Thơ Đường (唐 詩)
hay còn gọi Đường thi là toàn bộ tác phẩm thuộc loại hình thơ ca được sáng tác
trong suốt thời nhà Đường - Trung Quốc, từ đầu thế kỷ VII đến đầu thế kỷ X (618
- 907). Thơ Đường được lưu giữ trong cuốn Toàn Đường thi với khoảng gần
49 ngàn bài của hàng ngàn nhà thơ thuộc nhiều thế hệ nối tiếp nhau. “Đi theo
tiến trình của lịch sử với sự phát triển và suy tàn của các triều
đại, thơ Đường cũng trải qua nhiều thời kỳ với nhiều thăng trầm....
Thơ Đường tỏa sáng rực rỡ một thời, là biểu tượng huy hoàng của
ngôn ngữ nhân loại đạt đến độ thăng hoa. Đã hơn một ngàn năm, nhiều
bài thơ vẫn mãi còn vang vọng, trở thành mẫu mực trong thơ ca với
những hình ảnh, ngôn ngữ giàu sức biểu cảm, trau chuốt, mỹ lệ… Đặc
biệt là tính chất súc tích, cô đọng “ý tại ngôn ngoại”, có những
bài thơ đã đạt tới sự “thần diệu tài hoa” trong sáng tạo ngôn ngữ”.
Trong số đó, thơ viết về mùa xuân chiếm số lượng lớn và đặc biệt lay
động lòng người.
桃 花 溪
隱 隱 飛 橋 隔 野 煙
石 磯 西 畔 問 漁 船
桃 花 盡 日 隨 流 水
洞 在 清 溪 何 處 邊
石 磯 西 畔 問 漁 船
桃 花 盡 日 隨 流 水
洞 在 清 溪 何 處 邊
ĐÀO HOA KHÊ
(Trương Húc)
Ẩn ẩn phi kiều cách dã yên,
Thạch ky tây bạn vấn ngư thuyền:
Đào hoa tận nhật tùy lưu thuỷ,
Động tại thanh khê hà xứ biên?
Thạch ky tây bạn vấn ngư thuyền:
Đào hoa tận nhật tùy lưu thuỷ,
Động tại thanh khê hà xứ biên?
SUỐI HOA ĐÀO
Thấp thoáng cầu treo cách
khói đồng,
Bờ tây ghềnh đá hỏi ngư ông:
Hoa đào trôi mãi theo dòng
nước,
Động ở bên nào mé suối
trong?
Ngay câu thơ đầu, người đọc
đã gặp phải các danh từ: “cầu treo”, “khói đồng” trong trạng thái hư ảo được diễn
đạt bằng tính từ “thấp thoáng” nên bất chợt hòa mình vào không gian xuân
thiên nhiên cổ kính, đường thi và thơ mộng. Nàng xuân e ấp, kiều diễm mang
đến cho nhân gian sự ngỡ ngàng trong hân hoan, vui sướng... Mùa xuân về
từ bao giờ mà ban phát cho nhân gian bao điều kỳ diệu! Những cánh hoa
đào màu hồng phấn khoan thai trôi theo dòng nước lững lờ giữa bốn bề
cây lá xanh tươi, núi non hùng vỹ tạo nên bức tranh mùa xuân thanh tân,
quý phái lạ thường.
春 曉
春 眠 不 覺 曉
處 處 聞 啼 鳥
夜 來 風 雨 聲
花 落 知 多 少
處 處 聞 啼 鳥
夜 來 風 雨 聲
花 落 知 多 少
XUÂN HIỂU
(Mạnh
Hạo Nhiên)
Xuân miên bất giác hiểu,
Xứ xứ văn đề điểu.
Dạ lai phong vũ thanh,
Hoa lạc tri đa thiểu?
Xứ xứ văn đề điểu.
Dạ lai phong vũ thanh,
Hoa lạc tri đa thiểu?
BUỔI SỚM MÙA XUÂN
Giấc xuân, sáng chẳng biết,
Khắp nơi chim ríu rít.
Đêm nghe tiếng gió mưa,
Hoa rụng nhiều hay ít?
Khắp nơi chim ríu rít.
Đêm nghe tiếng gió mưa,
Hoa rụng nhiều hay ít?
Con người và tạo hóa như
ngủ vùi trong giấc xuân êm đềm và được đánh thức bằng chính âm thanh
của mùa xuân. Mạnh Hạo Nhiên cho chúng ta thấy sự diệu kỳ của bút
pháp nghệ thuật lấy động tả tĩnh. Mùa xuân được cảm nhận bằng sự
kết hợp hài hòa giữa thính giác, xúc giác và linh giác. Tiếng chim
là dấu hiệu của một ngày mới, là yếu tố động duy nhất trong bài
thơ nhưng chỉ có nó mới có khả năng diễn đạt một cách tinh tế nhất
cái tĩnh của không gian buổi sáng mùa xuân bình lặng và yên ả đến mức
có thể nghe được cả tiếng những cánh hoa rụng xuống mặt đất đẫm hơi
sương. Tiếng chim làm rung động tâm hồn thi nhân đang bình lặng như mặt
hồ thu trong, là mạch nguồn cảm hứng để tác giả sáng tạo nên Xuân
hiểu. Mùa xuân trong thơ Mạnh Hạo Nhiên có màu sắc, có đường nét, có
hình ảnh và mùi hương nhưng điều đặc biệt là chủ yếu được cảm nhận
bằng linh giác, bằng tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ. Cả bài thơ không
hề có một thán từ (từ biểu hiện tình cảm) nhưng người đọc vẫn cảm
nhận được tình yêu thiên nhiên, yêu con người và yêu cái đẹp đến mức
một cơn gió, một trận mưa xuân cũng làm cho tác giả nhói đau cho số
phận của cái đẹp trong thiên nhiên và trong cuộc đời con người.
江 畔 獨 步 尋 花
黃 四 娘 家 花 滿 蹊
千 朵 萬 朵 壓 枝 低
留 連 戲 蝶 時 時 舞
自 在 嬌 鶯 恰 恰 啼
千 朵 萬 朵 壓 枝 低
留 連 戲 蝶 時 時 舞
自 在 嬌 鶯 恰 恰 啼
GIANG BẠN ĐỘC BỘ TẦM HOA
(Đỗ
Phủ)
Hoàng Tứ nương gia hoa mãn khê,
Thiên đóa vạn đóa áp chi đê.
Lưu liên hí điệp thời thời vũ,
Tự tại kiều oanh kháp kháp đề.
Thiên đóa vạn đóa áp chi đê.
Lưu liên hí điệp thời thời vũ,
Tự tại kiều oanh kháp kháp đề.
MỘT MÌNH DẠO CHƠI TÌM HOA
VEN SÔNG
Cạnh nhà cô Tứ hoa đầy lối,
Ngàn đóa muôn bông ép trữu
cành.
Lưu luyến quẩn quanh vờn lũ
bướm,
Ung dung thánh thót hót
hoàng anh.
(Bản dịch của N.K.P)
Mùa xuân trong thơ Đỗ Phủ
hoàn toàn mang tính ước lệ, tượng trưng vì theo kết luận của các
nhà nghiên cứu thì cô Hoàng Tứ hoàn toàn không có thật. “Ngàn đóa
muôn bông ép trữu cành” trong vườn cô Hoàng Tứ nhưng không biết nó là
hoa gì, màu gì… Điều này khiến cho Giang bạn độc bộ tầm hoa của
Đỗ Phủ càng trở nên đa nghĩa và thể hiện rõ ràng hơn đặc điểm “ý
tại ngôn ngoại” trong thơ Đường. Cái đẹp của mùa xuân trong thơ ông
không phải là cái đẹp cụ thể đã được quy định sẵn bằng màu sắc,
đường nét, hình ảnh, âm thanh… mà nhà thơ miêu tả. Đây là cái đẹp vô
cùng kỳ ảo hoàn toàn phụ thuộc vào mỹ cảm, khả năng tưởng tượng
và trình độ nghệ thuật của độ̣c giả nên mùa xuân càng mang tính gợi mở.
Thiên nhiên xuân được tác
giả tiếp cận từ xa đến gần, từ khái quát, đến cụ thể. Đỗ Phủ như một
hoạ sĩ tài hoa đang say đắm tạo nên một bức tranh xuân tràn trề nhựa sống. Hoa
trong bài thơ này không phải là những nụ hoa còn e ấp đợi gió xuân về mà tất
cả đã bung nở “mãn khai”, nở đầy lối đi, bông nọ đua chen với bông kia, khiến
cho cành hoa thêm trĩu nặng bên đàn bướm dập dờn bay. Ta không chỉ ngây
ngất vì phát hiện “thi trung hữu họa” mà còn thấy “thi trung hữu
nhạc”. Tác giả sử dụng dồn dập các từ láy: “lưu liên”, “tự tại”, “thời thời”,
“kháp kháp” nhằm mục đích vừa tạo âm, tăng tiết tấu vừa làm rõ ý cho thơ.
“Đỗ Phủ đã vận dụng rất tài tình việc điệp song thanh và tượng thanh. “Lưu
liên”, “tự tại” là hai từ song thanh như một chuỗi ngọc, âm điệu uyển chuyển,
“kháp kháp” là từ tượng thanh hình dung tiếng kêu của con chim kiều oanh, cho
người ta tưởng tượng thính giác của cảnh, “thời thời”, “kháp kháp” là điệp từ
cho hai câu trên, dưới đối nhau khiến ý của từ càng mạnh hơn, sinh động hơn,
càng biểu đạt được tình yêu hoa, yêu bướm của thi nhân, và biểu đạt ý vui mừng
bừng tỉnh khi nghe tiếng chim oanh kêu” 1.
春 思
燕 草 如 碧 絲
秦 桑 低 綠 枝
當 君 懷 歸 日
是 妾 斷 腸 時
春 風 不 相 識
何 事 入 羅 幃
秦 桑 低 綠 枝
當 君 懷 歸 日
是 妾 斷 腸 時
春 風 不 相 識
何 事 入 羅 幃
XUÂN TỨ
(Lý
Bạch)
Yên thảo như bích ty,
Tần tang đê lục chi;
Đương quân hoài quy nhật,
Thị thiếp đoạn trường thì.
Xuân phong bất tương thức,
Hà sự nhập la vi?
Tần tang đê lục chi;
Đương quân hoài quy nhật,
Thị thiếp đoạn trường thì.
Xuân phong bất tương thức,
Hà sự nhập la vi?
CẢM NGHĨ MÙA XUÂN
Cỏ Yên biêng biếc tơ xanh
Dâu Tần sắc lục buông cành sởn sơ
Lúc chàng mong nhớ ngày về
Là khi lòng thiếp não nề nát tan
Gió xuân sao quá sỗ sàng
Không quen mà nhập cánh màn phòng ta.
Dâu Tần sắc lục buông cành sởn sơ
Lúc chàng mong nhớ ngày về
Là khi lòng thiếp não nề nát tan
Gió xuân sao quá sỗ sàng
Không quen mà nhập cánh màn phòng ta.
(Bản dịch của Hoàng Nguyên Chương)
Mùa xuân mang đến cho đất
trời, cây cỏ sức sống diệu kỳ, mùa xuân có khả năng hồi sinh mãnh liệt.
Mùa xuân cũng thổi bùng khát khao đoàn viên, khát khao hạnh phúc của
con người. Với Xuân tứ, Lý Bạch đã tạo ra hai mùa xuân trong một
bài thơ. Mùa xuân của thiên nhiên, của đất trời đã về rạo rực trên
khắp nơi nơi, từ nước Tần cho đến nước Yên. Nó làm cho những người
yêu thương nhau nhưng phải sống xa nhau càng thêm khát khao, mong ngóng
mùa xuân của đời người. Xuân của đất trời đã về nhưng xuân của đời
ta thì còn xa thẳm nơi đâu, điều đó làm cho “chàng mong ngóng ngày
về” còn “lòng thiếp não nề nát tan”. Thiếp muốn quên đi sự hiện
diện của mùa xuân vì đôi ta cứ mãi biền biệt nơi xa nhưng mùa xuân cứ
hiện hữu, cứ tươi đẹp lạ thường. Đặc biệt là “Gió xuân sao quá sỗ
sàng/ Không quen mà nhập cánh màn phòng ta”.
閨 怨
閨 中 少 婦 不 知 愁
春 日 凝 妝 上 翠 樓
忽 見 陌 頭 楊 柳 色
悔 教 夫 婿 覓 封 侯
春 日 凝 妝 上 翠 樓
忽 見 陌 頭 楊 柳 色
悔 教 夫 婿 覓 封 侯
KHUÊ OÁN
(Vương Xương Linh)
Khuê trung thiếu phụ bất tri
sầu,
Xuân nhật ngưng trang thướng thuý lâu.
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
Xuân nhật ngưng trang thướng thuý lâu.
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
NỖI OAN CỦA NGƯỜI PHÒNG KHUÊ
Trẻ trung nàng biết chi sầu,
Ngày xuân trang điểm lên lầu
ngắm gương.
Nhác trông vẻ liễu bên đường,
“Phong hầu” nghĩ dại xui
chàng kiếm chi.
Đây là bài thơ có sự
tương giao kỳ lạ, sự hài hòa vi diệu giữa cảnh xuân và con người. Con
người trẻ trung, xinh đẹp, yêu đời, tràn đầy sức sống và niềm tin lại
sống trong mùa xuân tươi thắm, thanh tân. Bi kịch tinh thần của người
thiếu phụ cũng bắt nguồn từ sự hòa hợp, tương đồng ấy. Mùa xuân
tượng trưng cho tình yêu, hạnh phúc lứa đôi và tuổi trẻ, khi ngắm mùa
xuân, người thiếu phụ bất chợt nhận ra mình đã và đang phải sống
trong lẻ loi, cô quạnh với cảnh phòng khuê chiếc bóng. Sự vui vẻ, hồn nhiên
đã nhanh chóng tan biến như màn sương mờ ảo dưới ánh nắng mặt trời. Nàng
chợt nhận ra giá trị đích thực của cuộc sống là hạnh phúc sum vầy
bên người mình yêu mến, bao vinh hoa, bổng lộc chỉ là hư vô cớ sao
ta cứ phải phiêu bạt đi tìm mà bỏ quên giá trị đích thực của cuộc
sống. Với biện pháp miêu tả thiên nhiên mùa xuân kết hợp với phân tích
tâm lí nhân vật một cách tinh tế, Vương Xương Linh đã khéo léo dùng tâm trạng
của thiếu phụ để tố cáo chiến tranh gieo đau thương, chia lìa cho biết
bao gia đình yên ấm.
春 怨
打 起 黃 鶯 兒
莫 教 枝 上 啼
啼 時 驚 妾 夢
不 得 到 遼 西
莫 教 枝 上 啼
啼 時 驚 妾 夢
不 得 到 遼 西
XUÂN OÁN
(Kim
Sương Tự)
Đả khởi hoàng oanh nhi
Mạc giao chi thượng đề
Đề thì kinh thiếp mộng,
Bất đắc đáo Liêu Tê (Tây)
Mạc giao chi thượng đề
Đề thì kinh thiếp mộng,
Bất đắc đáo Liêu Tê (Tây)
OÁN XUÂN
Đánh đuổi cái oanh vàng đi,
Đừng cho nó hót tỉ ti trên cành.
Chim kêu giấc mộng tan tành,
Chẳng cho thiếp tới được thành Liêu Tây.
Đừng cho nó hót tỉ ti trên cành.
Chim kêu giấc mộng tan tành,
Chẳng cho thiếp tới được thành Liêu Tây.
Mùa xuân đã trở thành sự
thôi thúc khủng khiếp trong lòng người cô phụ. Xuân đến làm lòng người
đau nhói khi cứ phải biền biệt xa nhau, càng đi xa về hai phía sự cô
đơn, buồn đau càng nhiều. Xuân làm nỗi khát khao tình yêu đôi lứa, hơi
ấm sum họp gia đình bùng lên thiêu đốt hồn người, khiến cho người thiếu
phụ muốn từ bỏ hoàn toàn trạng thái tâm thức, tìm đến tiềm thức để
được gặp chàng ở thành Liêu Tây. Tiếng oanh vàng của thực tại cứ
vang lên tỉ tê làm “giấc mộng tan tành” khiến nỗi oán hận mùa xuân
bùng lên đến mức người thiếu phụ phải thốt lên: “Đánh đuổi cái oanh vàng
đi/ Đừng cho nó hót tỉ ti trên cành”. Mùa xuân mang đến cho con người sức mạnh
để đấu tranh chống lại sự cô đơn, xa cách, bền bỉ đợi ngày đoàn viên, hạnh
phúc.
Trong khuôn khổ bài viết
này, chúng tôi mới chỉ khảo sát mùa xuân ở một số bài thơ Đường tiêu
biểu trong số hàng ngàn bài viết về mùa xuân. Tuy vậy, chúng ta cũng
nhận thấy mặc dù mùa xuân được thể hiện bằng bút pháp chấm phá trên
nguyên tắc “vẽ mây nảy trăng, vẽ rồng điểm mắt” với những công thức
ước lệ, tượng trưng nhưng mùa xuân trong thơ Đường vô cùng tươi đẹp,
thanh tân và tràn ngập sức sống với màu sắc, thanh âm, đường nét và
cả hương xuân hết sức phong phú, lung linh, kỳ thú. Mùa xuân trong thơ
Đường là biểu tượng của tình yêu, tuổi trẻ, khát khao hạnh phúc, sum
vầy nên nó cũng có khả năng thôi thúc con người tìm về với những
giá trị đích thực của cuộc sống một cách mạnh mẽ. Mùa xuân còn
trở thành động lực thôi thúc trong lòng những người biết nhận ra giá
trị đích thực của cuộc sống và khát khao tình yêu đôi lứa, hạnh
phúc gia đình nhưng chờ đợi đến héo hon trong cô quạnh mà vẫn chưa có
được. Mùa xuân trong thơ Đường mang đến cho chúng ta cảm giác thư thái,
sâu lắng, bình yên nhưng cũng nhiều day dứt về nhân sinh. Nó giúp ta
biết nâng niu, trân trọng hạnh phúc và những điều tốt đẹp mà mình
đang có. Nó cũng nhắc ta hãy làm tất cả những gì có thể cho những
người mình yêu thương được sống trong yêu thương, bình an, hạnh phúc…
1. Lê Thị Hải, Giới
thiệu về bài thơ “Giang bạn độc bộ tầm hoa” của Đỗ Phủ, Webside: Thơ
Đường đất Việt.
Nguyễn Thanh Tuấn - Trần Thị
Phương Thúy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét