩ tới việc trốn về nhà. Thế nhưng, thấy đêm đã khuya, tinh thần mệt mỏi Hữu Tài lại nằm xuống ngủ. Khi thức giấc, mở mắt nhìn lên, chẳng thấy nóc nhà đâu mà chỉ thấy một bàu trời trăng lặn sao thưa, Hữu Tài kinh hãi quá, vội ngồi nhỏm dậy, đưa mắt nhìn quanh. Thấy ngôi nhà đồ sộ đã biến mất, mặt trời đỏ ối đang lấp ló sau vòm lá um tùm, còn mình thì đang ngồi cheo leo trên một tảng đá chênh vênh ở vách núi, giữa rừng cây rậm rạp, Hữu Tài kinh hoàng cực độ, chỉ sợ bị té xuống vực thẳm thì tan xác. Thấy mỏi lưng, Hữu Tài bất giác vặn mình cho đỡ mỏi thì đột nhiên tảng đá lở ra, rớt xuống vực, hất Hữu Tài vào không trung. Trong một thoáng, Hữu Tài nghĩ mình sắp chết nhưng rồi đột nhiên, Hữu Tài lại thấy bụng mình rơi trúng một cành cây, chân tay chới với. Mở mắt nhìn xuống dưới, thấy vực thẳm không đáy, Hữu Tài kinh hãi quá, vội nhắm mắt lại, gắng dùng chút hơi tàn để ôm quặp lấy cành cây, chẳng dám nhúc nhích. Thân thể sưng vù vì bị trâm đâm, Hữu Tài gào khóc kêu cứu song chỉ nghe thấy tiếng vang vọng của núi rừng. Kiệt sức, Hữu Tài lại nghĩ mình sắp chết.
Lát sau, khi mặt trời lên cao, có một tiều phu vào rừng đốn củi. Khi đi qua vách núi, thấy Hữu Tài nằm co quắp, bám vào cành cây bên bờ vực thẳm, tiều phu liền ròng dây xuống, bảo Hữu Tài bám vào rồi kéo lên. Thấy Hữu Tài đã kiệt sức, tiều phu liền bỏ buổi đốn củi, cõng về nhà săn sóc. Khi Hữu Tài tỉnh lại, tiều phu hỏi:"Họ tên chi?" Hữu Tài đáp:"Họ Lương, tên Hữu Tài" Hỏi:"Nhà cửa ở đâu?" Đáp:"Ở thủ phủ Tế Nam" Hỏi:"Sao lại vào giữa rừng cây ở đây mà nằm như thế?" Hữu Tài bèn thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong, tiều phu cũng lấy làm lạ. Hữu Tài hỏi:"Đây là đâu?" Tiều phu đáp:"Là phía tây dãy Thái Hành Sơn, cách ngọn Vương Sơn chừng bốn chục dặm!" Hữu Tài thấy lời nói của tiều phu phù hợp với lời nói của Vân bà. Hôm sau, thấy sức khoẻ đã phục hồi, Hữu Tài bèn cám ơn tiều phu rồi xin cáo biệt.
Tới nhà, Hữu Tài thấy cửa ngõ mở toang. Vào nhà, thấy phòng ốc trống rỗng, bao nhiêu đồ đạc, quần áo của Vân bà cấp cho khi trước đều đã biến mất, chỉ còn trơ lại có hai vật cũ của mình là chiếc võng rách với chiếc bàn gãy chân. Mệt quá, Hữu Tài lên võng ngủ. Lát sau, tỉnh giấc, thấy bụng đói cồn cào, Hữu Tài vào trạn mò cơm thì thấy chẳng còn một hạt. Hữu Tài bèn mò sang hàng xóm xin ăn, làm hàng xóm cũng phải ngạc nhiên. Lát sau, đúng hẹn, mụ chủ kỹ viện đem vàng và ước thư tới để mua Thúy Tiên. Hữu Tài liền thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Mụ đành đem vàng ra về.
Hữu Tài định trở lại nghề bán hàng xén song không còn vốn. Mấy hôm sau, Hữu Tài mắc bệnh phù thũng, nhưng vì đã bị mang tiếng là kẻ vô hạnh nên chẳng ai giúp đỡ chút gì. Hết phương kế sinh nhai, Hữu Tài đành phải bán rẻ căn nhà, lấy con dao bếp giắt vào người rồi đem bọc tiền vào ở trong hang núi. Hàng ngày, Hữu Tài đem tiền ra chợ mua cơm. Tiêu mãi, hết tiền, lại vô nghệ nghiệp, Hữu Tài phải đi ăn xin. Có kẻ nói:"Còn con dao giắt trong người, sao đã phải đi ăn xin?" Hữu Tài hỏi:"Nói thế là nghĩa gì?" Kẻ ấy đáp:"Thì hãy bán dao đi, lấy tiền mà mua cơm!" Hữu Tài nói:"Đâu có được! Ở trong hang, cần phải có dao để đề phòng lang sói!" Ít lâu sau, Hữu Tài lại bị bệnh phong cùi.
Một hôm, Hữu Tài từ trong núi ra chợ ăn xin. Dọc đường, tình cờ gặp Đắc Lợi, Hữu Tài rủ ngồi xuống vệ đường hàn huyên. Trong khi trò chuyện, bất thần Hữu Tài rút dao giắt trong người, đâm chết Đắc Lợi. Lính bắt giải lên huyện đường. Quan tể hỏi tại sao lại sát nhân? Hữu Tài bèn trình bày đầu đuôi câu chuyện. Quan nghe chuyện cũng thương tình, chẳng nỡ lên án tử hình mà cũng chẳng ra lệnh đánh đập, chỉ ra lệnh hạ ngục.
Thế nhưng, vì bị giam cầm khổ sở rồi lại bị mắc chứng bệnh nặng, chẳng đủ cơm ăn thuốc uống, nên mới bị tù có một tháng, Hữu Tài đã lăn ra chết ở trong ngục.
Danh hoa cao chiếm nhất chi xuân
Nhẫn thính hoàng ngôn biệt tặng nhân
Lưu đắc hoàng kim vô dụng xứ
Phân minh a mẫu ngộ nhi thân
Thủ phủ Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, có thanh niên họ Lương, tên Hữu Tài, con của một gia đình khá giả.
Được cha mẹ nuông chiều, Hữu Tài thường đàn đúm với lũ bạn du đãng, đứng đầu là thanh niên họ Mã, tên Đắc Lợi. Cha mất, Hữu Tài ở với mẹ. Mẹ mất, Hữu Tài bán nhà, lấy tiền đi rượu chè, cờ bạc với Đắc Lợi và lũ bạn. Bị mọi người trong vùng ghét bỏ, Hữu Tài bèn đem chút tiền còn lại sang thủ phủ Tế Nam, tỉnh Sơn Đông, mua một căn nhà nhỏ để cư ngụ và một gánh hàng xén bán dạo để kiếm kế sinh nhai.
Tỉnh Sơn Đông có dãy Thái Hành Sơn, gồm nhiều ngọn núi cao. Trên đỉnh ngọn Vương Sơn, có ngôi chùa Vương Sơn Tự. Hàng năm, cứ vào ngày rằm tháng tư, khi chùa mở hội Quỳ Hương, có tới hàng ngàn thanh niên nam nữ trong vùng rủ nhau lên chùa trẩy hội. Vào giữa trưa, có một thiền sư ra Phật điện thỉnh chuông rồi thắp một nén hương, cắm vào bát nhang trên bàn thờ Phật. Khách trẩy hội cùng quỳ xuống đất, la liệt trong chùa, ngoài sân. Khi nén hương đã tàn, khách rủ nhau đứng dậy, cùng vào điện lễ Phật.
Năm ấy, sáng ngày rằm tháng tư, Hữu Tài theo đám đông lên chùa trẩy hội. Quá trưa, tới sân chùa, thấy trong đám khách quỳ hương có một nữ lang xinh đẹp, tuổi chừng 17, 18, Hữu Tài thích quá, vội quỳ xuống sân, lê gối lại gần. Thấy có kẻ lạ lê lại gần mình, nữ lang cau mày, lê gối tránh xa. Hữu Tài lại lê theo. Nữ lang tức giận, đứng phắt dậy, bỏ buổi l, rảo bước ra về. Hữu Tài cũng vội đứng dậy chạy theo. Ra tới cổng chùa, thấy nữ lang đã biến mất, Hữu Tài thất vọng, lủi thủi ra về.
Dọc đường, thấy ở phía đằng trước có hai người đang đi, Hữu Tài vội rảo bước. Khi bắt kịp, Hữu Tài nhận ra một người chính là nữ lang trên chùa, còn người kia là một bà lão. Hữu Tài chợt nghe thấy bà lão nói với nữ lang:"Mẹ chỉ có một mình con. Nay con đã lớn, mẹ mong con sớm có chồng. Mẹ vẫn cầu Trời khấn Phật cho con lấy được một tấm chồng đàng hoàng, tử tế, chứ chẳng cần phải danh giá, giàu sang! Nếu con cứ chịu khó theo mẹ lên chùa lễ Phật như thế này thì tốt lắm!" Nghe thấy thế, Hữu Tài mừng lắm, rảo bước vượt qua, rồi quay đầu lại, cúi chào bà lão. Bà lão gật đầu đáp l. Hữu Tài nói: "Thưa lão mẫu, con họ Lương, tên Hữu Tài. Chẳng hay lão mẫu họ chi?" Bà lão đáp:"Lão thân họ Vân!" Nói:"Trưa nay con lên chùa trẩy hội, được gặp hiền muội đây. Chẳng hay hiền muội tên chi?" Đáp:"Em tên Thúy Tiên!" Hỏi:"Bây giờ lão mẫu đi đâu?" Đáp:"Lão thân về nhà!" Hỏi:"Nhà ta ở đâu?" Đáp:"Ở phía tây dãy núi này, cách đây chừng bốn chục dặm!" Hỏi:"Trời tối rồi, làm sao lão mẫu về kịp?" Đáp:"Chính vì thế mà hai mẹ con vừa mới bàn tính với nhau xong!" Hỏi:"Thế lão mẫu quyết định ra sao?" Đáp:"Hai mẹ con đã quyết định tới ngủ nhờ nhà bào huynh của lão thân ở gần đây!" Nói:"Lúc nãy, con đi ở đằng sau, tình cờ được nghe lão mẫu nói với Thúy muội là lão mẫu chỉ mong có một chàng rể đàng hoàng, tử tế nên con nghĩ con có thể xin làm rể của lão mẫu được!" Vân bà bèn quay qua hỏi Thúy Tiên:"Lương lang đây muốn xin cưới con làm vợ đó, con có chịu không?" Thúy Tiên lắc đầu đáp:"Con không chịu!" Hỏi:"Tại sao?" Đáp: "Vì con thấy gã có tướng vô hạnh, bất nghĩa!" Hữu Tài vội nói:"Thưa lão mẫu, Thúy muội mới gặp con có một lần mà đã quyết đoán như vậy thì quả là lầm! Có quỷ thần chứng giám, con xin thề với lão mẫu là con rất đứng đắn, thủy chung!" Nghe thấy thế, Vân bà liền quyết định: "Đã dám thề thốt nặng lời như vậy thì lão thân cũng phải tin thôi! Lão thân bằng lòng gả con cho đó!" Nghe mẹ nói, Thúy Tiên tái mặt song cũng chỉ im lặng, chẳng dám phản đối. Hữu Tài bèn quay qua hỏi chuyện Thúy Tiên. Thúy Tiên chẳng thèm đáp. Thấy thế, Vân bà nói:"Con phải nói chuyện với Lương lang đi chứ" Thúy Tiên đáp: "Có chuyện gì đâu mà nói!" Hữu Tài bèn nói lảng sang chuyện khác:"Chắc từ đây tới nhà cữu phụ cũng còn xa! Xin lão mẫu dừng chân, để con đi thuê kiệu!" Nói xong, chạy đi ngay. Lát sau, Hữu Tài trở lại với bốn phu khiêng, mời Vân bà và Thúy Tiên lên kiệu. Vân bà dắt Thúy Tiên lên ngồi rồi chỉ đường cho nhóm phu khiêng. Hữu Tài đi chân theo sau, trông tựa đầy tớ theo hầu chủ vậy. Hữu Tài luôn miệng nhắc nhở nhóm phu khiêng phải đi chầm chậm cho êm kiệu.
Lát sau, vào một sơn thôn, tới cổng một biệt thự, Vân bà nói:"Đến nơi rồi!" Nhóm phu khiêng liền dừng chân, hạ kiệu. Vân bà dắt Thúy Tiên xuống. Hữu Tài vội lấy tiền ra trả cho nhóm phu khiêng quay về. Vân bà dắt Thúy Tiên và Hữu Tài qua cổng, vào sân. Thấy có hai ông bà lão đang đứng ở giữa sân tựa hồ như chờ khách, Hữu Tài vội chắp tay cúi đầu chào. Hai ông bà đáp l. Vân bà giới thiệu với Hữu Tài:"Đây là đại ca và đại tẩu của mẹ" Rồi quay qua giới thiệu với hai ông bà:"Đây là cháu Hữu Tài, họ Lương, vị hôn phu của cháu Thúy Tiên" Hai ông bà niềm nở mời mọi người vào sảnh đường ngồi uống trà, nói chuyện.
Lát sau, gia nhân bày tiệc. Sau bữa tiệc, ông lão nói với Vân bà:"Hôm nay tốt ngày, hiền muội nên cho hai cháu làm lễ thành hôn ngay!" Vân bà vâng dạ, rồi quay qua nói với Thúy Tiên:"Cữu phụ đã dạy thế thì con hãy đi tắm gội, trang điểm, rồi ra đây làm lễ thành hôn!" Thúy Tiên cau mày, quay nhìn Hữu Tài, nói:"Tôi biết anh là kẻ chẳng ra gì! Giờ đây, tôi vâng lời mẹ tôi mà làm lễ thành hôn với anh! Tuy nhiên, anh chớ nên tính chuyện ăn đời ở kiếp với tôi, kẻo sau này anh lại trách tôi là không nói trước!" Hữu Tài chẳng thèm để ý tới lời nói của Thúy Tiên, chỉ xua tay, đáp:"Được rồi! Được rồi!" Ông lão bèn sai gia nhân bày hương án giữa sảnh đường cho Thúy Tiên và Hữu Tài làm lễ giao bái.
Lễ xong, ông lão sai gia nhân đưa Vân bà đi nghỉ, rồi đưa vợ chồng Thúy Tiên vào chung phòng. Thấy Hữu Tài mặt mũi bẩn thỉu, chân tay nhăn nhúm, ghét bám đầy người, mồ hôi nồng nặc, Thúy Tiên bắt Hữu Tài phải đi tắm rửa sạch sẽ rồi mới cho vào ngủ chung.
Sáng sau, Vân bà bảo Hữu Tài:"Con hãy lên xin phép cữu phụ, cữu mẫu cho về trước. Mẹ sẽ dắt em Thúy Tiên tới sau!" Hữu Tài bèn lên chào ông bà lão rồi xin phép ra về. Tới nhà, Hữu Tài quét dọn phòng khách cho sạch sẽ rồi ngồi chờ. Lát sau, quả nhiên Vân bà dắt Thúy Tiên tới. Vân bà đảo mắt nhìn quanh căn phòng một lượt rồi nói:"Nhà nghèo thế này thì lấy gì mà nuôi vợ? Thôi, để mẹ về sửa soạn cho ít đồ rồi sáng mai mẹ sẽ bảo tụi nhỏ đem sang đây cho!" Nói xong, Vân bà từ biệt.
Sáng sau, quả nhiên Hữu Tài thấy có một bọn tiểu đồng, tì nữ đem đồ đạc, quần áo, thức ăn sang xếp đầy phòng khách nhà mình. Một tì nữ tới nói với Thúy Tiên: "Lão phu nhân sai tiểu tì sang đây ở để hầu hạ tiểu thư!" Thúy Tiên gật đầu. Một tiểu đồng cầm một gói lớn tới trao cho Hữu Tài, nói:"Lão phu nhân sai tiểu nhân đem gói tiền này sang biếu hiền lang!" Hữu Tài mừng lắm, nhận gói, gửi lời cám ơn lão phu nhân rồi mời cả bọn ở lại ăn trưa. Chúng đều từ chối rồi xin phép ra về.
Được gói tiền của Vân bà cho, Hữu Tài quyết tâm bỏ nghề hàng xén, ở nhà ăn chơi. Hữu Tài bèn liên lạc với Đắc Lợi ở Thái Nguyên, bảo gã rủ lũ bạn du đãng ngày trước sang Tế Nam, tới nhà mình rượu chè, cờ bạc, Đắc Lợi bèn dẫn lũ chúng sang. Thúy Tiên lánh mặt, chẳng chịu ra tiếp. Hữu Tài bèn đàn đúm trở lại với lũ chúng.
Cờ bạc được đúng một năm thì Hữu Tài thua vừa hết gói tiền của Vân bà cho. Hữu Tài xin tiền vợ. Thúy Tiên lấy tiền ra cho. Hữu Tài lại đem cờ bạc rồi lại thua hết. Xin lần thứ nhì, Thúy Tiên cũng cho. Xin lần thứ ba, Thúy Tiên cũng cho. Xin lần thứ tư, Thúy Tiên nói:"Hết rồi!" Hữu Tài bèn nói:"Nếu hết rồi thì hãy dắt tôi về nhà lão mẫu để tôi xin!" Thúy Tiên lắc đầu từ chối. Vì thế, tuy đã làm rể hơn một năm mà Hữu Tài vẫn chưa biết nhà mẹ vợ mình ở chốn nào. Muốn có tiền để cờ bạc, Hữu Tài phải lấy cắp nữ trang của vợ đem đi bán. Thúy Tiên biết chuyện nên một hôm nói với chồng:"Anh cờ bạc đã thua hết gói tiền của mẹ tôi cho. Anh xin tôi ba lần, tôi đều lấy tiền ra cho. Anh xin tôi lần thứ tư, tôi chẳng còn tiền để cho anh vì tôi cũng hết rồi. Nay anh lại lấy cắp nữ trang của tôi đem đi bán để lấy tiền cờ bạc thì thực là quá lắm! Nếu bây giờ anh chịu tuyệt giao với lũ bạn của anh thì tôi sẽ xin với mẹ tôi cho anh thêm chút vốn mà làm ăn!" Hữu Tài chỉ ậm ừ, song vẫn chứng nào tật nấy. Thúy Tiên bèn cất giấu hết nữ trang, đề phòng chồng còn hơn đề phòng trộm cướp.
Một sáng, Hữu Tài còn đang ngủ, Đắc Lợi đã dẫn lũ bạn tới gõ cửa. Thúy Tiên lờ đi như không nghe tiếng, song vì chúng cứ gõ mãi nên Thúy Tiên đành phải ra mở, bảo chúng vào ngồi chờ Hữu Tài ở phòng khách. Được nhìn thấy Thúy Tiên lần đầu, chúng đều sững sờ kinh ngạc vì nhan sắc khuynh thành của Thúy Tiên.
Lát sau, Hữu Tài ngủ dậy, ra tiếp bạn. Chúng xúm lại nói đùa:"Anh giàu quá mà cứ than là nghèo!" Hữu Tài hỏi:"Tôi giàu ở chỗ nào?" Đắc Lợi đáp:"Hôm nay tụi tôi mới được gặp chị. Chị đẹp quá! Chắc chị là tiên chứ chẳng phải là phàm! Tuy nhiên, tụi tôi lại nghe nói anh chị chẳng được tương đắc. Vậy thì tại sao anh không đem bán chị đi, lấy tiền mà rượu chè, cờ bạc? Nếu đem bán chị cho nhà giàu thì cũng được năm trăm lạng, còn nếu đem bán chị cho kỹ viện thì có thể được tới ngàn lạng. Anh giàu ở chỗ đó chứ còn ở chỗ nào!" Hữu Tài chẳng đáp song trong bụng mừng thầm là đã được Đắc Lợi gợi cho một ý kiến quá hay. Buổi tối, sau khi tin lũ bạn ra về, Hữu Tài vào phòng than với vợ:"Nàng à! Nhà mình nghèo quá, chẳng biết phải làm sao đây?" Thúy Tiên cứ lờ đi, chẳng đáp. Thấy thế, Hữu Tài tức tối, quay ra đá thúng đụng nia, gọi tì nữ lên la mắng vô lý, cố ý gây sự với vợ. Thúy Tiên vẫn cứ lờ đi, chẳng nói năng chi.
Sáng sau, Thúy Tiên sai tì nữ đi chợ mua rượu thịt về làm một bữa tiệc thịnh soạn cho hai vợ chồng. Giữa tiệc, Thúy Tiên nói:"Thấy anh cứ than nghèo, lo lắng suốt ngày đêm, tôi cũng muốn giúp anh, song tôi hết tiền rồi! Làm vợ mà chẳng giúp được chồng, tôi cũng hổ thẹn lắm. Suy đi nghĩ lại, tôi thấy nhà mình chẳng còn vật chi đáng giá, ngoại trừ con tì nữ. Vì thế, tôi muốn bàn với anh đem bán nó đi, lấy vốn mà làm ăn!" Hữu Tài lắc đầu, nói:"Bán nó đi thì được bao nhiêu?" Thúy Tiên im lặng.
Lát sau, đột nhiên Thúy Tiên nói:"Chắc anh cũng biết rằng khi anh cần tiền mà tôi có là tôi cho anh ngay, chẳng hề từ chối. Song bây giờ tôi cũng kiệt quệ rồi, chẳng còn tiền để cho anh nữa. Tôi có bổn phận phải chia sẻ nỗi lo âu với anh. Tôi nghĩ kỹ rồi! Bây giờ anh chẳng còn cách gì hay hơn là cách đem bán tôi cho nhà giàu. Làm như thế, anh vừa kiếm được nhiều tiền hơn là bán con tì nữ, mà lại vừa giữ được nó ở nhà để sai bảo!" Nghe thấy thế, Hữu Tài mừng lắm song vẫn giả vờ kinh ngạc, nói:"Việc gì mà đã đến nỗi phải làm như vậy?" Thúy Tiên nghiêm nét mặt, nói:"Tôi khuyên anh nên làm như vậy vì chỉ có cách đó mới cứu anh thoát khỏi cảnh túng quẫn mà thôi! Anh cũng chẳng cần phải để ý tới dư luận làm gì!" Trong bụng, Hữu Tài mừng lắm, song ngoài mặt, vẫn làm ra vẻ buồn bã, nói:"Cứ để thủng thẳng xem sao đã!" Tuy nói thế nhưng sáng sớm hôm sau, Hữu Tài đã tìm tới kỹ viện Mai Hoa, ngỏ ý muốn bán vợ. Mụ chủ kỹ viện đòi cho xem mặt. Hữu Tài liền dắt mụ về nhà, gọi Thúy Tiên ra tiếp. Thúy Tiên chỉ ra chào hỏi mụ vài câu rồi lại trở vào phòng. Thấy Thúy Tiên có nhan sắc khuynh thành, mụ mừng lắm, đòi mua ngay. Mụ hỏi:"Đúng giá bao nhiêu?" Hữu Tài đáp:"Ngàn lạng!" Hai bên cò kè bớt một thêm hai rồi giờ lâu ngã giá, thỏa thuận ngoài tám trăm. Sợ Hữu Tài đổi ý, mụ đòi Hữu Tài phải ký ước thư ngay. Hữu Tài liền ký.
Tin khách về rồi, Hữu Tài vào phòng thuật chuyện cho vợ nghe. Thúy Tiên nói:"Thế là kể từ nay tình nghĩa đôi ta đã hết. Tuy nhiên, trước khi vào kỹ viện, tôi phải về thăm mẹ tôi một lần! Trước kia, mẹ tôi có giúp đỡ anh đủ thứ, nay anh đem bán tôi cho kỹ viện thì anh cũng nên theo tôi về mà nói với mẹ tôi một lời!" Hữu Tài nói:"Chỉ sợ lão mẫu ngăn cản, không cho tôi bán nàng thôi!" Thúy Tiên lắc đầu, nói:"Mẹ tôi chẳng ngăn cản anh đâu vì mẹ tôi vẫn biết là tôi chẳng muốn lấy anh mà!" Nghe vợ nói có lý, Hữu Tài bèn theo lời.
Sáng sau, hai vợ chồng dắt tì nữ về thăm Vân bà. Gần nửa đêm, về tới nhà. Qua ba lần cổng, một lần sân, vào tới sảnh đường, thấy nhà cửa đồ sộ, đèn nến sáng chưng, lầu gác nguy nga, kẻ hầu người hạ tấp nập, Hữu Tài kinh ngạc lắm. Trước kia, Hữu Tài có được nghe nói về chuyện giàu sang của Vân bà, song cũng chỉ biết lờ mờ thế thôi chứ chẳng ngờ Vân bà lại giàu sang tới mức ấy! Nay thấy nhà cửa bề thế quá, Hữu Tài lại đâm lo, chỉ sợ Vân bà ngăn cản, không cho mình bán Thúy Tiên! Thúy Tiên bảo tì nữ xuống bếp thăm bè bạn, còn mình thì dắt Hữu Tài lên lầu gặp mẹ. Vân bà thấy con dắt rể về giữa đêm khuya thì sửng sốt, hỏi:"Có việc chi gấp mà nửa đêm lại dắt nhau về đây?" Thúy Tiên lộ vẻ oán hận, lấy ngón tay chỉ mặt Hữu Tài, nói:"Trước kia con đã nói với mẹ rằng gã này có tướng vô hạnh, bất nghĩa mà mẹ chẳng tin, cứ ép con phải lấy gã. Nay thì quả đúng như lời con đã nói! Gã vô hạnh, bất nghĩa quá lắm!" Vân bà hỏi:"Vô hạnh, bất nghĩa như thế nào?" Đáp:"Gã đã cờ bạc thua hết cả tiền ở trong nhà rồi bây giờ gã lại bán con cho kỹ viện!" Đáp xong, Thúy Tiên móc túi lấy ra hai đĩnh vàng, đặt lên bàn, nói:"Hai đĩnh vàng này là của mẹ cho con để gây dựng cơ đồ cho chồng, may mà chưa bị chồng cướp đoạt. Bây giờ thì còn chồng đâu nữa mà gây dựng cơ đồ? Vậy con xin hoàn lại mẹ!" Rồi quay qua Hữu Tài, mắng:"Đồ chó má! Ngày trước anh bán hàng xén, làm ăn vất vả nên mặt mũi lem luốc, chân tay nhăn nhúm, ghét bám đầy người, mồ hôi nồng nặc. Từ khi lấy tôi, anh được mẹ tôi chu cấp tiền bạc, chỉ ở nhà thụ hưởng cơm áo nên da dẻ mới được nhẵn nhụi thế này! Được ăn không ngồi rồi, anh lại đàn đúm với lũ bạn cũ. Có mặt mẹ tôi đây, tôi có vu oan cho anh điều gì không?" Hữu Tài cúi đầu, nín thở, chẳng đáp được lời nào. Thúy Tiên mắng tiếp:"Tôi tự biết là mình chẳng có nhan sắc khuynh thành để lấy được một tấm chồng giàu sang. Vì thế khi mẹ tôi ép tôi lấy anh, tôi đành vâng lời để mẹ tôi mừng là tôi chẳng ế chồng. Tôi về làm vợ anh, có thiếu bổn phận gì không, có phụ bạc gì không, mà anh nỡ đem bán tôi cho kỹ viện? Mẹ tôi cho tôi hai đĩnh vàng để gây dựng cơ đồ cho anh thì tôi dư sức xây nhà cao cửa rộng, mua vườn tậu ruộng cho anh song tôi chẳng làm vì tôi thấy rõ cái chân tướng vô hạnh, bất nghĩa của anh. Anh chỉ có cái tướng đi ăn mày thôi. Tôi chẳng thể làm bạn bạc đầu với anh được!"
Bọn tì nữ nghe thấy tiểu thư to tiếng ở trên lầu thì rủ nhau chạy lên coi. Nghe tiểu thư kể tội Hữu Tài, chúng liền nổi giận, vây chặt lấy Hữu Tài mà mắng chửi thậm tệ, rồi quay qua nói với Thúy Tiên:"Tiểu thư nói làm chi cho mệt? Để tụi tiểu tì giết quách gã đi cho rồi!" Hữu Tài sợ quá, rập đầu xuống đất, van lạy:"Tôi biết tội đã nhiều, tôi hối hận lắm, xin tha cho tôi!" Thúy Tiên càng giận, mắng:"Bán vợ cho nhà giàu thì đã là cái giống đại ác rồi, còn bán vợ cho kỹ viện thì chẳng biết phải gọi là cái giống chi?" Nghe thấy thế, bọn tì nữ căm tức vô cùng, xúm lại xé rách hết quần áo, rồi cùng rút trâm cài đầu, đâm vào người Hữu Tài. Hữu Tài khóc thét lên, năn nỉ: "Xin các tiểu nương tha cho tôi!" Thúy Tiên bèn ngăn bọn tì nữ lại, nói:"Tha cho gã! Trừng trị như thế cũng đủ rồi! Để mặc gã ở đây, ta đi thôi!" Nói xong, bước tới cầm tay Vân bà, dắt xuống lầu. Bọn tì nữ cũng lục tục xuống theo.
Hữu Tài ngồi im trên lầu nghe ngóng. Lát sau, khi thấy lặng tiếng người, Hữu Tài mới nghĩ tới việc trốn về nhà. Thế nhưng, thấy đêm đã khuya, tinh thần mệt mỏi Hữu Tài lại nằm xuống ngủ. Khi thức giấc, mở mắt nhìn lên, chẳng thấy nóc nhà đâu mà chỉ thấy một bàu trời trăng lặn sao thưa, Hữu Tài kinh hãi quá, vội ngồi nhỏm dậy, đưa mắt nhìn quanh. Thấy ngôi nhà đồ sộ đã biến mất, mặt trời đỏ ối đang lấp ló sau vòm lá um tùm, còn mình thì đang ngồi cheo leo trên một tảng đá chênh vênh ở vách núi, giữa rừng cây rậm rạp, Hữu Tài kinh hoàng cực độ, chỉ sợ bị té xuống vực thẳm thì tan xác. Thấy mỏi lưng, Hữu Tài bất giác vặn mình cho đỡ mỏi thì đột nhiên tảng đá lở ra, rớt xuống vực, hất Hữu Tài vào không trung. Trong một thoáng, Hữu Tài nghĩ mình sắp chết nhưng rồi đột nhiên, Hữu Tài lại thấy bụng mình rơi trúng một cành cây, chân tay chới với. Mở mắt nhìn xuống dưới, thấy vực thẳm không đáy, Hữu Tài kinh hãi quá, vội nhắm mắt lại, gắng dùng chút hơi tàn để ôm quặp lấy cành cây, chẳng dám nhúc nhích. Thân thể sưng vù vì bị trâm đâm, Hữu Tài gào khóc kêu cứu song chỉ nghe thấy tiếng vang vọng của núi rừng. Kiệt sức, Hữu Tài lại nghĩ mình sắp chết.
Lát sau, khi mặt trời lên cao, có một tiều phu vào rừng đốn củi. Khi đi qua vách núi, thấy Hữu Tài nằm co quắp, bám vào cành cây bên bờ vực thẳm, tiều phu liền ròng dây xuống, bảo Hữu Tài bám vào rồi kéo lên. Thấy Hữu Tài đã kiệt sức, tiều phu liền bỏ buổi đốn củi, cõng về nhà săn sóc. Khi Hữu Tài tỉnh lại, tiều phu hỏi:"Họ tên chi?" Hữu Tài đáp:"Họ Lương, tên Hữu Tài" Hỏi:"Nhà cửa ở đâu?" Đáp:"Ở thủ phủ Tế Nam" Hỏi:"Sao lại vào giữa rừng cây ở đây mà nằm như thế?" Hữu Tài bèn thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong, tiều phu cũng lấy làm lạ. Hữu Tài hỏi:"Đây là đâu?" Tiều phu đáp:"Là phía tây dãy Thái Hành Sơn, cách ngọn Vương Sơn chừng bốn chục dặm!" Hữu Tài thấy lời nói của tiều phu phù hợp với lời nói của Vân bà. Hôm sau, thấy sức khoẻ đã phục hồi, Hữu Tài bèn cám ơn tiều phu rồi xin cáo biệt.
Tới nhà, Hữu Tài thấy cửa ngõ mở toang. Vào nhà, thấy phòng ốc trống rỗng, bao nhiêu đồ đạc, quần áo của Vân bà cấp cho khi trước đều đã biến mất, chỉ còn trơ lại có hai vật cũ của mình là chiếc võng rách với chiếc bàn gãy chân. Mệt quá, Hữu Tài lên võng ngủ. Lát sau, tỉnh giấc, thấy bụng đói cồn cào, Hữu Tài vào trạn mò cơm thì thấy chẳng còn một hạt. Hữu Tài bèn mò sang hàng xóm xin ăn, làm hàng xóm cũng phải ngạc nhiên. Lát sau, đúng hẹn, mụ chủ kỹ viện đem vàng và ước thư tới để mua Thúy Tiên. Hữu Tài liền thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Mụ đành đem vàng ra về.
Hữu Tài định trở lại nghề bán hàng xén song không còn vốn. Mấy hôm sau, Hữu Tài mắc bệnh phù thũng, nhưng vì đã bị mang tiếng là kẻ vô hạnh nên chẳng ai giúp đỡ chút gì. Hết phương kế sinh nhai, Hữu Tài đành phải bán rẻ căn nhà, lấy con dao bếp giắt vào người rồi đem bọc tiền vào ở trong hang núi. Hàng ngày, Hữu Tài đem tiền ra chợ mua cơm. Tiêu mãi, hết tiền, lại vô nghệ nghiệp, Hữu Tài phải đi ăn xin. Có kẻ nói:"Còn con dao giắt trong người, sao đã phải đi ăn xin?" Hữu Tài hỏi:"Nói thế là nghĩa gì?" Kẻ ấy đáp:"Thì hãy bán dao đi, lấy tiền mà mua cơm!" Hữu Tài nói:"Đâu có được! Ở trong hang, cần phải có dao để đề phòng lang sói!" Ít lâu sau, Hữu Tài lại bị bệnh phong cùi.
Một hôm, Hữu Tài từ trong núi ra chợ ăn xin. Dọc đường, tình cờ gặp Đắc Lợi, Hữu Tài rủ ngồi xuống vệ đường hàn huyên. Trong khi trò chuyện, bất thần Hữu Tài rút dao giắt trong người, đâm chết Đắc Lợi. Lính bắt giải lên huyện đường. Quan tể hỏi tại sao lại sát nhân? Hữu Tài bèn trình bày đầu đuôi câu chuyện. Quan nghe chuyện cũng thương tình, chẳng nỡ lên án tử hình mà cũng chẳng ra lệnh đánh đập, chỉ ra lệnh hạ ngục.
Thế nhưng, vì bị giam cầm khổ sở rồi lại bị mắc chứng bệnh nặng, chẳng đủ cơm ăn thuốc uống, nên mới bị tù có một tháng, Hữu Tài đã lăn ra chết ở trong ngục.
THAY TIM, ĐỔI ĐẦU
(truyện LỤC PHÁN)
Dịch khước tâm tràng canh diện mục
Hồi thiên thủ đoạn tối kham xung
Lăng Dương miếu mạo kim hà tại
Thỉnh dữ tiên sinh đính tửu bằng
Huyện Tuyên Thành, tỉnh An Huy, có núi Lăng Dương. Trên đỉnh, có điện thờ thần linh, tên Thập Vương Điện. Ở hai bên hành lang đông tây, có hai hàng tượng gỗ, tạc hình các quan chức âm phủ, trạm trổ rất công phu, mặc quần áo thực, trông như người sống. Ở hành lang phía đông, có tượng phán quan râu dài, đứng nghiêm, mặt mũi hung dữ, sơn màu xanh lè, bộ râu thậm thượt, sơn màu đỏ chót. Những kẻ không kiêng kỵ thường gọi tượng này là Tông Sư Râu. Dân chúng trong vùng đồn rằng đêm nào người ta cũng nghe thấy có tiếng khảo đả ở hai bên hành lang và thuật lại nhiều chuyện rất rùng rợn. Vì thế, vào ban đêm, ít có người dám lên gần điện.
Ở chân núi, có ngôi làng Lục Dương. Trong làng, có nho sinh, họ Chu, tên Nhĩ Đán, tên chữ Tiểu Minh, thực thà chất phác, học hành chăm chỉ song trí nhớ kém, tiến bộ chậm chạp, văn chương xoàng xĩnh. Thế nhưng, Tiểu Minh lại nổi tiếng là người gan dạ. Tiểu Minh có vợ họ Phùng, tính rất hiền thục, song kém nhan sắc.
Trong huyện, lại có thị ngự họ Ngô, đã hồi hưu, có cô con út rất đẹp, tên Giáng Tiên. Năm Giáng Tiên 13, thị ngự hứa gả cho nho sinh họ Trịnh, song sắp tới ngày cưới thì Trịnh sinh bị bệnh mà thác. Ba năm sau, thị ngự lại hứa gả cho nho sinh họ Vương, song cũng sắp tới ngày cưới thì Vương sinh cũng bị bệnh mà thác. Năm ấy, Giáng Tiên đã 19 song thị ngự chưa hứa gả cho ai khác.
Trong vùng, các nho sinh lập một hội văn, hùn tiền thuê một hội quán để hàng tháng họp mặt yến ẩm, bình luận văn chương. Tiểu Minh cũng có chân ở trong hội.
Một tối, trong buổi họp mặt ở hội quán, bỗng có nho sinh nói đùa:"Này Tiểu Minh! Bạn nổi tiếng là người gan dạ. Bây giờ, nếu bạn dám lên Thập Vương Điện vác tượng phán quan râu dài xuống đây thì chiều mai anh em sẽ hùn tiền làm một bữa tiệc thịnh soạn để đãi bạn" Tiểu Minh chẳng đáp, chỉ mỉm cười rồi đứng dậy bỏ đi.
Lát sau, có tiếng Tiểu Minh từ ngoài cửa vọng vào: "Đã lên điện thỉnh được Tông Sư Râu xuống đây chơi rồi này!" Nhóm nho sinh sửng sốt, cùng đứng bật dậy. Tiểu Minh vác tượng vào đặt ở giữa bàn. Nhóm nho sinh kinh hãi, cùng chạy tới góc phòng, đứng rúm lại với nhau. Tiểu Minh lấy hồ và chén, đem tới trước tượng, rót rượu vào chén mà khấn:"Xin mời đại tông sư dùng với tiểu sinh một chén!" rồi rót rượu xuống đất. Tiểu Minh làm như thế ba lần. Nhóm nho sinh càng co rúm lại với nhau ở góc phòng, đứng dựa vào nhau mà run rẩy. Lát sau, có nho sinh kinh hãi quá, giục:"Thôi Tiểu Minh ơi! Bạn làm ơn vác tượng lên núi trả lại điện giùm đi!" Tiểu Minh bèn lấy chén mới, rót rượu mà khấn:"Tiểu sinh hành động điên cuồng, xin đại tông sư thứ lỗi. Nếu chẳng chê tiểu sinh là kẻ nghèo hèn thì hôm nào thấy hứng, xin mời đại tông sư quá bộ tới tệ xá ở gần đây để cùng uống. Tiểu sinh rất hân hạnh được đón tiếp!" Khấn xong, rót rượu xuống đất, rồi vác tượng đi. Nhóm nho sinh đều phục Tiểu Minh là người gan dạ. Tiểu Minh vác tượng lên núi, vào hành lang điện, trả lại chỗ cũ. Về nhà, Tiểu Minh thuật chuyện cho vợ nghe. Phùng thị kinh hãi, nói:"Mạo phạm quỷ thần như thế mà chẳng sợ bị tội chết hay sao?" Tiểu Minh cười, đáp:"Mượn tượng cho bạn bè coi rồi đem trả lại chỗ cũ thì có chi mà gọi là mạo phạm?"
Chiều sau, nhóm nho sinh hùn tiền làm tiệc đãi Tiểu Minh. Mọi người cùng yến ẩm, nói cười vui vẻ.
Gần tới nửa đêm, bữa tiệc mới tan. Tiểu Minh về nhà, thấy còn tửu hứng, bèn lại thắp đèn, đi tìm hồ rượu, đem ra phòng khách, ngồi uống một mình. Chợt thấy có người vén rèm bước vào, Tiểu Minh nhìn lên thì nhận ra là phán quan, vội đứng dậy nói:"Kính chào đại tông sư! Đêm qua trót mạo phạm, phải chăng đêm nay tới tệ xá để lấy mạng?" Phán quan vuốt râu, mỉm cười, nói:"Chẳng phải thế! Đêm qua, nhờ lòng hào sảng của nhân huynh, đã được uống bốn chén hảo tửu. Đêm nay, rảnh rỗi, thấy hứng nên chiếu theo lời hẹn mà tới đó thôi!" Tiểu Minh mừng lắm, bèn kéo áo mời ngồi, rồi đem bộ đồ rượu đi rửa, bày lại lên bàn. Tiểu Minh toan nhấc hồ rượu đem đi hâm thì phán quan cản lại, nói:"Đêm nay tiết trời ấm áp, có thể uống lạnh được!" Tiểu Minh vâng lời rồi vào nhà trong bảo vợ:"Nàng hãy xuống bếp làm đồ nhắm đãi khách!" Phùng thị hỏi:"Ai thế?" Tiểu Minh đáp:"Phán quan trên Thập Vương Điện" Phùng thị kinh hãi quá, nói: "Thôi, ở trong này đi, đừng ra ngoài ấy nữa!" Tiểu Minh cười, đáp:"Mời khách tới nhà, khách tới lại chẳng ra tiếp, có phải là vô lễ không? Làm đồ nhắm xong, bảo con ở lên gõ cửa để ta xuống lấy. Đừng bắt nó bưng lên, kẻo nó kinh hãi, sẽ đánh đổ mất!" Nói xong, lại trở ra phòng khách. Phùng thị đành phải xuống bếp.
Lát sau, con ở lên gõ cửa. Tiểu Minh xuống bếp đem đồ nhắm lên, rồi rót rượu mời phán quan cùng mình yến ẩm. Trong tiệc, Tiểu Minh hỏi:"Quý tính ngài ra sao?" Phán quan đáp:"Họ Lục!" Hỏi:"Quý danh ngài ra sao?" Đáp:"Chẳng có tên!" Hỏi:"Văn chương âm phủ có khác gì văn chương dương thế không?" Đáp:"Đại loại thì cũng như nhau" Hỏi:"Ngài có rành về các điển cố văn chương dương thế không?" Đáp:"Cũng có biết chút ít!" Rồi cùng đem văn chương ra bàn luận, ý kiến rất tương đắc.
Phán quan uống rượu rất hào, uống liền một lúc mười chén mà vẫn chưa say. Tiểu Minh đã uống suốt buổi chiều nên mới uống thêm vài chén đã thấy vách tường nghiêng ngả, phải dựa lưng vào thành ghế mà ngủ. Đến khi tỉnh giấc, bấc đèn đã lụi, khách đã đi rồi.
Từ đó thành lệ, cứ ba tối một lần, phán quan lại tới. Tình bạn mỗi ngày một thêm thân thiết.
Một tối, Tiểu Minh lấy văn bài mình mới làm đưa ra, nói:"Xin chấm giùm cho!" Phán quan chẳng khách sáo, cầm bài lên coi rồi đặt bút phê:"Dở lắm!"
Tuần sau. Một tối, Tiểu Minh say quá, nằm lăn xuống tràng kỷ ngủ, để mặc phán quan ngồi uống một mình. Lát sau, Tiểu Minh chợt mơ màng thấy ngực mình đau ê ẩm. Mở mắt ra coi, thấy phán quan một tay cầm dao, một tay đang kéo tim phổi mình ra khỏi lồng ngực, Tiểu Minh kinh hãi quá, vội lên tiếng hỏi:"Vốn chẳng oán thù, sao lại giết nhau?" Phán quan cười, đáp:"Đâu có giết! Chỉ thay tim thôi! Đừng có sợ!" rồi nhét tim phổi trở vào lồng ngực Tiểu Minh như cũ. Phán quan khép vết rạch, lấy vải quấn quanh, rồi nói:"Xong rồi!" Nghĩ chắc tràng kỷ phải bê bết máu, Tiểu Minh nhỏm dậy coi thì thấy vẫn sạch khô nên ngạc nhiên lắm. Đưa mắt nhìn quanh, thấy trên bàn có một bọc vải, Tiểu Minh hỏi:"Bọc gì thế?" Phán quan đáp:"Tim của nhân huynh!" Hỏi:"Sao lại phải thay?" Đáp:"Vì thấy văn dở quá nên biết bị tắc tim. Xét bao vạn xác chết, mới thấy một tim thông, nên mổ lấy đem tới, để thay cho nhân huynh. Bây giờ đem tim tắc về đền lại xác chết!" Đáp xong, xách bọc ra khỏi phòng.
Sáng sau, Tiểu Minh lấy gương ra soi thì thấy vết rạch đã liền, chỉ còn một vết đỏ. Từ đó, trí nhớ khác hẳn, đọc bài một lần là thuộc, văn chương tiến bộ vượt mức, hành văn khác hẳn khi trước.
Tuần sau, Tiểu Minh lại lấy văn bài mình mới làm đưa ra, nói:"Xin chấm giùm cho, xem đã được chưa?" Phán quan coi xong, nói:"Được rồi!" Hỏi:"Đậu hiếu liêm (cử nhân) được không?" Đáp:"Được!" Hỏi:"Đậu cao không?" Đáp:"Cao!" Hỏi:"Đậu thứ mấy?" Đáp:"Đậu thủ khoa!" Hỏi:"Bao giờ thì đậu?" Đáp:"Mùa thu năm nay!" Hỏi:"Đậu tiến sĩ được không?" Đáp: "Không!" Hỏi: "Sao vậy?" Đáp: "Phúc đức mỏng lắm, chẳng thể đại quý hiển được!" Mùa thu năm ấy, Tiểu Minh đi thi hương. Khi trường thi yết bảng, quả nhiên đậu thủ khoa.
Nhóm nho sinh trong hội văn tới nhà mừng, đòi cho xem bài thi. Tiểu Minh lấy bài đưa ra. Nhóm nho sinh coi xong, cùng nhìn nhau kinh ngạc. Có kẻ hỏi: "Sao văn chương bạn lại có thể tiến bộ tới mức ấy?" Tiểu Minh đáp: "Vì thay tim" Hỏi: "Ai thay cho?" Đáp: "Lục phán quan ở Thập Vương Điện" Hỏi: "Giới thiệu cho nhau có được không?" Đáp: "Được chớ sao không!" Tuần sau, khi phán quan tới, Tiểu Minh nói: "Nhóm nho sinh trong hội văn thấy văn chương tiến bộ, muốn nhờ giới thiệu!" Phán quan đáp:"Được!"
Hôm sau, nhóm nho sinh tới hỏi:"Có giới thiệu được không?" Tiểu Minh đáp:"Được!" rồi thuật chuyện cho nghe. Nhóm nho sinh mừng lắm, nhờ chuyển lời thỉnh phán quan tới hội quán văn dự tiệc vào tiết nguyên tiêu, tối rằm tháng giêng, đầu canh một. Tiểu Minh chuyển lời. Phán quan ưng thuận.
Đúng hẹn, phán quan tới. Thấy bộ râu đỏ của khách cử động, cặp mắt sáng loáng như điện chớp, nhóm nho sinh kinh hãi xanh mặt, răng đánh lập cập, lủi dần hết, chỉ còn lại có phán quan với Tiểu Minh. Tiểu Minh nói:"Họ kinh hãi, lủi hết rồi! Xin mời về tệ xá đối ẩm vậy!" Phán quan đáp:"Xin vâng!"
Tới nhà, Tiểu Minh đem rượu ra mời khách. Đến khuya, Tiểu Minh say khướt, nói lè nhè:"Thay tim cho, đã đội ơn rất nhiều. Nay muốn phiền việc khác, chẳng biết có được không?" Phán quan hỏi:"Việc gì?" Đáp:"Tiện nội vốn xấu xí, kết duyên với tiểu sinh từ hồi còn ít tuổi. Trộm nghĩ tim mà còn có thể thay được thì chắc diện mạo cũng có thể đổi được, nên muốn xin đại tông sư đổi diện mạo cho tiện nội, chẳng biết có được không?" Cười, nói:"Được! Song phải để từ từ, chờ dịp!"
Ba ngày sau, vào lúc quá nửa đêm, Tiểu Minh đang ngủ, bỗng nghe có tiếng gõ cổng, vội vùng dậy, chạy ra mở. Nhận ra là phán quan, Tiểu Minh bèn mời vào nhà. Thắp đèn lên thì chợt thấy khách xách theo một bọc vải, máu đào còn nhỏ giọt, Tiểu Minh kinh hãi, hỏi:"Bọc gì thế?" Phán quan đáp:"Đầu mỹ nhân! Hôm nọ nhân huynh có dặn lo cho sắc đẹp của lệnh chính. Đêm nay vừa tìm được đầu một mỹ nhân nên đem tới để thực hiện lời hứa!" rồi cầm bọc vải chạy thẳng tới cửa phòng Phùng thị. Tiểu Minh đang lo cửa phòng vợ mình bị khóa, nên vội chạy theo để mở thì đã thấy phán quan đặt bàn tay phải lên cánh cửa rồi thấy cánh cửa tự động mở tung. Phán quan chạy thẳng tới giường Phùng thị. Tiểu Minh cũng chạy tới theo thì thấy vợ mình đang ngủ. Phán quan đưa bọc vải cho Tiểu Minh cầm, rồi rút từ hia ra một lưỡi dao sáng loáng, ấn vào cổ Phùng thị, ngọt tựa bổ dưa. Đầu Phùng thị rơi ra gối. Phán quan lấy đầu mỹ nhân trong bọc, ráp lên cổ, ngắm nghía cho ngay ngắn, lấy tay ép đầu dính vào mình, rồi lấy gối phủ quanh. Sau đó, trao đầu Phùng thị cho Tiểu Minh, nói:"Cất đầu lệnh chính đi, phòng khi cần dùng tới!" rồi xin cáo biệt.
Sáng ra, Phùng thị tỉnh giấc. Thấy cổ ngưa ngứa, Phùng thị đưa tay xoa thì thấy một vật nhỏ tròn tròn. Giật ra coi, thấy là cục máu, Phùng thị kinh hãi quá, vội gọi con ở lấy nước rửa mặt. Con ở bưng chậu nước lên thì thấy đầu nữ chủ rối bù, tóc xõa kín mặt, đệm giường thấm máu, nên rất kinh hãi, há miệng đứng nhìn. Rửa mặt xong, Phùng thị thấy chậu nước đỏ lòm, còn con ở thì thấy nữ chủ là một người khác lạ. Cả chủ lẫn tớ cùng cực kỳ kinh hãi. Phùng thị sai con ở đi lấy gương soi. Thấy mình chẳng phải là mình, Phùng thị hoảng hốt, lên tiếng gọi chồng. Tiểu Minh chạy vào. Phùng thị hỏi:"Sao diện mạo thiếp lại khác lạ thế?" Tiểu Minh đáp:"Lục phán quan đã đổi đầu cho nàng cũng như đã thay tim cho ta!" Lúc đó Phùng thị mới vỡ lẽ. Tiểu Minh nhìn vợ, thấy quả là một trang mỹ nhân khác lạ, mi thanh mục tú, má lúm đồng tiền, cực kỳ xinh đẹp, tựa người trong tranh. Tiểu Minh hỏi vợ: "Nàng có ưng chăng?" Phùng thị mỉm cười, không đáp. Tiểu Minh liền chạy tới vạch cổ vợ ra coi thì thấy chỉ có một vết nhỏ, màu hồng lạt.
Năm ấy, tối rằm tháng giêng, nhằm tiết nguyên tiêu, cô con út của Ngô thị ngự là Giáng Tiên, lên núi Lục Dương vãn cảnh, có tì nữ theo hầu. Trong đoàn khách đăng sơn, có một tên cướp háo sắc. Nhìn thấy Giáng Tiên xinh đẹp, tên cướp ưa thích lắm, bèn dò hỏi cho ra nhà thị ngự.
Ba ngày sau, cũng vào buổi tối, tên cướp leo thang, vượt tường vào nhà, rút dao khoét cửa phòng Giáng Tiên, lẻn vào phòng chém chết tì nữ, rồi xông tới giường toan cưỡng chiếm Giáng Tiên. Giáng Tiên la hét, ra sức chống cự. Tên cướp tức giận, đâm chết Giáng Tiên rồi bỏ chạy. Phu nhân nghe tiếng huyên náo ở phòng con, vội sai hai tì nữ chạy tới coi. Vào phòng, thấy hai xác chết, chúng kinh hãi quá, tri hô ầm ĩ. Cả nhà nhốn nháo, cùng chạy lên coi rồi cùng gào khóc thất thanh. Tới nửa đêm, thị ngự sai gia nhân đem xác tì nữ xuống quàn ở nhà ngang, rồi đem xác Giáng Tiên lên quàn ở phòng khách, cắt hai tì nữ ngồi canh. Lát sau, hai tì nữ mệt quá, nằm lăn ra ngủ.
Sáng sau, thị ngự sai gia nhân khâm liệm xác con thì thấy xác đã bị mất đầu. Thị ngự giận lắm, cho rằng hai tì nữ đã chểnh mảng, để chó lên phòng khách tha mất đầu con, nên ra lệnh đánh đòn.
Thị ngự sai gia nhân lên huyện đường trình vụ án mạng. Quan tể giận lắm, ra lệnh cho thuộc hạ phải ráo riết lùng bắt tên cướp. Ba tháng sau, thuộc hạ vẫn chưa tìm ra manh mối.
Một hôm, có kẻ phong thanh nghe được chuyện Phùng thị đổi đầu với một mỹ nhân, trông giống đầu cô con út của thị ngự, bèn tới mách thị ngự. Thị ngự nửa tin nửa ngờ, song cũng vẫn sai bà vú đi dò xét. Bà vú tới nhà Tiểu Minh, gõ cổng xin việc. Tiểu Minh cho vào gặp Phùng thị. Thấy mặt Phùng thị, bà vú kinh hãi, đưa tay bụm miệng cho khỏi kêu lên. Bà vú giả vờ xin việc, Phùng thị từ chối, nói rằng nhà mình đã đủ người làm. Bà vú về thuật chuyện. Thị ngự nghe xong, chỉ thấy hoang mang, chẳng hiểu ra sao. Cuối cùng, thị ngự lại nghi rằng Tiểu Minh đã dùng yêu thuật sát hại con mình.
Hôm sau, thị ngự đích thân tới thăm Tiểu Minh. Sau một tuần trà, Tiểu Minh hỏi:"Chẳng hay lão quan tới tệ xá có điều chi dạy bảo?" Thị ngự đáp:"Lão phu nghe đồn lệnh chính vừa đổi đầu với tiện nữ nên lão phu muốn tới xin túc hạ cho gặp lệnh chính để xem lời đồn có đúng hay không?" Tiểu Minh nói:"Thưa, được!" rồi gọi vợ ra chào khách. Thấy diện mạo Phùng thị đúng là diện mạo con gái mình nhưng tay chân thì khác hẳn, thị ngự cũng chẳng hiểu ra sao. Tiểu Minh hỏi vợ:"Nàng có nhận ra quan thị ngự không?" Phùng thị ngơ ngác, lắc đầu. Thị ngự nói:"Chắc là túc hạ đã dùng yêu thuật sát hại tiện nữ!" Tiểu Minh đáp:"Tiện nội nằm mộng thấy được đổi đầu. Tiểu sinh cũng rối trí, chẳng hiểu ra sao. Nay lão quan lại nghi cho tiểu sinh sát hại lệnh ái thì thực là oan cho tiểu sinh!" Thị ngự ra về song trong lòng vẫn nghi là Tiểu Minh đã dùng yêu thuật sát hại con mình.
Sáng sau, thị ngự làm đơn kiện, nạp lên huyện đường. Quan tể đọc đơn, nửa tin nửa ngờ, sai lính đi bắt vợ chồng Tiểu Minh cùng con ở lên huyện đường thẩm vấn. Cả ba cùng khai như lời Tiểu Minh đã nói với thị ngự. Quan chẳng biết kết án ra sao, đành thả cho về.
Ba tối sau, phán quan tới đối ẩm. Tiểu Minh thuật chuyện thị ngự kiện mình, rồi hỏi: "Có cách chi minh oan được cho nhau chăng?" Phán quan đáp: "Có! Dễ lắm! Để bảo chính con gái nói cho cha mẹ biết!" rồi cáo biệt.
Đêm ấy, thị ngự nằm mộng thấy con gái về nói: "Tiểu nữ và con tì nữ cùng bị kẻ cướp họ Dương, tên Đại Niên ở Tô Khê sát hại. Vì diện mạo vợ Chu hiếu liêm xấu xí nên Lục phán quan ở Thập Vương Điện lấy đầu tiểu nữ mà đổi cho. Vì thế, tuy tiểu nữ đã thác song diện mạo vẫn còn. Xin phụ thân chớ nghi oan cho Chu hiếu liêm!" Thị ngự tỉnh giấc, lấy làm lạ, bèn thuật lại cho phu nhân nghe. Phu nhân nói chính mình cũng nằm mộng thấy như thế. Thị ngự bèn đích thân lên huyện đường, thuật lại giấc mộng của vợ chồng mình cho quan tể nghe.
Hôm sau, quan sai thuộc hạ đi Tô Khê điều tra hư thực thì thấy rằng ở Tô Khê quả có một kẻ tên Dương Đại Niên. Quan liền sai lính tới tìm bắt. Lính tìm bắt được, trói giải về huyện. Quan sai lính khảo đả điều tra. Bị đòn đau quá, Đại Niên đành phải thú nhận hết tội lỗi. Quan liền lên án tử hình Đại Niên. Thị ngự tới nhà Tiểu Minh, xin Phùng thị nhận mình làm cha. Phùng thị hỏi ý chồng. Tiểu Minh chấp thuận. Phùng thị bèn đồng ý. Thị ngự liền xin đầu cũ của Phùng thị đem về chôn cất với thi thể của con.
Năm ấy, Tiểu Minh chẳng tin lời phán quan, cứ đi thi hội (thi tiến sĩ). Văn chương cực hay song vẫn bị hỏng vì phạm trường quy. Ba năm sau, lại đi thi rồi lại hỏng. Ba năm sau nữa, lại đi thi rồi lại hỏng. Thấy ba lần thi, ba lần hỏng, Tiểu Minh mới tin lời phán quan là đúng. Vì thế, giấc mộng tiến sĩ ấp ủ từ ba chục năm qua, nay đột nhiên trở thành nguội lạnh. Thi hỏng lần thứ ba, về tới nhà thì vợ sanh con trai. Tiểu Minh đặt tên con là Nhĩ Vĩ.
Năm năm sau. Một tối, phán quan tới, nói:"Chẳng còn thọ lâu đâu!" Tiểu Minh hỏi:"Bao giờ thì chết?" Đáp: "Đúng năm hôm nữa thôi!" Hỏi:"Có giúp gì được nhau không?" Đáp:"Không! Mệnh trời đã định, ai mà đổi được? Vả lại, dưới mắt thường nhân thì sống chết là hai song dưới mắt đạt nhân thì sống chết chỉ là một. Sao cứ nghĩ sống là vui, chết là buồn?" Khen:"Lời nói chí lý thay!"
Sáng ra, Tiểu Minh tự sửa soạn vải liệm, quan quách. Năm hôm sau, Tiểu Minh tắm gội sạch sẽ, mặc quần áo đẹp, lên giường nằm rồi thác.
Tối ấy, Phùng thị ôm quan tài chồng mà khóc. Bỗng thấy chồng xăm xăm từ ngoài cổng bước vào, Phùng thị kinh hãi quá, suýt la lên. Chợt nghe thấy tiếng chồng nói:"Đừng sợ! Ta thác rồi song thấy chẳng khác chi khi còn sống. Thương nàng mẹ góa con côi, nên mới hiện về thăm một lát mà thôi!" Phùng thị cảm động, mếu máo, nói:"Thiếp nghe nói ai thác mà còn linh thiêng thì có thể hoàn hồn, tái sinh được. Lang quân còn linh thiêng, sao chẳng trở về sống với vợ con?" Tiểu Minh đáp:"Ai đổi được mệnh trời? Làm gì có chuyện hoàn hồn với tái sinh!" Hỏi:"Thế bây giờ xuống âm phủ, lang quân làm nghề gì?" Đáp:"Nhờ Lục phán quan tiến dẫn, ta đã được cử giữ chức chủ bạ, coi sóc hồ sơ. Quan tước tuy nhỏ song được cái công việc nhàn nhã lắm!" Phùng thị vừa toan lên tiếng hỏi nữa thì Tiểu Minh đã gạt đi, nói:"Lục phán quan cùng về với ta. Nàng hãy xuống bếp làm tiệc đi!" Nói xong, lại xăm xăm bước ra khỏi cổng. Phùng thị bèn xuống bếp làm tiệc rồi đem lên bày ở chỗ cũ. Chợt nghe thấy trong phòng có tiếng rót rượu, rồi có tiếng nói cười của chồng với khách, hào khí vẫn thanh cao như trước. Tới nửa đêm, đột nhiên tiếng nói cười im bặt.
Từ đó, cứ bốn tối một lần, Tiểu Minh lại hiện về thăm vợ. Lần nào về, cũng dặn dò vợ đủ mọi gia vụ rồi mới bảo vợ làm tiệc đãi khách. Có tối ở lại tới gần sáng. Thỉnh thoảng lại hiện về thêm một lần để bồng con.
Ba năm sau. Tối nào Tiểu Minh cũng hiện về dạy con học. Nhĩ Vĩ mới lên 8 song cũng đã thông minh. Học cha được một năm đã biết cách làm văn.
Bảy năm sau. Nhĩ Vĩ 15, thi đậu vào trường huyện. Từ đó, Tiểu Minh rất ít về thăm nhà. Năm thì mười họa mới hiện về một lát mà thôi.
Một tối, Tiểu Minh hiện về nói với vợ:"Tối nay ta về để vĩnh biệt nàng!" Phùng thị hỏi:"Lang quân đi đâu?" Đáp:"Vâng mệnh Thượng Đế, ta đi làm quan ở xa. Cách trở phiền hà, chẳng về được nữa!" Phùng thị ôm lấy chồng mà khóc. Tiểu Minh nói:"Đừng làm thế! Con đã lớn, gia nghiệp vẫn còn, đủ sống là được rồi! Từ thượng cổ tới nay, có cặp loan phượng nào được đoàn tụ với nhau mãi mãi đâu?" Rồi quay qua nói với con:"Con hãy gắng trở thành một người tốt. Mười năm nữa, ta sẽ gặp lại con lần chót!" Nói xong, xăm xăm bước ra khỏi cổng mà đi. Từ đó, tuyệt vô âm tín.
Mười năm sau. Nhĩ Vĩ 25, thi đậu tiến sĩ, được bổ làm quan, chức hành nhân. Một hôm, Nhĩ Vĩ phụng mệnh vua đi tế thần ở núi Tây Nhạc. Khi cùng đoàn tùy tùng qua huyện Hoa Âm, chợt thấy một cỗ xe từ xa xông thẳng vào đoàn ngựa của mình, Nhĩ Vĩ lấy làm lạ, giương mắt nhìn thì nhận ra cha đang ngồi trong xe với một xa phu. Nhĩ Vĩ vội xuống ngựa, nằm phục bên trái đường mà khóc. Tiểu Minh bảo xa phu dừng xe, nói:"Con làm quan nổi tiếng thanh liêm, chính trực. Ta thác, nhắm mắt được rồi!" Nhĩ Vĩ vẫn nằm phục, chẳng dám đứng dậy. Tiểu Minh bèn bảo xa phu phóng xe đi. Lúc đó, Nhĩ Vĩ mới khép nép đứng dậy, nhìn theo. Chợt thấy xe dừng lại, rồi thấy cha tháo bội đao đeo ở bên người, trao cho xa phu. Xa phu chạy tới trao cho Nhĩ Vĩ rồi quay trở lại xe. Nhĩ Vĩ còn đang bàng hoàng thì bỗng nghe thấy tiếng cha nói vọng từ xa tới:"Đeo bội đao vào người thì sẽ được quý hiển!" Rồi thấy xe vụt phóng đi. Nhĩ Vĩ vội lên ngựa đuổi theo song vì xe phóng nhanh quá nên Nhĩ Vĩ đuổi không kịp. Trong nháy mắt, xe đã biến mất hút. Nhĩ Vĩ dừng cương, buồn bã hồi lâu. Rút bội đao ra coi thì thấy cách chế tạo cực kỳ tinh xảo. Lại thấy trên bội đao có khắc dòng chữ:"Mật muốn lớn song tâm muốn nhỏ, trí muốn tròn song hành muốn vuông"
Nhĩ Vĩ làm quan, được thăng dần tới chức tư mã. Sanh được năm trai, đặt tên là Nhĩ Thẩm, Nhĩ Tiềm, Nhĩ Vật, Nhĩ Hồn, Nhĩ Thâm. Một đêm, Nhĩ Vĩ nằm mộng thấy cha về, nói:"Bội đao nên cho thằng Nhĩ Hồn!" Tỉnh giấc mới biết là chiêm bao.
Khi về già, Nhĩ Vĩ vâng lời cha, đem bội đao cho Nhĩ Hồn. Về sau, Nhĩ Hồn làm quan tới chức tổng hiến, cũng nổi tiếng là một vị quan thanh liêm, chính trực như cha.
Dịch khước tâm tràng canh diện mục
Hồi thiên thủ đoạn tối kham xung
Lăng Dương miếu mạo kim hà tại
Thỉnh dữ tiên sinh đính tửu bằng
Huyện Tuyên Thành, tỉnh An Huy, có núi Lăng Dương. Trên đỉnh, có điện thờ thần linh, tên Thập Vương Điện. Ở hai bên hành lang đông tây, có hai hàng tượng gỗ, tạc hình các quan chức âm phủ, trạm trổ rất công phu, mặc quần áo thực, trông như người sống. Ở hành lang phía đông, có tượng phán quan râu dài, đứng nghiêm, mặt mũi hung dữ, sơn màu xanh lè, bộ râu thậm thượt, sơn màu đỏ chót. Những kẻ không kiêng kỵ thường gọi tượng này là Tông Sư Râu. Dân chúng trong vùng đồn rằng đêm nào người ta cũng nghe thấy có tiếng khảo đả ở hai bên hành lang và thuật lại nhiều chuyện rất rùng rợn. Vì thế, vào ban đêm, ít có người dám lên gần điện.
Ở chân núi, có ngôi làng Lục Dương. Trong làng, có nho sinh, họ Chu, tên Nhĩ Đán, tên chữ Tiểu Minh, thực thà chất phác, học hành chăm chỉ song trí nhớ kém, tiến bộ chậm chạp, văn chương xoàng xĩnh. Thế nhưng, Tiểu Minh lại nổi tiếng là người gan dạ. Tiểu Minh có vợ họ Phùng, tính rất hiền thục, song kém nhan sắc.
Trong huyện, lại có thị ngự họ Ngô, đã hồi hưu, có cô con út rất đẹp, tên Giáng Tiên. Năm Giáng Tiên 13, thị ngự hứa gả cho nho sinh họ Trịnh, song sắp tới ngày cưới thì Trịnh sinh bị bệnh mà thác. Ba năm sau, thị ngự lại hứa gả cho nho sinh họ Vương, song cũng sắp tới ngày cưới thì Vương sinh cũng bị bệnh mà thác. Năm ấy, Giáng Tiên đã 19 song thị ngự chưa hứa gả cho ai khác.
Trong vùng, các nho sinh lập một hội văn, hùn tiền thuê một hội quán để hàng tháng họp mặt yến ẩm, bình luận văn chương. Tiểu Minh cũng có chân ở trong hội.
Một tối, trong buổi họp mặt ở hội quán, bỗng có nho sinh nói đùa:"Này Tiểu Minh! Bạn nổi tiếng là người gan dạ. Bây giờ, nếu bạn dám lên Thập Vương Điện vác tượng phán quan râu dài xuống đây thì chiều mai anh em sẽ hùn tiền làm một bữa tiệc thịnh soạn để đãi bạn" Tiểu Minh chẳng đáp, chỉ mỉm cười rồi đứng dậy bỏ đi.
Lát sau, có tiếng Tiểu Minh từ ngoài cửa vọng vào: "Đã lên điện thỉnh được Tông Sư Râu xuống đây chơi rồi này!" Nhóm nho sinh sửng sốt, cùng đứng bật dậy. Tiểu Minh vác tượng vào đặt ở giữa bàn. Nhóm nho sinh kinh hãi, cùng chạy tới góc phòng, đứng rúm lại với nhau. Tiểu Minh lấy hồ và chén, đem tới trước tượng, rót rượu vào chén mà khấn:"Xin mời đại tông sư dùng với tiểu sinh một chén!" rồi rót rượu xuống đất. Tiểu Minh làm như thế ba lần. Nhóm nho sinh càng co rúm lại với nhau ở góc phòng, đứng dựa vào nhau mà run rẩy. Lát sau, có nho sinh kinh hãi quá, giục:"Thôi Tiểu Minh ơi! Bạn làm ơn vác tượng lên núi trả lại điện giùm đi!" Tiểu Minh bèn lấy chén mới, rót rượu mà khấn:"Tiểu sinh hành động điên cuồng, xin đại tông sư thứ lỗi. Nếu chẳng chê tiểu sinh là kẻ nghèo hèn thì hôm nào thấy hứng, xin mời đại tông sư quá bộ tới tệ xá ở gần đây để cùng uống. Tiểu sinh rất hân hạnh được đón tiếp!" Khấn xong, rót rượu xuống đất, rồi vác tượng đi. Nhóm nho sinh đều phục Tiểu Minh là người gan dạ. Tiểu Minh vác tượng lên núi, vào hành lang điện, trả lại chỗ cũ. Về nhà, Tiểu Minh thuật chuyện cho vợ nghe. Phùng thị kinh hãi, nói:"Mạo phạm quỷ thần như thế mà chẳng sợ bị tội chết hay sao?" Tiểu Minh cười, đáp:"Mượn tượng cho bạn bè coi rồi đem trả lại chỗ cũ thì có chi mà gọi là mạo phạm?"
Chiều sau, nhóm nho sinh hùn tiền làm tiệc đãi Tiểu Minh. Mọi người cùng yến ẩm, nói cười vui vẻ.
Gần tới nửa đêm, bữa tiệc mới tan. Tiểu Minh về nhà, thấy còn tửu hứng, bèn lại thắp đèn, đi tìm hồ rượu, đem ra phòng khách, ngồi uống một mình. Chợt thấy có người vén rèm bước vào, Tiểu Minh nhìn lên thì nhận ra là phán quan, vội đứng dậy nói:"Kính chào đại tông sư! Đêm qua trót mạo phạm, phải chăng đêm nay tới tệ xá để lấy mạng?" Phán quan vuốt râu, mỉm cười, nói:"Chẳng phải thế! Đêm qua, nhờ lòng hào sảng của nhân huynh, đã được uống bốn chén hảo tửu. Đêm nay, rảnh rỗi, thấy hứng nên chiếu theo lời hẹn mà tới đó thôi!" Tiểu Minh mừng lắm, bèn kéo áo mời ngồi, rồi đem bộ đồ rượu đi rửa, bày lại lên bàn. Tiểu Minh toan nhấc hồ rượu đem đi hâm thì phán quan cản lại, nói:"Đêm nay tiết trời ấm áp, có thể uống lạnh được!" Tiểu Minh vâng lời rồi vào nhà trong bảo vợ:"Nàng hãy xuống bếp làm đồ nhắm đãi khách!" Phùng thị hỏi:"Ai thế?" Tiểu Minh đáp:"Phán quan trên Thập Vương Điện" Phùng thị kinh hãi quá, nói: "Thôi, ở trong này đi, đừng ra ngoài ấy nữa!" Tiểu Minh cười, đáp:"Mời khách tới nhà, khách tới lại chẳng ra tiếp, có phải là vô lễ không? Làm đồ nhắm xong, bảo con ở lên gõ cửa để ta xuống lấy. Đừng bắt nó bưng lên, kẻo nó kinh hãi, sẽ đánh đổ mất!" Nói xong, lại trở ra phòng khách. Phùng thị đành phải xuống bếp.
Lát sau, con ở lên gõ cửa. Tiểu Minh xuống bếp đem đồ nhắm lên, rồi rót rượu mời phán quan cùng mình yến ẩm. Trong tiệc, Tiểu Minh hỏi:"Quý tính ngài ra sao?" Phán quan đáp:"Họ Lục!" Hỏi:"Quý danh ngài ra sao?" Đáp:"Chẳng có tên!" Hỏi:"Văn chương âm phủ có khác gì văn chương dương thế không?" Đáp:"Đại loại thì cũng như nhau" Hỏi:"Ngài có rành về các điển cố văn chương dương thế không?" Đáp:"Cũng có biết chút ít!" Rồi cùng đem văn chương ra bàn luận, ý kiến rất tương đắc.
Phán quan uống rượu rất hào, uống liền một lúc mười chén mà vẫn chưa say. Tiểu Minh đã uống suốt buổi chiều nên mới uống thêm vài chén đã thấy vách tường nghiêng ngả, phải dựa lưng vào thành ghế mà ngủ. Đến khi tỉnh giấc, bấc đèn đã lụi, khách đã đi rồi.
Từ đó thành lệ, cứ ba tối một lần, phán quan lại tới. Tình bạn mỗi ngày một thêm thân thiết.
Một tối, Tiểu Minh lấy văn bài mình mới làm đưa ra, nói:"Xin chấm giùm cho!" Phán quan chẳng khách sáo, cầm bài lên coi rồi đặt bút phê:"Dở lắm!"
Tuần sau. Một tối, Tiểu Minh say quá, nằm lăn xuống tràng kỷ ngủ, để mặc phán quan ngồi uống một mình. Lát sau, Tiểu Minh chợt mơ màng thấy ngực mình đau ê ẩm. Mở mắt ra coi, thấy phán quan một tay cầm dao, một tay đang kéo tim phổi mình ra khỏi lồng ngực, Tiểu Minh kinh hãi quá, vội lên tiếng hỏi:"Vốn chẳng oán thù, sao lại giết nhau?" Phán quan cười, đáp:"Đâu có giết! Chỉ thay tim thôi! Đừng có sợ!" rồi nhét tim phổi trở vào lồng ngực Tiểu Minh như cũ. Phán quan khép vết rạch, lấy vải quấn quanh, rồi nói:"Xong rồi!" Nghĩ chắc tràng kỷ phải bê bết máu, Tiểu Minh nhỏm dậy coi thì thấy vẫn sạch khô nên ngạc nhiên lắm. Đưa mắt nhìn quanh, thấy trên bàn có một bọc vải, Tiểu Minh hỏi:"Bọc gì thế?" Phán quan đáp:"Tim của nhân huynh!" Hỏi:"Sao lại phải thay?" Đáp:"Vì thấy văn dở quá nên biết bị tắc tim. Xét bao vạn xác chết, mới thấy một tim thông, nên mổ lấy đem tới, để thay cho nhân huynh. Bây giờ đem tim tắc về đền lại xác chết!" Đáp xong, xách bọc ra khỏi phòng.
Sáng sau, Tiểu Minh lấy gương ra soi thì thấy vết rạch đã liền, chỉ còn một vết đỏ. Từ đó, trí nhớ khác hẳn, đọc bài một lần là thuộc, văn chương tiến bộ vượt mức, hành văn khác hẳn khi trước.
Tuần sau, Tiểu Minh lại lấy văn bài mình mới làm đưa ra, nói:"Xin chấm giùm cho, xem đã được chưa?" Phán quan coi xong, nói:"Được rồi!" Hỏi:"Đậu hiếu liêm (cử nhân) được không?" Đáp:"Được!" Hỏi:"Đậu cao không?" Đáp:"Cao!" Hỏi:"Đậu thứ mấy?" Đáp:"Đậu thủ khoa!" Hỏi:"Bao giờ thì đậu?" Đáp:"Mùa thu năm nay!" Hỏi:"Đậu tiến sĩ được không?" Đáp: "Không!" Hỏi: "Sao vậy?" Đáp: "Phúc đức mỏng lắm, chẳng thể đại quý hiển được!" Mùa thu năm ấy, Tiểu Minh đi thi hương. Khi trường thi yết bảng, quả nhiên đậu thủ khoa.
Nhóm nho sinh trong hội văn tới nhà mừng, đòi cho xem bài thi. Tiểu Minh lấy bài đưa ra. Nhóm nho sinh coi xong, cùng nhìn nhau kinh ngạc. Có kẻ hỏi: "Sao văn chương bạn lại có thể tiến bộ tới mức ấy?" Tiểu Minh đáp: "Vì thay tim" Hỏi: "Ai thay cho?" Đáp: "Lục phán quan ở Thập Vương Điện" Hỏi: "Giới thiệu cho nhau có được không?" Đáp: "Được chớ sao không!" Tuần sau, khi phán quan tới, Tiểu Minh nói: "Nhóm nho sinh trong hội văn thấy văn chương tiến bộ, muốn nhờ giới thiệu!" Phán quan đáp:"Được!"
Hôm sau, nhóm nho sinh tới hỏi:"Có giới thiệu được không?" Tiểu Minh đáp:"Được!" rồi thuật chuyện cho nghe. Nhóm nho sinh mừng lắm, nhờ chuyển lời thỉnh phán quan tới hội quán văn dự tiệc vào tiết nguyên tiêu, tối rằm tháng giêng, đầu canh một. Tiểu Minh chuyển lời. Phán quan ưng thuận.
Đúng hẹn, phán quan tới. Thấy bộ râu đỏ của khách cử động, cặp mắt sáng loáng như điện chớp, nhóm nho sinh kinh hãi xanh mặt, răng đánh lập cập, lủi dần hết, chỉ còn lại có phán quan với Tiểu Minh. Tiểu Minh nói:"Họ kinh hãi, lủi hết rồi! Xin mời về tệ xá đối ẩm vậy!" Phán quan đáp:"Xin vâng!"
Tới nhà, Tiểu Minh đem rượu ra mời khách. Đến khuya, Tiểu Minh say khướt, nói lè nhè:"Thay tim cho, đã đội ơn rất nhiều. Nay muốn phiền việc khác, chẳng biết có được không?" Phán quan hỏi:"Việc gì?" Đáp:"Tiện nội vốn xấu xí, kết duyên với tiểu sinh từ hồi còn ít tuổi. Trộm nghĩ tim mà còn có thể thay được thì chắc diện mạo cũng có thể đổi được, nên muốn xin đại tông sư đổi diện mạo cho tiện nội, chẳng biết có được không?" Cười, nói:"Được! Song phải để từ từ, chờ dịp!"
Ba ngày sau, vào lúc quá nửa đêm, Tiểu Minh đang ngủ, bỗng nghe có tiếng gõ cổng, vội vùng dậy, chạy ra mở. Nhận ra là phán quan, Tiểu Minh bèn mời vào nhà. Thắp đèn lên thì chợt thấy khách xách theo một bọc vải, máu đào còn nhỏ giọt, Tiểu Minh kinh hãi, hỏi:"Bọc gì thế?" Phán quan đáp:"Đầu mỹ nhân! Hôm nọ nhân huynh có dặn lo cho sắc đẹp của lệnh chính. Đêm nay vừa tìm được đầu một mỹ nhân nên đem tới để thực hiện lời hứa!" rồi cầm bọc vải chạy thẳng tới cửa phòng Phùng thị. Tiểu Minh đang lo cửa phòng vợ mình bị khóa, nên vội chạy theo để mở thì đã thấy phán quan đặt bàn tay phải lên cánh cửa rồi thấy cánh cửa tự động mở tung. Phán quan chạy thẳng tới giường Phùng thị. Tiểu Minh cũng chạy tới theo thì thấy vợ mình đang ngủ. Phán quan đưa bọc vải cho Tiểu Minh cầm, rồi rút từ hia ra một lưỡi dao sáng loáng, ấn vào cổ Phùng thị, ngọt tựa bổ dưa. Đầu Phùng thị rơi ra gối. Phán quan lấy đầu mỹ nhân trong bọc, ráp lên cổ, ngắm nghía cho ngay ngắn, lấy tay ép đầu dính vào mình, rồi lấy gối phủ quanh. Sau đó, trao đầu Phùng thị cho Tiểu Minh, nói:"Cất đầu lệnh chính đi, phòng khi cần dùng tới!" rồi xin cáo biệt.
Sáng ra, Phùng thị tỉnh giấc. Thấy cổ ngưa ngứa, Phùng thị đưa tay xoa thì thấy một vật nhỏ tròn tròn. Giật ra coi, thấy là cục máu, Phùng thị kinh hãi quá, vội gọi con ở lấy nước rửa mặt. Con ở bưng chậu nước lên thì thấy đầu nữ chủ rối bù, tóc xõa kín mặt, đệm giường thấm máu, nên rất kinh hãi, há miệng đứng nhìn. Rửa mặt xong, Phùng thị thấy chậu nước đỏ lòm, còn con ở thì thấy nữ chủ là một người khác lạ. Cả chủ lẫn tớ cùng cực kỳ kinh hãi. Phùng thị sai con ở đi lấy gương soi. Thấy mình chẳng phải là mình, Phùng thị hoảng hốt, lên tiếng gọi chồng. Tiểu Minh chạy vào. Phùng thị hỏi:"Sao diện mạo thiếp lại khác lạ thế?" Tiểu Minh đáp:"Lục phán quan đã đổi đầu cho nàng cũng như đã thay tim cho ta!" Lúc đó Phùng thị mới vỡ lẽ. Tiểu Minh nhìn vợ, thấy quả là một trang mỹ nhân khác lạ, mi thanh mục tú, má lúm đồng tiền, cực kỳ xinh đẹp, tựa người trong tranh. Tiểu Minh hỏi vợ: "Nàng có ưng chăng?" Phùng thị mỉm cười, không đáp. Tiểu Minh liền chạy tới vạch cổ vợ ra coi thì thấy chỉ có một vết nhỏ, màu hồng lạt.
Năm ấy, tối rằm tháng giêng, nhằm tiết nguyên tiêu, cô con út của Ngô thị ngự là Giáng Tiên, lên núi Lục Dương vãn cảnh, có tì nữ theo hầu. Trong đoàn khách đăng sơn, có một tên cướp háo sắc. Nhìn thấy Giáng Tiên xinh đẹp, tên cướp ưa thích lắm, bèn dò hỏi cho ra nhà thị ngự.
Ba ngày sau, cũng vào buổi tối, tên cướp leo thang, vượt tường vào nhà, rút dao khoét cửa phòng Giáng Tiên, lẻn vào phòng chém chết tì nữ, rồi xông tới giường toan cưỡng chiếm Giáng Tiên. Giáng Tiên la hét, ra sức chống cự. Tên cướp tức giận, đâm chết Giáng Tiên rồi bỏ chạy. Phu nhân nghe tiếng huyên náo ở phòng con, vội sai hai tì nữ chạy tới coi. Vào phòng, thấy hai xác chết, chúng kinh hãi quá, tri hô ầm ĩ. Cả nhà nhốn nháo, cùng chạy lên coi rồi cùng gào khóc thất thanh. Tới nửa đêm, thị ngự sai gia nhân đem xác tì nữ xuống quàn ở nhà ngang, rồi đem xác Giáng Tiên lên quàn ở phòng khách, cắt hai tì nữ ngồi canh. Lát sau, hai tì nữ mệt quá, nằm lăn ra ngủ.
Sáng sau, thị ngự sai gia nhân khâm liệm xác con thì thấy xác đã bị mất đầu. Thị ngự giận lắm, cho rằng hai tì nữ đã chểnh mảng, để chó lên phòng khách tha mất đầu con, nên ra lệnh đánh đòn.
Thị ngự sai gia nhân lên huyện đường trình vụ án mạng. Quan tể giận lắm, ra lệnh cho thuộc hạ phải ráo riết lùng bắt tên cướp. Ba tháng sau, thuộc hạ vẫn chưa tìm ra manh mối.
Một hôm, có kẻ phong thanh nghe được chuyện Phùng thị đổi đầu với một mỹ nhân, trông giống đầu cô con út của thị ngự, bèn tới mách thị ngự. Thị ngự nửa tin nửa ngờ, song cũng vẫn sai bà vú đi dò xét. Bà vú tới nhà Tiểu Minh, gõ cổng xin việc. Tiểu Minh cho vào gặp Phùng thị. Thấy mặt Phùng thị, bà vú kinh hãi, đưa tay bụm miệng cho khỏi kêu lên. Bà vú giả vờ xin việc, Phùng thị từ chối, nói rằng nhà mình đã đủ người làm. Bà vú về thuật chuyện. Thị ngự nghe xong, chỉ thấy hoang mang, chẳng hiểu ra sao. Cuối cùng, thị ngự lại nghi rằng Tiểu Minh đã dùng yêu thuật sát hại con mình.
Hôm sau, thị ngự đích thân tới thăm Tiểu Minh. Sau một tuần trà, Tiểu Minh hỏi:"Chẳng hay lão quan tới tệ xá có điều chi dạy bảo?" Thị ngự đáp:"Lão phu nghe đồn lệnh chính vừa đổi đầu với tiện nữ nên lão phu muốn tới xin túc hạ cho gặp lệnh chính để xem lời đồn có đúng hay không?" Tiểu Minh nói:"Thưa, được!" rồi gọi vợ ra chào khách. Thấy diện mạo Phùng thị đúng là diện mạo con gái mình nhưng tay chân thì khác hẳn, thị ngự cũng chẳng hiểu ra sao. Tiểu Minh hỏi vợ:"Nàng có nhận ra quan thị ngự không?" Phùng thị ngơ ngác, lắc đầu. Thị ngự nói:"Chắc là túc hạ đã dùng yêu thuật sát hại tiện nữ!" Tiểu Minh đáp:"Tiện nội nằm mộng thấy được đổi đầu. Tiểu sinh cũng rối trí, chẳng hiểu ra sao. Nay lão quan lại nghi cho tiểu sinh sát hại lệnh ái thì thực là oan cho tiểu sinh!" Thị ngự ra về song trong lòng vẫn nghi là Tiểu Minh đã dùng yêu thuật sát hại con mình.
Sáng sau, thị ngự làm đơn kiện, nạp lên huyện đường. Quan tể đọc đơn, nửa tin nửa ngờ, sai lính đi bắt vợ chồng Tiểu Minh cùng con ở lên huyện đường thẩm vấn. Cả ba cùng khai như lời Tiểu Minh đã nói với thị ngự. Quan chẳng biết kết án ra sao, đành thả cho về.
Ba tối sau, phán quan tới đối ẩm. Tiểu Minh thuật chuyện thị ngự kiện mình, rồi hỏi: "Có cách chi minh oan được cho nhau chăng?" Phán quan đáp: "Có! Dễ lắm! Để bảo chính con gái nói cho cha mẹ biết!" rồi cáo biệt.
Đêm ấy, thị ngự nằm mộng thấy con gái về nói: "Tiểu nữ và con tì nữ cùng bị kẻ cướp họ Dương, tên Đại Niên ở Tô Khê sát hại. Vì diện mạo vợ Chu hiếu liêm xấu xí nên Lục phán quan ở Thập Vương Điện lấy đầu tiểu nữ mà đổi cho. Vì thế, tuy tiểu nữ đã thác song diện mạo vẫn còn. Xin phụ thân chớ nghi oan cho Chu hiếu liêm!" Thị ngự tỉnh giấc, lấy làm lạ, bèn thuật lại cho phu nhân nghe. Phu nhân nói chính mình cũng nằm mộng thấy như thế. Thị ngự bèn đích thân lên huyện đường, thuật lại giấc mộng của vợ chồng mình cho quan tể nghe.
Hôm sau, quan sai thuộc hạ đi Tô Khê điều tra hư thực thì thấy rằng ở Tô Khê quả có một kẻ tên Dương Đại Niên. Quan liền sai lính tới tìm bắt. Lính tìm bắt được, trói giải về huyện. Quan sai lính khảo đả điều tra. Bị đòn đau quá, Đại Niên đành phải thú nhận hết tội lỗi. Quan liền lên án tử hình Đại Niên. Thị ngự tới nhà Tiểu Minh, xin Phùng thị nhận mình làm cha. Phùng thị hỏi ý chồng. Tiểu Minh chấp thuận. Phùng thị bèn đồng ý. Thị ngự liền xin đầu cũ của Phùng thị đem về chôn cất với thi thể của con.
Năm ấy, Tiểu Minh chẳng tin lời phán quan, cứ đi thi hội (thi tiến sĩ). Văn chương cực hay song vẫn bị hỏng vì phạm trường quy. Ba năm sau, lại đi thi rồi lại hỏng. Ba năm sau nữa, lại đi thi rồi lại hỏng. Thấy ba lần thi, ba lần hỏng, Tiểu Minh mới tin lời phán quan là đúng. Vì thế, giấc mộng tiến sĩ ấp ủ từ ba chục năm qua, nay đột nhiên trở thành nguội lạnh. Thi hỏng lần thứ ba, về tới nhà thì vợ sanh con trai. Tiểu Minh đặt tên con là Nhĩ Vĩ.
Năm năm sau. Một tối, phán quan tới, nói:"Chẳng còn thọ lâu đâu!" Tiểu Minh hỏi:"Bao giờ thì chết?" Đáp: "Đúng năm hôm nữa thôi!" Hỏi:"Có giúp gì được nhau không?" Đáp:"Không! Mệnh trời đã định, ai mà đổi được? Vả lại, dưới mắt thường nhân thì sống chết là hai song dưới mắt đạt nhân thì sống chết chỉ là một. Sao cứ nghĩ sống là vui, chết là buồn?" Khen:"Lời nói chí lý thay!"
Sáng ra, Tiểu Minh tự sửa soạn vải liệm, quan quách. Năm hôm sau, Tiểu Minh tắm gội sạch sẽ, mặc quần áo đẹp, lên giường nằm rồi thác.
Tối ấy, Phùng thị ôm quan tài chồng mà khóc. Bỗng thấy chồng xăm xăm từ ngoài cổng bước vào, Phùng thị kinh hãi quá, suýt la lên. Chợt nghe thấy tiếng chồng nói:"Đừng sợ! Ta thác rồi song thấy chẳng khác chi khi còn sống. Thương nàng mẹ góa con côi, nên mới hiện về thăm một lát mà thôi!" Phùng thị cảm động, mếu máo, nói:"Thiếp nghe nói ai thác mà còn linh thiêng thì có thể hoàn hồn, tái sinh được. Lang quân còn linh thiêng, sao chẳng trở về sống với vợ con?" Tiểu Minh đáp:"Ai đổi được mệnh trời? Làm gì có chuyện hoàn hồn với tái sinh!" Hỏi:"Thế bây giờ xuống âm phủ, lang quân làm nghề gì?" Đáp:"Nhờ Lục phán quan tiến dẫn, ta đã được cử giữ chức chủ bạ, coi sóc hồ sơ. Quan tước tuy nhỏ song được cái công việc nhàn nhã lắm!" Phùng thị vừa toan lên tiếng hỏi nữa thì Tiểu Minh đã gạt đi, nói:"Lục phán quan cùng về với ta. Nàng hãy xuống bếp làm tiệc đi!" Nói xong, lại xăm xăm bước ra khỏi cổng. Phùng thị bèn xuống bếp làm tiệc rồi đem lên bày ở chỗ cũ. Chợt nghe thấy trong phòng có tiếng rót rượu, rồi có tiếng nói cười của chồng với khách, hào khí vẫn thanh cao như trước. Tới nửa đêm, đột nhiên tiếng nói cười im bặt.
Từ đó, cứ bốn tối một lần, Tiểu Minh lại hiện về thăm vợ. Lần nào về, cũng dặn dò vợ đủ mọi gia vụ rồi mới bảo vợ làm tiệc đãi khách. Có tối ở lại tới gần sáng. Thỉnh thoảng lại hiện về thêm một lần để bồng con.
Ba năm sau. Tối nào Tiểu Minh cũng hiện về dạy con học. Nhĩ Vĩ mới lên 8 song cũng đã thông minh. Học cha được một năm đã biết cách làm văn.
Bảy năm sau. Nhĩ Vĩ 15, thi đậu vào trường huyện. Từ đó, Tiểu Minh rất ít về thăm nhà. Năm thì mười họa mới hiện về một lát mà thôi.
Một tối, Tiểu Minh hiện về nói với vợ:"Tối nay ta về để vĩnh biệt nàng!" Phùng thị hỏi:"Lang quân đi đâu?" Đáp:"Vâng mệnh Thượng Đế, ta đi làm quan ở xa. Cách trở phiền hà, chẳng về được nữa!" Phùng thị ôm lấy chồng mà khóc. Tiểu Minh nói:"Đừng làm thế! Con đã lớn, gia nghiệp vẫn còn, đủ sống là được rồi! Từ thượng cổ tới nay, có cặp loan phượng nào được đoàn tụ với nhau mãi mãi đâu?" Rồi quay qua nói với con:"Con hãy gắng trở thành một người tốt. Mười năm nữa, ta sẽ gặp lại con lần chót!" Nói xong, xăm xăm bước ra khỏi cổng mà đi. Từ đó, tuyệt vô âm tín.
Mười năm sau. Nhĩ Vĩ 25, thi đậu tiến sĩ, được bổ làm quan, chức hành nhân. Một hôm, Nhĩ Vĩ phụng mệnh vua đi tế thần ở núi Tây Nhạc. Khi cùng đoàn tùy tùng qua huyện Hoa Âm, chợt thấy một cỗ xe từ xa xông thẳng vào đoàn ngựa của mình, Nhĩ Vĩ lấy làm lạ, giương mắt nhìn thì nhận ra cha đang ngồi trong xe với một xa phu. Nhĩ Vĩ vội xuống ngựa, nằm phục bên trái đường mà khóc. Tiểu Minh bảo xa phu dừng xe, nói:"Con làm quan nổi tiếng thanh liêm, chính trực. Ta thác, nhắm mắt được rồi!" Nhĩ Vĩ vẫn nằm phục, chẳng dám đứng dậy. Tiểu Minh bèn bảo xa phu phóng xe đi. Lúc đó, Nhĩ Vĩ mới khép nép đứng dậy, nhìn theo. Chợt thấy xe dừng lại, rồi thấy cha tháo bội đao đeo ở bên người, trao cho xa phu. Xa phu chạy tới trao cho Nhĩ Vĩ rồi quay trở lại xe. Nhĩ Vĩ còn đang bàng hoàng thì bỗng nghe thấy tiếng cha nói vọng từ xa tới:"Đeo bội đao vào người thì sẽ được quý hiển!" Rồi thấy xe vụt phóng đi. Nhĩ Vĩ vội lên ngựa đuổi theo song vì xe phóng nhanh quá nên Nhĩ Vĩ đuổi không kịp. Trong nháy mắt, xe đã biến mất hút. Nhĩ Vĩ dừng cương, buồn bã hồi lâu. Rút bội đao ra coi thì thấy cách chế tạo cực kỳ tinh xảo. Lại thấy trên bội đao có khắc dòng chữ:"Mật muốn lớn song tâm muốn nhỏ, trí muốn tròn song hành muốn vuông"
Nhĩ Vĩ làm quan, được thăng dần tới chức tư mã. Sanh được năm trai, đặt tên là Nhĩ Thẩm, Nhĩ Tiềm, Nhĩ Vật, Nhĩ Hồn, Nhĩ Thâm. Một đêm, Nhĩ Vĩ nằm mộng thấy cha về, nói:"Bội đao nên cho thằng Nhĩ Hồn!" Tỉnh giấc mới biết là chiêm bao.
Khi về già, Nhĩ Vĩ vâng lời cha, đem bội đao cho Nhĩ Hồn. Về sau, Nhĩ Hồn làm quan tới chức tổng hiến, cũng nổi tiếng là một vị quan thanh liêm, chính trực như cha.
LẤY NGƯỜI, MA SỐNG LẠI
(truyện LIÊN TỎA)
Hoang thảo thùy hương dạ sắc hôn
Ngâm hoài bi sở nguyệt vô ngôn
Thập niên nhất giác tuyền đài mộng
Hà tất chân hương thủy phản hồn
Tỉnh Sơn Tây có nho sinh họ Dương, tên Tử Úy, gia tư khá giả nhờ ở gia sản của cha mẹ để lại.
Năm ấy, Tử Úy bỏ Sơn Tây sang Sơn Đông, mua một ngôi nhà ở huyện Tứ Thủy để cư ngụ. Ngôi nhà nằm giữa một vườn bạch dương, có hàng rào dâm bụt vây quanh. Đêm đêm, gió thổi vào lá bạch dương gây nên tiếng rì rào như tiếng sóng vỗ. Cổng chính ngôi nhà trông ra một cánh đồng trống trải, đầy cổ mộ.
Một tối, Tử Úy vừa thắp đèn lên để đọc sách thì chợt nghe có tiếng thiếu nữ ngâm thơ, từ ngoài hàng rào vọng vào nhà. Âm thanh trong vắt song đượm vẻ ai oán thê lương, ngâm đi ngâm lại mãi hai câu:
Nguyên dạ thê phong khước đảo xuy,
Lưu huỳnh thông thảo phục triêm vi.
(Đêm xuân gió nhẹ lạnh căm căm,
Đom đóm theo hoa lướt buổi rằm)
Tử Úy cứ thắc mắc, chẳng hiểu là tiếng người hay tiếng ma. Sáng sau, Tử Úy ra ngoài hàng rào để coi xem có vết chân người hay không thì chẳng thấy gì ngoài một chiếc nịt bít tất mắc trong bụi cỏ gai. Tử Úy nhặt lên, đem về nhà, để trên thành cửa sổ. Tối ấy, quá canh hai, lại nghe có tiếng ngâm thơ, Tử Úy bèn bắc ghế đứng nghển cổ nhìn qua hàng rào xem là ai thì bỗng thấy tiếng ngâm im bặt. Vì thế, Tử Úy nghĩ chắc là ma. Tuy nhiên, Tử Úy vẫn ưa thích tiếng ngâm ấy.
Tối sau, Tử Úy ra phía ngoài hàng rào, nấp trong bụi rậm để rình. Sắp sang canh hai, chợt thấy từ trong bụi cỏ ở đằng xa, có một nữ lang, dáng điệu tha thướt, lướt tới một cây nhỏ cạnh hàng rào nhà mình, đứng tựa vào cây, cúi đầu ngâm thơ, Tử Úy khẽ lên tiếng đằng hắng. Nữ lang nghe có tiếng người, vội lướt trở lại bụi cỏ rồi lẩn mất.
Từ đó, tối nào Tử Úy cũng ra nấp trong bụi rậm để chờ nghe lén. Đến khi nữ lang ngâm xong, lẩn vào bụi cỏ, Tử Úy mới quay vào nhà.
Một tối, khi nghe nữ lang ngâm xong, Tử Úy chợt nghĩ ra hai câu kế, liền cất giọng ngâm tiếp:
U tình khổ tự hà nhân kiến,
Thúy tụ đan hàn nguyệt thượng thì.
(Nỗi niềm buồn tủi nào ai thấy,
Áo biếc cô đơn dưới bóng trăng)
Ngâm xong, thấy chung quanh vắng lặng, Tử Úy bèn quay vào nhà. Vừa ngồi xuống ghế, chợt thấy nữ lang từ ngoài sân bước vào, chắp tay vái chào, Tử Úy mừng lắm, vội chắp tay đáp lễ, hỏi:"Nương tử họ tên chi?" Nữ lang đáp:"Thiếp họ Chu, tên Liên Tỏa" Hỏi:"Nhà ở đâu?" Đáp:"Cũng ở gần đây thôi" Hỏi:"Quê cũng ở huyện này phải không? Đáp:"Không phải! Ở huyện Lũng Tây tỉnh Cam Túc!" Hỏi:"Sao lại sang đây lưu ngụ?" Đáp:"Vì khi trước gia phụ dời nhà sang đây, nên dắt sang theo!" Hỏi: "Nương tử có phải là người sống không?" Đáp:"Không phải! Thiếp là ma!" Hỏi:"Sao qua đời sớm thế?" Đáp:"Vì bị bạo bệnh!" Tử Úy hỏi:"Mộ ở đâu?" Nữ lang lấy ngón tay chỉ về phía cánh đồng trước cổng, đáp:"Cách đây một dặm, nằm cạnh gốc cổ thụ cao!" Hỏi:"Qua đời đã lâu chưa?" Đáp:"Đã được 20 năm rồi! Từ năm mới 17 tuổi!" Hỏi:"Sao đêm nào cũng tới đây ngâm thơ?" Đáp:"Vì ở chốn cửu tuyền hoang dã quá! Lang thang tới đây ngâm thơ cho đỡ buồn!" Hỏi:"Hai câu thơ vẫn ngâm là của thi sĩ nào?" Đáp:"Của thiếp!" Hỏi:"Sao lại làm thơ ai oán, thê lương thế?" Đáp:"Vì muốn gửi gấm mối u tình!" Hỏi: "Thường lẩn trốn người sống, sao tối nay lại dám vào đây?" Đáp:"Vào để cám ơn!" Hỏi:"Cám ơn về việc gì?" Đáp:"Về việc đã nghĩ giùm hai câu kế vô cùng tuyệt diệu! Thiếp chỉ nghĩ được hai câu đầu, còn hai câu kế thì chịu! Nay được kẻ sĩ phong nhã nghĩ giùm cho, thiếp khâm phục lắm, nên vào đây để cám ơn!" Hai bên bèn chuyện trò thân mật, cách xưng hô cũng mỗi lúc một thân hơn. Gần tới nửa đêm, bỗng Tử Úy dang tay ra đùa bỡn. Liên Tỏa chỉ đưa tay chống cự yếu ớt. Chợt Tử Úy đưa mắt nhìn chằm chặp xuống hai chân Liên Tỏa. Thấy thế, Liên Tỏa cười, nói:"Cuồng sinh này sàm sỡ quá!" Tử Úy nói: "Chẳng phải là sàm sỡ đâu! Thấy nịt bít tất lạ thì nhìn đó thôi! Bên phải là nịt màu tím mà bên trái lại là tơ màu vàng!" Lúc đó Liên Tỏa mới vỡ lẽ. Liền đáp:"Tối nọ ngỡ là bị đuổi bắt, hốt hoảng bỏ trốn, nên bị tuột mất một chiếc nịt, chẳng biết ở đâu!" Tử Úy nói:"Để ta biếu nàng một chiếc khác!" Rồi tới thành cửa sổ lấy chiếc nịt đưa cho. Thấy đúng là chiếc nịt của mình, Liên Tỏa hết sức kinh ngạc, hỏi:"Lấy ở đâu ra?" Tử Úy nói thực cho nghe. Liên Tỏa liền tháo tơ ra, cột nịt vào. Thế rồi, hai người ngồi đàm luận văn thơ. Thấy Liên Tỏa thông tuệ, dễ thương, Tử Úy coi như một bạn văn tri kỷ. Quá nửa đêm, Liên Tỏa cáo biệt. Sáng sau, Tử Úy đi về phía đằng trước cổng nhà chừng một dặm thì thấy quả có một ngôi mộ nằm cạnh một gốc cổ thụ cao.
Từ buổi ấy, tối nào Tử Úy cũng nghe thấy tiếng ngâm thơ, rồi một lát sau thì thấy Liên Tỏa tới. Hai bên gặp nhau, nói cười vui vẻ, đàm luận văn thơ rất tương đắc, tựa hồ như cá gặp nước vậy.
Một tối, Tử Úy ngỏ ý muốn ái ân song Liên Tỏa chẳng chịu. Thế nhưng, khi Tử Úy ngỏ ý muốn kẻ lông mày cho thì Liên Tỏa lại chịu ngay.
Tối khác, Liên Tỏa tới, dặn:"Xin chớ nói chuyện đôi ta cho ai biết!" Tử Úy hỏi:"Tại sao?" Đáp:"Vì thiếp nhát lắm! Ngoài chàng ra, thiếp chẳng dám cho người nào gặp mặt vì sợ người ta bắt nạt mình!" Tử Úy gật đầu.
Mấy hôm sau. Một bữa, Tử Úy mượn được cuốn Liên Xương Cung Từ, đem về để trên bàn. Tối ấy, khi Liên Tỏa tới, thấy cuốn cung từ thì bất giác thở dài. Tử Úy hỏi: "Sao lại thở dài?" Liên Tỏa đáp:"Vì sinh thời, thiếp thích đọc cuốn này lắm! Nay thấy nó, thiếp lại nhớ tới thủa sinh thời nên ngậm ngùi mà thở dài đó thôi!" Tử Úy nói: "Cuốn này hay lắm! Ta cũng muốn chép lại một bản để thỉnh thoảng ngâm nga!" Liên Tỏa nói:"Nếu thế thì để thiếp chép cho!" Nói xong, liền ngồi dưới đèn mà chép, nét chữ rất ngay ngắn, mảnh mai. Rồi tự chọn cho mình một trăm bài ưa thích, chép thành một tuyển tập. Sáng sau, Tử Úy cất bản chép vào rương, để tuyển tập trên bàn, còn bản chính thì đem đi trả.
Một tối, Liên Tỏa tới, nói:"Chàng nên mua lấy một bàn cờ với một cây đàn để chúng mình giải trí với nhau!" Tử Úy gật đầu. Sáng ra, Tử Úy đi mua. Tối đến, khi Liên Tỏa tới, thấy có bàn cờ với cây đàn thì mỉm cười, nói: "Chàng hãy đấu thử với thiếp vài ván xem sao!" Tử Úy gật đầu rồi ngồi vào bàn, đấu cờ với Liên Tỏa. Tử Úy thua liền hai ván.
Tối sau, Liên Tỏa tới, nói:"Thiếp mới viết được khúc Tiêu Song Linh Vũ, nhưng chẳng biết chàng có thích nghe chăng?" Tử Úy gật đầu. Liên Tỏa bèn ôm đàn mà gảy, âm thanh ai oán. Mới nghe được nửa chừng, Tử Úy đã xua tay, nói:"Thôi đừng gảy nữa! Âm thanh buồn lắm!" Liên Tỏa bèn ngưng, rồi nói:"Thiếp có thuộc khúc Hiểu Uyển Oanh Thanh, nhưng chẳng biết chàng có thích nghe chăng?" Tử Úy gật đầu. Liên Tỏa lại ôm đàn mà gảy, âm thanh hoan lạc, khác hẳn khúc trước. Tử Úy thích khúc này lắm. Bèn cùng nhau vui chơi, quên cả thời khắc. Khi nhìn qua cửa sổ, thấy vừng đông đã ló rạng, Liên Tỏa mới kinh hãi, vội đứng dậy ra về.
Nửa năm sau.
Một trưa, Tử Úy đang nằm ngủ ở phòng khách, bỗng có người bạn nho sinh họ Tiết, tới thăm. Thấy Tử Úy đang ngủ, Tiết sinh đảo mắt nhìn quanh thì thấy có nhiều quân cờ vứt ngổn ngang trên bàn, cạnh một cây đàn. Vốn biết Tử Úy chẳng thích những thứ này, Tiết sinh lấy làm lạ nên đoán là Tử Úy mới có bạn gái. Tới bàn coi, Tiết sinh bắt gặp một bản chép các bài cung từ. Lật trang đầu ra coi, thấy nét chữ mảnh mai, ngay ngắn, lật trang cuối ra coi, thấy có ba chữ Liên Tỏa chép, Tiết sinh càng tin là mình đoán đúng.
Lát sau, khi tỉnh giấc, thấy bạn tới chơi, Tử Úy vùng dậy mặc quần áo, ngồi tiếp chuyện. Trong lúc hàn huyên, Tiết sinh hỏi: "Sao lại có bàn cờ với cây đàn?" Tử Úy đáp:"Vì muốn học đấu cờ với gảy đàn!" Hỏi:"Ai chép cho bản cung từ để trên bàn?" Đáp:"Mới mượn được của một người bạn chứ có ai chép cho đâu!" Cười, nói:"Liên Tỏa là tên con gái chứ đâu có phải là tên người bạn nào? Nói dối làm chi?" Tử Úy chẳng biết phải trả lời ra sao nên chỉ ngồi im lặng. Tiết sinh gặng hỏi song Tử Úy nhất định không nói. Tiết sinh bèn giả vờ cắp bản cung từ ra về. Quẫn quá, Tử Úy đành phải thuật lại chuyện mình gặp Liên Tỏa. Nghe xong, Tiết sinh nói:"Chuyện này lạ lắm. Nhờ bạn nói với Liên Tỏa cho tôi gặp mặt một lần!" Tử Úy đáp:"Tôi đã hứa với nàng là sẽ chẳng nói chuyện tôi gặp nàng cho ai biết! Xin bạn đừng ép!" Tiết sinh năn nỉ: "Nghe chuyện, tôi ngưỡng mộ nàng lắm! Vì thế tôi mới nảy ý muốn xin gặp mặt một lần! Ngoài ra, tôi chẳng có ý gì khác!" Bất đắc dĩ, Tử Úy phải nhận lời. Tiết sinh bèn trả lại bản cung từ, hẹn:"Sáng mai, tôi sẽ trở lại!" rồi cáo biệt. Tối ấy, khi Liên Tỏa tới, Tử Úy thuật lại chuyện Tiết sinh yêu cầu. Nghe xong, Liên Tỏa giận lắm, nói:"Hôm nọ đã căn dặn thế nào, mà hôm nay lại đi tiết lộ cho người khác biết?" Tử Úy bèn đem tình trạng cùng quẫn của mình ra để biện bạch. Nghe xong, Liên Tỏa thở dài, nói: "Thế là đôi ta đã hết duyên nợ với nhau rồi!" Tử Úy bèn năn nỉ, giải thích, xin lỗi cả trăm lần song Liên Tỏa vẫn chẳng vui. Lát sau, Liên Tỏa đứng dậy, nói:"Thôi, thiếp đi đây! Phải tạm lánh người bạn của chàng một thời gian đã!" Nói xong, biến mất.
Đúng hẹn, sáng sau Tiết sinh trở lại. Tử Úy nói: "Tôi đã nói giùm bạn rồi song Liên Tỏa chẳng chịu!" Tiết sinh nói:"Tôi nghi là bạn nói dối quá!" Tử Úy bất bình, nói:"Tôi nói thực, còn tin hay không là tùy bạn!" Tiết sinh bèn cáo biệt. Tối ấy, Tiết sinh trở lại nhà Tử Úy, dắt theo hai bạn nho sinh khác, một người họ Vương, một người họ Phùng, cùng tới nằm lỳ ở nhà Tử Úy như bộ ba ăn vạ, nói chuyện ồn ào suốt đêm, cố ý không cho Tử Úy ngủ, để chờ gặp Liên Tỏa. Thế nhưng, trong ba đêm liền, chẳng thấy Liên Tỏa đâu. Bộ ba chán nản, bèn bàn tính với nhau chỉ ở lại thêm một đêm nữa rồi sẽ ra về.
Tối ấy, vào khoảng canh hai, khi bộ ba sắp đi ngủ thì bỗng nghe có tiếng ngâm
thơ ai oán thê lương từ ngoài hàng rào vọng vào. Vốn tính hung hãn, Vương sinh
chạy ra sân nhặt một viên đá ném qua hàng rào, quát: "Làm bộ chẳng thèm tiếp
chuyện ai, sao bây giờ lại tới đây mà ngâm thơ ư ử?" Lập tức, tiếng ngâm
im bặt. Bộ ba bực tức với Liên Tỏa còn Tử Úy thì bực tức với bộ ba, nỗi bực tức
hiện rõ trên nét mặt cũng như trong lời nói. Thấy thế, bộ ba bèn rủ nhau đi ngủ.
Sáng sau, bộ ba cáo biệt. Tử Úy hững hờ tiễn ra cổng. Bộ ba về rồi, Tử Úy lại cảm
thấy vô cùng trống rỗng, chỉ cầu mong Liên Tỏa trở lại với mình. Tối ấy, Tử Úy
thức chờ Liên Tỏa suốt đêm song chẳng thấy Liên Tỏa đâu.
Hai tối sau. Trong lúc Tử Úy đang buồn rầu thất vọng, ngồi gục đầu trên bàn, bỗng thấy Liên Tỏa đẩy cửa bước vào phòng. Tử Úy mừng quá, vội đứng dậy, chạy ra đón. Liên Tỏa ôm mặt khóc, nói:"Bạn bè chàng hung hãn quá, chỉ muốn bắt nạt thiếp thôi!" Tử Úy nói:"Xin nàng thứ lỗi cho ta! Hãy ngồi xuống đây cho ta phân trần!" Đáp:"Chàng chẳng cần phải phân trần làm chi nữa! Thiếp chỉ đến để chào vĩnh biệt chàng thôi!" Nói:"Thì hãy ngồi xuống đây đã!" Đáp:"Đã nói đôi ta hết duyên nợ với nhau rồi mà! Thôi, từ nay xin vĩnh biệt!" Tử Úy toan lên tiếng năn nỉ thì thấy Liên Tỏa đã biến mất.
Bẵng đi hơn một tháng, chẳng thấy Liên Tỏa trở lại, Tử Úy nhớ lắm, gày dộc hẳn đi, song cũng chẳng biết phải làm thế nào.
Một tối, Tử Úy buồn quá, lấy rượu ra ngồi độc ẩm. Chợt thấy có người đẩy cửa bước vào phòng, Tử Úy đưa mắt nhìn thì thấy là Liên Tỏa. Tử Úy mừng quá, vội hỏi: "Phải chăng là nàng đã thứ lỗi cho ta?" Liên Tỏa chẳng đáp, chỉ ứa nước mắt khóc. Tử Úy hỏi:"Sao lại khóc?" Liên Tỏa mấp máy môi toan nói song lại thôi. Tử Úy hỏi: "Toan nói gì rồi lại thôi?" Liên Tỏa nuốt nước mắt, đáp: "Thiếp tức giận chàng nên đã bỏ đi, quyết tâm chẳng bao giờ trở lại! Song, tối nay có việc gấp, lại phải tới đây nhờ chàng nên chẳng khỏi ngượng ngùng!" Tử Úy hỏi:"Việc gì mà gấp thế?" Liên Tỏa vẫn ngập ngừng chưa chịu nói. Tử Úy giục:"Có việc gì thì nói ra đi, ta sẽ tận tình giúp đỡ cho!" Bấy giờ Liên Tỏa mới nói:"Tối qua, tự nhiên có một con quỷ tục tằn bẩn thỉu, chẳng biết lai lịch ở đâu, tới bắt thiếp phải đi theo nó để làm vợ. Thiếp nghĩ mình là con nhà gia giáo nên quyết tâm chẳng chịu, nhưng cũng biết mình là kẻ yếu đuối, chẳng thể chống cự được với nó nên mới tìm kế hoãn binh, xin nó cho hai ngày để thu xếp. Nó ưng thuận, hẹn tối mai sẽ tới đón. Vì trộm nghĩ đôi ta đã thân mật như vợ chồng nên tối nay thiếp mới tới đây để nhờ chàng diệt trừ nó giùm thiếp!" Thoạt nghe, uất khí trào lên cổ, Tử Úy nói ngay:"Ta thề là sẽ giết chết nó cho nàng!" Nói xong, như chợt nghĩ ra điều gì, Tử Úy lại nói: "Thế nhưng, nó với ta, âm dương đôi ngả, làm sao mà ta có thể giết nó được?" Liên Tỏa đáp:"Chàng chớ lo về việc này! Thiếp đã có cách!" Tử Úy hỏi:"Cách nào?" Liên Tỏa đáp:"Tối mai thiếp sẽ nói, bây giờ xin đừng hỏi! Chỉ cần tối mai chàng đi ngủ sớm là được rồi!" Tử Úy thắc mắc lắm song cũng đành gật đầu. Liên Tỏa bèn ngồi lại đàm luận văn thơ với Tử Úy cho tới rạng đông mới đứng dậy ra về. Trước khi đi, Liên Tỏa còn dặn:"Tối mai, xin chàng nhớ đi ngủ sớm!" Tử Úy lại gật đầu.
Tối sau, Tử Úy mặc sẵn quần áo rồi lấy rượu đem vào phòng ngồi độc ẩm. Khi đã ngà ngà say, Tử Úy cứ để nguyên quần áo, lên giường nằm. Chợt thấy Liên Tỏa đẩy cửa bước vào, tiến tới cạnh giường, trao cho mình một bội đao, Tử Úy vội vùng dậy để đỡ. Chú mục nhìn thì thấy bội đao dài hơn thước, chuôi có nạm minh châu. Tử Úy chưa kịp hỏi chuyện thì Liên Tỏa đã nắm lấy tay, kéo ra khỏi phòng, chạy nhanh như gió.
Lát sau, tới một ngôi nhà, Liên Tỏa đẩy cửa, kéo Tử Úy vào, rồi đóng sập lại, cài then thật kỹ. Tử Úy hỏi: "Nhà này của ai?" Liên Tỏa đáp:"Của thiếp!" Vừa đáp xong thì bỗng có tiếng đập cửa ầm ầm. Liên Tỏa tái mặt, nói:"Con quỷ tới rồi đó!" Tử Úy vội nắm chắc bội đao trong tay, chạy ra mở cửa, phóng mình ra sân. Thấy một con quỷ, đầu đội mũ đỏ, mình mặc áo xanh, đứng ở giữa sân, Tử Úy liền quát:"Loài quỷ tục tằn bẩn thỉu kia, mi ở đâu mà dám tới đây quấy nhiễu?" Con quỷ tức giận, trừng mắt nhìn Tử Úy, quát lại:"Cái thằng khốn nạn này! Mi ở đâu mà dám tới đây xen vào chuyện của tao?" Tử Úy nổi giận, múa tít bội đao, xông vào loạn trảm. Con quỷ bèn cúi xuống nhặt một viên đá, ném Tử Úy, trúng cổ tay, làm thanh bội đao suýt bị văng đi. Liên Tỏa ở trong nhà nhìn qua cửa sổ, thấy Tử Úy bị lâm nguy thì kinh hãi quá, vội chạy tới ngồi bệt ở góc phòng, co rúm người lại. Trong cơn nguy cấp, Tử Úy chợt thấy một thợ săn ở đằng xa, vội hét lớn:"Cứu tôi với! Cứu tôi với!" Thợ săn phóng mình chạy tới. Con quỷ lại cúi xuống nhặt một viên đá, ném thợ săn, nhưng không trúng. Thợ săn bèn giương cung bắn quỷ, mũi tên cắm phập vào bắp vế, làm quỷ ngã lăn xuống đất. Thợ săn vội bắn bồi một mũi nữa, xuyên qua sọ, làm quỷ chết ngay. Tử Úy mừng quá, chạy tới gần thợ săn để cám ơn thì chợt nhận ra thợ săn chính là Vương sinh. Vương sinh cũng nhận ra Tử Úy. Hai người cùng kinh ngạc. Vương sinh hỏi:"Bạn đi đâu mà lại tới đây?" Tử Úy đáp:"Liên Tỏa nhờ tôi tới đây để diệt trừ con quỷ giùm nàng song tôi bị nó lấy đá ném trúng cổ tay. Đang bị lâm nguy thì may được bạn tới cứu! Xin cám ơn bạn nhiều! Đây là nhà của Liên Tỏa! Vậy xin mời bạn hãy vào nhà nói chuyện một lát đã!" Vương sinh mừng lắm, nghĩ bụng mình vừa giết được con quỷ để cứu Tử Úy và Liên Tỏa thì chắc là đã chuộc được cái lỗi ném đá và quát thét trước kia. Vì thế, Vương sinh theo Tử Úy vào nhà. Thấy Liên Tỏa ngồi ở góc phòng Vương sinh gật đầu chào. Vì còn hồi hộp, Liên Tỏa chỉ khẽ gật đầu đáp lễ. Tử Úy đặt bội đao lên bàn. Vương sinh thấy bội đao lạ, bèn tới cầm lên coi. Thấy bội đao sáng quắc và nhọn hoắt, Vương sinh cứ tấm tắc khen:"Bội đao này đẹp quá! Bội đao này tốt quá!" Vương sinh cầm bội đao ngắm nghía hồi lâu rồi mới đặt trở lại bàn, hỏi:"Bạn lấy bội đao này ở đâu ra?" Tử Úy đáp:"Bội đao này là của Liên Tỏa trao cho tôi để diệt trừ con quỷ chứ chẳng phải là của tôi! Nay bạn đã giết được con quỷ giùm tôi rồi thì tôi chẳng còn phải dùng tới bội đao này nữa! Vì thế, bây giờ tôi đem trả lại cho nàng!" Thấy chẳng còn chuyện gì, Vương sinh bèn nói:"Thôi, tôi về đây!" rồi quay về phía góc phòng, gật đầu chào Liên Tỏa. Liên Tỏa cũng gật đầu đáp lễ. Vương sinh liền mở cửa, bước ra khỏi nhà. Thấy Vương sinh ra về, Tử Úy cũng muốn về theo nên quay nhìn Liên Tỏa, nói:"Thôi, ta cũng về đây!" Liên Tỏa chưa kịp đáp thì Tử Úy đã phóng mình chạy theo Vương sinh. Vì chạy nhanh quá, Tử Úy vấp phải đá rồi tỉnh giấc, biết là mình nằm chiêm bao. Thấy cổ tay đau nhức, Tử Úy kinh ngạc lắm, cứ thắc mắc chẳng lẽ chuyện mình bị ném đá trong mộng lại là chuyện có thực hay sao? Sáng ra, coi kỹ lại thì quả nhiên thấy cổ tay mình đã bị sưng vù. Trưa ấy, Tử Úy thấy Vương sinh tới thăm mình thì càng kinh ngạc. Vương sinh bước vào phòng khách, nói: "Đêm qua tôi nằm mộng thấy một chuyện lạ!" Tử Úy hỏi: "Có phải là chuyện đã dùng cung tên bắn chết một con quỷ hay không?" Vương sinh cực kỳ kinh hãi, hỏi:"Sao bạn biết?" Tử Úy bèn chìa cổ tay ra cho coi, rồi thuật lại giấc mộng cho nghe. Nghe xong, Vương sinh nói:"Tôi cũng nằm mộng thấy như thế!" Hai người cùng hết sức kinh nghi. Vì nhớ rõ nhan sắc của Liên Tỏa trong giấc mộng nên Vương sinh nói:"Nhờ bạn làm ơn nói với Liên Tỏa cho tôi được gặp mặt nàng một lần nữa!" Tử Úy đáp: "Được! Để rồi tôi sẽ nói cho!"
Tối ấy, Liên Tỏa tới, nói:"Cám ơn chàng đã diệt trừ được con quỷ cho thiếp!"
Tử Úy nói:"Đó là công của Vương huynh chứ có phải là công của ta đâu!
Vương huynh muốn được gặp mặt nàng một lần nữa đó!" Đáp: "Vương huynh
đã cứu mạng thiếp, thiếp chẳng dám quên ơn! Tuy nhiên, vì Vương huynh hung hãn
quá nên thiếp kinh hãi lắm, chẳng dám gặp lại nữa! Thiếp thấy Vương huynh thích
bội đao của thiếp nên thiếp muốn nhờ chàng đem bội đao ấy biếu Vương huynh giùm
thiếp để tạ ơn!" Hỏi:"Nàng lấy bội đao ấy ở đâu ra?"
Đáp:"Nguyên bội đao ấy là của gia phụ mua ở đất Việt với giá trên trăm lượng
vàng. Thiếp thấy bội đao thì thích, cứ đòi xem. Gia phụ thấy thế bèn cho thiếp.
Thiếp thuê thợ nạm minh châu trên chuôi và quấn kim tuyến chung quanh cho đẹp.
Khi thiếp qua đời, gia phụ thương thiếp quá nên sai gia nhân chôn bội đao cùng
với thi thể thiếp. Nay thiếp xin tình nguyện dứt tình với bội đao để đền ơn cứu
mạng của Vương huynh. Vương huynh có bội đao thì cũng như đã gặp mặt thiếp một
lần nữa rồi!"
Hôm sau, Vương sinh tới. Tử Úy thuật lại ý của Liên Tỏa. Nghe xong, Vương sinh tỏ vẻ buồn vì chẳng được gặp lại Liên Tỏa song cũng mừng vì sắp được biếu bội đao. Tối ấy, quả nhiên Liên Tỏa đem bội đao tới trao cho Tử Úy, nói:"Chàng nhớ dặn Vương huynh giữ gìn bội đao này cho cẩn thận! Nó chẳng phải là vật tầm thường đâu! Ở Trung Quốc chẳng có ai chế tạo được loại bội đao này cả!" Hôm sau, Vương sinh tới. Tử Úy đem bội đao ra biếu giùm. Vương sinh thích lắm, gửi lời cám ơn Liên Tỏa rồi cầm bội đao ra về.
Từ đó, Liên Tỏa lại lui tới với Tử Úy như trước.
Ba tháng sau. Một tối, Liên Tỏa đang ngồi đàm luận văn thơ với Tử Úy thì bỗng đôi má ửng hồng, đôi mắt cứ nhìn Tử Úy chằm chặp, đôi môi mấp máy tựa hồ như muốn nói điều gì rồi lại thôi. Tử Úy lấy làm lạ, hỏi: "Nàng muốn nói điều gì, sao chẳng nói ra?" Liên Tỏa đáp: "Bấy lâu nay thiếp đội ơn chàng quyến luyến nên đã tiếp thụ được sinh khí. Vì thế, bây giờ thiếp muốn sống lại. Tuy nhiên, muốn sống lại thì phải ân ái với nam nhân trần thế để có tinh huyết của người sống!" Tử Úy cười, nói:"Tưởng chuyện gì khó chứ chuyện ấy thì dễ quá mà! Trước kia ta đã đề nghị với nàng mà nàng chẳng chịu chứ có phải là tại ta tiếc gì nàng đâu!" Liên Tỏa càng ửng hồng đôi má, nói:"Thế nhưng nếu chàng chịu làm như vậy thì chàng sẽ bị bệnh nặng đó! Tuy nhiên nếu chàng chịu khó uống thuốc thì chỉ trên dưới mươi ngày là khỏi!" Tử Úy liền gật đầu rồi chạy tới bồng Liên Tỏa lên giường mà ân ái. Sau cuộc mây mưa, Tử Úy tưởng là đã xong thì lại nghe thấy Liên Tỏa nói:"Chưa xong đâu! Còn phải có ba giọt máu của người sống nhỏ vào rốn nữa! Chàng có thể chịu đau một chút mà cho thiếp ba giọt máu ấy không?" Tử Úy gật đầu rồi xuống giường, đi lấy dao sắc chích vào cổ tay, nhỏ ba giọt máu vào rốn cho Liên Tỏa.
Lát sau, Liên Tỏa ngồi dậy mặc quần áo, nói: "Bây giờ thì xong rồi! Xin tạm biệt. Tối tối thiếp sẽ chẳng trở lại đây nữa!" Tử Úy hỏi: "Bao giờ thì nàng mới sống lại?" Đáp: "Tính từ hôm nay, đúng một trăm ngày!" Hỏi: "Khi nàng sống lại thì tìm nàng ở đâu?" Đáp:"Ở dưới mộ!" Hỏi: "Ở dưới mộ thì làm sao đón về nhà được?" Đáp:"Để thiếp chỉ cách cho!" Hỏi:"Cách nào?" Đáp:"Vào buổi chiều ngày thứ một trăm, chàng cứ dẫn gia nhân vác thuổng cuốc tới mộ thiếp. Khi thấy một đôi chim xanh bay tới đậu trên ngọn cây bên mộ rồi hót đủ bốn tiếng thì chàng phải cho gia nhân đào mộ thiếp lên ngay, đưa thiếp về nhà! Xin chàng nhớ kỹ cho một điều là sớm một chút cũng hỏng mà trễ một chút cũng chẳng xong!" Tử Úy gật đầu. Liên Tỏa bèn cáo biệt.
Mười ngày sau, quả nhiên Tử Úy lâm trọng bệnh, bụng cứ sình lên như cái trống. Tử Úy bèn sai gia nhân đi mời thày lang tới hốt thuốc cho mình. Uống thuốc xong, Tử Úy đi cầu ra phân đen như bùn.
Mười ngày sau, quả nhiên Tử Úy khỏi bệnh. Tử Úy bèn đi mua sẵn một bộ quần áo phụ nữ với một cái chăn mới, rồi ngồi đếm ngày rất cẩn thận.
Vào sáng ngày thứ một trăm, theo đúng lời dặn, Tử Úy dẫn gia nhân vác thuổng cuốc tới mộ Liên Tỏa, đem theo bộ quần áo với cái chăn. Chờ từ sáng tới chiều, khi mặt trời đã ngả về tây, Tử Úy mới thấy một đôi chim xanh bay tới đậu trên ngọn cây cạnh mộ. Đôi chim cất tiếng hót bốn tiếng rồi bay đi. Tử Úy mừng quá, vội giục gia nhân:"Được rồi đó! Hãy phạt cỏ, đào mộ lên đi!" Gia nhân vâng lời mà đào. Đào tới quan tài thì thấy gỗ đã mục. Mở nắp ra coi thì thấy mặt mũi Liên Tỏa vẫn còn tươi như người sống. Tử Úy bèn lấy tay chà xát khắp châu thân Liên Tỏa, lấy bộ quần áo mới ra mặc cho, lấy chăn quấn kín châu thân. Rồi sai gia nhân khiêng về nhà trước, đặt lên giường, đốt lò sưởi, đắp chăn ấm.
Lát sau, Tử Úy về nhà, đưa tay sờ mũi Liên Tỏa, thì thấy có chút hơi thở nhè nhẹ, mong manh như sợi tơ. Tử Úy bèn sai gia nhân lấy nước cháo rót vào miệng. Gần sáng, Liên Tỏa sống lại.
Tuần sau, Liên Tỏa sinh hoạt bình thường, chẳng khác chi người sống. Từ đó, hai người chung sống bên nhau vô cùng tương đắc.
Một hôm, Liên Tỏa nói với Tử Úy:"Trên hai chục năm qua thiếp nằm dưới mộ mà bây giờ thiếp cứ tưởng như mình vừa tỉnh một giấc mơ dài!".
Hoang thảo thùy hương dạ sắc hôn
Ngâm hoài bi sở nguyệt vô ngôn
Thập niên nhất giác tuyền đài mộng
Hà tất chân hương thủy phản hồn
Tỉnh Sơn Tây có nho sinh họ Dương, tên Tử Úy, gia tư khá giả nhờ ở gia sản của cha mẹ để lại.
Năm ấy, Tử Úy bỏ Sơn Tây sang Sơn Đông, mua một ngôi nhà ở huyện Tứ Thủy để cư ngụ. Ngôi nhà nằm giữa một vườn bạch dương, có hàng rào dâm bụt vây quanh. Đêm đêm, gió thổi vào lá bạch dương gây nên tiếng rì rào như tiếng sóng vỗ. Cổng chính ngôi nhà trông ra một cánh đồng trống trải, đầy cổ mộ.
Một tối, Tử Úy vừa thắp đèn lên để đọc sách thì chợt nghe có tiếng thiếu nữ ngâm thơ, từ ngoài hàng rào vọng vào nhà. Âm thanh trong vắt song đượm vẻ ai oán thê lương, ngâm đi ngâm lại mãi hai câu:
Nguyên dạ thê phong khước đảo xuy,
Lưu huỳnh thông thảo phục triêm vi.
(Đêm xuân gió nhẹ lạnh căm căm,
Đom đóm theo hoa lướt buổi rằm)
Tử Úy cứ thắc mắc, chẳng hiểu là tiếng người hay tiếng ma. Sáng sau, Tử Úy ra ngoài hàng rào để coi xem có vết chân người hay không thì chẳng thấy gì ngoài một chiếc nịt bít tất mắc trong bụi cỏ gai. Tử Úy nhặt lên, đem về nhà, để trên thành cửa sổ. Tối ấy, quá canh hai, lại nghe có tiếng ngâm thơ, Tử Úy bèn bắc ghế đứng nghển cổ nhìn qua hàng rào xem là ai thì bỗng thấy tiếng ngâm im bặt. Vì thế, Tử Úy nghĩ chắc là ma. Tuy nhiên, Tử Úy vẫn ưa thích tiếng ngâm ấy.
Tối sau, Tử Úy ra phía ngoài hàng rào, nấp trong bụi rậm để rình. Sắp sang canh hai, chợt thấy từ trong bụi cỏ ở đằng xa, có một nữ lang, dáng điệu tha thướt, lướt tới một cây nhỏ cạnh hàng rào nhà mình, đứng tựa vào cây, cúi đầu ngâm thơ, Tử Úy khẽ lên tiếng đằng hắng. Nữ lang nghe có tiếng người, vội lướt trở lại bụi cỏ rồi lẩn mất.
Từ đó, tối nào Tử Úy cũng ra nấp trong bụi rậm để chờ nghe lén. Đến khi nữ lang ngâm xong, lẩn vào bụi cỏ, Tử Úy mới quay vào nhà.
Một tối, khi nghe nữ lang ngâm xong, Tử Úy chợt nghĩ ra hai câu kế, liền cất giọng ngâm tiếp:
U tình khổ tự hà nhân kiến,
Thúy tụ đan hàn nguyệt thượng thì.
(Nỗi niềm buồn tủi nào ai thấy,
Áo biếc cô đơn dưới bóng trăng)
Ngâm xong, thấy chung quanh vắng lặng, Tử Úy bèn quay vào nhà. Vừa ngồi xuống ghế, chợt thấy nữ lang từ ngoài sân bước vào, chắp tay vái chào, Tử Úy mừng lắm, vội chắp tay đáp lễ, hỏi:"Nương tử họ tên chi?" Nữ lang đáp:"Thiếp họ Chu, tên Liên Tỏa" Hỏi:"Nhà ở đâu?" Đáp:"Cũng ở gần đây thôi" Hỏi:"Quê cũng ở huyện này phải không? Đáp:"Không phải! Ở huyện Lũng Tây tỉnh Cam Túc!" Hỏi:"Sao lại sang đây lưu ngụ?" Đáp:"Vì khi trước gia phụ dời nhà sang đây, nên dắt sang theo!" Hỏi: "Nương tử có phải là người sống không?" Đáp:"Không phải! Thiếp là ma!" Hỏi:"Sao qua đời sớm thế?" Đáp:"Vì bị bạo bệnh!" Tử Úy hỏi:"Mộ ở đâu?" Nữ lang lấy ngón tay chỉ về phía cánh đồng trước cổng, đáp:"Cách đây một dặm, nằm cạnh gốc cổ thụ cao!" Hỏi:"Qua đời đã lâu chưa?" Đáp:"Đã được 20 năm rồi! Từ năm mới 17 tuổi!" Hỏi:"Sao đêm nào cũng tới đây ngâm thơ?" Đáp:"Vì ở chốn cửu tuyền hoang dã quá! Lang thang tới đây ngâm thơ cho đỡ buồn!" Hỏi:"Hai câu thơ vẫn ngâm là của thi sĩ nào?" Đáp:"Của thiếp!" Hỏi:"Sao lại làm thơ ai oán, thê lương thế?" Đáp:"Vì muốn gửi gấm mối u tình!" Hỏi: "Thường lẩn trốn người sống, sao tối nay lại dám vào đây?" Đáp:"Vào để cám ơn!" Hỏi:"Cám ơn về việc gì?" Đáp:"Về việc đã nghĩ giùm hai câu kế vô cùng tuyệt diệu! Thiếp chỉ nghĩ được hai câu đầu, còn hai câu kế thì chịu! Nay được kẻ sĩ phong nhã nghĩ giùm cho, thiếp khâm phục lắm, nên vào đây để cám ơn!" Hai bên bèn chuyện trò thân mật, cách xưng hô cũng mỗi lúc một thân hơn. Gần tới nửa đêm, bỗng Tử Úy dang tay ra đùa bỡn. Liên Tỏa chỉ đưa tay chống cự yếu ớt. Chợt Tử Úy đưa mắt nhìn chằm chặp xuống hai chân Liên Tỏa. Thấy thế, Liên Tỏa cười, nói:"Cuồng sinh này sàm sỡ quá!" Tử Úy nói: "Chẳng phải là sàm sỡ đâu! Thấy nịt bít tất lạ thì nhìn đó thôi! Bên phải là nịt màu tím mà bên trái lại là tơ màu vàng!" Lúc đó Liên Tỏa mới vỡ lẽ. Liền đáp:"Tối nọ ngỡ là bị đuổi bắt, hốt hoảng bỏ trốn, nên bị tuột mất một chiếc nịt, chẳng biết ở đâu!" Tử Úy nói:"Để ta biếu nàng một chiếc khác!" Rồi tới thành cửa sổ lấy chiếc nịt đưa cho. Thấy đúng là chiếc nịt của mình, Liên Tỏa hết sức kinh ngạc, hỏi:"Lấy ở đâu ra?" Tử Úy nói thực cho nghe. Liên Tỏa liền tháo tơ ra, cột nịt vào. Thế rồi, hai người ngồi đàm luận văn thơ. Thấy Liên Tỏa thông tuệ, dễ thương, Tử Úy coi như một bạn văn tri kỷ. Quá nửa đêm, Liên Tỏa cáo biệt. Sáng sau, Tử Úy đi về phía đằng trước cổng nhà chừng một dặm thì thấy quả có một ngôi mộ nằm cạnh một gốc cổ thụ cao.
Từ buổi ấy, tối nào Tử Úy cũng nghe thấy tiếng ngâm thơ, rồi một lát sau thì thấy Liên Tỏa tới. Hai bên gặp nhau, nói cười vui vẻ, đàm luận văn thơ rất tương đắc, tựa hồ như cá gặp nước vậy.
Một tối, Tử Úy ngỏ ý muốn ái ân song Liên Tỏa chẳng chịu. Thế nhưng, khi Tử Úy ngỏ ý muốn kẻ lông mày cho thì Liên Tỏa lại chịu ngay.
Tối khác, Liên Tỏa tới, dặn:"Xin chớ nói chuyện đôi ta cho ai biết!" Tử Úy hỏi:"Tại sao?" Đáp:"Vì thiếp nhát lắm! Ngoài chàng ra, thiếp chẳng dám cho người nào gặp mặt vì sợ người ta bắt nạt mình!" Tử Úy gật đầu.
Mấy hôm sau. Một bữa, Tử Úy mượn được cuốn Liên Xương Cung Từ, đem về để trên bàn. Tối ấy, khi Liên Tỏa tới, thấy cuốn cung từ thì bất giác thở dài. Tử Úy hỏi: "Sao lại thở dài?" Liên Tỏa đáp:"Vì sinh thời, thiếp thích đọc cuốn này lắm! Nay thấy nó, thiếp lại nhớ tới thủa sinh thời nên ngậm ngùi mà thở dài đó thôi!" Tử Úy nói: "Cuốn này hay lắm! Ta cũng muốn chép lại một bản để thỉnh thoảng ngâm nga!" Liên Tỏa nói:"Nếu thế thì để thiếp chép cho!" Nói xong, liền ngồi dưới đèn mà chép, nét chữ rất ngay ngắn, mảnh mai. Rồi tự chọn cho mình một trăm bài ưa thích, chép thành một tuyển tập. Sáng sau, Tử Úy cất bản chép vào rương, để tuyển tập trên bàn, còn bản chính thì đem đi trả.
Một tối, Liên Tỏa tới, nói:"Chàng nên mua lấy một bàn cờ với một cây đàn để chúng mình giải trí với nhau!" Tử Úy gật đầu. Sáng ra, Tử Úy đi mua. Tối đến, khi Liên Tỏa tới, thấy có bàn cờ với cây đàn thì mỉm cười, nói: "Chàng hãy đấu thử với thiếp vài ván xem sao!" Tử Úy gật đầu rồi ngồi vào bàn, đấu cờ với Liên Tỏa. Tử Úy thua liền hai ván.
Tối sau, Liên Tỏa tới, nói:"Thiếp mới viết được khúc Tiêu Song Linh Vũ, nhưng chẳng biết chàng có thích nghe chăng?" Tử Úy gật đầu. Liên Tỏa bèn ôm đàn mà gảy, âm thanh ai oán. Mới nghe được nửa chừng, Tử Úy đã xua tay, nói:"Thôi đừng gảy nữa! Âm thanh buồn lắm!" Liên Tỏa bèn ngưng, rồi nói:"Thiếp có thuộc khúc Hiểu Uyển Oanh Thanh, nhưng chẳng biết chàng có thích nghe chăng?" Tử Úy gật đầu. Liên Tỏa lại ôm đàn mà gảy, âm thanh hoan lạc, khác hẳn khúc trước. Tử Úy thích khúc này lắm. Bèn cùng nhau vui chơi, quên cả thời khắc. Khi nhìn qua cửa sổ, thấy vừng đông đã ló rạng, Liên Tỏa mới kinh hãi, vội đứng dậy ra về.
Nửa năm sau.
Một trưa, Tử Úy đang nằm ngủ ở phòng khách, bỗng có người bạn nho sinh họ Tiết, tới thăm. Thấy Tử Úy đang ngủ, Tiết sinh đảo mắt nhìn quanh thì thấy có nhiều quân cờ vứt ngổn ngang trên bàn, cạnh một cây đàn. Vốn biết Tử Úy chẳng thích những thứ này, Tiết sinh lấy làm lạ nên đoán là Tử Úy mới có bạn gái. Tới bàn coi, Tiết sinh bắt gặp một bản chép các bài cung từ. Lật trang đầu ra coi, thấy nét chữ mảnh mai, ngay ngắn, lật trang cuối ra coi, thấy có ba chữ Liên Tỏa chép, Tiết sinh càng tin là mình đoán đúng.
Lát sau, khi tỉnh giấc, thấy bạn tới chơi, Tử Úy vùng dậy mặc quần áo, ngồi tiếp chuyện. Trong lúc hàn huyên, Tiết sinh hỏi: "Sao lại có bàn cờ với cây đàn?" Tử Úy đáp:"Vì muốn học đấu cờ với gảy đàn!" Hỏi:"Ai chép cho bản cung từ để trên bàn?" Đáp:"Mới mượn được của một người bạn chứ có ai chép cho đâu!" Cười, nói:"Liên Tỏa là tên con gái chứ đâu có phải là tên người bạn nào? Nói dối làm chi?" Tử Úy chẳng biết phải trả lời ra sao nên chỉ ngồi im lặng. Tiết sinh gặng hỏi song Tử Úy nhất định không nói. Tiết sinh bèn giả vờ cắp bản cung từ ra về. Quẫn quá, Tử Úy đành phải thuật lại chuyện mình gặp Liên Tỏa. Nghe xong, Tiết sinh nói:"Chuyện này lạ lắm. Nhờ bạn nói với Liên Tỏa cho tôi gặp mặt một lần!" Tử Úy đáp:"Tôi đã hứa với nàng là sẽ chẳng nói chuyện tôi gặp nàng cho ai biết! Xin bạn đừng ép!" Tiết sinh năn nỉ: "Nghe chuyện, tôi ngưỡng mộ nàng lắm! Vì thế tôi mới nảy ý muốn xin gặp mặt một lần! Ngoài ra, tôi chẳng có ý gì khác!" Bất đắc dĩ, Tử Úy phải nhận lời. Tiết sinh bèn trả lại bản cung từ, hẹn:"Sáng mai, tôi sẽ trở lại!" rồi cáo biệt. Tối ấy, khi Liên Tỏa tới, Tử Úy thuật lại chuyện Tiết sinh yêu cầu. Nghe xong, Liên Tỏa giận lắm, nói:"Hôm nọ đã căn dặn thế nào, mà hôm nay lại đi tiết lộ cho người khác biết?" Tử Úy bèn đem tình trạng cùng quẫn của mình ra để biện bạch. Nghe xong, Liên Tỏa thở dài, nói: "Thế là đôi ta đã hết duyên nợ với nhau rồi!" Tử Úy bèn năn nỉ, giải thích, xin lỗi cả trăm lần song Liên Tỏa vẫn chẳng vui. Lát sau, Liên Tỏa đứng dậy, nói:"Thôi, thiếp đi đây! Phải tạm lánh người bạn của chàng một thời gian đã!" Nói xong, biến mất.
Đúng hẹn, sáng sau Tiết sinh trở lại. Tử Úy nói: "Tôi đã nói giùm bạn rồi song Liên Tỏa chẳng chịu!" Tiết sinh nói:"Tôi nghi là bạn nói dối quá!" Tử Úy bất bình, nói:"Tôi nói thực, còn tin hay không là tùy bạn!" Tiết sinh bèn cáo biệt. Tối ấy, Tiết sinh trở lại nhà Tử Úy, dắt theo hai bạn nho sinh khác, một người họ Vương, một người họ Phùng, cùng tới nằm lỳ ở nhà Tử Úy như bộ ba ăn vạ, nói chuyện ồn ào suốt đêm, cố ý không cho Tử Úy ngủ, để chờ gặp Liên Tỏa. Thế nhưng, trong ba đêm liền, chẳng thấy Liên Tỏa đâu. Bộ ba chán nản, bèn bàn tính với nhau chỉ ở lại thêm một đêm nữa rồi sẽ ra về.
Hai tối sau. Trong lúc Tử Úy đang buồn rầu thất vọng, ngồi gục đầu trên bàn, bỗng thấy Liên Tỏa đẩy cửa bước vào phòng. Tử Úy mừng quá, vội đứng dậy, chạy ra đón. Liên Tỏa ôm mặt khóc, nói:"Bạn bè chàng hung hãn quá, chỉ muốn bắt nạt thiếp thôi!" Tử Úy nói:"Xin nàng thứ lỗi cho ta! Hãy ngồi xuống đây cho ta phân trần!" Đáp:"Chàng chẳng cần phải phân trần làm chi nữa! Thiếp chỉ đến để chào vĩnh biệt chàng thôi!" Nói:"Thì hãy ngồi xuống đây đã!" Đáp:"Đã nói đôi ta hết duyên nợ với nhau rồi mà! Thôi, từ nay xin vĩnh biệt!" Tử Úy toan lên tiếng năn nỉ thì thấy Liên Tỏa đã biến mất.
Bẵng đi hơn một tháng, chẳng thấy Liên Tỏa trở lại, Tử Úy nhớ lắm, gày dộc hẳn đi, song cũng chẳng biết phải làm thế nào.
Một tối, Tử Úy buồn quá, lấy rượu ra ngồi độc ẩm. Chợt thấy có người đẩy cửa bước vào phòng, Tử Úy đưa mắt nhìn thì thấy là Liên Tỏa. Tử Úy mừng quá, vội hỏi: "Phải chăng là nàng đã thứ lỗi cho ta?" Liên Tỏa chẳng đáp, chỉ ứa nước mắt khóc. Tử Úy hỏi:"Sao lại khóc?" Liên Tỏa mấp máy môi toan nói song lại thôi. Tử Úy hỏi: "Toan nói gì rồi lại thôi?" Liên Tỏa nuốt nước mắt, đáp: "Thiếp tức giận chàng nên đã bỏ đi, quyết tâm chẳng bao giờ trở lại! Song, tối nay có việc gấp, lại phải tới đây nhờ chàng nên chẳng khỏi ngượng ngùng!" Tử Úy hỏi:"Việc gì mà gấp thế?" Liên Tỏa vẫn ngập ngừng chưa chịu nói. Tử Úy giục:"Có việc gì thì nói ra đi, ta sẽ tận tình giúp đỡ cho!" Bấy giờ Liên Tỏa mới nói:"Tối qua, tự nhiên có một con quỷ tục tằn bẩn thỉu, chẳng biết lai lịch ở đâu, tới bắt thiếp phải đi theo nó để làm vợ. Thiếp nghĩ mình là con nhà gia giáo nên quyết tâm chẳng chịu, nhưng cũng biết mình là kẻ yếu đuối, chẳng thể chống cự được với nó nên mới tìm kế hoãn binh, xin nó cho hai ngày để thu xếp. Nó ưng thuận, hẹn tối mai sẽ tới đón. Vì trộm nghĩ đôi ta đã thân mật như vợ chồng nên tối nay thiếp mới tới đây để nhờ chàng diệt trừ nó giùm thiếp!" Thoạt nghe, uất khí trào lên cổ, Tử Úy nói ngay:"Ta thề là sẽ giết chết nó cho nàng!" Nói xong, như chợt nghĩ ra điều gì, Tử Úy lại nói: "Thế nhưng, nó với ta, âm dương đôi ngả, làm sao mà ta có thể giết nó được?" Liên Tỏa đáp:"Chàng chớ lo về việc này! Thiếp đã có cách!" Tử Úy hỏi:"Cách nào?" Liên Tỏa đáp:"Tối mai thiếp sẽ nói, bây giờ xin đừng hỏi! Chỉ cần tối mai chàng đi ngủ sớm là được rồi!" Tử Úy thắc mắc lắm song cũng đành gật đầu. Liên Tỏa bèn ngồi lại đàm luận văn thơ với Tử Úy cho tới rạng đông mới đứng dậy ra về. Trước khi đi, Liên Tỏa còn dặn:"Tối mai, xin chàng nhớ đi ngủ sớm!" Tử Úy lại gật đầu.
Tối sau, Tử Úy mặc sẵn quần áo rồi lấy rượu đem vào phòng ngồi độc ẩm. Khi đã ngà ngà say, Tử Úy cứ để nguyên quần áo, lên giường nằm. Chợt thấy Liên Tỏa đẩy cửa bước vào, tiến tới cạnh giường, trao cho mình một bội đao, Tử Úy vội vùng dậy để đỡ. Chú mục nhìn thì thấy bội đao dài hơn thước, chuôi có nạm minh châu. Tử Úy chưa kịp hỏi chuyện thì Liên Tỏa đã nắm lấy tay, kéo ra khỏi phòng, chạy nhanh như gió.
Lát sau, tới một ngôi nhà, Liên Tỏa đẩy cửa, kéo Tử Úy vào, rồi đóng sập lại, cài then thật kỹ. Tử Úy hỏi: "Nhà này của ai?" Liên Tỏa đáp:"Của thiếp!" Vừa đáp xong thì bỗng có tiếng đập cửa ầm ầm. Liên Tỏa tái mặt, nói:"Con quỷ tới rồi đó!" Tử Úy vội nắm chắc bội đao trong tay, chạy ra mở cửa, phóng mình ra sân. Thấy một con quỷ, đầu đội mũ đỏ, mình mặc áo xanh, đứng ở giữa sân, Tử Úy liền quát:"Loài quỷ tục tằn bẩn thỉu kia, mi ở đâu mà dám tới đây quấy nhiễu?" Con quỷ tức giận, trừng mắt nhìn Tử Úy, quát lại:"Cái thằng khốn nạn này! Mi ở đâu mà dám tới đây xen vào chuyện của tao?" Tử Úy nổi giận, múa tít bội đao, xông vào loạn trảm. Con quỷ bèn cúi xuống nhặt một viên đá, ném Tử Úy, trúng cổ tay, làm thanh bội đao suýt bị văng đi. Liên Tỏa ở trong nhà nhìn qua cửa sổ, thấy Tử Úy bị lâm nguy thì kinh hãi quá, vội chạy tới ngồi bệt ở góc phòng, co rúm người lại. Trong cơn nguy cấp, Tử Úy chợt thấy một thợ săn ở đằng xa, vội hét lớn:"Cứu tôi với! Cứu tôi với!" Thợ săn phóng mình chạy tới. Con quỷ lại cúi xuống nhặt một viên đá, ném thợ săn, nhưng không trúng. Thợ săn bèn giương cung bắn quỷ, mũi tên cắm phập vào bắp vế, làm quỷ ngã lăn xuống đất. Thợ săn vội bắn bồi một mũi nữa, xuyên qua sọ, làm quỷ chết ngay. Tử Úy mừng quá, chạy tới gần thợ săn để cám ơn thì chợt nhận ra thợ săn chính là Vương sinh. Vương sinh cũng nhận ra Tử Úy. Hai người cùng kinh ngạc. Vương sinh hỏi:"Bạn đi đâu mà lại tới đây?" Tử Úy đáp:"Liên Tỏa nhờ tôi tới đây để diệt trừ con quỷ giùm nàng song tôi bị nó lấy đá ném trúng cổ tay. Đang bị lâm nguy thì may được bạn tới cứu! Xin cám ơn bạn nhiều! Đây là nhà của Liên Tỏa! Vậy xin mời bạn hãy vào nhà nói chuyện một lát đã!" Vương sinh mừng lắm, nghĩ bụng mình vừa giết được con quỷ để cứu Tử Úy và Liên Tỏa thì chắc là đã chuộc được cái lỗi ném đá và quát thét trước kia. Vì thế, Vương sinh theo Tử Úy vào nhà. Thấy Liên Tỏa ngồi ở góc phòng Vương sinh gật đầu chào. Vì còn hồi hộp, Liên Tỏa chỉ khẽ gật đầu đáp lễ. Tử Úy đặt bội đao lên bàn. Vương sinh thấy bội đao lạ, bèn tới cầm lên coi. Thấy bội đao sáng quắc và nhọn hoắt, Vương sinh cứ tấm tắc khen:"Bội đao này đẹp quá! Bội đao này tốt quá!" Vương sinh cầm bội đao ngắm nghía hồi lâu rồi mới đặt trở lại bàn, hỏi:"Bạn lấy bội đao này ở đâu ra?" Tử Úy đáp:"Bội đao này là của Liên Tỏa trao cho tôi để diệt trừ con quỷ chứ chẳng phải là của tôi! Nay bạn đã giết được con quỷ giùm tôi rồi thì tôi chẳng còn phải dùng tới bội đao này nữa! Vì thế, bây giờ tôi đem trả lại cho nàng!" Thấy chẳng còn chuyện gì, Vương sinh bèn nói:"Thôi, tôi về đây!" rồi quay về phía góc phòng, gật đầu chào Liên Tỏa. Liên Tỏa cũng gật đầu đáp lễ. Vương sinh liền mở cửa, bước ra khỏi nhà. Thấy Vương sinh ra về, Tử Úy cũng muốn về theo nên quay nhìn Liên Tỏa, nói:"Thôi, ta cũng về đây!" Liên Tỏa chưa kịp đáp thì Tử Úy đã phóng mình chạy theo Vương sinh. Vì chạy nhanh quá, Tử Úy vấp phải đá rồi tỉnh giấc, biết là mình nằm chiêm bao. Thấy cổ tay đau nhức, Tử Úy kinh ngạc lắm, cứ thắc mắc chẳng lẽ chuyện mình bị ném đá trong mộng lại là chuyện có thực hay sao? Sáng ra, coi kỹ lại thì quả nhiên thấy cổ tay mình đã bị sưng vù. Trưa ấy, Tử Úy thấy Vương sinh tới thăm mình thì càng kinh ngạc. Vương sinh bước vào phòng khách, nói: "Đêm qua tôi nằm mộng thấy một chuyện lạ!" Tử Úy hỏi: "Có phải là chuyện đã dùng cung tên bắn chết một con quỷ hay không?" Vương sinh cực kỳ kinh hãi, hỏi:"Sao bạn biết?" Tử Úy bèn chìa cổ tay ra cho coi, rồi thuật lại giấc mộng cho nghe. Nghe xong, Vương sinh nói:"Tôi cũng nằm mộng thấy như thế!" Hai người cùng hết sức kinh nghi. Vì nhớ rõ nhan sắc của Liên Tỏa trong giấc mộng nên Vương sinh nói:"Nhờ bạn làm ơn nói với Liên Tỏa cho tôi được gặp mặt nàng một lần nữa!" Tử Úy đáp: "Được! Để rồi tôi sẽ nói cho!"
Hôm sau, Vương sinh tới. Tử Úy thuật lại ý của Liên Tỏa. Nghe xong, Vương sinh tỏ vẻ buồn vì chẳng được gặp lại Liên Tỏa song cũng mừng vì sắp được biếu bội đao. Tối ấy, quả nhiên Liên Tỏa đem bội đao tới trao cho Tử Úy, nói:"Chàng nhớ dặn Vương huynh giữ gìn bội đao này cho cẩn thận! Nó chẳng phải là vật tầm thường đâu! Ở Trung Quốc chẳng có ai chế tạo được loại bội đao này cả!" Hôm sau, Vương sinh tới. Tử Úy đem bội đao ra biếu giùm. Vương sinh thích lắm, gửi lời cám ơn Liên Tỏa rồi cầm bội đao ra về.
Từ đó, Liên Tỏa lại lui tới với Tử Úy như trước.
Ba tháng sau. Một tối, Liên Tỏa đang ngồi đàm luận văn thơ với Tử Úy thì bỗng đôi má ửng hồng, đôi mắt cứ nhìn Tử Úy chằm chặp, đôi môi mấp máy tựa hồ như muốn nói điều gì rồi lại thôi. Tử Úy lấy làm lạ, hỏi: "Nàng muốn nói điều gì, sao chẳng nói ra?" Liên Tỏa đáp: "Bấy lâu nay thiếp đội ơn chàng quyến luyến nên đã tiếp thụ được sinh khí. Vì thế, bây giờ thiếp muốn sống lại. Tuy nhiên, muốn sống lại thì phải ân ái với nam nhân trần thế để có tinh huyết của người sống!" Tử Úy cười, nói:"Tưởng chuyện gì khó chứ chuyện ấy thì dễ quá mà! Trước kia ta đã đề nghị với nàng mà nàng chẳng chịu chứ có phải là tại ta tiếc gì nàng đâu!" Liên Tỏa càng ửng hồng đôi má, nói:"Thế nhưng nếu chàng chịu làm như vậy thì chàng sẽ bị bệnh nặng đó! Tuy nhiên nếu chàng chịu khó uống thuốc thì chỉ trên dưới mươi ngày là khỏi!" Tử Úy liền gật đầu rồi chạy tới bồng Liên Tỏa lên giường mà ân ái. Sau cuộc mây mưa, Tử Úy tưởng là đã xong thì lại nghe thấy Liên Tỏa nói:"Chưa xong đâu! Còn phải có ba giọt máu của người sống nhỏ vào rốn nữa! Chàng có thể chịu đau một chút mà cho thiếp ba giọt máu ấy không?" Tử Úy gật đầu rồi xuống giường, đi lấy dao sắc chích vào cổ tay, nhỏ ba giọt máu vào rốn cho Liên Tỏa.
Lát sau, Liên Tỏa ngồi dậy mặc quần áo, nói: "Bây giờ thì xong rồi! Xin tạm biệt. Tối tối thiếp sẽ chẳng trở lại đây nữa!" Tử Úy hỏi: "Bao giờ thì nàng mới sống lại?" Đáp: "Tính từ hôm nay, đúng một trăm ngày!" Hỏi: "Khi nàng sống lại thì tìm nàng ở đâu?" Đáp:"Ở dưới mộ!" Hỏi: "Ở dưới mộ thì làm sao đón về nhà được?" Đáp:"Để thiếp chỉ cách cho!" Hỏi:"Cách nào?" Đáp:"Vào buổi chiều ngày thứ một trăm, chàng cứ dẫn gia nhân vác thuổng cuốc tới mộ thiếp. Khi thấy một đôi chim xanh bay tới đậu trên ngọn cây bên mộ rồi hót đủ bốn tiếng thì chàng phải cho gia nhân đào mộ thiếp lên ngay, đưa thiếp về nhà! Xin chàng nhớ kỹ cho một điều là sớm một chút cũng hỏng mà trễ một chút cũng chẳng xong!" Tử Úy gật đầu. Liên Tỏa bèn cáo biệt.
Mười ngày sau, quả nhiên Tử Úy lâm trọng bệnh, bụng cứ sình lên như cái trống. Tử Úy bèn sai gia nhân đi mời thày lang tới hốt thuốc cho mình. Uống thuốc xong, Tử Úy đi cầu ra phân đen như bùn.
Mười ngày sau, quả nhiên Tử Úy khỏi bệnh. Tử Úy bèn đi mua sẵn một bộ quần áo phụ nữ với một cái chăn mới, rồi ngồi đếm ngày rất cẩn thận.
Vào sáng ngày thứ một trăm, theo đúng lời dặn, Tử Úy dẫn gia nhân vác thuổng cuốc tới mộ Liên Tỏa, đem theo bộ quần áo với cái chăn. Chờ từ sáng tới chiều, khi mặt trời đã ngả về tây, Tử Úy mới thấy một đôi chim xanh bay tới đậu trên ngọn cây cạnh mộ. Đôi chim cất tiếng hót bốn tiếng rồi bay đi. Tử Úy mừng quá, vội giục gia nhân:"Được rồi đó! Hãy phạt cỏ, đào mộ lên đi!" Gia nhân vâng lời mà đào. Đào tới quan tài thì thấy gỗ đã mục. Mở nắp ra coi thì thấy mặt mũi Liên Tỏa vẫn còn tươi như người sống. Tử Úy bèn lấy tay chà xát khắp châu thân Liên Tỏa, lấy bộ quần áo mới ra mặc cho, lấy chăn quấn kín châu thân. Rồi sai gia nhân khiêng về nhà trước, đặt lên giường, đốt lò sưởi, đắp chăn ấm.
Lát sau, Tử Úy về nhà, đưa tay sờ mũi Liên Tỏa, thì thấy có chút hơi thở nhè nhẹ, mong manh như sợi tơ. Tử Úy bèn sai gia nhân lấy nước cháo rót vào miệng. Gần sáng, Liên Tỏa sống lại.
Tuần sau, Liên Tỏa sinh hoạt bình thường, chẳng khác chi người sống. Từ đó, hai người chung sống bên nhau vô cùng tương đắc.
Một hôm, Liên Tỏa nói với Tử Úy:"Trên hai chục năm qua thiếp nằm dưới mộ mà bây giờ thiếp cứ tưởng như mình vừa tỉnh một giấc mơ dài!".
THẦN HOA CÚC
(truyện HOÀNG ANH)
Thiên lý bình cân bốc ẩn cư
Tửu hương hoa khí mộng tinh sơ
Lương duyên ưng vị mai hoa đố
Xử sĩ phong lưu chuyển bất như
Huyện Thuận Thiên, tỉnh Hà Bắc, có người họ Mã, tên Tử Tài, có vợ họ Lã, tính rất hiền thục.
Gia tư Tử Tài cũng chỉ vào hàng khá giả, có hai dãy nhà nam bắc, cách nhau một chiếc sân lớn. Mỗi dãy dài chừng bốn chục thước, tiếp giáp với một khu vườn chừng nửa mẫu đất. Khu bắc có trồng hoa cúc còn khu nam thì bỏ hoang.
Ông, cha Tử Tài đều yêu hoa cúc song Tử Tài còn mê hoa cúc hơn cả cha, ông. Tử Tài chỉ trồng hoa cúc để thưởng ngoạn chứ chẳng đem bán bao giờ vì Tử Tài vẫn giữ ý nghĩ cổ truyền của cha, ông, cho việc bán hoa cúc là một việc làm vô liêm sỉ. Hễ nghe nói ở đâu có hoa cúc đẹp là Tử Tài lại lặn lội tìm tới mua, chẳng kể đường xá gần xa, giá cúc đắt rẻ. Vì thế mà gia tư lụn bại dần.
Một hôm, có người khách quen từ thủ phủ Kim Lăng, tỉnh Giang Tô, lên Thuận Thiên có việc, ghé thăm Tử Tài. Trong khi đàm đạo, khách nói có một người bà con ở Kim Lăng mua được hai giống cúc đẹp lắm, không thấy có ở miền bắc. Tử Tài mừng quá, tức khắc vào nhà trong bảo vợ sửa soạn tiền bạc, hành trang để mình theo khách xuống Kim Lăng tìm mua hai giống cúc ấy.
Tới nơi, Tử Tài đưa tiền nhờ người bà con của khách đi mua giùm được hai giò cúc lạ. Tử Tài quý hai giò cúc ấy lắm, chăm sóc như bảo vật.
Hôm sau, Tử Tài biệt khách, đem hai giò cúc về Thuận Thiên. Mới lên ngựa phóng đi được một quãng thì Tử Tài thấy một thiếu niên phong lưu, tuấn tú, cưỡi ngựa theo sau một cỗ xe. Thiếu niên thấy Tử Tài đi cùng đường với mình thì mỉm cười, chắp tay vái chào làm quen, nói:"Đệ họ Đào, tên Trọng Túy, quê ở đất Kim Lăng này, còn quý danh là gì, quý quán ở đâu?" Thấy Trọng Túy nói năng lịch sự, tao nhã, Tử Tài chắp tay đáp lễ, nói:"Đệ họ Mã, tên Tử Tài, quê ở huyện Thuận Thiên tỉnh Hà Bắc" Hỏi:"Dám hỏi túc hạ xuống đây có việc chi?" Đáp:"Đệ xuống đây tìm mua hai giống cúc đẹp không thấy có ở miền bắc!" Trọng Túy cười, nói:"Cúc nào là cúc chẳng đẹp, chỉ có người trồng tỉa chẳng biết cách chăm sóc mà thôi!" Rồi thao thao giảng thuyết về cách thức chăm sóc cúc. Nghe xong, Tử Tài mừng lắm, hỏi:"Bây giờ túc hạ đi đâu thế?" Đáp: "Đệ theo gia tỉ dọn nhà lên Hà Sóc, phía bắc sông Hoàng Hà!" Hỏi:"Quê túc hạ ở miền nam này, sao lại dọn nhà lên ở miền bắc?" Đáp: "Tuy chị em đệ quê ở miền nam, song gia tỉ chán cảnh ở đây rồi, muốn dọn nhà lên ở miền bắc!" Tử Tài mừng lắm, nói: "Nếu túc hạ cùng lệnh tỉ chẳng chê đất Thuận Thiên là nơi hoang lậu thì xin mời nhị vị lên tệ xá cư ngụ!" Trọng Túy bèn rong ngựa tới cạnh xe, hỏi vọng vào: "Em vừa làm quen với Mã huynh ở Thuận Thiên, Hà Bắc. Biết chị em mình đang dọn nhà lên Hà Sóc, Mã huynh mời chị em mình lên nhà Mã huynh cư ngụ, chị có thuận không?" Tử Tài chăm chú theo dõi thì thấy một nữ lang tuyệt sắc, tuổi chừng hai mươi, vén rèm xe lên nhìn Trọng Túy, đáp: "Lên đó ở nhờ thì cũng chẳng sao song nhà cửa phải rộng rãi, tuy chẳng cần phải sang trọng!" Nghe thấy thế, Tử Tài vội phóng ngựa tới cạnh xe, nói:" Tệ xá tuy thô lậu song cũng rộng rãi lắm!" Hai chị em bèn quyết định theo Tử Tài lên Thuận Thiên.
Tới nhà, Tử Tài vào nói chuyện với vợ. Lã thị cũng mừng vì có thêm bạn gái mới.
Tử Tài bèn ra nói với Trọng Túy: "Vợ chồng đệ cùng lũ gia nhân chỉ ở hết
dãy bắc, còn dãy nam thì bỏ trống, xin mời túc hạ cùng lệnh tỉ dọn vào đó cư ngụ!"
Trọng Túy mừng lắm, liền dắt chị vào dọn dẹp dãy nam để ở. Rồi hai chị em cùng
sang dãy bắc chào Lã thị. Lã thị vồn vã đón tiếp, hỏi nữ lang: "Hiền muội
tên chi?" Nữ lang đáp:" Thiếp họ Đào, tên Hoàng Anh" Thấy Hoàng
Anh nói năng lịch sự nhã nhặn, Lã thị quý mến lắm. Khi hai chị em cáo biệt, Lã
thị sai gia nhân đem gạo muối và rau thịt sang biếu.
Hôm sau, Trọng Túy sang trồng giùm Tử Tài hai giò cúc mới. Rồi ngày nào Trọng Túy cũng sang chăm sóc vườn cúc cho Tử Tài. Thấy cây nào khô, Trọng Túy liền nhổ lên, chiết cành mới trồng vào chỗ cũ. Vì thế, chỉ ít lâu sau, vườn cúc nhà Tử Tài trông thực tốt tươi đẹp đẽ, khác hẳn khi trước. Tử Tài thầm cám ơn Trọng Túy nên ngày nào cũng giữ Trọng Túy ở lại yến ẩm với mình. Hoàng Anh cũng thường qua dãy bắc kéo tơ, may vá giùm Lã thị nên Lã thị càng quý mến.
Tháng sau. Một hôm Trọng Túy nói với Tử Tài: "Túc hạ vốn chẳng giàu có chi mà ngày nào cũng giữ đệ ở lại yến ẩm, rồi còn sai gia nhân đem gạo muối rau thịt sang cho thì đệ thấy ngại ngùng quá. Đệ đâu có thể ngồi không mà nhận ân huệ mãi như thế được? Bây giờ đệ tính xoay qua nghề trồng tỉa hoa cúc để bán lấy tiền, tự túc mưu sinh!" Nghe thấy thế, Tử Tài đâm ra khinh khi Trọng Túy, rồi nói thẳng: "Trước kia đệ cứ tưởng túc hạ thuộc hàng cao sĩ, nay nghe nói mới biết cũng chỉ thuộc loại phàm phu. Muốn bán hoa cúc để cầu lợi thì thực là nhục cho hoa cúc lắm!" Trọng Túy cười, nói: "Lấy việc bán hoa cúc làm nghề sinh nhai thì có chi là đáng khinh bỉ? Tuy con người chẳng nên làm giàu một cách bẩn thỉu song cũng chẳng nên cầu nghèo chỉ vì không dám làm một nghề lương thiện!" Tử Tài im lặng. Trọng Túy bèn đứng dậy, cáo biệt. Từ đó, Trọng Túy không sang chăm sóc vườn cúc cho Tử Tài nữa. Tử Tài đành phải chăm sóc lấy một mình, cứ thấy cây nào hơi héo là nhổ lên vứt đi, chất thành đống. Tuy thế, hai bên vẫn chưa đến nỗi tuyệt giao. Thỉnh thoảng Tử Tài vẫn sai gia nhân đi mời Trọng Túy sang nhà mình đàm đạo.
Trọng Túy về nhà, đánh luống khu nam thành một khu vườn tuyệt đẹp. Rồi sang xin đống cúc vứt đi của Tử Tài, vác về lựa lấy những cây còn sống đem ra vườn trồng. Ngày nào Trọng Túy cũng làm cỏ, tưới nước, cuốc bỏ gốc xấu, chiết cành tốt trồng vào chỗ cũ. Chẳng bao lâu, vườn cúc của Trọng Túy trông thực tốt tươi đẹp đẽ. Mùa thu năm ấy, cúc nở kín vườn.
Sau tiết Trung thu. Một sáng, Tử Tài đang ngồi trong nhà thì chợt nghe có tiếng ồn ào như chợ vỡ ở phía nam. Lấy làm lạ, Tử Tài chạy ra coi thì thấy Trọng Túy đang đứng giữa cả trăm chậu cúc xếp trong vườn, phần lớn đều có trồng những giò cúc lạ, rất đẹp, mà mình chưa được thấy bao giờ. Dòng người đi chợ ghé vào mua cúc rất đông, ồn ào như thác lũ, liên miên chẳng dứt, kẻ thì chất lên xe, người thì vác lên vai. Cho là Trọng Túy tham tiền, Tử Tài khinh khi lắm. Lại thấy Trọng Túy giấu các giò cúc lạ để trồng bán lấy tiền, chẳng cho mình giò nào, Tử Tài càng thêm giận, nảy ý tuyệt giao. Tử Tài bèn xăm xăm chạy sang nhà Trọng Túy gõ cửa. Nghe tiếng gõ cửa, Trọng Túy từ ngoài vườn chạy vào mở. Thấy Tử Tài, Trọng Túy vồn vã cầm tay mời vào nhà. Thấy Trọng Túy vồn vã như thế, Tử Tài khựng lại, chẳng nói được lời nào. Đưa mắt nhìn ra vườn, Tử Tài thấy nửa mẫu đất hoang của mình khi trước, nay đã biến thành một vườn cúc tuyệt đẹp. Trừ một miếng đất nhỏ được dùng để dựng chòi canh, còn các chỗ đất khác đều được trồng cúc.
Trọng Túy dẫn Tử Tài ra coi vườn cúc. Nhìn kỹ các cây cúc trong vườn, Tử Tài thấy toàn là những cây mà mình đã nhổ vứt đi! Sau khi dẫn Tử Tài đi coi những giò cúc mà mình mới trồng hồi sáng, Trọng Túy chắp tay nói: "Vì nhà đệ nghèo nên đệ phải xoay qua nghề bán cúc. Sáng nay đệ bán liền tay, cũng kiếm được chút ít, đủ để mời túc hạ lưu lại say sưa với đệ một bữa!" Thấy Trọng Túy vồn vã tiếp đãi mình như thế, Tử Tài chẳng nỡ chối từ. Trọng Túy bèn vào nhà lấy bàn ghế đem ra vườn đặt cạnh luống cúc, rồi trở vào lấy rượu và chén đũa đem ra. Chợt Tử Tài nghe thấy tiếng Hoàng Anh từ trong nhà gọi: "Tam đệ!" rồi thấy Trọng Túy chạy vụt vào nhà. Lát sau, Tử Tài thấy Trọng Túy bưng ra bốn đĩa thức ăn, đặt lên bàn, chắp tay nói: "Mấy món này đều do gia tỉ nấu. Xin mời túc hạ hãy cùng đệ nâng chén!" Tử Tài đành ngồi vào bàn yến ẩm với Trọng Túy song chẳng nói một lời nào. Lát sau, đột nhiên Tử Tài lên tiếng hỏi: "Sao lệnh tỉ chưa xuất giá?" Trọng Túy đáp: "Vì chưa tới lúc!" Hỏi: "Bao giờ mới tới lúc?" Đáp: "43 tháng nữa!" Hỏi: "Sao túc hạ biết?" Trọng Túy mỉm cười, chẳng đáp, chỉ nâng chén mời Tử Tài. Thấy Tử Tài chưa cạn chén đã say, Trọng Túy bèn dìu về nhà.
Sáng sau, Tử Tài lại sang thăm vườn cúc của Trọng Túy. Thấy những giò cúc Trọng Túy mới trồng sáng qua, sáng nay đã cao đầy thước, Tử Tài ngạc nhiên lắm, nói: "Túc hạ chỉ cho đệ thuật trồng cúc mọc nhanh như thế này đi!" Trọng Túy đáp: "Thuật này chỉ dùng để chóng có cúc thường mà bán thôi chứ chẳng thể dùng để có cúc đẹp mà thưởng ngoạn được! Túc hạ đã chẳng muốn làm nghề bán cúc thì học thuật này làm chi?" Tử Tài bèn thôi không hỏi nữa.
Đầu tháng chín, khi khách mua hoa đã vãn, Trọng Túy bèn gói những giò cúc dư vào bao cói mỏng, buộc thành bó, chất đầy một xe, rồi từ biệt chị và vợ chồng Tử Tài, đem xuống miền nam bán.
Nửa năm sau, vào độ cuối xuân, Trọng Túy lại đem từ miền nam về Thuận Thiên nhiều giống cúc lạ. Tới chợ huyện, Trọng Túy dừng chân, dựng một quán bán cúc. Mười ngày sau, bán hết cúc, Trọng Túy về nhà. Thế rồi, Trọng Túy lại bắt đầu trồng tỉa chăm sóc đợt cúc mới.
Tới mùa thu, cúc nở hoa, thiên hạ lại nô nức kéo nhau tới khu vườn của Trọng Túy để mua cúc. Nhiều người năm ngoái đã mua song vì không biết cách chăm sóc, để cúc chết, nên năm nay lại tới mua. Bán được nhiều cúc, Trọng Túy trở thành giàu có. Năm sau, Trọng Túy để dành đủ tiền, bèn xin mua đứt dãy nhà với khu vườn phía nam. Tử Tài bằng lòng bán, rồi thuê người rào kín ranh giới hai khu nam bắc. Trọng Túy mua xong, thuê thợ nới rộng dãy nhà cũ ra, phá hết khu vườn cũ đi để xây biệt thự. Rồi đem tiền đi mua một khu vườn mới rộng rãi hơn, xây tường kín vây quanh, trồng cúc ở bên trong. Lại nuôi nhiều gia nhân để trồng tỉa cúc và giúp việc nhà.
Năm sau. Một hôm Trọng Túy nhẩm tính thời gian thì thấy hai chị em mình đã tới Thuận Thiên cư ngụ được hơn hai năm. Tới mùa thu, sau khi bán cúc cho dân chúng trong vùng, Trọng Túy lại chở cúc dư xuống miền nam bán. Trọng Túy vừa đi được ít lâu thì ở nhà, Lã thị bị bạo bệnh mà qua đời. Sau khi làm tang lễ cho vợ, Tử Tài thấy mình cô đơn nên nghĩ đến chuyện nhờ bà mối tới ướm ý Hoàng Anh xem có chịu làm vợ kế mình không. Bà mối tới hỏi thì Hoàng Anh mỉm cười, đáp rằng phải chờ hỏi ý kiến của em trai đã.
Hết mùa xuân, Trọng Túy vẫn chưa về. Hoàng Anh phải đứng ra đốc thúc gia nhân trồng tỉa, chăm sóc cúc theo đúng cách thức cũ của em. Tới mùa thu, Trọng Túy cũng vẫn chưa về. Hoàng Anh lại phải đứng ra bán cúc. Thấy tiền thu vào nhiều quá, Hoàng Anh liền đem đi mua thêm hai chục mẫu vườn ở ngoài thôn để trồng cúc. Thấy tiền vẫn còn dư, Hoàng Anh lại đem ra tu bổ cửa nhà cho thêm phần khang trang, tiện lợi.
Nửa năm sau. Một hôm có khách buôn từ Kim Lăng lên Thuận Thiên có việc, tìm đến nhà Tử Tài, trao cho Tử Tài một lá thư. Tử Tài mời khách vào nhà ngồi dùng trà rồi mở lá thư ra coi thì thấy là lá thư của Trọng Túy hỏi thăm mọi chuyện trong gia đình mình. Cuối thư Trọng Túy viết: "Xin túc hạ cho tiện tỉ được coi lá thư này!" Rồi Trọng Túy lại viết: "Thân gửi chị Hoàng Anh: Em nghe tin Lã tẩu đã qua đời. Em nghĩ Mã huynh cô đơn, thế nào cũng hỏi chị làm kế thất. Nếu Mã huynh có hỏi, em khuyên chị nên ưng thuận!" Coi xong, Tử Tài gấp lá thư cất vào túi rồi hỏi khách: "Đào lang nhờ tôn ông chuyển lá thư này từ bao giờ?" Khách đáp:"Từ năm ngoái, song vì bỉ nhân bận việc, phải ghé nhiều nơi, nên năm nay mới tới đây được!" Tử Tài nhẩm tính thời gian thì thấy Trọng Túy đã viết lá thư từ hồi vợ mình mới mất, tính ra cũng đã trên một năm. Nếu tính từ ngày mình ngồi đối ẩm với Trọng Túy trong vườn thì vừa tròn 42 tháng.
Lát sau, khách cáo biệt. Tử Tài cám ơn rồi đứng dậy tiễn khách ra cổng. Khách
đi rồi, Tử Tài vội chạy sang nhà Hoàng Anh, đưa lá thư cho coi. Chờ cho Hoàng
Anh coi xong, Tử Tài mới hỏi:"Hôm nọ bỉ nhân có nhờ bà mối tới đây thưa
chuyện cùng nương tử thì nương tử trả lời là còn chờ hỏi ý lệnh đệ. Nay lệnh đệ
đã đưa ý như ở trong thư thì phải chăng nương tử sẽ thuận theo lời khuyên của lệnh
đệ?" Hoàng Anh mỉm cười gật đầu. Tử Tài bèn hỏi: "Thế thì bao giờ
nương tử sẽ cho bỉ nhân làm lễ nghênh hôn?" Hoàng Anh đáp: "Tháng tới"
Hỏi: "Nương tử muốn lấy sính lễ như thế nào?" Đáp: "Thiếp không
lấy sính lễ!" Rồi tiếp: "Nhà lang quân cũ kỹ tồi tàn quá! Sau ngày cưới,
lang quân nên dọn sang nhà thiếp mà ở! Lang quân cứ coi như mình đi ở rể vậy,
có sao đâu?" Tử Tài lắc đầu, nói:"Đàn ông đi cưới vợ thì phải đón vợ
về nhà mình chứ chẳng thể tới nhà vợ ở rể được!" Hoàng Anh im lặng, chẳng
nói chi thêm.
Tháng sau, Tử Tài chọn ngày lành giờ tốt để làm lễ nghênh hôn. Sau ngày cưới, Hoàng Anh thuê thợ trổ một cổng xuyên qua hàng rào để hai nhà thông nhau.
Cưới Hoàng Anh về rồi, Tử Tài lại đâm ra ngượng ngập, cứ sợ thiên hạ cười mình là cưới vợ giàu để nhờ vả. Vì thế, Tử Tài cứ căn dặn vợ là phải làm sổ sách chi thu riêng biệt cho mỗi ngôi nhà. Hoàng Anh cười mà vâng lời. Vì nhà Tử Tài nghèo quá, Hoàng Anh thường phải về nhà mình lấy đồ gia dụng đem sang. Thế nhưng, hễ Tử Tài thấy có vật gì mới lạ ở trong nhà thì lại bắt gia nhân phải đem trả lại nhà vợ, cấm không được lấy sang nữa. Song le, vì nhà Tử Tài thiếu nhiều thứ quá nên chỉ một tuần sau, đâu lại vào đấy. Cuối cùng Tử Tài cũng đành bó tay. Thấy thế, Hoàng Anh cười, nói: "Có ai liêm khiết mà không bị mệt sức đâu!" Tử Tài ngượng lắm song chẳng biết cãi ra sao. Thế rồi Tử Tài buông xuôi, để mặc cho vợ muốn làm chi thì làm. Hoàng Anh được thể, thuê thợ phá hết hàng rào ngăn cách hai ngôi nhà, sửa lại ngôi nhà cũ của chồng rồi nối liền hai ngôi nhà làm một.
Hàng ngày, Hoàng Anh vẫn ghé về nhà mình, đốc thúc gia nhân trồng tỉa, chăm sóc cúc. Vì bán cúc được nhiều tiền, hai vợ chồng chỉ ngồi hưởng thụ, chi tiêu còn rộng rãi hơn cả các thế gia trong vùng. Thấy thế, Tử Tài áy náy lắm, đứng ngồi chẳng yên. Một hôm Tử Tài hỏi vợ: "Nàng vẫn còn ham làm giàu để làm chi?" Hoàng Anh đáp: "Thiếp có ham làm giàu đâu? Thiếp chỉ muốn kiếm đủ tiền cho lang quân được sống sung túc thôi!" Tử Tài nói: "Ta đâu có cần được sống sung túc?" Hoàng Anh nói: "Nếu lang quân không được sống sung túc thì sẽ bị đời sau chê cười!" Tử Tài hỏi: "Sao lại bị đời sau chê cười?" Hoàng Anh đáp: "Vì đời sau, thế nào chẳng có kẻ cười rằng đời trước có một người mê hoa cúc đến độ nhà đang khá giả mà hóa ra lụn bại!" Tử Tài nói: "Suốt ba mươi năm qua, ta là một người đàn ông khí phách, nay vì lụy nàng mà phải chiều theo ý nữ nhân! Miếng cơm manh áo cũng phải nhờ vào nữ nhân, thực chẳng còn chút khí phách nào của kẻ trượng phu! Người ta ai cũng mong được giàu song riêng ta thì lại chỉ mong được nghèo thôi!" Hoàng Anh cười, nói: "Nghèo mà mong giàu thì mới khó chứ giàu mà mong nghèo thì dễ lắm. Cứ đem hết tiền trong nhà ném ra ngoài đường là sẽ được nghèo ngay. Lang quân cứ ném hết đi, thiếp chẳng tiếc đâu!" Tử Tài nói: "Thế nhưng phung phí tiền do người khác làm ra thì lại là kẻ vô liêm sỉ!" Hoàng Anh cười, nói: "Đã thế thì thiếp thấy chúng mình khó lòng mà chung sống với nhau được. Lang quân thì chẳng mong giàu mà thiếp thì lại chẳng mong nghèo. Nếu chẳng thỏa thuận được với nhau thì chúng mình nên ở riêng ra, ai trong sạch cứ việc trong sạch, ai đục bẩn cứ việc đục bẩn, có trở ngại chi đâu?" Tử Tài đành im lặng. Thấy chồng chịu thua mình, Hoàng Anh cũng thương hại nên chiều ý chồng, đóng cổng vườn cúc, chẳng làm nghề bán cúc nữa.
Hoàng Anh bèn thuê thợ cất một túp lều tranh ở vườn sau rồi bảo chồng dọn ra đó mà ở. Tử Tài thích lắm, vội dọn ra ngay. Hoàng Anh liền chọn hai tì nữ xinh đẹp sai ra lều tranh ở để hầu hạ chồng. Được ba ngày, Tử Tài nhớ vợ, bèn sai tì nữ vào nhà gọi vợ ra lều tranh ở với mình. Hoàng Anh nhất định không chịu ra. Vì thế, cứ ban đêm thì Tử Tài vào nhà ở với vợ rồi ban ngày thì lại ra lều tranh ở một mình. Lâu rồi thành lệ.
Tháng sau. Một hôm Hoàng Anh cười, nói với chồng: "Ăn đông, nằm tây, có người quân tử liêm khiết nào mà cư xử như vậy chăng?" Tử Tài đuối lý, chẳng biết đối đáp ra sao. Suy đi nghĩ lại, Tử Tài cũng tự thấy là mình gàn nên lại dọn vào nhà ở với vợ như trước.
Mấy tháng sau. Tới mùa thu, hoa cúc lại nở. Một hôm, Tử Tài có việc phải xuống Kim lăng. Tới nơi, thuê quán trọ để ngủ. Sáng sau, thu xếp xong công việc, Tử Tài ra chợ coi hoa thì thấy ở chợ có rất nhiều quán, bán đủ mọi loại hoa. Thấy có một quán bán toàn hoa cúc, Tử Tài bèn ghé coi. Thấy có nhiều giò cúc to, đẹp, giống như những giò cúc mà Trọng Túy vẫn bán trước kia, Tử Tài bèn vào quán nói với người bán cúc: "Xin cho gặp chủ nhân" Người bán cúc mời Tử Tài ngồi, rồi chạy vào nhà trong báo cho chủ nhân hay. Khi chủ nhân bước ra quán thì Tử Tài nhận ra là Trọng Túy. Tử Tài mừng quá, vội chạy tới nắm lấy tay Trọng Túy, hỏi chuyện ở Kim Lăng. Trọng Túy trả lời rồi hỏi lại chuyện ở Thuận Thiên. Tử Tài cũng trả lời rồi thuật chuyện mình kết duyên với Hoàng Anh. Nghe xong, Trọng Túy giữ Tử Tài ở lại quán cúc. Tối ấy, sau khi cơm nước, hai người ngồi đàm đạo. Tử Tài nói: "Bây giờ ngu huynh với lệnh tỉ đã thành gia thất, hiền đệ hãy về Thuận Thiên mà cư ngụ với vợ chồng ngu huynh" Trọng Túy lắc đầu rồi rút ra một gói tiền, nói: "Quê tiểu đệ vốn ở đất Kim Lăng này mà tiểu đệ lại đang làm ăn khá giả nên chẳng thể di cư đi nơi khác được. Vả lại tiểu đệ cũng sắp cưới vợ ở đây rồi! Tuy nhiên, cuối năm nay, tiểu đệ có việc phải lên Thuận Thiên và phải tiêu pha một món tiền ở trên ấy. Vì thế, tiểu đệ muốn nhờ đại ca cầm món tiền này về đưa cho gia tỉ, bảo cất đi giùm để cuối năm tiểu đệ lên trên ấy, sẽ tới xin lại!" Tử Tài từ chối, nói:"Chắc là hiền đệ sợ gia đình ngu huynh nghèo nên muốn giúp đỡ món tiền này chứ gì? Ngu huynh chẳng nhận đâu!" Trọng Túy đành nói:"Thú thực với đại ca, trong hai năm qua tiểu đệ mở quán bán cúc ở đây, phát tài lắm. Bây giờ tiểu đệ rất giàu, có thể nghỉ bán cúc mà vẫn đủ tiền chi tiêu tới già. Đây là món tiền tiểu đệ vẫn dành riêng để biếu gia tỉ khi xuất giá" Tử Tài nhất định từ chối.
Sáng sau, Tử Tài từ biệt Trọng Túy, ra về.
Tử Tài vừa đi thì đột nhiên Trọng Túy đổi ý, muốn lên Thuận Thiên cư ngụ gần chị. Trọng Túy liền hạ giá cúc để bán cho mau hết. Vì giá rẻ, chỉ một tuần sau, Trọng Túy đã bán hết cúc. Trọng Túy bèn trả lại quán cho chủ, trả tiền công hậu hĩ cho gia nhân rồi cho gia nhân nghỉ việc. Sau đó, Trọng Túy thu xếp hành trang, thuê riêng một chiếc thuyền lên Hà Bắc, tới Thuận Thiên.
Tới nhà Tử Tài, Trọng Túy thấy chị đã dành riêng cho mình ngôi biệt thự mới, tựa hồ như biết trước là mình sắp về. Vào phòng ngủ, Trọng Túy thấy có giường đệm, chăn gối mới tinh. Sau khi cởi bỏ hành trang, Trọng Túy vội chạy ngay ra mở cổng vườn cúc, vào coi hoa.
Hôm sau, Trọng Túy sai gia nhân tới vườn trồng tỉa chăm sóc cúc, giống hệt như mấy năm về trước. Tuy nhiên, bây giờ Trọng Túy chỉ muốn có hoa cúc đẹp để thưởng ngoạn thôi chứ chẳng còn muốn có hoa cúc thường để bán nữa. Ngoài việc chăm sóc cúc để có hoa thưởng ngoạn, Trọng Túy chẳng làm ăn chi cả, chỉ sai gia nhân đi mời Tử Tài sang đấu cờ với mình suốt ngày. Vì Tử Tài ít uống rượu nên Trọng Túy thường uống một mình. Trọng Túy uống rượu hào lắm, chưa say bao giờ.
Hoàng Anh muốn kén vợ cho Trọng Túy song Trọng Túy từ chối, nói rằng mình chỉ thích sống độc thân. Hoàng Anh bèn sai hai tì nữ sang ở biệt thự để hầu hạ Trọng Túy. Bốn năm sau, một tì nữ hoài thai với Trọng Túy, sanh được một bé gái, đặt tên là Tiểu Cúc.
Tử Tài có một người bạn họ Tăng, tên Sính, tửu lượng rất cao, trong vùng chưa có đối thủ. Một hôm, Tăng Sính ghé thăm Tử Tài. Tử Tài liền sai gia nhân đi mời Trọng Túy sang uống rượu. Khi Trọng Túy sang, Tử Tài giới thiệu hai người với nhau rồi đề nghị hai người uống thi. Đôi bên cùng hoan hỉ nhận lời. Uống thi từ sáng tới tối, Tử Tài thấy mỗi người đã uống hết trên trăm chén. Hai người cùng phục tửu lượng của nhau, rồi cứ tiếc rằng chẳng được gặp nhau sớm hơn. Tăng Sính say khướt, nằm lăn ra ngủ, còn Trọng Túy cũng say mèm, đứng dậy trở về biệt thự. Tử Tài sợ Trọng Túy say quá, một mình chẳng về được nên theo sau để phòng khi cần dìu dắt.
Từ trong nhà Tử Tài, Trọng Túy bước ra tới vườn thì lảo đảo, dẫm bừa lên luống cúc rồi cởi chiếc áo choàng ném xuống đất, nằm vật xuống cạnh chiếc áo mà ngủ. Vừa chạm mình xuống đất, đột nhiên Trọng Túy biến thành một cây cúc cao bằng đầu người, trên cành có mười mấy đóa hoa to bằng nắm tay. Tử Tài kinh hãi quá, vội chạy vào nhà báo cho vợ biết. Hoàng Anh vội chạy ra vườn, nhổ cây cúc, đặt nằm trên luống, rồi lấy chiếc áo phủ lên mà trách:"Sao hiền đệ lại uống say đến thế?" Trách xong, Hoàng Anh nắm tay chồng dắt vào nhà, dặn: "Từ giờ tới sáng mai, lang quân chớ có ra đây nhìn cây cúc này! Lang quân mà ra nhìn thì nguy hiểm cho tính mạng của Túy đệ lắm!" Tử Tài gật đầu.
Nhớ lời vợ dặn, hôm sau Tử Tài phải chờ tới giữa trưa mới dám ra vườn để coi xem cây cúc tối qua có biến hóa gì không. Ra tới nơi thì thấy cây cúc đã biến trở lại thành Trọng Túy, đang nằm đắp chiếc áo choàng mà ngủ trên luống cúc. Lúc đó Tử Tài mới hiểu rằng hai chị em Trọng Túy đều là thần hoa cúc. Từ đó, Tử Tài lại càng yêu thương, kính trọng hai chị em hơn.
Từ lúc Trọng Túy để lộ hình tích cho Tử Tài biết chị em mình là thần hoa cúc thì Trọng Túy chẳng còn giữ gìn gì nữa, cứ uống rượu liên miên. Trọng Túy tự tay ngâm một vò rượu thuốc lớn để uống dần.
Một hôm Trọng Túy viết thiếp, sai tì nữ đem đi mời Tăng Sính tới vườn nhà mình uống rượu, rồi sai gia nhân đem bàn ghế ra bày cạnh luống cúc, khiêng vò rượu thuốc ra đặt ở cạnh bàn. Khi Tăng Sính tới, Trọng Túy dẫn ra vườn rồi sai gia nhân bưng đồ nhắm ra. Trọng Túy mời Tăng Sính nhập tiệc, hẹn rằng hai người phải cùng nhau uống hết vò rượu mới thôi. Tăng Sính cười rồi gật đầu ưng thuận. Gia nhân bèn chạy đi báo cho Tử Tài hay. Tử Tài liền ra vườn để rình xem tửu lượng của hai người tới đâu. Khi thấy vò rượu sắp cạn mà hai người còn tỉnh, Tử Tài sai gia nhân vào nhà lấy thêm rượu ra, lén rót vào vò. Hai người cứ tiếp tục uống. Khi vò đã cạn, Tăng Sính say quá, gục đầu xuống bàn mà ngủ. Tử Tài bèn sai hai gia nhân thay phiên nhau cõng Tăng Sính về nhà. Trọng Túy cũng say, lại cởi chiếc áo choàng ném xuống đất rồi lại nằm lăn xuống luống mà ngủ. Đột nhiên, Trọng Túy lại biến thành cây cúc. Vì đã được thấy Trọng Túy biến hóa như thế một lần nên lần này, Tử Tài chẳng sợ nữa, cứ bắt chước vợ mà nhổ cây cúc, đặt nằm trên luống, rồi lấy chiếc áo phủ lên. Tử Tài đứng cạnh để chờ xem cây cúc biến trở lại thành Trọng Túy như thế nào? Thế nhưng lần này, Tử Tài chỉ thấy lá cúc héo dần. Kinh hãi quá, Tử Tài vội chạy vào nhà thuật lại cho vợ nghe. Hoàng Anh tái mặt, thốt lên:"Lang quân đã giết chết bào đệ của thiếp rồi!" Thốt xong, Hoàng Anh vùng chạy ra vườn. Tử Tài cũng vội chạy ra theo. Tới nơi, Tử Tài thấy gốc rễ cây cúc đã héo khô. Hoàng Anh đau khổ lắm, bẻ một cành còn tươi, cắm vào một chậu đất sẵn có ở trong vườn, rồi tưới nước, bưng về trưng trong phòng mình. Tử Tài theo vợ về phòng, trong lòng hối hận là đã giết chết Trọng Túy. Suy nghĩ miên man, Tử Tài đâm ra oán hận Tăng Sính.
Hôm sau, Tử Tài toan sang nhà Tăng Sính để trách mắng thì nghe tin Tăng Sính đã chết vì cơn say rượu bữa trước ở vườn cúc nhà Trọng Túy.
Hàng ngày, Hoàng Anh tưới nước cho cành cúc trong phòng mình. Ít lâu sau, cành cúc bén rễ rồi sinh ra nhiều nhánh nhỏ. Chín tháng sau, cành cúc nở hoa. Hoàng Anh chiết các nhánh nhỏ đem trồng thì các nhánh này lại sinh ra một giống cúc mới, thân thấp lè tè, cánh hoa có phấn, tỏa ra một mùi thơm tựa như mùi rượu. Vì thế, về sau giống cúc này được gọi là Túy Đào Cúc (Cúc Đào Say). Nếu được tưới bằng rượu thì giống cúc này nở đầy hoa rất đẹp.
Từ đó, trong nhà Tử Tài chẳng còn chuyện gì lạ xảy ra nữa. Hoàng Anh sống rất hạnh phúc bên chồng. Mười lăm năm sau. Con gái của Trọng Túy là Tiểu Cúc đã tới tuần cập kê. Hoàng Anh bèn đem gả cho con trai của một thế gia trong vùng.
Thiên lý bình cân bốc ẩn cư
Tửu hương hoa khí mộng tinh sơ
Lương duyên ưng vị mai hoa đố
Xử sĩ phong lưu chuyển bất như
Huyện Thuận Thiên, tỉnh Hà Bắc, có người họ Mã, tên Tử Tài, có vợ họ Lã, tính rất hiền thục.
Gia tư Tử Tài cũng chỉ vào hàng khá giả, có hai dãy nhà nam bắc, cách nhau một chiếc sân lớn. Mỗi dãy dài chừng bốn chục thước, tiếp giáp với một khu vườn chừng nửa mẫu đất. Khu bắc có trồng hoa cúc còn khu nam thì bỏ hoang.
Ông, cha Tử Tài đều yêu hoa cúc song Tử Tài còn mê hoa cúc hơn cả cha, ông. Tử Tài chỉ trồng hoa cúc để thưởng ngoạn chứ chẳng đem bán bao giờ vì Tử Tài vẫn giữ ý nghĩ cổ truyền của cha, ông, cho việc bán hoa cúc là một việc làm vô liêm sỉ. Hễ nghe nói ở đâu có hoa cúc đẹp là Tử Tài lại lặn lội tìm tới mua, chẳng kể đường xá gần xa, giá cúc đắt rẻ. Vì thế mà gia tư lụn bại dần.
Một hôm, có người khách quen từ thủ phủ Kim Lăng, tỉnh Giang Tô, lên Thuận Thiên có việc, ghé thăm Tử Tài. Trong khi đàm đạo, khách nói có một người bà con ở Kim Lăng mua được hai giống cúc đẹp lắm, không thấy có ở miền bắc. Tử Tài mừng quá, tức khắc vào nhà trong bảo vợ sửa soạn tiền bạc, hành trang để mình theo khách xuống Kim Lăng tìm mua hai giống cúc ấy.
Tới nơi, Tử Tài đưa tiền nhờ người bà con của khách đi mua giùm được hai giò cúc lạ. Tử Tài quý hai giò cúc ấy lắm, chăm sóc như bảo vật.
Hôm sau, Tử Tài biệt khách, đem hai giò cúc về Thuận Thiên. Mới lên ngựa phóng đi được một quãng thì Tử Tài thấy một thiếu niên phong lưu, tuấn tú, cưỡi ngựa theo sau một cỗ xe. Thiếu niên thấy Tử Tài đi cùng đường với mình thì mỉm cười, chắp tay vái chào làm quen, nói:"Đệ họ Đào, tên Trọng Túy, quê ở đất Kim Lăng này, còn quý danh là gì, quý quán ở đâu?" Thấy Trọng Túy nói năng lịch sự, tao nhã, Tử Tài chắp tay đáp lễ, nói:"Đệ họ Mã, tên Tử Tài, quê ở huyện Thuận Thiên tỉnh Hà Bắc" Hỏi:"Dám hỏi túc hạ xuống đây có việc chi?" Đáp:"Đệ xuống đây tìm mua hai giống cúc đẹp không thấy có ở miền bắc!" Trọng Túy cười, nói:"Cúc nào là cúc chẳng đẹp, chỉ có người trồng tỉa chẳng biết cách chăm sóc mà thôi!" Rồi thao thao giảng thuyết về cách thức chăm sóc cúc. Nghe xong, Tử Tài mừng lắm, hỏi:"Bây giờ túc hạ đi đâu thế?" Đáp: "Đệ theo gia tỉ dọn nhà lên Hà Sóc, phía bắc sông Hoàng Hà!" Hỏi:"Quê túc hạ ở miền nam này, sao lại dọn nhà lên ở miền bắc?" Đáp: "Tuy chị em đệ quê ở miền nam, song gia tỉ chán cảnh ở đây rồi, muốn dọn nhà lên ở miền bắc!" Tử Tài mừng lắm, nói: "Nếu túc hạ cùng lệnh tỉ chẳng chê đất Thuận Thiên là nơi hoang lậu thì xin mời nhị vị lên tệ xá cư ngụ!" Trọng Túy bèn rong ngựa tới cạnh xe, hỏi vọng vào: "Em vừa làm quen với Mã huynh ở Thuận Thiên, Hà Bắc. Biết chị em mình đang dọn nhà lên Hà Sóc, Mã huynh mời chị em mình lên nhà Mã huynh cư ngụ, chị có thuận không?" Tử Tài chăm chú theo dõi thì thấy một nữ lang tuyệt sắc, tuổi chừng hai mươi, vén rèm xe lên nhìn Trọng Túy, đáp: "Lên đó ở nhờ thì cũng chẳng sao song nhà cửa phải rộng rãi, tuy chẳng cần phải sang trọng!" Nghe thấy thế, Tử Tài vội phóng ngựa tới cạnh xe, nói:" Tệ xá tuy thô lậu song cũng rộng rãi lắm!" Hai chị em bèn quyết định theo Tử Tài lên Thuận Thiên.
Hôm sau, Trọng Túy sang trồng giùm Tử Tài hai giò cúc mới. Rồi ngày nào Trọng Túy cũng sang chăm sóc vườn cúc cho Tử Tài. Thấy cây nào khô, Trọng Túy liền nhổ lên, chiết cành mới trồng vào chỗ cũ. Vì thế, chỉ ít lâu sau, vườn cúc nhà Tử Tài trông thực tốt tươi đẹp đẽ, khác hẳn khi trước. Tử Tài thầm cám ơn Trọng Túy nên ngày nào cũng giữ Trọng Túy ở lại yến ẩm với mình. Hoàng Anh cũng thường qua dãy bắc kéo tơ, may vá giùm Lã thị nên Lã thị càng quý mến.
Tháng sau. Một hôm Trọng Túy nói với Tử Tài: "Túc hạ vốn chẳng giàu có chi mà ngày nào cũng giữ đệ ở lại yến ẩm, rồi còn sai gia nhân đem gạo muối rau thịt sang cho thì đệ thấy ngại ngùng quá. Đệ đâu có thể ngồi không mà nhận ân huệ mãi như thế được? Bây giờ đệ tính xoay qua nghề trồng tỉa hoa cúc để bán lấy tiền, tự túc mưu sinh!" Nghe thấy thế, Tử Tài đâm ra khinh khi Trọng Túy, rồi nói thẳng: "Trước kia đệ cứ tưởng túc hạ thuộc hàng cao sĩ, nay nghe nói mới biết cũng chỉ thuộc loại phàm phu. Muốn bán hoa cúc để cầu lợi thì thực là nhục cho hoa cúc lắm!" Trọng Túy cười, nói: "Lấy việc bán hoa cúc làm nghề sinh nhai thì có chi là đáng khinh bỉ? Tuy con người chẳng nên làm giàu một cách bẩn thỉu song cũng chẳng nên cầu nghèo chỉ vì không dám làm một nghề lương thiện!" Tử Tài im lặng. Trọng Túy bèn đứng dậy, cáo biệt. Từ đó, Trọng Túy không sang chăm sóc vườn cúc cho Tử Tài nữa. Tử Tài đành phải chăm sóc lấy một mình, cứ thấy cây nào hơi héo là nhổ lên vứt đi, chất thành đống. Tuy thế, hai bên vẫn chưa đến nỗi tuyệt giao. Thỉnh thoảng Tử Tài vẫn sai gia nhân đi mời Trọng Túy sang nhà mình đàm đạo.
Trọng Túy về nhà, đánh luống khu nam thành một khu vườn tuyệt đẹp. Rồi sang xin đống cúc vứt đi của Tử Tài, vác về lựa lấy những cây còn sống đem ra vườn trồng. Ngày nào Trọng Túy cũng làm cỏ, tưới nước, cuốc bỏ gốc xấu, chiết cành tốt trồng vào chỗ cũ. Chẳng bao lâu, vườn cúc của Trọng Túy trông thực tốt tươi đẹp đẽ. Mùa thu năm ấy, cúc nở kín vườn.
Sau tiết Trung thu. Một sáng, Tử Tài đang ngồi trong nhà thì chợt nghe có tiếng ồn ào như chợ vỡ ở phía nam. Lấy làm lạ, Tử Tài chạy ra coi thì thấy Trọng Túy đang đứng giữa cả trăm chậu cúc xếp trong vườn, phần lớn đều có trồng những giò cúc lạ, rất đẹp, mà mình chưa được thấy bao giờ. Dòng người đi chợ ghé vào mua cúc rất đông, ồn ào như thác lũ, liên miên chẳng dứt, kẻ thì chất lên xe, người thì vác lên vai. Cho là Trọng Túy tham tiền, Tử Tài khinh khi lắm. Lại thấy Trọng Túy giấu các giò cúc lạ để trồng bán lấy tiền, chẳng cho mình giò nào, Tử Tài càng thêm giận, nảy ý tuyệt giao. Tử Tài bèn xăm xăm chạy sang nhà Trọng Túy gõ cửa. Nghe tiếng gõ cửa, Trọng Túy từ ngoài vườn chạy vào mở. Thấy Tử Tài, Trọng Túy vồn vã cầm tay mời vào nhà. Thấy Trọng Túy vồn vã như thế, Tử Tài khựng lại, chẳng nói được lời nào. Đưa mắt nhìn ra vườn, Tử Tài thấy nửa mẫu đất hoang của mình khi trước, nay đã biến thành một vườn cúc tuyệt đẹp. Trừ một miếng đất nhỏ được dùng để dựng chòi canh, còn các chỗ đất khác đều được trồng cúc.
Trọng Túy dẫn Tử Tài ra coi vườn cúc. Nhìn kỹ các cây cúc trong vườn, Tử Tài thấy toàn là những cây mà mình đã nhổ vứt đi! Sau khi dẫn Tử Tài đi coi những giò cúc mà mình mới trồng hồi sáng, Trọng Túy chắp tay nói: "Vì nhà đệ nghèo nên đệ phải xoay qua nghề bán cúc. Sáng nay đệ bán liền tay, cũng kiếm được chút ít, đủ để mời túc hạ lưu lại say sưa với đệ một bữa!" Thấy Trọng Túy vồn vã tiếp đãi mình như thế, Tử Tài chẳng nỡ chối từ. Trọng Túy bèn vào nhà lấy bàn ghế đem ra vườn đặt cạnh luống cúc, rồi trở vào lấy rượu và chén đũa đem ra. Chợt Tử Tài nghe thấy tiếng Hoàng Anh từ trong nhà gọi: "Tam đệ!" rồi thấy Trọng Túy chạy vụt vào nhà. Lát sau, Tử Tài thấy Trọng Túy bưng ra bốn đĩa thức ăn, đặt lên bàn, chắp tay nói: "Mấy món này đều do gia tỉ nấu. Xin mời túc hạ hãy cùng đệ nâng chén!" Tử Tài đành ngồi vào bàn yến ẩm với Trọng Túy song chẳng nói một lời nào. Lát sau, đột nhiên Tử Tài lên tiếng hỏi: "Sao lệnh tỉ chưa xuất giá?" Trọng Túy đáp: "Vì chưa tới lúc!" Hỏi: "Bao giờ mới tới lúc?" Đáp: "43 tháng nữa!" Hỏi: "Sao túc hạ biết?" Trọng Túy mỉm cười, chẳng đáp, chỉ nâng chén mời Tử Tài. Thấy Tử Tài chưa cạn chén đã say, Trọng Túy bèn dìu về nhà.
Sáng sau, Tử Tài lại sang thăm vườn cúc của Trọng Túy. Thấy những giò cúc Trọng Túy mới trồng sáng qua, sáng nay đã cao đầy thước, Tử Tài ngạc nhiên lắm, nói: "Túc hạ chỉ cho đệ thuật trồng cúc mọc nhanh như thế này đi!" Trọng Túy đáp: "Thuật này chỉ dùng để chóng có cúc thường mà bán thôi chứ chẳng thể dùng để có cúc đẹp mà thưởng ngoạn được! Túc hạ đã chẳng muốn làm nghề bán cúc thì học thuật này làm chi?" Tử Tài bèn thôi không hỏi nữa.
Đầu tháng chín, khi khách mua hoa đã vãn, Trọng Túy bèn gói những giò cúc dư vào bao cói mỏng, buộc thành bó, chất đầy một xe, rồi từ biệt chị và vợ chồng Tử Tài, đem xuống miền nam bán.
Nửa năm sau, vào độ cuối xuân, Trọng Túy lại đem từ miền nam về Thuận Thiên nhiều giống cúc lạ. Tới chợ huyện, Trọng Túy dừng chân, dựng một quán bán cúc. Mười ngày sau, bán hết cúc, Trọng Túy về nhà. Thế rồi, Trọng Túy lại bắt đầu trồng tỉa chăm sóc đợt cúc mới.
Tới mùa thu, cúc nở hoa, thiên hạ lại nô nức kéo nhau tới khu vườn của Trọng Túy để mua cúc. Nhiều người năm ngoái đã mua song vì không biết cách chăm sóc, để cúc chết, nên năm nay lại tới mua. Bán được nhiều cúc, Trọng Túy trở thành giàu có. Năm sau, Trọng Túy để dành đủ tiền, bèn xin mua đứt dãy nhà với khu vườn phía nam. Tử Tài bằng lòng bán, rồi thuê người rào kín ranh giới hai khu nam bắc. Trọng Túy mua xong, thuê thợ nới rộng dãy nhà cũ ra, phá hết khu vườn cũ đi để xây biệt thự. Rồi đem tiền đi mua một khu vườn mới rộng rãi hơn, xây tường kín vây quanh, trồng cúc ở bên trong. Lại nuôi nhiều gia nhân để trồng tỉa cúc và giúp việc nhà.
Năm sau. Một hôm Trọng Túy nhẩm tính thời gian thì thấy hai chị em mình đã tới Thuận Thiên cư ngụ được hơn hai năm. Tới mùa thu, sau khi bán cúc cho dân chúng trong vùng, Trọng Túy lại chở cúc dư xuống miền nam bán. Trọng Túy vừa đi được ít lâu thì ở nhà, Lã thị bị bạo bệnh mà qua đời. Sau khi làm tang lễ cho vợ, Tử Tài thấy mình cô đơn nên nghĩ đến chuyện nhờ bà mối tới ướm ý Hoàng Anh xem có chịu làm vợ kế mình không. Bà mối tới hỏi thì Hoàng Anh mỉm cười, đáp rằng phải chờ hỏi ý kiến của em trai đã.
Hết mùa xuân, Trọng Túy vẫn chưa về. Hoàng Anh phải đứng ra đốc thúc gia nhân trồng tỉa, chăm sóc cúc theo đúng cách thức cũ của em. Tới mùa thu, Trọng Túy cũng vẫn chưa về. Hoàng Anh lại phải đứng ra bán cúc. Thấy tiền thu vào nhiều quá, Hoàng Anh liền đem đi mua thêm hai chục mẫu vườn ở ngoài thôn để trồng cúc. Thấy tiền vẫn còn dư, Hoàng Anh lại đem ra tu bổ cửa nhà cho thêm phần khang trang, tiện lợi.
Nửa năm sau. Một hôm có khách buôn từ Kim Lăng lên Thuận Thiên có việc, tìm đến nhà Tử Tài, trao cho Tử Tài một lá thư. Tử Tài mời khách vào nhà ngồi dùng trà rồi mở lá thư ra coi thì thấy là lá thư của Trọng Túy hỏi thăm mọi chuyện trong gia đình mình. Cuối thư Trọng Túy viết: "Xin túc hạ cho tiện tỉ được coi lá thư này!" Rồi Trọng Túy lại viết: "Thân gửi chị Hoàng Anh: Em nghe tin Lã tẩu đã qua đời. Em nghĩ Mã huynh cô đơn, thế nào cũng hỏi chị làm kế thất. Nếu Mã huynh có hỏi, em khuyên chị nên ưng thuận!" Coi xong, Tử Tài gấp lá thư cất vào túi rồi hỏi khách: "Đào lang nhờ tôn ông chuyển lá thư này từ bao giờ?" Khách đáp:"Từ năm ngoái, song vì bỉ nhân bận việc, phải ghé nhiều nơi, nên năm nay mới tới đây được!" Tử Tài nhẩm tính thời gian thì thấy Trọng Túy đã viết lá thư từ hồi vợ mình mới mất, tính ra cũng đã trên một năm. Nếu tính từ ngày mình ngồi đối ẩm với Trọng Túy trong vườn thì vừa tròn 42 tháng.
Tháng sau, Tử Tài chọn ngày lành giờ tốt để làm lễ nghênh hôn. Sau ngày cưới, Hoàng Anh thuê thợ trổ một cổng xuyên qua hàng rào để hai nhà thông nhau.
Cưới Hoàng Anh về rồi, Tử Tài lại đâm ra ngượng ngập, cứ sợ thiên hạ cười mình là cưới vợ giàu để nhờ vả. Vì thế, Tử Tài cứ căn dặn vợ là phải làm sổ sách chi thu riêng biệt cho mỗi ngôi nhà. Hoàng Anh cười mà vâng lời. Vì nhà Tử Tài nghèo quá, Hoàng Anh thường phải về nhà mình lấy đồ gia dụng đem sang. Thế nhưng, hễ Tử Tài thấy có vật gì mới lạ ở trong nhà thì lại bắt gia nhân phải đem trả lại nhà vợ, cấm không được lấy sang nữa. Song le, vì nhà Tử Tài thiếu nhiều thứ quá nên chỉ một tuần sau, đâu lại vào đấy. Cuối cùng Tử Tài cũng đành bó tay. Thấy thế, Hoàng Anh cười, nói: "Có ai liêm khiết mà không bị mệt sức đâu!" Tử Tài ngượng lắm song chẳng biết cãi ra sao. Thế rồi Tử Tài buông xuôi, để mặc cho vợ muốn làm chi thì làm. Hoàng Anh được thể, thuê thợ phá hết hàng rào ngăn cách hai ngôi nhà, sửa lại ngôi nhà cũ của chồng rồi nối liền hai ngôi nhà làm một.
Hàng ngày, Hoàng Anh vẫn ghé về nhà mình, đốc thúc gia nhân trồng tỉa, chăm sóc cúc. Vì bán cúc được nhiều tiền, hai vợ chồng chỉ ngồi hưởng thụ, chi tiêu còn rộng rãi hơn cả các thế gia trong vùng. Thấy thế, Tử Tài áy náy lắm, đứng ngồi chẳng yên. Một hôm Tử Tài hỏi vợ: "Nàng vẫn còn ham làm giàu để làm chi?" Hoàng Anh đáp: "Thiếp có ham làm giàu đâu? Thiếp chỉ muốn kiếm đủ tiền cho lang quân được sống sung túc thôi!" Tử Tài nói: "Ta đâu có cần được sống sung túc?" Hoàng Anh nói: "Nếu lang quân không được sống sung túc thì sẽ bị đời sau chê cười!" Tử Tài hỏi: "Sao lại bị đời sau chê cười?" Hoàng Anh đáp: "Vì đời sau, thế nào chẳng có kẻ cười rằng đời trước có một người mê hoa cúc đến độ nhà đang khá giả mà hóa ra lụn bại!" Tử Tài nói: "Suốt ba mươi năm qua, ta là một người đàn ông khí phách, nay vì lụy nàng mà phải chiều theo ý nữ nhân! Miếng cơm manh áo cũng phải nhờ vào nữ nhân, thực chẳng còn chút khí phách nào của kẻ trượng phu! Người ta ai cũng mong được giàu song riêng ta thì lại chỉ mong được nghèo thôi!" Hoàng Anh cười, nói: "Nghèo mà mong giàu thì mới khó chứ giàu mà mong nghèo thì dễ lắm. Cứ đem hết tiền trong nhà ném ra ngoài đường là sẽ được nghèo ngay. Lang quân cứ ném hết đi, thiếp chẳng tiếc đâu!" Tử Tài nói: "Thế nhưng phung phí tiền do người khác làm ra thì lại là kẻ vô liêm sỉ!" Hoàng Anh cười, nói: "Đã thế thì thiếp thấy chúng mình khó lòng mà chung sống với nhau được. Lang quân thì chẳng mong giàu mà thiếp thì lại chẳng mong nghèo. Nếu chẳng thỏa thuận được với nhau thì chúng mình nên ở riêng ra, ai trong sạch cứ việc trong sạch, ai đục bẩn cứ việc đục bẩn, có trở ngại chi đâu?" Tử Tài đành im lặng. Thấy chồng chịu thua mình, Hoàng Anh cũng thương hại nên chiều ý chồng, đóng cổng vườn cúc, chẳng làm nghề bán cúc nữa.
Hoàng Anh bèn thuê thợ cất một túp lều tranh ở vườn sau rồi bảo chồng dọn ra đó mà ở. Tử Tài thích lắm, vội dọn ra ngay. Hoàng Anh liền chọn hai tì nữ xinh đẹp sai ra lều tranh ở để hầu hạ chồng. Được ba ngày, Tử Tài nhớ vợ, bèn sai tì nữ vào nhà gọi vợ ra lều tranh ở với mình. Hoàng Anh nhất định không chịu ra. Vì thế, cứ ban đêm thì Tử Tài vào nhà ở với vợ rồi ban ngày thì lại ra lều tranh ở một mình. Lâu rồi thành lệ.
Tháng sau. Một hôm Hoàng Anh cười, nói với chồng: "Ăn đông, nằm tây, có người quân tử liêm khiết nào mà cư xử như vậy chăng?" Tử Tài đuối lý, chẳng biết đối đáp ra sao. Suy đi nghĩ lại, Tử Tài cũng tự thấy là mình gàn nên lại dọn vào nhà ở với vợ như trước.
Mấy tháng sau. Tới mùa thu, hoa cúc lại nở. Một hôm, Tử Tài có việc phải xuống Kim lăng. Tới nơi, thuê quán trọ để ngủ. Sáng sau, thu xếp xong công việc, Tử Tài ra chợ coi hoa thì thấy ở chợ có rất nhiều quán, bán đủ mọi loại hoa. Thấy có một quán bán toàn hoa cúc, Tử Tài bèn ghé coi. Thấy có nhiều giò cúc to, đẹp, giống như những giò cúc mà Trọng Túy vẫn bán trước kia, Tử Tài bèn vào quán nói với người bán cúc: "Xin cho gặp chủ nhân" Người bán cúc mời Tử Tài ngồi, rồi chạy vào nhà trong báo cho chủ nhân hay. Khi chủ nhân bước ra quán thì Tử Tài nhận ra là Trọng Túy. Tử Tài mừng quá, vội chạy tới nắm lấy tay Trọng Túy, hỏi chuyện ở Kim Lăng. Trọng Túy trả lời rồi hỏi lại chuyện ở Thuận Thiên. Tử Tài cũng trả lời rồi thuật chuyện mình kết duyên với Hoàng Anh. Nghe xong, Trọng Túy giữ Tử Tài ở lại quán cúc. Tối ấy, sau khi cơm nước, hai người ngồi đàm đạo. Tử Tài nói: "Bây giờ ngu huynh với lệnh tỉ đã thành gia thất, hiền đệ hãy về Thuận Thiên mà cư ngụ với vợ chồng ngu huynh" Trọng Túy lắc đầu rồi rút ra một gói tiền, nói: "Quê tiểu đệ vốn ở đất Kim Lăng này mà tiểu đệ lại đang làm ăn khá giả nên chẳng thể di cư đi nơi khác được. Vả lại tiểu đệ cũng sắp cưới vợ ở đây rồi! Tuy nhiên, cuối năm nay, tiểu đệ có việc phải lên Thuận Thiên và phải tiêu pha một món tiền ở trên ấy. Vì thế, tiểu đệ muốn nhờ đại ca cầm món tiền này về đưa cho gia tỉ, bảo cất đi giùm để cuối năm tiểu đệ lên trên ấy, sẽ tới xin lại!" Tử Tài từ chối, nói:"Chắc là hiền đệ sợ gia đình ngu huynh nghèo nên muốn giúp đỡ món tiền này chứ gì? Ngu huynh chẳng nhận đâu!" Trọng Túy đành nói:"Thú thực với đại ca, trong hai năm qua tiểu đệ mở quán bán cúc ở đây, phát tài lắm. Bây giờ tiểu đệ rất giàu, có thể nghỉ bán cúc mà vẫn đủ tiền chi tiêu tới già. Đây là món tiền tiểu đệ vẫn dành riêng để biếu gia tỉ khi xuất giá" Tử Tài nhất định từ chối.
Sáng sau, Tử Tài từ biệt Trọng Túy, ra về.
Tử Tài vừa đi thì đột nhiên Trọng Túy đổi ý, muốn lên Thuận Thiên cư ngụ gần chị. Trọng Túy liền hạ giá cúc để bán cho mau hết. Vì giá rẻ, chỉ một tuần sau, Trọng Túy đã bán hết cúc. Trọng Túy bèn trả lại quán cho chủ, trả tiền công hậu hĩ cho gia nhân rồi cho gia nhân nghỉ việc. Sau đó, Trọng Túy thu xếp hành trang, thuê riêng một chiếc thuyền lên Hà Bắc, tới Thuận Thiên.
Tới nhà Tử Tài, Trọng Túy thấy chị đã dành riêng cho mình ngôi biệt thự mới, tựa hồ như biết trước là mình sắp về. Vào phòng ngủ, Trọng Túy thấy có giường đệm, chăn gối mới tinh. Sau khi cởi bỏ hành trang, Trọng Túy vội chạy ngay ra mở cổng vườn cúc, vào coi hoa.
Hôm sau, Trọng Túy sai gia nhân tới vườn trồng tỉa chăm sóc cúc, giống hệt như mấy năm về trước. Tuy nhiên, bây giờ Trọng Túy chỉ muốn có hoa cúc đẹp để thưởng ngoạn thôi chứ chẳng còn muốn có hoa cúc thường để bán nữa. Ngoài việc chăm sóc cúc để có hoa thưởng ngoạn, Trọng Túy chẳng làm ăn chi cả, chỉ sai gia nhân đi mời Tử Tài sang đấu cờ với mình suốt ngày. Vì Tử Tài ít uống rượu nên Trọng Túy thường uống một mình. Trọng Túy uống rượu hào lắm, chưa say bao giờ.
Hoàng Anh muốn kén vợ cho Trọng Túy song Trọng Túy từ chối, nói rằng mình chỉ thích sống độc thân. Hoàng Anh bèn sai hai tì nữ sang ở biệt thự để hầu hạ Trọng Túy. Bốn năm sau, một tì nữ hoài thai với Trọng Túy, sanh được một bé gái, đặt tên là Tiểu Cúc.
Tử Tài có một người bạn họ Tăng, tên Sính, tửu lượng rất cao, trong vùng chưa có đối thủ. Một hôm, Tăng Sính ghé thăm Tử Tài. Tử Tài liền sai gia nhân đi mời Trọng Túy sang uống rượu. Khi Trọng Túy sang, Tử Tài giới thiệu hai người với nhau rồi đề nghị hai người uống thi. Đôi bên cùng hoan hỉ nhận lời. Uống thi từ sáng tới tối, Tử Tài thấy mỗi người đã uống hết trên trăm chén. Hai người cùng phục tửu lượng của nhau, rồi cứ tiếc rằng chẳng được gặp nhau sớm hơn. Tăng Sính say khướt, nằm lăn ra ngủ, còn Trọng Túy cũng say mèm, đứng dậy trở về biệt thự. Tử Tài sợ Trọng Túy say quá, một mình chẳng về được nên theo sau để phòng khi cần dìu dắt.
Từ trong nhà Tử Tài, Trọng Túy bước ra tới vườn thì lảo đảo, dẫm bừa lên luống cúc rồi cởi chiếc áo choàng ném xuống đất, nằm vật xuống cạnh chiếc áo mà ngủ. Vừa chạm mình xuống đất, đột nhiên Trọng Túy biến thành một cây cúc cao bằng đầu người, trên cành có mười mấy đóa hoa to bằng nắm tay. Tử Tài kinh hãi quá, vội chạy vào nhà báo cho vợ biết. Hoàng Anh vội chạy ra vườn, nhổ cây cúc, đặt nằm trên luống, rồi lấy chiếc áo phủ lên mà trách:"Sao hiền đệ lại uống say đến thế?" Trách xong, Hoàng Anh nắm tay chồng dắt vào nhà, dặn: "Từ giờ tới sáng mai, lang quân chớ có ra đây nhìn cây cúc này! Lang quân mà ra nhìn thì nguy hiểm cho tính mạng của Túy đệ lắm!" Tử Tài gật đầu.
Nhớ lời vợ dặn, hôm sau Tử Tài phải chờ tới giữa trưa mới dám ra vườn để coi xem cây cúc tối qua có biến hóa gì không. Ra tới nơi thì thấy cây cúc đã biến trở lại thành Trọng Túy, đang nằm đắp chiếc áo choàng mà ngủ trên luống cúc. Lúc đó Tử Tài mới hiểu rằng hai chị em Trọng Túy đều là thần hoa cúc. Từ đó, Tử Tài lại càng yêu thương, kính trọng hai chị em hơn.
Từ lúc Trọng Túy để lộ hình tích cho Tử Tài biết chị em mình là thần hoa cúc thì Trọng Túy chẳng còn giữ gìn gì nữa, cứ uống rượu liên miên. Trọng Túy tự tay ngâm một vò rượu thuốc lớn để uống dần.
Một hôm Trọng Túy viết thiếp, sai tì nữ đem đi mời Tăng Sính tới vườn nhà mình uống rượu, rồi sai gia nhân đem bàn ghế ra bày cạnh luống cúc, khiêng vò rượu thuốc ra đặt ở cạnh bàn. Khi Tăng Sính tới, Trọng Túy dẫn ra vườn rồi sai gia nhân bưng đồ nhắm ra. Trọng Túy mời Tăng Sính nhập tiệc, hẹn rằng hai người phải cùng nhau uống hết vò rượu mới thôi. Tăng Sính cười rồi gật đầu ưng thuận. Gia nhân bèn chạy đi báo cho Tử Tài hay. Tử Tài liền ra vườn để rình xem tửu lượng của hai người tới đâu. Khi thấy vò rượu sắp cạn mà hai người còn tỉnh, Tử Tài sai gia nhân vào nhà lấy thêm rượu ra, lén rót vào vò. Hai người cứ tiếp tục uống. Khi vò đã cạn, Tăng Sính say quá, gục đầu xuống bàn mà ngủ. Tử Tài bèn sai hai gia nhân thay phiên nhau cõng Tăng Sính về nhà. Trọng Túy cũng say, lại cởi chiếc áo choàng ném xuống đất rồi lại nằm lăn xuống luống mà ngủ. Đột nhiên, Trọng Túy lại biến thành cây cúc. Vì đã được thấy Trọng Túy biến hóa như thế một lần nên lần này, Tử Tài chẳng sợ nữa, cứ bắt chước vợ mà nhổ cây cúc, đặt nằm trên luống, rồi lấy chiếc áo phủ lên. Tử Tài đứng cạnh để chờ xem cây cúc biến trở lại thành Trọng Túy như thế nào? Thế nhưng lần này, Tử Tài chỉ thấy lá cúc héo dần. Kinh hãi quá, Tử Tài vội chạy vào nhà thuật lại cho vợ nghe. Hoàng Anh tái mặt, thốt lên:"Lang quân đã giết chết bào đệ của thiếp rồi!" Thốt xong, Hoàng Anh vùng chạy ra vườn. Tử Tài cũng vội chạy ra theo. Tới nơi, Tử Tài thấy gốc rễ cây cúc đã héo khô. Hoàng Anh đau khổ lắm, bẻ một cành còn tươi, cắm vào một chậu đất sẵn có ở trong vườn, rồi tưới nước, bưng về trưng trong phòng mình. Tử Tài theo vợ về phòng, trong lòng hối hận là đã giết chết Trọng Túy. Suy nghĩ miên man, Tử Tài đâm ra oán hận Tăng Sính.
Hôm sau, Tử Tài toan sang nhà Tăng Sính để trách mắng thì nghe tin Tăng Sính đã chết vì cơn say rượu bữa trước ở vườn cúc nhà Trọng Túy.
Hàng ngày, Hoàng Anh tưới nước cho cành cúc trong phòng mình. Ít lâu sau, cành cúc bén rễ rồi sinh ra nhiều nhánh nhỏ. Chín tháng sau, cành cúc nở hoa. Hoàng Anh chiết các nhánh nhỏ đem trồng thì các nhánh này lại sinh ra một giống cúc mới, thân thấp lè tè, cánh hoa có phấn, tỏa ra một mùi thơm tựa như mùi rượu. Vì thế, về sau giống cúc này được gọi là Túy Đào Cúc (Cúc Đào Say). Nếu được tưới bằng rượu thì giống cúc này nở đầy hoa rất đẹp.
Từ đó, trong nhà Tử Tài chẳng còn chuyện gì lạ xảy ra nữa. Hoàng Anh sống rất hạnh phúc bên chồng. Mười lăm năm sau. Con gái của Trọng Túy là Tiểu Cúc đã tới tuần cập kê. Hoàng Anh bèn đem gả cho con trai của một thế gia trong vùng.
NÓI ĐÙA, TƯỞNG THỰC
(truyện VƯƠNG QUẾ AM)
Mã anh hoa hạ trúc ly tà
Mộng cảnh tầm lai lộ bất soa
Tái đắc mỹ nhân giang thượng khứ
Cựu đình nhiêu xứ lãng như hoa
Huyện Đại Danh, tỉnh Hà Bắc, có nho sinh họ Vương, tên Quế Am, hai mươi lăm tuổi, còn độc thân, dòng dõi thế tộc. Song thân mất sớm, để lại một gia tài khá lớn. Sinh thời, thân phụ là bạn thâm giao với quan thái bộc họ Từ ở thủ phủ Chấn Giang, tỉnh Giang Tô.
Năm ấy, một hôm Quế Am có việc phải xuống Hà Nam, ra bờ sông Đại Danh thuê thuyền thủy hành. Khi thuyền cập bến Hà Nam, Quế Am mở bọc lấy tiền trả chủ thuyền rồi xách bọc lên mui. Đảo mắt nhìn quanh, thấy quang cảnh ở bến thực là náo nhiệt, trên bộ thì người đông như kiến, chen vai thích cánh, dưới nước thì thuyền tựa lá tre, san sát liền nhau. Chợt thấy ở thuyền bên có một nữ lang đang ngồi cặm cụi thêu giày, Quế Am thầm nghĩ chắc là con gái chủ thuyền, bèn liếc mắt nhìn sang. Thấy nữ lang có nhan sắc vô cùng diễm lệ, Quế Am động tâm, đứng nhìn không chớp mắt. Nữ lang cũng biết là ở thuyền bên có người đang đứng nhìn mình, nhưng cứ giả vờ như chẳng biết. Quế Am bèn cất giọng ngâm bài Gái Lạc Dương thêu giày trong cổng của một thi sĩ đương thời, cốt để nữ lang nghe tiếng. Biết người ấy ngâm thơ ghẹo mình, nữ lang chỉ ngửng đầu liếc nhìn rồi lại cúi xuống cặm cụi thêu giày. Bắt gặp cái nhìn của nữ lang, Quế Am bủn rủn chân tay, tâm thần mê mẩn. Lát sau, khi đã định thần, Quế Am mở bọc lấy một đĩnh vàng, ném sang cạnh nữ lang. Nữ lang nhặt lấy, ném lên bờ, tựa hồ như chẳng biết đó là vàng. Quế Am vội lên bờ nhặt lại, rồi xuống thuyền, mở bọc lấy một xuyến vàng ném sang. Lần này, nữ lang cứ lờ đi, coi như chẳng biết. Quế Am còn đang nghĩ cách làm cho nữ lang phải chú ý tới mình thì bỗng thấy một ông lão từ trên bờ bước xuống thuyền nữ lang. Thầm đoán ông lão là thân phụ của nữ lang, Quế Am lại lo rằng ông lão sẽ nhìn thấy chiếc xuyến. Còn đang nghĩ cách đối phó với cảnh tình bất lợi, bỗng Quế Am thấy nữ lang lấy một đôi giày thêu đặt phủ lên chiếc xuyến. Quế Am mừng quá, trong bụng cứ thầm cám ơn nữ lang. Bỗng thấy ông lão nhổ neo, lái thuyền lên hướng bắc, Quế Am cứ đứng thẫn thờ nhìn theo. Lát sau, như sực nhớ ra điều gì, Quế Am vội chạy vào khoang nói với chủ thuyền. Chủ thuyền liền cho thuyền đuổi theo thuyền ông lão song vì thuyền ông lão lướt nhanh quá, chủ thuyền đành phải quay lại.
Thu xếp xong công việc, Quế Am thuê thuyền ngược bắc. Về nhà, hình bóng giai nhân cứ ám ảnh tâm trí suốt ngày đêm, kể cả lúc ăn lúc ngủ. Quế Am cố công dò hỏi tin tức của giai nhân song chẳng được tin tức gì.
Năm sau. Một hôm có việc lại phải xuống Hà Nam, Quế Am quyết tâm đem theo nhiều tiền bạc để ở lại lâu ngày hầu tìm kiếm giai nhân. Thu xếp xong công việc, Quế Am mua hẳn một chiếc thuyền, thả neo ở bến để cư ngụ. Hàng ngày, Quế Am chỉ ngồi quan sát thuyền bè ngược xuôi qua bến, cầu Trời khấn Phật cho mình được gặp lại giai nhân. Nửa năm sau, Quế Am thuộc lòng từng cột buồm, từng mái chèo của mỗi con thuyền xuôi ngược song vẫn chưa dò hỏi được tin tức của giai nhân. Nửa năm sau nữa, tiền lưng đã cạn, Quế Am đành phải thuê người lái thuyền ngược bắc. Về nhà, Quế Am cứ thẫn thờ như kẻ mất hồn, suốt ngày thở vắn than dài, chẳng lúc nào quên được hình bóng giai nhân.
Một đêm, Quế Am thả bộ dọc theo một bờ sông lạ, rồi quá bước, lạc vào một tiểu thôn. Đi qua mấy ngôi nhà quay mặt về hướng bắc, Quế Am thấy một cổng gỗ quay mặt về hướng nam, trong có treo một bức rèm trúc. Đưa mắt nhìn qua rèm, Quế Am thấy một vườn hoa. Nghĩ rằng đó là công viên, Quế Am bước vào coi thì thấy vườn trồng toàn cây mã anh, tơ hồng giăng đầy cành. Thấy hiện cảnh giống hệt phong cảnh trong bài Cây mã anh trồng trong cổng gỗ của một thi sĩ đương thời, Quế Am thầm nghĩ chắc tác giả bài thơ ấy đã phải đặt chân tới nơi đây rồi! Bước vào trong, Quế Am thấy ở cuối vườn có một hàng rào lau sậy. Băng qua hàng rào, Quế Am thấy một ngôi nhà ba gian, cũng quay mặt về hướng nam, cửa đóng im lìm. Quế Am bèn bước tới bụi chuối ở đầu hồi phía đông, lén dòm qua cửa sổ. Thấy trong phòng có một giá áo trên có treo một chiếc quần thêu, Quế Am biết là phòng ngủ của phụ nữ nên kinh hãi quá, vội quay người trở ra. Đang dợm bước bỏ đi, bỗng Quế Am nghe có tiếng mở cửa, rồi thấy một nữ lang, điểm trang sơ sài, từ trong phòng chạy ra, đảo mắt nhìn quanh, tựa hồ như để tìm kiếm kẻ dòm lén. Nhận ra nữ lang chính là giai nhân ở bến Hà Nam hai năm về trước, Quế Am mừng quá, vội chắp tay vái chào, nói:"Bấy lâu nay, tiểu sinh vẫn dò hỏi tin tức của nương tử song chẳng được tin tức gì! Bữa nay tình cờ lại được gặp nương tử ở nơi đây! Nương tử có nhận ra tiểu sinh chăng?" Còn đang chờ câu trả lời của giai nhân, bỗng Quế Am thấy ông lão lái thuyền năm xưa từ vườn bước vào sân. Kinh hãi quá, Quế Am tỉnh giấc, biết là mình nằm mộng. Tiếc giấc mộng, Quế Am lại nhắm mắt ngủ, hy vọng được thấy lại mộng cảnh cũ, song chẳng thấy gì. Tuy nhiên, Quế Am vẫn tin rằng giấc mộng là một điềm báo trước, cho mình biết sắp được gặp lại giai nhân. Quế Am giấu kín câu chuyện nằm mộng, chẳng dám thuật cho ai nghe, vì tin rằng nếu có người khác biết thì giấc mộng sẽ chẳng thể thành sự thực.
Năm sau. Một hôm Quế Am có việc phải đi Chấn Giang. Tới nơi, vào quán trọ, Quế Am viết thiếp trình với Từ thái bộc rằng mình vừa tới Chấn Giang và khất rằng sau khi thu xếp xong công việc, sẽ xin tới thăm thái bộc. Sau đó, Quế Am thuê người đưa thiếp tới nhà thái bộc. Thái bộc nhận được thiếp thì mừng lắm, vội sai gia nhân tìm tới quán trọ, mời Quế Am năm hôm nữa, tới nhà mình dự tiệc vào buổi trưa. Quế Am nhờ gia nhân về trình lại với thái bộc rằng mình sẽ xin tuân lệnh. Mới được ba hôm, Quế Am đã thu xếp xong công việc nên phải lưu lại quán trọ để chờ ngày tới thăm thái bộc.
Đúng ngày, Quế Am dậy sớm sửa soạn y phục rồi cưỡi ngựa tới nhà thái bộc. Vì còn sớm, Quế Am buông cương cho ngựa bước tự do. Lát sau, ngựa lạc vào một tiểu thôn. Thấy hiện cảnh phảng phất như mộng cảnh năm ngoái, Quế Am bèn rong ngựa tới chiếc cổng gỗ bỏ ngỏ thì thấy trong cổng có treo một bức rèm trúc. Đưa mắt nhìn qua rèm thì thấy có một vườn trồng toàn cây mã anh. Vừa kinh ngạc, vừa hồi hộp, Quế Am bèn rong ngựa vào vườn. Thấy ở cuối vườn có hàng rào lau sậy với ngôi nhà ba gian như trong mộng cảnh, Quế Am càng tin rằng giấc mộng năm ngoái là một điềm báo trước. Quế Am bèn xuống ngựa, dắt qua hàng rào, buộc ở góc sân, rồi bước tới đầu hồi phía đông, lén dòm qua cửa sổ. Thấy một nữ lang đang ngồi điểm trang ở trong phòng, Quế Am định thần nhìn kỹ thì thấy chính là giai nhân ở bến Hà Nam ba năm về trước. Giai nhân biết có kẻ dòm lén, bèn lớn tiếng, quát:"Kẻ kia là ai mà dám tự tiện xông vào nhà người ta như thế?" rồi đứng dậy, chạy ra sập cửa sổ xuống. Quế Am hoang mang chẳng biết là mình đang tỉnh hay mơ, song cũng đáp:"Nương tử chẳng nhận ra kẻ đã ném xuyến sang thuyền nương tử ba năm về trước hay sao?" Vừa dứt lời, Quế Am liền nghe thấy tiếng giai nhân vọng lại:"Ủa! Thế ra công tử là người ở bến Hà Nam năm nọ đó ư? Công tử đi đâu mà lại lạc vào đây?" Đáp:"Tiểu sinh cưỡi ngựa đi thăm một người quen, chẳng dè lại lạc vào đây! Thấy hiện cảnh giống mộng cảnh năm ngoái nên tiểu sinh mới đánh bạo vào đây để tìm nương tử!" Hỏi: "Quý tính là chi?" Đáp: "Họ Vương, tên Quế Am" Hỏi: "Quý quán ở đâu?" Đáp: "Huyện Đại Danh, tỉnh Hà Bắc" Hỏi: "Lệnh tôn làm gì?" Đáp: "Gia phụ trước kia làm triều quan, song nay đã thất lộc" Hỏi: "Lệnh đường còn tại thế không?" Đáp: "Gia mẫu mất đã từ lâu!" Nói: "Công tử là con nhà quan thì muốn tìm gặp bao nhiêu người đẹp mà chẳng được, cần chi phải tới đây tìm gặp thiếp?" Đáp: "Nương tử lầm rồi! Nếu chẳng phải là vì nương tử mà bị đau khổ từng giờ từng phút trong suốt ba năm qua thì tiểu sinh đã lập gia thất từ lâu rồi!" Nói: "Thiếp nói thế thôi, chứ thiếp cũng biết là công tử có cảm tình với thiếp! Năm xưa, thoáng thấy tướng mạo công tử, thiếp đã đoán là người chung thủy. Vì thế, thiếp tin là thế nào rồi công tử cũng sẽ tìm gặp thiếp. Gần đây, có mấy người tới làm mai, cha thiếp hỏi ý, thiếp đều từ chối! Giờ đây, nghe giọng nói chân thành của công tử, thiếp lại càng tin là mình đoán đúng!" Hỏi: "Chiếc xuyến năm xưa, nương tử còn giữ không?" Đáp:"Vẫn còn đây!" Hỏi:"Song thân nương tử đâu?" Đáp:"Gia mẫu mất rồi, còn gia phụ thì đi vắng. May mà hôm nay gia phụ sang thăm bên ngoại chứ người mà ở nhà thì chắc là rắc rối to!" Hỏi:"Tiểu sinh muốn được kết nghĩa phu thê cùng nương tử, chẳng hay ý nương tử thế nào?" Đáp: "Nếu công tử nhờ bà mối tới đây thưa chuyện cùng gia phụ để người hỏi ý thiếp thì thiếp sẽ xin vâng. Còn nếu công tử muốn thiếp bỏ nhà trốn theo công tử thì thiếp chẳng thể nào vâng lời được!" Hỏi: "Nương tử có thể thưa lại việc này với lệnh tôn chăng?" Đáp: "Chẳng thể được! Thôi, công tử về đi, kẻo gia phụ về bất thần thì thiếp chẳng biết phải ăn nói làm sao!" Vì sung sướng quá, Quế Am đâm ra nể sợ giai nhân, nên khi thấy giai nhân giục về, Quế Am vội tuân lệnh, tháo ngựa cưỡi đi, quên bẵng những điều mình định hỏi. Bỗng giai nhân gọi giật lại:"Vương công tử!" Quế Am liền dừng cương, hỏi: "Nương tử muốn dạy bảo điều chi?" Giai nhân hỏi lại: "Công tử đã biết tên thiếp chưa?" Lúc đó Quế Am mới như người tỉnh mộng, đáp: "Chưa! Đột nhiên tâm trí tiểu sinh bị u mê, chẳng còn nhớ là định hỏi nương tử những điều gì nữa!" Giai nhân nói:"Tên thiếp là Vân Nương!" Quế Am nhẩm kỹ rồi lại dợm cưỡi ngựa đi. Giai nhân lại hỏi: "Thế công tử đã biết họ tên gia phụ chưa?" Đáp: "Cũng chưa!" Nói: "Gia phụ họ Mạnh, tên Giang Ly!" Quế Am lại nhẩm kỹ rồi cưỡi ngựa ra đi.
Tới nhà thái bộc, Quế Am buộc ngựa ở ngoài cổng rồi vào trình diện. Thái bộc vồn vã đón tiếp, giới thiệu với trưởng nam Từ Đại, rồi hỏi thăm về gia cảnh. Lát sau, thái bộc bảo Quế Am cùng nhập tiệc với mình và Từ Đại. Vì Quế Am đang để tâm trí tận đâu đâu nên trong tiệc, thái bộc và Từ Đại hỏi câu gì thì Quế Am trả lời câu ấy chứ chẳng hề khơi chuyện trước. Thấy thế, thái bộc cho rằng Quế Am là người ít nói. Tiệc vừa tan, Quế Am đã vội đứng dậy xin cáo biệt. Cha con thái bộc bèn tiễn Quế Am ra về.
Dọc đường về, khi cưỡi ngựa qua nhà Mạnh ông, Quế Am thầm nghĩ chắc giờ này Mạnh ông đã về nên chỉnh lại y phục rồi ghé vào xin gặp. Mạnh ông đang ngồi trong phòng khách, chợt thấy một công tử ăn mặc sang trọng bước vào nhà, bèn chạy ra hỏi: "Công tử là ai?" Quế Am đáp: "Thưa lão trượng tiểu sinh là một học trò ở huyện Đại Danh, tỉnh Hà Bắc, họ Vương, tên Quế Am! Hôm nay, tiểu sinh mạo muội tới đây để xin được thưa chuyện cùng lão trượng!" Thấy người phong nhã, ăn nói lễ độ, Mạnh ông bèn mời vào phòng khách. Sau một tuần trà, Mạnh ông hỏi:"Công tử có chuyện chi muốn nói?" Đáp: "Thưa lão trượng, cách đây hơn ba năm, một hôm tình cờ tiểu sinh được nhìn thấy lệnh ái ngồi thêu giày trên một chiếc thuyền đậu ở bến Hà Nam. Tiểu sinh chưa tìm được cách cầu thân với lệnh ái thì lão trượng đã cho thuyền ngược bắc. Trong suốt ba năm qua, tiểu sinh vẫn để tâm dò hỏi nơi cư trú của lão trượng song chưa dò hỏi được! Nay có việc phải tới Chấn Giang, tình cờ tiểu sinh được biết lão trượng cư trú ở nơi đây. Vì tiểu sinh chưa lập gia thất nên hôm nay tiểu sinh mạo muội tới đây để xin lão trượng nhận cho tiểu sinh được làm tế tử trong nhà!" Hỏi: "Công tử có thể cho lão phu biết lệnh tôn là ai chăng?" Đáp: "Thưa lão trượng, gia phụ trước kia làm triều quan, song nay đã thất lộc!" Hỏi: "Thế còn lệnh đường?" Đáp: "Thưa lão trượng, gia mẫu mất đã từ lâu!" Rồi Quế Am đứng bật dậy, nói: "Xin lão trượng cho phép tiểu sinh được ra lấy sính lễ đem vào!" Mạnh ông vội ngăn lại, nói: "Xin công tử cảm phiền, lão phu mới nhận gả tiện nữ cho người khác rồi!" Nghe thấy thế, Quế Am choáng váng mặt mày, cứ đứng ngây người như tượng gỗ. Lát sau, như tỉnh cơn mê, Quế Am chẳng biết nói chi thêm, đành chắp tay vái chào Mạnh ông, xin phép được ra về. Mạnh ông bèn tiễn chân ra cổng.
Về quán trọ, Quế Am cứ thắc mắc chẳng hiểu lời nói của Mạnh ông là thực hay hư. Vì thế, Quế Am cứ trằn trọc suốt đêm, chẳng sao ngủ được. Chợt nghĩ có thể là vì mình đường đột tới nhà, chẳng nhờ người mối lái, làm Mạnh ông tức giận mà từ chối khéo chăng, Quế Am lại cảm thấy còn hy vọng, tinh thần phấn khởi. Quế Am bèn nằm suy nghĩ xem mình nên nhờ ai làm mối. Thoạt tiên, thấy ở Chấn Giang, ngoài Từ thái bộc, mình chẳng quen ai, Quế Am nảy ý muốn nhờ thái bộc. Nhưng rồi, lại sợ thái bộc cười là con nhà thế tộc mà đi hỏi cưới con nhà chủ thuyền, Quế Am lại ngập ngừng. Rồi lại tự nhủ nếu chẳng nhờ thái bộc thì biết nhờ ai? Cuối cùng Quế Am quyết tâm tới nhờ thái bộc. Sáng sau, Quế Am dậy sớm sửa soạn y phục, rồi cưỡi ngựa tới nhà thái bộc. Tới nơi, Quế Am trình bày câu chuyện Vân Nương với thái bộc, rồi thưa:"Thưa thế phụ, vì gia nghiêm mất sớm nên tiểu điệt xin thế phụ thay gia nghiêm mà lo giùm việc trăm năm cho tiểu điệt!" Thái bộc hỏi:"Thế thân phụ của Vân Nương là ai?" Đáp: "Thưa thế phụ, là Mạnh ông, húy Giang Ly!" Thái bộc giật mình, nói: "Tưởng là ai chứ Mạnh Giang Ly thì là chỗ ngoại thích của ta! Hiền điệt muốn làm rể nhà ấy thì để ta nói cho!" Hỏi: "Thưa thế phụ, Mạnh ông có liên hệ ra sao với thế phụ?" Đáp: "Tổ phụ của Giang Ly là bào đệ của tổ mẫu ta" Rồi tiếp: "Sao chẳng nói với ta từ trước mà lại đường đột tới nhà Giang Ly cho sinh chuyện?" Đáp: "Vì tiểu điệt sợ thế phụ cười là con nhà thế tộc mà đi hỏi cưới con nhà chủ thuyền!" Nghe thấy thế, thái bộc bỗng tỏ vẻ hoài nghi, nói: "Chẳng biết Giang Ly mà hiền điệt nói đây có phải là ngoại thích của ta không vì trong thiên hạ thiếu gì người trùng tên trùng họ! Ngoại thích của ta tuy nghèo thực song có làm nghề chủ thuyền bao giờ đâu? Hay là hiền điệt có lầm chăng? Thôi, để ta thử cho người tới hỏi xem sao!" Rồi gọi trưởng nam lên, dặn dò cặn kẽ mọi điều, sai tới nhà Mạnh ông.
Từ Đại vâng lệnh cha, cưỡi ngựa tới nhà Mạnh ông. Nhận ra Mạnh ông đúng là người cậu họ của mình, Từ Đại bèn chắp tay vái chào rồi lên tiếng: "Thưa cữu phụ, gia phụ sai tiểu điệt tới đây để hỏi xem cữu phụ đã nhận gả Vân muội cho ai chưa?" Mạnh ông đáp: "Chưa! Song quan thái bộc hỏi để làm chi?" Từ Đại đáp: "Thưa cữu phụ, gia phụ muốn xin cữu phụ gả Vân muội cho con của một người bạn gia phụ!" Hỏi: "Công tử ấy tên chi?" Đáp: "Thưa cữu phụ, tên Quế Am, họ Vương!" Hỏi: "Có phải là công tử hôm qua đã tới đây để xin hỏi cưới em Vân Nương đó không?" Đáp: "Dạ, thưa phải!" Nói: "Ta đã trả lời cho công tử biết rồi mà!" Đáp: "Thưa cữu phụ, nhưng hôm qua cữu phụ lại nói là cữu phụ đã nhận gả Vân muội cho người khác!" Mạnh ông cười, nói: "Vì công tử coi thường gia đình ta quá, tự nhiên sồng sộc tới nhà ta, chẳng nhờ ai mối lái. Vả lại, công tử nói là chưa lập gia thất song ta cũng chẳng tin, chỉ sợ công tử muốn lấy em Vân Nương về làm thứ thất thôi! Rồi lại còn việc công tử đang ngồi nói chuyện với ta mà đứng bật dậy, đòi ra lưng ngựa lấy sính lễ đem vào. Chắc công tử nghĩ rằng ta nghèo, thấy vàng ắt phải động tâm nên mới có hành động như thế. Tuy ta nghèo thực song ta chẳng tham tiền, chẳng muốn gả em Vân Nương như bán một đồ vật. Nay công tử đã phải tới nhờ quan thái bộc đứng ra làm mối thì ta tin là công tử chưa lập gia thất. Tuy nhiên, em Vân Nương bướng bỉnh lắm. Mấy đám con nhà đàng hoàng tử tế tới hỏi, nó đều từ chối. Vậy hiền điệt hãy ngồi đây chơi để ta vào hỏi ý nó xem sao? Có thế nào, ta sẽ ra trả lời cho hiền điệt biết để về trình lại với quan thái bộc!" Nói xong, Mạnh ông đứng dậy, vào nhà trong. Lát sau, Mạnh ông trở ra, nói:"Hiền điệt về trình lại với quan thái bộc rằng ta xin tuân lệnh!" Từ Đại nói: "Vì Quế Am sắp phải về Hà Bắc, kính xin cữu phụ ấn định cho các ngày nạp thái và nghênh hôn để tiểu điệt có thể về trình lại với gia phụ!" Mạnh ông bèn lấy lịch ra coi, chọn ngày nạp thái, ngày nghênh hôn rồi nói cho Từ Đại biết. Từ Đại bèn cám ơn Mạnh ông rồi xin phép ra về.
Tới nhà, Từ Đại trình lại với cha. Thái bộc bèn cho gọi Quế Am lên, báo tin cho biết. Nghe tin, Quế Am cực kỳ vui sướng. Thái bộc nói:"Bây giờ, ta cho hiền điệt mượn một căn phòng ở nhà ta mà làm lễ nghênh hôn. Cưới xong, ở lại đây chơi ít bữa rồi hãy dắt vợ về Hà Bắc" Quế Am càng vui sướng, cám ơn thái bộc rối rít rồi xin phép được ra chợ sắm sửa nữ trang cho Vân Nương.
Vào ngày nạp thái, thái bộc dẫn Quế Am tới nhà Mạnh ông nạp sính lễ. Vào ngày nghênh hôn, thái bộc sai gia nhân dựng rạp, tổ chức lễ cưới thực linh đình, rồi dẫn Quế Am cùng khách khứa, gia nhân tới nhà Mạnh ông đón dâu. Tối đến, tiệc cưới thực là náo nhiệt. Đêm hợp cẩn, hai vợ chồng Quế Am rất tương đắc.
Ba hôm sau, Quế Am xin phép thái bộc cho mình được đưa vợ về Hà Bắc. Thái bộc ưng thuận, rồi sai Từ Đại tiễn hai vợ chồng ra tận bến sông.
Đêm ấy, nằm dưới thuyền, hai vợ chồng thủ thỉ ôn chuyện cũ. Quế Am hỏi:"Nàng còn nhớ hôm chúng mình mới gặp nhau, ta ném xuyến sang thuyền nàng không?" Vân Nương đáp:"Nhớ chứ! Hôm ấy, thoạt nhìn thấy chàng, thiếp đã nghĩ chàng là một nho sinh phong nhã, nên muốn làm quen. Thế nhưng, khi thấy chàng ném vàng với xuyến sang thì thiếp lại nghĩ chàng là một kẻ khinh bạc, chuyên dùng của cải để rủ rê đãng phụ, nên thiếp đổi ý, chẳng muốn làm quen nữa. Tuy cha thiếp nghèo, song cha thiếp vẫn dạy thiếp chẳng được tham của phù vân. Lúc ấy, thiếp cười là chàng có con mắt mà chẳng có con ngươi, toan lấy vàng để làm chuyển lòng thiếp. Cha thiếp mà thấy được chiếc xuyến thì chắc chắn là chàng đã bị rắc rối to, đâu còn có ngày nay? Chàng đã thấy thiếp thương chàng chưa?" Quế Am không đáp mà hỏi lại:"Hôm ấy, cha vừa từ trên bờ xuống đã vội lái thuyền đi đâu thế?" Đáp:"Cha thiếp thuê thuyền, lái lên Giang Bắc, thăm chú Giang Đoài!" Hỏi:"Thế còn chuyện hôm ta tới xin hỏi nàng, sao cha lại nói là cha đã nhận gả nàng cho người khác?" Đáp:"Vì cha thiếp ngờ là chàng đã có chính thất, chỉ muốn lấy thiếp về làm thứ thất thôi!" Quế Am bỗng cười lớn, nói:"Cha tinh thực. Chỉ có nàng ngây thơ nên mới bị mắc bẫy của ta!" Vân Nương hỏi: "Bẫy gì?" Quế Am chẳng đáp. Vân Nương cứ gặng hỏi mãi:"Bẫy gì? Bẫy gì?" Bấy giờ Quế Am mới mỉm cười, đáp: "Bẫy lường gạt chứ còn bẫy gì!" Hỏi:"Chàng lường gạt thiếp chuyện gì?" Đáp:"Chuyện ta chưa lập gia thất! Bây giờ ván đã đóng thuyền, chúng mình cũng sắp về tới nhà rồi, ta chẳng thể giấu được nàng nữa, đành phải thú thực với nàng rằng ta đã có chính thất!" Vân Nương chẳng tin, nói:"Chàng nói đùa! Làm chi có chuyện đó!" Quế Am nghiêm nét mặt, đáp:"Ta nói thực đó! Chính thất của ta tên Phong Nương, ái nữ của quan thượng thư họ Ngô ở kinh đô!" Nghe thấy thế, Vân Nương bỗng thất sắc, chẳng nói chi thêm, chỉ nằm im lặng.
Lát sau, Vân Nương bỗng vùng dậy, từ trong khoang chạy vọt lên mui. Thấy thế, Quế Am cực kỳ kinh hãi, cũng vùng dậy, chạy theo, chẳng kịp xỏ giày. Vừa lên tới mui, bỗng nghe thấy có tiếng người nhảy ùm xuống nước, Quế Am vội tri hô ầm ĩ. Cả thuyền náo động, kinh hoàng. Chủ thuyền vội sai bốn chân sào nhảy xuống tìm vớt. Thế nhưng vì đêm tối như mực, chẳng ai nhìn thấy Vân Nương đâu mà chỉ nhìn thấy ánh sao lấp lánh khắp mặt sông. Chủ thuyền bèn cho thả neo giữa dòng để tìm vớt. Quế Am cực kỳ hối hận về việc mình đã nói đùa vợ để đến nỗi xảy ra cơ sự này! Quế Am chẳng dám hé môi nói cho ai biết, chỉ ngồi trên mui, ôm đầu khóc suốt đêm. Sáng sau, Quế Am bỏ tiền ra nhờ chủ thuyền thuê thợ lặn mò vớt Vân Nương song thợ lặn mò từ sáng tới chiều cũng chẳng thấy chi. Trời tối, chủ thuyền đành cho thuyền nhổ neo lên đường.
Về nhà, Quế Am buồn bã, bỏ ăn bỏ ngủ, thân hình tiều tụy. Người lão bộc thân tín lân la tới hỏi nguyên do, Quế Am bèn thuật lại cho nghe. Quế Am lại sợ Mạnh ông tới thăm thì chẳng biết sẽ phải đối đáp ra sao. Song, may cho Quế Am là Mạnh ông đang bận việc nhà nên chưa có thì giờ liên lạc với con và rể.
Buồn quá, Quế Am giao hết gia vụ cho người lão bộc rồi xuống Hà Nam thăm người anh rể làm quan tại đó. Người chị thấy em buồn thì hỏi nguyên do. Quế Am bèn thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong, người chị bảo Quế Am cứ ở lại chơi cho khuây khỏa, khi nào hết buồn thì hãy về. Thời gian rồi cũng làm vơi mối sầu.
Hai năm sau. Quế Am xin phép anh chị cho mình trở về Hà Bắc. Thấy em đã hết buồn, người chị để cho về. Dọc đường, gặp trời mưa, Quế Am vào trú mưa dưới mái hiên của một ngôi nhà bên đường. Nhìn vào phòng khách Quế Am thấy có một bà vú đang nô đùa với một đứa bé. Đứa bé nhìn thấy Quế Am thì tự nhiên cứ giơ hai tay ra, đòi bế. Quế Am lấy làm lạ song vì thấy đứa bé dễ thương nên chạy vào xin bế nó ra hiên. Bà vú thuận cho. Lát sau bà vú chạy ra xin lại thì đứa bé nhất định không chịu theo bà vú. Khi trời tạnh mưa, Quế Am bế đứa bé vào nhà trả bà vú rồi khoác hành lý lên vai thì đứa bé bỗng khóc thét lên, bập bẹ nói:"Bố đi rồi! Bố đi rồi!" Bà vú ngượng quá, mắng nó. Nó càng khóc lớn. Bà vú dỗ mãi song nó chẳng chịu nín. Bà vú đành bế nó vào nhà trong. Quế Am toan đi thì bỗng thấy một nữ lang bế đứa bé từ nhà trong bước ra. Nhìn kỹ, Quế Am bàng hoàng cả người vì thấy nữ lang chính là Vân Nương, vợ mình. Chợt Vân Nương lên tiếng:"Phụ tình lang! Để cục thịt này lại cho người ta. Bây giờ hãy đem nó đi đi!" Lúc đó Quế Am mới biết rằng đứa bé chính là con mình. Bị nỗi chua cay vò xé ruột gan, Quế Am vội thốt: "Trước kia ta chỉ nói đùa nàng thế thôi chứ ta đã có chính thất nào đâu!"Vân Nương nói: "Chẳng tin được!" Quế Am bèn chỉ trời vạch đất mà thề, thuật lại sự thực cho vợ nghe. Lúc bấy giờ Vân Nương mới tin, đổi giận làm buồn, nhìn Quế Am mà khóc. Quế Am cũng chảy nước mắt, nói: "Nàng hãy thuật cho ta nghe kể từ lúc nàng trầm mình xuống sông! Làm thế nào mà nàng còn sống sót để lưu lạc tới đây?" Vân Nương bèn thuật:"Chủ ngôi nhà này là Mạc ông với Mạc bà, cùng ngoài sáu mươi tuổi, cư ngụ ở đây với một bà vú và một gia nhân. Hai năm về trước, ông bà sai gia nhân lái thuyền chở cả nhà xuống Hà Nam du ngoạn. Lượt về, đúng vào đêm thiếp trầm mình, ông bà bảo gia nhân neo thuyền ở bên sông để nghỉ. Bị sóng cuốn đi, thiếp đụng vào thuyền của ông bà. Ông bà bèn sai gia nhân nhảy xuống vớt thiếp lên. Thấy thiếp còn thoi thóp thở, ông bà ra sức cấp cứu. Tới gần sáng, thiếp tỉnh lại. Ông bà hỏi chuyện, thiếp kể đầu đuôi. Ông bà bèn nhận thiếp làm con nuôi, chở về cho ở chung. Ba tháng sau, ông bà muốn gả chồng cho thiếp song thiếp chẳng chịu. Mười tháng sau, thiếp hạ sanh thằng bé này, đặt tên là Vương Ký Sinh. Hôm nay là sinh nhật đầu tiên của nó!" Quế Am bèn thở phào nhẹ nhõm rồi bỏ hành lý trên vai xuống, nói: "Nàng hãy dắt ta vào nhà trong chào ông bà đi!" Vân Nương gật đầu rồi dắt Quế Am vào nhà trong. Gặp ông bà Mạc, Quế Am vội chắp tay cúi đầu thi lễ. Ông bà cũng gật đầu đáp lễ. Nghe Vân Nương trình bày mọi chuyện, ông bà mừng lắm. Quế Am nói:"Tiểu sinh xin đa tạ ông bà đã thi ân cứu mạng cho tiện nội. Nay tiểu sinh xin ông bà cho tiểu sinh được nhận ông bà làm nhạc phụ mẫu!" Mạc ông nói:"Dĩ nhiên là vợ chồng lão phu ưng thuận rồi! Thế nhưng, hãy ở lại đây chơi với vợ chồng lão phu một tuần rồi hãy đưa vợ con về!" Tuy muốn đưa vợ con về ngay song vì nể lời Mạc ông, Quế Am đành phải ở lại.
Tuần sau, Quế Am xin phép ông bà cho mình được đưa vợ con về Hà Bắc. Ông bà vui vẻ tiễn chân hai vợ chồng và đứa con ra về.
Ở nhà Quế Am, Mạnh ông tới chơi đã được hơn hai tháng. Khi mới tới, nghe người lão bộc thuật chuyện Vân Nương trầm mình, Mạnh ông hốt hoảng song vẫn chưa tin. Mạnh ông bèn ở nán lại, chờ Quế Am về để hỏi cho rõ đầu đuôi câu chuyện.
Sáng ấy, người lão bộc ra mở cổng thì chợt thấy Quế Am về, dẫn theo một nữ lang bồng một đứa bé trên tay. Người lão bộc bèn hoán hô ầm ĩ. Cả nhà cùng chạy ùa ra cổng để đón chào, vui mừng tíu tít. Khi vào phòng khách, Quế Am nhìn thấy Mạnh ông thì vừa mừng vừa sợ, còn Vân Nương thì vừa tủi vừa mừng, chạy tới ôm chầm lấy cha mà khóc. Mạnh ông khuyên giải con rồi hỏi chuyện trầm mình. Vân Nương thuật lại đầu đuôi cho cha nghe. Mạnh ông bèn quyết định ở lại thêm một tuần để chơi với con và cháu. Tuần sau, Mạnh ông ra về.
Từ đó, Quế Am và Vân Nương chung sống rất tương đắc trong cảnh gia đình đầm ấm, cạnh đứa con trai cùng người lão bộc và đám gia nhân.
Phải chăng muốn được hưởng hạnh phúc lâu dài, ai cũng phải trải qua một khúc chông gai, như người đời thường nói?
Mã anh hoa hạ trúc ly tà
Mộng cảnh tầm lai lộ bất soa
Tái đắc mỹ nhân giang thượng khứ
Cựu đình nhiêu xứ lãng như hoa
Huyện Đại Danh, tỉnh Hà Bắc, có nho sinh họ Vương, tên Quế Am, hai mươi lăm tuổi, còn độc thân, dòng dõi thế tộc. Song thân mất sớm, để lại một gia tài khá lớn. Sinh thời, thân phụ là bạn thâm giao với quan thái bộc họ Từ ở thủ phủ Chấn Giang, tỉnh Giang Tô.
Năm ấy, một hôm Quế Am có việc phải xuống Hà Nam, ra bờ sông Đại Danh thuê thuyền thủy hành. Khi thuyền cập bến Hà Nam, Quế Am mở bọc lấy tiền trả chủ thuyền rồi xách bọc lên mui. Đảo mắt nhìn quanh, thấy quang cảnh ở bến thực là náo nhiệt, trên bộ thì người đông như kiến, chen vai thích cánh, dưới nước thì thuyền tựa lá tre, san sát liền nhau. Chợt thấy ở thuyền bên có một nữ lang đang ngồi cặm cụi thêu giày, Quế Am thầm nghĩ chắc là con gái chủ thuyền, bèn liếc mắt nhìn sang. Thấy nữ lang có nhan sắc vô cùng diễm lệ, Quế Am động tâm, đứng nhìn không chớp mắt. Nữ lang cũng biết là ở thuyền bên có người đang đứng nhìn mình, nhưng cứ giả vờ như chẳng biết. Quế Am bèn cất giọng ngâm bài Gái Lạc Dương thêu giày trong cổng của một thi sĩ đương thời, cốt để nữ lang nghe tiếng. Biết người ấy ngâm thơ ghẹo mình, nữ lang chỉ ngửng đầu liếc nhìn rồi lại cúi xuống cặm cụi thêu giày. Bắt gặp cái nhìn của nữ lang, Quế Am bủn rủn chân tay, tâm thần mê mẩn. Lát sau, khi đã định thần, Quế Am mở bọc lấy một đĩnh vàng, ném sang cạnh nữ lang. Nữ lang nhặt lấy, ném lên bờ, tựa hồ như chẳng biết đó là vàng. Quế Am vội lên bờ nhặt lại, rồi xuống thuyền, mở bọc lấy một xuyến vàng ném sang. Lần này, nữ lang cứ lờ đi, coi như chẳng biết. Quế Am còn đang nghĩ cách làm cho nữ lang phải chú ý tới mình thì bỗng thấy một ông lão từ trên bờ bước xuống thuyền nữ lang. Thầm đoán ông lão là thân phụ của nữ lang, Quế Am lại lo rằng ông lão sẽ nhìn thấy chiếc xuyến. Còn đang nghĩ cách đối phó với cảnh tình bất lợi, bỗng Quế Am thấy nữ lang lấy một đôi giày thêu đặt phủ lên chiếc xuyến. Quế Am mừng quá, trong bụng cứ thầm cám ơn nữ lang. Bỗng thấy ông lão nhổ neo, lái thuyền lên hướng bắc, Quế Am cứ đứng thẫn thờ nhìn theo. Lát sau, như sực nhớ ra điều gì, Quế Am vội chạy vào khoang nói với chủ thuyền. Chủ thuyền liền cho thuyền đuổi theo thuyền ông lão song vì thuyền ông lão lướt nhanh quá, chủ thuyền đành phải quay lại.
Thu xếp xong công việc, Quế Am thuê thuyền ngược bắc. Về nhà, hình bóng giai nhân cứ ám ảnh tâm trí suốt ngày đêm, kể cả lúc ăn lúc ngủ. Quế Am cố công dò hỏi tin tức của giai nhân song chẳng được tin tức gì.
Năm sau. Một hôm có việc lại phải xuống Hà Nam, Quế Am quyết tâm đem theo nhiều tiền bạc để ở lại lâu ngày hầu tìm kiếm giai nhân. Thu xếp xong công việc, Quế Am mua hẳn một chiếc thuyền, thả neo ở bến để cư ngụ. Hàng ngày, Quế Am chỉ ngồi quan sát thuyền bè ngược xuôi qua bến, cầu Trời khấn Phật cho mình được gặp lại giai nhân. Nửa năm sau, Quế Am thuộc lòng từng cột buồm, từng mái chèo của mỗi con thuyền xuôi ngược song vẫn chưa dò hỏi được tin tức của giai nhân. Nửa năm sau nữa, tiền lưng đã cạn, Quế Am đành phải thuê người lái thuyền ngược bắc. Về nhà, Quế Am cứ thẫn thờ như kẻ mất hồn, suốt ngày thở vắn than dài, chẳng lúc nào quên được hình bóng giai nhân.
Một đêm, Quế Am thả bộ dọc theo một bờ sông lạ, rồi quá bước, lạc vào một tiểu thôn. Đi qua mấy ngôi nhà quay mặt về hướng bắc, Quế Am thấy một cổng gỗ quay mặt về hướng nam, trong có treo một bức rèm trúc. Đưa mắt nhìn qua rèm, Quế Am thấy một vườn hoa. Nghĩ rằng đó là công viên, Quế Am bước vào coi thì thấy vườn trồng toàn cây mã anh, tơ hồng giăng đầy cành. Thấy hiện cảnh giống hệt phong cảnh trong bài Cây mã anh trồng trong cổng gỗ của một thi sĩ đương thời, Quế Am thầm nghĩ chắc tác giả bài thơ ấy đã phải đặt chân tới nơi đây rồi! Bước vào trong, Quế Am thấy ở cuối vườn có một hàng rào lau sậy. Băng qua hàng rào, Quế Am thấy một ngôi nhà ba gian, cũng quay mặt về hướng nam, cửa đóng im lìm. Quế Am bèn bước tới bụi chuối ở đầu hồi phía đông, lén dòm qua cửa sổ. Thấy trong phòng có một giá áo trên có treo một chiếc quần thêu, Quế Am biết là phòng ngủ của phụ nữ nên kinh hãi quá, vội quay người trở ra. Đang dợm bước bỏ đi, bỗng Quế Am nghe có tiếng mở cửa, rồi thấy một nữ lang, điểm trang sơ sài, từ trong phòng chạy ra, đảo mắt nhìn quanh, tựa hồ như để tìm kiếm kẻ dòm lén. Nhận ra nữ lang chính là giai nhân ở bến Hà Nam hai năm về trước, Quế Am mừng quá, vội chắp tay vái chào, nói:"Bấy lâu nay, tiểu sinh vẫn dò hỏi tin tức của nương tử song chẳng được tin tức gì! Bữa nay tình cờ lại được gặp nương tử ở nơi đây! Nương tử có nhận ra tiểu sinh chăng?" Còn đang chờ câu trả lời của giai nhân, bỗng Quế Am thấy ông lão lái thuyền năm xưa từ vườn bước vào sân. Kinh hãi quá, Quế Am tỉnh giấc, biết là mình nằm mộng. Tiếc giấc mộng, Quế Am lại nhắm mắt ngủ, hy vọng được thấy lại mộng cảnh cũ, song chẳng thấy gì. Tuy nhiên, Quế Am vẫn tin rằng giấc mộng là một điềm báo trước, cho mình biết sắp được gặp lại giai nhân. Quế Am giấu kín câu chuyện nằm mộng, chẳng dám thuật cho ai nghe, vì tin rằng nếu có người khác biết thì giấc mộng sẽ chẳng thể thành sự thực.
Năm sau. Một hôm Quế Am có việc phải đi Chấn Giang. Tới nơi, vào quán trọ, Quế Am viết thiếp trình với Từ thái bộc rằng mình vừa tới Chấn Giang và khất rằng sau khi thu xếp xong công việc, sẽ xin tới thăm thái bộc. Sau đó, Quế Am thuê người đưa thiếp tới nhà thái bộc. Thái bộc nhận được thiếp thì mừng lắm, vội sai gia nhân tìm tới quán trọ, mời Quế Am năm hôm nữa, tới nhà mình dự tiệc vào buổi trưa. Quế Am nhờ gia nhân về trình lại với thái bộc rằng mình sẽ xin tuân lệnh. Mới được ba hôm, Quế Am đã thu xếp xong công việc nên phải lưu lại quán trọ để chờ ngày tới thăm thái bộc.
Đúng ngày, Quế Am dậy sớm sửa soạn y phục rồi cưỡi ngựa tới nhà thái bộc. Vì còn sớm, Quế Am buông cương cho ngựa bước tự do. Lát sau, ngựa lạc vào một tiểu thôn. Thấy hiện cảnh phảng phất như mộng cảnh năm ngoái, Quế Am bèn rong ngựa tới chiếc cổng gỗ bỏ ngỏ thì thấy trong cổng có treo một bức rèm trúc. Đưa mắt nhìn qua rèm thì thấy có một vườn trồng toàn cây mã anh. Vừa kinh ngạc, vừa hồi hộp, Quế Am bèn rong ngựa vào vườn. Thấy ở cuối vườn có hàng rào lau sậy với ngôi nhà ba gian như trong mộng cảnh, Quế Am càng tin rằng giấc mộng năm ngoái là một điềm báo trước. Quế Am bèn xuống ngựa, dắt qua hàng rào, buộc ở góc sân, rồi bước tới đầu hồi phía đông, lén dòm qua cửa sổ. Thấy một nữ lang đang ngồi điểm trang ở trong phòng, Quế Am định thần nhìn kỹ thì thấy chính là giai nhân ở bến Hà Nam ba năm về trước. Giai nhân biết có kẻ dòm lén, bèn lớn tiếng, quát:"Kẻ kia là ai mà dám tự tiện xông vào nhà người ta như thế?" rồi đứng dậy, chạy ra sập cửa sổ xuống. Quế Am hoang mang chẳng biết là mình đang tỉnh hay mơ, song cũng đáp:"Nương tử chẳng nhận ra kẻ đã ném xuyến sang thuyền nương tử ba năm về trước hay sao?" Vừa dứt lời, Quế Am liền nghe thấy tiếng giai nhân vọng lại:"Ủa! Thế ra công tử là người ở bến Hà Nam năm nọ đó ư? Công tử đi đâu mà lại lạc vào đây?" Đáp:"Tiểu sinh cưỡi ngựa đi thăm một người quen, chẳng dè lại lạc vào đây! Thấy hiện cảnh giống mộng cảnh năm ngoái nên tiểu sinh mới đánh bạo vào đây để tìm nương tử!" Hỏi: "Quý tính là chi?" Đáp: "Họ Vương, tên Quế Am" Hỏi: "Quý quán ở đâu?" Đáp: "Huyện Đại Danh, tỉnh Hà Bắc" Hỏi: "Lệnh tôn làm gì?" Đáp: "Gia phụ trước kia làm triều quan, song nay đã thất lộc" Hỏi: "Lệnh đường còn tại thế không?" Đáp: "Gia mẫu mất đã từ lâu!" Nói: "Công tử là con nhà quan thì muốn tìm gặp bao nhiêu người đẹp mà chẳng được, cần chi phải tới đây tìm gặp thiếp?" Đáp: "Nương tử lầm rồi! Nếu chẳng phải là vì nương tử mà bị đau khổ từng giờ từng phút trong suốt ba năm qua thì tiểu sinh đã lập gia thất từ lâu rồi!" Nói: "Thiếp nói thế thôi, chứ thiếp cũng biết là công tử có cảm tình với thiếp! Năm xưa, thoáng thấy tướng mạo công tử, thiếp đã đoán là người chung thủy. Vì thế, thiếp tin là thế nào rồi công tử cũng sẽ tìm gặp thiếp. Gần đây, có mấy người tới làm mai, cha thiếp hỏi ý, thiếp đều từ chối! Giờ đây, nghe giọng nói chân thành của công tử, thiếp lại càng tin là mình đoán đúng!" Hỏi: "Chiếc xuyến năm xưa, nương tử còn giữ không?" Đáp:"Vẫn còn đây!" Hỏi:"Song thân nương tử đâu?" Đáp:"Gia mẫu mất rồi, còn gia phụ thì đi vắng. May mà hôm nay gia phụ sang thăm bên ngoại chứ người mà ở nhà thì chắc là rắc rối to!" Hỏi:"Tiểu sinh muốn được kết nghĩa phu thê cùng nương tử, chẳng hay ý nương tử thế nào?" Đáp: "Nếu công tử nhờ bà mối tới đây thưa chuyện cùng gia phụ để người hỏi ý thiếp thì thiếp sẽ xin vâng. Còn nếu công tử muốn thiếp bỏ nhà trốn theo công tử thì thiếp chẳng thể nào vâng lời được!" Hỏi: "Nương tử có thể thưa lại việc này với lệnh tôn chăng?" Đáp: "Chẳng thể được! Thôi, công tử về đi, kẻo gia phụ về bất thần thì thiếp chẳng biết phải ăn nói làm sao!" Vì sung sướng quá, Quế Am đâm ra nể sợ giai nhân, nên khi thấy giai nhân giục về, Quế Am vội tuân lệnh, tháo ngựa cưỡi đi, quên bẵng những điều mình định hỏi. Bỗng giai nhân gọi giật lại:"Vương công tử!" Quế Am liền dừng cương, hỏi: "Nương tử muốn dạy bảo điều chi?" Giai nhân hỏi lại: "Công tử đã biết tên thiếp chưa?" Lúc đó Quế Am mới như người tỉnh mộng, đáp: "Chưa! Đột nhiên tâm trí tiểu sinh bị u mê, chẳng còn nhớ là định hỏi nương tử những điều gì nữa!" Giai nhân nói:"Tên thiếp là Vân Nương!" Quế Am nhẩm kỹ rồi lại dợm cưỡi ngựa đi. Giai nhân lại hỏi: "Thế công tử đã biết họ tên gia phụ chưa?" Đáp: "Cũng chưa!" Nói: "Gia phụ họ Mạnh, tên Giang Ly!" Quế Am lại nhẩm kỹ rồi cưỡi ngựa ra đi.
Tới nhà thái bộc, Quế Am buộc ngựa ở ngoài cổng rồi vào trình diện. Thái bộc vồn vã đón tiếp, giới thiệu với trưởng nam Từ Đại, rồi hỏi thăm về gia cảnh. Lát sau, thái bộc bảo Quế Am cùng nhập tiệc với mình và Từ Đại. Vì Quế Am đang để tâm trí tận đâu đâu nên trong tiệc, thái bộc và Từ Đại hỏi câu gì thì Quế Am trả lời câu ấy chứ chẳng hề khơi chuyện trước. Thấy thế, thái bộc cho rằng Quế Am là người ít nói. Tiệc vừa tan, Quế Am đã vội đứng dậy xin cáo biệt. Cha con thái bộc bèn tiễn Quế Am ra về.
Dọc đường về, khi cưỡi ngựa qua nhà Mạnh ông, Quế Am thầm nghĩ chắc giờ này Mạnh ông đã về nên chỉnh lại y phục rồi ghé vào xin gặp. Mạnh ông đang ngồi trong phòng khách, chợt thấy một công tử ăn mặc sang trọng bước vào nhà, bèn chạy ra hỏi: "Công tử là ai?" Quế Am đáp: "Thưa lão trượng tiểu sinh là một học trò ở huyện Đại Danh, tỉnh Hà Bắc, họ Vương, tên Quế Am! Hôm nay, tiểu sinh mạo muội tới đây để xin được thưa chuyện cùng lão trượng!" Thấy người phong nhã, ăn nói lễ độ, Mạnh ông bèn mời vào phòng khách. Sau một tuần trà, Mạnh ông hỏi:"Công tử có chuyện chi muốn nói?" Đáp: "Thưa lão trượng, cách đây hơn ba năm, một hôm tình cờ tiểu sinh được nhìn thấy lệnh ái ngồi thêu giày trên một chiếc thuyền đậu ở bến Hà Nam. Tiểu sinh chưa tìm được cách cầu thân với lệnh ái thì lão trượng đã cho thuyền ngược bắc. Trong suốt ba năm qua, tiểu sinh vẫn để tâm dò hỏi nơi cư trú của lão trượng song chưa dò hỏi được! Nay có việc phải tới Chấn Giang, tình cờ tiểu sinh được biết lão trượng cư trú ở nơi đây. Vì tiểu sinh chưa lập gia thất nên hôm nay tiểu sinh mạo muội tới đây để xin lão trượng nhận cho tiểu sinh được làm tế tử trong nhà!" Hỏi: "Công tử có thể cho lão phu biết lệnh tôn là ai chăng?" Đáp: "Thưa lão trượng, gia phụ trước kia làm triều quan, song nay đã thất lộc!" Hỏi: "Thế còn lệnh đường?" Đáp: "Thưa lão trượng, gia mẫu mất đã từ lâu!" Rồi Quế Am đứng bật dậy, nói: "Xin lão trượng cho phép tiểu sinh được ra lấy sính lễ đem vào!" Mạnh ông vội ngăn lại, nói: "Xin công tử cảm phiền, lão phu mới nhận gả tiện nữ cho người khác rồi!" Nghe thấy thế, Quế Am choáng váng mặt mày, cứ đứng ngây người như tượng gỗ. Lát sau, như tỉnh cơn mê, Quế Am chẳng biết nói chi thêm, đành chắp tay vái chào Mạnh ông, xin phép được ra về. Mạnh ông bèn tiễn chân ra cổng.
Về quán trọ, Quế Am cứ thắc mắc chẳng hiểu lời nói của Mạnh ông là thực hay hư. Vì thế, Quế Am cứ trằn trọc suốt đêm, chẳng sao ngủ được. Chợt nghĩ có thể là vì mình đường đột tới nhà, chẳng nhờ người mối lái, làm Mạnh ông tức giận mà từ chối khéo chăng, Quế Am lại cảm thấy còn hy vọng, tinh thần phấn khởi. Quế Am bèn nằm suy nghĩ xem mình nên nhờ ai làm mối. Thoạt tiên, thấy ở Chấn Giang, ngoài Từ thái bộc, mình chẳng quen ai, Quế Am nảy ý muốn nhờ thái bộc. Nhưng rồi, lại sợ thái bộc cười là con nhà thế tộc mà đi hỏi cưới con nhà chủ thuyền, Quế Am lại ngập ngừng. Rồi lại tự nhủ nếu chẳng nhờ thái bộc thì biết nhờ ai? Cuối cùng Quế Am quyết tâm tới nhờ thái bộc. Sáng sau, Quế Am dậy sớm sửa soạn y phục, rồi cưỡi ngựa tới nhà thái bộc. Tới nơi, Quế Am trình bày câu chuyện Vân Nương với thái bộc, rồi thưa:"Thưa thế phụ, vì gia nghiêm mất sớm nên tiểu điệt xin thế phụ thay gia nghiêm mà lo giùm việc trăm năm cho tiểu điệt!" Thái bộc hỏi:"Thế thân phụ của Vân Nương là ai?" Đáp: "Thưa thế phụ, là Mạnh ông, húy Giang Ly!" Thái bộc giật mình, nói: "Tưởng là ai chứ Mạnh Giang Ly thì là chỗ ngoại thích của ta! Hiền điệt muốn làm rể nhà ấy thì để ta nói cho!" Hỏi: "Thưa thế phụ, Mạnh ông có liên hệ ra sao với thế phụ?" Đáp: "Tổ phụ của Giang Ly là bào đệ của tổ mẫu ta" Rồi tiếp: "Sao chẳng nói với ta từ trước mà lại đường đột tới nhà Giang Ly cho sinh chuyện?" Đáp: "Vì tiểu điệt sợ thế phụ cười là con nhà thế tộc mà đi hỏi cưới con nhà chủ thuyền!" Nghe thấy thế, thái bộc bỗng tỏ vẻ hoài nghi, nói: "Chẳng biết Giang Ly mà hiền điệt nói đây có phải là ngoại thích của ta không vì trong thiên hạ thiếu gì người trùng tên trùng họ! Ngoại thích của ta tuy nghèo thực song có làm nghề chủ thuyền bao giờ đâu? Hay là hiền điệt có lầm chăng? Thôi, để ta thử cho người tới hỏi xem sao!" Rồi gọi trưởng nam lên, dặn dò cặn kẽ mọi điều, sai tới nhà Mạnh ông.
Từ Đại vâng lệnh cha, cưỡi ngựa tới nhà Mạnh ông. Nhận ra Mạnh ông đúng là người cậu họ của mình, Từ Đại bèn chắp tay vái chào rồi lên tiếng: "Thưa cữu phụ, gia phụ sai tiểu điệt tới đây để hỏi xem cữu phụ đã nhận gả Vân muội cho ai chưa?" Mạnh ông đáp: "Chưa! Song quan thái bộc hỏi để làm chi?" Từ Đại đáp: "Thưa cữu phụ, gia phụ muốn xin cữu phụ gả Vân muội cho con của một người bạn gia phụ!" Hỏi: "Công tử ấy tên chi?" Đáp: "Thưa cữu phụ, tên Quế Am, họ Vương!" Hỏi: "Có phải là công tử hôm qua đã tới đây để xin hỏi cưới em Vân Nương đó không?" Đáp: "Dạ, thưa phải!" Nói: "Ta đã trả lời cho công tử biết rồi mà!" Đáp: "Thưa cữu phụ, nhưng hôm qua cữu phụ lại nói là cữu phụ đã nhận gả Vân muội cho người khác!" Mạnh ông cười, nói: "Vì công tử coi thường gia đình ta quá, tự nhiên sồng sộc tới nhà ta, chẳng nhờ ai mối lái. Vả lại, công tử nói là chưa lập gia thất song ta cũng chẳng tin, chỉ sợ công tử muốn lấy em Vân Nương về làm thứ thất thôi! Rồi lại còn việc công tử đang ngồi nói chuyện với ta mà đứng bật dậy, đòi ra lưng ngựa lấy sính lễ đem vào. Chắc công tử nghĩ rằng ta nghèo, thấy vàng ắt phải động tâm nên mới có hành động như thế. Tuy ta nghèo thực song ta chẳng tham tiền, chẳng muốn gả em Vân Nương như bán một đồ vật. Nay công tử đã phải tới nhờ quan thái bộc đứng ra làm mối thì ta tin là công tử chưa lập gia thất. Tuy nhiên, em Vân Nương bướng bỉnh lắm. Mấy đám con nhà đàng hoàng tử tế tới hỏi, nó đều từ chối. Vậy hiền điệt hãy ngồi đây chơi để ta vào hỏi ý nó xem sao? Có thế nào, ta sẽ ra trả lời cho hiền điệt biết để về trình lại với quan thái bộc!" Nói xong, Mạnh ông đứng dậy, vào nhà trong. Lát sau, Mạnh ông trở ra, nói:"Hiền điệt về trình lại với quan thái bộc rằng ta xin tuân lệnh!" Từ Đại nói: "Vì Quế Am sắp phải về Hà Bắc, kính xin cữu phụ ấn định cho các ngày nạp thái và nghênh hôn để tiểu điệt có thể về trình lại với gia phụ!" Mạnh ông bèn lấy lịch ra coi, chọn ngày nạp thái, ngày nghênh hôn rồi nói cho Từ Đại biết. Từ Đại bèn cám ơn Mạnh ông rồi xin phép ra về.
Tới nhà, Từ Đại trình lại với cha. Thái bộc bèn cho gọi Quế Am lên, báo tin cho biết. Nghe tin, Quế Am cực kỳ vui sướng. Thái bộc nói:"Bây giờ, ta cho hiền điệt mượn một căn phòng ở nhà ta mà làm lễ nghênh hôn. Cưới xong, ở lại đây chơi ít bữa rồi hãy dắt vợ về Hà Bắc" Quế Am càng vui sướng, cám ơn thái bộc rối rít rồi xin phép được ra chợ sắm sửa nữ trang cho Vân Nương.
Vào ngày nạp thái, thái bộc dẫn Quế Am tới nhà Mạnh ông nạp sính lễ. Vào ngày nghênh hôn, thái bộc sai gia nhân dựng rạp, tổ chức lễ cưới thực linh đình, rồi dẫn Quế Am cùng khách khứa, gia nhân tới nhà Mạnh ông đón dâu. Tối đến, tiệc cưới thực là náo nhiệt. Đêm hợp cẩn, hai vợ chồng Quế Am rất tương đắc.
Ba hôm sau, Quế Am xin phép thái bộc cho mình được đưa vợ về Hà Bắc. Thái bộc ưng thuận, rồi sai Từ Đại tiễn hai vợ chồng ra tận bến sông.
Đêm ấy, nằm dưới thuyền, hai vợ chồng thủ thỉ ôn chuyện cũ. Quế Am hỏi:"Nàng còn nhớ hôm chúng mình mới gặp nhau, ta ném xuyến sang thuyền nàng không?" Vân Nương đáp:"Nhớ chứ! Hôm ấy, thoạt nhìn thấy chàng, thiếp đã nghĩ chàng là một nho sinh phong nhã, nên muốn làm quen. Thế nhưng, khi thấy chàng ném vàng với xuyến sang thì thiếp lại nghĩ chàng là một kẻ khinh bạc, chuyên dùng của cải để rủ rê đãng phụ, nên thiếp đổi ý, chẳng muốn làm quen nữa. Tuy cha thiếp nghèo, song cha thiếp vẫn dạy thiếp chẳng được tham của phù vân. Lúc ấy, thiếp cười là chàng có con mắt mà chẳng có con ngươi, toan lấy vàng để làm chuyển lòng thiếp. Cha thiếp mà thấy được chiếc xuyến thì chắc chắn là chàng đã bị rắc rối to, đâu còn có ngày nay? Chàng đã thấy thiếp thương chàng chưa?" Quế Am không đáp mà hỏi lại:"Hôm ấy, cha vừa từ trên bờ xuống đã vội lái thuyền đi đâu thế?" Đáp:"Cha thiếp thuê thuyền, lái lên Giang Bắc, thăm chú Giang Đoài!" Hỏi:"Thế còn chuyện hôm ta tới xin hỏi nàng, sao cha lại nói là cha đã nhận gả nàng cho người khác?" Đáp:"Vì cha thiếp ngờ là chàng đã có chính thất, chỉ muốn lấy thiếp về làm thứ thất thôi!" Quế Am bỗng cười lớn, nói:"Cha tinh thực. Chỉ có nàng ngây thơ nên mới bị mắc bẫy của ta!" Vân Nương hỏi: "Bẫy gì?" Quế Am chẳng đáp. Vân Nương cứ gặng hỏi mãi:"Bẫy gì? Bẫy gì?" Bấy giờ Quế Am mới mỉm cười, đáp: "Bẫy lường gạt chứ còn bẫy gì!" Hỏi:"Chàng lường gạt thiếp chuyện gì?" Đáp:"Chuyện ta chưa lập gia thất! Bây giờ ván đã đóng thuyền, chúng mình cũng sắp về tới nhà rồi, ta chẳng thể giấu được nàng nữa, đành phải thú thực với nàng rằng ta đã có chính thất!" Vân Nương chẳng tin, nói:"Chàng nói đùa! Làm chi có chuyện đó!" Quế Am nghiêm nét mặt, đáp:"Ta nói thực đó! Chính thất của ta tên Phong Nương, ái nữ của quan thượng thư họ Ngô ở kinh đô!" Nghe thấy thế, Vân Nương bỗng thất sắc, chẳng nói chi thêm, chỉ nằm im lặng.
Lát sau, Vân Nương bỗng vùng dậy, từ trong khoang chạy vọt lên mui. Thấy thế, Quế Am cực kỳ kinh hãi, cũng vùng dậy, chạy theo, chẳng kịp xỏ giày. Vừa lên tới mui, bỗng nghe thấy có tiếng người nhảy ùm xuống nước, Quế Am vội tri hô ầm ĩ. Cả thuyền náo động, kinh hoàng. Chủ thuyền vội sai bốn chân sào nhảy xuống tìm vớt. Thế nhưng vì đêm tối như mực, chẳng ai nhìn thấy Vân Nương đâu mà chỉ nhìn thấy ánh sao lấp lánh khắp mặt sông. Chủ thuyền bèn cho thả neo giữa dòng để tìm vớt. Quế Am cực kỳ hối hận về việc mình đã nói đùa vợ để đến nỗi xảy ra cơ sự này! Quế Am chẳng dám hé môi nói cho ai biết, chỉ ngồi trên mui, ôm đầu khóc suốt đêm. Sáng sau, Quế Am bỏ tiền ra nhờ chủ thuyền thuê thợ lặn mò vớt Vân Nương song thợ lặn mò từ sáng tới chiều cũng chẳng thấy chi. Trời tối, chủ thuyền đành cho thuyền nhổ neo lên đường.
Về nhà, Quế Am buồn bã, bỏ ăn bỏ ngủ, thân hình tiều tụy. Người lão bộc thân tín lân la tới hỏi nguyên do, Quế Am bèn thuật lại cho nghe. Quế Am lại sợ Mạnh ông tới thăm thì chẳng biết sẽ phải đối đáp ra sao. Song, may cho Quế Am là Mạnh ông đang bận việc nhà nên chưa có thì giờ liên lạc với con và rể.
Buồn quá, Quế Am giao hết gia vụ cho người lão bộc rồi xuống Hà Nam thăm người anh rể làm quan tại đó. Người chị thấy em buồn thì hỏi nguyên do. Quế Am bèn thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong, người chị bảo Quế Am cứ ở lại chơi cho khuây khỏa, khi nào hết buồn thì hãy về. Thời gian rồi cũng làm vơi mối sầu.
Hai năm sau. Quế Am xin phép anh chị cho mình trở về Hà Bắc. Thấy em đã hết buồn, người chị để cho về. Dọc đường, gặp trời mưa, Quế Am vào trú mưa dưới mái hiên của một ngôi nhà bên đường. Nhìn vào phòng khách Quế Am thấy có một bà vú đang nô đùa với một đứa bé. Đứa bé nhìn thấy Quế Am thì tự nhiên cứ giơ hai tay ra, đòi bế. Quế Am lấy làm lạ song vì thấy đứa bé dễ thương nên chạy vào xin bế nó ra hiên. Bà vú thuận cho. Lát sau bà vú chạy ra xin lại thì đứa bé nhất định không chịu theo bà vú. Khi trời tạnh mưa, Quế Am bế đứa bé vào nhà trả bà vú rồi khoác hành lý lên vai thì đứa bé bỗng khóc thét lên, bập bẹ nói:"Bố đi rồi! Bố đi rồi!" Bà vú ngượng quá, mắng nó. Nó càng khóc lớn. Bà vú dỗ mãi song nó chẳng chịu nín. Bà vú đành bế nó vào nhà trong. Quế Am toan đi thì bỗng thấy một nữ lang bế đứa bé từ nhà trong bước ra. Nhìn kỹ, Quế Am bàng hoàng cả người vì thấy nữ lang chính là Vân Nương, vợ mình. Chợt Vân Nương lên tiếng:"Phụ tình lang! Để cục thịt này lại cho người ta. Bây giờ hãy đem nó đi đi!" Lúc đó Quế Am mới biết rằng đứa bé chính là con mình. Bị nỗi chua cay vò xé ruột gan, Quế Am vội thốt: "Trước kia ta chỉ nói đùa nàng thế thôi chứ ta đã có chính thất nào đâu!"Vân Nương nói: "Chẳng tin được!" Quế Am bèn chỉ trời vạch đất mà thề, thuật lại sự thực cho vợ nghe. Lúc bấy giờ Vân Nương mới tin, đổi giận làm buồn, nhìn Quế Am mà khóc. Quế Am cũng chảy nước mắt, nói: "Nàng hãy thuật cho ta nghe kể từ lúc nàng trầm mình xuống sông! Làm thế nào mà nàng còn sống sót để lưu lạc tới đây?" Vân Nương bèn thuật:"Chủ ngôi nhà này là Mạc ông với Mạc bà, cùng ngoài sáu mươi tuổi, cư ngụ ở đây với một bà vú và một gia nhân. Hai năm về trước, ông bà sai gia nhân lái thuyền chở cả nhà xuống Hà Nam du ngoạn. Lượt về, đúng vào đêm thiếp trầm mình, ông bà bảo gia nhân neo thuyền ở bên sông để nghỉ. Bị sóng cuốn đi, thiếp đụng vào thuyền của ông bà. Ông bà bèn sai gia nhân nhảy xuống vớt thiếp lên. Thấy thiếp còn thoi thóp thở, ông bà ra sức cấp cứu. Tới gần sáng, thiếp tỉnh lại. Ông bà hỏi chuyện, thiếp kể đầu đuôi. Ông bà bèn nhận thiếp làm con nuôi, chở về cho ở chung. Ba tháng sau, ông bà muốn gả chồng cho thiếp song thiếp chẳng chịu. Mười tháng sau, thiếp hạ sanh thằng bé này, đặt tên là Vương Ký Sinh. Hôm nay là sinh nhật đầu tiên của nó!" Quế Am bèn thở phào nhẹ nhõm rồi bỏ hành lý trên vai xuống, nói: "Nàng hãy dắt ta vào nhà trong chào ông bà đi!" Vân Nương gật đầu rồi dắt Quế Am vào nhà trong. Gặp ông bà Mạc, Quế Am vội chắp tay cúi đầu thi lễ. Ông bà cũng gật đầu đáp lễ. Nghe Vân Nương trình bày mọi chuyện, ông bà mừng lắm. Quế Am nói:"Tiểu sinh xin đa tạ ông bà đã thi ân cứu mạng cho tiện nội. Nay tiểu sinh xin ông bà cho tiểu sinh được nhận ông bà làm nhạc phụ mẫu!" Mạc ông nói:"Dĩ nhiên là vợ chồng lão phu ưng thuận rồi! Thế nhưng, hãy ở lại đây chơi với vợ chồng lão phu một tuần rồi hãy đưa vợ con về!" Tuy muốn đưa vợ con về ngay song vì nể lời Mạc ông, Quế Am đành phải ở lại.
Tuần sau, Quế Am xin phép ông bà cho mình được đưa vợ con về Hà Bắc. Ông bà vui vẻ tiễn chân hai vợ chồng và đứa con ra về.
Ở nhà Quế Am, Mạnh ông tới chơi đã được hơn hai tháng. Khi mới tới, nghe người lão bộc thuật chuyện Vân Nương trầm mình, Mạnh ông hốt hoảng song vẫn chưa tin. Mạnh ông bèn ở nán lại, chờ Quế Am về để hỏi cho rõ đầu đuôi câu chuyện.
Sáng ấy, người lão bộc ra mở cổng thì chợt thấy Quế Am về, dẫn theo một nữ lang bồng một đứa bé trên tay. Người lão bộc bèn hoán hô ầm ĩ. Cả nhà cùng chạy ùa ra cổng để đón chào, vui mừng tíu tít. Khi vào phòng khách, Quế Am nhìn thấy Mạnh ông thì vừa mừng vừa sợ, còn Vân Nương thì vừa tủi vừa mừng, chạy tới ôm chầm lấy cha mà khóc. Mạnh ông khuyên giải con rồi hỏi chuyện trầm mình. Vân Nương thuật lại đầu đuôi cho cha nghe. Mạnh ông bèn quyết định ở lại thêm một tuần để chơi với con và cháu. Tuần sau, Mạnh ông ra về.
Từ đó, Quế Am và Vân Nương chung sống rất tương đắc trong cảnh gia đình đầm ấm, cạnh đứa con trai cùng người lão bộc và đám gia nhân.
Phải chăng muốn được hưởng hạnh phúc lâu dài, ai cũng phải trải qua một khúc chông gai, như người đời thường nói?
CÁT CÂN VÀ NGỌC BẢN
(truyện CÁT CÂN)
Lan hương dĩ thị giáng vân xa
Hà tất tiên nguyên cánh phiếm tra
Tỉnh đắc thu phong đoàn phiến lãnh
Bất ưng lưu tử chỉ lưu hoa
Huyện Lạc Dương, tỉnh Hà Nam, có hai anh em nho sinh họ Thường, chung sống trong ngôi nhà của cha mẹ để lại. Người anh tên Đại Dụng, 21 tuổi, còn độc thân. Người em tên Đại Khí, 19 tuổi, đã đính hôn song sắp tới ngày cưới thì vị hôn thê bị bạo bệnh mà mất.
Đại Dụng rất mê hoa mẫu đơn. Nghe đồn huyện Tào Châu tỉnh Sơn Đông giáp vùng Tề, Lỗ, có nhiều giống mẫu đơn đẹp nổi tiếng, Đại Dụng vẫn ước ao có dịp được tới thăm Tào Châu một chuyến.
Năm ấy, vào khoảng đầu tháng hai, một hôm có việc phải đi Tào Châu, Đại Dụng mừng lắm, vội sắm sửa hành trang, dặn dò em mọi gia vụ, rồi lên đường.
Tới Tào Châu, dạo quanh huyện thành, chợt thấy một vườn mẫu đơn rộng lớn, trong có căn nhà bỏ trống với hòn núi giả, Đại Dụng bèn vào hỏi thuê. Chủ nhà bằng lòng cho thuê. Đại Dụng liền đem hành trang vào cư ngụ. Lúc đó, mẫu đơn mới trổ nụ chứ chưa nở hoa.
Thu xếp xong công việc, Đại Dụng chưa chịu về, nán lưu lại Tào Châu để xem hoa nở. Ngày nào Đại Dụng cũng quanh quẩn ở trong vườn, mong hoa sớm nở cho mình thưởng ngoạn. Chẳng bao lâu, hoa nở rộ đầy vườn. Đại Dụng thích quá, lấy giấy bút ra vườn ngắm hoa mà làm thơ, ca tụng vẻ đẹp của mẫu đơn. Đại Dụng làm được đến trên một trăm bài thơ. Tháng sau, khi tiền lưng đã cạn, Đại Dụng đem cầm chiếc áo lạnh, lấy tiền lưu lại Tào Châu thêm ít bữa để thưởng ngoạn mẫu đơn.
Một sáng, Đại Dụng ra vườn ngắm hoa thì chợt thấy ở cuối vườn có một nữ lang, phục sức cung trang màu tím, với một bà lão, cùng đứng ngắm hoa. Thầm nghĩ nữ lang là một tiểu thư con nhà thế gia trong vùng, Đại Dụng vội rúc vào núp trong bụi cây cạnh hòn núi giả, chẳng dám giáp mặt vì sợ gặp chuyện rắc rối với thế gia.
Lát sau, nữ lang thôi ngắm hoa, leo lên hòn núi giả ngồi nghỉ, còn bà lão thì đứng cạnh canh chừng. Từ trong bụi cây, Đại Dụng chú mục dòm lén thì thấy nữ lang có một vẻ đẹp phi phàm không thấy có ở các giai nhân trần thế. Vì thế, Đại Dụng nảy ý chắc nữ lang là tiên nữ thượng giới chứ chẳng phải là tiểu thư phàm trần! Cứ thắc mắc mãi về lai lịch của nữ lang, Đại Dụng cảm thấy bứt rứt khó chịu nên quyết định chui ra khỏi bụi cây, rảo bước tới hòn núi giả để hỏi cho ra lẽ. Thấy một nho sinh bước tới chỗ nương tử mình ngồi, bà lão vội nhảy ra cản đường, quát:"Cuồng sinh này làm chi vậy?" Đại Dụng kinh hãi quá, vội quỳ xuống đất, chắp tay đáp:"Tiểu sinh có dám làm chi đâu! Chỉ muốn tới hỏi thăm xem nương tử đây có phải là tiên nữ thượng giới hay không mà thôi!" Bà lão quát:"Đừng có nói xàm! Cút đi ngay, kẻo ta bắt giải lên huyện, xin quan trị tội bây giờ!" Đại Dụng chẳng dám nói chi thêm mà cũng chẳng dám đứng dậy, cứ quỳ yên ở dưới đất. Thấy thế, nữ lang mỉm cười, nói:"Mụ mụ ơi! Mặc người ta! Mình về đi thôi!" Bà lão vội quay người lại, đỡ nữ lang xuống đất rồi dắt đi. Chờ cho hai người đi khuất vào lùm cây ở cuối vườn, Đại Dụng mới dám đứng dậy, thất thểu về phòng.
Vào phòng, Đại Dụng nằm vật xuống giường, thấp thỏm lo rằng thế nào bà lão cũng sẽ về mách với huynh trưởng thế gia về chuyện mình tò mò hỏi lai lịch của nữ lang, và rồi thế nào huynh trưởng thế gia cũng sẽ sai người nhà tới đây hỏi tội mình. Đại Dụng đâm ra hối hận, tự trách mình tò mò làm chi cho sinh chuyện. Vì lo sợ, hối hận, nên suốt đêm ấy, Đại Dụng chẳng hề chợp mắt.
Sáng sau, Đại Dụng hồi hộp chờ đợi người nhà thế gia tới hỏi tội, song chờ từ sáng tới chiều cũng chẳng thấy chi! Vì thế, Đại Dụng lại nảy ý chắc nữ lang là tiên nữ thượng giới! Rồi đâm ra tương tư, tưởng nhớ nhan sắc và tiếng nói của nữ lang đến mất ăn mất ngủ. Ba ngày sau, Đại Dụng soi gương thì thấy mặt mũi hốc hác hẳn đi.
Tối ấy, Đại Dụng thắp đèn, ngồi tựa lưng vào ghế mà tương tư nữ lang. Đột nhiên, thấy lồng ngực khó thở, đầu óc đần độn, rồi chợt thấy bà lão, tay cầm bình rượu, đẩy cửa bước vào phòng, nói:"Nương tử nhà lão thân tự tay pha chế bình rượu độc này, sai lão thân đưa tới, bảo cuồng sinh phải uống ngay đi!" Nghe thấy thế, Đại Dụng lấy làm lạ, nói:"Tiểu sinh với nương tử nhà lão bà là hai người xa lạ, có thù oán gì với nhau đâu? Vì thế, tiểu sinh chẳng tin là nương tử nhà lão bà lại bắt tiểu sinh phải uống rượu độc! Tuy nhiên, nếu rượu này quả là rượu độc do chính tay nương tử nhà lão bà pha chế thì tiểu sinh xin uống hết ngay! Chết đi cho rồi, chứ sống mà tương tư trong tuyệt vọng như thế này thì cũng khổ lắm!" Nói xong, Đại Dụng đứng dậy đỡ lấy bình rượu trong tay bà lão mà uống một hơi cạn sạch, rồi trả lại chiếc bình. Bà lão mỉm cười, đỡ lấy chiếc bình, đem về.
Đại Dụng lại ngồi xuống ghế. Thấy rượu thơm mát Đại Dụng thầm nghĩ chắc chẳng phải là rượu độc. Lát sau, Đại Dụng ngà ngà say rồi ngủ thiếp đi.
Sáng sau, khi thức giấc, thấy lồng ngực dễ thở, đầu óc minh mẫn, căn bệnh hôm qua đã biến mất, Đại Dụng càng tin rằng nữ lang là tiên nữ, đã cho mình uống rượu tiên để chữa bệnh. Cũng vì tin như thế mà Đại Dụng nghĩ rằng mình chẳng thể nào kết duyên được với nữ lang. Tuy nhiên, vì đang tương tư nữ lang nên trong đầu Đại Dụng lúc nào cũng có hình bóng của nữ lang phảng phất. Đại Dụng bèn quỳ xuống đất, lầm rầm khấn khứa, cầu xin nữ lang cho mình được gặp mặt.
Mấy hôm sau, khi mẫu đơn bắt đầu tàn, Đại Dụng tản bộ vào khu rừng gần nhà trọ để ngắm hoa rừng. Khi tới gần một tảng đá, chợt thấy nữ lang cũng đang đứng ngắm hoa, Đại Dụng mừng quá, vội quỳ xuống đất lạy nữ lang. Nữ lang liền bước tới, cầm tay Đại Dụng nâng dậy. Thấy hơi ấm từ da thịt nõn nà của nữ lang truyền sang tay mình, Đại Dụng bỗng cảm thấy sung sướng đê mê, níu chặt lấy cánh tay nữ lang mà đứng dậy. Nữ lang nhìn Đại Dụng, mỉm cười. Đại Dụng toan lên tiếng hỏi thì chợt thấy bà lão từ xa bước tới, nên kinh hãi quá, mặt mày xanh xám, chẳng biết phải làm thế nào. Chợt nghe thấy tiếng nữ lang nói khẽ:"Hãy vòng ra phía sau tảng đá này mà núp. Tối nay, cố tìm một chiếc thang, vác về phía nam khu rừng này. Khi thấy tòa nhà có tường kín vây quanh thì dựa thang vào tường mà leo lên. Vào trong, tìm phòng có cửa sổ màu hồng!" Nói xong, nữ lang vội chạy ùa tới chỗ bà lão, nắm tay bà lão kéo đi.
Đại Dụng mừng quá, lật đật chạy về, đi tìm chủ nhà, mượn được chiếc thang, đem vào phòng mình, mong trời chóng tối. Khi trời vừa tối, Đại Dụng vội vác thang trở lại khu rừng, theo hướng nam mà đi. Lát sau, quả nhiên thấy một tòa nhà có bức tường kín vây quanh, Đại Dụng vội dựa thang vào tường mà leo lên. Thấy ở bên trong, có một chiếc thang, dựa sẵn vào tường, Đại Dụng mừng quá, vội vàng leo xuống. Đảo mắt nhìn quanh, thấy một căn phòng có cửa sổ màu hồng, Đại Dụng chạy tới, áp tai vào tường mà nghe. Thấy có tiếng quân cờ lách cách, Đại Dụng chẳng dám đột nhập, chỉ đứng ở ngoài, mong cuộc cờ chóng dứt. Chờ mãi mà tiếng quân cờ vẫn còn, Đại Dụng chán nản nên leo ra. Ra ngoài, suy nghĩ hồi lâu, lại leo vào. Thấy tiếng quân cờ vẫn chưa dứt, Đại Dụng bèn ghé mắt vào lỗ hổng trên tường dòm lén thì thấy nữ lang đang ngồi đấu cờ với một nữ khách áo trắng, bên phải có bà lão ngồi coi, bên trái có tì nữ chắp tay đứng hầu. Đại Dụng chán nản, lại leo ra. Ra ngoài, tiếc rẻ, lại leo vào. Thấy đã quá nửa đêm mà tiếng quân cờ vẫn còn, Đại Dụng lại leo ra. Ra ngoài, tiếc rẻ, toan leo vào thì chợt nghe thấy tiếng bà lão hỏi tì nữ: "Ai đem thang ra dựa vào tường thế kia? Hãy ra lấy cất vào nhà!" Đại Dụng kinh hãi quá, vội lăn mình xuống sát chân tường, nằm im, nín thở. Khi thấy lặng tiếng người, Đại Dụng mới dám leo lên. Thấy chiếc thang bên trong đã biến mất, Đại Dụng đành leo xuống, vác thang về.
Tối sau, Đại Dụng lại vác thang tới tòa nhà, leo lên. Thấy bên trong đã có chiếc thang bắc sẵn như tối trước, Đại Dụng vội leo xuống, chạy tới phòng nữ lang, áp tai vào tường mà nghe. Thấy im lặng, Đại Dụng mừng quá, vội mở cửa lẻn vào thì thấy nữ lang đang ngồi chống tay nâng cằm, mắt nhắm như người đang suy nghĩ. Thấy động, nữ lang giật mình, mở mắt nhìn. Nhận ra là Đại Dụng, nữ lang chợt đỏ mặt thẹn thùng. Đại Dụng lên tiếng:"Tiểu sinh vẫn nghĩ mình bạc phước, chẳng thể nào gặp được nương tử, thế mà chẳng ngờ tối nay lại được gặp!" Nữ lang chưa kịp đáp thì chợt nghe có tiếng nữ khách ở ngoài cửa, nên vội lấy tay chỉ gầm giường, nói: "Chui vào đây mà trốn!" rồi lại ngồi xuống ghế. Đại Dụng kinh hãi quá, vội chui vào gầm giường. Chợt có tiếng cửa phòng kẹt mở, rồi có tiếng nữ khách hỏi:"Thế nào? Tối nay bại tướng đã chuẩn bị chiến thuật cầm quân để phục thù tiểu muội về mấy trận thua tối qua chưa? Tiểu muội vừa pha xong bình trà ngon nên sang đây rước đại tỉ qua nhà tiểu muội uống trà, đấu cờ!" Nữ lang từ chối, nói: "Tối nay, ngu tỉ thấy trong người mệt lắm, chỉ muốn ở nhà thôi!" Nữ khách cứ nằn nì mời mọc, song nữ lang vẫn một mực chối từ. Thấy thế, nữ khách cười, nói:"Tự nhiên tối nay đại tỉ lại dở chứng, chẳng muốn sang nhà tiểu muội chơi. Hay là đã giấu nam nhân ở trong phòng?" Nữ lang lặng im, chẳng đáp. Đại Dụng nằm trong gầm giường, nghe thấy thế thì chột dạ, lo sợ lắm. Chợt nữ khách cười, nói:"Đại tỉ chẳng muốn đi thì tiểu muội cũng cứ lôi đi!" rồi tới kéo nữ lang đứng dậy, lôi ra khỏi phòng. Thấy thế, Đại Dụng oán hận nữ khách là đã làm cho mình mất một dịp may để được tâm sự với nữ lang.
Lát sau, thấy lặng tiếng người, Đại Dụng mới bò ra khỏi gầm giường. Thấy trên chiếc đôn kê ở đầu giường có một trái cầu thủy tinh, phủ một chiếc khăn màu tím, Đại Dụng chợt nảy ý lấy đem về để nữ lang thấy mất, ắt sẽ tới nhà mình đòi. Đại Dụng bèn gấp chiếc khăn đút túi, rồi ôm trái cầu ra khỏi phòng, leo qua tường, vác thang về.
Tới nhà, Đại Dụng cất kỹ trái cầu rồi lên giường nằm, rút chiếc khăn trong túi ra, phủ lên mặt. Thấy một hương thơm kỳ lạ từ chiếc khăn tỏa ra, Đại Dụng cứ tưởng tượng như hương thơm từ thân thể nữ lang còn vương lại. Thế rồi Đại Dụng đê mê, ngủ thiếp đi. Khi thức giấc thì thấy trời đã quá trưa.
Tối ấy, Đại Dụng đang ngồi trong phòng, chợt nghe có tiếng gõ cửa, vội chạy ra mở thì thấy khách chính là nữ lang. Đại Dụng mừng quá, xoắn xuýt mời vào, kéo ghế mời ngồi. Nữ lang cười, nói:"Trước kia cứ tưởng là người quân tử. Nay mới biết cũng chỉ là kẻ đạo tặc!" Đại Dụng nói:"Nương tử nghĩ thế thực sao? Sở dĩ tiểu sinh có hành động phi quân tử ấy cũng chỉ vì muốn được gặp nương tử đó thôi! Bấy lâu, tiểu sinh vẫn nửa tin nửa ngờ rằng nương tử là tiên nữ, nhưng nay mới thực rõ nương tử quả là tiên! May mắn được nương tử để mắt tới, tiểu sinh rất lấy làm hân hạnh. Thế nhưng, tiểu sinh cũng tự hiểu rằng chẳng thể nào được kết duyên với nương tử vì tiên nữ mà xuống phàm trần thì trước sau gì cũng sẽ bỏ hạ giới mà bay về trời!" Nữ lang cười, nói: "Sao mà tưởng tượng viển vông quá thế? Ai là tiên nữ đâu? Thiếp cũng chỉ là một nữ tử bình thường thôi! Tình cờ gặp chàng thì bị xúc tình mà sinh luyến ái! Tối nay tới để hiến thân đây!" Nghe thấy thế, Đại Dụng mừng quá, vội chạy a tới, toan bồng nữ lang lên giường. Chợt thấy nữ lang đưa tay ra cản, Đại Dụng khựng người, chẳng hiểu tại sao. Nữ lang cười, nói: "Khoan đã! Nếu chàng nghĩ chẳng thể giữ kín được chuyện chúng mình thì nên chia tay nhau ngay từ bây giờ còn hơn là để sau này miệng tiếng thiên hạ buộc phải lìa tan! Phải kín miệng mới được, chứ tới tai thiên hạ thì chẳng thể mọc cánh mà bay được đâu!" Đại Dụng mừng quá, vội đáp: "Tưởng là chuyện chi, chứ nếu chỉ có thế thì tiểu sinh xin thề là sẽ giữ kín chuyện chúng mình!" Nói xong, liền chạy tới ôm chầm lấy nữ lang, bồng lên giường mà ân ái. Ân ái xong, hai người nằm thủ thỉ chuyện trò. Đại Dụng hỏi: "Nàng tên chi?" Nữ lang đáp:"Vẫn cho thiếp là tiên thì tiên đâu cần phải có tên?" Rồi cười, nói: "Nhưng vì thiếp chỉ là một nữ tử bình thường nên cũng có tên như mọi người. Thiếp tên Cát Cân!" Đại Dụng hỏi:"Nàng họ chi?" Đáp:"Không có họ!" Hỏi:"Sao lại không có họ?" Nữ lang chỉ mỉm cười, chẳng đáp. Lại hỏi:"Thế bà lão thường đi theo nàng là ai?" Đáp:"Là mụ mụ! Mụ mụ nuôi thiếp từ hồi còn nhỏ. Vì thế, bây giờ thiếp coi mụ mụ như nhũ mẫu chứ chẳng coi như tì bộc!" Hỏi:"Mụ mụ có họ không?" Đáp:"Có!" Hỏi:"Họ chi?" Đáp:"Họ Tang!" Hỏi: "Mụ mụ tên chi?" Đáp:"Không có tên!" Hỏi:"Sao lại không có tên?" Nữ lang cũng chỉ mỉm cười, chẳng đáp, rồi hỏi lại:"Quê chàng ở đâu?" Đáp:"Ở huyện Lạc Dương, tỉnh Hà Nam!" Hỏi:"Ở với ai?" Đáp:"Với chú em ruột!" Hỏi:"Tiểu thúc tên chi?" Đáp:"Tên Đại Khí!" Hỏi:"Tiểu thúc có vợ chưa?" Đáp:"Mới đính hôn song chưa tới ngày cưới thì vị hôn thê đã mất!" Đang thủ thỉ với Đại Dụng, bỗng Cát Cân ngồi nhỏm dậy, nói:"Thiếp phải về thôi, chẳng thể ở lại đây thêm được nữa vì nhà thiếp nhiều tai mắt lắm! Chừng nào có dịp, thiếp sẽ trở lại thăm. À mà trái cầu ở đầu giường chẳng phải là của thiếp đâu!" Đại Dụng hỏi: "Thế thì của ai?" Đáp:"Của Ngọc Bản!" Hỏi:"Ngọc Bản là ai?" Đáp:"Là con ông chú ruột, nữ khách tối qua tới lôi thiếp đi đấu cờ ấy mà!" Hỏi: "Sao lại để ở phòng nàng?" Đáp:"Vì mấy hôm trước, Ngọc Bản tới chơi rồi bỏ quên, thiếp lấy khăn phủ lên cho khỏi bụi. Có thể cất giữ chiếc khăn còn trái cầu thì phải đem ra mà trả lại!" Đại Dụng bèn đi lấy trái cầu đem ra. Cát Cân đỡ lấy rồi cáo biệt.
Cát Cân về rồi mà Đại Dụng thấy chăn gối vẫn còn đượm hương thơm kỳ lạ như ở chiếc khăn màu tím. Từ đó, cứ cách một tối Cát Cân lại tới phòng trọ, ân ái với Đại Dụng một lần. Đại Dụng đâm ra mê mẩn tâm thần, quên cả chuyện về quê.
Một tối, ân ái xong, Cát Cân hỏi: "Ở trọ lâu ngày thế này mà chẳng làm ăn chi thì lấy tiền đâu ra mà sinh sống?" Đại Dụng đáp:"Thú thực với nàng, vì hết tiền nên đã phải đem cầm chiếc áo lạnh. Nay chắc lại sắp phải đem bán nốt con ngựa!" Nói:"Chỉ vì gái mà bị nhẵn túi rồi lại phải đem cầm chiếc áo lạnh! Bây giờ chỉ còn có một con ngựa để về quê mà cũng toan đem bán thì lấy gì mà về? Thôi đừng có bán! Để thiếp tặng cho ít vàng mà tiêu vì thiếp có để dành được chút của riêng!" Đại Dụng lắc đầu, nói:"Ân huệ nàng ban chưa chút báo đáp, nay lại nhận vàng của nàng mà sống, thì đâu còn phải là người đàn ông?" Cát Cân cứ nài ép, nói:"Nếu chẳng chịu nhận thì vay vậy! Lúc nào có thì trả cả vốn lẫn lời!" Nói xong, nắm lấy tay Đại Dụng, lôi ra vườn. Tới một gốc mẫu đơn, Cát Cân nói:"Vần giùm tảng đá này sang bên!" Đại Dụng làm theo lời. Cát Cân rút trâm cài đầu, thọc xuống đất thăm dò rồi dừng lại, nói:"Bới giùm chỗ đất này lên đi!" Đại Dụng lại làm theo lời. Bới sâu được chừng một thước, Đại Dụng thấy một nắp hũ lộ ra. Cát Cân bèn thò tay xuống mở nắp hũ, lôi lên năm mươi đĩnh vàng. Đại Dụng nắm tay Cát Cân cản lại, song Cát Cân chẳng nghe, cứ lôi lên thêm mười đĩnh nữa, đưa cả cho Đại Dụng. Đại Dụng lắc đầu, nói: "Nhiều quá! Có cất trở lại một nửa thì mới dám vay!" Cát Cân đành làm theo lời. Đại Dụng bèn đậy nắp hũ, lấp đất lại, rồi vần tảng đá đè lên như cũ.
Tháng sau, một tối, ân ái xong, Cát Cân nói: "Mấy hôm nay, thiên hạ xì xầm bàn tán về chuyện chúng mình! Chẳng thể tiếp tục sống như thế này được nữa!" Đại Dụng kinh hãi quá, hỏi: "Đã hết sức cẩn thận, chẳng hề hở chuyện ra, sao thiên hạ vẫn biết? Nếu quả là đã vỡ lở thì cũng chẳng biết tính sao! Nàng có cách gì, xin hãy chỉ cho, dù có thế nào, cũng xin gánh chịu!" Cát Cân nói:"Chỉ còn một cách là chàng lên đường về quê trước, còn thiếp thì ở lại đây thu xếp công việc! Khi nào thu xếp xong, thiếp sẽ tới Lạc Dương chung sống!" Nói xong, từ biệt.
Đại Dụng bèn tức tốc sửa soạn hành trang, trả lại nhà cho chủ rồi lên ngựa về quê. Dọc đường, Đại Dụng định bụng sẽ dùng tiền bạc vừa vay được để sửa sang lại nhà cửa mà đón rước giai nhân.
Vừa về tới nhà, Đại Dụng thấy một cỗ xe sang trọng đậu ngay ở trước cổng nên lấy làm lạ, bèn tới gần để coi. Thấy Cát Cân với Tang mụ mụ mở cửa xe bước xuống, Đại Dụng kinh ngạc, hỏi:"Sao lại có thể về đây sớm thế?" Cát Cân mỉm cười, đáp:"Đừng có hỏi nữa! Hãy khuân hết mười hũ vàng trong xe vào nhà mà cất đi!" Đại Dụng liền làm theo lời. Cát Cân bèn dắt Tang mụ mụ và xa phu vào nhà, rồi nói:"Hãy mời tiểu thúc ra đây mà giới thiệu. Cứ giới thiệu thiếp là vợ chàng, mới cưới ở Tào Châu!" Đại Dụng gật đầu rồi lên tiếng gọi Đại Khí. Biết là anh đã về, Đại Khí vội chạy ra. Đại Dụng bèn giới thiệu mọi người với nhau. Cát Cân rất thân thiện với Đại Khí, hỏi thăm đủ mọi chuyện ở Lạc Dương. Sau đó, Cát Cân đi tắm gội, trang điểm, rồi ra bảo Đại Dụng dắt mình sang chào bà con lối xóm.
Hôm sau, bà con lối xóm đều đem quà sang mừng. Ai cũng công nhận tân nương là một giai nhân tuyệt sắc, song ai cũng thắc mắc về lai lịch của tân nương. Đại Dụng cứ nơm nớp lo sợ về việc thiên hạ sẽ biết được lai lịch của vợ mình song Cát Cân thì lại rất thản nhiên. Đại Dụng nói:"Chỉ sợ thiên hạ biết được lai lịch của nàng thôi!" Cát Cân nói:"Việc chi mà phải sợ? Thiên hạ có biết thì cũng chẳng sao! Thiếp là con nhà thế gia chứ có phải là gái giang hồ đâu mà phải sợ?"
Tháng sau. Một hôm Cát Cân nói với chồng: "Tướng tiểu thúc khá hơn tướng lang quân nhiều. Nay vị hôn thê của tiểu thúc đã mất, thiếp muốn làm mai Ngọc Bản cho! Nhan sắc Ngọc Bản cũng chẳng đến nỗi nào!" Đại Dụng cười, nói:"Sao nàng khiêm tốn thế? Nhan sắc Ngọc Bản cũng ngang ngửa với nhan sắc nàng! Chỉ sợ Ngọc Bản chẳng ưng Đại Khí thôi! Nếu nàng nghĩ là Ngọc Bản có thể ưng Đại Khí thì nàng hãy làm mai giùm đi!" Cát Cân nói:"Lang quân hãy thử ướm ý tiểu thúc xem sao đã!" Đột nhiên, Đại Dụng tỏ vẻ ngần ngại, nói:"Chỉ sợ hai anh em cùng lấy hai chị em ở Tào Châu, thiên hạ sẽ nghi ngờ, rồi dò la được lai lịch của hai nàng thì phiền lắm!" Cát Cân nói:"Hai chị em thiếp cùng là con nhà thế gia thì có điều chi mà lang quân phải sợ? Chỉ cần lang quân ướm ý tiểu thúc giùm thôi! Mọi việc khác, cứ để thiếp chu toàn!" Đại Dụng bèn đi tìm em, hỏi ý. Thấy anh nói nhan sắc Ngọc Bản chẳng thua chi nhan sắc chị dâu, Đại Khí ưng ngay. Đại Dụng bèn vào phòng thuật lại cho vợ nghe, rồi hỏi:"Bây giờ phải làm thế nào?" Cát Cân đáp:"Dễ lắm! Chỉ cần sai Tang mụ mụ tới Tào Châu đón Ngọc Bản về đây là xong!" Hỏi:"Ngọc Bản đã biết diện mạo, tính nết Đại Khí ra sao đâu mà quyết định?" Đáp:"Ngọc Bản thân với thiếp và tin thiếp lắm! Thiếp sẽ dặn Tang mụ mụ thuật lại cho Ngọc Bản nghe tất cả mọi điều thiếp nghĩ về tiểu thúc!" Nói xong, Cát Cân gọi Tang mụ mụ lên dặn dò mọi chuyện rồi sai xa phu rong xe chở Tang mụ mụ đi Tào Châu ngay hôm ấy.
Bốn hôm sau. Vào buổi chiều, xe tới Tào Châu. Tang mụ mụ bảo xa phu dừng xe ở ngoài cổng huyện, rồi nằm nghỉ trong xe. Chờ tới tối, Tang mụ mụ mới xuống xe, vào huyện một mình. Lát sau, Tang mụ mụ trở ra, dắt theo Ngọc Bản. Xe lăn bánh, ngày đi, đêm nghỉ.
Ở nhà, Cát Cân đã tính sẵn ngày giờ. Đúng ngày, Cát Cân bảo Đại Khí cưỡi ngựa ra ngoài năm mươi dặm mà đón tân nương. Đại Khí vâng lời, phục sức sang trọng, cưỡi ngựa đi đón giai nhân. Đi được ngoài năm mươi dặm, Đại Khí bèn ghìm ngựa đứng ở bên đường mà đón. Lát sau, xe chở Ngọc Bản về tới. Tang mụ mụ bèn bảo xa phu dừng xe để giới thiệu Ngọc Bản và Đại Khí với nhau. Sau đó, Tang mụ mụ bảo Đại Khí lên xe ngồi chung với Ngọc Bản, bảo xa phu buộc chung hai ngựa mà chạy. Tới nhà, Đại Khí thấy chị dâu đã sửa soạn đầy đủ hôn lễ cho mình, có cả âm nhạc. Cát Cân và Ngọc Bản gặp nhau thì vô cùng mừng rỡ, cứ ôm lấy nhau mà hàn huyên. Tới giờ, Cát Cân bảo Ngọc Bản cùng Đại Khí làm lễ giao bái. Tối ấy, hai người làm lễ hợp cẩn, động phòng hoa chúc. Thế rồi Đại Khí và vợ cùng ở chung với anh và chị dâu, rất mực thuận hòa vui vẻ.
Ba năm sau, Cát Cân và Ngọc Bản, mỗi người sanh được một bé trai kháu khỉnh. Nhờ mười hũ vàng cũng như nhờ tài quán xuyến của Cát Cân, Đại Dụng trở thành cự phú ở trong vùng. Đại Dụng bèn lấy tiền ra xây cất một dinh cơ hai từng lầu, rất mực sang trọng.
Một hôm, có một bọn cướp, chừng sáu chục tên, kéo tới vây dinh cơ. Thấy biến, Đại Dụng vội sai gia nhân khóa chặt mọi cửa, đưa cả nhà lên lầu. Bọn cướp đột nhập dinh cơ, lấy củi chất quanh chân lầu, đòi chủ nhân ra mặt cho chúng nói chuyện. Đại Dụng bèn ra đứng ở lan can, nhìn xuống, hỏi:"Có thù oán chi nhau mà tới vây nhà?" Tên đầu sỏ đáp:"Cần chi phải có thù oán mới tới vây nhà? Tới đây vì muốn hai điều. Thứ nhất là nghe đồn nhị vị phu nhân đẹp lắm, có một không hai trên trần thế nên muốn được xem mặt. Thứ nhì là nghe đồn gia đình giàu lắm nên muốn mỗi người trong bọn được tặng năm trăm đồng vàng!" Nói xong, dọa đốt lầu. Đại Dụng đành nói:"Vui lòng cho mỗi kẻ năm trăm đồng, song chẳng thể cho thấy mặt các phu nhân được!" Bọn cướp không nghe, cứ dọa đốt lầu. Gia nhân đều tái xanh mày mặt. Cát Cân bèn nói với chồng:"Lang quân cứ để thiếp và Ngọc Bản xuống lầu cho bọn chúng thấy mặt!" Đại Dụng nói:"Đâu có được!" Cát Cân nói:"Thì lang quân cứ để mặc thiếp đối phó với bọn chúng xem sao!" Đại Dụng đành im lặng.
Cát Cân bèn bảo Ngọc Bản cùng mình đi trang điểm thực lộng lẫy. Sau đó, Cát Cân dắt tay Ngọc Bản từ từ bước xuống lầu, mở cửa chính, ra nhìn bọn cướp khắp lượt, rồi nói:"Chị em ta đều là tiên nữ trên thượng giới, tạm thời phải xuống trần thế một thời gian. Chủ nhân gia đình này đã đồng ý cho bọn bay ba vạn đồng vàng mà bọn bay còn đòi được thấy mặt chị em ta thì quả thực là bọn bay chẳng biết điều chút nào! Bọn bay chỉ có đủ phước để được hưởng một trong hai điều mà bọn bay yêu sách thôi! Bây giờ bọn bay đã được thấy mặt chị em ta rồi thì đâu còn phước để được hưởng tiền bạc nữa?" Nghe thấy thế, bọn cướp vội đồng loạt quỳ xuống đất, rập đầu lạy Cát Cân và Ngọc Bản, chỉ trừ tên đầu sỏ chẳng chịu quỳ, cứ đứng yên mà nhìn chòng chọc vào hai người.
Cát Cân nói xong, dắt tay Ngọc Bản, cùng quay vào nhà. Tên đầu sỏ bèn nói:"Nó vọng ngôn đó chứ tiên với cú gì!" Nghe thấy thế, Cát Cân quay phắt người lại, nhìn tên đầu sỏ, hỏi:"Vậy bọn bay muốn gì? Nếu biết điều mà rút lui ngay thì cũng chưa muộn. Nếu không thì chớ trách là ta tàn nhẫn!" Bọn cướp đưa mắt nhìn nhau, phân vân chẳng biết nên làm thế nào. Cát Cân bèn bỏ mặc bọn cướp, dắt Ngọc Bản vào nhà, bước lên lầu. Bọn cướp cùng đứng dậy, ngây người nhìn theo. Thấy Cát Cân và Ngọc Bản bước lên đến lưng chừng cầu thang thì đột nhiên cùng biến mất, bọn cướp kinh hãi quá, hò nhau bỏ chạy, chẳng dám quay đầu nhìn lại.
Từ đó, hai anh em lại sống yên vui với hai người vợ đẹp trong cảnh giàu sang. Đại Khí thì chẳng thắc mắc chi về lai lịch của Cát Cân và Ngọc Bản, song Đại Dụng thì nghĩ rằng vợ mình và em dâu chẳng phải là hai tiểu thư thế gia vì chẳng thấy thế gia nào tới huyện Lạc Dương này lùng kiếm con gái trốn nhà cả! Đại Dụng chẳng dám nói ý ấy cho vợ biết mà chỉ nuôi ý đi Tào Châu một chuyến để dò la lai lịch của vợ và em dâu.
Một hôm, Cát Cân nói với chồng:"Trước kia, thiếp vẫn giấu lang quân, nói rằng thiếp không có họ! Nay mình đã có con với nhau nên thiếp thú thực là thiếp họ Ngụy, con gái của Tào Quốc Phu Nhân ở Tào Châu!" Đại Dụng chẳng tin vì nghĩ rằng khi mình còn ở Tào Châu có bao giờ thấy ai nói về một thế gia họ Ngụy nào đâu?
Một hôm, Đại Dụng nói với vợ:"Ta có việc cần phải đi ít bữa, nhờ nàng ở nhà quán xuyến mọi việc!" Cát Cân nói:"Lang quân cứ an tâm mà đi! Mọi việc ở nhà để mặc thiếp lo!" Đại Dụng bèn lên đường đi Tào Châu.
Tới nơi, Đại Dụng dò hỏi thì được biết là ở Tào Châu chẳng có thế gia họ Ngụy nào. Thế nhưng, khi tới thăm căn nhà trọ năm xưa thì thấy trên vách quả có một bài thơ đề Tặng Tào Quốc Phu Nhân. Đại Dụng thắc mắc lắm, bèn nhẩm thuộc bài thơ rồi đi tìm chủ nhà, hỏi: "Trong căn nhà tiểu sinh thuê trọ năm xưa, trên vách có bài thơ đề Tặng Tào Quốc Phu Nhân. Tiên sinh cư ngụ ở đây đã từ lâu, chắc biết Tào Quốc Phu Nhân là ai chứ?" Chủ nhà gật đầu, mỉm cười, đáp:"Biết chứ! Quý khách có muốn gặp Tào Quốc Phu Nhân không?" Đại Dụng kinh ngạc, hỏi:"Có thể gặp được sao?" Chủ nhà gật đầu, đáp: "Sao lại không?" rồi dẫn Đại Dụng ra vườn. Tới một gốc mẫu đơn cao, chủ nhà chỉ cây, nói:"Tào Quốc Phu Nhân đó!" Đại Dụng kinh ngạc, hỏi:"Sao cây mẫu đơn này lại được gọi là Tào Quốc Phu Nhân?" Chủ nhà cười, đáp:"Vì nó cao nhất và đẹp nhất Tào Châu nên thiên hạ đùa bỡn, phong cho nó lộng danh là Tào Quốc Phu Nhân!" Lại hỏi: "Cây này thuộc giống mẫu đơn nào?" Đáp:"Thuộc giống Cát Cân, trổ hoa màu tím!" Nghe thấy thế, Đại Dụng càng kinh hãi, thầm nghĩ chắc vợ mình là thần của cây mẫu đơn này. Đại Dụng bèn cám ơn chủ nhà rồi lên đường về quê.
Tới nhà, Đại Dụng chẳng dám hỏi han chi vợ. Sáng sau, muốn dò xét tình ý vợ, Đại Dụng bèn ngâm nga bài thơ Tặng Tào Quốc Phu Nhân đề trên vách nhà trọ ở Tào Châu. Nghe thấy chồng ngâm nga bài thơ ấy, đột nhiên Cát Cân tái mặt, nói:"Ba năm trước đây, vì cảm mối tình tương tư của lang quân nên thiếp mới lấy thân mà báo đáp. Nay thấy lang quân đã nghi ngờ thiếp thì chúng mình chẳng thể sống chung với nhau được nữa!" Nói xong, liền lớn tiếng gọi:"Ngọc Bản!" Đại Dụng chợt thấy Ngọc Bản ẵm hai đứa bé tới. Đột nhiên, hai chị em ẵm hai đứa bé, quẳng ra sân, Đại Dụng kinh hãi quá, đưa mắt nhìn theo thì thấy hai đứa bé rớt xuống sân rồi biến mất. Quay đầu nhìn lại thì thấy cả Cát Cân và Ngọc Bản cũng đã biến mất. Lúc đó Đại Dụng mới tự trách mình là tò mò thắc mắc làm chi cho mất cả vợ con cùng em dâu và cháu! Hai hôm sau, ở chỗ hai đứa bé rớt xuống, bỗng nảy ra hai mầm mẫu đơn. Chỉ qua một đêm, hai mầm ấy đã trở thành hai cây mẫu đơn thực cao, đường kính thân cây dài hơn một thước.
Năm sau. Hai cây cùng trổ hoa. Một cây trổ hoa màu tím, một cây trổ hoa màu trắng, đóa nào cũng lớn bằng hai nắm tay, cánh nhiều và dày. Đại Dụng đi hỏi những người sành chơi hoa thì được biết cây hoa màu tím thuộc giống mẫu đơn Cát Cân còn cây hoa màu trắng thuộc giống mẫu đơn Ngọc Bản. Hai giống mẫu đơn này rất quý, khác hẳn các giống mẫu đơn thông thường khác.
Hai năm sau. Hai cây này sinh sôi nảy nở ra nhiều cây con, hoa trổ rợp sân. Đại Dụng bèn đánh hết các cây ở sân đem ra trồng ở vườn thì thấy mỗi cây lại biến thành một giống mẫu đơn khác, chẳng biết tên chi.
Từ đó, vườn mẫu đơn của hai anh em họ Thường nổi tiếng là vườn hoa đẹp nhất huyện Lạc Dương.
Lan hương dĩ thị giáng vân xa
Hà tất tiên nguyên cánh phiếm tra
Tỉnh đắc thu phong đoàn phiến lãnh
Bất ưng lưu tử chỉ lưu hoa
Huyện Lạc Dương, tỉnh Hà Nam, có hai anh em nho sinh họ Thường, chung sống trong ngôi nhà của cha mẹ để lại. Người anh tên Đại Dụng, 21 tuổi, còn độc thân. Người em tên Đại Khí, 19 tuổi, đã đính hôn song sắp tới ngày cưới thì vị hôn thê bị bạo bệnh mà mất.
Đại Dụng rất mê hoa mẫu đơn. Nghe đồn huyện Tào Châu tỉnh Sơn Đông giáp vùng Tề, Lỗ, có nhiều giống mẫu đơn đẹp nổi tiếng, Đại Dụng vẫn ước ao có dịp được tới thăm Tào Châu một chuyến.
Năm ấy, vào khoảng đầu tháng hai, một hôm có việc phải đi Tào Châu, Đại Dụng mừng lắm, vội sắm sửa hành trang, dặn dò em mọi gia vụ, rồi lên đường.
Tới Tào Châu, dạo quanh huyện thành, chợt thấy một vườn mẫu đơn rộng lớn, trong có căn nhà bỏ trống với hòn núi giả, Đại Dụng bèn vào hỏi thuê. Chủ nhà bằng lòng cho thuê. Đại Dụng liền đem hành trang vào cư ngụ. Lúc đó, mẫu đơn mới trổ nụ chứ chưa nở hoa.
Thu xếp xong công việc, Đại Dụng chưa chịu về, nán lưu lại Tào Châu để xem hoa nở. Ngày nào Đại Dụng cũng quanh quẩn ở trong vườn, mong hoa sớm nở cho mình thưởng ngoạn. Chẳng bao lâu, hoa nở rộ đầy vườn. Đại Dụng thích quá, lấy giấy bút ra vườn ngắm hoa mà làm thơ, ca tụng vẻ đẹp của mẫu đơn. Đại Dụng làm được đến trên một trăm bài thơ. Tháng sau, khi tiền lưng đã cạn, Đại Dụng đem cầm chiếc áo lạnh, lấy tiền lưu lại Tào Châu thêm ít bữa để thưởng ngoạn mẫu đơn.
Một sáng, Đại Dụng ra vườn ngắm hoa thì chợt thấy ở cuối vườn có một nữ lang, phục sức cung trang màu tím, với một bà lão, cùng đứng ngắm hoa. Thầm nghĩ nữ lang là một tiểu thư con nhà thế gia trong vùng, Đại Dụng vội rúc vào núp trong bụi cây cạnh hòn núi giả, chẳng dám giáp mặt vì sợ gặp chuyện rắc rối với thế gia.
Lát sau, nữ lang thôi ngắm hoa, leo lên hòn núi giả ngồi nghỉ, còn bà lão thì đứng cạnh canh chừng. Từ trong bụi cây, Đại Dụng chú mục dòm lén thì thấy nữ lang có một vẻ đẹp phi phàm không thấy có ở các giai nhân trần thế. Vì thế, Đại Dụng nảy ý chắc nữ lang là tiên nữ thượng giới chứ chẳng phải là tiểu thư phàm trần! Cứ thắc mắc mãi về lai lịch của nữ lang, Đại Dụng cảm thấy bứt rứt khó chịu nên quyết định chui ra khỏi bụi cây, rảo bước tới hòn núi giả để hỏi cho ra lẽ. Thấy một nho sinh bước tới chỗ nương tử mình ngồi, bà lão vội nhảy ra cản đường, quát:"Cuồng sinh này làm chi vậy?" Đại Dụng kinh hãi quá, vội quỳ xuống đất, chắp tay đáp:"Tiểu sinh có dám làm chi đâu! Chỉ muốn tới hỏi thăm xem nương tử đây có phải là tiên nữ thượng giới hay không mà thôi!" Bà lão quát:"Đừng có nói xàm! Cút đi ngay, kẻo ta bắt giải lên huyện, xin quan trị tội bây giờ!" Đại Dụng chẳng dám nói chi thêm mà cũng chẳng dám đứng dậy, cứ quỳ yên ở dưới đất. Thấy thế, nữ lang mỉm cười, nói:"Mụ mụ ơi! Mặc người ta! Mình về đi thôi!" Bà lão vội quay người lại, đỡ nữ lang xuống đất rồi dắt đi. Chờ cho hai người đi khuất vào lùm cây ở cuối vườn, Đại Dụng mới dám đứng dậy, thất thểu về phòng.
Vào phòng, Đại Dụng nằm vật xuống giường, thấp thỏm lo rằng thế nào bà lão cũng sẽ về mách với huynh trưởng thế gia về chuyện mình tò mò hỏi lai lịch của nữ lang, và rồi thế nào huynh trưởng thế gia cũng sẽ sai người nhà tới đây hỏi tội mình. Đại Dụng đâm ra hối hận, tự trách mình tò mò làm chi cho sinh chuyện. Vì lo sợ, hối hận, nên suốt đêm ấy, Đại Dụng chẳng hề chợp mắt.
Sáng sau, Đại Dụng hồi hộp chờ đợi người nhà thế gia tới hỏi tội, song chờ từ sáng tới chiều cũng chẳng thấy chi! Vì thế, Đại Dụng lại nảy ý chắc nữ lang là tiên nữ thượng giới! Rồi đâm ra tương tư, tưởng nhớ nhan sắc và tiếng nói của nữ lang đến mất ăn mất ngủ. Ba ngày sau, Đại Dụng soi gương thì thấy mặt mũi hốc hác hẳn đi.
Tối ấy, Đại Dụng thắp đèn, ngồi tựa lưng vào ghế mà tương tư nữ lang. Đột nhiên, thấy lồng ngực khó thở, đầu óc đần độn, rồi chợt thấy bà lão, tay cầm bình rượu, đẩy cửa bước vào phòng, nói:"Nương tử nhà lão thân tự tay pha chế bình rượu độc này, sai lão thân đưa tới, bảo cuồng sinh phải uống ngay đi!" Nghe thấy thế, Đại Dụng lấy làm lạ, nói:"Tiểu sinh với nương tử nhà lão bà là hai người xa lạ, có thù oán gì với nhau đâu? Vì thế, tiểu sinh chẳng tin là nương tử nhà lão bà lại bắt tiểu sinh phải uống rượu độc! Tuy nhiên, nếu rượu này quả là rượu độc do chính tay nương tử nhà lão bà pha chế thì tiểu sinh xin uống hết ngay! Chết đi cho rồi, chứ sống mà tương tư trong tuyệt vọng như thế này thì cũng khổ lắm!" Nói xong, Đại Dụng đứng dậy đỡ lấy bình rượu trong tay bà lão mà uống một hơi cạn sạch, rồi trả lại chiếc bình. Bà lão mỉm cười, đỡ lấy chiếc bình, đem về.
Đại Dụng lại ngồi xuống ghế. Thấy rượu thơm mát Đại Dụng thầm nghĩ chắc chẳng phải là rượu độc. Lát sau, Đại Dụng ngà ngà say rồi ngủ thiếp đi.
Sáng sau, khi thức giấc, thấy lồng ngực dễ thở, đầu óc minh mẫn, căn bệnh hôm qua đã biến mất, Đại Dụng càng tin rằng nữ lang là tiên nữ, đã cho mình uống rượu tiên để chữa bệnh. Cũng vì tin như thế mà Đại Dụng nghĩ rằng mình chẳng thể nào kết duyên được với nữ lang. Tuy nhiên, vì đang tương tư nữ lang nên trong đầu Đại Dụng lúc nào cũng có hình bóng của nữ lang phảng phất. Đại Dụng bèn quỳ xuống đất, lầm rầm khấn khứa, cầu xin nữ lang cho mình được gặp mặt.
Mấy hôm sau, khi mẫu đơn bắt đầu tàn, Đại Dụng tản bộ vào khu rừng gần nhà trọ để ngắm hoa rừng. Khi tới gần một tảng đá, chợt thấy nữ lang cũng đang đứng ngắm hoa, Đại Dụng mừng quá, vội quỳ xuống đất lạy nữ lang. Nữ lang liền bước tới, cầm tay Đại Dụng nâng dậy. Thấy hơi ấm từ da thịt nõn nà của nữ lang truyền sang tay mình, Đại Dụng bỗng cảm thấy sung sướng đê mê, níu chặt lấy cánh tay nữ lang mà đứng dậy. Nữ lang nhìn Đại Dụng, mỉm cười. Đại Dụng toan lên tiếng hỏi thì chợt thấy bà lão từ xa bước tới, nên kinh hãi quá, mặt mày xanh xám, chẳng biết phải làm thế nào. Chợt nghe thấy tiếng nữ lang nói khẽ:"Hãy vòng ra phía sau tảng đá này mà núp. Tối nay, cố tìm một chiếc thang, vác về phía nam khu rừng này. Khi thấy tòa nhà có tường kín vây quanh thì dựa thang vào tường mà leo lên. Vào trong, tìm phòng có cửa sổ màu hồng!" Nói xong, nữ lang vội chạy ùa tới chỗ bà lão, nắm tay bà lão kéo đi.
Đại Dụng mừng quá, lật đật chạy về, đi tìm chủ nhà, mượn được chiếc thang, đem vào phòng mình, mong trời chóng tối. Khi trời vừa tối, Đại Dụng vội vác thang trở lại khu rừng, theo hướng nam mà đi. Lát sau, quả nhiên thấy một tòa nhà có bức tường kín vây quanh, Đại Dụng vội dựa thang vào tường mà leo lên. Thấy ở bên trong, có một chiếc thang, dựa sẵn vào tường, Đại Dụng mừng quá, vội vàng leo xuống. Đảo mắt nhìn quanh, thấy một căn phòng có cửa sổ màu hồng, Đại Dụng chạy tới, áp tai vào tường mà nghe. Thấy có tiếng quân cờ lách cách, Đại Dụng chẳng dám đột nhập, chỉ đứng ở ngoài, mong cuộc cờ chóng dứt. Chờ mãi mà tiếng quân cờ vẫn còn, Đại Dụng chán nản nên leo ra. Ra ngoài, suy nghĩ hồi lâu, lại leo vào. Thấy tiếng quân cờ vẫn chưa dứt, Đại Dụng bèn ghé mắt vào lỗ hổng trên tường dòm lén thì thấy nữ lang đang ngồi đấu cờ với một nữ khách áo trắng, bên phải có bà lão ngồi coi, bên trái có tì nữ chắp tay đứng hầu. Đại Dụng chán nản, lại leo ra. Ra ngoài, tiếc rẻ, lại leo vào. Thấy đã quá nửa đêm mà tiếng quân cờ vẫn còn, Đại Dụng lại leo ra. Ra ngoài, tiếc rẻ, toan leo vào thì chợt nghe thấy tiếng bà lão hỏi tì nữ: "Ai đem thang ra dựa vào tường thế kia? Hãy ra lấy cất vào nhà!" Đại Dụng kinh hãi quá, vội lăn mình xuống sát chân tường, nằm im, nín thở. Khi thấy lặng tiếng người, Đại Dụng mới dám leo lên. Thấy chiếc thang bên trong đã biến mất, Đại Dụng đành leo xuống, vác thang về.
Tối sau, Đại Dụng lại vác thang tới tòa nhà, leo lên. Thấy bên trong đã có chiếc thang bắc sẵn như tối trước, Đại Dụng vội leo xuống, chạy tới phòng nữ lang, áp tai vào tường mà nghe. Thấy im lặng, Đại Dụng mừng quá, vội mở cửa lẻn vào thì thấy nữ lang đang ngồi chống tay nâng cằm, mắt nhắm như người đang suy nghĩ. Thấy động, nữ lang giật mình, mở mắt nhìn. Nhận ra là Đại Dụng, nữ lang chợt đỏ mặt thẹn thùng. Đại Dụng lên tiếng:"Tiểu sinh vẫn nghĩ mình bạc phước, chẳng thể nào gặp được nương tử, thế mà chẳng ngờ tối nay lại được gặp!" Nữ lang chưa kịp đáp thì chợt nghe có tiếng nữ khách ở ngoài cửa, nên vội lấy tay chỉ gầm giường, nói: "Chui vào đây mà trốn!" rồi lại ngồi xuống ghế. Đại Dụng kinh hãi quá, vội chui vào gầm giường. Chợt có tiếng cửa phòng kẹt mở, rồi có tiếng nữ khách hỏi:"Thế nào? Tối nay bại tướng đã chuẩn bị chiến thuật cầm quân để phục thù tiểu muội về mấy trận thua tối qua chưa? Tiểu muội vừa pha xong bình trà ngon nên sang đây rước đại tỉ qua nhà tiểu muội uống trà, đấu cờ!" Nữ lang từ chối, nói: "Tối nay, ngu tỉ thấy trong người mệt lắm, chỉ muốn ở nhà thôi!" Nữ khách cứ nằn nì mời mọc, song nữ lang vẫn một mực chối từ. Thấy thế, nữ khách cười, nói:"Tự nhiên tối nay đại tỉ lại dở chứng, chẳng muốn sang nhà tiểu muội chơi. Hay là đã giấu nam nhân ở trong phòng?" Nữ lang lặng im, chẳng đáp. Đại Dụng nằm trong gầm giường, nghe thấy thế thì chột dạ, lo sợ lắm. Chợt nữ khách cười, nói:"Đại tỉ chẳng muốn đi thì tiểu muội cũng cứ lôi đi!" rồi tới kéo nữ lang đứng dậy, lôi ra khỏi phòng. Thấy thế, Đại Dụng oán hận nữ khách là đã làm cho mình mất một dịp may để được tâm sự với nữ lang.
Lát sau, thấy lặng tiếng người, Đại Dụng mới bò ra khỏi gầm giường. Thấy trên chiếc đôn kê ở đầu giường có một trái cầu thủy tinh, phủ một chiếc khăn màu tím, Đại Dụng chợt nảy ý lấy đem về để nữ lang thấy mất, ắt sẽ tới nhà mình đòi. Đại Dụng bèn gấp chiếc khăn đút túi, rồi ôm trái cầu ra khỏi phòng, leo qua tường, vác thang về.
Tới nhà, Đại Dụng cất kỹ trái cầu rồi lên giường nằm, rút chiếc khăn trong túi ra, phủ lên mặt. Thấy một hương thơm kỳ lạ từ chiếc khăn tỏa ra, Đại Dụng cứ tưởng tượng như hương thơm từ thân thể nữ lang còn vương lại. Thế rồi Đại Dụng đê mê, ngủ thiếp đi. Khi thức giấc thì thấy trời đã quá trưa.
Tối ấy, Đại Dụng đang ngồi trong phòng, chợt nghe có tiếng gõ cửa, vội chạy ra mở thì thấy khách chính là nữ lang. Đại Dụng mừng quá, xoắn xuýt mời vào, kéo ghế mời ngồi. Nữ lang cười, nói:"Trước kia cứ tưởng là người quân tử. Nay mới biết cũng chỉ là kẻ đạo tặc!" Đại Dụng nói:"Nương tử nghĩ thế thực sao? Sở dĩ tiểu sinh có hành động phi quân tử ấy cũng chỉ vì muốn được gặp nương tử đó thôi! Bấy lâu, tiểu sinh vẫn nửa tin nửa ngờ rằng nương tử là tiên nữ, nhưng nay mới thực rõ nương tử quả là tiên! May mắn được nương tử để mắt tới, tiểu sinh rất lấy làm hân hạnh. Thế nhưng, tiểu sinh cũng tự hiểu rằng chẳng thể nào được kết duyên với nương tử vì tiên nữ mà xuống phàm trần thì trước sau gì cũng sẽ bỏ hạ giới mà bay về trời!" Nữ lang cười, nói: "Sao mà tưởng tượng viển vông quá thế? Ai là tiên nữ đâu? Thiếp cũng chỉ là một nữ tử bình thường thôi! Tình cờ gặp chàng thì bị xúc tình mà sinh luyến ái! Tối nay tới để hiến thân đây!" Nghe thấy thế, Đại Dụng mừng quá, vội chạy a tới, toan bồng nữ lang lên giường. Chợt thấy nữ lang đưa tay ra cản, Đại Dụng khựng người, chẳng hiểu tại sao. Nữ lang cười, nói: "Khoan đã! Nếu chàng nghĩ chẳng thể giữ kín được chuyện chúng mình thì nên chia tay nhau ngay từ bây giờ còn hơn là để sau này miệng tiếng thiên hạ buộc phải lìa tan! Phải kín miệng mới được, chứ tới tai thiên hạ thì chẳng thể mọc cánh mà bay được đâu!" Đại Dụng mừng quá, vội đáp: "Tưởng là chuyện chi, chứ nếu chỉ có thế thì tiểu sinh xin thề là sẽ giữ kín chuyện chúng mình!" Nói xong, liền chạy tới ôm chầm lấy nữ lang, bồng lên giường mà ân ái. Ân ái xong, hai người nằm thủ thỉ chuyện trò. Đại Dụng hỏi: "Nàng tên chi?" Nữ lang đáp:"Vẫn cho thiếp là tiên thì tiên đâu cần phải có tên?" Rồi cười, nói: "Nhưng vì thiếp chỉ là một nữ tử bình thường nên cũng có tên như mọi người. Thiếp tên Cát Cân!" Đại Dụng hỏi:"Nàng họ chi?" Đáp:"Không có họ!" Hỏi:"Sao lại không có họ?" Nữ lang chỉ mỉm cười, chẳng đáp. Lại hỏi:"Thế bà lão thường đi theo nàng là ai?" Đáp:"Là mụ mụ! Mụ mụ nuôi thiếp từ hồi còn nhỏ. Vì thế, bây giờ thiếp coi mụ mụ như nhũ mẫu chứ chẳng coi như tì bộc!" Hỏi:"Mụ mụ có họ không?" Đáp:"Có!" Hỏi:"Họ chi?" Đáp:"Họ Tang!" Hỏi: "Mụ mụ tên chi?" Đáp:"Không có tên!" Hỏi:"Sao lại không có tên?" Nữ lang cũng chỉ mỉm cười, chẳng đáp, rồi hỏi lại:"Quê chàng ở đâu?" Đáp:"Ở huyện Lạc Dương, tỉnh Hà Nam!" Hỏi:"Ở với ai?" Đáp:"Với chú em ruột!" Hỏi:"Tiểu thúc tên chi?" Đáp:"Tên Đại Khí!" Hỏi:"Tiểu thúc có vợ chưa?" Đáp:"Mới đính hôn song chưa tới ngày cưới thì vị hôn thê đã mất!" Đang thủ thỉ với Đại Dụng, bỗng Cát Cân ngồi nhỏm dậy, nói:"Thiếp phải về thôi, chẳng thể ở lại đây thêm được nữa vì nhà thiếp nhiều tai mắt lắm! Chừng nào có dịp, thiếp sẽ trở lại thăm. À mà trái cầu ở đầu giường chẳng phải là của thiếp đâu!" Đại Dụng hỏi: "Thế thì của ai?" Đáp:"Của Ngọc Bản!" Hỏi:"Ngọc Bản là ai?" Đáp:"Là con ông chú ruột, nữ khách tối qua tới lôi thiếp đi đấu cờ ấy mà!" Hỏi: "Sao lại để ở phòng nàng?" Đáp:"Vì mấy hôm trước, Ngọc Bản tới chơi rồi bỏ quên, thiếp lấy khăn phủ lên cho khỏi bụi. Có thể cất giữ chiếc khăn còn trái cầu thì phải đem ra mà trả lại!" Đại Dụng bèn đi lấy trái cầu đem ra. Cát Cân đỡ lấy rồi cáo biệt.
Cát Cân về rồi mà Đại Dụng thấy chăn gối vẫn còn đượm hương thơm kỳ lạ như ở chiếc khăn màu tím. Từ đó, cứ cách một tối Cát Cân lại tới phòng trọ, ân ái với Đại Dụng một lần. Đại Dụng đâm ra mê mẩn tâm thần, quên cả chuyện về quê.
Một tối, ân ái xong, Cát Cân hỏi: "Ở trọ lâu ngày thế này mà chẳng làm ăn chi thì lấy tiền đâu ra mà sinh sống?" Đại Dụng đáp:"Thú thực với nàng, vì hết tiền nên đã phải đem cầm chiếc áo lạnh. Nay chắc lại sắp phải đem bán nốt con ngựa!" Nói:"Chỉ vì gái mà bị nhẵn túi rồi lại phải đem cầm chiếc áo lạnh! Bây giờ chỉ còn có một con ngựa để về quê mà cũng toan đem bán thì lấy gì mà về? Thôi đừng có bán! Để thiếp tặng cho ít vàng mà tiêu vì thiếp có để dành được chút của riêng!" Đại Dụng lắc đầu, nói:"Ân huệ nàng ban chưa chút báo đáp, nay lại nhận vàng của nàng mà sống, thì đâu còn phải là người đàn ông?" Cát Cân cứ nài ép, nói:"Nếu chẳng chịu nhận thì vay vậy! Lúc nào có thì trả cả vốn lẫn lời!" Nói xong, nắm lấy tay Đại Dụng, lôi ra vườn. Tới một gốc mẫu đơn, Cát Cân nói:"Vần giùm tảng đá này sang bên!" Đại Dụng làm theo lời. Cát Cân rút trâm cài đầu, thọc xuống đất thăm dò rồi dừng lại, nói:"Bới giùm chỗ đất này lên đi!" Đại Dụng lại làm theo lời. Bới sâu được chừng một thước, Đại Dụng thấy một nắp hũ lộ ra. Cát Cân bèn thò tay xuống mở nắp hũ, lôi lên năm mươi đĩnh vàng. Đại Dụng nắm tay Cát Cân cản lại, song Cát Cân chẳng nghe, cứ lôi lên thêm mười đĩnh nữa, đưa cả cho Đại Dụng. Đại Dụng lắc đầu, nói: "Nhiều quá! Có cất trở lại một nửa thì mới dám vay!" Cát Cân đành làm theo lời. Đại Dụng bèn đậy nắp hũ, lấp đất lại, rồi vần tảng đá đè lên như cũ.
Tháng sau, một tối, ân ái xong, Cát Cân nói: "Mấy hôm nay, thiên hạ xì xầm bàn tán về chuyện chúng mình! Chẳng thể tiếp tục sống như thế này được nữa!" Đại Dụng kinh hãi quá, hỏi: "Đã hết sức cẩn thận, chẳng hề hở chuyện ra, sao thiên hạ vẫn biết? Nếu quả là đã vỡ lở thì cũng chẳng biết tính sao! Nàng có cách gì, xin hãy chỉ cho, dù có thế nào, cũng xin gánh chịu!" Cát Cân nói:"Chỉ còn một cách là chàng lên đường về quê trước, còn thiếp thì ở lại đây thu xếp công việc! Khi nào thu xếp xong, thiếp sẽ tới Lạc Dương chung sống!" Nói xong, từ biệt.
Đại Dụng bèn tức tốc sửa soạn hành trang, trả lại nhà cho chủ rồi lên ngựa về quê. Dọc đường, Đại Dụng định bụng sẽ dùng tiền bạc vừa vay được để sửa sang lại nhà cửa mà đón rước giai nhân.
Vừa về tới nhà, Đại Dụng thấy một cỗ xe sang trọng đậu ngay ở trước cổng nên lấy làm lạ, bèn tới gần để coi. Thấy Cát Cân với Tang mụ mụ mở cửa xe bước xuống, Đại Dụng kinh ngạc, hỏi:"Sao lại có thể về đây sớm thế?" Cát Cân mỉm cười, đáp:"Đừng có hỏi nữa! Hãy khuân hết mười hũ vàng trong xe vào nhà mà cất đi!" Đại Dụng liền làm theo lời. Cát Cân bèn dắt Tang mụ mụ và xa phu vào nhà, rồi nói:"Hãy mời tiểu thúc ra đây mà giới thiệu. Cứ giới thiệu thiếp là vợ chàng, mới cưới ở Tào Châu!" Đại Dụng gật đầu rồi lên tiếng gọi Đại Khí. Biết là anh đã về, Đại Khí vội chạy ra. Đại Dụng bèn giới thiệu mọi người với nhau. Cát Cân rất thân thiện với Đại Khí, hỏi thăm đủ mọi chuyện ở Lạc Dương. Sau đó, Cát Cân đi tắm gội, trang điểm, rồi ra bảo Đại Dụng dắt mình sang chào bà con lối xóm.
Hôm sau, bà con lối xóm đều đem quà sang mừng. Ai cũng công nhận tân nương là một giai nhân tuyệt sắc, song ai cũng thắc mắc về lai lịch của tân nương. Đại Dụng cứ nơm nớp lo sợ về việc thiên hạ sẽ biết được lai lịch của vợ mình song Cát Cân thì lại rất thản nhiên. Đại Dụng nói:"Chỉ sợ thiên hạ biết được lai lịch của nàng thôi!" Cát Cân nói:"Việc chi mà phải sợ? Thiên hạ có biết thì cũng chẳng sao! Thiếp là con nhà thế gia chứ có phải là gái giang hồ đâu mà phải sợ?"
Tháng sau. Một hôm Cát Cân nói với chồng: "Tướng tiểu thúc khá hơn tướng lang quân nhiều. Nay vị hôn thê của tiểu thúc đã mất, thiếp muốn làm mai Ngọc Bản cho! Nhan sắc Ngọc Bản cũng chẳng đến nỗi nào!" Đại Dụng cười, nói:"Sao nàng khiêm tốn thế? Nhan sắc Ngọc Bản cũng ngang ngửa với nhan sắc nàng! Chỉ sợ Ngọc Bản chẳng ưng Đại Khí thôi! Nếu nàng nghĩ là Ngọc Bản có thể ưng Đại Khí thì nàng hãy làm mai giùm đi!" Cát Cân nói:"Lang quân hãy thử ướm ý tiểu thúc xem sao đã!" Đột nhiên, Đại Dụng tỏ vẻ ngần ngại, nói:"Chỉ sợ hai anh em cùng lấy hai chị em ở Tào Châu, thiên hạ sẽ nghi ngờ, rồi dò la được lai lịch của hai nàng thì phiền lắm!" Cát Cân nói:"Hai chị em thiếp cùng là con nhà thế gia thì có điều chi mà lang quân phải sợ? Chỉ cần lang quân ướm ý tiểu thúc giùm thôi! Mọi việc khác, cứ để thiếp chu toàn!" Đại Dụng bèn đi tìm em, hỏi ý. Thấy anh nói nhan sắc Ngọc Bản chẳng thua chi nhan sắc chị dâu, Đại Khí ưng ngay. Đại Dụng bèn vào phòng thuật lại cho vợ nghe, rồi hỏi:"Bây giờ phải làm thế nào?" Cát Cân đáp:"Dễ lắm! Chỉ cần sai Tang mụ mụ tới Tào Châu đón Ngọc Bản về đây là xong!" Hỏi:"Ngọc Bản đã biết diện mạo, tính nết Đại Khí ra sao đâu mà quyết định?" Đáp:"Ngọc Bản thân với thiếp và tin thiếp lắm! Thiếp sẽ dặn Tang mụ mụ thuật lại cho Ngọc Bản nghe tất cả mọi điều thiếp nghĩ về tiểu thúc!" Nói xong, Cát Cân gọi Tang mụ mụ lên dặn dò mọi chuyện rồi sai xa phu rong xe chở Tang mụ mụ đi Tào Châu ngay hôm ấy.
Bốn hôm sau. Vào buổi chiều, xe tới Tào Châu. Tang mụ mụ bảo xa phu dừng xe ở ngoài cổng huyện, rồi nằm nghỉ trong xe. Chờ tới tối, Tang mụ mụ mới xuống xe, vào huyện một mình. Lát sau, Tang mụ mụ trở ra, dắt theo Ngọc Bản. Xe lăn bánh, ngày đi, đêm nghỉ.
Ở nhà, Cát Cân đã tính sẵn ngày giờ. Đúng ngày, Cát Cân bảo Đại Khí cưỡi ngựa ra ngoài năm mươi dặm mà đón tân nương. Đại Khí vâng lời, phục sức sang trọng, cưỡi ngựa đi đón giai nhân. Đi được ngoài năm mươi dặm, Đại Khí bèn ghìm ngựa đứng ở bên đường mà đón. Lát sau, xe chở Ngọc Bản về tới. Tang mụ mụ bèn bảo xa phu dừng xe để giới thiệu Ngọc Bản và Đại Khí với nhau. Sau đó, Tang mụ mụ bảo Đại Khí lên xe ngồi chung với Ngọc Bản, bảo xa phu buộc chung hai ngựa mà chạy. Tới nhà, Đại Khí thấy chị dâu đã sửa soạn đầy đủ hôn lễ cho mình, có cả âm nhạc. Cát Cân và Ngọc Bản gặp nhau thì vô cùng mừng rỡ, cứ ôm lấy nhau mà hàn huyên. Tới giờ, Cát Cân bảo Ngọc Bản cùng Đại Khí làm lễ giao bái. Tối ấy, hai người làm lễ hợp cẩn, động phòng hoa chúc. Thế rồi Đại Khí và vợ cùng ở chung với anh và chị dâu, rất mực thuận hòa vui vẻ.
Ba năm sau, Cát Cân và Ngọc Bản, mỗi người sanh được một bé trai kháu khỉnh. Nhờ mười hũ vàng cũng như nhờ tài quán xuyến của Cát Cân, Đại Dụng trở thành cự phú ở trong vùng. Đại Dụng bèn lấy tiền ra xây cất một dinh cơ hai từng lầu, rất mực sang trọng.
Một hôm, có một bọn cướp, chừng sáu chục tên, kéo tới vây dinh cơ. Thấy biến, Đại Dụng vội sai gia nhân khóa chặt mọi cửa, đưa cả nhà lên lầu. Bọn cướp đột nhập dinh cơ, lấy củi chất quanh chân lầu, đòi chủ nhân ra mặt cho chúng nói chuyện. Đại Dụng bèn ra đứng ở lan can, nhìn xuống, hỏi:"Có thù oán chi nhau mà tới vây nhà?" Tên đầu sỏ đáp:"Cần chi phải có thù oán mới tới vây nhà? Tới đây vì muốn hai điều. Thứ nhất là nghe đồn nhị vị phu nhân đẹp lắm, có một không hai trên trần thế nên muốn được xem mặt. Thứ nhì là nghe đồn gia đình giàu lắm nên muốn mỗi người trong bọn được tặng năm trăm đồng vàng!" Nói xong, dọa đốt lầu. Đại Dụng đành nói:"Vui lòng cho mỗi kẻ năm trăm đồng, song chẳng thể cho thấy mặt các phu nhân được!" Bọn cướp không nghe, cứ dọa đốt lầu. Gia nhân đều tái xanh mày mặt. Cát Cân bèn nói với chồng:"Lang quân cứ để thiếp và Ngọc Bản xuống lầu cho bọn chúng thấy mặt!" Đại Dụng nói:"Đâu có được!" Cát Cân nói:"Thì lang quân cứ để mặc thiếp đối phó với bọn chúng xem sao!" Đại Dụng đành im lặng.
Cát Cân bèn bảo Ngọc Bản cùng mình đi trang điểm thực lộng lẫy. Sau đó, Cát Cân dắt tay Ngọc Bản từ từ bước xuống lầu, mở cửa chính, ra nhìn bọn cướp khắp lượt, rồi nói:"Chị em ta đều là tiên nữ trên thượng giới, tạm thời phải xuống trần thế một thời gian. Chủ nhân gia đình này đã đồng ý cho bọn bay ba vạn đồng vàng mà bọn bay còn đòi được thấy mặt chị em ta thì quả thực là bọn bay chẳng biết điều chút nào! Bọn bay chỉ có đủ phước để được hưởng một trong hai điều mà bọn bay yêu sách thôi! Bây giờ bọn bay đã được thấy mặt chị em ta rồi thì đâu còn phước để được hưởng tiền bạc nữa?" Nghe thấy thế, bọn cướp vội đồng loạt quỳ xuống đất, rập đầu lạy Cát Cân và Ngọc Bản, chỉ trừ tên đầu sỏ chẳng chịu quỳ, cứ đứng yên mà nhìn chòng chọc vào hai người.
Cát Cân nói xong, dắt tay Ngọc Bản, cùng quay vào nhà. Tên đầu sỏ bèn nói:"Nó vọng ngôn đó chứ tiên với cú gì!" Nghe thấy thế, Cát Cân quay phắt người lại, nhìn tên đầu sỏ, hỏi:"Vậy bọn bay muốn gì? Nếu biết điều mà rút lui ngay thì cũng chưa muộn. Nếu không thì chớ trách là ta tàn nhẫn!" Bọn cướp đưa mắt nhìn nhau, phân vân chẳng biết nên làm thế nào. Cát Cân bèn bỏ mặc bọn cướp, dắt Ngọc Bản vào nhà, bước lên lầu. Bọn cướp cùng đứng dậy, ngây người nhìn theo. Thấy Cát Cân và Ngọc Bản bước lên đến lưng chừng cầu thang thì đột nhiên cùng biến mất, bọn cướp kinh hãi quá, hò nhau bỏ chạy, chẳng dám quay đầu nhìn lại.
Từ đó, hai anh em lại sống yên vui với hai người vợ đẹp trong cảnh giàu sang. Đại Khí thì chẳng thắc mắc chi về lai lịch của Cát Cân và Ngọc Bản, song Đại Dụng thì nghĩ rằng vợ mình và em dâu chẳng phải là hai tiểu thư thế gia vì chẳng thấy thế gia nào tới huyện Lạc Dương này lùng kiếm con gái trốn nhà cả! Đại Dụng chẳng dám nói ý ấy cho vợ biết mà chỉ nuôi ý đi Tào Châu một chuyến để dò la lai lịch của vợ và em dâu.
Một hôm, Cát Cân nói với chồng:"Trước kia, thiếp vẫn giấu lang quân, nói rằng thiếp không có họ! Nay mình đã có con với nhau nên thiếp thú thực là thiếp họ Ngụy, con gái của Tào Quốc Phu Nhân ở Tào Châu!" Đại Dụng chẳng tin vì nghĩ rằng khi mình còn ở Tào Châu có bao giờ thấy ai nói về một thế gia họ Ngụy nào đâu?
Một hôm, Đại Dụng nói với vợ:"Ta có việc cần phải đi ít bữa, nhờ nàng ở nhà quán xuyến mọi việc!" Cát Cân nói:"Lang quân cứ an tâm mà đi! Mọi việc ở nhà để mặc thiếp lo!" Đại Dụng bèn lên đường đi Tào Châu.
Tới nơi, Đại Dụng dò hỏi thì được biết là ở Tào Châu chẳng có thế gia họ Ngụy nào. Thế nhưng, khi tới thăm căn nhà trọ năm xưa thì thấy trên vách quả có một bài thơ đề Tặng Tào Quốc Phu Nhân. Đại Dụng thắc mắc lắm, bèn nhẩm thuộc bài thơ rồi đi tìm chủ nhà, hỏi: "Trong căn nhà tiểu sinh thuê trọ năm xưa, trên vách có bài thơ đề Tặng Tào Quốc Phu Nhân. Tiên sinh cư ngụ ở đây đã từ lâu, chắc biết Tào Quốc Phu Nhân là ai chứ?" Chủ nhà gật đầu, mỉm cười, đáp:"Biết chứ! Quý khách có muốn gặp Tào Quốc Phu Nhân không?" Đại Dụng kinh ngạc, hỏi:"Có thể gặp được sao?" Chủ nhà gật đầu, đáp: "Sao lại không?" rồi dẫn Đại Dụng ra vườn. Tới một gốc mẫu đơn cao, chủ nhà chỉ cây, nói:"Tào Quốc Phu Nhân đó!" Đại Dụng kinh ngạc, hỏi:"Sao cây mẫu đơn này lại được gọi là Tào Quốc Phu Nhân?" Chủ nhà cười, đáp:"Vì nó cao nhất và đẹp nhất Tào Châu nên thiên hạ đùa bỡn, phong cho nó lộng danh là Tào Quốc Phu Nhân!" Lại hỏi: "Cây này thuộc giống mẫu đơn nào?" Đáp:"Thuộc giống Cát Cân, trổ hoa màu tím!" Nghe thấy thế, Đại Dụng càng kinh hãi, thầm nghĩ chắc vợ mình là thần của cây mẫu đơn này. Đại Dụng bèn cám ơn chủ nhà rồi lên đường về quê.
Tới nhà, Đại Dụng chẳng dám hỏi han chi vợ. Sáng sau, muốn dò xét tình ý vợ, Đại Dụng bèn ngâm nga bài thơ Tặng Tào Quốc Phu Nhân đề trên vách nhà trọ ở Tào Châu. Nghe thấy chồng ngâm nga bài thơ ấy, đột nhiên Cát Cân tái mặt, nói:"Ba năm trước đây, vì cảm mối tình tương tư của lang quân nên thiếp mới lấy thân mà báo đáp. Nay thấy lang quân đã nghi ngờ thiếp thì chúng mình chẳng thể sống chung với nhau được nữa!" Nói xong, liền lớn tiếng gọi:"Ngọc Bản!" Đại Dụng chợt thấy Ngọc Bản ẵm hai đứa bé tới. Đột nhiên, hai chị em ẵm hai đứa bé, quẳng ra sân, Đại Dụng kinh hãi quá, đưa mắt nhìn theo thì thấy hai đứa bé rớt xuống sân rồi biến mất. Quay đầu nhìn lại thì thấy cả Cát Cân và Ngọc Bản cũng đã biến mất. Lúc đó Đại Dụng mới tự trách mình là tò mò thắc mắc làm chi cho mất cả vợ con cùng em dâu và cháu! Hai hôm sau, ở chỗ hai đứa bé rớt xuống, bỗng nảy ra hai mầm mẫu đơn. Chỉ qua một đêm, hai mầm ấy đã trở thành hai cây mẫu đơn thực cao, đường kính thân cây dài hơn một thước.
Năm sau. Hai cây cùng trổ hoa. Một cây trổ hoa màu tím, một cây trổ hoa màu trắng, đóa nào cũng lớn bằng hai nắm tay, cánh nhiều và dày. Đại Dụng đi hỏi những người sành chơi hoa thì được biết cây hoa màu tím thuộc giống mẫu đơn Cát Cân còn cây hoa màu trắng thuộc giống mẫu đơn Ngọc Bản. Hai giống mẫu đơn này rất quý, khác hẳn các giống mẫu đơn thông thường khác.
Hai năm sau. Hai cây này sinh sôi nảy nở ra nhiều cây con, hoa trổ rợp sân. Đại Dụng bèn đánh hết các cây ở sân đem ra trồng ở vườn thì thấy mỗi cây lại biến thành một giống mẫu đơn khác, chẳng biết tên chi.
Từ đó, vườn mẫu đơn của hai anh em họ Thường nổi tiếng là vườn hoa đẹp nhất huyện Lạc Dương.
LẤY VỢ MA
(truyện SƯƠNG QUẦN)
Đệ huynh ác thủ tụ tuyền đài
Đẩu tửu bôi canh dạ quỷ lai
Tư thí huyết ngân lưu ngọc uyển
Tảo tri hữu ý hướng cao tài
Huyện Diên An, tỉnh Thiểm Tây, có hai anh em nho sinh họ Yến, thương yêu nhau lắm. Người anh tên Bá, gầy gò ốm yếu, người em tên Trọng, rắn chắc khoẻ mạnh. Mỗi người đều được cha mẹ để lại cho một ngôi nhà rộng lớn và khá nhiều của cải.
Yến Bá đã có vợ, người họ Loan. Yến Trọng thì còn độc thân. Năm Yến Bá 31 tuổi, đột nhiên bị bạo bệnh mà mất. Loan thị buồn quá nên mấy tháng sau cũng mất theo chồng. Vì vợ chồng Yến Bá không có con nên Yến Trọng phải đứng ra quản lý tài sản của anh chị. Yến Trọng thương anh chị lắm, định bụng sau này nếu mình có vợ, sanh được hai trai, thì sẽ bắt đứa lớn làm con anh chị để khói hương cho người quá cố. Yến Trọng có hai người bạn học thân, một người họ Đổng, một người họ Lương. Năm ấy, Lương sinh cũng bị bạo bệnh mà mất.
Tám năm sau, Yến Trọng lấy vợ, người họ Bộc. Năm sau, Bộc thị sanh trai, đặt tên là A Ngạc. Ít lâu sau, Bộc thị bị bạo bệnh mà mất, Yến Trọng phải gà trống nuôi con. Hết tang vợ, Yến Trọng toan tục huyền nhưng rồi sợ vợ kế đối xử tệ bạc với con nên lại đổi ý, chỉ muốn mua nàng hầu.
Một hôm đầu xuân, nghe nói ở làng bên có một gia đình muốn bán con gái, Yến Trọng bèn đi coi mắt. Tới nơi, thấy cô gái chẳng vừa ý, Yến Trọng không mua. Lúc về, gặp Đổng sinh mời về nhà uống rượu, Yến Trọng liền nhận lời. Tới nơi, uống say rồi xin cáo biệt.
Trên đường về, lại gặp Lương sinh mời về nhà uống rượu. Vì đang say, Yến Trọng quên bẵng việc Lương sinh đã chết từ lâu nên lại nhận lời. Tới nơi, thấy nhà cửa khác lạ, Yến Trọng hỏi:"Sao nhà cửa của huynh lại khác lạ thế?" Lương sinh đáp:"Đây là ngôi nhà mới của đệ chứ có phải là ngôi nhà cũ mà huynh vẫn thường tới chơi đâu?" Rồi nói tiếp:"Nhà đệ vừa hết rượu! Phiền huynh ngồi chơi để đệ đi mua!" Yến Trọng gật đầu.
Chờ mãi chẳng thấy Lương sinh về, Yến Trọng bèn ra cổng đứng ngóng. Chợt thấy một thiếu phụ cưỡi lừa đi qua, có một thằng bé chừng bảy tám tuổi lẽo đẽo theo sau, Yến Trọng đưa mắt nhìn. Thấy đứa bé giống anh mình như đúc, Yến Trọng giật mình kinh hãi, chạy ra hỏi: "Cháu họ gì?" Đứa bé vừa đi vừa đáp: "Cháu họ Yến" Yến Trọng càng lấy làm lạ, bèn đi theo đứa bé, hỏi: "Cháu tên gì?" Đáp: "Cháu tên A Tiểu!" Hỏi:"Bố tên gì?" A Tiểu đáp: "Cháu không biết!" Thuận chân, Yến Trọng cứ đi theo A Tiểu mà hỏi chuyện. Có chuyện nó trả lời rành rẽ, có chuyện nó đáp không biết.
Đi được chừng ba dặm, tới cổng một ngôi nhà bên đường, bỗng Yến Trọng thấy thiếu phụ xuống lừa, dắt vào nhà. Yến Trọng hỏi A Tiểu: "Có phải đây là nhà của Bố không?" A Tiểu gật đầu. Hỏi: "Bố có nhà không?" A Tiểu cũng gật đầu. Yến Trọng nói: "Vào thưa với Bố là có khách xin vào thăm!" A Tiểu lại gật đầu rồi ù té chạy vào nhà.
Lát sau, có một người đàn bà từ trong nhà đi ra cổng. Vừa nhìn thấy Yến Trọng, người đàn bà kinh ngạc, thốt lên: "Trời ơi! Chú Trọng! Đi đâu mà lại lạc tới đây?" Nhận ra người đàn bà là chị dâu mình, Yến Trọng mừng quá, đáp: "Em tới thăm người bạn ở gần đây! Em đang đứng ở cổng ngóng bạn đi mua rượu về thì gặp cháu A Tiểu đi qua. Thấy nó giống anh quá nên em theo nó tới đây!" Loan thị nói:"Mời chú vào nhà!" Yến Trọng bèn theo chị dâu vào phòng khách. Đưa mắt nhìn quanh, Yến Trọng thấy ngôi nhà đúng là ngôi nhà của anh chị mình song đã được sửa sang lại. Loan thị chỉ chiếc sập, nói: "Chú ngồi xuống sập này mà nói chuyện!" Yến Trọng bèn ngồi xuống sập, rồi hỏi: "Anh đâu?" Loan thị đáp: "Anh chú đi đòi nợ!" Hỏi: "Ở đâu?" Đáp :"Ở nhà hai anh em họ Lý!" Hỏi: "Có xa đây không?" Đáp: "Cũng gần đây thôi!" Hỏi: "Thiếu phụ vừa dắt lừa vào nhà là ai thế?" Đáp: "Là nàng hầu của anh chú đấy!" Hỏi: "Chị ấy họ gì?" Đáp:"Họ Cam!" Hỏi: "Chị ấy về đây đã lâu chưa?" Đáp: "Cũng được hơn mười năm rồi!" Hỏi: "Thế còn cháu A Tiểu là ai?" Đáp: "Là con của anh chú với cô Cam!" Hỏi: "Chị Cam với anh được mấy cháu?" Đáp: "Được hai đứa!" Hỏi: "Cháu kia tên gì?" Đáp: "Tên A Đại, anh thằng A Tiểu!" Hỏi: "Cháu A Đại đâu?" Đáp: "Nó đi chơi, chưa về!" Hỏi: "Thế anh chị không có con gái ư?" Đáp: "Không!" Chuyện trò tới đây, bỗng Yến Trọng tỉnh rượu. Sực nhớ Lương sinh cũng như anh chị mình đều đã chết từ lâu, Yến Trọng biết rằng mình đang ở âm phủ. Tuy nhiên, vì thấy mình đang ở nhà anh chị nên Yến Trọng cũng chẳng sợ hãi chi. Loan thị nói: "Chú cứ ngồi đây chơi, để tôi xuống bếp làm cơm!" Nói xong, bước ra khỏi phòng. Lát sau, A Tiểu bưng lên một mâm cơm, nói: "Mẹ cháu bảo cháu mời chú sơi cơm!" Yến Trọng nói: "Chú chưa muốn ăn! Chú chỉ muốn gặp Bố thôi! Hãy đi tìm Bố về đây ngay cho chú! Cứ nói có chú Trọng đang chờ Bố ở nhà là Bố hiểu!" A Tiểu đáp: "Vâng" rồi vụt chạy đi. Lát sau, A Tiểu chạy về, nói: "Hai anh em họ Lý đã chẳng chịu trả nợ lại còn đánh bố cháu, nên cháu chưa nói được lời nào!" Yến Trọng liền bảo :"Hãy dắt chú tới đó ngay!" A Tiểu gật đầu rồi vụt chạy ra khỏi cổng. Yến Trọng vội chạy theo.
Vừa tới sân nhà họ Lý, Yến Trọng thấy anh mình đang bị hai người xúm lại vật ngã xuống đất thì nổi giận, nhảy tới đấm đá hai người. Một người ngã lăn xuống đất, còn người kia bỏ chạy vào nhà, khoá cửa lại. Yến Trọng tới nâng anh dậy. Thấy em mình tới chốn này, Yến Bá kinh ngạc lắm, hỏi: "Chú đi đâu mà lại lạc tới đây?" Yến Trọng xua tay, đáp:" Để về nhà, em sẽ xin nói rõ!" Yến Bá bèn cùng Yến Trọng và A Tiểu ra về.
Tới nhà, Yến Bá chỉ chiếc sập, nói: "Chú ngồi xuống sập này mà nói chuyện!" Loan thị vội gạt đi, nói: "Sao ông không mời chú Trọng ngồi vào bàn, vừa ăn vừa nói có hơn không?" Yến Bá nghe lời, bèn bảo cả nhà ngồi vào bàn ăn uống. Đang lúc nói chuyện, bỗng Yến Trọng thấy một thiếu niên chừng chín mười tuổi mở cửa bước vào phòng. Yến Bá liền gọi thiếu niên tới bàn, giới thiệu: "Đây là cháu A Đại, anh cháu A Tiểu! Còn đây là chú Trọng, em ruột bố! Chào chú đi con!" A Đại liền cúi đầu chào. Yến Trọng bèn đứng dậy, tới dắt tay A Đại đến chiếc ghế cạnh mình, bảo ngồi xuống, ăn uống với gia đình. Thấy A Đại và A Tiểu cùng sáng sủa, khoẻ mạnh, Yến Trọng chợt nảy ý, nói: "Trên dương thế, em bị góa vợ, phải chăm sóc con nhỏ, chẳng có thì giờ trông nom phần mộ cho anh chị được, thực là buồn quá! Bây giờ, dưới âm phủ, anh chị có hai đứa con trai thì xin anh chị cho một đứa theo em về dương thế để nó trông nom phần mộ cho anh chị!" Loan thị bèn nói với chồng: "Chú Trọng nói thế, tôi nghĩ cũng phải! Ông nên cho thằng A Tiểu theo chú ấy về dương thế, để nó trông nom phần mộ cho vợ chồng mình!" Yến Bá gật đầu, tỏ vẻ ưng thuận.
A Tiểu tuy chẳng hiểu dương thế là gì song khi nghe nói được về dương thế thì cũng thích lắm, cứ tới chỗ Yến Trọng, gục đầu vào khuỷu tay, tỏ vẻ quyến luyến. Yến Trọng bèn đưa tay xoa đầu A Tiểu, hỏi: "Cháu có thích theo chú về dương thế không?" A Tiểu đáp: "Thích!" Yến Bá nói: "Nếu chú cho nó theo về thì đừng chiều nó. Ngày nào chú cũng phải bắt nó ăn thịt cá và hôm nào nắng ráo cũng phải bắt nó ra đứng phơi nắng ngoài trời từ sáng tới quá trưa. Làm như thế trải đủ bốn mùa xuân hạ thu đông thì nó mới cứng cáp như người sống được! Sau này, khi nó lớn, nó có thể lấy vợ sanh con, song tôi nghĩ nó cũng chẳng thọ được lâu đâu!" Trong khi ăn uống, Yến Trọng chợt thấy một thiếu nữ rất đẹp, dáng điệu ôn uyển, đứng lấp ló ở ngoài cửa phòng khách. Yến Trọng bèn hỏi: "Anh chị không có con gái thì thiếu nữ đứng lấp ló ở ngoài kia là ai thế?" Yến Bá đáp: "Cô ấy là em ruột nàng hầu của tôi!" Hỏi: "Cô ấy tên chi?" Đáp: "Tên Sương Quần!" Hỏi: "Tại sao cô ấy lại ở đây?" Đáp: "Hai chị em cô ấy mồ côi từ hồi còn nhỏ. Khi tôi mua cô chị về làm nàng hầu thì cô chị xin cho cô em được về theo. Vì thế, cô em theo cô chị tới đây cư ngụ cũng được hơn mười năm rồi!" Yến Trọng im lặng. Lát sau, Yến Trọng chợt hỏi: "Cô ấy đã đính hôn với ai chưa?" Yến Bá đáp: "Chưa. Gần đây có bà mai tới hỏi cho con trai nhà họ Điền ở xóm đông, nhưng cô ấy không chịu" Chợt Yến Trọng nghe thấy tiếng thiếu nữ lẩm bẩm ở ngoài cửa: "Tôi chẳng chịu lấy cái anh chăn trâu nhà họ Điền ấy đâu!" Thấy thế, Yến Trọng bỗng cảm thấy lòng mình xao xuyến song chưa dám thổ lộ cho anh chị biết.
Lát sau, Yến Bá nói: "Tối nay, chú ở lại đây mà ngủ!" Trước lúc thấy Sương Quần, Yến Trọng định bụng sau khi cơm nước, sẽ xin cáo biệt, song từ lúc thấy Sương Quần, Yến Trọng đâm ra quyến luyến, nên lại đổi ý. Vì thế khi nghe anh mời ở lại, Yến Trọng vội đáp: "Vâng!"
Ăn uống xong, Loan thị bảo A Đại và A Tiểu dẹp mâm cơm xuống bếp, còn Yến Bá thì đi lấy chiếc giường nhỏ và chăn gối đem ra phòng khách cho Yến Trọng ngủ.
Đêm ấy, vào tiết đầu xuân, khí trời còn lạnh, mà trong phòng khách lại không có lò sưởi nên tuy Yến Trọng đã đắp chăn mà vẫn còn thấy lạnh, chẳng sao ngủ được. Yến Trọng bèn vùng dậy, tới ngồi co ro ở cạnh ngọn đèn mà suy nghĩ miên man. Đang ước ao có rượu thịt để nhâm nhi thì bỗng thấy A Tiểu đẩy cửa, bưng vào một khay rượu thịt. Yến Trọng vừa mừng vừa lạ, hỏi:"Ai nướng thịt rồi bảo cháu bưng lên đây thế?" A Tiểu đáp: "Cô Sương Quần!" rồi đặt khay lên bàn, lui ra. Yến Trọng bèn rót rượu, nhâm nhi với thịt nướng. Lát sau, lại thấy A Tiểu đẩy cửa, bưng vào một lò sưởi than hồng. Yến Trọng hỏi: "Ai đốt lò sưởi rồi bảo cháu bưng lên đây thế?" A Tiểu đáp: "Cô Sương Quần!" Hỏi: "Bố Mẹ đã ngủ chưa?" Đáp: "Ngủ từ lâu rồi!" Hỏi: "Thế cháu ngủ với ai?" Đáp: "Với cô Sương Quần!" rồi đặt lò sưởi dưới gầm giường, dẹp khay rượu xuống bếp, khép cửa lại.
Yến Trọng đi nằm. Tuy thấy giường đã được sưởi ấm, song vì đầu óc cứ mơ tưởng tới khuôn mặt xinh đẹp, dáng vẻ thông minh của Sương Quần nên Yến Trọng trằn trọc suốt đêm, chẳng sao ngủ được. Yến Trọng chỉ ước ao sao cho mình lấy được Sương Quần làm kế thất, đem về dương thế để chăm sóc cho A Tiểu.
Sáng sau, vợ chồng Yến Bá tới phòng khách thăm em. Yến Trọng nói ướm: "Nay em đã góa vợ, xin anh chị để ý giùm xem có đám nào đăng đối thì làm mai cho!" Yến Bá đáp: "Nhà ta đâu có phải là nhà nghèo. Khi về dương thế, sớm muộn gì mà chú chẳng tìm được một kế thất vừa ý. Dưới âm phủ này cũng có người đẹp song tôi sợ chẳng có ích gì cho chú cả!" Yến Trọng nói: "Ngày trước, các cụ ta vẫn thường thuật chuyện người xưa hay lấy vợ ma, anh còn nhớ không?" Chợt hiểu ý em, Yến Bá nói: "Cô Sương Quần cũng đẹp song chẳng biết có làm vợ chú được hay không?" Yến Trọng hỏi :"Tại sao?" Yến Bá đáp: "Vì muốn làm vợ người dương thế thì phải có máu trong cơ thể!" Hỏi: "Làm thế nào để biết được là có máu trong cơ thể?" Đáp: "Phải lấy kim, thử chích vào cổ tay. Nếu thấy có máu ứa ra thì được, còn nếu không thấy có máu thì vô ích!" Yến Trọng nói: "Em chỉ cần lấy cô ấy về để chăm sóc cho A Tiểu thôi chứ em chẳng cần cô ấy phải sanh nở chi cả!" Nghe thấy thế, Yến Bá chỉ lắc đầu, chẳng đáp. Yến Trọng năn nỉ: "Thì anh cứ thử làm mai cho em xem sao!" Yến Bá còn đang suy nghĩ thì bỗng Loan thị lên tiếng: "Chú ấy đã muốn thế thì ông cứ để tôi đi lấy kim, thử chích vào cổ tay cô ấy xem sao?" Nói xong, Loan thị xăm xăm chạy vào phòng lấy kim. Khi đem kim ra phòng khách, tình cờ thấy Sương Quần đi qua cửa, Loan thị bèn gọi: "Sương Quần! Hãy đứng lại cho chị hỏi chuyện này!" Sương Quần tưởng thực, vội dừng chân. Loan thị liền chạy tới nắm lấy tay Sương Quần, ghé vào tai, giả vờ thì thầm. Sương Quần chẳng nghe rõ, toan lên tiếng hỏi lại, thì bất thần bị Loan thị cầm kim chích vào cổ tay, máu ứa ra. Loan thị liền buông tay Sương Quần, đứng cười ha hả. Sương Quần còn đang kinh hãi, chẳng hiểu tại sao Loan thị lại làm như thế thì đột nhiên Cam thị ở đâu chạy tới, hầm hầm tức giận, giơ ngón tay dí vào trán Sương Quần mà mắng: "Mi là con gái mà chẳng biết xấu hổ là gì! Mi mê trai, rồi bây giờ định bỏ nhà trốn đi theo trai, có phải không? Ta quyết chẳng để cho mi làm như thế!" Cả nhà cùng ngơ ngác. Sương Quần vừa thẹn vừa tức, khóc oà lên. Yến Trọng ngượng quá, vội quay nhìn anh chị, nói: "Thôi, bây giờ em xin phép anh chị cho em được dắt cháu A Tiểu về dương thế!" Loan thị gật đầu. Yến Bá cũng nói: "Ừ thôi! Chú cứ dắt cháu về dương thế trước đi! Nếu nó có nhớ nhà đòi về, chú cũng đừng cho nó về, kẻo nó bị tiêu hao dương khí, chẳng tốt!" Yến Trọng đáp: "Vâng" rồi nắm tay A Tiểu, dắt ra khỏi cổng.
Yến Trọng bảo A Tiểu dắt mình trở lại nhà Lương sinh. Tới nơi, Yến Trọng nhận ra đường cũ, bèn cứ ngược đường mà dắt A Tiểu về dương thế.
Tới nhà, Yến Trọng bịa chuyện, loan tin rằng cách đây hơn mười năm, khi anh mình còn sống, có mua một nàng hầu, giấu ở làng bên. Khi anh mình chết, nàng hầu đang hoài thai A Tiểu. Nay A Tiểu đã lên mười, mình sang làng bên, bắt về nuôi. Người làng thấy A Tiểu giống hệt Yến Bá thì tin ngay, chẳng ai thắc mắc.
Yến Trọng dạy A Tiểu tập đọc và học thuộc lòng nhiều đoạn thơ văn. Sáu tháng đầu, bị bắt học cả ngày, A Tiểu rất oán hận chú. Thấy thế, Yến Trọng bèn đổi cách dạy, cho A Tiểu vừa học vừa chơi. A Tiểu liền hết oán hận chú. Ban ngày, A Tiểu học bài. Tối đến, lên giường ngủ, đọc bài cho chú nghe. Vì A Tiểu khá thông minh, tối nào cũng thuộc bài, nên Yến Trọng mừng lắm. Vì vẫn nhớ Sương Quần, Yến Trọng bỏ ý định mua nàng hầu.
Năm sau. Một hôm Yến Trọng đang tiếp khách, bỗng nghe có tiếng gọi cổng, bèn xin phép khách chạy ra mở thì thấy Cam thị cùng Sương Quần đứng ở bên ngoài. Mừng quá, Yến Trọng vồn vã mời hai người vào phòng thờ. Vào phòng, Cam thị nói: "Xin lỗi chú! Năm ngoái, khi chú xuống chơi, tôi thấy em gái tôi đã lớn mà vẫn còn ngây ngô, chưa biết xấu hổ là gì nên tôi cố tình làm nhục nó để cho nó biết xấu hổ đấy thôi. Năm nay, tôi muốn gả chồng cho nó. Thấy chú là nơi xứng đáng nhất nên tôi đã bàn tính với anh chú cho tôi đưa nó lên đây, xin chú làm lễ thành hôn với nó!" Yến Trọng đáp: "Cám ơn chị! Em xin lãnh ý!" rồi mời Cam thị và Sương Quần ngồi chơi, xin phép trở ra tiếp khách.
Lát sau, Yến Trọng lại xin phép khách trở vào phòng thờ thì thấy Cam thị đã biến mất. Yến Trọng hỏi: "Chị Cam đâu?" Sương Quần đáp: "Chị ấy về rồi!" Hỏi: "Thế bây giờ chúng mình cần sửa soạn những gì để làm lễ thành hôn?" Đáp: "Chỉ cần sửa soạn một mâm cỗ để làm lễ giao bái là đủ!" Nói: "Nếu thế thì nàng cứ ngồi đây mà nghỉ, để ta xuống bếp bảo gia nhân sửa soạn!" Sương Quần lắc đầu, nói: "Mâm cỗ này phải do chính tay thiếp sửa soạn mới được! Chàng cứ ra tiếp khách đi!"
Yến Trọng vừa theo lời, ra khỏi phòng thì Sương Quần đã đứng dậy, vào phòng trong cởi bỏ nữ trang, thay quần áo nội trợ, rồi xuống bếp sửa soạn mâm cỗ. Yến Trọng ngồi trên phòng khách, cứ nghe thấy tiếng dao thớt lách cách ở dưới bếp.
Lát sau, Yến Trọng tiễn khách ra về. Lúc trở vào phòng thờ thì thấy cỗ bàn đã được bày la liệt trên bàn thờ, còn Sương Quần thì đã ăn mặc sang trọng, điểm trang lộng lẫy, đang ngồi chờ mình. Yến Trọng bèn đi tắm gội, ăn mặc sạch sẽ rồi trở ra phòng thờ cùng Sương Quần làm lễ giao bái.
Tối ấy, Sương Quần nói: "Tuy đã là vợ chồng, song vì bản thể âm dương bất hợp nên chúng mình phải ngủ riêng! Thiếp muốn được ngủ chung với A Tiểu!" Yến Trọng nói: "Nàng muốn ngủ riêng thì được song muốn ngủ chung với A Tiểu thì không!" Sương Quần hỏi: "Tại sao?" Yến Trọng đáp: "Vì ta đã truyền dương khí vào cơ thể cho nó được hơn một năm nay rồi! Bây giờ cơ thể nó đã ấm lại. Nếu để cho nó ngủ chung với nàng thì dương khí ấy sẽ bị tiêu hao hết!" Sương Quần nghe ra, liền gật đầu. Yến Trọng bèn sai gia nhân dọn riêng cho Sương Quần một phòng. Vì thế, tuy là vợ chồng song Yến Trọng với Sương Quần chỉ gặp nhau vào lúc ban ngày để chuyện trò, ăn uống mà thôi. Sương Quần chăm sóc A Ngạc tựa con mình. Vì thế, Yến Trọng càng quý mến Sương Quần. Bốn năm sau. Một tối, hai vợ chồng đang ngồi nói chuyện trong phòng khách, bỗng Yến Trọng lên tiếng hỏi: "Ở âm phủ, nàng có quen với người đẹp nào không?" Sương Quần đáp: "Có! Thiếp có quen với một người đẹp, dung mạo giống đàn bà dương thế lắm, mà lại khéo trang điểm nữa!" Hỏi:"Ai thế?" Đáp:"Cô hàng xóm phía đông!" Hỏi: "Tên chi?" Đáp: "Tên Linh Tiên!" Hỏi: "Họ chi?" Đáp: "Họ Uy!"Hỏi: "Nàng có hay giao thiệp với cô ấy không?" Sương Quần lắc đầu, đáp:"Không! Thiếp chỉ quen thôi chứ không hay giao thiệp!" Hỏi: "Sao thế?" Đáp: "Vì cô ấy lẳng lơ, dâm đãng lắm!" Hỏi: "Bây giờ nàng có thể mời cô ấy lên đây chơi, ngồi nói chuyện với vợ chồng mình được không?" Đáp: "Nếu chàng thích thì để thiếp mời lên! Song theo thiếp nghĩ, chàng chẳng nên kết thân với loại đàn bà ấy!" Yến Trọng nói: "Thì nàng cứ thử mời lên đây chơi cho ta gặp mặt một lần xem sao!" Sương Quần bèn đứng dậy đi lấy giấy bút đem ra bàn ngồi suy nghĩ, tựa hồ như để tìm lời viết thư. Bỗng Sương Quần khựng lại, quẳng bút đi, nói: "Không được!" Yến Trọng hỏi: "Tại sao?" Sương Quần đáp: "Vì thiếp sợ chàng sẽ bị tổn hại!" Yến Trọng nói: "Mời lên chơi, ngồi nói chuyện thì có chi mà bị tổn hại?Ợ Sương Quần ngần ngừ hồi lâu rồi nói: "Thế nhưng chàng phải hứa với thiếp rằng chàng sẽ không dụ dỗ cô ấy làm chuyện bậy bạ cơ!" Yến Trọng cười, nói: "Xin hứa!" Sương Quần bèn nhặt bút, vẽ loằng ngoằng lên giấy vài nét, làm một đạo bùa, rồi đem ra đốt ở ngoài cổng. Chờ cho đạo bùa cháy hết, Sương Quần mới vào nhà.
Lát sau, rèm động, móc kêu, rồi có tiếng cười khúc khích. Sương Quần nghi là Linh Tiên nên đứng dậy chạy ra đón thì thấy quả là Linh Tiên. Sương Quần bèn dắt vào phòng, mời ngồi xuống sập hàn huyên. Linh Tiên cười nói oang oang, song khi nhìn thấy Yến Trọng thì vội giơ tay áo lên che miệng mà nói cười nhỏ lại. Yến Trọng thấy Linh Tiên quả là một người đàn bà đẹp, dung nhan kiều diễm, mái tóc búi cao, dáng vẻ yểu điệu như người trong tranh. Sương Quần rót rượu mời khách. Linh Tiên đỡ lấy chén, vừa uống vừa nói chuyện. Vì có mặt Yến Trọng nên Linh Tiên giữ ý, nói cười nhỏ nhẹ. Tuy nhiên, chỉ sau vài tuần rượu, khi đã ngà ngà say, Linh Tiên chẳng còn kiêng kị gì nữa, cứ cười nói oang oang, thuật lại cho Sương Quần nghe đủ mọi thứ chuyện bậy bạ. Thế rồi, Linh Tiên nhìn Yến Trọng mà mỉm cười, liếc mắt đưa tình. Yến Trọng bấn loạn tâm thần, chẳng sao tự chủ được. Tuy nhiên, vì có mặt Sương Quần nên Yến Trọng cũng chưa dám có ngôn ngữ hay cử chỉ chi sàm sỡ. Sương Quần thấy thế thì theo sát Linh Tiên, chẳng dời một bước.
Lát sau, đột nhiên Linh Tiên đứng dậy, bước tới cửa, vén rèm, chạy ra sân. Sương Quần vội chạy ra theo. Yến Trọng cũng vội chạy ra theo vợ. Thấy Yến Trọng chạy ra sân, Linh Tiên bèn quay lại nắm lấy tay Yến Trọng mà kéo đi. Sương Quần còn đang ngơ ngác thì Linh Tiên đã kéo Yến Trọng vào một căn phòng bỏ ngỏ gần đó, đóng sập cửa lại. Sương Quần tức tối lắm song chẳng biết phải làm thế nào, đành phẫn uất mà quay về phòng.
Hồi lâu, Linh Tiên mới ra về. Yến Trọng vào phòng vợ nói chuyện. Sương Quần trách: "Chàng đã hứa như thế nào mà bây giờ chàng lại hành động như thế? Thiếp chỉ sợ rồi đây chàng sẽ chẳng thể dứt nổi Linh Tiên nữa thôi! Lúc đó thì dù chàng có muốn đuổi cô ấy đi cũng chẳng còn được nữa!" Yến Trọng cho là Sương Quần ghen nên chẳng được vui. Bèn từ biệt vợ mà về phòng mình.
Tối sau, Linh Tiên tự ý tới nhà Yến Trọng. Sương Quần gặp mặt song cứ lờ đi, chẳng thèm chào hỏi. Linh Tiên cũng chẳng buồn để ý, cứ đi thẳng vào phòng Yến Trọng. Hồi lâu, Linh Tiên mới ra về. Sương Quần tức tối lắm song cố dằn cơn giận.
Nửa tháng sau. Một tối, khi Linh Tiên tới, Sương Quần chẳng sao nhịn được nữa, nói: "Cô là một người đàn bà vô liêm sỉ, chẳng biết ngượng ngập là gì! Tôi yêu cầu cô hãy cút về ngay! Từ giờ trở đi, tôi cấm cô không được bén mảng tới ngôi nhà này nữa!" Linh Tiên chẳng thèm đáp, cứ sồng sộc đi thẳng vào phòng Yến Trọng.
Tháng sau. Yến Trọng ngã bệnh. Sương Quần mời thày lang tới coi mạch, hốt thuốc song bệnh tình cứ dai dẳng, chẳng thuyên giảm. Tuy Yến Trọng đã ngã bệnh song tối nào Linh Tiên cũng tới. Lúc đó Yến Trọng mới hối hận, muốn đuổi Linh Tiên đi. Yến Trọng bèn bảo Sương Quần kê giường vào phòng mình mà ngủ, để cho Linh Tiên sợ, không dám tới nữa. Sương Quần làm theo lời. Thế nhưng, Linh Tiên vẫn tới, ẩn núp quanh quất ở trong nhà. Cứ lúc nào Sương Quần có việc phải ra khỏi phòng là Linh Tiên lại lẻn vào, lên giường ép Yến Trọng giao hoan. Một tối, Sương Quần bắt gặp Linh Tiên trên giường chồng mình, bèn lấy gậy đập vào lưng. Linh Tiên khỏe hơn, giằng được gậy, đập lại Sương Quần cho tới lúc bị thương mới thôi.
Bệnh tình của Yến Trọng mỗi ngày một thêm trầm khốn. Thấy thế, Sương Quần khóc, nói: "Thiếp còn mặt mũi nào mà nhìn thấy chị Cam dưới âm phủ nữa!" Yến Trọng ngượng quá song cũng chẳng biết đối đáp ra sao.
Tuần sau, bệnh tình của Yến Trọng trở nặng. Tối ấy, Yến Trọng chết. Đang nằm trên giường, bỗng thấy có hai lính cầm trát tới bắt mình, Yến Trọng liền đứng dậy, đi theo. Lát sau, thấy đường đi có vẻ quen thuộc, Yến Trọng chợt nhận ra chính là đoạn đường từ nhà Lương sinh tới nhà anh mình khi trước. Lúc đó Yến Trọng mới biết là mình đã chết. Sờ vào túi chẳng có một đồng, Yến Trọng bèn xin lính cho mình ghé vào nhà anh để xin tiền đi đường. Lính thuận cho.
Tối ấy, Yến Bá đang ngồi trong phòng khách thì chợt thấy em bước vào, hai bên có lính âm phủ đi kèm. Yến Bá kinh hoàng tột độ, hỏi: "Sao chú lại bị bắt xuống đây?" Yến Trọng đáp: "Vì em bị bệnh ma làm!" rồi đem chuyện Linh Tiên ra thuật lại. Nghe xong, Yến Bá vào nhà trong lấy ra hai túi tiền nhỏ, đưa cho hai lính, nói: "Xin hai chú nhận cho chút quà này. Em tôi bị gái âm phủ làm tiêu hao sinh khí mà thác chứ thực ra thì mệnh số chưa hết. Vậy xin hai chú hãy thả cho em tôi được trở về dương thế. Hai chú đừng sợ bị tào quan bắt tội vì tôi sẽ cho con tôi đi thay thế!" Hai lính được tiền hối lộ, nhìn nhau hồi lâu rồi cùng gật đầu. Yến Bá liền sai A Đại rót rượu mời lính rồi sai vào nhà sửa soạn hành trang để đi theo lính. Hai lính uống rượu xong, cầm hai túi tiền, chào Yến Bá rồi dắt A Đại đi.
Yến Bá vào phòng thuật lại cho Loan thị nghe, rồi gọi Cam thị lên, bảo: "Nàng hãy sang hàng xóm mời cô Linh Tiên sang đây chơi, nhưng đừng nói cho cô ấy biết là vì chuyện gì!" Cam thị liền sang nhà Linh Tiên, rồi về nói: "Cô ấy sắp sang đó!" Lát sau, quả nhiên Linh Tiên sang. Thấy Yến Trọng đang ngồi ở trong nhà, Linh Tiên kinh hãi quá, dợm quay mình bỏ chạy thì đã bị Yến Bá nhanh tay túm được mái tóc, xoắn lại mà mắng: "Mi là một con dâm tì vô liêm sỉ! Khi sống trên dương thế, mi đã làm đãng phụ, nay chết xuống âm phủ, mi lại làm tặc quỷ. Mi vừa làm cho em tao bị tiêu hao sinh khí mà chết nên bây giờ tao phải đánh cho mi một trận nhừ đòn!" Nói xong, Yến Bá giơ tay tát túi bụi vào mặt Linh Tiên. Bị tát, tóc tai rối bù, mặt mũi phờ phạc, Linh Tiên chắp tay van lạy, khóc lóc xin tha. Mẹ Linh Tiên là U bà, nghe tiếng con khóc, cũng vội chạy sang năn nỉ: "Tôi biết con tôi có tội rồi! Xin ông tha cho nó!" Yến Bá nói: "Bà đã biết là con bà dâm đãng, sao chẳng chịu can ngăn, lại cứ để mặc cho nó đi làm hại người khác?" U bà cứng họng, chẳng biết trả lời ra sao. Yến Bá bèn nói: "Thôi! bà dắt nó về đi" U bà bèn chào Yến Bá rồi dắt Linh Tiên về. Yến Bá quay qua nói với Yến Trọng: "Chú chờ tôi sửa soạn một lát rồi tôi sẽ đưa chú về dương thế!" Nói xong, Yến Bá vào phòng trong. Lát sau, Yến Bá ra bảo Yến Trọng: "Ta đi thôi!" Hai anh em bèn lên đường. Yến Trọng thấy anh mình dắt mình đi theo đúng con đường mà năm năm về trước mình đã dắt A Tiểu về dương thế.
Tới nhà, Yến Trọng vội chạy vào phòng xem sao. Thấy xác mình còn nằm trên giường, Yến Trọng vội nhập vào rồi mở mắt ra coi thì thấy có một cảm giác bàng hoàng như người vừa tỉnh mộng. Yến Bá cũng theo em vào phòng. Sương Quần đang ở dưới bếp, nghe có tiếng động trên phòng chồng, cũng vội chạy lên coi. Thấy Yến Bá ở trong phòng, Sương Quần kinh hãi quá, song khi thấy chồng đã hồi sinh, Sương Quần lại mừng rỡ vô tả. Thấy Sương Quần vào, Yến Bá trách: "Ta với chị cô thấy cô hiền năng nên mới bàn tính với nhau đưa cô lên đây làm vợ em ta. Sao cô lại đi gọi con Linh Tiên lên đây để cho nó mê hoặc em ta tới chết? Nếu cô chẳng phải là em vợ ta thì hôm nay ta quyết phải đánh cho cô một trận nhừ đòn!" Sương Quần vừa thẹn vừa sợ, bèn sụp xuống đất lạy Yến Bá, nói: "Thiếp biết tội đã nhiều, xin đại ca tha cho!" Yến Bá nói: "Thôi, đứng dậy!" Sương Quần bèn khép nép đứng dậy, rồi thưa: "Bây giờ thiếp xin phép đại ca cho thiếp xuống bếp làm cơm để mời đại ca ở lại dùng bữa với vợ chồng thiếp và các cháu!" Yến Bá lắc đầu, đáp: "Ta bận nhiều việc lắm, phải về ngay, chẳng thể ở lại được! Hãy gọi lũ trẻ lên đây cho ta gặp mặt!" Sương Quần đáp: "Xin vâng!" rồi lui ra khỏi phòng.
Lát sau, Sương Quần dắt A Tiểu và A Ngạc vào chào Yến Bá. Năm ấy, A Tiểu đã mười ba. Thấy A Tiểu cứng cáp khoẻ mạnh, Yến Bá mừng lắm, nói: "Mi đã trở thành người dương thế rồi!" Nhận ra cha, A Tiểu cũng mừng lắm, cứ quấn quýt bên chân. Trò chuyện hồi lâu, Yến Bá nói: "Thôi, ta phải về đây!" A Tiểu đòi: "Cho con về với!" Yến Bá gạt đi, nói: "Mi ở lại đây với chú mi là sướng nhất rồi, còn đòi về làm chi?" Nói xong, xăm xăm bước ra khỏi cổng. Từ đó, Yến Bá không trở về dương thế nữa.
Mười bốn năm sau, A Tiểu hai mươi bảy, Sương Quần cưới vợ cho nó rồi cho hai vợ chồng ra ở ngôi nhà cũ của Yến Bá. Năm sau, vợ A Tiểu sanh trai, đặt tên là A Tôn. Ba năm sau, A Tiểu 31 tuổi, cũng bị bạo bệnh mà mất như cha. Khi hết tang chồng, vợ A Tiểu tái giá. Sương Quần chẳng có con, lại chăm sóc A Tôn như đã chăm sóc A Ngạc và A Tiểu khi trước.
Hai chục năm sau, A Tôn hai mươi tư. Sương Quần bèn cưới vợ cho nó rồi lại cho hai vợ chồng ra ở ngôi nhà cũ của Yến Bá. Năm ấy, Yến Trọng đã tám mươi. Một hôm, Sương Quần nói với chồng: "Đã tới lúc chúng mình phải trở về âm phủ! Bây giờ thiếp xuống trước, sửa soạn nhà cửa để sáu tháng nữa, sẽ đón chàng xuống!" Yến Trọng gật đầu. Sương Quần bèn đi tắm gội, trang điểm đẹp đẽ rồi lên giường nằm mà mất. Yến Trọng chẳng than khóc chi, vui vẻ mà làm tang lễ cho vợ. Sáu tháng sau. Quả nhiên Yến Trọng cũng mất theo.
Đệ huynh ác thủ tụ tuyền đài
Đẩu tửu bôi canh dạ quỷ lai
Tư thí huyết ngân lưu ngọc uyển
Tảo tri hữu ý hướng cao tài
Huyện Diên An, tỉnh Thiểm Tây, có hai anh em nho sinh họ Yến, thương yêu nhau lắm. Người anh tên Bá, gầy gò ốm yếu, người em tên Trọng, rắn chắc khoẻ mạnh. Mỗi người đều được cha mẹ để lại cho một ngôi nhà rộng lớn và khá nhiều của cải.
Yến Bá đã có vợ, người họ Loan. Yến Trọng thì còn độc thân. Năm Yến Bá 31 tuổi, đột nhiên bị bạo bệnh mà mất. Loan thị buồn quá nên mấy tháng sau cũng mất theo chồng. Vì vợ chồng Yến Bá không có con nên Yến Trọng phải đứng ra quản lý tài sản của anh chị. Yến Trọng thương anh chị lắm, định bụng sau này nếu mình có vợ, sanh được hai trai, thì sẽ bắt đứa lớn làm con anh chị để khói hương cho người quá cố. Yến Trọng có hai người bạn học thân, một người họ Đổng, một người họ Lương. Năm ấy, Lương sinh cũng bị bạo bệnh mà mất.
Tám năm sau, Yến Trọng lấy vợ, người họ Bộc. Năm sau, Bộc thị sanh trai, đặt tên là A Ngạc. Ít lâu sau, Bộc thị bị bạo bệnh mà mất, Yến Trọng phải gà trống nuôi con. Hết tang vợ, Yến Trọng toan tục huyền nhưng rồi sợ vợ kế đối xử tệ bạc với con nên lại đổi ý, chỉ muốn mua nàng hầu.
Một hôm đầu xuân, nghe nói ở làng bên có một gia đình muốn bán con gái, Yến Trọng bèn đi coi mắt. Tới nơi, thấy cô gái chẳng vừa ý, Yến Trọng không mua. Lúc về, gặp Đổng sinh mời về nhà uống rượu, Yến Trọng liền nhận lời. Tới nơi, uống say rồi xin cáo biệt.
Trên đường về, lại gặp Lương sinh mời về nhà uống rượu. Vì đang say, Yến Trọng quên bẵng việc Lương sinh đã chết từ lâu nên lại nhận lời. Tới nơi, thấy nhà cửa khác lạ, Yến Trọng hỏi:"Sao nhà cửa của huynh lại khác lạ thế?" Lương sinh đáp:"Đây là ngôi nhà mới của đệ chứ có phải là ngôi nhà cũ mà huynh vẫn thường tới chơi đâu?" Rồi nói tiếp:"Nhà đệ vừa hết rượu! Phiền huynh ngồi chơi để đệ đi mua!" Yến Trọng gật đầu.
Chờ mãi chẳng thấy Lương sinh về, Yến Trọng bèn ra cổng đứng ngóng. Chợt thấy một thiếu phụ cưỡi lừa đi qua, có một thằng bé chừng bảy tám tuổi lẽo đẽo theo sau, Yến Trọng đưa mắt nhìn. Thấy đứa bé giống anh mình như đúc, Yến Trọng giật mình kinh hãi, chạy ra hỏi: "Cháu họ gì?" Đứa bé vừa đi vừa đáp: "Cháu họ Yến" Yến Trọng càng lấy làm lạ, bèn đi theo đứa bé, hỏi: "Cháu tên gì?" Đáp: "Cháu tên A Tiểu!" Hỏi:"Bố tên gì?" A Tiểu đáp: "Cháu không biết!" Thuận chân, Yến Trọng cứ đi theo A Tiểu mà hỏi chuyện. Có chuyện nó trả lời rành rẽ, có chuyện nó đáp không biết.
Đi được chừng ba dặm, tới cổng một ngôi nhà bên đường, bỗng Yến Trọng thấy thiếu phụ xuống lừa, dắt vào nhà. Yến Trọng hỏi A Tiểu: "Có phải đây là nhà của Bố không?" A Tiểu gật đầu. Hỏi: "Bố có nhà không?" A Tiểu cũng gật đầu. Yến Trọng nói: "Vào thưa với Bố là có khách xin vào thăm!" A Tiểu lại gật đầu rồi ù té chạy vào nhà.
Lát sau, có một người đàn bà từ trong nhà đi ra cổng. Vừa nhìn thấy Yến Trọng, người đàn bà kinh ngạc, thốt lên: "Trời ơi! Chú Trọng! Đi đâu mà lại lạc tới đây?" Nhận ra người đàn bà là chị dâu mình, Yến Trọng mừng quá, đáp: "Em tới thăm người bạn ở gần đây! Em đang đứng ở cổng ngóng bạn đi mua rượu về thì gặp cháu A Tiểu đi qua. Thấy nó giống anh quá nên em theo nó tới đây!" Loan thị nói:"Mời chú vào nhà!" Yến Trọng bèn theo chị dâu vào phòng khách. Đưa mắt nhìn quanh, Yến Trọng thấy ngôi nhà đúng là ngôi nhà của anh chị mình song đã được sửa sang lại. Loan thị chỉ chiếc sập, nói: "Chú ngồi xuống sập này mà nói chuyện!" Yến Trọng bèn ngồi xuống sập, rồi hỏi: "Anh đâu?" Loan thị đáp: "Anh chú đi đòi nợ!" Hỏi: "Ở đâu?" Đáp :"Ở nhà hai anh em họ Lý!" Hỏi: "Có xa đây không?" Đáp: "Cũng gần đây thôi!" Hỏi: "Thiếu phụ vừa dắt lừa vào nhà là ai thế?" Đáp: "Là nàng hầu của anh chú đấy!" Hỏi: "Chị ấy họ gì?" Đáp:"Họ Cam!" Hỏi: "Chị ấy về đây đã lâu chưa?" Đáp: "Cũng được hơn mười năm rồi!" Hỏi: "Thế còn cháu A Tiểu là ai?" Đáp: "Là con của anh chú với cô Cam!" Hỏi: "Chị Cam với anh được mấy cháu?" Đáp: "Được hai đứa!" Hỏi: "Cháu kia tên gì?" Đáp: "Tên A Đại, anh thằng A Tiểu!" Hỏi: "Cháu A Đại đâu?" Đáp: "Nó đi chơi, chưa về!" Hỏi: "Thế anh chị không có con gái ư?" Đáp: "Không!" Chuyện trò tới đây, bỗng Yến Trọng tỉnh rượu. Sực nhớ Lương sinh cũng như anh chị mình đều đã chết từ lâu, Yến Trọng biết rằng mình đang ở âm phủ. Tuy nhiên, vì thấy mình đang ở nhà anh chị nên Yến Trọng cũng chẳng sợ hãi chi. Loan thị nói: "Chú cứ ngồi đây chơi, để tôi xuống bếp làm cơm!" Nói xong, bước ra khỏi phòng. Lát sau, A Tiểu bưng lên một mâm cơm, nói: "Mẹ cháu bảo cháu mời chú sơi cơm!" Yến Trọng nói: "Chú chưa muốn ăn! Chú chỉ muốn gặp Bố thôi! Hãy đi tìm Bố về đây ngay cho chú! Cứ nói có chú Trọng đang chờ Bố ở nhà là Bố hiểu!" A Tiểu đáp: "Vâng" rồi vụt chạy đi. Lát sau, A Tiểu chạy về, nói: "Hai anh em họ Lý đã chẳng chịu trả nợ lại còn đánh bố cháu, nên cháu chưa nói được lời nào!" Yến Trọng liền bảo :"Hãy dắt chú tới đó ngay!" A Tiểu gật đầu rồi vụt chạy ra khỏi cổng. Yến Trọng vội chạy theo.
Vừa tới sân nhà họ Lý, Yến Trọng thấy anh mình đang bị hai người xúm lại vật ngã xuống đất thì nổi giận, nhảy tới đấm đá hai người. Một người ngã lăn xuống đất, còn người kia bỏ chạy vào nhà, khoá cửa lại. Yến Trọng tới nâng anh dậy. Thấy em mình tới chốn này, Yến Bá kinh ngạc lắm, hỏi: "Chú đi đâu mà lại lạc tới đây?" Yến Trọng xua tay, đáp:" Để về nhà, em sẽ xin nói rõ!" Yến Bá bèn cùng Yến Trọng và A Tiểu ra về.
Tới nhà, Yến Bá chỉ chiếc sập, nói: "Chú ngồi xuống sập này mà nói chuyện!" Loan thị vội gạt đi, nói: "Sao ông không mời chú Trọng ngồi vào bàn, vừa ăn vừa nói có hơn không?" Yến Bá nghe lời, bèn bảo cả nhà ngồi vào bàn ăn uống. Đang lúc nói chuyện, bỗng Yến Trọng thấy một thiếu niên chừng chín mười tuổi mở cửa bước vào phòng. Yến Bá liền gọi thiếu niên tới bàn, giới thiệu: "Đây là cháu A Đại, anh cháu A Tiểu! Còn đây là chú Trọng, em ruột bố! Chào chú đi con!" A Đại liền cúi đầu chào. Yến Trọng bèn đứng dậy, tới dắt tay A Đại đến chiếc ghế cạnh mình, bảo ngồi xuống, ăn uống với gia đình. Thấy A Đại và A Tiểu cùng sáng sủa, khoẻ mạnh, Yến Trọng chợt nảy ý, nói: "Trên dương thế, em bị góa vợ, phải chăm sóc con nhỏ, chẳng có thì giờ trông nom phần mộ cho anh chị được, thực là buồn quá! Bây giờ, dưới âm phủ, anh chị có hai đứa con trai thì xin anh chị cho một đứa theo em về dương thế để nó trông nom phần mộ cho anh chị!" Loan thị bèn nói với chồng: "Chú Trọng nói thế, tôi nghĩ cũng phải! Ông nên cho thằng A Tiểu theo chú ấy về dương thế, để nó trông nom phần mộ cho vợ chồng mình!" Yến Bá gật đầu, tỏ vẻ ưng thuận.
A Tiểu tuy chẳng hiểu dương thế là gì song khi nghe nói được về dương thế thì cũng thích lắm, cứ tới chỗ Yến Trọng, gục đầu vào khuỷu tay, tỏ vẻ quyến luyến. Yến Trọng bèn đưa tay xoa đầu A Tiểu, hỏi: "Cháu có thích theo chú về dương thế không?" A Tiểu đáp: "Thích!" Yến Bá nói: "Nếu chú cho nó theo về thì đừng chiều nó. Ngày nào chú cũng phải bắt nó ăn thịt cá và hôm nào nắng ráo cũng phải bắt nó ra đứng phơi nắng ngoài trời từ sáng tới quá trưa. Làm như thế trải đủ bốn mùa xuân hạ thu đông thì nó mới cứng cáp như người sống được! Sau này, khi nó lớn, nó có thể lấy vợ sanh con, song tôi nghĩ nó cũng chẳng thọ được lâu đâu!" Trong khi ăn uống, Yến Trọng chợt thấy một thiếu nữ rất đẹp, dáng điệu ôn uyển, đứng lấp ló ở ngoài cửa phòng khách. Yến Trọng bèn hỏi: "Anh chị không có con gái thì thiếu nữ đứng lấp ló ở ngoài kia là ai thế?" Yến Bá đáp: "Cô ấy là em ruột nàng hầu của tôi!" Hỏi: "Cô ấy tên chi?" Đáp: "Tên Sương Quần!" Hỏi: "Tại sao cô ấy lại ở đây?" Đáp: "Hai chị em cô ấy mồ côi từ hồi còn nhỏ. Khi tôi mua cô chị về làm nàng hầu thì cô chị xin cho cô em được về theo. Vì thế, cô em theo cô chị tới đây cư ngụ cũng được hơn mười năm rồi!" Yến Trọng im lặng. Lát sau, Yến Trọng chợt hỏi: "Cô ấy đã đính hôn với ai chưa?" Yến Bá đáp: "Chưa. Gần đây có bà mai tới hỏi cho con trai nhà họ Điền ở xóm đông, nhưng cô ấy không chịu" Chợt Yến Trọng nghe thấy tiếng thiếu nữ lẩm bẩm ở ngoài cửa: "Tôi chẳng chịu lấy cái anh chăn trâu nhà họ Điền ấy đâu!" Thấy thế, Yến Trọng bỗng cảm thấy lòng mình xao xuyến song chưa dám thổ lộ cho anh chị biết.
Lát sau, Yến Bá nói: "Tối nay, chú ở lại đây mà ngủ!" Trước lúc thấy Sương Quần, Yến Trọng định bụng sau khi cơm nước, sẽ xin cáo biệt, song từ lúc thấy Sương Quần, Yến Trọng đâm ra quyến luyến, nên lại đổi ý. Vì thế khi nghe anh mời ở lại, Yến Trọng vội đáp: "Vâng!"
Ăn uống xong, Loan thị bảo A Đại và A Tiểu dẹp mâm cơm xuống bếp, còn Yến Bá thì đi lấy chiếc giường nhỏ và chăn gối đem ra phòng khách cho Yến Trọng ngủ.
Đêm ấy, vào tiết đầu xuân, khí trời còn lạnh, mà trong phòng khách lại không có lò sưởi nên tuy Yến Trọng đã đắp chăn mà vẫn còn thấy lạnh, chẳng sao ngủ được. Yến Trọng bèn vùng dậy, tới ngồi co ro ở cạnh ngọn đèn mà suy nghĩ miên man. Đang ước ao có rượu thịt để nhâm nhi thì bỗng thấy A Tiểu đẩy cửa, bưng vào một khay rượu thịt. Yến Trọng vừa mừng vừa lạ, hỏi:"Ai nướng thịt rồi bảo cháu bưng lên đây thế?" A Tiểu đáp: "Cô Sương Quần!" rồi đặt khay lên bàn, lui ra. Yến Trọng bèn rót rượu, nhâm nhi với thịt nướng. Lát sau, lại thấy A Tiểu đẩy cửa, bưng vào một lò sưởi than hồng. Yến Trọng hỏi: "Ai đốt lò sưởi rồi bảo cháu bưng lên đây thế?" A Tiểu đáp: "Cô Sương Quần!" Hỏi: "Bố Mẹ đã ngủ chưa?" Đáp: "Ngủ từ lâu rồi!" Hỏi: "Thế cháu ngủ với ai?" Đáp: "Với cô Sương Quần!" rồi đặt lò sưởi dưới gầm giường, dẹp khay rượu xuống bếp, khép cửa lại.
Yến Trọng đi nằm. Tuy thấy giường đã được sưởi ấm, song vì đầu óc cứ mơ tưởng tới khuôn mặt xinh đẹp, dáng vẻ thông minh của Sương Quần nên Yến Trọng trằn trọc suốt đêm, chẳng sao ngủ được. Yến Trọng chỉ ước ao sao cho mình lấy được Sương Quần làm kế thất, đem về dương thế để chăm sóc cho A Tiểu.
Sáng sau, vợ chồng Yến Bá tới phòng khách thăm em. Yến Trọng nói ướm: "Nay em đã góa vợ, xin anh chị để ý giùm xem có đám nào đăng đối thì làm mai cho!" Yến Bá đáp: "Nhà ta đâu có phải là nhà nghèo. Khi về dương thế, sớm muộn gì mà chú chẳng tìm được một kế thất vừa ý. Dưới âm phủ này cũng có người đẹp song tôi sợ chẳng có ích gì cho chú cả!" Yến Trọng nói: "Ngày trước, các cụ ta vẫn thường thuật chuyện người xưa hay lấy vợ ma, anh còn nhớ không?" Chợt hiểu ý em, Yến Bá nói: "Cô Sương Quần cũng đẹp song chẳng biết có làm vợ chú được hay không?" Yến Trọng hỏi :"Tại sao?" Yến Bá đáp: "Vì muốn làm vợ người dương thế thì phải có máu trong cơ thể!" Hỏi: "Làm thế nào để biết được là có máu trong cơ thể?" Đáp: "Phải lấy kim, thử chích vào cổ tay. Nếu thấy có máu ứa ra thì được, còn nếu không thấy có máu thì vô ích!" Yến Trọng nói: "Em chỉ cần lấy cô ấy về để chăm sóc cho A Tiểu thôi chứ em chẳng cần cô ấy phải sanh nở chi cả!" Nghe thấy thế, Yến Bá chỉ lắc đầu, chẳng đáp. Yến Trọng năn nỉ: "Thì anh cứ thử làm mai cho em xem sao!" Yến Bá còn đang suy nghĩ thì bỗng Loan thị lên tiếng: "Chú ấy đã muốn thế thì ông cứ để tôi đi lấy kim, thử chích vào cổ tay cô ấy xem sao?" Nói xong, Loan thị xăm xăm chạy vào phòng lấy kim. Khi đem kim ra phòng khách, tình cờ thấy Sương Quần đi qua cửa, Loan thị bèn gọi: "Sương Quần! Hãy đứng lại cho chị hỏi chuyện này!" Sương Quần tưởng thực, vội dừng chân. Loan thị liền chạy tới nắm lấy tay Sương Quần, ghé vào tai, giả vờ thì thầm. Sương Quần chẳng nghe rõ, toan lên tiếng hỏi lại, thì bất thần bị Loan thị cầm kim chích vào cổ tay, máu ứa ra. Loan thị liền buông tay Sương Quần, đứng cười ha hả. Sương Quần còn đang kinh hãi, chẳng hiểu tại sao Loan thị lại làm như thế thì đột nhiên Cam thị ở đâu chạy tới, hầm hầm tức giận, giơ ngón tay dí vào trán Sương Quần mà mắng: "Mi là con gái mà chẳng biết xấu hổ là gì! Mi mê trai, rồi bây giờ định bỏ nhà trốn đi theo trai, có phải không? Ta quyết chẳng để cho mi làm như thế!" Cả nhà cùng ngơ ngác. Sương Quần vừa thẹn vừa tức, khóc oà lên. Yến Trọng ngượng quá, vội quay nhìn anh chị, nói: "Thôi, bây giờ em xin phép anh chị cho em được dắt cháu A Tiểu về dương thế!" Loan thị gật đầu. Yến Bá cũng nói: "Ừ thôi! Chú cứ dắt cháu về dương thế trước đi! Nếu nó có nhớ nhà đòi về, chú cũng đừng cho nó về, kẻo nó bị tiêu hao dương khí, chẳng tốt!" Yến Trọng đáp: "Vâng" rồi nắm tay A Tiểu, dắt ra khỏi cổng.
Yến Trọng bảo A Tiểu dắt mình trở lại nhà Lương sinh. Tới nơi, Yến Trọng nhận ra đường cũ, bèn cứ ngược đường mà dắt A Tiểu về dương thế.
Tới nhà, Yến Trọng bịa chuyện, loan tin rằng cách đây hơn mười năm, khi anh mình còn sống, có mua một nàng hầu, giấu ở làng bên. Khi anh mình chết, nàng hầu đang hoài thai A Tiểu. Nay A Tiểu đã lên mười, mình sang làng bên, bắt về nuôi. Người làng thấy A Tiểu giống hệt Yến Bá thì tin ngay, chẳng ai thắc mắc.
Yến Trọng dạy A Tiểu tập đọc và học thuộc lòng nhiều đoạn thơ văn. Sáu tháng đầu, bị bắt học cả ngày, A Tiểu rất oán hận chú. Thấy thế, Yến Trọng bèn đổi cách dạy, cho A Tiểu vừa học vừa chơi. A Tiểu liền hết oán hận chú. Ban ngày, A Tiểu học bài. Tối đến, lên giường ngủ, đọc bài cho chú nghe. Vì A Tiểu khá thông minh, tối nào cũng thuộc bài, nên Yến Trọng mừng lắm. Vì vẫn nhớ Sương Quần, Yến Trọng bỏ ý định mua nàng hầu.
Năm sau. Một hôm Yến Trọng đang tiếp khách, bỗng nghe có tiếng gọi cổng, bèn xin phép khách chạy ra mở thì thấy Cam thị cùng Sương Quần đứng ở bên ngoài. Mừng quá, Yến Trọng vồn vã mời hai người vào phòng thờ. Vào phòng, Cam thị nói: "Xin lỗi chú! Năm ngoái, khi chú xuống chơi, tôi thấy em gái tôi đã lớn mà vẫn còn ngây ngô, chưa biết xấu hổ là gì nên tôi cố tình làm nhục nó để cho nó biết xấu hổ đấy thôi. Năm nay, tôi muốn gả chồng cho nó. Thấy chú là nơi xứng đáng nhất nên tôi đã bàn tính với anh chú cho tôi đưa nó lên đây, xin chú làm lễ thành hôn với nó!" Yến Trọng đáp: "Cám ơn chị! Em xin lãnh ý!" rồi mời Cam thị và Sương Quần ngồi chơi, xin phép trở ra tiếp khách.
Lát sau, Yến Trọng lại xin phép khách trở vào phòng thờ thì thấy Cam thị đã biến mất. Yến Trọng hỏi: "Chị Cam đâu?" Sương Quần đáp: "Chị ấy về rồi!" Hỏi: "Thế bây giờ chúng mình cần sửa soạn những gì để làm lễ thành hôn?" Đáp: "Chỉ cần sửa soạn một mâm cỗ để làm lễ giao bái là đủ!" Nói: "Nếu thế thì nàng cứ ngồi đây mà nghỉ, để ta xuống bếp bảo gia nhân sửa soạn!" Sương Quần lắc đầu, nói: "Mâm cỗ này phải do chính tay thiếp sửa soạn mới được! Chàng cứ ra tiếp khách đi!"
Yến Trọng vừa theo lời, ra khỏi phòng thì Sương Quần đã đứng dậy, vào phòng trong cởi bỏ nữ trang, thay quần áo nội trợ, rồi xuống bếp sửa soạn mâm cỗ. Yến Trọng ngồi trên phòng khách, cứ nghe thấy tiếng dao thớt lách cách ở dưới bếp.
Lát sau, Yến Trọng tiễn khách ra về. Lúc trở vào phòng thờ thì thấy cỗ bàn đã được bày la liệt trên bàn thờ, còn Sương Quần thì đã ăn mặc sang trọng, điểm trang lộng lẫy, đang ngồi chờ mình. Yến Trọng bèn đi tắm gội, ăn mặc sạch sẽ rồi trở ra phòng thờ cùng Sương Quần làm lễ giao bái.
Tối ấy, Sương Quần nói: "Tuy đã là vợ chồng, song vì bản thể âm dương bất hợp nên chúng mình phải ngủ riêng! Thiếp muốn được ngủ chung với A Tiểu!" Yến Trọng nói: "Nàng muốn ngủ riêng thì được song muốn ngủ chung với A Tiểu thì không!" Sương Quần hỏi: "Tại sao?" Yến Trọng đáp: "Vì ta đã truyền dương khí vào cơ thể cho nó được hơn một năm nay rồi! Bây giờ cơ thể nó đã ấm lại. Nếu để cho nó ngủ chung với nàng thì dương khí ấy sẽ bị tiêu hao hết!" Sương Quần nghe ra, liền gật đầu. Yến Trọng bèn sai gia nhân dọn riêng cho Sương Quần một phòng. Vì thế, tuy là vợ chồng song Yến Trọng với Sương Quần chỉ gặp nhau vào lúc ban ngày để chuyện trò, ăn uống mà thôi. Sương Quần chăm sóc A Ngạc tựa con mình. Vì thế, Yến Trọng càng quý mến Sương Quần. Bốn năm sau. Một tối, hai vợ chồng đang ngồi nói chuyện trong phòng khách, bỗng Yến Trọng lên tiếng hỏi: "Ở âm phủ, nàng có quen với người đẹp nào không?" Sương Quần đáp: "Có! Thiếp có quen với một người đẹp, dung mạo giống đàn bà dương thế lắm, mà lại khéo trang điểm nữa!" Hỏi:"Ai thế?" Đáp:"Cô hàng xóm phía đông!" Hỏi: "Tên chi?" Đáp: "Tên Linh Tiên!" Hỏi: "Họ chi?" Đáp: "Họ Uy!"Hỏi: "Nàng có hay giao thiệp với cô ấy không?" Sương Quần lắc đầu, đáp:"Không! Thiếp chỉ quen thôi chứ không hay giao thiệp!" Hỏi: "Sao thế?" Đáp: "Vì cô ấy lẳng lơ, dâm đãng lắm!" Hỏi: "Bây giờ nàng có thể mời cô ấy lên đây chơi, ngồi nói chuyện với vợ chồng mình được không?" Đáp: "Nếu chàng thích thì để thiếp mời lên! Song theo thiếp nghĩ, chàng chẳng nên kết thân với loại đàn bà ấy!" Yến Trọng nói: "Thì nàng cứ thử mời lên đây chơi cho ta gặp mặt một lần xem sao!" Sương Quần bèn đứng dậy đi lấy giấy bút đem ra bàn ngồi suy nghĩ, tựa hồ như để tìm lời viết thư. Bỗng Sương Quần khựng lại, quẳng bút đi, nói: "Không được!" Yến Trọng hỏi: "Tại sao?" Sương Quần đáp: "Vì thiếp sợ chàng sẽ bị tổn hại!" Yến Trọng nói: "Mời lên chơi, ngồi nói chuyện thì có chi mà bị tổn hại?Ợ Sương Quần ngần ngừ hồi lâu rồi nói: "Thế nhưng chàng phải hứa với thiếp rằng chàng sẽ không dụ dỗ cô ấy làm chuyện bậy bạ cơ!" Yến Trọng cười, nói: "Xin hứa!" Sương Quần bèn nhặt bút, vẽ loằng ngoằng lên giấy vài nét, làm một đạo bùa, rồi đem ra đốt ở ngoài cổng. Chờ cho đạo bùa cháy hết, Sương Quần mới vào nhà.
Lát sau, rèm động, móc kêu, rồi có tiếng cười khúc khích. Sương Quần nghi là Linh Tiên nên đứng dậy chạy ra đón thì thấy quả là Linh Tiên. Sương Quần bèn dắt vào phòng, mời ngồi xuống sập hàn huyên. Linh Tiên cười nói oang oang, song khi nhìn thấy Yến Trọng thì vội giơ tay áo lên che miệng mà nói cười nhỏ lại. Yến Trọng thấy Linh Tiên quả là một người đàn bà đẹp, dung nhan kiều diễm, mái tóc búi cao, dáng vẻ yểu điệu như người trong tranh. Sương Quần rót rượu mời khách. Linh Tiên đỡ lấy chén, vừa uống vừa nói chuyện. Vì có mặt Yến Trọng nên Linh Tiên giữ ý, nói cười nhỏ nhẹ. Tuy nhiên, chỉ sau vài tuần rượu, khi đã ngà ngà say, Linh Tiên chẳng còn kiêng kị gì nữa, cứ cười nói oang oang, thuật lại cho Sương Quần nghe đủ mọi thứ chuyện bậy bạ. Thế rồi, Linh Tiên nhìn Yến Trọng mà mỉm cười, liếc mắt đưa tình. Yến Trọng bấn loạn tâm thần, chẳng sao tự chủ được. Tuy nhiên, vì có mặt Sương Quần nên Yến Trọng cũng chưa dám có ngôn ngữ hay cử chỉ chi sàm sỡ. Sương Quần thấy thế thì theo sát Linh Tiên, chẳng dời một bước.
Lát sau, đột nhiên Linh Tiên đứng dậy, bước tới cửa, vén rèm, chạy ra sân. Sương Quần vội chạy ra theo. Yến Trọng cũng vội chạy ra theo vợ. Thấy Yến Trọng chạy ra sân, Linh Tiên bèn quay lại nắm lấy tay Yến Trọng mà kéo đi. Sương Quần còn đang ngơ ngác thì Linh Tiên đã kéo Yến Trọng vào một căn phòng bỏ ngỏ gần đó, đóng sập cửa lại. Sương Quần tức tối lắm song chẳng biết phải làm thế nào, đành phẫn uất mà quay về phòng.
Hồi lâu, Linh Tiên mới ra về. Yến Trọng vào phòng vợ nói chuyện. Sương Quần trách: "Chàng đã hứa như thế nào mà bây giờ chàng lại hành động như thế? Thiếp chỉ sợ rồi đây chàng sẽ chẳng thể dứt nổi Linh Tiên nữa thôi! Lúc đó thì dù chàng có muốn đuổi cô ấy đi cũng chẳng còn được nữa!" Yến Trọng cho là Sương Quần ghen nên chẳng được vui. Bèn từ biệt vợ mà về phòng mình.
Tối sau, Linh Tiên tự ý tới nhà Yến Trọng. Sương Quần gặp mặt song cứ lờ đi, chẳng thèm chào hỏi. Linh Tiên cũng chẳng buồn để ý, cứ đi thẳng vào phòng Yến Trọng. Hồi lâu, Linh Tiên mới ra về. Sương Quần tức tối lắm song cố dằn cơn giận.
Nửa tháng sau. Một tối, khi Linh Tiên tới, Sương Quần chẳng sao nhịn được nữa, nói: "Cô là một người đàn bà vô liêm sỉ, chẳng biết ngượng ngập là gì! Tôi yêu cầu cô hãy cút về ngay! Từ giờ trở đi, tôi cấm cô không được bén mảng tới ngôi nhà này nữa!" Linh Tiên chẳng thèm đáp, cứ sồng sộc đi thẳng vào phòng Yến Trọng.
Tháng sau. Yến Trọng ngã bệnh. Sương Quần mời thày lang tới coi mạch, hốt thuốc song bệnh tình cứ dai dẳng, chẳng thuyên giảm. Tuy Yến Trọng đã ngã bệnh song tối nào Linh Tiên cũng tới. Lúc đó Yến Trọng mới hối hận, muốn đuổi Linh Tiên đi. Yến Trọng bèn bảo Sương Quần kê giường vào phòng mình mà ngủ, để cho Linh Tiên sợ, không dám tới nữa. Sương Quần làm theo lời. Thế nhưng, Linh Tiên vẫn tới, ẩn núp quanh quất ở trong nhà. Cứ lúc nào Sương Quần có việc phải ra khỏi phòng là Linh Tiên lại lẻn vào, lên giường ép Yến Trọng giao hoan. Một tối, Sương Quần bắt gặp Linh Tiên trên giường chồng mình, bèn lấy gậy đập vào lưng. Linh Tiên khỏe hơn, giằng được gậy, đập lại Sương Quần cho tới lúc bị thương mới thôi.
Bệnh tình của Yến Trọng mỗi ngày một thêm trầm khốn. Thấy thế, Sương Quần khóc, nói: "Thiếp còn mặt mũi nào mà nhìn thấy chị Cam dưới âm phủ nữa!" Yến Trọng ngượng quá song cũng chẳng biết đối đáp ra sao.
Tuần sau, bệnh tình của Yến Trọng trở nặng. Tối ấy, Yến Trọng chết. Đang nằm trên giường, bỗng thấy có hai lính cầm trát tới bắt mình, Yến Trọng liền đứng dậy, đi theo. Lát sau, thấy đường đi có vẻ quen thuộc, Yến Trọng chợt nhận ra chính là đoạn đường từ nhà Lương sinh tới nhà anh mình khi trước. Lúc đó Yến Trọng mới biết là mình đã chết. Sờ vào túi chẳng có một đồng, Yến Trọng bèn xin lính cho mình ghé vào nhà anh để xin tiền đi đường. Lính thuận cho.
Tối ấy, Yến Bá đang ngồi trong phòng khách thì chợt thấy em bước vào, hai bên có lính âm phủ đi kèm. Yến Bá kinh hoàng tột độ, hỏi: "Sao chú lại bị bắt xuống đây?" Yến Trọng đáp: "Vì em bị bệnh ma làm!" rồi đem chuyện Linh Tiên ra thuật lại. Nghe xong, Yến Bá vào nhà trong lấy ra hai túi tiền nhỏ, đưa cho hai lính, nói: "Xin hai chú nhận cho chút quà này. Em tôi bị gái âm phủ làm tiêu hao sinh khí mà thác chứ thực ra thì mệnh số chưa hết. Vậy xin hai chú hãy thả cho em tôi được trở về dương thế. Hai chú đừng sợ bị tào quan bắt tội vì tôi sẽ cho con tôi đi thay thế!" Hai lính được tiền hối lộ, nhìn nhau hồi lâu rồi cùng gật đầu. Yến Bá liền sai A Đại rót rượu mời lính rồi sai vào nhà sửa soạn hành trang để đi theo lính. Hai lính uống rượu xong, cầm hai túi tiền, chào Yến Bá rồi dắt A Đại đi.
Yến Bá vào phòng thuật lại cho Loan thị nghe, rồi gọi Cam thị lên, bảo: "Nàng hãy sang hàng xóm mời cô Linh Tiên sang đây chơi, nhưng đừng nói cho cô ấy biết là vì chuyện gì!" Cam thị liền sang nhà Linh Tiên, rồi về nói: "Cô ấy sắp sang đó!" Lát sau, quả nhiên Linh Tiên sang. Thấy Yến Trọng đang ngồi ở trong nhà, Linh Tiên kinh hãi quá, dợm quay mình bỏ chạy thì đã bị Yến Bá nhanh tay túm được mái tóc, xoắn lại mà mắng: "Mi là một con dâm tì vô liêm sỉ! Khi sống trên dương thế, mi đã làm đãng phụ, nay chết xuống âm phủ, mi lại làm tặc quỷ. Mi vừa làm cho em tao bị tiêu hao sinh khí mà chết nên bây giờ tao phải đánh cho mi một trận nhừ đòn!" Nói xong, Yến Bá giơ tay tát túi bụi vào mặt Linh Tiên. Bị tát, tóc tai rối bù, mặt mũi phờ phạc, Linh Tiên chắp tay van lạy, khóc lóc xin tha. Mẹ Linh Tiên là U bà, nghe tiếng con khóc, cũng vội chạy sang năn nỉ: "Tôi biết con tôi có tội rồi! Xin ông tha cho nó!" Yến Bá nói: "Bà đã biết là con bà dâm đãng, sao chẳng chịu can ngăn, lại cứ để mặc cho nó đi làm hại người khác?" U bà cứng họng, chẳng biết trả lời ra sao. Yến Bá bèn nói: "Thôi! bà dắt nó về đi" U bà bèn chào Yến Bá rồi dắt Linh Tiên về. Yến Bá quay qua nói với Yến Trọng: "Chú chờ tôi sửa soạn một lát rồi tôi sẽ đưa chú về dương thế!" Nói xong, Yến Bá vào phòng trong. Lát sau, Yến Bá ra bảo Yến Trọng: "Ta đi thôi!" Hai anh em bèn lên đường. Yến Trọng thấy anh mình dắt mình đi theo đúng con đường mà năm năm về trước mình đã dắt A Tiểu về dương thế.
Tới nhà, Yến Trọng vội chạy vào phòng xem sao. Thấy xác mình còn nằm trên giường, Yến Trọng vội nhập vào rồi mở mắt ra coi thì thấy có một cảm giác bàng hoàng như người vừa tỉnh mộng. Yến Bá cũng theo em vào phòng. Sương Quần đang ở dưới bếp, nghe có tiếng động trên phòng chồng, cũng vội chạy lên coi. Thấy Yến Bá ở trong phòng, Sương Quần kinh hãi quá, song khi thấy chồng đã hồi sinh, Sương Quần lại mừng rỡ vô tả. Thấy Sương Quần vào, Yến Bá trách: "Ta với chị cô thấy cô hiền năng nên mới bàn tính với nhau đưa cô lên đây làm vợ em ta. Sao cô lại đi gọi con Linh Tiên lên đây để cho nó mê hoặc em ta tới chết? Nếu cô chẳng phải là em vợ ta thì hôm nay ta quyết phải đánh cho cô một trận nhừ đòn!" Sương Quần vừa thẹn vừa sợ, bèn sụp xuống đất lạy Yến Bá, nói: "Thiếp biết tội đã nhiều, xin đại ca tha cho!" Yến Bá nói: "Thôi, đứng dậy!" Sương Quần bèn khép nép đứng dậy, rồi thưa: "Bây giờ thiếp xin phép đại ca cho thiếp xuống bếp làm cơm để mời đại ca ở lại dùng bữa với vợ chồng thiếp và các cháu!" Yến Bá lắc đầu, đáp: "Ta bận nhiều việc lắm, phải về ngay, chẳng thể ở lại được! Hãy gọi lũ trẻ lên đây cho ta gặp mặt!" Sương Quần đáp: "Xin vâng!" rồi lui ra khỏi phòng.
Lát sau, Sương Quần dắt A Tiểu và A Ngạc vào chào Yến Bá. Năm ấy, A Tiểu đã mười ba. Thấy A Tiểu cứng cáp khoẻ mạnh, Yến Bá mừng lắm, nói: "Mi đã trở thành người dương thế rồi!" Nhận ra cha, A Tiểu cũng mừng lắm, cứ quấn quýt bên chân. Trò chuyện hồi lâu, Yến Bá nói: "Thôi, ta phải về đây!" A Tiểu đòi: "Cho con về với!" Yến Bá gạt đi, nói: "Mi ở lại đây với chú mi là sướng nhất rồi, còn đòi về làm chi?" Nói xong, xăm xăm bước ra khỏi cổng. Từ đó, Yến Bá không trở về dương thế nữa.
Mười bốn năm sau, A Tiểu hai mươi bảy, Sương Quần cưới vợ cho nó rồi cho hai vợ chồng ra ở ngôi nhà cũ của Yến Bá. Năm sau, vợ A Tiểu sanh trai, đặt tên là A Tôn. Ba năm sau, A Tiểu 31 tuổi, cũng bị bạo bệnh mà mất như cha. Khi hết tang chồng, vợ A Tiểu tái giá. Sương Quần chẳng có con, lại chăm sóc A Tôn như đã chăm sóc A Ngạc và A Tiểu khi trước.
Hai chục năm sau, A Tôn hai mươi tư. Sương Quần bèn cưới vợ cho nó rồi lại cho hai vợ chồng ra ở ngôi nhà cũ của Yến Bá. Năm ấy, Yến Trọng đã tám mươi. Một hôm, Sương Quần nói với chồng: "Đã tới lúc chúng mình phải trở về âm phủ! Bây giờ thiếp xuống trước, sửa soạn nhà cửa để sáu tháng nữa, sẽ đón chàng xuống!" Yến Trọng gật đầu. Sương Quần bèn đi tắm gội, trang điểm đẹp đẽ rồi lên giường nằm mà mất. Yến Trọng chẳng than khóc chi, vui vẻ mà làm tang lễ cho vợ. Sáu tháng sau. Quả nhiên Yến Trọng cũng mất theo.
VỢ CHỒNG TIÊN
(truyện THANH NGA)
Huyệt viên tằng thám tú phòng xuân
Tạc thạch trùng liên động phủ nhân
Đạo sĩ tặng sàm như hữu ý
Độ tha hiếu tử tác tiên nhân
Huyện Tấn Dương, tỉnh Sơn Tây, có quan bình sự họ Vũ, rất mộ đạo Lão, trong nhà có rất nhiều sách Lão Trang. Ông bà bình sự có một gái, tên Thanh Nga, rất mực kiều diễm, thường lén đọc sách của cha và rất hâm mộ Hà Tiên Cô. Năm Thanh Nga 14 tuổi, Vũ ông bỏ nhà sang ở huyện Thuận Thiên tỉnh Hà Bắc, rồi vào núi Thuận Sơn tu tiên. Thanh Nga ở lại Tấn Dương với mẹ, cũng bắt chước cha, lập chí tu tiên. Vì thế, Thanh Nga quyết chẳng lấy chồng. Có đám nào tới hỏi, Thanh Nga cũng từ chối. Vũ bà chiều ý con, chẳng ép duyên.
Ở Tấn Dương lại có quan huyện úy họ Hoắc, quán tại huyện Sơn Hữu. Ông bà huyện úy có một trai, tên Hoàn, tên chữ Khuông Cửu, kém Thanh Nga một tuổi. Năm Khuông Cửu lên 5, Hoắc ông qua đời, để lại cho Hoắc bà một ngôi nhà ở Tấn Dương và một dinh cơ ở Sơn Hữu. Khuông Cửu học giỏi, nổi tiếng thần đồng, năm 11 tuổi đã đậu thủ khoa khóa thi nhập học trường huyện. Vì thương yêu con quá, Hoắc bà chỉ cho con tới trường rồi lại bắt về nhà chứ chẳng cho đi đâu. Vì thế, năm 13 tuổi, Khuông Cửu vẫn chưa biết mặt chú cô cậu dì nội ngoại. Khuông Cửu rất có hiếu với mẹ, song cũng rất hiếu sắc. Tuy còn ít tuổi, song hễ thấy gái đẹp là đã si mê.
Một hôm đi học về, gặp Thanh Nga ở dọc đường, Khuông Cửu bỗng cảm thấy lòng xao xuyến. Dò hỏi mọi người, biết Thanh Nga là con Vũ bà, Khuông Cửu bèn nói với mẹ:"Mẹ nhờ bà mối tới nhà Vũ bà hỏi Thanh Nga cho con đi!" Hoắc bà đáp:"Mẹ nghe nói Thanh Nga đã lập chí tu tiên, quyết chẳng lấy chồng, hỏi làm chi cho phí công vô ích!" Bị phật ý, Khuông Cửu hậm hực, cứ buồn rầu mãi. Thấy con buồn, Hoắc bà bèn nhờ bà mối tới hỏi Thanh Nga cho con. Quả nhiên Thanh Nga từ chối. Khuông Cửu cố nghĩ ra phương kế để gặp Thanh Nga, song nghĩ mãi mà vẫn chưa ra phương kế gì.
Một hôm, Khuông Cửu ra cổng đứng chơi. Thấy một đạo sĩ đi qua, tay cầm chiếc dầm nhỏ, chỉ dài chừng gang tay, Khuông Cửu lấy làm lạ, bèn chạy tới mượn để coi, rồi hỏi:"Dầm này dùng để làm chi?" Đạo sĩ cười, đáp: "Để khoét đá cứng" Hỏi:"Nhỏ thế này thì làm sao mà khoét?" Cười, đáp:"Tuy nhỏ song cứng và sắc lắm!" Khuông Cửu lắc đầu, tỏ vẻ chẳng tin. Đạo sĩ bèn lấy lại dầm, khoét vào tảng đá ở ngoài cổng. Thấy tảng đá bị lõm vào một lỗ, Khuông Cửu kinh ngạc, lại mượn dầm để ngắm nghía. Đạo sĩ cười, nói:"Thích thì cho đó!" Khuông Cửu mừng quá, đáp:"Xin chờ một lát!" rồi cầm dầm chạy vào nhà, lấy một mớ tiền, đem ra trả đạo sĩ. Đạo sĩ lắc đầu cười, nói:"Cho chứ đâu có bán!" rồi lững thững bỏ đi. Khuông Cửu bèn đem dầm vào nhà, khoét vào góc tường ở cuối sân thì thấy góc tường cũng bị thủng. Khuông Cửu mừng lắm, định bụng sẽ đem dầm tới nhà Vũ bà, khoét tường để vào gặp Thanh Nga, chẳng biết rằng làm như thế là phạm pháp.
Đêm ấy, Khuông Cửu giắt dầm vào thắt lưng, lén mẹ trèo tường ra khỏi nhà. Tới nhà Vũ bà, thấy một vòng tường vây kín, Khuông Cửu bèn rút dầm, khoét một lỗ hổng dưới chân tường rồi chui vào. Thấy một vòng tường nữa, Khuông Cửu lại khoét rồi lại chui vào. Thấy ở bên trong có một sân rộng và ở cuối sân có một căn phòng còn đèn sáng, Khuông Cửu bèn chạy tới, áp mắt vào lỗ khóa mà dòm. Thấy Thanh Nga đang cởi bỏ nữ trang rồi tắt đèn đi nghỉ, Khuông Cửu chưa dám có hành động gì, chỉ nép mình ở ngoài hành lang để nghe ngóng.
Lát sau, thấy cảnh vật đã im, Khuông Cửu mới rút dầm khoét tường rồi chui vào. Dón dén bước tới cạnh giường, thấy Thanh Nga đang thở đều đều, Khuông Cửu khẽ cởi giầy, leo lên giường, nằm nép cạnh chiếc chăn gấm, nhắm mắt hưởng hương thơm. Mệt mỏi từ tối, nay thấy thoải mái, Khuông Cửu ngủ thiếp đi.
Lát sau, Thanh Nga thức giấc. Thấy ánh trăng tỏa sáng đầy phòng, Thanh Nga lấy làm lạ, bèn đảo mắt nhìn quanh. Thấy trên tường có một lỗ hổng mới khoét, Thanh Nga kinh hãi quá, vội dón dén ngồi dậy, tới giường tì nữ, lấy tay bịt miệng, nói thầm vào tai:"Khẽ chứ, hãy ra khỏi phòng này ngay!" Hai người cùng dón dén, mở cửa lẻn ra sân, chạy tới phòng bà vú, gõ cửa gọi bà dậy, thuật lại chuyện cho nghe. Bà vú vội thắp đèn, lấy cho mỗi người một cây gậy, bảo theo mình trở lại phòng Thanh Nga. Tới giường, bà vú soi đèn. Thấy một chú bé, mặt mũi non choẹt, tóc kết trái đào, đang nằm ngủ say, bà bèn lay dậy. Chú bé nhỏm dậy, mắt sáng như sao, chẳng sợ hãi chi. Tì nữ nhận ra chú bé là Khuông Cửu, con trai Hoắc bà, thì thấy yên tâm, bèn vờ doạ nạt:"Chắc chú bé này là đạo tặc. Mình hãy bắt trói, đem lên nạp quan" Nghe thấy thế, Khuông Cửu bật khóc, nói:"Chỉ vì thương yêu nương tử đây nên muốn được gần gũi chứ đâu có phải là đạo tặc!" Tì nữ hỏi:"Làm thế nào mà khoét được ba lần tường?" Khuông Cửu liền rút chiếc dầm ở lưng ra, nói:"Dầm này sắc lắm, khoét tường rất dễ!" Tì nữ liền giằng lấy, đem khoét thử vào tảng đá ở đầu hè, thì thấy đúng như lời. Tì nữ kinh hãi, nghĩ chắc chiếc dầm là thần vật của thần ban cho Khuông Cửu. Tì nữ vào phòng, ướm hỏi tiểu chủ: "Tiểu thư ơi! Bây giờ tiện tì đem chiếc dầm này lên trình phu nhân nhé?" Thanh Nga cúi đầu suy nghĩ. Hiểu ý tiểu chủ, tì nữ nói:"Chú bé này nổi tiếng thần đồng, tiểu thư có kết duyên cũng chẳng nhục nhã chi! Bây giờ ta hãy thả cho chú ấy về, bảo nói với mẹ nhờ bà mối tới hỏi lần nữa. Rồi sáng mai tiện tì sẽ trình dối với phu nhân rằng đêm qua nhà mình bị trộm tới khoét tường. Tiểu thư nghĩ sao?" Thanh Nga vẫn lặng im chẳng đáp. Hiểu ý tiểu chủ, tì nữ bèn giục Khuông Cửu:"Thôi, về đi!" Khuông Cửu nói:"Trả lại chiếc dầm đã!" Tì nữ cười, nói:"Đâu có được! Ngốc nghếch mà cũng biết đòi lại cái vật tội lỗi ấy ư?" Khuông Cửu liền đảo mắt nhìn quanh, cố tìm một vật gì để lấy bù lại chiếc dầm. Chợt thấy một cành thoa vàng nằm bên gối, Khuông Cửu liền lấy cho vào túi áo. Tì nữ nhìn thấy, mách:"Tiểu thư ơi! Chú ấy lấy trộm cành thoa của tiểu thư kìa!" Thanh Nga chẳng nói mà cũng chẳng tỏ vẻ tức giận. Tì nữ cười, nói:"Hãy còn ngốc lắm!" Thấy tì nữ cứ chê chú bé là ngốc, bà vú bèn lên tiếng:"Úi chao! Chẳng ngốc đâu! Khôn lắm đó!" Rồi tới nắm lấy cánh tay Khuông Cửu kéo ra sân, lôi tới lỗ hổng ở chân tường, bảo: "Lúc nãy vào bằng lối nào thì bây giờ phải ra bằng lối ấy!" Khuông Cửu bèn chui qua lỗ hổng mà về. Tới nhà, Khuông Cửu trèo tường vào phòng ngủ.
Sáng sau, Khuông Cửu chẳng dám thuật lại việc lén tới nhà Vũ bà cho mẹ nghe mà chỉ giục:"Mẹ hãy nhờ bà mối tới hỏi Thanh Nga cho con lần nữa đi!" Thấy con si tình, Hoắc bà gật đầu, rồi tới nhà bà mối, nói:"Con tôi nó muốn nhờ bà tới hỏi Thanh Nga cho nó lần nữa! Tôi biết Thanh Nga đã quyết chí tu tiên, chẳng muốn lấy chồng thì có tới hỏi cũng vô ích! Thế nhưng vì tôi chẳng nỡ chối từ con nên phải giả vờ tới đây để nhờ bà. Vậy xin bà làm ơn để ý giùm xem có đám nào đăng đối thì làm mai cho nó một đám!" Bà mối gật đầu, nói:"Xin vâng!"
Hoắc bà về rồi, bà mối liền sang nhà hàng xóm nói chuyện mình sắp làm mai một đám khác cho Khuông Cửu. Chuyện đồn tới tai Thanh Nga. Thanh Nga bèn sai tì nữ tâm phúc tới thưa với Hoắc bà:"Tiểu thư nhà tiện tì đã đổi ý, bằng lòng kết duyên với lệnh công tử, sai tiện tì tới đây trình phu nhân!" Hoắc bà mừng lắm, lại tới nhà bà mối, nói:"Thanh Nga vừa cho tì nữ tới nói với tôi là cô ấy đã đổi ý, bằng lòng kết duyên với con tôi. Vậy nhờ bà cứ tới làm mai giùm cho nó lần nữa!" Bà mối lại gật đầu, nói: "Xin vâng!"
Ở nhà Vũ bà, tì nữ của Thanh Nga bép xép chuyện Khuông Cửu khoét tường cho lũ gia nhân nghe. Có kẻ đem chuyện ấy mách Vũ bà. Nghe chuyện, Vũ bà giận lắm, cho là Khuông Cửu đã làm nhục gia đình mình.
Hôm ấy, bà mối lại tới nhà Vũ bà, nói: "Hoắc bà nhờ tôi tới đây để xin hỏi lệnh tiểu thư cho Hoắc công tử lần nữa!" Nghe thấy thế, Vũ bà nổi giận, cầm một cây gậy chạy ra giữa sân, chỉ trời vạch đất mà thề:"Tôi thề là chẳng bao giờ gả con gái cho cái thằng mất dạy Khuông Cửu ấy! Đào tường khoét vách, leo lên giường con gái nhà người ta mà nằm, đúng là đồ đạo tặc dâm bôn! Làm mẹ mà chẳng biết dạy con, đúng là mẹ thằng mất dạy!"
Bà mối kinh hãi, chạy về thuật lại cho Hoắc bà nghe. Nghe xong, Hoắc bà cũng nổi giận, nói:"Sao bà ấy lại được ăn nói hỗn hào với tôi như thế! Chuyện thằng con tôi nó làm, tôi đâu có biết mà ngăn? Sao bà ấy chẳng biết dạy gia nhân rằng nếu gặp chúng nó ăn nằm với nhau như thế thì cứ việc bắt cả hai đứa, đem ra mà giết?" Rồi Hoắc bà đi rêu rao khắp chốn. Thanh Nga nghe chuyện, xấu hổ vô cùng, ý muốn tự tử. Vũ bà nghe chuyện, cũng đâm hối hận, sai tì nữ canh chừng con rất sát. Thanh Nga bèn viết một lá thư gửi Hoắc bà, lời lẽ rất bi thiết, thề chẳng lấy ai ngoài Khuông Cửu, rồi sai tì nữ đưa sang. Hoắc bà mở thư ra đọc thì cũng cảm động, nên thôi không đi rêu rao nữa. Tuy nhiên, Hoắc bà vẫn nhất định không chịu hỏi Thanh Nga cho con.
Năm sau, triều đình bổ nhậm tiến sĩ họ Âu, người tỉnh Thiểm Tây, tới làm quan tể huyện Tấn Dương. Âu công vốn ưa thích văn chương, thường hay đọc văn bài của các nho sinh trong huyện. Khi đọc tới văn bài của Khuông Cửu, Âu công thích lắm, sai lính đi gọi Khuông Cửu vào tư dinh đàm luận.
Tháng sau. Một hôm Khuông Cửu đang ngồi đàm luận với Âu công thì bỗng Âu công hỏi:"Đã hỏi vợ chưa?" Khuông Cửu đáp:"Thưa chưa!" Hỏi:"Mười bốn tuổi rồi, sao chưa hỏi vợ?" Đáp:"Thực ra, năm ngoái gia mẫu có hỏi con gái quan bình sự họ Vũ trong huyện cho tiểu sinh. Nhưng rồi gia mẫu có chuyện xích mích với Vũ bà nên bỏ luôn việc cầu hôn!" Hỏi:"Thế bây giờ có còn muốn cầu hôn đám đó nữa hay không?" Khuông Cửu đỏ mặt bẽn lẽn. Âu công bèn cười, nói:"Thôi! Để ta tác thành cho!"
Hôm sau, Âu công sai quan huyện úy cùng quan giáo dụ đem sính lễ tới nhà Vũ bà, xin hỏi cưới Thanh Nga cho Khuông Cửu. Thấy gia đình mình được Âu công chiếu cố, Vũ bà lấy làm vinh dự, bèn nhận lời ngay. Còn Hoắc bà thì vì nể uy thế của Âu công nên cũng phải vâng lời. Hai bên bèn thỏa thuận gặp nhau để bàn tính chuyện hôn nhân.
Tháng tám năm sau, Hoắc bà đón dâu về cho con. Chú rể 15, cô dâu 16. Tối hôm động phòng hoa chúc, Thanh Nga cầm chiếc dầm ném xuống đất, nói:"Hãy quẳng cái vật đào tường khoét vách này đi!" Khuông Cửu cúi xuống nhặt chiếc dầm, giắt vào thắt lưng, rồi cười, nói:"Ta chẳng thể nào quên được bà mối này!" Từ đó, Khuông Cửu đi đâu cũng giắt theo chiếc dầm ở thắt lưng. Thanh Nga hiền hậu, ít nói, thờ mẹ chồng rất phải đạo, ngày nào cũng tới thăm hỏi ba lần. Thế nhưng, ngoài việc thăm hỏi ra, Thanh Nga chỉ ngồi trong thư phòng đọc sách, chứ chẳng hề phụ giúp mẹ chồng cai quản gia vụ. Chỉ khi nào Hoắc bà bận việc giao tế, phải đi dự đám tang, đám cưới, Thanh Nga mới chịu đứng ra trông nom. Thế nhưng, khi đã trông nom thì đâu vào đấy, thứ tự, ngăn nắp, khiến gia nhân đều phải kính phục.
Hai năm sau, Thanh Nga sanh trai, đặt tên là Mạnh Tiên. Thanh Nga chẳng hề chăm sóc cho con mà giao cho bà vú chăm sóc thay mình.
Tám năm sau. Một hôm Thanh Nga nói với chồng: "Cái duyên hoan ái của chúng mình đã hết. Nay đã tới lúc phải ly biệt!" Khuông Cửu kinh hãi quá, hỏi: "Sao lại phải ly biệt?" Thanh Nga chỉ im lặng, chẳng đáp. Sáng sau, Thanh Nga ngủ dậy sớm, tắm rửa, trang điểm, lên lạy mẹ chồng ba lạy rồi vào phòng riêng. Khuông Cửu thấy lạ, bèn theo vào thì thấy Thanh Nga lên giường nằm, ngửa mặt nhìn trần nhà. Khuông Cửu hỏi:"Làm chi kỳ thế?" Thanh Nga chẳng đáp. Lát sau, Thanh Nga tắt thở. Khuông Cửu và Hoắc bà cùng khóc lóc thảm thiết. Thế rồi hai mẹ con làm tang lễ rất trọng thể cho Thanh Nga.
Từ đó, ngày nào Hoắc bà cũng bế cháu nội, khóc con dâu. Buồn rầu rồi thành bệnh, Hoắc bà nằm liệt giường. Khuông Cửu bèn rước lương y về trị bệnh cho mẹ. Hoắc bà đỡ dần song vẫn biếng ăn.
Một hôm, Khuông Cửu vào thăm mẹ, hỏi:"Sao mẹ chẳng chịu ăn uống chi cả? Mẹ có thèm ăn món gì đặc biệt không?" Hoắc bà đáp: "Mẹ chỉ thèm ăn canh cá rô thôi!" Ở Tấn Dương, muốn mua cá rô ngon, phải sang Thuận Thiên, xa trên trăm dặm. Gia nhân đều bận việc phải đi xa, Khuông Cửu chẳng chịu chờ chúng về, tự mình sang Thuận Thiên mua cá. Sáng sau, mua được cá ngon, Khuông Cửu ra về. Dọc đường, tới Thuận Sơn, Khuông Cửu thấm mệt, hai chân sưng nhức, cất bước nặng nề. Bỗng có một ông lão, vai đeo bọc, từ phía sau vượt lên, quay đầu hỏi:"Sưng chân đấy ư?" Khuông Cửu đáp: "Thưa vâng!" Ông lão bèn tới kéo Khuông Cửu ngồi xuống vệ đường, mở bọc lấy đá quẹt lửa, đốt thuốc xông cho, rồi nói:"Thử đứng dậy, bước đi coi!" Khuông Cửu làm theo lời thì bỗng thấy chân mình chẳng những đã hết sưng nhức mà còn cứng mạnh hơn trước. Vừa kinh ngạc, vừa cảm động, Khuông Cửu bèn vái tạ ông lão rồi xin cáo biệt. Ông lão hỏi: "Đi đâu mà vội thế?" Khuông Cửu đáp: "Gia mẫu bị bệnh, chẳng thèm ăn chi ngoài canh cá rô. Ở Tấn Dương không có cá rô ngon nên tiểu sinh phải sang Thuận Thiên tìm mua! Bây giờ đã mua được nên phải vội đem về!" Hỏi: "Có vợ chưa?" Đáp: "Tiểu sinh góa vợ" Hỏi: "Sao chưa lấy vợ kế?" Đáp: "Vì chưa kiếm được người vừa ý!" Ông lão liền giơ tay chỉ về phía sơn thôn ẩn hiện đằng xa, nói: "Ở sơn thôn đằng kia có một thiếu nữ đẹp lắm. Nếu chịu khó theo lão phu tới đó, lão phu sẽ làm mai cho!" Khuông Cửu từ chối, đáp: "Tiểu sinh chẳng thể đi theo lão trượng được vì gia mẫu đang chờ ở nhà!" Ông lão nói: "Thế thì thôi! Tuy nhiên, nếu mai mốt muốn nhờ lão phu làm mai cho thì cứ việc tới đó, hỏi thăm thôn dân xem nhà lão Vương ở đâu là họ sẽ chỉ cho!" Khuông Cửu đáp: "Xin vâng!" rồi xin cáo biệt.
Tới nhà, Khuông Cửu tự tay nấu canh cá rô dâng mẹ. Hoắc bà ăn xong, khen ngon rối rít. Tuần sau, Hoắc bà khỏi bệnh. Khuông Cửu bèn thuật lại chuyện mình gặp Vương lão ở Thuận Sơn cho mẹ nghe, rồi nói :"Sang năm, hết tang vợ, con sẽ xin phép mẹ được trở lại Thuận Sơn tìm Vương lão!" Hoắc bà đáp: "Việc ấy tùy con!"
Năm sau. Vào ngày rằm tháng tám, Khuông Cửu sai một gia nhân cưỡi ngựa theo mình đi Thuận Sơn. Tới nơi, hai thày trò cho ngựa chạy vòng quanh chân núi để tìm sơn thôn, song từ sáng tới trưa chỉ thấy toàn động núi. Khuông Cửu bèn bảo gia nhân: "Ta với ngươi, mỗi người đi một ngả để tìm cho nhanh. Hẹn đầu giờ dậu, gặp nhau ở chỗ này!" Gia nhân đáp: "Xin vâng!" rồi quất ngựa phóng đi. Gia nhân đi tìm từ trưa tới tối cũng chẳng thấy sơn thôn nào, bèn trở lại chỗ hẹn để gặp tiểu chủ. Chờ tới khuya cũng chẳng thấy tiểu chủ đâu, gia nhân kinh hãi quá, đành phóng ngựa ra về.
Tới nhà, gia nhân vội trình việc Khuông Cửu mất tích lên Hoắc bà. Nghe tin, Hoắc bà lo sợ, bật khóc thất thanh. Sáng sau, Hoắc bà sai một toán mười gia nhân cưỡi ngựa đi Thuận Sơn tìm Khuông Cửu. Toán gia nhân sục sạo tìm kiếm suốt hai ngày song cũng chẳng thấy chi, đành quay về trình báo. Hoắc bà càng lo sợ, khóc lóc suốt ngày đêm.
Từ lúc chia tay với gia nhân, Khuông Cửu cưỡi ngựa leo núi. Vì đường dốc, ngựa khó đi, Khuông Cửu bèn thả cho ngựa tìm cỏ ăn, rồi leo núi một mình. Lên tới đỉnh núi, đưa mắt nhìn quanh, chẳng thấy sơn thôn nào, Khuông Cửu bèn quay xuống núi tìm ngựa để trở lại chỗ hẹn. Xuống đến lưng chừng núi thì trời vừa tối. Thấy phong cảnh khác lạ, Khuông Cửu biết là mình bị lạc. Đột nhiên, Khuông Cửu thấy mình bước tới một bờ vực thẳm. Bàng hoàng hốt hoảng, Khuông Cửu trượt chân, rồi té xuống vực. Đang thầm nghĩ chắc mình sắp chết thì thấy thân mình rơi trúng một giải đất từ sườn núi nhô ra. Nhờ ánh trăng, nhìn xuống dưới, thấy đen ngòm, Khuông Cửu kinh hãi quá, cứ nằm im, chẳng nhúc nhích. Chợt thấy một hàng cây nhỏ mọc quanh giải đất như một lan can, Khuông Cửu mới đỡ lo. Lát sau hoàn hồn, quay nhìn sau lưng, thấy một cửa động, có một tảng đá chắn ngang, Khuông Cửu mừng quá, vội lấy lưng ẩy tảng đá sang một bên rồi nằm ngửa mà lết lùi vào động. Nằm trong động, Khuông Cửu thấy vững dạ hơn, mong rằng sáng sau sẽ có người qua lại để cho mình tri hô cầu cứu. Ngoài động tuy có ánh trăng song trong động vẫn tối đen như mực. Lát sau, thấy ở phía sâu trong động có một đốm sáng lấp lánh, Khuông Cửu vội đứng dậy, nhắm đốm sáng tiến vào. Đi mãi mà thấy đốm sáng vẫn còn xa, Khuông Cửu bắt đầu nản chí. Vừa toan quay trở lại thì chợt thấy ở bên đường có một khuôn viên với bốn dãy nhà đông tây nam bắc. Khuông Cửu bèn đánh bạo, mở cổng bước vào. Tuy thấy trong sân chẳng có đèn đuốc chi song Khuông Cửu thấy mắt mình vẫn nhìn rõ được mọi vật. Còn đang bỡ ngỡ, bỗng Khuông Cửu thấy một giai nhân từ dãy nhà phía đông bước ra. Giương mắt nhìn, Khuông Cửu thấy chính là vợ mình. Kinh ngạc quá, Khuông Cửu chẳng thốt được lời nào. Thanh Nga cũng kinh ngạc chẳng kém, hỏi: "Làm thế nào mà tới được chốn này?" Khuông Cửu đáp: "Chuyện dài lắm, chẳng thể kể vắn tắt được!" rồi chạy tới nắm chặt lấy cánh tay vợ mà sụt sùi. Thanh Nga nói: "Đừng có sụt sùi nữa! Hãy nín đi mà trả lời! Mẹ có khỏe không?" Đáp: "Khỏe" Hỏi:" Con có khỏe không?" Đáp: "Khỏe!" Rồi nói tiếp: "Nàng chết đi, ta khổ lắm, mẹ khổ lắm, con khổ lắm!" Thanh Nga thở dài, tỏ vẻ buồn bã. Khuông Cửu hỏi:"Nàng chết đã được hơn một năm nay rồi thì nơi đây có phải là âm phủ không?" Đáp: "Không!" Hỏi: "Sao vậy?" Đáp: "Vì thiếp đâu có chết!" Hỏi: "Thế xác chôn trong quan tài là xác của ai?" Đáp: "Làm gì có xác nào chôn trong quan tài?" Hỏi: "Thế vật chôn trong quan tài là vật gì?" Đáp:"Là một cây gậy trúc!" Hỏi: "Thế chốn này là chốn nào?" Đáp:"Là tiên phủ! Chàng đã tới được chốn này tức là đã có duyên với tiên cảnh!" Hỏi: "Bây giờ ta phải làm chi?" Đáp: "Chẳng phải làm chi cả, chỉ cần lên sảnh đường ra mắt cha thôi!" Khuông Cửu gật đầu. Thanh Nga bèn dắt chồng lên dãy nhà hướng bắc. Vào sảnh đường, Khuông Cửu thấy một ông lão quắc thước, râu dài tới rốn, đang ngồi trên bục cao, có một tì nữ khoanh tay đứng hầu. Thấy con dắt khách lạ vào sảnh đường, ông lão tỏ vẻ kinh ngạc. Thanh Nga lên tiếng giới thiệu: "Thưa cha, đây là Hoắc lang, chồng con!" Khuông Cửu bèn quỳ xuống đất, lạy ông lão hai lạy. Ông lão đứng dậy, bước xuống khỏi bục, cầm tay Khuông Cửu kéo dậy, nói :"Đã tới được chốn này thì nên ở lại, đừng về nữa!" Khuông Cửu từ chối, đáp: "Con chẳng thể ở lại đây được vì mẹ con đang mong con về!" Ông lão cười, nói: "Đúng là chưa dứt được tục lụy trần thế! Muốn về thì cứ việc về, nhưng hãy ở lại đây chơi vài ba ngày đã!" Rồi ông lão quay qua tì nữ, nói: "Hãy đi lấy rượu và thức ăn đem tới dãy nhà hướng tây cho khách rồi dọn cho khách một phòng riêng!" Tì nữ cúi đầu đáp: "Xin tuân lệnh!"
Hai vợ chồng cùng ra khỏi sảnh đường. Tì nữ dẫn Khuông Cửu đi về hướng tây còn Thanh Nga thì đi về hướng đông. Chợt Khuông Cửu vụt chạy ngược lại, níu lấy tay vợ, kéo đi theo mình. Thanh Nga vùng vằng chống cự. Tì nữ bưng miệng cười khúc khích. Đột nhiên ông lão từ trong sảnh đường, chống gậy bước ra sân, quát:"Tục cốt làm bẩn tiên phủ, hãy cút đi ngay!" Bị bắt quả tang đang níu kéo vợ, Khuông Cửu thẹn quá hóa giận, nói: "Làm người, ai mà tránh khỏi chuyện nam nữ? Tại sao người trên lại đi rình mò chuyện riêng tư của kẻ dưới? Tiểu sinh sẽ ra khỏi chốn này ngay, song lệnh nữ đã là tiện nội thì phải đi theo tiểu sinh!" Ông lão chẳng biết đối đáp ra sao, chỉ giơ tay vẫy con gái đi theo mình. Thanh Nga bèn bước theo cha. Khuông Cửu vội chạy theo vợ. Tới một cửa động, ông lão lấy tay rẽ hai cánh cửa đá sang hai bên rồi quát: "Cút!" Khuông Cửu khẳng khái bước ra ngoài. Đột nhiên, hai cánh cửa đá lại tự động khép kín.
Quay đầu nhìn quanh, Khuông Cửu chỉ thấy núi non chót vót, lởm chởm như dao, chẳng kẽ len chân. Ngửng đầu nhìn lên, chỉ thấy trăng xế, sao thưa. Bơ vơ giữa rừng núi âm u, chẳng biết lối về mà cũng chẳng biết phải làm gì, Khuông Cửu kinh hãi quá, cứ đứng ủ rũ, vừa thở dài vừa oán hận ông lão. Khuông Cửu bèn quay mặt vào cửa động, lấy hết sức bình sinh mà hét: "Thanh Nga! Thanh Nga!" song chỉ nghe thấy âm thanh vang vọng của chính mình chứ tuyệt nhiên chẳng thấy có tiếng trả lời. Khuông Cửu càng oán hận ông lão. Chợt nhớ tới chiếc dầm, Khuông Cửu bèn rút ra khoét cánh cửa đá bên phải, vừa khoét vừa la. Trong khoảnh khắc, cánh cửa đá đã bị khoét sâu tới hai tấc. Chợt có tiếng ông lão từ trong động nói vọng ra: "Nghiệt chướng thay! Nghiệt chướng thay!" Khuông Cửu càng ra sức khoét nhanh. Bỗng thấy hai cánh cửa đá mở toang rồi thấy ông lão đẩy Thanh Nga ra ngoài. Hai cánh cửa đá lại tự động khép kín.
Ra ngoài, Thanh Nga nói giọng oán hận: "Vẫn nói là thương yêu vợ mà sao lại đối xử với cha vợ tệ bạc như thế? Chẳng biết cái lão đạo sĩ quỷ quái nào lại đi cho chàng chiếc dầm tội lỗi này?" Khuông Cửu được vợ, thấy toại nguyện rồi, chẳng muốn đôi co, nên cứ lờ đi, quay qua hỏi vợ: "Có biết đường xuống núi không?" Thanh Nga đáp: "Có!" Nói: "Thế thì dẫn đường đi!" Đáp: "Đi chân thế nào được! Phải cưỡi ngựa!" Hỏi: "Ngựa đâu mà cưỡi?" Thanh Nga chẳng đáp, chỉ lấy tay bẻ hai cành cây cạnh mình, đưa cho chồng một cành, nói: "Cưỡi lên đi!" Khuông Cửu bèn cưỡi. Thanh Nga cũng cưỡi lên cành kia. Đột nhiên, hai cành biến thành hai ngựa. Thanh Nga phóng trước, Khuông Cửu theo sau.
Ở nhà, Hoắc bà đang lo chẳng biết con mình lạc đi đâu thì bỗng thấy gia nhân chạy vào báo: "Thưa phu nhân, công tử đã về!" Hoắc bà mừng quá, vội chạy ra cổng đón con. Thấy có cả Thanh Nga cùng theo về, Hoắc bà cực kỳ kinh hãi. Khuông Cửu vội chạy tới thì thầm với mẹ, thuật sơ lại chuyện gặp vợ trong núi để mẹ an tâm. Hoắc bà vừa hết sợ lại thêm mừng. Vào nhà, Thanh Nga thưa ngay với Hoắc bà: "Ở Tấn Dương này ai cũng nghĩ rằng con đã chết. Nay thấy con về, họ sẽ dị nghị, cho rằng con là yêu quái. Nhà ta vẫn còn một dinh cơ khác ở Sơn Hữu. Vậy xin mẹ hãy ra lệnh cho cả nhà di cư về quê ngay!" Hoắc bà gật đầu. Ngay đêm ấy, Hoắc bà ra lệnh cho toàn thể gia nhân khuân vác đồ đạc, chất chứa lên xe, dọn về Sơn Hữu. Ở Tấn Dương, chẳng ai hay biết gì về việc Thanh Nga đã trở về.
Hai năm sau, Thanh Nga sanh thêm một gái, đặt tên là Thanh Vân. Lúc đó, Mạnh Tiên đã lên chín.
Mười bốn năm sau. Có nho sinh họ Lý, người cùng huyện, tới hỏi cưới Thanh Vân. Khuông Cửu và Thanh Nga cùng bằng lòng gả. Rồi cho cưới ngay.
Tháng sau, Hoắc bà bị bệnh nặng. Tuần sau, Hoắc bà qua đời. Khuông Cửu làm lễ phát tang cho mẹ. Khi chọn đất mai táng, Thanh Nga nói: "Trong khu ruộng nhà mình có một miếng đất rất đẹp, hình chim trĩ ấp tám trứng, nên an táng mẹ ở đó! Mạnh Tiên đã hăm ba, chàng bảo nó ở lại mà trông coi phần mộ thay chàng!" Khuông Cửu nghe lời, bèn sai gia nhân tới cất một chòi canh cạnh huyệt mộ. Tang lễ xong xuôi, Khuông Cửu bảo Mạnh Tiên: "Con đã lớn, có thể báo hiếu bà nội thay cha. Vậy con hãy ở lại chòi này, trông coi phần mộ của bà, đúng một tháng mới được về thăm nhà" Mạnh Tiên đáp: "Con xin tuân lệnh! Xin song thân cứ hồi gia!"
Trên đường về, Thanh Nga bảo chồng: "Bây giờ đừng về nhà nữa, hãy sang Thuận Thiên cư ngụ!" Khuông Cửu ngạc nhiên, hỏi: "Sao lại sang Thuận Thiên?" Đáp: "Vì ở gần tiên phủ của cha!" Khuông Cửu gật đầu ưng thuận rồi cùng vợ sang Thuận Thiên. Cuối năm, Thanh Nga lại sanh thêm một trai, đặt tên là Trọng Tiên.
An táng bà nội xong, Mạnh Tiên ở lại trông coi phần mộ đúng một tháng rồi mới về thăm nhà. Không thấy cha mẹ ở nhà, Mạnh Tiên hỏi người lão bộc: "Song thân tôi đâu?" Người lão bộc đáp: "Từ hôm an táng cụ tới giờ, ông bà đã về nhà đâu?" Mạnh Tiên kinh hãi quá, chẳng hiểu là cha mẹ mình đi đâu. Từ hôm đó, Mạnh Tiên chỉ quanh quẩn ở trong nhà đọc sách chứ ít khi đi ra ngoài. Ít lâu sau, Mạnh Tiên nổi tiếng là danh sĩ trong huyện. Văn hay chữ tốt song hễ cứ đi thi là hỏng.
Mười bảy năm sau, Mạnh Tiên bốn mươi tuổi, khăn gói vào kinh đô ứng thí song lại hỏng. Mùa thu năm sau, lại vào kinh đô ứng thí. Thi xong ra về, gặp một nho sinh hào hoa phong nhã trông giống mình như đúc, song trẻ hơn mình nhiều, Mạnh Tiên lấy làm lạ, bèn nảy ý làm quen. Khi tới gần, thấy nho sinh cầm một quyển tập đề mấy chữ: "Hoắc Trọng Tiên, lẫm sinh Thuận Thiên" Mạnh Tiên bèn hỏi: "Xin lỗi túc hạ! Có phải túc hạ họ Hoắc không?" Nho sinh đáp: "Thưa phải! Đệ họ Hoắc, tên Trọng Tiên, 18 tuổi!" rồi hỏi lại: "Thế quý tính là chi?" Đáp: "Bỉ nhân cũng họ Hoắc, tên Mạnh Tiên, 41 tuổi!" Trọng Tiên kinh ngạc, hỏi: "Quý quán ở đâu?" Đáp:"Ở huyện Sơn Hữu, tỉnh Sơn Tây" Trọng Tiên mừng lắm, nói:"Lúc đệ về đây ứng thí, gia nghiêm có dặn nếu vào trường thi mà gặp ai họ Hoắc ở Sơn Hữu thì đều là bà con bên nội, phải đối xử cho có lễ độ, tôn ti. Nay gặp huynh cũng họ Hoắc ở Sơn Hữu, chẳng biết đệ phải xưng hô với huynh như thế nào?" Mạnh Tiên không đáp mà hỏi lại: "Túc hạ có thể cho biết danh tính của lệnh tôn, lệnh đường chăng?" Đáp: "Gia nghiêm họ Hoắc, tên Hoàn, tên chữ Khuông Cửu. Gia từ họ Vũ, tên Thanh Nga!" Mạnh Tiên sửng sốt, nói: "Song thân bỉ nhân cũng tên họ như thế!" Trọng Tiên cũng sửng sốt song vẫn còn chút nghi ngờ, nói: "Đệ mới 18, song thân đệ còn trẻ lắm. Huynh đã 41, lệnh tôn lệnh đường chắc đã cao tuổi hạc! Vì thế, đệ nghĩ huynh với đệ chẳng thể là anh em ruột được!" Mạnh Tiên nói: "Năm nay, gia nghiêm 58, gia từ 59, song vì các người đều là tiên nên trông còn trẻ lắm! Chẳng thể lấy tuổi tác mà suy ra diện mạo được!" Nghe thấy thế, Trọng Tiên càng sửng sốt, nói: "Gia nghiêm cũng 58, gia từ cũng 59!" Hai người bèn thuật lại cho nhau nghe mọi chuyện về cha mẹ mình, rồi nhận ra nhau là anh em ruột. Mạnh Tiên hỏi: "Song thân vẫn ở với hiền đệ đấy chứ?" Trọng Tiên đáp: "Thưa không! Cách đây hai năm, sau khi cưới vợ cho tiểu đệ, song thân bỏ nhà ra đi, chẳng biết là đi đâu. Các người có dặn tiểu đệ cứ để nguyên phòng của các người để thỉnh thoảng các người ghé về nhà thăm con cháu! Mời đại ca tới Thuận Thiên chơi cho biết nhà tiểu đệ!" Mạnh Tiên nói:"Ngu huynh cũng vừa nảy ý tới thăm đệ tức và coi xem song thân có ghé về nhà thăm con cháu hay không?"
Ngay hôm đó, Trọng Tiên sai gia nhân sắm sửa ngựa xe rồi cùng Mạnh Tiên khởi hành về Thuận Thiên. Tới nhà, Trọng Tiên thấy một đám gia nhân đứng lố nhố ở ngoài cổng, rồi thấy có kẻ chạy tới gần mình, thưa: "Tối qua thái công và phu nhân vừa ghé về thăm nhà!" Trọng Tiên vội hỏi: "Các người còn ở nhà không?" Kẻ gia nhân đáp: "Thưa không! Thái công và phu nhân đã đi rồi!" Nghe thấy thế, cả hai anh em Mạnh Tiên cùng tỏ vẻ buồn bã.
Trọng Tiên vào nhà gọi vợ ra chào anh. Trọng Tiên hỏi vợ: "Song thân về lúc nào, đi lúc nào?" Vợ Trọng Tiên đáp: "Các người về tối qua. Thiếp sửa soạn cơm nước bưng lên mời các người thì các người bảo thiếp cùng ngồi. Mẫu thân nói rằng người vẫn lo cho vợ chồng mình còn trẻ quá, chưa từng trải việc đời, chẳng có ai chỉ bảo. Song người lại nói rằng hôm nay thế nào đại ca cũng về đây nhận anh em với vợ chồng mình và sẽ chỉ bảo cho vợ chồng mình, nên người cũng đỡ lo. Sáng nay, thiếp vào vấn an các người thì thấy căn phòng đã trống vắng. Các người ra đi lúc nào thiếp cũng chẳng hay!" Hai anh em cứ dậm chân tiếc rẻ.
Trọng Tiên nói: "Xin đại ca cho tiểu đệ được đi tìm song thân!" Mạnh Tiên gạt đi, nói: "Song thân chúng ta là tiên chứ có phải là người thường đâu mà hiền đệ đòi đi tìm? Có đi thì cũng chỉ phí công vô ích mà thôi!" Nghe thấy thế, Trọng Tiên bèn nói: "Nếu thế thì thôi! Tuy nhiên, xin đại ca hãy lưu lại đây chơi với vợ chồng tiểu đệ để chờ kết quả thi cử. Dù đậu hay hỏng, tiểu đệ cũng sẽ xin dọn nhà, theo đại ca về quê cư ngụ!" Mạnh Tiên đáp: "Thế cũng được!" Rồi lưu lại nhà em.
Tháng sau, trường thi yết bảng, Mạnh Tiên lại hỏng, còn Trọng Tiên thì đậu cử nhân. Trọng Tiên bèn bán nhà, theo anh về Sơn Hữu, mua nhà ở cạnh nhà anh.
Mạnh Tiên nghĩ song thân đã ở nơi tiên cảnh nhưng Trọng Tiên lại nghĩ song thân vẫn còn ở chốn nhân gian. Vì thế, Trọng Tiên thường lén anh đi thăm dò tin tức song thân, nhưng tuyệt nhiên chẳng thăm dò được tin tức gì.
Tạc thạch trùng liên động phủ nhân
Đạo sĩ tặng sàm như hữu ý
Độ tha hiếu tử tác tiên nhân
Huyện Tấn Dương, tỉnh Sơn Tây, có quan bình sự họ Vũ, rất mộ đạo Lão, trong nhà có rất nhiều sách Lão Trang. Ông bà bình sự có một gái, tên Thanh Nga, rất mực kiều diễm, thường lén đọc sách của cha và rất hâm mộ Hà Tiên Cô. Năm Thanh Nga 14 tuổi, Vũ ông bỏ nhà sang ở huyện Thuận Thiên tỉnh Hà Bắc, rồi vào núi Thuận Sơn tu tiên. Thanh Nga ở lại Tấn Dương với mẹ, cũng bắt chước cha, lập chí tu tiên. Vì thế, Thanh Nga quyết chẳng lấy chồng. Có đám nào tới hỏi, Thanh Nga cũng từ chối. Vũ bà chiều ý con, chẳng ép duyên.
Ở Tấn Dương lại có quan huyện úy họ Hoắc, quán tại huyện Sơn Hữu. Ông bà huyện úy có một trai, tên Hoàn, tên chữ Khuông Cửu, kém Thanh Nga một tuổi. Năm Khuông Cửu lên 5, Hoắc ông qua đời, để lại cho Hoắc bà một ngôi nhà ở Tấn Dương và một dinh cơ ở Sơn Hữu. Khuông Cửu học giỏi, nổi tiếng thần đồng, năm 11 tuổi đã đậu thủ khoa khóa thi nhập học trường huyện. Vì thương yêu con quá, Hoắc bà chỉ cho con tới trường rồi lại bắt về nhà chứ chẳng cho đi đâu. Vì thế, năm 13 tuổi, Khuông Cửu vẫn chưa biết mặt chú cô cậu dì nội ngoại. Khuông Cửu rất có hiếu với mẹ, song cũng rất hiếu sắc. Tuy còn ít tuổi, song hễ thấy gái đẹp là đã si mê.
Một hôm đi học về, gặp Thanh Nga ở dọc đường, Khuông Cửu bỗng cảm thấy lòng xao xuyến. Dò hỏi mọi người, biết Thanh Nga là con Vũ bà, Khuông Cửu bèn nói với mẹ:"Mẹ nhờ bà mối tới nhà Vũ bà hỏi Thanh Nga cho con đi!" Hoắc bà đáp:"Mẹ nghe nói Thanh Nga đã lập chí tu tiên, quyết chẳng lấy chồng, hỏi làm chi cho phí công vô ích!" Bị phật ý, Khuông Cửu hậm hực, cứ buồn rầu mãi. Thấy con buồn, Hoắc bà bèn nhờ bà mối tới hỏi Thanh Nga cho con. Quả nhiên Thanh Nga từ chối. Khuông Cửu cố nghĩ ra phương kế để gặp Thanh Nga, song nghĩ mãi mà vẫn chưa ra phương kế gì.
Một hôm, Khuông Cửu ra cổng đứng chơi. Thấy một đạo sĩ đi qua, tay cầm chiếc dầm nhỏ, chỉ dài chừng gang tay, Khuông Cửu lấy làm lạ, bèn chạy tới mượn để coi, rồi hỏi:"Dầm này dùng để làm chi?" Đạo sĩ cười, đáp: "Để khoét đá cứng" Hỏi:"Nhỏ thế này thì làm sao mà khoét?" Cười, đáp:"Tuy nhỏ song cứng và sắc lắm!" Khuông Cửu lắc đầu, tỏ vẻ chẳng tin. Đạo sĩ bèn lấy lại dầm, khoét vào tảng đá ở ngoài cổng. Thấy tảng đá bị lõm vào một lỗ, Khuông Cửu kinh ngạc, lại mượn dầm để ngắm nghía. Đạo sĩ cười, nói:"Thích thì cho đó!" Khuông Cửu mừng quá, đáp:"Xin chờ một lát!" rồi cầm dầm chạy vào nhà, lấy một mớ tiền, đem ra trả đạo sĩ. Đạo sĩ lắc đầu cười, nói:"Cho chứ đâu có bán!" rồi lững thững bỏ đi. Khuông Cửu bèn đem dầm vào nhà, khoét vào góc tường ở cuối sân thì thấy góc tường cũng bị thủng. Khuông Cửu mừng lắm, định bụng sẽ đem dầm tới nhà Vũ bà, khoét tường để vào gặp Thanh Nga, chẳng biết rằng làm như thế là phạm pháp.
Đêm ấy, Khuông Cửu giắt dầm vào thắt lưng, lén mẹ trèo tường ra khỏi nhà. Tới nhà Vũ bà, thấy một vòng tường vây kín, Khuông Cửu bèn rút dầm, khoét một lỗ hổng dưới chân tường rồi chui vào. Thấy một vòng tường nữa, Khuông Cửu lại khoét rồi lại chui vào. Thấy ở bên trong có một sân rộng và ở cuối sân có một căn phòng còn đèn sáng, Khuông Cửu bèn chạy tới, áp mắt vào lỗ khóa mà dòm. Thấy Thanh Nga đang cởi bỏ nữ trang rồi tắt đèn đi nghỉ, Khuông Cửu chưa dám có hành động gì, chỉ nép mình ở ngoài hành lang để nghe ngóng.
Lát sau, thấy cảnh vật đã im, Khuông Cửu mới rút dầm khoét tường rồi chui vào. Dón dén bước tới cạnh giường, thấy Thanh Nga đang thở đều đều, Khuông Cửu khẽ cởi giầy, leo lên giường, nằm nép cạnh chiếc chăn gấm, nhắm mắt hưởng hương thơm. Mệt mỏi từ tối, nay thấy thoải mái, Khuông Cửu ngủ thiếp đi.
Lát sau, Thanh Nga thức giấc. Thấy ánh trăng tỏa sáng đầy phòng, Thanh Nga lấy làm lạ, bèn đảo mắt nhìn quanh. Thấy trên tường có một lỗ hổng mới khoét, Thanh Nga kinh hãi quá, vội dón dén ngồi dậy, tới giường tì nữ, lấy tay bịt miệng, nói thầm vào tai:"Khẽ chứ, hãy ra khỏi phòng này ngay!" Hai người cùng dón dén, mở cửa lẻn ra sân, chạy tới phòng bà vú, gõ cửa gọi bà dậy, thuật lại chuyện cho nghe. Bà vú vội thắp đèn, lấy cho mỗi người một cây gậy, bảo theo mình trở lại phòng Thanh Nga. Tới giường, bà vú soi đèn. Thấy một chú bé, mặt mũi non choẹt, tóc kết trái đào, đang nằm ngủ say, bà bèn lay dậy. Chú bé nhỏm dậy, mắt sáng như sao, chẳng sợ hãi chi. Tì nữ nhận ra chú bé là Khuông Cửu, con trai Hoắc bà, thì thấy yên tâm, bèn vờ doạ nạt:"Chắc chú bé này là đạo tặc. Mình hãy bắt trói, đem lên nạp quan" Nghe thấy thế, Khuông Cửu bật khóc, nói:"Chỉ vì thương yêu nương tử đây nên muốn được gần gũi chứ đâu có phải là đạo tặc!" Tì nữ hỏi:"Làm thế nào mà khoét được ba lần tường?" Khuông Cửu liền rút chiếc dầm ở lưng ra, nói:"Dầm này sắc lắm, khoét tường rất dễ!" Tì nữ liền giằng lấy, đem khoét thử vào tảng đá ở đầu hè, thì thấy đúng như lời. Tì nữ kinh hãi, nghĩ chắc chiếc dầm là thần vật của thần ban cho Khuông Cửu. Tì nữ vào phòng, ướm hỏi tiểu chủ: "Tiểu thư ơi! Bây giờ tiện tì đem chiếc dầm này lên trình phu nhân nhé?" Thanh Nga cúi đầu suy nghĩ. Hiểu ý tiểu chủ, tì nữ nói:"Chú bé này nổi tiếng thần đồng, tiểu thư có kết duyên cũng chẳng nhục nhã chi! Bây giờ ta hãy thả cho chú ấy về, bảo nói với mẹ nhờ bà mối tới hỏi lần nữa. Rồi sáng mai tiện tì sẽ trình dối với phu nhân rằng đêm qua nhà mình bị trộm tới khoét tường. Tiểu thư nghĩ sao?" Thanh Nga vẫn lặng im chẳng đáp. Hiểu ý tiểu chủ, tì nữ bèn giục Khuông Cửu:"Thôi, về đi!" Khuông Cửu nói:"Trả lại chiếc dầm đã!" Tì nữ cười, nói:"Đâu có được! Ngốc nghếch mà cũng biết đòi lại cái vật tội lỗi ấy ư?" Khuông Cửu liền đảo mắt nhìn quanh, cố tìm một vật gì để lấy bù lại chiếc dầm. Chợt thấy một cành thoa vàng nằm bên gối, Khuông Cửu liền lấy cho vào túi áo. Tì nữ nhìn thấy, mách:"Tiểu thư ơi! Chú ấy lấy trộm cành thoa của tiểu thư kìa!" Thanh Nga chẳng nói mà cũng chẳng tỏ vẻ tức giận. Tì nữ cười, nói:"Hãy còn ngốc lắm!" Thấy tì nữ cứ chê chú bé là ngốc, bà vú bèn lên tiếng:"Úi chao! Chẳng ngốc đâu! Khôn lắm đó!" Rồi tới nắm lấy cánh tay Khuông Cửu kéo ra sân, lôi tới lỗ hổng ở chân tường, bảo: "Lúc nãy vào bằng lối nào thì bây giờ phải ra bằng lối ấy!" Khuông Cửu bèn chui qua lỗ hổng mà về. Tới nhà, Khuông Cửu trèo tường vào phòng ngủ.
Sáng sau, Khuông Cửu chẳng dám thuật lại việc lén tới nhà Vũ bà cho mẹ nghe mà chỉ giục:"Mẹ hãy nhờ bà mối tới hỏi Thanh Nga cho con lần nữa đi!" Thấy con si tình, Hoắc bà gật đầu, rồi tới nhà bà mối, nói:"Con tôi nó muốn nhờ bà tới hỏi Thanh Nga cho nó lần nữa! Tôi biết Thanh Nga đã quyết chí tu tiên, chẳng muốn lấy chồng thì có tới hỏi cũng vô ích! Thế nhưng vì tôi chẳng nỡ chối từ con nên phải giả vờ tới đây để nhờ bà. Vậy xin bà làm ơn để ý giùm xem có đám nào đăng đối thì làm mai cho nó một đám!" Bà mối gật đầu, nói:"Xin vâng!"
Hoắc bà về rồi, bà mối liền sang nhà hàng xóm nói chuyện mình sắp làm mai một đám khác cho Khuông Cửu. Chuyện đồn tới tai Thanh Nga. Thanh Nga bèn sai tì nữ tâm phúc tới thưa với Hoắc bà:"Tiểu thư nhà tiện tì đã đổi ý, bằng lòng kết duyên với lệnh công tử, sai tiện tì tới đây trình phu nhân!" Hoắc bà mừng lắm, lại tới nhà bà mối, nói:"Thanh Nga vừa cho tì nữ tới nói với tôi là cô ấy đã đổi ý, bằng lòng kết duyên với con tôi. Vậy nhờ bà cứ tới làm mai giùm cho nó lần nữa!" Bà mối lại gật đầu, nói: "Xin vâng!"
Ở nhà Vũ bà, tì nữ của Thanh Nga bép xép chuyện Khuông Cửu khoét tường cho lũ gia nhân nghe. Có kẻ đem chuyện ấy mách Vũ bà. Nghe chuyện, Vũ bà giận lắm, cho là Khuông Cửu đã làm nhục gia đình mình.
Hôm ấy, bà mối lại tới nhà Vũ bà, nói: "Hoắc bà nhờ tôi tới đây để xin hỏi lệnh tiểu thư cho Hoắc công tử lần nữa!" Nghe thấy thế, Vũ bà nổi giận, cầm một cây gậy chạy ra giữa sân, chỉ trời vạch đất mà thề:"Tôi thề là chẳng bao giờ gả con gái cho cái thằng mất dạy Khuông Cửu ấy! Đào tường khoét vách, leo lên giường con gái nhà người ta mà nằm, đúng là đồ đạo tặc dâm bôn! Làm mẹ mà chẳng biết dạy con, đúng là mẹ thằng mất dạy!"
Bà mối kinh hãi, chạy về thuật lại cho Hoắc bà nghe. Nghe xong, Hoắc bà cũng nổi giận, nói:"Sao bà ấy lại được ăn nói hỗn hào với tôi như thế! Chuyện thằng con tôi nó làm, tôi đâu có biết mà ngăn? Sao bà ấy chẳng biết dạy gia nhân rằng nếu gặp chúng nó ăn nằm với nhau như thế thì cứ việc bắt cả hai đứa, đem ra mà giết?" Rồi Hoắc bà đi rêu rao khắp chốn. Thanh Nga nghe chuyện, xấu hổ vô cùng, ý muốn tự tử. Vũ bà nghe chuyện, cũng đâm hối hận, sai tì nữ canh chừng con rất sát. Thanh Nga bèn viết một lá thư gửi Hoắc bà, lời lẽ rất bi thiết, thề chẳng lấy ai ngoài Khuông Cửu, rồi sai tì nữ đưa sang. Hoắc bà mở thư ra đọc thì cũng cảm động, nên thôi không đi rêu rao nữa. Tuy nhiên, Hoắc bà vẫn nhất định không chịu hỏi Thanh Nga cho con.
Năm sau, triều đình bổ nhậm tiến sĩ họ Âu, người tỉnh Thiểm Tây, tới làm quan tể huyện Tấn Dương. Âu công vốn ưa thích văn chương, thường hay đọc văn bài của các nho sinh trong huyện. Khi đọc tới văn bài của Khuông Cửu, Âu công thích lắm, sai lính đi gọi Khuông Cửu vào tư dinh đàm luận.
Tháng sau. Một hôm Khuông Cửu đang ngồi đàm luận với Âu công thì bỗng Âu công hỏi:"Đã hỏi vợ chưa?" Khuông Cửu đáp:"Thưa chưa!" Hỏi:"Mười bốn tuổi rồi, sao chưa hỏi vợ?" Đáp:"Thực ra, năm ngoái gia mẫu có hỏi con gái quan bình sự họ Vũ trong huyện cho tiểu sinh. Nhưng rồi gia mẫu có chuyện xích mích với Vũ bà nên bỏ luôn việc cầu hôn!" Hỏi:"Thế bây giờ có còn muốn cầu hôn đám đó nữa hay không?" Khuông Cửu đỏ mặt bẽn lẽn. Âu công bèn cười, nói:"Thôi! Để ta tác thành cho!"
Hôm sau, Âu công sai quan huyện úy cùng quan giáo dụ đem sính lễ tới nhà Vũ bà, xin hỏi cưới Thanh Nga cho Khuông Cửu. Thấy gia đình mình được Âu công chiếu cố, Vũ bà lấy làm vinh dự, bèn nhận lời ngay. Còn Hoắc bà thì vì nể uy thế của Âu công nên cũng phải vâng lời. Hai bên bèn thỏa thuận gặp nhau để bàn tính chuyện hôn nhân.
Tháng tám năm sau, Hoắc bà đón dâu về cho con. Chú rể 15, cô dâu 16. Tối hôm động phòng hoa chúc, Thanh Nga cầm chiếc dầm ném xuống đất, nói:"Hãy quẳng cái vật đào tường khoét vách này đi!" Khuông Cửu cúi xuống nhặt chiếc dầm, giắt vào thắt lưng, rồi cười, nói:"Ta chẳng thể nào quên được bà mối này!" Từ đó, Khuông Cửu đi đâu cũng giắt theo chiếc dầm ở thắt lưng. Thanh Nga hiền hậu, ít nói, thờ mẹ chồng rất phải đạo, ngày nào cũng tới thăm hỏi ba lần. Thế nhưng, ngoài việc thăm hỏi ra, Thanh Nga chỉ ngồi trong thư phòng đọc sách, chứ chẳng hề phụ giúp mẹ chồng cai quản gia vụ. Chỉ khi nào Hoắc bà bận việc giao tế, phải đi dự đám tang, đám cưới, Thanh Nga mới chịu đứng ra trông nom. Thế nhưng, khi đã trông nom thì đâu vào đấy, thứ tự, ngăn nắp, khiến gia nhân đều phải kính phục.
Hai năm sau, Thanh Nga sanh trai, đặt tên là Mạnh Tiên. Thanh Nga chẳng hề chăm sóc cho con mà giao cho bà vú chăm sóc thay mình.
Tám năm sau. Một hôm Thanh Nga nói với chồng: "Cái duyên hoan ái của chúng mình đã hết. Nay đã tới lúc phải ly biệt!" Khuông Cửu kinh hãi quá, hỏi: "Sao lại phải ly biệt?" Thanh Nga chỉ im lặng, chẳng đáp. Sáng sau, Thanh Nga ngủ dậy sớm, tắm rửa, trang điểm, lên lạy mẹ chồng ba lạy rồi vào phòng riêng. Khuông Cửu thấy lạ, bèn theo vào thì thấy Thanh Nga lên giường nằm, ngửa mặt nhìn trần nhà. Khuông Cửu hỏi:"Làm chi kỳ thế?" Thanh Nga chẳng đáp. Lát sau, Thanh Nga tắt thở. Khuông Cửu và Hoắc bà cùng khóc lóc thảm thiết. Thế rồi hai mẹ con làm tang lễ rất trọng thể cho Thanh Nga.
Từ đó, ngày nào Hoắc bà cũng bế cháu nội, khóc con dâu. Buồn rầu rồi thành bệnh, Hoắc bà nằm liệt giường. Khuông Cửu bèn rước lương y về trị bệnh cho mẹ. Hoắc bà đỡ dần song vẫn biếng ăn.
Một hôm, Khuông Cửu vào thăm mẹ, hỏi:"Sao mẹ chẳng chịu ăn uống chi cả? Mẹ có thèm ăn món gì đặc biệt không?" Hoắc bà đáp: "Mẹ chỉ thèm ăn canh cá rô thôi!" Ở Tấn Dương, muốn mua cá rô ngon, phải sang Thuận Thiên, xa trên trăm dặm. Gia nhân đều bận việc phải đi xa, Khuông Cửu chẳng chịu chờ chúng về, tự mình sang Thuận Thiên mua cá. Sáng sau, mua được cá ngon, Khuông Cửu ra về. Dọc đường, tới Thuận Sơn, Khuông Cửu thấm mệt, hai chân sưng nhức, cất bước nặng nề. Bỗng có một ông lão, vai đeo bọc, từ phía sau vượt lên, quay đầu hỏi:"Sưng chân đấy ư?" Khuông Cửu đáp: "Thưa vâng!" Ông lão bèn tới kéo Khuông Cửu ngồi xuống vệ đường, mở bọc lấy đá quẹt lửa, đốt thuốc xông cho, rồi nói:"Thử đứng dậy, bước đi coi!" Khuông Cửu làm theo lời thì bỗng thấy chân mình chẳng những đã hết sưng nhức mà còn cứng mạnh hơn trước. Vừa kinh ngạc, vừa cảm động, Khuông Cửu bèn vái tạ ông lão rồi xin cáo biệt. Ông lão hỏi: "Đi đâu mà vội thế?" Khuông Cửu đáp: "Gia mẫu bị bệnh, chẳng thèm ăn chi ngoài canh cá rô. Ở Tấn Dương không có cá rô ngon nên tiểu sinh phải sang Thuận Thiên tìm mua! Bây giờ đã mua được nên phải vội đem về!" Hỏi: "Có vợ chưa?" Đáp: "Tiểu sinh góa vợ" Hỏi: "Sao chưa lấy vợ kế?" Đáp: "Vì chưa kiếm được người vừa ý!" Ông lão liền giơ tay chỉ về phía sơn thôn ẩn hiện đằng xa, nói: "Ở sơn thôn đằng kia có một thiếu nữ đẹp lắm. Nếu chịu khó theo lão phu tới đó, lão phu sẽ làm mai cho!" Khuông Cửu từ chối, đáp: "Tiểu sinh chẳng thể đi theo lão trượng được vì gia mẫu đang chờ ở nhà!" Ông lão nói: "Thế thì thôi! Tuy nhiên, nếu mai mốt muốn nhờ lão phu làm mai cho thì cứ việc tới đó, hỏi thăm thôn dân xem nhà lão Vương ở đâu là họ sẽ chỉ cho!" Khuông Cửu đáp: "Xin vâng!" rồi xin cáo biệt.
Tới nhà, Khuông Cửu tự tay nấu canh cá rô dâng mẹ. Hoắc bà ăn xong, khen ngon rối rít. Tuần sau, Hoắc bà khỏi bệnh. Khuông Cửu bèn thuật lại chuyện mình gặp Vương lão ở Thuận Sơn cho mẹ nghe, rồi nói :"Sang năm, hết tang vợ, con sẽ xin phép mẹ được trở lại Thuận Sơn tìm Vương lão!" Hoắc bà đáp: "Việc ấy tùy con!"
Năm sau. Vào ngày rằm tháng tám, Khuông Cửu sai một gia nhân cưỡi ngựa theo mình đi Thuận Sơn. Tới nơi, hai thày trò cho ngựa chạy vòng quanh chân núi để tìm sơn thôn, song từ sáng tới trưa chỉ thấy toàn động núi. Khuông Cửu bèn bảo gia nhân: "Ta với ngươi, mỗi người đi một ngả để tìm cho nhanh. Hẹn đầu giờ dậu, gặp nhau ở chỗ này!" Gia nhân đáp: "Xin vâng!" rồi quất ngựa phóng đi. Gia nhân đi tìm từ trưa tới tối cũng chẳng thấy sơn thôn nào, bèn trở lại chỗ hẹn để gặp tiểu chủ. Chờ tới khuya cũng chẳng thấy tiểu chủ đâu, gia nhân kinh hãi quá, đành phóng ngựa ra về.
Tới nhà, gia nhân vội trình việc Khuông Cửu mất tích lên Hoắc bà. Nghe tin, Hoắc bà lo sợ, bật khóc thất thanh. Sáng sau, Hoắc bà sai một toán mười gia nhân cưỡi ngựa đi Thuận Sơn tìm Khuông Cửu. Toán gia nhân sục sạo tìm kiếm suốt hai ngày song cũng chẳng thấy chi, đành quay về trình báo. Hoắc bà càng lo sợ, khóc lóc suốt ngày đêm.
Từ lúc chia tay với gia nhân, Khuông Cửu cưỡi ngựa leo núi. Vì đường dốc, ngựa khó đi, Khuông Cửu bèn thả cho ngựa tìm cỏ ăn, rồi leo núi một mình. Lên tới đỉnh núi, đưa mắt nhìn quanh, chẳng thấy sơn thôn nào, Khuông Cửu bèn quay xuống núi tìm ngựa để trở lại chỗ hẹn. Xuống đến lưng chừng núi thì trời vừa tối. Thấy phong cảnh khác lạ, Khuông Cửu biết là mình bị lạc. Đột nhiên, Khuông Cửu thấy mình bước tới một bờ vực thẳm. Bàng hoàng hốt hoảng, Khuông Cửu trượt chân, rồi té xuống vực. Đang thầm nghĩ chắc mình sắp chết thì thấy thân mình rơi trúng một giải đất từ sườn núi nhô ra. Nhờ ánh trăng, nhìn xuống dưới, thấy đen ngòm, Khuông Cửu kinh hãi quá, cứ nằm im, chẳng nhúc nhích. Chợt thấy một hàng cây nhỏ mọc quanh giải đất như một lan can, Khuông Cửu mới đỡ lo. Lát sau hoàn hồn, quay nhìn sau lưng, thấy một cửa động, có một tảng đá chắn ngang, Khuông Cửu mừng quá, vội lấy lưng ẩy tảng đá sang một bên rồi nằm ngửa mà lết lùi vào động. Nằm trong động, Khuông Cửu thấy vững dạ hơn, mong rằng sáng sau sẽ có người qua lại để cho mình tri hô cầu cứu. Ngoài động tuy có ánh trăng song trong động vẫn tối đen như mực. Lát sau, thấy ở phía sâu trong động có một đốm sáng lấp lánh, Khuông Cửu vội đứng dậy, nhắm đốm sáng tiến vào. Đi mãi mà thấy đốm sáng vẫn còn xa, Khuông Cửu bắt đầu nản chí. Vừa toan quay trở lại thì chợt thấy ở bên đường có một khuôn viên với bốn dãy nhà đông tây nam bắc. Khuông Cửu bèn đánh bạo, mở cổng bước vào. Tuy thấy trong sân chẳng có đèn đuốc chi song Khuông Cửu thấy mắt mình vẫn nhìn rõ được mọi vật. Còn đang bỡ ngỡ, bỗng Khuông Cửu thấy một giai nhân từ dãy nhà phía đông bước ra. Giương mắt nhìn, Khuông Cửu thấy chính là vợ mình. Kinh ngạc quá, Khuông Cửu chẳng thốt được lời nào. Thanh Nga cũng kinh ngạc chẳng kém, hỏi: "Làm thế nào mà tới được chốn này?" Khuông Cửu đáp: "Chuyện dài lắm, chẳng thể kể vắn tắt được!" rồi chạy tới nắm chặt lấy cánh tay vợ mà sụt sùi. Thanh Nga nói: "Đừng có sụt sùi nữa! Hãy nín đi mà trả lời! Mẹ có khỏe không?" Đáp: "Khỏe" Hỏi:" Con có khỏe không?" Đáp: "Khỏe!" Rồi nói tiếp: "Nàng chết đi, ta khổ lắm, mẹ khổ lắm, con khổ lắm!" Thanh Nga thở dài, tỏ vẻ buồn bã. Khuông Cửu hỏi:"Nàng chết đã được hơn một năm nay rồi thì nơi đây có phải là âm phủ không?" Đáp: "Không!" Hỏi: "Sao vậy?" Đáp: "Vì thiếp đâu có chết!" Hỏi: "Thế xác chôn trong quan tài là xác của ai?" Đáp: "Làm gì có xác nào chôn trong quan tài?" Hỏi: "Thế vật chôn trong quan tài là vật gì?" Đáp:"Là một cây gậy trúc!" Hỏi: "Thế chốn này là chốn nào?" Đáp:"Là tiên phủ! Chàng đã tới được chốn này tức là đã có duyên với tiên cảnh!" Hỏi: "Bây giờ ta phải làm chi?" Đáp: "Chẳng phải làm chi cả, chỉ cần lên sảnh đường ra mắt cha thôi!" Khuông Cửu gật đầu. Thanh Nga bèn dắt chồng lên dãy nhà hướng bắc. Vào sảnh đường, Khuông Cửu thấy một ông lão quắc thước, râu dài tới rốn, đang ngồi trên bục cao, có một tì nữ khoanh tay đứng hầu. Thấy con dắt khách lạ vào sảnh đường, ông lão tỏ vẻ kinh ngạc. Thanh Nga lên tiếng giới thiệu: "Thưa cha, đây là Hoắc lang, chồng con!" Khuông Cửu bèn quỳ xuống đất, lạy ông lão hai lạy. Ông lão đứng dậy, bước xuống khỏi bục, cầm tay Khuông Cửu kéo dậy, nói :"Đã tới được chốn này thì nên ở lại, đừng về nữa!" Khuông Cửu từ chối, đáp: "Con chẳng thể ở lại đây được vì mẹ con đang mong con về!" Ông lão cười, nói: "Đúng là chưa dứt được tục lụy trần thế! Muốn về thì cứ việc về, nhưng hãy ở lại đây chơi vài ba ngày đã!" Rồi ông lão quay qua tì nữ, nói: "Hãy đi lấy rượu và thức ăn đem tới dãy nhà hướng tây cho khách rồi dọn cho khách một phòng riêng!" Tì nữ cúi đầu đáp: "Xin tuân lệnh!"
Hai vợ chồng cùng ra khỏi sảnh đường. Tì nữ dẫn Khuông Cửu đi về hướng tây còn Thanh Nga thì đi về hướng đông. Chợt Khuông Cửu vụt chạy ngược lại, níu lấy tay vợ, kéo đi theo mình. Thanh Nga vùng vằng chống cự. Tì nữ bưng miệng cười khúc khích. Đột nhiên ông lão từ trong sảnh đường, chống gậy bước ra sân, quát:"Tục cốt làm bẩn tiên phủ, hãy cút đi ngay!" Bị bắt quả tang đang níu kéo vợ, Khuông Cửu thẹn quá hóa giận, nói: "Làm người, ai mà tránh khỏi chuyện nam nữ? Tại sao người trên lại đi rình mò chuyện riêng tư của kẻ dưới? Tiểu sinh sẽ ra khỏi chốn này ngay, song lệnh nữ đã là tiện nội thì phải đi theo tiểu sinh!" Ông lão chẳng biết đối đáp ra sao, chỉ giơ tay vẫy con gái đi theo mình. Thanh Nga bèn bước theo cha. Khuông Cửu vội chạy theo vợ. Tới một cửa động, ông lão lấy tay rẽ hai cánh cửa đá sang hai bên rồi quát: "Cút!" Khuông Cửu khẳng khái bước ra ngoài. Đột nhiên, hai cánh cửa đá lại tự động khép kín.
Quay đầu nhìn quanh, Khuông Cửu chỉ thấy núi non chót vót, lởm chởm như dao, chẳng kẽ len chân. Ngửng đầu nhìn lên, chỉ thấy trăng xế, sao thưa. Bơ vơ giữa rừng núi âm u, chẳng biết lối về mà cũng chẳng biết phải làm gì, Khuông Cửu kinh hãi quá, cứ đứng ủ rũ, vừa thở dài vừa oán hận ông lão. Khuông Cửu bèn quay mặt vào cửa động, lấy hết sức bình sinh mà hét: "Thanh Nga! Thanh Nga!" song chỉ nghe thấy âm thanh vang vọng của chính mình chứ tuyệt nhiên chẳng thấy có tiếng trả lời. Khuông Cửu càng oán hận ông lão. Chợt nhớ tới chiếc dầm, Khuông Cửu bèn rút ra khoét cánh cửa đá bên phải, vừa khoét vừa la. Trong khoảnh khắc, cánh cửa đá đã bị khoét sâu tới hai tấc. Chợt có tiếng ông lão từ trong động nói vọng ra: "Nghiệt chướng thay! Nghiệt chướng thay!" Khuông Cửu càng ra sức khoét nhanh. Bỗng thấy hai cánh cửa đá mở toang rồi thấy ông lão đẩy Thanh Nga ra ngoài. Hai cánh cửa đá lại tự động khép kín.
Ra ngoài, Thanh Nga nói giọng oán hận: "Vẫn nói là thương yêu vợ mà sao lại đối xử với cha vợ tệ bạc như thế? Chẳng biết cái lão đạo sĩ quỷ quái nào lại đi cho chàng chiếc dầm tội lỗi này?" Khuông Cửu được vợ, thấy toại nguyện rồi, chẳng muốn đôi co, nên cứ lờ đi, quay qua hỏi vợ: "Có biết đường xuống núi không?" Thanh Nga đáp: "Có!" Nói: "Thế thì dẫn đường đi!" Đáp: "Đi chân thế nào được! Phải cưỡi ngựa!" Hỏi: "Ngựa đâu mà cưỡi?" Thanh Nga chẳng đáp, chỉ lấy tay bẻ hai cành cây cạnh mình, đưa cho chồng một cành, nói: "Cưỡi lên đi!" Khuông Cửu bèn cưỡi. Thanh Nga cũng cưỡi lên cành kia. Đột nhiên, hai cành biến thành hai ngựa. Thanh Nga phóng trước, Khuông Cửu theo sau.
Ở nhà, Hoắc bà đang lo chẳng biết con mình lạc đi đâu thì bỗng thấy gia nhân chạy vào báo: "Thưa phu nhân, công tử đã về!" Hoắc bà mừng quá, vội chạy ra cổng đón con. Thấy có cả Thanh Nga cùng theo về, Hoắc bà cực kỳ kinh hãi. Khuông Cửu vội chạy tới thì thầm với mẹ, thuật sơ lại chuyện gặp vợ trong núi để mẹ an tâm. Hoắc bà vừa hết sợ lại thêm mừng. Vào nhà, Thanh Nga thưa ngay với Hoắc bà: "Ở Tấn Dương này ai cũng nghĩ rằng con đã chết. Nay thấy con về, họ sẽ dị nghị, cho rằng con là yêu quái. Nhà ta vẫn còn một dinh cơ khác ở Sơn Hữu. Vậy xin mẹ hãy ra lệnh cho cả nhà di cư về quê ngay!" Hoắc bà gật đầu. Ngay đêm ấy, Hoắc bà ra lệnh cho toàn thể gia nhân khuân vác đồ đạc, chất chứa lên xe, dọn về Sơn Hữu. Ở Tấn Dương, chẳng ai hay biết gì về việc Thanh Nga đã trở về.
Hai năm sau, Thanh Nga sanh thêm một gái, đặt tên là Thanh Vân. Lúc đó, Mạnh Tiên đã lên chín.
Mười bốn năm sau. Có nho sinh họ Lý, người cùng huyện, tới hỏi cưới Thanh Vân. Khuông Cửu và Thanh Nga cùng bằng lòng gả. Rồi cho cưới ngay.
Tháng sau, Hoắc bà bị bệnh nặng. Tuần sau, Hoắc bà qua đời. Khuông Cửu làm lễ phát tang cho mẹ. Khi chọn đất mai táng, Thanh Nga nói: "Trong khu ruộng nhà mình có một miếng đất rất đẹp, hình chim trĩ ấp tám trứng, nên an táng mẹ ở đó! Mạnh Tiên đã hăm ba, chàng bảo nó ở lại mà trông coi phần mộ thay chàng!" Khuông Cửu nghe lời, bèn sai gia nhân tới cất một chòi canh cạnh huyệt mộ. Tang lễ xong xuôi, Khuông Cửu bảo Mạnh Tiên: "Con đã lớn, có thể báo hiếu bà nội thay cha. Vậy con hãy ở lại chòi này, trông coi phần mộ của bà, đúng một tháng mới được về thăm nhà" Mạnh Tiên đáp: "Con xin tuân lệnh! Xin song thân cứ hồi gia!"
Trên đường về, Thanh Nga bảo chồng: "Bây giờ đừng về nhà nữa, hãy sang Thuận Thiên cư ngụ!" Khuông Cửu ngạc nhiên, hỏi: "Sao lại sang Thuận Thiên?" Đáp: "Vì ở gần tiên phủ của cha!" Khuông Cửu gật đầu ưng thuận rồi cùng vợ sang Thuận Thiên. Cuối năm, Thanh Nga lại sanh thêm một trai, đặt tên là Trọng Tiên.
An táng bà nội xong, Mạnh Tiên ở lại trông coi phần mộ đúng một tháng rồi mới về thăm nhà. Không thấy cha mẹ ở nhà, Mạnh Tiên hỏi người lão bộc: "Song thân tôi đâu?" Người lão bộc đáp: "Từ hôm an táng cụ tới giờ, ông bà đã về nhà đâu?" Mạnh Tiên kinh hãi quá, chẳng hiểu là cha mẹ mình đi đâu. Từ hôm đó, Mạnh Tiên chỉ quanh quẩn ở trong nhà đọc sách chứ ít khi đi ra ngoài. Ít lâu sau, Mạnh Tiên nổi tiếng là danh sĩ trong huyện. Văn hay chữ tốt song hễ cứ đi thi là hỏng.
Mười bảy năm sau, Mạnh Tiên bốn mươi tuổi, khăn gói vào kinh đô ứng thí song lại hỏng. Mùa thu năm sau, lại vào kinh đô ứng thí. Thi xong ra về, gặp một nho sinh hào hoa phong nhã trông giống mình như đúc, song trẻ hơn mình nhiều, Mạnh Tiên lấy làm lạ, bèn nảy ý làm quen. Khi tới gần, thấy nho sinh cầm một quyển tập đề mấy chữ: "Hoắc Trọng Tiên, lẫm sinh Thuận Thiên" Mạnh Tiên bèn hỏi: "Xin lỗi túc hạ! Có phải túc hạ họ Hoắc không?" Nho sinh đáp: "Thưa phải! Đệ họ Hoắc, tên Trọng Tiên, 18 tuổi!" rồi hỏi lại: "Thế quý tính là chi?" Đáp: "Bỉ nhân cũng họ Hoắc, tên Mạnh Tiên, 41 tuổi!" Trọng Tiên kinh ngạc, hỏi: "Quý quán ở đâu?" Đáp:"Ở huyện Sơn Hữu, tỉnh Sơn Tây" Trọng Tiên mừng lắm, nói:"Lúc đệ về đây ứng thí, gia nghiêm có dặn nếu vào trường thi mà gặp ai họ Hoắc ở Sơn Hữu thì đều là bà con bên nội, phải đối xử cho có lễ độ, tôn ti. Nay gặp huynh cũng họ Hoắc ở Sơn Hữu, chẳng biết đệ phải xưng hô với huynh như thế nào?" Mạnh Tiên không đáp mà hỏi lại: "Túc hạ có thể cho biết danh tính của lệnh tôn, lệnh đường chăng?" Đáp: "Gia nghiêm họ Hoắc, tên Hoàn, tên chữ Khuông Cửu. Gia từ họ Vũ, tên Thanh Nga!" Mạnh Tiên sửng sốt, nói: "Song thân bỉ nhân cũng tên họ như thế!" Trọng Tiên cũng sửng sốt song vẫn còn chút nghi ngờ, nói: "Đệ mới 18, song thân đệ còn trẻ lắm. Huynh đã 41, lệnh tôn lệnh đường chắc đã cao tuổi hạc! Vì thế, đệ nghĩ huynh với đệ chẳng thể là anh em ruột được!" Mạnh Tiên nói: "Năm nay, gia nghiêm 58, gia từ 59, song vì các người đều là tiên nên trông còn trẻ lắm! Chẳng thể lấy tuổi tác mà suy ra diện mạo được!" Nghe thấy thế, Trọng Tiên càng sửng sốt, nói: "Gia nghiêm cũng 58, gia từ cũng 59!" Hai người bèn thuật lại cho nhau nghe mọi chuyện về cha mẹ mình, rồi nhận ra nhau là anh em ruột. Mạnh Tiên hỏi: "Song thân vẫn ở với hiền đệ đấy chứ?" Trọng Tiên đáp: "Thưa không! Cách đây hai năm, sau khi cưới vợ cho tiểu đệ, song thân bỏ nhà ra đi, chẳng biết là đi đâu. Các người có dặn tiểu đệ cứ để nguyên phòng của các người để thỉnh thoảng các người ghé về nhà thăm con cháu! Mời đại ca tới Thuận Thiên chơi cho biết nhà tiểu đệ!" Mạnh Tiên nói:"Ngu huynh cũng vừa nảy ý tới thăm đệ tức và coi xem song thân có ghé về nhà thăm con cháu hay không?"
Ngay hôm đó, Trọng Tiên sai gia nhân sắm sửa ngựa xe rồi cùng Mạnh Tiên khởi hành về Thuận Thiên. Tới nhà, Trọng Tiên thấy một đám gia nhân đứng lố nhố ở ngoài cổng, rồi thấy có kẻ chạy tới gần mình, thưa: "Tối qua thái công và phu nhân vừa ghé về thăm nhà!" Trọng Tiên vội hỏi: "Các người còn ở nhà không?" Kẻ gia nhân đáp: "Thưa không! Thái công và phu nhân đã đi rồi!" Nghe thấy thế, cả hai anh em Mạnh Tiên cùng tỏ vẻ buồn bã.
Trọng Tiên vào nhà gọi vợ ra chào anh. Trọng Tiên hỏi vợ: "Song thân về lúc nào, đi lúc nào?" Vợ Trọng Tiên đáp: "Các người về tối qua. Thiếp sửa soạn cơm nước bưng lên mời các người thì các người bảo thiếp cùng ngồi. Mẫu thân nói rằng người vẫn lo cho vợ chồng mình còn trẻ quá, chưa từng trải việc đời, chẳng có ai chỉ bảo. Song người lại nói rằng hôm nay thế nào đại ca cũng về đây nhận anh em với vợ chồng mình và sẽ chỉ bảo cho vợ chồng mình, nên người cũng đỡ lo. Sáng nay, thiếp vào vấn an các người thì thấy căn phòng đã trống vắng. Các người ra đi lúc nào thiếp cũng chẳng hay!" Hai anh em cứ dậm chân tiếc rẻ.
Trọng Tiên nói: "Xin đại ca cho tiểu đệ được đi tìm song thân!" Mạnh Tiên gạt đi, nói: "Song thân chúng ta là tiên chứ có phải là người thường đâu mà hiền đệ đòi đi tìm? Có đi thì cũng chỉ phí công vô ích mà thôi!" Nghe thấy thế, Trọng Tiên bèn nói: "Nếu thế thì thôi! Tuy nhiên, xin đại ca hãy lưu lại đây chơi với vợ chồng tiểu đệ để chờ kết quả thi cử. Dù đậu hay hỏng, tiểu đệ cũng sẽ xin dọn nhà, theo đại ca về quê cư ngụ!" Mạnh Tiên đáp: "Thế cũng được!" Rồi lưu lại nhà em.
Tháng sau, trường thi yết bảng, Mạnh Tiên lại hỏng, còn Trọng Tiên thì đậu cử nhân. Trọng Tiên bèn bán nhà, theo anh về Sơn Hữu, mua nhà ở cạnh nhà anh.
Mạnh Tiên nghĩ song thân đã ở nơi tiên cảnh nhưng Trọng Tiên lại nghĩ song thân vẫn còn ở chốn nhân gian. Vì thế, Trọng Tiên thường lén anh đi thăm dò tin tức song thân, nhưng tuyệt nhiên chẳng thăm dò được tin tức gì.
LÀM RỂ THẦN NHÂN
(truyện THẦN NỮ)
Phác lậu y quan ngạnh giới thân
Xa trung úy tặng diệc tiền nhân
Vị khanh túc dạ mông sương lộ
Bất tich châu hoa trì dữ nhân Huyện Tấn Giang, tỉnh Phúc Kiến có hai anh em họ Mễ. Người anh tên Đại Thành, là một nhà buôn, tính tình rất mực hiền lành chất phác, đã có vợ. Người em tên Độ Tân, là một nho sinh, văn chương cũng chỉ thường thường bậc trung, còn độc thân. Người nào cũng được cha mẹ để lại cho một ngôi nhà và mươi mẫu ruộng. Hai anh em thương yêu nhau lắm.
Một hôm, Độ Tân từ làng lên huyện có việc. Xong việc, ghé vào quán ăn uống rồi mới ra về. Vì quá chén, Độ Tân say lảo đảo, áo quần xốc xếch. Lát sau, qua cổng một ngôi nhà, thấy có tiếng nhạc inh ỏi từ trong nhà vọng ra, Độ Tân thích lắm, bèn đứng lại nghe. Nhìn vào sân, thấy vắng hoe, chẳng một bóng người, Độ Tân bèn chạy sang nhà hàng xóm phía đông, làm quen với chủ nhà là Minh ông, rồi hỏi:"Hàng xóm phía tây nhà túc hạ là gia đình ai thế?" Minh ông đáp:"Gia đình một ông lão!" Hỏi:"Họ từ đâu tới đây cư ngụ?" Đáp:"Bỉ nhân không biết!" Hỏi:"Họ tới đây cư ngụ đã lâu chưa?" Đáp:"Cũng mới được chừng ba tháng nay!" Hỏi:"Họ đang làm gì mà trỗi nhạc inh ỏi như thế?" Đáp:"Các con trong nhà đang làm lễ thượng thọ cho cha!" Nảy tính hiếu kỳ, muốn được vào coi, Độ Tân liền cáo biệt Minh ông, chạy ra tiệm tạp hóa đầu đường mua lễ vật, đính kèm danh thiếp của mình, đem vào đặt ở hành lang trước cửa phòng khách, gõ cửa báo cho người trong nhà biết, rồi ra ngoài cổng đứng chờ. Minh ông nhìn thấy Độ Tân trở lại, đem lễ vật vào nhà hàng xóm thì lấy làm lạ, bèn chạy ra hỏi:"Túc hạ quen biết với ông lão trong nhà như thế nào?" Đáp:"Bỉ nhân có quen biết chi đâu!" Nói:"Nếu chẳng quen biết chi thì tại sao lại đi làm cái chuyện điên rồ như thế? Vả lại, áo quần đang xốc xếch như thế này mà lại xin vào dự lễ thượng thọ nhà người ta thì kỳ cục lắm!" Nghe thấy thế, Độ Tân đâm ra hối hận, toan chạy vào lấy lại lễ vật thì bỗng thấy có người từ trong nhà mở cửa bước ra hành lang, bưng lễ vật vào. Độ Tân đành đứng ở ngoài cổng để chờ xem sao.
Lát sau, có hai thiếu niên ăn mặc sang trọng, phong thái thanh nhã, từ trong nhà mở cửa bước ra cổng, vái chào Độ Tân, mời vào phòng khách. Độ Tân liền theo vào. Tới hành lang, hai thiếu niên mở cửa phòng khách, mời Độ Tân vào, rồi khép cửa lại, đứng ở bên ngoài.
Vào trong, Độ Tân thấy một bức bình phong bằng ngọc lưu ly ngăn đôi phòng khách. Ở phần ngoài, trên bệ cao, có một ông lão cùng tám vị khách, dáng vẻ quý phái, ngồi trên ba chiếc chiếu hoa, quay mặt về hướng nam. Dưới bệ thấp, có chừng hai chục khách khác ngồi trên năm chiếc chiếu lớn. Độ Tân thầm nghĩ chắc phần trong được dành cho nội quyến của ông lão ngồi nghe nhạc. Độ Tân vừa bước vào phòng thì bỗng tiếng nhạc ngưng hẳn rồi mọi người cùng đứng dậy thi lễ. Ông lão cũng chống gậy đứng dậy. Độ Tân cúi đầu đáp lễ thì mọi người lại ngồi xuống rồi tiếng nhạc lại trỗi lên. Độ Tân thầm nghĩ chắc sắp có người tới mời mình đến chiếu ngồi, song chờ mãi cũng chẳng thấy ai. Độ Tân ngạc nhiên lắm, đành đứng tại chỗ mà nghe nhạc. Bỗng hai thiếu niên mở cửa bước vào phòng rồi tiếng nhạc lại ngưng. Một thiếu niên tiến tới chỗ Độ Tân, nói:"Vì gia nghiêm già yếu, chẳng thể xuống đây mời cao hiền lên bệ được, vậy xin cao hiền thứ lỗi cho. Bỉ nhân xin thay mặt gia nghiêm mà cảm tạ cao hiền đã cho quà và tới dự lễ!" Rồi chắp tay vái Độ Tân. Độ Tân kinh hãi quá, nghiêng mình tránh né, chẳng dám nhận vái. Thiếu niên kia bèn đi lấy thêm chiếu, trải nối vào chiếc chiếu bên trái ông lão, mời Độ Tân lên ngồi. Rồi cả hai thiếu niên cùng tới ngồi ở một chiếc chiếu trải dưới bệ thấp. Tiếng nhạc lại trỗi lên. Độ Tân lên tiếng hỏi chuyện mấy vị khách ngồi cạnh song chẳng vị nào nghe thấy gì vì tiếng nhạc inh ỏi.
Khi tiếng nhạc vừa dứt, hai thiếu niên liền đứng dậy, lấy hai chồng chén và hai bình rượu đi mời khắp lượt. Thấy mình còn say, Độ Tân không muốn uống song vì thấy khách nào cũng nhận chén nên Độ Tân chẳng dám chối từ. Trong khoảnh khắc, mọi người đều cạn chén. Bất đắc dĩ, Độ Tân cũng phải cạn chén theo. Hai thiếu niên lại lấy hai bình rượu mới, đi mời lượt nữa. Vì say quá, Độ Tân chối từ rồi xin cáo biệt.
Độ Tân vừa quay người, toan bước ra cửa thì bị một thiếu niên nắm vạt áo kéo lại. Đột nhiên, Độ Tân ngã lăn xuống chiếu, nằm ngủ li bì. Khi bị nước lạnh dội vào mặt, Độ Tân mới tỉnh. Vùng dậy, nhìn quanh, thấy ông lão cùng khách khứa đều đã biến hết, chỉ còn một thiếu niên đang đứng cạnh mình, tay cầm chiếc bình không, Độ Tân ngượng quá, chẳng biết phải hành động thế nào. Chợt thấy thiếu niên tới khoác tay mình dìu ra cổng, Độ Tân bèn cúi đầu chào cáo biệt.
Ba tháng sau, một hôm Độ Tân lại có việc phải lên huyện. Xong việc, tới thăm ngôi nhà cũ, thấy cổng ngõ im lìm, Độ Tân bèn sang nhà Minh ông hỏi thăm thì được biết gia đình ông lão đã dọn đi được hơn hai tháng.
Trên đường về, qua chợ huyện, bỗng Độ Tân thấy một khách lạ từ trong chợ chạy ra, gọi:"Mễ huynh! Đi đâu đấy? Hãy vào đây ngồi uống với chúng đệ mấy chén đã!" Thấy mình chưa hề quen biết khách, Độ Tân lấy làm lạ, hỏi:"Sao túc hạ lại biết đệ?" Khách hỏi lại:"Thế túc hạ không nhận ra đệ hay sao?" Độ Tân đáp:"Thưa không!" Khách hỏi:"Túc hạ còn nhớ cách đây ba tháng, chúng ta cùng vào nhà Phó lão tiên sinh dự lễ thượng thọ hay không?" Vỡ lẽ, Độ Tân gật đầu, hỏi lại:"Hôm ấy túc hạ ngồi ở đâu?" Khách đáp:"Đệ ngồi ở chiếu dưới! Khi hai công tử mở cửa phòng khách mời túc hạ vào thì đệ thấy mọi người đều đứng dậy nên đệ nhớ mặt túc hạ, rồi hỏi thăm được quý danh!" Độ Tân bèn hỏi:"Thế quý danh túc hạ là gì?" Khách đáp:"Đệ họ Chư, tên Yến!" Hỏi:"Túc hạ làm nghề chi?" Đáp:"Đệ làm nghề mài gương mài kính ở trong chợ!" Độ Tân bèn theo Chư Yến vào chợ. Tới bàn rượu, Độ Tân mới biết rằng Chư Yến đang ngồi với một người làng mình, họ Bảo, tên Trang. Ba người bèn cùng yến ẩm. Gần tối, Độ Tân xin cáo biệt.
Đêm ấy, Bảo Trang bị giết chết ở dọc đường. Vì chiều hôm trước, có kẻ nhìn thấy Bảo Trang ngồi uống rượu với Độ Tân cùng một khách lạ ở trong chợ nên tới mách cho cha Bảo Trang biết. Cha Bảo Trang chẳng biết khách lạ là ai nên chỉ làm đơn kiện Độ Tân đã giết con mình. Quan tể cho khám nghiệm thi thể Bảo Trang thì thấy có nhiều vết dao đâm. Quan liền sai lính đi bắt Độ Tân về huyện đường tra khảo. Độ Tân trình bày việc Chư Yến mời mình vào quán uống rượu tay ba và khai rằng mình chẳng hề giết người. Quan không tin, cứ kết tội Độ Tân giết Bảo Trang. Độ Tân một mực kêu oan. Quan chẳng nghe, cứ lột mũ áo nho sinh, tịch thu gia sản đem bán cho dân làng, rồi khép án tử hình. Tuy nhiên, vì luật pháp triều đình ấn định rằng các quan tể phải chờ các quan tuần phương tới phúc thẩm, y án, rồi mới được đem tử tù ra hành hình, nên Độ Tân chỉ bị tống giam.
Năm sau, triều đình cử một quan tuần phương tới Phúc Kiến phúc thẩm các án tử hình. Khi xét tới vụ án Bảo Trang, quan tuần phương phán là Độ Tân bị hàm oan rồi ra lệnh phóng thích. Độ Tân về làng, thấy nhà cửa ruộng vườn của mình đã thuộc về người khác, bèn tới nhà người anh, xin ở nhờ. Đại Thành thương em lắm, bảo vợ dọn riêng một phòng cho em ở. Thấy quan tuần phương đã phán là mình vô tội, Độ Tân bèn quyết định lên dinh học sứ xin lại mũ áo nho sinh.
Tháng sau, Độ Tân khăn gói lên huyện. Đường xa, trời tối, mỏi mệt, Độ Tân ngồi bệt xuống vệ đường nghỉ chân. Chợt thấy một cỗ xe ngựa chạy qua chỗ mình ngồi rồi đột nhiên dừng lại, Độ Tân chú mục nhìn thì thấy một tì nữ từ trên xe tụt xuống, đứng thò đầu vào xe như để nghe lệnh, rồi chạy tới chỗ mình, hỏi:"Có phải tú tài họ Mễ không?" Độ Tân kinh ngạc, chẳng hiểu tại sao tì nữ lại biết lai lịch mình, song cũng đáp:"Phải" Hỏi:"Sao tú tài lại nghèo khổ thế này?" Đáp:"Vì năm ngoái bỉ nhân bị quan tể kết tội oan, lột mũ áo nho sinh, tịch thu hết gia sản. Tháng trước, quan tuần phương tới phúc thẩm, phán là vô tội rồi thả cho về!" Hỏi:"Bây giờ tú tài định đi đâu?" Đáp:"Bỉ nhân định lên dinh học sứ xin lại mũ áo nho sinh!" Tì nữ bèn chạy về xe, trình lại. Lát sau, tì nữ lại chạy tới chỗ Độ Tân, nói:"Nương tử tiểu tì mời tú tài tới cạnh xe nói chuyện!" Hiếu kỳ, Độ Tân bèn bước theo tì nữ. Tới xe, tì nữ đưa tay vén rèm lên thì Độ Tân sững sờ kinh ngạc vì thấy trong xe có một nữ lang tuyệt sắc. Nữ lang nói:"Hiền lang chẳng may bị tai họa bất ngờ, thiếp nghe chuyện cũng thấy ngậm ngùi. Nay hiền lang muốn vào dinh học sứ xin lại mũ áo nho sinh, mà đi với hai bàn tay trắng, chẳng có tiền hối lộ cho lính canh thì làm sao mà vào? Thiếp muốn biếu hiền lang chút tiền song dọc đường chẳng đem theo nên cũng đành chịu!" Rồi như chợt nghĩ ra điều gì, nữ lang nói tiếp:"À thôi! Để thiếp biếu đỡ hiền lang vật này vậy! Cứ đem lên huyện bán cũng được trăm đồng, đủ tiền hối lộ đó! Cất kỹ đi!" Nói xong, nữ lang đưa tay lên đầu, rút đóa hoa ngọc cài trên mái tóc, trao cho Độ Tân. Được người đẹp trao tặng đóa hoa trang sức, Độ Tân vội đón nhận rồi nói:"Tiểu sinh xin đa tạ nương tử!" Độ Tân toan lên tiếng hỏi về tính danh và thân thế của nữ lang thì cỗ xe đã vụt chạy như bay. Độ Tân đành đứng tần ngần nhìn theo cho tới khi cỗ xe mất hút. Thấy đóa hoa có gắn nhiều hạt minh châu, Độ Tân biết là bảo vật nên cất kỹ vào túi rồi tiếp tục lên đường.
Sáng sau, Độ Tân tới dinh học sứ, xin lính canh cho vào. Lính đòi tiền hối lộ, Độ Tân không có, lính không cho vào. Chợt nhớ tới đóa hoa trang sức của người đẹp cho mình, Độ Tân vội ra chợ tìm tiệm kim hoàn để bán. Sau khi ngã giá, Độ Tân rút đóa hoa ra trao cho chủ tiệm thì bỗng thấy tiếc rẻ nên lại thôi không bán nữa, cất vào túi. Biết rằng không nạp tiền hối lộ thì chẳng sao vào được dinh học sứ nên Độ Tân quyết về nhà anh, ôn lại bài vở để đi thi khoa đồng tử hầu lấy lại mũ áo nho sinh. Năm sau, ở huyện Tấn Giang có mở khoa thi đồng tử vào ngày rằm tháng ba. Độ Tân lên huyện sớm ít bữa để chờ ngày ứng thí. Gặp tiết thanh minh, thấy thiên hạ đua nhau đi ngoạn cảnh, Độ Tân cũng đi theo rồi lạc vào một dãy núi vì không thuộc đường. Chợt thấy một đám tì nữ áo xanh cưỡi ngựa theo hầu một cỗ xe, Độ Tân chú mục nhìn thì nhận ra người ngồi trong xe chính là nữ lang năm ngoái. Nữ lang nhìn thấy Độ Tân thì vội ra lệnh cho tì nữ dừng xe, rồi hỏi Độ Tân:"Hiền lang đi đâu thế?" Độ Tân đáp:"Tiểu sinh đi dự khoa thi đồng tử!" Nữ lang kinh ngạc, hỏi:"Thế ra hiền lang vẫn chưa xin lại được mũ áo nho sinh hay sao?" Độ Tân ngượng ngùng, thò tay vào túi, rút đóa hoa trang sức ra, nói:"Vì tiểu sinh chẳng nỡ bán kỷ vật này nên bây giờ phải đi thi lại khoa thi đồng tử" Nữ lang chợt ửng hồng đôi má, nói:"Hiền lang đừng đi đâu cả, cứ ngồi đây mà chờ một lát!" Rồi ra lệnh cho tì nữ phóng xe đi. Độ Tân theo lời dặn, ngồi chờ ở bên đường. Lát sau, một tì nữ phóng ngựa trở lại, trao cho Độ Tân một túi lớn, nói:"Nương tử tiểu tì nói vì bây giờ dinh học sứ loạn như cái chợ bán chữ nên nương tử tiểu tì tặng tú tài hai trăm lạng vàng, dặn tú tài hãy dùng vàng này mà tiến thân!" Độ Tân không nhận, nói:"Nương tử đã cho bỉ nhân đóa hoa ngọc rồi! Bây giờ nương tử lại cho vàng thì bỉ nhân chẳng dám nhận nữa! Sở dĩ bỉ nhân chẳng chịu bán đóa hoa ngọc là vì bỉ nhân tự lượng sức mình có thể đi thi để lấy lại mũ áo nho sinh! Chỉ xin tiểu nương cho bỉ nhân biết danh tánh nương tử là chi để bỉ nhân về vẽ tranh mà thờ, thắp hương mà khấn cũng đã là mãn nguyện lắm rồi!" Tì nữ chẳng thèm nói chi thêm, cứ quẳng túi vàng xuống cạnh Độ Tân rồi quất ngựa phóng đi. Độ Tân đành nhặt túi vàng đem về.
Tới nhà, Độ Tân chia túi vàng làm hai, biếu người anh một nửa, còn nửa kia thì đem đi chuộc lại nhà cửa ruộng vườn và mua gia nhân. Sau đó, Độ Tân lên huyện dự khoa thi đồng tử, lấy lại được mũ áo nho sinh. Ba tháng sau, Độ Tân lại trúng tuyển khoa thi nhập học trường huyện. Đại Thành giỏi buôn bán, dùng vàng em cho để đi buôn, kiếm được rất nhiều lời. Ba năm sau, Đại Thành chuộc lại được hết các sản nghiệp của ông cha. Vì thế, hai anh em cùng trở thành cự phú ở trong làng.
Năm ấy, triều đình cử người anh thúc bá của Đại Thành và Độ Tân, là Mễ công, về làm tuần vũ tỉnh Phúc Kiến, thay tuần vũ cũ hồi hưu. Mễ công sai lính đem quà về làng tặng hai anh em. Hai anh em bèn nhờ lính chuyển lời cám ơn tới Mễ công. Hôm sau, Đại Thành rủ vợ và em cùng mình lên dinh tuần vũ để xin vào chào mừng và thăm hỏi Mễ công. Độ Tân vốn không ưa việc tới lui nơi quyền quý nên từ chối. Vì thế chỉ có hai vợ chồng Đại Thành lên dinh tuần vũ mà thôi.
Nửa năm sau. Một hôm, có khách mặc áo cừu, cưỡi ngựa bạch, tới gõ cổng nhà Độ Tân. Gia nhân ra coi, thấy là khách lạ, vội chạy vào báo. Độ Tân ra coi thì nhận ra là một trong hai công tử mà mình đã gặp trong buổi lễ thượng thọ ở nhà Phó lão tiên sinh. Độ Tân bèn mở cổng mời khách vào nhà. Hai người tay bắt mặt mừng, ngồi hàn huyên đủ chuyện. Độ Tân sai gia nhân bày tiệc thì khách từ chối, nói thác là mình có việc bận, cần phải đi ngay, nhưng rồi lại cứ ngồi hàn huyên với Độ Tân chứ chẳng chịu xin cáo biệt. Gia nhân bày tiệc xong, chạy ra trình báo. Độ Tân đứng dậy, mời khách vào nhập tiệc. Đột nhiên, khách quỳ xuống trước mặt Độ Tân mà lạy. Độ Tân kinh ngạc, nghiêng mình tránh né, rồi hỏi:"Công tử có chuyện chi nghiêm trọng thế?" Khách buồn rầu, đáp:"Gia nghiêm vừa mắc một đại họa, chỉ có cao hiền mới cứu được thôi!" Nói:"Xin công tử nói rõ cho nghe!" Đáp:"Vì gia nghiêm sắp bị lâm vào vòng lao lý mà chỉ có quan tuần vũ mới cứu được nên hôm nay bỉ nhân tới đây để xin cao hiền lên nói với quan tuần vũ giùm cho!" Nghe thấy thế, Độ Tân liền từ chối, nói:"Tuy quan tuần vũ với tiểu sinh là chỗ anh em thúc bá song tiểu sinh đã quyết tâm là chẳng khi nào lên nhờ vả quan tuần vũ một việc gì cả!" Khách cứ nằm lăn ra đất mà khóc lóc van xin. Độ Tân giận quá, nghiêm sắc mặt, nói:"Công tử với tiểu sinh chẳng qua chỉ là chỗ sơ giao! Thế thì tại sao công tử lại đi táng thất danh tiết để ép tiểu sinh phải làm một việc mà tiểu sinh chẳng thể nào làm được?" Nghe thấy thế, khách ngượng quá, vội vùng dậy, chắp tay vái chào Độ Tân, rồi chạy ra sân, tháo ngựa phóng đi. Tối sau, Độ Tân đang ngồi trong phòng đọc sách thì chợt thấy bóng dáng lờ mờ của một cô gái lui cui buộc ngựa ở góc sân. Độ Tân chú mục nhìn theo thì thấy cô gái bước lên thềm, tới gõ cửa phòng. Độ Tân vội chạy ra mở thì nhận ra là tì nữ hầu cận của nữ lang đã cho mình đóa hoa trang sức. Chỉ lo tì nữ tới báo cho mình một hung tin về nữ lang, Độ Tân toan cất tiếng hỏi thì tì nữ đã hỏi trước:"Tú tài đã quên đóa hoa ngọc của nương tử tiểu tì trao tặng rồi sao?" Độ Tân đáp:"Bỉ nhân đâu có dám quên!" Tì nữ nói: "Nếu thế thì tiểu tì báo cho tú tài một tin!" Độ Tân kinh hãi, dồn dập hỏi: "Tin gì? Tin gì?" Tì nữ đáp:"Phó công tử hôm qua tới đây chính là bào huynh của nương tử tiểu tì đó!" Nghe thấy thế, Độ Tân mới hoàn hồn, thở phào nhẹ nhõm, chuyển lo thành mừng. Tuy nhiên, Độ Tân vẫn làm ra vẻ chẳng tin, nói:"Tiểu nương nói vậy thì bỉ nhân cũng biết vậy chứ bỉ nhân thấy khó tin quá! Nếu nương tử đích thân tới đây xác nhận điều đó thì bỉ nhân sẽ tin ngay! Lúc ấy nương tử có bảo bỉ nhân nhảy vào đống lửa, bỉ nhân cũng xin tuân hành. Còn nếu nương tử không tới thì bỉ nhân nghĩ rằng chắc là tiểu nương đặt chuyện!" Tì nữ tức giận, chẳng nói một lời, quay phắt xuống sân, tháo ngựa phóng đi.
Chừng một giờ sau, Độ Tân lại nghe có tiếng gõ cửa. Ra mở thì thấy tì nữ trở lại, nói:"Nương tử tiểu tì đã tới đây này!" Độ Tân mừng quá, còn đang luýnh quýnh chưa biết phải hành động ra sao thì chợt thấy nữ lang bước vào phòng, quay mặt vào tường mà khóc, chẳng nói một lời. Độ Tân chắp tay vái chào nữ lang rồi lắp bắp: "Nếu chẳng được nương tử giúp đỡ thì tiểu sinh đâu có ngày nay? Bây giờ nương tử sai bảo điều chi, tiểu sinh cũng xin tuân hành ngay lập tức, chẳng dám chối từ!" Nữ lang nói:"Kẻ phải đi cầu cạnh người thì hay sợ hãi người. Kẻ được người tới cầu cạnh thì hay làm cao với người. Bình sinh thiếp chưa hề phải đi cầu cạnh ai bao giờ! Bây giờ nửa đêm phải đi cầu cạnh người thì còn biết nói năng chi?" Độ Tân nói:"Khi tiểu sinh được biết Phó công tử là lệnh huynh thì tiểu sinh đã tin ngay, song vì nghĩ mình khó có dịp được diện kiến nương tử nên mới lập kế để mong nương tử cho gặp mặt. Bây giờ nghĩ lại mới thấy là mình đã đắc tội với nương tử vì đã làm cho nương tử phải nửa đêm lặn lội sương tuyết mà tới đây!" Nói xong, Độ Tân bước tới nắm lấy ống tay áo nữ lang để mời ngồi. Thừa cơ, Độ Tân ngầm gãi vào lòng bàn tay nữ lang. Nữ lang liền biến sắc mặt, nói:"Thấy người khác bị lâm nguy, đã chẳng sốt sắng giúp đỡ, lại còn manh tâm lợi dụng, thì quả là kẻ tồi bại!" Nói xong, nữ lang quay phắt người qua phía tì nữ, ra lệnh:"Đi!" rồi chạy lên xe. Tì nữ vội chạy theo, nhảy lên ngồi cầm cương. Độ Tân kinh hãi quá, cũng vội chạy ra sân, quỳ xuống đất mà van lạy:"Tiểu sinh đã trót dại, xin nương tử tha cho!" Tì nữ cũng nhỏ nhẹ khuyên:"Xin nương tử hãy nghĩ tới lão công mà bớt giận, tha tội cho tú tài!" Lúc đó, nữ lang mới hơi nguôi. Độ Tân cứ quỳ ở giữa sân mà lên tiếng:"Xin nương tử sai bảo!" Nữ lang ngồi trong xe, nói vọng ra:"Nói thực cho hiền lang biết thiếp chẳng phải là người mà là con gái vị thần nhân mà hiền lang đã tới dự lễ thượng thọ. Gia nghiêm được Thượng Đế đặc cử giữ chức vụ Nam Nhạc Đô Lý Ty. Vì gia nghiêm có chuyện xích mích với vị thổ thần địa phương nên bị vị này vu tấu lên Thượng Đế. Gia nghiêm đã trần tình song Thượng Đế chẳng tin, bắt phải có lá sớ vàng với dấu ấn của quan tuần vũ địa phương để làm bằng, nếu không thì sẽ mắc vòng lao lý. Nếu hiền lang chưa quên ân nghĩa cũ thì hãy lấy một lá sớ vàng, lên thỉnh cầu quan tuần vũ đóng dấu ấn cho rồi đem về trao cho thiếp để thiếp đem đi cứu gia nghiêm!" Nói xong, nữ lang chẳng chờ cho Độ Tân nói chi thêm, vội ra lệnh cho tì nữ quất ngựa, phóng xe đi. Độ Tân vô cùng lo sợ, bèn đứng dậy, vào nhà nằm. Suốt đêm ấy, Độ Tân trằn trọc, chẳng sao ngủ được.
Sáng sớm hôm sau, Độ Tân sửa soạn hành trang, đem theo nhiều tiền bạc, cưỡi ngựa lên tỉnh, tới dinh tuần vũ, xin vào thăm Mễ công. Sau khi chào hỏi, Độ Tân nói:"Kính thưa đại ca, ở vùng núi quê nhà có nhiều tà ma quấy nhiễu dân lành. Hôm nay tiểu đệ lên đây xin đại ca một lá sớ vàng có đóng dấu ấn để đem về vùng núi quê nhà mà làm phép trừ tà ma cho dân chúng!" Mễ công cười, nói:"Chuyện tà ma là chuyện hoang đường! Hiền đệ chớ nên mê tín mà làm như vậy!" Độ Tân kinh hãi quá, vội vàng vâng vâng dạ dạ rồi xin phép ra về.
Ra ngoài, Độ Tân chạy đi dò hỏi xem ai là kẻ tâm phúc của Mễ công để mình có thể lo hối lộ, nhờ xin một lá sớ vàng có dấu ấn tuần vũ. Khi được biết kẻ tâm phúc của Mễ công là người họ Kế, tên Phục, Độ Tân liền chạy đi tìm Kế Phục, đem tiền bạc ra biếu rồi năn nỉ xin Kế Phục giúp mình. Kế Phục nhận lời rồi bảo Độ Tân cứ ra quán trọ Mai Hoa mà chờ. Độ Tân bèn ra quán trọ nằm chờ, song chờ suốt ngày mà chẳng thấy Kế Phục tới.
Sáng sau, chẳng được tin tức gì, Độ Tân chán nản, bèn trả phòng trọ, lên ngựa về làng. Vừa về tới nhà, Độ Tân đã thấy tì nữ đang đứng ở cổng, tay cầm cương. Thấy Độ Tân về, tì nữ hỏi:"Có được việc gì không?" Độ Tân lắc đầu buồn bã, đáp:"Không!" rồi thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong, tì nữ lạnh lùng, chẳng nói một lời, nhảy lên lưng ngựa, phóng đi. Độ Tân hốt hoảng, vội nói với theo:"Nhờ tiểu nương về thưa giùm với nương tử rằng nếu tối mai mà bỉ nhân chẳng làm xong công việc nương tử giao phó thì bỉ nhân sẽ xin tự vẫn!" Tì nữ chẳng thèm ngoái cổ lại, cứ phóng ngựa như bay. Độ Tân cho ngựa vào chuồng rồi lên nhà nằm. Suốt ngày hôm ấy, Độ Tân chỉ thở dài. Suốt đêm hôm ấy, Độ Tân cứ trằn trọc.
Tờ mờ sáng hôm sau, Độ Tân đem đóa hoa ngọc cùng tiền bạc lên lưng ngựa, phóng lên tỉnh. Vừa tới dinh tuần vũ, gặp Kế Phục ở cổng dinh, Độ Tân vội hỏi:"Có tin tức gì cho bỉ nhân không?" Kế Phục đáp: "Có! Đang đi tìm túc hạ đây!" Độ Tân mừng quá, vội hỏi:"Tin gì thế?" Kế Phục đáp:"Quan tuần vũ có người ái thiếp là Bối cơ. Bối cơ rất mê bảo ngọc, hiện đang tìm mua. Nếu túc hạ có bảo ngọc mà đem biếu thì thế nào Bối cơ cũng lén lấy ấn của quan tuần vũ mà đóng dấu vào lá sớ vàng cho!" Độ Tân mừng quá, vội móc túi lấy đóa hoa ngọc ra trao cho Kế Phục, nhờ đem vào biếu Bối cơ giùm. Kế Phục cầm đóa hoa rồi bảo Độ Tân cứ ra quán trọ Mai Hoa mà chờ.
Bối cơ được đóa hoa ngọc thì mừng lắm, vội vào phòng ngủ của Mễ công, lén lấy ấn tuần vũ đóng dấu vào một lá sớ vàng rồi trao cho Kế Phục. Độ Tân nằm ở quán trọ mà trong lòng cứ bồn chồn, hồi hộp. Bỗng nghe có tiếng gõ cửa, Độ Tân vội nhỏm dậy, chạy ra mở. Thấy Kế Phục, Độ Tân mừng quá, trống ngực đánh thình thình. Kế Phục mỉm cười, nói:"Đã làm xong việc cho túc hạ rồi!" Nói xong, Kế Phục móc túi, lấy lá sớ vàng ra trao cho Độ Tân. Độ Tân mừng quá, chỉ thốt được hai tiếng cám ơn rồi giơ tay đón nhận lá sớ, gấp làm tư, cất vào túi. Độ Tân ra trả tiền phòng, rồi nhảy ngay lên ngựa phóng về làng. Vừa về tới cổng nhà thì thấy tì nữ cũng vừa phóng ngựa tới. Độ Tân vội lên tiếng:"May mà hôm nay bỉ nhân chẳng làm nhục mệnh của nương tử! Mấy năm trước đây, bỉ nhân nghèo túng, phải đi ăn nhờ ở đậu mà vẫn chẳng chịu bán đóa hoa ngọc của nương tử ban cho. Hôm nay, vì nương tử mà bỉ nhân phải đem nó tặng lại người khác. Ném vàng đi, bỉ nhân chẳng tiếc, song mất đóa hoa ngọc thì bỉ nhân tiếc lắm. Nhờ tiểu nương về xin với nương tử thưởng cho bỉ nhân một đóa hoa khác, giống như thế!" Sau đó, Độ Tân thuật lại việc mình trao đóa hoa ngọc cho Kế Phục, nhờ đem đi tặng Bối cơ để xin lá sớ vàng. Thuật xong, Độ Tân móc túi lấy lá sớ ra trao. Tì nữ nhận lá sớ, cám ơn Độ Tân rồi quay ngựa, phóng như bay.
Ba hôm sau, Độ Tân đang ngồi trong nhà thì thấy Phó công tử cưỡi ngựa bạch tới thăm. Sau khi chào hỏi, công tử đưa biếu Độ Tân một túi vàng lớn, gồm trăm lạng. Độ Tân nghiêm nét mặt, nói:"Sở dĩ tiểu sinh giúp được lệnh tôn là vì lệnh muội đã ban cho tiểu sinh một ân huệ. Nếu chẳng vì ân huệ ấy thì dù công tử có cho tiểu sinh vạn lạng vàng, tiểu sinh cũng chẳng thể đem danh tiết của mình ra mà đánh đổi được!" Công tử cứ năn nỉ mãi để Độ Tân nhận cho. Độ Tân càng nghiêm sắc mặt, cương quyết chối từ. Công tử ngượng quá, đành phải đem túi vàng lên ngựa mà cáo biệt. Trước khi về, công tử nói:"Ân nghĩa của cao hiền, gia đình bỉ nhân chưa trả xong đâu!" rồi vái chào Độ Tân, phóng ngựa đi.
Hôm sau, tì nữ lại cưỡi ngựa tới. Vào nhà, tì nữ lấy ra một túi minh châu gồm trăm hạt, đặt lên bàn, nói: "Nương tử sai tiểu tì đem túi minh châu này tới để đền ơn tú tài. Tú tài nghĩ trăm hạt minh châu này đã đủ để đền bù lại đóa hoa ngọc chưa?" Độ Tân đáp:"Đóa hoa ngọc là đóa hoa ngọc chứ chẳng phải là trăm hạt minh châu. Dù nương tử có ban cho bỉ nhân trăm vạn lạng vàng thì bỉ nhân cũng chỉ trở thành một phú nhân thôi chứ chẳng thể trở thành kẻ có cái diễm phúc được giữ đóa hoa ngọc làm kỷ vật! Bỉ nhân cam phận nghèo chỉ vì muốn được làm kẻ có cái diễm phúc ấy. Nương tử là người thần, bỉ nhân đâu dám ước mơ chuyện phu thê mà chỉ muốn được giữ đóa hoa ngọc làm kỷ vật thôi! Bây giờ, tuy đã mất đóa hoa ngọc nhưng lại báo được hồng ân của nương tử thì bỉ nhân cũng chẳng tiếc. Thực tình mà nói, nếu phải mất mạng để báo đáp được hồng ân của nương tử thì bỉ nhân cũng chẳng tiếc, huống hồ là chỉ mất có đóa hoa ngọc? Xin tiểu nương đem túi minh châu này về trình lại với nương tử như thế cho!" Tì nữ cứ để túi minh châu trên bàn rồi chào từ biệt. Độ Tân gọi giật lại, nói:"Xin tiểu nương làm ơn đem túi minh châu này về để cho tâm hồn bỉ nhân được thanh thản!" Bất đắc dĩ, tì nữ phải đem túi minh châu lên ngựa, ra về.
Ba hôm sau, Phó công tử lại cưỡi ngựa tới thăm, lần này có dắt theo một đầu bếp giỏi. Độ Tân sai gia nhân bày tiệc. Công tử nói: "Hôm nay bỉ nhân có dắt theo một đầu bếp tới để nấu nướng cho chúng ta say sưa một bữa!" rồi sai đầu bếp xuống bếp làm tiệc với gia nhân nhà Độ Tân. Tiệc bày xong, Độ Tân mời công tử nhập tiệc. Độ Tân có một vò rượu quý của người bạn thân biếu đã từ lâu, song còn để dành, chưa mở. Hôm ấy, Độ Tân sai gia nhân khui vò rượu ra để cùng công tử yến ẩm.
Hai người yến ẩm, đàm luận, thân mật như anh em một nhà. Công tử uống rất hào, uống hết trăm chén mà vẫn chưa say, mặt chỉ hơi đỏ. Thấy rượu quá ngon, công tử khen: "Thực tình, bình sinh bỉ nhân chưa từng được uống thứ rượu nào ngon như thế này bao giờ!" Tiệc gần tan, đột nhiên công tử nói:"Cao hiền là một kẻ sĩ trinh giới. Huynh đệ bỉ nhân chẳng hiểu được cao hiền sớm hơn nên thẹn mình chẳng bằng giới quần thoa. Gia nghiêm cảm cái công ơn của cao hiền đã tận tình giúp đỡ, chẳng biết lấy chi báo đáp, nên hôm nay sai bỉ nhân tới đây để đề nghị với cao hiền một chuyện!" Độ Tân vội hỏi: "Lệnh tôn muốn sai bảo tiểu sinh chuyện chi?" Công tử đáp: "Gia nghiêm muốn đem gia muội gả cho cao hiền làm chính thất song lại sợ cao hiền e ngại việc phối ngẫu giữa người trần thế với người u minh nên phải sai bỉ nhân tới đây dò ý cao hiền trước!" Độ Tân sung sướng quá, lặng người đi hồi lâu, chẳng nói được lời nào. Lát sau Độ Tân mới lên tiếng: "Nếu quả vậy thì dù tiểu sinh có phải chết ngay bây giờ tiểu sinh cũng đã mãn nguyện lắm rồi!" Công tử cười, nói: "Nếu vậy thì đêm mai, mồng chín tháng bảy, đúng lúc trăng mọc, là ngày lành giờ tốt, xin cao hiền chuẩn bị sẵn sàng cho!" Độ Tân hỏi: "Tại sao lệnh tôn lại chọn ngày giờ đó?" Đáp: "Vì đó là ngày giờ mà xưa kia một điệt nữ của Thượng Đế đã xuống trần gian, kết nghĩa phu thê với người trần thế!" Đáp xong, công tử kêu đầu bếp sửa soạn yên cương, rồi xin cáo biệt.
Tối sau, Độ Tân sửa soạn đủ mọi nghi thức hôn lễ. Đúng vào lúc trăng mọc, quả nhiên có một đoàn xe hộ tống nữ lang tới. Độ Tân bèn cùng nữ lang làm lễ giao bái, thành thân.
Về nhà chồng, nữ lang hành xử chẳng khác chi một nàng dâu trần thế. Nữ lang rất hiền thục, ai thấy cũng phải kính yêu. Ba ngày sau, nữ lang ban thưởng tiền bạc cho tất cả mọi gia nhân lớn nhỏ trong nhà, ai cũng có phần. Hôm sau nữa, nữ lang theo chồng tới chào người anh và chị dâu chồng, biếu toàn những phẩm vật quý giá. Vì mẹ chồng đã mất, nữ lang đối xử với chị dâu chồng, kính cẩn lễ độ như đối xử với mẹ chồng vậy. Tuy chung sống với Độ Tân song tuyệt nhiên nữ lang chẳng sanh nở.
Ba năm sau. Một hôm nữ lang khuyên Độ Tân nên lấy vợ lẽ để có con nối dõi tông đường. Độ Tân cương quyết từ chối. Nữ lang cũng đành thôi. Ba năm sau nữa, một hôm nữ lang lại khuyên Độ Tân nên lấy vợ lẽ. Độ Tân lại từ chối. Nữ lang tỏ vẻ buồn. Thấy thế, Độ Tân đành thuận lấy vợ lẽ để chiều lòng vợ cả. Nữ lang mừng lắm, bèn nhờ người anh và chị dâu chồng để ý tìm kiếm vợ lẽ cho chồng.
Năm sau, Đại Thành đi buôn ở Giang Hoài. Thấy một người rao bán một tiểu cơ, họ Cố, tên Bác Sĩ, tướng mạo đẹp đẽ, tính tình hiền thục, Đại Thành liền bỏ tiền ra mua, đem về cho em làm vợ lẽ. Nữ lang mừng lắm. Độ Tân cũng hòa hợp với Cố thị.
Năm sau nữa, vào dịp Tết nguyên đán, Độ Tân tới phòng Cố thị ngồi nói chuyện. Cố thị đem hộp nữ trang ra ngồi trước gương, chọn vật cài tóc. Thấy Cố thị chọn một đóa hoa ngọc, giống hệt đóa hoa mà nữ lang đã tặng mình ngày trước, Độ Tân lấy làm lạ, bèn bảo Cố thị đưa cho mình coi. Thấy đúng là vật cũ của nữ lang, Độ Tân vô cùng kinh ngạc, hỏi:"Nàng lấy đóa hoa này ở đâu ra?" Cố thị đáp:"Nguyên đóa hoa này là của ái thiếp Bối cơ của quan tuần vũ Mễ công. Cách đây hơn ba năm, khi Bối cơ mất, tì nữ thân tín đánh cắp đóa hoa này đem ra chợ bán. Gia nghiêm thấy giá rẻ thì mua đem về. Thiếp thấy đẹp thì thích, cứ đòi coi suốt ngày. Gia nghiêm thấy thế bèn cho hẳn thiếp vì gia nghiêm chỉ có một mình thiếp là con. Ít lâu sau, khi gia nghiêm mất, di mẫu thiếp đem thiếp về nuôi. Thấy đóa hoa quý, di mẫu thiếp thích lắm, muốn bán đi để lấy tiền tiêu. Thiếp uất ức nhảy xuống giếng tự tử song chẳng chết. Lúc đó di mẫu thiếp mới chịu trả lại đóa hoa cho thiếp nên đóa hoa mới còn tới ngày nay!" Độ Tân bèn đem đóa hoa về phòng nữ lang, thuật lại câu chuyện. Nghe xong, nữ lang nói:"Vật cũ lưu lạc đã mười năm, nay lại hoàn cố chủ, âu cũng là số mệnh!" Nói xong, nữ lang mở hộp nữ trang, lấy ra một đóa hoa ngọc giống hệt như thế, nói:"Mỗi đóa hoa này đã phải xa vật phối ngẫu của nó lâu ngày, nay mới được đoàn tụ!" Rồi nữ lang cho gọi Cố thị lên phòng, tặng luôn cả đóa hoa của mình cho Cố thị, tự tay cài cả hai đóa lên mái tóc cho Cố thị. Cố thị cảm tạ nữ lang mà lui. Cố thị xuống nhà, thì thầm hỏi thăm gia nhân về lai lịch của nữ lang song ai cũng lắc đầu, chẳng ai dám nói điều chi. Tối ấy, Cố thị mời Độ Tân ra chỗ vắng người, nói: "Thiếp thấy nương tử nhà ta là người thần chứ chẳng phải là người phàm trần!" Độ Tân hỏi:"Sao nàng biết?" Cố thị đáp:"Vì thiếp thấy vẻ mặt của nương tử có thần khí! Lúc nương tử cài hai đóa hoa lên mái tóc cho thiếp, thiếp được đứng gần nương tử, thấy vẻ đẹp của nương tử toát ra cả làn da. Người phàm trần làm sao có được vẻ đẹp ấy?" Độ Tân chẳng nói chi, chỉ mỉm cười. Cố thị lại nói:"Thiếp có cách thử xem nương tử có phải là người thần hay không?" Độ Tân hỏi:"Cách nào?" Cố thị đáp: "Thiếp nói với lang quân song xin lang quân chớ thuật lại với nương tử!" Độ Tân gật đầu. Cố thị nói:"Nương tử có tài thêu bít tất thực khéo. Thiếp thích những đôi bít tất ấy lắm, song chẳng dám xin. Để khuya nay, thiếp thắp hương trong phòng riêng, cầu khấn nương tử cho thiếp một đôi. Nếu nương tử là người thần thì thế nào nương tử cũng biết việc thiếp thắp hương cầu khấn, xin bít tất!" Độ Tân lại cười, rồi về phòng nữ lang mà nghỉ.
Sáng sau, khi ngủ dậy, đột nhiên Độ Tân thấy nữ lang gọi tì nữ vào phòng, đưa cho một đôi bít tất mới thêu, nói:"Hãy đem tới phòng Cố thị, nói rằng của ta cho!" Tì nữ vừa cầm đôi bít tất ra khỏi phòng thì Độ Tân phá lên cười. Nữ lang hỏi:"Tại sao lại cười?" Độ Tân bèn thuật chuyện Cố thị nói với mình. Nghe xong, nữ lang cũng cười, nói:"Con nhỏ này thông minh lắm!" Từ đó, nữ lang lại càng thương mến Cố thị hơn. Tuy được nữ lang thương mến song lúc nào Cố thị cũng giữ mực cung kính. Sáng nào, Cố thị cũng tự tay nấu nước thơm bưng lên phòng để nữ lang gội đầu.
Năm sau, Cố thị sanh đôi, được hai trai. Nữ lang chăm sóc hai hài nhi, coi như hai đứa con do chính mình sanh ra vậy. Ba vợ chồng chung sống trong cảnh tương đắc, đầm ấm, dưới cùng một mái nhà.
Năm mươi năm sau.
Vào dịp sinh nhật của Độ Tân, nữ lang ra lệnh cho gia nhân sửa soạn lễ thượng thọ tám mươi cho Độ Tân. Trong buổi lễ, ai cũng phải lấy làm lạ rằng nữ lang trông vẫn còn trẻ như một thiếu nữ chưa xuất giá.
Cuối năm ấy, Độ Tân lâm trọng bệnh. Nữ lang cho gọi thợ mộc tới nhà đóng một cỗ quan tài rộng gấp đôi cỗ quan tài bình thường.
Mấy hôm sau, Độ Tân mất. Nữ lang chẳng hề than khóc một tiếng, chỉ ra lệnh cho gia nhân làm lễ tẩm liệm. Rồi nữ lang cho gọi đông đủ con cháu và gia nhân lên phòng quàn làm lễ phát tang. Lễ xong, nữ lang ra lệnh cho tất cả mọi người dời khỏi phòng. Rồi nữ lang bước vào linh cữu, nằm xuống cạnh Độ Tân, nhắm mắt mà mất.
Lát sau, con cháu lén lên phòng quàn coi. Thấy nữ lang nằm cạnh Độ Tân mà mất, con cháu cùng kinh ngạc. Thế rồi toàn gia bèn làm lễ phát tang chung cho cả Độ Tân và nữ lang, mai táng hai người trong cùng một linh cữu.
Tới nay, dân chúng trong vùng vẫn gọi ngôi mộ chung của Độ Tân và nữ lang là Đại Tài Trủng, nghĩa là ngôi mộ có quan tài lớn.
Phác lậu y quan ngạnh giới thân
Xa trung úy tặng diệc tiền nhân
Vị khanh túc dạ mông sương lộ
Bất tich châu hoa trì dữ nhân Huyện Tấn Giang, tỉnh Phúc Kiến có hai anh em họ Mễ. Người anh tên Đại Thành, là một nhà buôn, tính tình rất mực hiền lành chất phác, đã có vợ. Người em tên Độ Tân, là một nho sinh, văn chương cũng chỉ thường thường bậc trung, còn độc thân. Người nào cũng được cha mẹ để lại cho một ngôi nhà và mươi mẫu ruộng. Hai anh em thương yêu nhau lắm.
Một hôm, Độ Tân từ làng lên huyện có việc. Xong việc, ghé vào quán ăn uống rồi mới ra về. Vì quá chén, Độ Tân say lảo đảo, áo quần xốc xếch. Lát sau, qua cổng một ngôi nhà, thấy có tiếng nhạc inh ỏi từ trong nhà vọng ra, Độ Tân thích lắm, bèn đứng lại nghe. Nhìn vào sân, thấy vắng hoe, chẳng một bóng người, Độ Tân bèn chạy sang nhà hàng xóm phía đông, làm quen với chủ nhà là Minh ông, rồi hỏi:"Hàng xóm phía tây nhà túc hạ là gia đình ai thế?" Minh ông đáp:"Gia đình một ông lão!" Hỏi:"Họ từ đâu tới đây cư ngụ?" Đáp:"Bỉ nhân không biết!" Hỏi:"Họ tới đây cư ngụ đã lâu chưa?" Đáp:"Cũng mới được chừng ba tháng nay!" Hỏi:"Họ đang làm gì mà trỗi nhạc inh ỏi như thế?" Đáp:"Các con trong nhà đang làm lễ thượng thọ cho cha!" Nảy tính hiếu kỳ, muốn được vào coi, Độ Tân liền cáo biệt Minh ông, chạy ra tiệm tạp hóa đầu đường mua lễ vật, đính kèm danh thiếp của mình, đem vào đặt ở hành lang trước cửa phòng khách, gõ cửa báo cho người trong nhà biết, rồi ra ngoài cổng đứng chờ. Minh ông nhìn thấy Độ Tân trở lại, đem lễ vật vào nhà hàng xóm thì lấy làm lạ, bèn chạy ra hỏi:"Túc hạ quen biết với ông lão trong nhà như thế nào?" Đáp:"Bỉ nhân có quen biết chi đâu!" Nói:"Nếu chẳng quen biết chi thì tại sao lại đi làm cái chuyện điên rồ như thế? Vả lại, áo quần đang xốc xếch như thế này mà lại xin vào dự lễ thượng thọ nhà người ta thì kỳ cục lắm!" Nghe thấy thế, Độ Tân đâm ra hối hận, toan chạy vào lấy lại lễ vật thì bỗng thấy có người từ trong nhà mở cửa bước ra hành lang, bưng lễ vật vào. Độ Tân đành đứng ở ngoài cổng để chờ xem sao.
Lát sau, có hai thiếu niên ăn mặc sang trọng, phong thái thanh nhã, từ trong nhà mở cửa bước ra cổng, vái chào Độ Tân, mời vào phòng khách. Độ Tân liền theo vào. Tới hành lang, hai thiếu niên mở cửa phòng khách, mời Độ Tân vào, rồi khép cửa lại, đứng ở bên ngoài.
Vào trong, Độ Tân thấy một bức bình phong bằng ngọc lưu ly ngăn đôi phòng khách. Ở phần ngoài, trên bệ cao, có một ông lão cùng tám vị khách, dáng vẻ quý phái, ngồi trên ba chiếc chiếu hoa, quay mặt về hướng nam. Dưới bệ thấp, có chừng hai chục khách khác ngồi trên năm chiếc chiếu lớn. Độ Tân thầm nghĩ chắc phần trong được dành cho nội quyến của ông lão ngồi nghe nhạc. Độ Tân vừa bước vào phòng thì bỗng tiếng nhạc ngưng hẳn rồi mọi người cùng đứng dậy thi lễ. Ông lão cũng chống gậy đứng dậy. Độ Tân cúi đầu đáp lễ thì mọi người lại ngồi xuống rồi tiếng nhạc lại trỗi lên. Độ Tân thầm nghĩ chắc sắp có người tới mời mình đến chiếu ngồi, song chờ mãi cũng chẳng thấy ai. Độ Tân ngạc nhiên lắm, đành đứng tại chỗ mà nghe nhạc. Bỗng hai thiếu niên mở cửa bước vào phòng rồi tiếng nhạc lại ngưng. Một thiếu niên tiến tới chỗ Độ Tân, nói:"Vì gia nghiêm già yếu, chẳng thể xuống đây mời cao hiền lên bệ được, vậy xin cao hiền thứ lỗi cho. Bỉ nhân xin thay mặt gia nghiêm mà cảm tạ cao hiền đã cho quà và tới dự lễ!" Rồi chắp tay vái Độ Tân. Độ Tân kinh hãi quá, nghiêng mình tránh né, chẳng dám nhận vái. Thiếu niên kia bèn đi lấy thêm chiếu, trải nối vào chiếc chiếu bên trái ông lão, mời Độ Tân lên ngồi. Rồi cả hai thiếu niên cùng tới ngồi ở một chiếc chiếu trải dưới bệ thấp. Tiếng nhạc lại trỗi lên. Độ Tân lên tiếng hỏi chuyện mấy vị khách ngồi cạnh song chẳng vị nào nghe thấy gì vì tiếng nhạc inh ỏi.
Khi tiếng nhạc vừa dứt, hai thiếu niên liền đứng dậy, lấy hai chồng chén và hai bình rượu đi mời khắp lượt. Thấy mình còn say, Độ Tân không muốn uống song vì thấy khách nào cũng nhận chén nên Độ Tân chẳng dám chối từ. Trong khoảnh khắc, mọi người đều cạn chén. Bất đắc dĩ, Độ Tân cũng phải cạn chén theo. Hai thiếu niên lại lấy hai bình rượu mới, đi mời lượt nữa. Vì say quá, Độ Tân chối từ rồi xin cáo biệt.
Độ Tân vừa quay người, toan bước ra cửa thì bị một thiếu niên nắm vạt áo kéo lại. Đột nhiên, Độ Tân ngã lăn xuống chiếu, nằm ngủ li bì. Khi bị nước lạnh dội vào mặt, Độ Tân mới tỉnh. Vùng dậy, nhìn quanh, thấy ông lão cùng khách khứa đều đã biến hết, chỉ còn một thiếu niên đang đứng cạnh mình, tay cầm chiếc bình không, Độ Tân ngượng quá, chẳng biết phải hành động thế nào. Chợt thấy thiếu niên tới khoác tay mình dìu ra cổng, Độ Tân bèn cúi đầu chào cáo biệt.
Ba tháng sau, một hôm Độ Tân lại có việc phải lên huyện. Xong việc, tới thăm ngôi nhà cũ, thấy cổng ngõ im lìm, Độ Tân bèn sang nhà Minh ông hỏi thăm thì được biết gia đình ông lão đã dọn đi được hơn hai tháng.
Trên đường về, qua chợ huyện, bỗng Độ Tân thấy một khách lạ từ trong chợ chạy ra, gọi:"Mễ huynh! Đi đâu đấy? Hãy vào đây ngồi uống với chúng đệ mấy chén đã!" Thấy mình chưa hề quen biết khách, Độ Tân lấy làm lạ, hỏi:"Sao túc hạ lại biết đệ?" Khách hỏi lại:"Thế túc hạ không nhận ra đệ hay sao?" Độ Tân đáp:"Thưa không!" Khách hỏi:"Túc hạ còn nhớ cách đây ba tháng, chúng ta cùng vào nhà Phó lão tiên sinh dự lễ thượng thọ hay không?" Vỡ lẽ, Độ Tân gật đầu, hỏi lại:"Hôm ấy túc hạ ngồi ở đâu?" Khách đáp:"Đệ ngồi ở chiếu dưới! Khi hai công tử mở cửa phòng khách mời túc hạ vào thì đệ thấy mọi người đều đứng dậy nên đệ nhớ mặt túc hạ, rồi hỏi thăm được quý danh!" Độ Tân bèn hỏi:"Thế quý danh túc hạ là gì?" Khách đáp:"Đệ họ Chư, tên Yến!" Hỏi:"Túc hạ làm nghề chi?" Đáp:"Đệ làm nghề mài gương mài kính ở trong chợ!" Độ Tân bèn theo Chư Yến vào chợ. Tới bàn rượu, Độ Tân mới biết rằng Chư Yến đang ngồi với một người làng mình, họ Bảo, tên Trang. Ba người bèn cùng yến ẩm. Gần tối, Độ Tân xin cáo biệt.
Đêm ấy, Bảo Trang bị giết chết ở dọc đường. Vì chiều hôm trước, có kẻ nhìn thấy Bảo Trang ngồi uống rượu với Độ Tân cùng một khách lạ ở trong chợ nên tới mách cho cha Bảo Trang biết. Cha Bảo Trang chẳng biết khách lạ là ai nên chỉ làm đơn kiện Độ Tân đã giết con mình. Quan tể cho khám nghiệm thi thể Bảo Trang thì thấy có nhiều vết dao đâm. Quan liền sai lính đi bắt Độ Tân về huyện đường tra khảo. Độ Tân trình bày việc Chư Yến mời mình vào quán uống rượu tay ba và khai rằng mình chẳng hề giết người. Quan không tin, cứ kết tội Độ Tân giết Bảo Trang. Độ Tân một mực kêu oan. Quan chẳng nghe, cứ lột mũ áo nho sinh, tịch thu gia sản đem bán cho dân làng, rồi khép án tử hình. Tuy nhiên, vì luật pháp triều đình ấn định rằng các quan tể phải chờ các quan tuần phương tới phúc thẩm, y án, rồi mới được đem tử tù ra hành hình, nên Độ Tân chỉ bị tống giam.
Năm sau, triều đình cử một quan tuần phương tới Phúc Kiến phúc thẩm các án tử hình. Khi xét tới vụ án Bảo Trang, quan tuần phương phán là Độ Tân bị hàm oan rồi ra lệnh phóng thích. Độ Tân về làng, thấy nhà cửa ruộng vườn của mình đã thuộc về người khác, bèn tới nhà người anh, xin ở nhờ. Đại Thành thương em lắm, bảo vợ dọn riêng một phòng cho em ở. Thấy quan tuần phương đã phán là mình vô tội, Độ Tân bèn quyết định lên dinh học sứ xin lại mũ áo nho sinh.
Tháng sau, Độ Tân khăn gói lên huyện. Đường xa, trời tối, mỏi mệt, Độ Tân ngồi bệt xuống vệ đường nghỉ chân. Chợt thấy một cỗ xe ngựa chạy qua chỗ mình ngồi rồi đột nhiên dừng lại, Độ Tân chú mục nhìn thì thấy một tì nữ từ trên xe tụt xuống, đứng thò đầu vào xe như để nghe lệnh, rồi chạy tới chỗ mình, hỏi:"Có phải tú tài họ Mễ không?" Độ Tân kinh ngạc, chẳng hiểu tại sao tì nữ lại biết lai lịch mình, song cũng đáp:"Phải" Hỏi:"Sao tú tài lại nghèo khổ thế này?" Đáp:"Vì năm ngoái bỉ nhân bị quan tể kết tội oan, lột mũ áo nho sinh, tịch thu hết gia sản. Tháng trước, quan tuần phương tới phúc thẩm, phán là vô tội rồi thả cho về!" Hỏi:"Bây giờ tú tài định đi đâu?" Đáp:"Bỉ nhân định lên dinh học sứ xin lại mũ áo nho sinh!" Tì nữ bèn chạy về xe, trình lại. Lát sau, tì nữ lại chạy tới chỗ Độ Tân, nói:"Nương tử tiểu tì mời tú tài tới cạnh xe nói chuyện!" Hiếu kỳ, Độ Tân bèn bước theo tì nữ. Tới xe, tì nữ đưa tay vén rèm lên thì Độ Tân sững sờ kinh ngạc vì thấy trong xe có một nữ lang tuyệt sắc. Nữ lang nói:"Hiền lang chẳng may bị tai họa bất ngờ, thiếp nghe chuyện cũng thấy ngậm ngùi. Nay hiền lang muốn vào dinh học sứ xin lại mũ áo nho sinh, mà đi với hai bàn tay trắng, chẳng có tiền hối lộ cho lính canh thì làm sao mà vào? Thiếp muốn biếu hiền lang chút tiền song dọc đường chẳng đem theo nên cũng đành chịu!" Rồi như chợt nghĩ ra điều gì, nữ lang nói tiếp:"À thôi! Để thiếp biếu đỡ hiền lang vật này vậy! Cứ đem lên huyện bán cũng được trăm đồng, đủ tiền hối lộ đó! Cất kỹ đi!" Nói xong, nữ lang đưa tay lên đầu, rút đóa hoa ngọc cài trên mái tóc, trao cho Độ Tân. Được người đẹp trao tặng đóa hoa trang sức, Độ Tân vội đón nhận rồi nói:"Tiểu sinh xin đa tạ nương tử!" Độ Tân toan lên tiếng hỏi về tính danh và thân thế của nữ lang thì cỗ xe đã vụt chạy như bay. Độ Tân đành đứng tần ngần nhìn theo cho tới khi cỗ xe mất hút. Thấy đóa hoa có gắn nhiều hạt minh châu, Độ Tân biết là bảo vật nên cất kỹ vào túi rồi tiếp tục lên đường.
Sáng sau, Độ Tân tới dinh học sứ, xin lính canh cho vào. Lính đòi tiền hối lộ, Độ Tân không có, lính không cho vào. Chợt nhớ tới đóa hoa trang sức của người đẹp cho mình, Độ Tân vội ra chợ tìm tiệm kim hoàn để bán. Sau khi ngã giá, Độ Tân rút đóa hoa ra trao cho chủ tiệm thì bỗng thấy tiếc rẻ nên lại thôi không bán nữa, cất vào túi. Biết rằng không nạp tiền hối lộ thì chẳng sao vào được dinh học sứ nên Độ Tân quyết về nhà anh, ôn lại bài vở để đi thi khoa đồng tử hầu lấy lại mũ áo nho sinh. Năm sau, ở huyện Tấn Giang có mở khoa thi đồng tử vào ngày rằm tháng ba. Độ Tân lên huyện sớm ít bữa để chờ ngày ứng thí. Gặp tiết thanh minh, thấy thiên hạ đua nhau đi ngoạn cảnh, Độ Tân cũng đi theo rồi lạc vào một dãy núi vì không thuộc đường. Chợt thấy một đám tì nữ áo xanh cưỡi ngựa theo hầu một cỗ xe, Độ Tân chú mục nhìn thì nhận ra người ngồi trong xe chính là nữ lang năm ngoái. Nữ lang nhìn thấy Độ Tân thì vội ra lệnh cho tì nữ dừng xe, rồi hỏi Độ Tân:"Hiền lang đi đâu thế?" Độ Tân đáp:"Tiểu sinh đi dự khoa thi đồng tử!" Nữ lang kinh ngạc, hỏi:"Thế ra hiền lang vẫn chưa xin lại được mũ áo nho sinh hay sao?" Độ Tân ngượng ngùng, thò tay vào túi, rút đóa hoa trang sức ra, nói:"Vì tiểu sinh chẳng nỡ bán kỷ vật này nên bây giờ phải đi thi lại khoa thi đồng tử" Nữ lang chợt ửng hồng đôi má, nói:"Hiền lang đừng đi đâu cả, cứ ngồi đây mà chờ một lát!" Rồi ra lệnh cho tì nữ phóng xe đi. Độ Tân theo lời dặn, ngồi chờ ở bên đường. Lát sau, một tì nữ phóng ngựa trở lại, trao cho Độ Tân một túi lớn, nói:"Nương tử tiểu tì nói vì bây giờ dinh học sứ loạn như cái chợ bán chữ nên nương tử tiểu tì tặng tú tài hai trăm lạng vàng, dặn tú tài hãy dùng vàng này mà tiến thân!" Độ Tân không nhận, nói:"Nương tử đã cho bỉ nhân đóa hoa ngọc rồi! Bây giờ nương tử lại cho vàng thì bỉ nhân chẳng dám nhận nữa! Sở dĩ bỉ nhân chẳng chịu bán đóa hoa ngọc là vì bỉ nhân tự lượng sức mình có thể đi thi để lấy lại mũ áo nho sinh! Chỉ xin tiểu nương cho bỉ nhân biết danh tánh nương tử là chi để bỉ nhân về vẽ tranh mà thờ, thắp hương mà khấn cũng đã là mãn nguyện lắm rồi!" Tì nữ chẳng thèm nói chi thêm, cứ quẳng túi vàng xuống cạnh Độ Tân rồi quất ngựa phóng đi. Độ Tân đành nhặt túi vàng đem về.
Tới nhà, Độ Tân chia túi vàng làm hai, biếu người anh một nửa, còn nửa kia thì đem đi chuộc lại nhà cửa ruộng vườn và mua gia nhân. Sau đó, Độ Tân lên huyện dự khoa thi đồng tử, lấy lại được mũ áo nho sinh. Ba tháng sau, Độ Tân lại trúng tuyển khoa thi nhập học trường huyện. Đại Thành giỏi buôn bán, dùng vàng em cho để đi buôn, kiếm được rất nhiều lời. Ba năm sau, Đại Thành chuộc lại được hết các sản nghiệp của ông cha. Vì thế, hai anh em cùng trở thành cự phú ở trong làng.
Năm ấy, triều đình cử người anh thúc bá của Đại Thành và Độ Tân, là Mễ công, về làm tuần vũ tỉnh Phúc Kiến, thay tuần vũ cũ hồi hưu. Mễ công sai lính đem quà về làng tặng hai anh em. Hai anh em bèn nhờ lính chuyển lời cám ơn tới Mễ công. Hôm sau, Đại Thành rủ vợ và em cùng mình lên dinh tuần vũ để xin vào chào mừng và thăm hỏi Mễ công. Độ Tân vốn không ưa việc tới lui nơi quyền quý nên từ chối. Vì thế chỉ có hai vợ chồng Đại Thành lên dinh tuần vũ mà thôi.
Nửa năm sau. Một hôm, có khách mặc áo cừu, cưỡi ngựa bạch, tới gõ cổng nhà Độ Tân. Gia nhân ra coi, thấy là khách lạ, vội chạy vào báo. Độ Tân ra coi thì nhận ra là một trong hai công tử mà mình đã gặp trong buổi lễ thượng thọ ở nhà Phó lão tiên sinh. Độ Tân bèn mở cổng mời khách vào nhà. Hai người tay bắt mặt mừng, ngồi hàn huyên đủ chuyện. Độ Tân sai gia nhân bày tiệc thì khách từ chối, nói thác là mình có việc bận, cần phải đi ngay, nhưng rồi lại cứ ngồi hàn huyên với Độ Tân chứ chẳng chịu xin cáo biệt. Gia nhân bày tiệc xong, chạy ra trình báo. Độ Tân đứng dậy, mời khách vào nhập tiệc. Đột nhiên, khách quỳ xuống trước mặt Độ Tân mà lạy. Độ Tân kinh ngạc, nghiêng mình tránh né, rồi hỏi:"Công tử có chuyện chi nghiêm trọng thế?" Khách buồn rầu, đáp:"Gia nghiêm vừa mắc một đại họa, chỉ có cao hiền mới cứu được thôi!" Nói:"Xin công tử nói rõ cho nghe!" Đáp:"Vì gia nghiêm sắp bị lâm vào vòng lao lý mà chỉ có quan tuần vũ mới cứu được nên hôm nay bỉ nhân tới đây để xin cao hiền lên nói với quan tuần vũ giùm cho!" Nghe thấy thế, Độ Tân liền từ chối, nói:"Tuy quan tuần vũ với tiểu sinh là chỗ anh em thúc bá song tiểu sinh đã quyết tâm là chẳng khi nào lên nhờ vả quan tuần vũ một việc gì cả!" Khách cứ nằm lăn ra đất mà khóc lóc van xin. Độ Tân giận quá, nghiêm sắc mặt, nói:"Công tử với tiểu sinh chẳng qua chỉ là chỗ sơ giao! Thế thì tại sao công tử lại đi táng thất danh tiết để ép tiểu sinh phải làm một việc mà tiểu sinh chẳng thể nào làm được?" Nghe thấy thế, khách ngượng quá, vội vùng dậy, chắp tay vái chào Độ Tân, rồi chạy ra sân, tháo ngựa phóng đi. Tối sau, Độ Tân đang ngồi trong phòng đọc sách thì chợt thấy bóng dáng lờ mờ của một cô gái lui cui buộc ngựa ở góc sân. Độ Tân chú mục nhìn theo thì thấy cô gái bước lên thềm, tới gõ cửa phòng. Độ Tân vội chạy ra mở thì nhận ra là tì nữ hầu cận của nữ lang đã cho mình đóa hoa trang sức. Chỉ lo tì nữ tới báo cho mình một hung tin về nữ lang, Độ Tân toan cất tiếng hỏi thì tì nữ đã hỏi trước:"Tú tài đã quên đóa hoa ngọc của nương tử tiểu tì trao tặng rồi sao?" Độ Tân đáp:"Bỉ nhân đâu có dám quên!" Tì nữ nói: "Nếu thế thì tiểu tì báo cho tú tài một tin!" Độ Tân kinh hãi, dồn dập hỏi: "Tin gì? Tin gì?" Tì nữ đáp:"Phó công tử hôm qua tới đây chính là bào huynh của nương tử tiểu tì đó!" Nghe thấy thế, Độ Tân mới hoàn hồn, thở phào nhẹ nhõm, chuyển lo thành mừng. Tuy nhiên, Độ Tân vẫn làm ra vẻ chẳng tin, nói:"Tiểu nương nói vậy thì bỉ nhân cũng biết vậy chứ bỉ nhân thấy khó tin quá! Nếu nương tử đích thân tới đây xác nhận điều đó thì bỉ nhân sẽ tin ngay! Lúc ấy nương tử có bảo bỉ nhân nhảy vào đống lửa, bỉ nhân cũng xin tuân hành. Còn nếu nương tử không tới thì bỉ nhân nghĩ rằng chắc là tiểu nương đặt chuyện!" Tì nữ tức giận, chẳng nói một lời, quay phắt xuống sân, tháo ngựa phóng đi.
Chừng một giờ sau, Độ Tân lại nghe có tiếng gõ cửa. Ra mở thì thấy tì nữ trở lại, nói:"Nương tử tiểu tì đã tới đây này!" Độ Tân mừng quá, còn đang luýnh quýnh chưa biết phải hành động ra sao thì chợt thấy nữ lang bước vào phòng, quay mặt vào tường mà khóc, chẳng nói một lời. Độ Tân chắp tay vái chào nữ lang rồi lắp bắp: "Nếu chẳng được nương tử giúp đỡ thì tiểu sinh đâu có ngày nay? Bây giờ nương tử sai bảo điều chi, tiểu sinh cũng xin tuân hành ngay lập tức, chẳng dám chối từ!" Nữ lang nói:"Kẻ phải đi cầu cạnh người thì hay sợ hãi người. Kẻ được người tới cầu cạnh thì hay làm cao với người. Bình sinh thiếp chưa hề phải đi cầu cạnh ai bao giờ! Bây giờ nửa đêm phải đi cầu cạnh người thì còn biết nói năng chi?" Độ Tân nói:"Khi tiểu sinh được biết Phó công tử là lệnh huynh thì tiểu sinh đã tin ngay, song vì nghĩ mình khó có dịp được diện kiến nương tử nên mới lập kế để mong nương tử cho gặp mặt. Bây giờ nghĩ lại mới thấy là mình đã đắc tội với nương tử vì đã làm cho nương tử phải nửa đêm lặn lội sương tuyết mà tới đây!" Nói xong, Độ Tân bước tới nắm lấy ống tay áo nữ lang để mời ngồi. Thừa cơ, Độ Tân ngầm gãi vào lòng bàn tay nữ lang. Nữ lang liền biến sắc mặt, nói:"Thấy người khác bị lâm nguy, đã chẳng sốt sắng giúp đỡ, lại còn manh tâm lợi dụng, thì quả là kẻ tồi bại!" Nói xong, nữ lang quay phắt người qua phía tì nữ, ra lệnh:"Đi!" rồi chạy lên xe. Tì nữ vội chạy theo, nhảy lên ngồi cầm cương. Độ Tân kinh hãi quá, cũng vội chạy ra sân, quỳ xuống đất mà van lạy:"Tiểu sinh đã trót dại, xin nương tử tha cho!" Tì nữ cũng nhỏ nhẹ khuyên:"Xin nương tử hãy nghĩ tới lão công mà bớt giận, tha tội cho tú tài!" Lúc đó, nữ lang mới hơi nguôi. Độ Tân cứ quỳ ở giữa sân mà lên tiếng:"Xin nương tử sai bảo!" Nữ lang ngồi trong xe, nói vọng ra:"Nói thực cho hiền lang biết thiếp chẳng phải là người mà là con gái vị thần nhân mà hiền lang đã tới dự lễ thượng thọ. Gia nghiêm được Thượng Đế đặc cử giữ chức vụ Nam Nhạc Đô Lý Ty. Vì gia nghiêm có chuyện xích mích với vị thổ thần địa phương nên bị vị này vu tấu lên Thượng Đế. Gia nghiêm đã trần tình song Thượng Đế chẳng tin, bắt phải có lá sớ vàng với dấu ấn của quan tuần vũ địa phương để làm bằng, nếu không thì sẽ mắc vòng lao lý. Nếu hiền lang chưa quên ân nghĩa cũ thì hãy lấy một lá sớ vàng, lên thỉnh cầu quan tuần vũ đóng dấu ấn cho rồi đem về trao cho thiếp để thiếp đem đi cứu gia nghiêm!" Nói xong, nữ lang chẳng chờ cho Độ Tân nói chi thêm, vội ra lệnh cho tì nữ quất ngựa, phóng xe đi. Độ Tân vô cùng lo sợ, bèn đứng dậy, vào nhà nằm. Suốt đêm ấy, Độ Tân trằn trọc, chẳng sao ngủ được.
Sáng sớm hôm sau, Độ Tân sửa soạn hành trang, đem theo nhiều tiền bạc, cưỡi ngựa lên tỉnh, tới dinh tuần vũ, xin vào thăm Mễ công. Sau khi chào hỏi, Độ Tân nói:"Kính thưa đại ca, ở vùng núi quê nhà có nhiều tà ma quấy nhiễu dân lành. Hôm nay tiểu đệ lên đây xin đại ca một lá sớ vàng có đóng dấu ấn để đem về vùng núi quê nhà mà làm phép trừ tà ma cho dân chúng!" Mễ công cười, nói:"Chuyện tà ma là chuyện hoang đường! Hiền đệ chớ nên mê tín mà làm như vậy!" Độ Tân kinh hãi quá, vội vàng vâng vâng dạ dạ rồi xin phép ra về.
Ra ngoài, Độ Tân chạy đi dò hỏi xem ai là kẻ tâm phúc của Mễ công để mình có thể lo hối lộ, nhờ xin một lá sớ vàng có dấu ấn tuần vũ. Khi được biết kẻ tâm phúc của Mễ công là người họ Kế, tên Phục, Độ Tân liền chạy đi tìm Kế Phục, đem tiền bạc ra biếu rồi năn nỉ xin Kế Phục giúp mình. Kế Phục nhận lời rồi bảo Độ Tân cứ ra quán trọ Mai Hoa mà chờ. Độ Tân bèn ra quán trọ nằm chờ, song chờ suốt ngày mà chẳng thấy Kế Phục tới.
Sáng sau, chẳng được tin tức gì, Độ Tân chán nản, bèn trả phòng trọ, lên ngựa về làng. Vừa về tới nhà, Độ Tân đã thấy tì nữ đang đứng ở cổng, tay cầm cương. Thấy Độ Tân về, tì nữ hỏi:"Có được việc gì không?" Độ Tân lắc đầu buồn bã, đáp:"Không!" rồi thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong, tì nữ lạnh lùng, chẳng nói một lời, nhảy lên lưng ngựa, phóng đi. Độ Tân hốt hoảng, vội nói với theo:"Nhờ tiểu nương về thưa giùm với nương tử rằng nếu tối mai mà bỉ nhân chẳng làm xong công việc nương tử giao phó thì bỉ nhân sẽ xin tự vẫn!" Tì nữ chẳng thèm ngoái cổ lại, cứ phóng ngựa như bay. Độ Tân cho ngựa vào chuồng rồi lên nhà nằm. Suốt ngày hôm ấy, Độ Tân chỉ thở dài. Suốt đêm hôm ấy, Độ Tân cứ trằn trọc.
Tờ mờ sáng hôm sau, Độ Tân đem đóa hoa ngọc cùng tiền bạc lên lưng ngựa, phóng lên tỉnh. Vừa tới dinh tuần vũ, gặp Kế Phục ở cổng dinh, Độ Tân vội hỏi:"Có tin tức gì cho bỉ nhân không?" Kế Phục đáp: "Có! Đang đi tìm túc hạ đây!" Độ Tân mừng quá, vội hỏi:"Tin gì thế?" Kế Phục đáp:"Quan tuần vũ có người ái thiếp là Bối cơ. Bối cơ rất mê bảo ngọc, hiện đang tìm mua. Nếu túc hạ có bảo ngọc mà đem biếu thì thế nào Bối cơ cũng lén lấy ấn của quan tuần vũ mà đóng dấu vào lá sớ vàng cho!" Độ Tân mừng quá, vội móc túi lấy đóa hoa ngọc ra trao cho Kế Phục, nhờ đem vào biếu Bối cơ giùm. Kế Phục cầm đóa hoa rồi bảo Độ Tân cứ ra quán trọ Mai Hoa mà chờ.
Bối cơ được đóa hoa ngọc thì mừng lắm, vội vào phòng ngủ của Mễ công, lén lấy ấn tuần vũ đóng dấu vào một lá sớ vàng rồi trao cho Kế Phục. Độ Tân nằm ở quán trọ mà trong lòng cứ bồn chồn, hồi hộp. Bỗng nghe có tiếng gõ cửa, Độ Tân vội nhỏm dậy, chạy ra mở. Thấy Kế Phục, Độ Tân mừng quá, trống ngực đánh thình thình. Kế Phục mỉm cười, nói:"Đã làm xong việc cho túc hạ rồi!" Nói xong, Kế Phục móc túi, lấy lá sớ vàng ra trao cho Độ Tân. Độ Tân mừng quá, chỉ thốt được hai tiếng cám ơn rồi giơ tay đón nhận lá sớ, gấp làm tư, cất vào túi. Độ Tân ra trả tiền phòng, rồi nhảy ngay lên ngựa phóng về làng. Vừa về tới cổng nhà thì thấy tì nữ cũng vừa phóng ngựa tới. Độ Tân vội lên tiếng:"May mà hôm nay bỉ nhân chẳng làm nhục mệnh của nương tử! Mấy năm trước đây, bỉ nhân nghèo túng, phải đi ăn nhờ ở đậu mà vẫn chẳng chịu bán đóa hoa ngọc của nương tử ban cho. Hôm nay, vì nương tử mà bỉ nhân phải đem nó tặng lại người khác. Ném vàng đi, bỉ nhân chẳng tiếc, song mất đóa hoa ngọc thì bỉ nhân tiếc lắm. Nhờ tiểu nương về xin với nương tử thưởng cho bỉ nhân một đóa hoa khác, giống như thế!" Sau đó, Độ Tân thuật lại việc mình trao đóa hoa ngọc cho Kế Phục, nhờ đem đi tặng Bối cơ để xin lá sớ vàng. Thuật xong, Độ Tân móc túi lấy lá sớ ra trao. Tì nữ nhận lá sớ, cám ơn Độ Tân rồi quay ngựa, phóng như bay.
Ba hôm sau, Độ Tân đang ngồi trong nhà thì thấy Phó công tử cưỡi ngựa bạch tới thăm. Sau khi chào hỏi, công tử đưa biếu Độ Tân một túi vàng lớn, gồm trăm lạng. Độ Tân nghiêm nét mặt, nói:"Sở dĩ tiểu sinh giúp được lệnh tôn là vì lệnh muội đã ban cho tiểu sinh một ân huệ. Nếu chẳng vì ân huệ ấy thì dù công tử có cho tiểu sinh vạn lạng vàng, tiểu sinh cũng chẳng thể đem danh tiết của mình ra mà đánh đổi được!" Công tử cứ năn nỉ mãi để Độ Tân nhận cho. Độ Tân càng nghiêm sắc mặt, cương quyết chối từ. Công tử ngượng quá, đành phải đem túi vàng lên ngựa mà cáo biệt. Trước khi về, công tử nói:"Ân nghĩa của cao hiền, gia đình bỉ nhân chưa trả xong đâu!" rồi vái chào Độ Tân, phóng ngựa đi.
Hôm sau, tì nữ lại cưỡi ngựa tới. Vào nhà, tì nữ lấy ra một túi minh châu gồm trăm hạt, đặt lên bàn, nói: "Nương tử sai tiểu tì đem túi minh châu này tới để đền ơn tú tài. Tú tài nghĩ trăm hạt minh châu này đã đủ để đền bù lại đóa hoa ngọc chưa?" Độ Tân đáp:"Đóa hoa ngọc là đóa hoa ngọc chứ chẳng phải là trăm hạt minh châu. Dù nương tử có ban cho bỉ nhân trăm vạn lạng vàng thì bỉ nhân cũng chỉ trở thành một phú nhân thôi chứ chẳng thể trở thành kẻ có cái diễm phúc được giữ đóa hoa ngọc làm kỷ vật! Bỉ nhân cam phận nghèo chỉ vì muốn được làm kẻ có cái diễm phúc ấy. Nương tử là người thần, bỉ nhân đâu dám ước mơ chuyện phu thê mà chỉ muốn được giữ đóa hoa ngọc làm kỷ vật thôi! Bây giờ, tuy đã mất đóa hoa ngọc nhưng lại báo được hồng ân của nương tử thì bỉ nhân cũng chẳng tiếc. Thực tình mà nói, nếu phải mất mạng để báo đáp được hồng ân của nương tử thì bỉ nhân cũng chẳng tiếc, huống hồ là chỉ mất có đóa hoa ngọc? Xin tiểu nương đem túi minh châu này về trình lại với nương tử như thế cho!" Tì nữ cứ để túi minh châu trên bàn rồi chào từ biệt. Độ Tân gọi giật lại, nói:"Xin tiểu nương làm ơn đem túi minh châu này về để cho tâm hồn bỉ nhân được thanh thản!" Bất đắc dĩ, tì nữ phải đem túi minh châu lên ngựa, ra về.
Ba hôm sau, Phó công tử lại cưỡi ngựa tới thăm, lần này có dắt theo một đầu bếp giỏi. Độ Tân sai gia nhân bày tiệc. Công tử nói: "Hôm nay bỉ nhân có dắt theo một đầu bếp tới để nấu nướng cho chúng ta say sưa một bữa!" rồi sai đầu bếp xuống bếp làm tiệc với gia nhân nhà Độ Tân. Tiệc bày xong, Độ Tân mời công tử nhập tiệc. Độ Tân có một vò rượu quý của người bạn thân biếu đã từ lâu, song còn để dành, chưa mở. Hôm ấy, Độ Tân sai gia nhân khui vò rượu ra để cùng công tử yến ẩm.
Hai người yến ẩm, đàm luận, thân mật như anh em một nhà. Công tử uống rất hào, uống hết trăm chén mà vẫn chưa say, mặt chỉ hơi đỏ. Thấy rượu quá ngon, công tử khen: "Thực tình, bình sinh bỉ nhân chưa từng được uống thứ rượu nào ngon như thế này bao giờ!" Tiệc gần tan, đột nhiên công tử nói:"Cao hiền là một kẻ sĩ trinh giới. Huynh đệ bỉ nhân chẳng hiểu được cao hiền sớm hơn nên thẹn mình chẳng bằng giới quần thoa. Gia nghiêm cảm cái công ơn của cao hiền đã tận tình giúp đỡ, chẳng biết lấy chi báo đáp, nên hôm nay sai bỉ nhân tới đây để đề nghị với cao hiền một chuyện!" Độ Tân vội hỏi: "Lệnh tôn muốn sai bảo tiểu sinh chuyện chi?" Công tử đáp: "Gia nghiêm muốn đem gia muội gả cho cao hiền làm chính thất song lại sợ cao hiền e ngại việc phối ngẫu giữa người trần thế với người u minh nên phải sai bỉ nhân tới đây dò ý cao hiền trước!" Độ Tân sung sướng quá, lặng người đi hồi lâu, chẳng nói được lời nào. Lát sau Độ Tân mới lên tiếng: "Nếu quả vậy thì dù tiểu sinh có phải chết ngay bây giờ tiểu sinh cũng đã mãn nguyện lắm rồi!" Công tử cười, nói: "Nếu vậy thì đêm mai, mồng chín tháng bảy, đúng lúc trăng mọc, là ngày lành giờ tốt, xin cao hiền chuẩn bị sẵn sàng cho!" Độ Tân hỏi: "Tại sao lệnh tôn lại chọn ngày giờ đó?" Đáp: "Vì đó là ngày giờ mà xưa kia một điệt nữ của Thượng Đế đã xuống trần gian, kết nghĩa phu thê với người trần thế!" Đáp xong, công tử kêu đầu bếp sửa soạn yên cương, rồi xin cáo biệt.
Tối sau, Độ Tân sửa soạn đủ mọi nghi thức hôn lễ. Đúng vào lúc trăng mọc, quả nhiên có một đoàn xe hộ tống nữ lang tới. Độ Tân bèn cùng nữ lang làm lễ giao bái, thành thân.
Về nhà chồng, nữ lang hành xử chẳng khác chi một nàng dâu trần thế. Nữ lang rất hiền thục, ai thấy cũng phải kính yêu. Ba ngày sau, nữ lang ban thưởng tiền bạc cho tất cả mọi gia nhân lớn nhỏ trong nhà, ai cũng có phần. Hôm sau nữa, nữ lang theo chồng tới chào người anh và chị dâu chồng, biếu toàn những phẩm vật quý giá. Vì mẹ chồng đã mất, nữ lang đối xử với chị dâu chồng, kính cẩn lễ độ như đối xử với mẹ chồng vậy. Tuy chung sống với Độ Tân song tuyệt nhiên nữ lang chẳng sanh nở.
Ba năm sau. Một hôm nữ lang khuyên Độ Tân nên lấy vợ lẽ để có con nối dõi tông đường. Độ Tân cương quyết từ chối. Nữ lang cũng đành thôi. Ba năm sau nữa, một hôm nữ lang lại khuyên Độ Tân nên lấy vợ lẽ. Độ Tân lại từ chối. Nữ lang tỏ vẻ buồn. Thấy thế, Độ Tân đành thuận lấy vợ lẽ để chiều lòng vợ cả. Nữ lang mừng lắm, bèn nhờ người anh và chị dâu chồng để ý tìm kiếm vợ lẽ cho chồng.
Năm sau, Đại Thành đi buôn ở Giang Hoài. Thấy một người rao bán một tiểu cơ, họ Cố, tên Bác Sĩ, tướng mạo đẹp đẽ, tính tình hiền thục, Đại Thành liền bỏ tiền ra mua, đem về cho em làm vợ lẽ. Nữ lang mừng lắm. Độ Tân cũng hòa hợp với Cố thị.
Năm sau nữa, vào dịp Tết nguyên đán, Độ Tân tới phòng Cố thị ngồi nói chuyện. Cố thị đem hộp nữ trang ra ngồi trước gương, chọn vật cài tóc. Thấy Cố thị chọn một đóa hoa ngọc, giống hệt đóa hoa mà nữ lang đã tặng mình ngày trước, Độ Tân lấy làm lạ, bèn bảo Cố thị đưa cho mình coi. Thấy đúng là vật cũ của nữ lang, Độ Tân vô cùng kinh ngạc, hỏi:"Nàng lấy đóa hoa này ở đâu ra?" Cố thị đáp:"Nguyên đóa hoa này là của ái thiếp Bối cơ của quan tuần vũ Mễ công. Cách đây hơn ba năm, khi Bối cơ mất, tì nữ thân tín đánh cắp đóa hoa này đem ra chợ bán. Gia nghiêm thấy giá rẻ thì mua đem về. Thiếp thấy đẹp thì thích, cứ đòi coi suốt ngày. Gia nghiêm thấy thế bèn cho hẳn thiếp vì gia nghiêm chỉ có một mình thiếp là con. Ít lâu sau, khi gia nghiêm mất, di mẫu thiếp đem thiếp về nuôi. Thấy đóa hoa quý, di mẫu thiếp thích lắm, muốn bán đi để lấy tiền tiêu. Thiếp uất ức nhảy xuống giếng tự tử song chẳng chết. Lúc đó di mẫu thiếp mới chịu trả lại đóa hoa cho thiếp nên đóa hoa mới còn tới ngày nay!" Độ Tân bèn đem đóa hoa về phòng nữ lang, thuật lại câu chuyện. Nghe xong, nữ lang nói:"Vật cũ lưu lạc đã mười năm, nay lại hoàn cố chủ, âu cũng là số mệnh!" Nói xong, nữ lang mở hộp nữ trang, lấy ra một đóa hoa ngọc giống hệt như thế, nói:"Mỗi đóa hoa này đã phải xa vật phối ngẫu của nó lâu ngày, nay mới được đoàn tụ!" Rồi nữ lang cho gọi Cố thị lên phòng, tặng luôn cả đóa hoa của mình cho Cố thị, tự tay cài cả hai đóa lên mái tóc cho Cố thị. Cố thị cảm tạ nữ lang mà lui. Cố thị xuống nhà, thì thầm hỏi thăm gia nhân về lai lịch của nữ lang song ai cũng lắc đầu, chẳng ai dám nói điều chi. Tối ấy, Cố thị mời Độ Tân ra chỗ vắng người, nói: "Thiếp thấy nương tử nhà ta là người thần chứ chẳng phải là người phàm trần!" Độ Tân hỏi:"Sao nàng biết?" Cố thị đáp:"Vì thiếp thấy vẻ mặt của nương tử có thần khí! Lúc nương tử cài hai đóa hoa lên mái tóc cho thiếp, thiếp được đứng gần nương tử, thấy vẻ đẹp của nương tử toát ra cả làn da. Người phàm trần làm sao có được vẻ đẹp ấy?" Độ Tân chẳng nói chi, chỉ mỉm cười. Cố thị lại nói:"Thiếp có cách thử xem nương tử có phải là người thần hay không?" Độ Tân hỏi:"Cách nào?" Cố thị đáp: "Thiếp nói với lang quân song xin lang quân chớ thuật lại với nương tử!" Độ Tân gật đầu. Cố thị nói:"Nương tử có tài thêu bít tất thực khéo. Thiếp thích những đôi bít tất ấy lắm, song chẳng dám xin. Để khuya nay, thiếp thắp hương trong phòng riêng, cầu khấn nương tử cho thiếp một đôi. Nếu nương tử là người thần thì thế nào nương tử cũng biết việc thiếp thắp hương cầu khấn, xin bít tất!" Độ Tân lại cười, rồi về phòng nữ lang mà nghỉ.
Sáng sau, khi ngủ dậy, đột nhiên Độ Tân thấy nữ lang gọi tì nữ vào phòng, đưa cho một đôi bít tất mới thêu, nói:"Hãy đem tới phòng Cố thị, nói rằng của ta cho!" Tì nữ vừa cầm đôi bít tất ra khỏi phòng thì Độ Tân phá lên cười. Nữ lang hỏi:"Tại sao lại cười?" Độ Tân bèn thuật chuyện Cố thị nói với mình. Nghe xong, nữ lang cũng cười, nói:"Con nhỏ này thông minh lắm!" Từ đó, nữ lang lại càng thương mến Cố thị hơn. Tuy được nữ lang thương mến song lúc nào Cố thị cũng giữ mực cung kính. Sáng nào, Cố thị cũng tự tay nấu nước thơm bưng lên phòng để nữ lang gội đầu.
Năm sau, Cố thị sanh đôi, được hai trai. Nữ lang chăm sóc hai hài nhi, coi như hai đứa con do chính mình sanh ra vậy. Ba vợ chồng chung sống trong cảnh tương đắc, đầm ấm, dưới cùng một mái nhà.
Năm mươi năm sau.
Vào dịp sinh nhật của Độ Tân, nữ lang ra lệnh cho gia nhân sửa soạn lễ thượng thọ tám mươi cho Độ Tân. Trong buổi lễ, ai cũng phải lấy làm lạ rằng nữ lang trông vẫn còn trẻ như một thiếu nữ chưa xuất giá.
Cuối năm ấy, Độ Tân lâm trọng bệnh. Nữ lang cho gọi thợ mộc tới nhà đóng một cỗ quan tài rộng gấp đôi cỗ quan tài bình thường.
Mấy hôm sau, Độ Tân mất. Nữ lang chẳng hề than khóc một tiếng, chỉ ra lệnh cho gia nhân làm lễ tẩm liệm. Rồi nữ lang cho gọi đông đủ con cháu và gia nhân lên phòng quàn làm lễ phát tang. Lễ xong, nữ lang ra lệnh cho tất cả mọi người dời khỏi phòng. Rồi nữ lang bước vào linh cữu, nằm xuống cạnh Độ Tân, nhắm mắt mà mất.
Lát sau, con cháu lén lên phòng quàn coi. Thấy nữ lang nằm cạnh Độ Tân mà mất, con cháu cùng kinh ngạc. Thế rồi toàn gia bèn làm lễ phát tang chung cho cả Độ Tân và nữ lang, mai táng hai người trong cùng một linh cữu.
Tới nay, dân chúng trong vùng vẫn gọi ngôi mộ chung của Độ Tân và nữ lang là Đại Tài Trủng, nghĩa là ngôi mộ có quan tài lớn.
THẦN THÁNH CŨNG ƯA NỊNH
(truyện HẠ TUYẾT)
Hợp hướng nhân gian hưởng đại danh
Viêm thiên phong tuyết nhất thời tình,
Ngự tai hãn hoạn thành linh sảng
Kiêu thái hà đa thế tục tình
Ở Trung quốc thời xưa, dân chúng thường có thói xưng hô siểm nịnh. Vào đời vua Khang Hy triều Thanh, dân chúng quen gọi các cử nhân bằng Gia, các tiến sĩ bằng Lão Gia, các triều quan bằng Đại Lão Gia.
Giữa mùa hè năm đinh hợi (1707), niên hiệu Khang Hy thứ 46, ngày 3 tháng 6, phủ Quy Đức, tỉnh Hà Nam bị bão tuyết. Tuyết xuống dày hơn hai gang tay, lúa má ngoài đồng đều bị hủy hoại.
Đến ngày mồng 6 tháng 7, phủ Tô Châu tỉnh Giang Tô cũng bị bão tuyết. Dân chúng kinh hãi lắm, rủ nhau tới đền thờ Đại Vương cầu khấn. Họ khấn Đại Vương bằng hai tiếng Lão Gia. Bỗng họ thấy Đại Vương nhập vào một người, nói:"Thời nay, người đời quen khấn thần thánh bằng ba tiếng Đại Lão Gia, thay vì bằng hai tiếng Lão Gia như trước. Chắc các ngươi cho rằng ta chỉ là một tiểu thần nên chẳng thèm khấn thêm tiếng Đại ở đằng trước chứ gì?" Dân chúng kinh hãi quá, vội khấn Đại Vương bằng ba tiếng Đại Lão Gia. Bão tuyết liền ngưng.
Câu truyện trên đây hàm ý thần thánh cũng ưa nịnh như người đời. Nếu đúng thế thì đáng tiếc cho dân chúng phủ Quy Đức đã chẳng biết dùng ba tiếng Đại Lão Gia mà khấn thần thánh để cứu cho mùa màng khỏi bị thiệt hại.
Hợp hướng nhân gian hưởng đại danh
Viêm thiên phong tuyết nhất thời tình,
Ngự tai hãn hoạn thành linh sảng
Kiêu thái hà đa thế tục tình
Ở Trung quốc thời xưa, dân chúng thường có thói xưng hô siểm nịnh. Vào đời vua Khang Hy triều Thanh, dân chúng quen gọi các cử nhân bằng Gia, các tiến sĩ bằng Lão Gia, các triều quan bằng Đại Lão Gia.
Giữa mùa hè năm đinh hợi (1707), niên hiệu Khang Hy thứ 46, ngày 3 tháng 6, phủ Quy Đức, tỉnh Hà Nam bị bão tuyết. Tuyết xuống dày hơn hai gang tay, lúa má ngoài đồng đều bị hủy hoại.
Đến ngày mồng 6 tháng 7, phủ Tô Châu tỉnh Giang Tô cũng bị bão tuyết. Dân chúng kinh hãi lắm, rủ nhau tới đền thờ Đại Vương cầu khấn. Họ khấn Đại Vương bằng hai tiếng Lão Gia. Bỗng họ thấy Đại Vương nhập vào một người, nói:"Thời nay, người đời quen khấn thần thánh bằng ba tiếng Đại Lão Gia, thay vì bằng hai tiếng Lão Gia như trước. Chắc các ngươi cho rằng ta chỉ là một tiểu thần nên chẳng thèm khấn thêm tiếng Đại ở đằng trước chứ gì?" Dân chúng kinh hãi quá, vội khấn Đại Vương bằng ba tiếng Đại Lão Gia. Bão tuyết liền ngưng.
Câu truyện trên đây hàm ý thần thánh cũng ưa nịnh như người đời. Nếu đúng thế thì đáng tiếc cho dân chúng phủ Quy Đức đã chẳng biết dùng ba tiếng Đại Lão Gia mà khấn thần thánh để cứu cho mùa màng khỏi bị thiệt hại.
NGƯỜI ĂN ĐÁ SỎI
(truyện NGẬT THẠCH)
Tằng văn học đạo nhập Lao san
Chỉ vị tư thân khứ phục hoàn
Tịch cốc hữu phương duy hám thạch
Thạch trung hư vị diệc đa ban
Ở Trung Quốc, trong dân gian có truyền thuyết: Ai đã tu luyện thành tiên thì chỉ ăn đá luộc chứ không ăn cơm nữa.
Huyện Tân Thành, tỉnh Sơn Đông, có thanh niên họ Vương, tên Gia Lộc, mồ côi cha, sống với mẹ.
Năm mười lăm tuổi, Gia Lộc bỏ nhà, theo đạo sĩ lên núi Lao tu tiên. Tu được một năm, không ăn cơm nữa, chỉ ăn quả thông và đá sỏi. Trên mình, lông lá mọc tua tủa, dài hơn một tấc, trông tựa lông sư tử.
Năm sau, nghe tin mẹ đau yếu, Gia Lộc liền xin đạo sĩ cho phép về nhà kiếm việc làm để lấy tiền thuốc thang cho mẹ. Đạo sĩ ưng thuận.
Về nhà, Gia Lộc tới nhà thái công họ Vương, tên Khâm Văn xin việc. Thái công ưng thuận, giao cho việc chăn nuôi đàn ngựa. Lúc đó, Gia Lộc lại ăn cơm. Lông lá trên mình bắt đầu rụng đi. Tuy nhiên, thỉnh thoảng Gia Lộc vẫn thèm ăn đá sỏi. Khi thèm, Gia Lộc nhặt đá đem ra nắng soi, nói rõ vị mặn, ngọt, đắng, cay của từng viên. Rồi chọn một mớ, đem luộc để ăn. Có kẻ hỏi: "Đá sỏi lạt lẽo, có mùi vị chi đâu mà thèm quá thế?" Gia Lộc đáp: "Có chứ sao không? Đá có mùi vị của đá cũng như khoai có mùi vị của khoai vậy!"
Gia Lộc phụng dưỡng mẹ được hơn một năm thì mẹ mất. An táng mẹ xong, Gia Lộc xin thái công cho nghỉ việc để trở lại núi Lao tu tiên. Tính đến nay, Gia Lộc đã trở lại núi Lao được mười tám năm.
Tằng văn học đạo nhập Lao san
Chỉ vị tư thân khứ phục hoàn
Tịch cốc hữu phương duy hám thạch
Thạch trung hư vị diệc đa ban
Ở Trung Quốc, trong dân gian có truyền thuyết: Ai đã tu luyện thành tiên thì chỉ ăn đá luộc chứ không ăn cơm nữa.
Huyện Tân Thành, tỉnh Sơn Đông, có thanh niên họ Vương, tên Gia Lộc, mồ côi cha, sống với mẹ.
Năm mười lăm tuổi, Gia Lộc bỏ nhà, theo đạo sĩ lên núi Lao tu tiên. Tu được một năm, không ăn cơm nữa, chỉ ăn quả thông và đá sỏi. Trên mình, lông lá mọc tua tủa, dài hơn một tấc, trông tựa lông sư tử.
Năm sau, nghe tin mẹ đau yếu, Gia Lộc liền xin đạo sĩ cho phép về nhà kiếm việc làm để lấy tiền thuốc thang cho mẹ. Đạo sĩ ưng thuận.
Về nhà, Gia Lộc tới nhà thái công họ Vương, tên Khâm Văn xin việc. Thái công ưng thuận, giao cho việc chăn nuôi đàn ngựa. Lúc đó, Gia Lộc lại ăn cơm. Lông lá trên mình bắt đầu rụng đi. Tuy nhiên, thỉnh thoảng Gia Lộc vẫn thèm ăn đá sỏi. Khi thèm, Gia Lộc nhặt đá đem ra nắng soi, nói rõ vị mặn, ngọt, đắng, cay của từng viên. Rồi chọn một mớ, đem luộc để ăn. Có kẻ hỏi: "Đá sỏi lạt lẽo, có mùi vị chi đâu mà thèm quá thế?" Gia Lộc đáp: "Có chứ sao không? Đá có mùi vị của đá cũng như khoai có mùi vị của khoai vậy!"
Gia Lộc phụng dưỡng mẹ được hơn một năm thì mẹ mất. An táng mẹ xong, Gia Lộc xin thái công cho nghỉ việc để trở lại núi Lao tu tiên. Tính đến nay, Gia Lộc đã trở lại núi Lao được mười tám năm.
Nguồn: http://vantuyen.net/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét