Sức sống của lục bát
Nếu chọn một loài cây Việt tiêu biểu nhất, đó
hẳn phải là cây tre. Nếu chọn một loài hoa Việt tiêu biểu nhất, đó hẳn là hoa
sen. Nếu chọn một trang phục Việt tiêu biểu nhất, đó hẳn là chiếc áo dài. Nếu
chọn một nhạc khí Việt tiêu biểu nhất, đó hẳn là cây đàn bầu… Cũng như thế, nếu
chọn trong nền thơ ca phong phú của ta một thể thơ làm đại diện dự cuộc giao
lưu thơ toàn cầu, hẳn đó phải là Lục bát.
Người Âu Tây tự hào về thể Sonnê, người Trung
quốc tự hào về thất ngôn Đường luật, người Nhật Bản tự hào về thơ Haiku v.v…
thì người Việt Nam có quyền tự hào về thể Lục bát. Lục bát là niềm
kiêu hãnh của thơ Việt ! Nếu tâm hồn một dân tộc thường gửi trọn vào thơ ca của
dân tộc mình, thì lục bát là thể thơ mà phần hồn của dân Việt đã nương náu ở đó
nhiều nhất, sâu đằm nhất. Gắn với tiếng Việt, gắn với điệu tâm hồn Việt, thơ lục
bát đã thuộc về bản sắc dân tộc này. Có thể nói, người Việt sống trong bầu thi
quyển lục bát. Dân ta nói vần nói vè chủ yếu bằng lục bát. Dân ta đối đáp giao
duyên chủ yếu bằng lục bát. Dân ta than thân trách phận chủ yếu bằng lục bát.
Dân ta hát ru các thế hệ của giống nòi chủ yếu bằng lục bát… Lục bát là phương
tiện phổ dụng để người Việt giải toả tâm sự, kí thác tâm trạng, thăng hoa tâm hồn
… Lục bát thực sự là một điệu hồn Việt.
Lục bát có tự bao giờ? Người ta đã cố gắng
tìm câu trả lời. Nhưng mọi trả lời đến nay vẫn chỉ là giả thiết. Bởi cách sinh
tồn của lục bát xa xưa là sống trong trí nhớ, sống qua đường truyền miệng của
bao thế hệ người Việt, chứ ít khi nằm im lìm trên trang giấy. Nên tìm kiếm văn
bản đầu tiên về lục bát, kể cả dạng manh nha, dạng tiền thân của thể loại, để
xác định niên đại của nó là việc dường như bất khả thi. Tuy nhiên, băn khoăn về
cội nguồn bao giờ cũng là nỗi niềm khôn cầm của nhân gian. Cội nguồn của lục
bát cũng thế. Nó vẫn luôn là một bí mật đầy hấp dẫn, luôn mời gọi những cuộc
khám phá đầy phiêu lưu của các nhà thi học, đặc biệt là “lục bát học”. Chắc chắn
sẽ còn nhiều cuộc lội ngược về ngọn nguồn của tiếng Việt, lội ngược về cái vùng
được xem là tiền sử của văn học và thơ ca Việt để mà khảo sát, tìm kiếm, lục lọi,
để truy tìm bằng được khởi thuỷ của thể loại này. Mà cuộc tìm kiếm như thế, lắm
khi, cũng oái oăm như cái điều mà một câu lục bát đã nói đến: Đem vàng đi
đổ sông Ngô/ Đêm nằm tơ tưởng đi mò sông Tương…
Chỉ có hai câu, mười bốn tiếng, mà một cặp lục
bát tiềm tàng những khả năng biểu hiện vô tận. Nó luôn dư sức trần thuật tự sự: Đêm
qua tát nước đầu đình/ Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen (Ca dao) Này
chồng này mẹ này cha/ Này là em ruột này là em dâu (Nguyễn Du) Đang
trưa ăn mày vào chùa/ Sư ra cho một lá bùa rồi đi/ Lá bùa chẳng biết làm gì/
Ăn mày nhét túi lại đi ăn mày (Đồng Đức Bốn). Nó vô cùng dồi dào năng lực
trữ tình: Ai ơi bưng bát cơm đầy/ Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần (Ca
dao) Nghe đi rời rạc trong hồn/ Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi (Huy
Cận), Ngày qua ngày lại qua ngày/ Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng (Nguyễn
Bính) Mái gianh ơi hỡi mái gianh/ Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương (Trần
Đăng Khoa)… Nó dôi dả năng lực triết luận: Trăm năm trong cõi người ta/
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau… Có tài mà cậy chi tài/ Chữ tài liền với
chữ tai một vần(Nguyễn Du) Xin chào nhau giữa con đường/ Mùa xuân phía
trước miên trường phía sau… Hỏi tên rằng biển xanh dâu/ Hỏi quê rằng mộng ban
đầu đã xa (Bùi Giáng), Mẹ ru cái lẽ ở đời/ Sữa nuôi phần xác, hát
nuôi phần hồn… Có gì lạ quá đi thôi/ Khi gần thì mất, Xa xôi lại còn (Nguyễn
Duy)… Nó đáp ứng mọi yêu cầu trào tiếu: Anh đi công tác Plây/ ku dài dằng
dặc biết ngày nào ra… Ối giời ơi nõn nà chưa/ Bột trinh bạch đấy giời
vừa rây xong… Chỉ có hai câu, 14 tiếng, với áp lực lớn về tiết tấu chẵn, mà nhịp
lục bát vẫn biến hoá vô chừng. Nó có thể dàn đều nhịp: Mình đi có nhớ những
nhà/ Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son. Nó có thể kéo dài những trùng điệp
tạo nên một chuỗi đồng nhịp liên khúc: Còn tình yêu của đôi ta/ Đến đây
là đến đây là là thôi… Nó có thể đăng đối nhịp: Người lên ngựa kẻ
chia bào… Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường… Nó có thể đảo nhịp: Cái gì
như thể nhớ mong/ Nhớ nàng, không, quyết là không nhớ nàng… Thác,
bao nhiêu thác cũng qua/ Thênh thênh là chiếc thuyền ta trên đời (Tố Hữu)…
Nó có thể tràn nhịp: Lòng ta lại ếch nhái hoang cả lòng… Nó có thể vắt
hàng: Trời cao xanh ngắt. ô kìa/hai con hạc trắng bay về Bồng lai (Thế
Lữ)… Chỉ có 14 tiếng, mà Lục bát vẫn có cách dùng chữ với những chùm đôi, chùm
ba, thậm chí, chùm bốn uyển chuyển lạ lùng: Nắng thoai thoải nắng/ chiều
lưng lửng chiều… Thật thà lúc lắc đong đưa thật thà.. Ở đây có những người
con/ Mang theo cái nõn nòn non lên ngàn… Ễnh ềnh ệch hõn hòn hon thùi lùi … Ngon
lành gió lửng mưa lơ/ vô tư như thực như mơ như gì… Ngấp nga ngấp ngoáng
kêu ma/ hóa ra ta gặp bóng ta trên tường…
Chỉ có 14 tiếng với đắp đổi bằng trắc quá chặt luôn có nguy cơ đơn điệu, thế mà trên thực tế, lục bát vẫn có những cách dàn xếp bằng trắc thú vị và hấp dẫn: Vó câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh (Nguyễn Du), Ngã ba ngã bảy về đâu/ Cái ngáng làm cớ cho nhau chuyện trò (Hữu Thỉnh)… Con xin ngắn lại đường gần/ Một lần rồi mẹ lại dần dần đi (Trúc Thông)… Đến đây gió cũng đi vòng/ ngoằn theo khoeo núi ngoèo trong khuỷu rừng… Thường, mỗi cặp lục bát là một khúc thức chỉ tải vừa một giọng, ví như giọng ngợi ca: Nhớ ông cụ mắt sáng ngời/ Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường… Nhưng, cũng trong phạm vi hẹp của một khúc thức thế thôi, mà lục bát vẫn có thể chuyển làn qua hai giọng mau lẹ, tạo hiệu ứng trào phúng kì thú: Bác Thành có chiếu quần nâu/ Bác rất giản dị bạ đâu cũng ngồi… (ca dao mới )… Khả năng hình thức của một cặp lục bát là vô tận, làm sao có thể khai thác hết.
Chỉ có 14 tiếng với đắp đổi bằng trắc quá chặt luôn có nguy cơ đơn điệu, thế mà trên thực tế, lục bát vẫn có những cách dàn xếp bằng trắc thú vị và hấp dẫn: Vó câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh (Nguyễn Du), Ngã ba ngã bảy về đâu/ Cái ngáng làm cớ cho nhau chuyện trò (Hữu Thỉnh)… Con xin ngắn lại đường gần/ Một lần rồi mẹ lại dần dần đi (Trúc Thông)… Đến đây gió cũng đi vòng/ ngoằn theo khoeo núi ngoèo trong khuỷu rừng… Thường, mỗi cặp lục bát là một khúc thức chỉ tải vừa một giọng, ví như giọng ngợi ca: Nhớ ông cụ mắt sáng ngời/ Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường… Nhưng, cũng trong phạm vi hẹp của một khúc thức thế thôi, mà lục bát vẫn có thể chuyển làn qua hai giọng mau lẹ, tạo hiệu ứng trào phúng kì thú: Bác Thành có chiếu quần nâu/ Bác rất giản dị bạ đâu cũng ngồi… (ca dao mới )… Khả năng hình thức của một cặp lục bát là vô tận, làm sao có thể khai thác hết.
Từ xưa đến nay, lục bát vẫn song hành hai
phong cách: lục bát dân gian và lục bát cổ điển. Không thể nói đằng nào hơn đằng
nào kém. Cả hai song hành chuyển hoá và bổ sung cho nhau. Đó là hai vẻ đẹp lục
bát. Về tổ chức lời thơ, lục bát lục bát cổ điển theo điệu ngâm (coi trọng tính
uyên súc của ý, cú pháp của văn viết, chất liệu ngôn từ nghiêng hẳn về thực từ),
còn lục bát dân gian theo điệu nói (coi trọng việc biểu hiện xúc cảm trực tiếp,
cú pháp của văn nói, ngôn từ gồm cả thực từ và rộng rãi hư từ, thậm chí, rất ưa
khẩu ngữ). Chỉ cần đặt cặp lục bát này: Buồn trông cửa bẻ chiều hôm/ Thuyền
ai thấp thoáng cánh buồm xa xa bên cạnh cặp: Anh đi đó anh về
đâu/ Cánh buồm nâu cánh buồm nâu cánh buồm đủ thấy vẻ đẹp riêng của mỗi
phong cách lục bát. Nếu thành tựu nổi bật nhất của lục bát dân gian là ca dao -
những áng thơ tuyệt tác của các tác giả vô danh, thì lục bát cổ điển được viết
bởi những cây bút bác học mà kết tinh chói ngời là Truyện Kiều của
Nguyễn Du. Những giai đoạn sau, trong từng bước phát triển nào của thơ, người
ta cũng luôn thấy song hành hai phong cách này. Ví như đầu thời Thơ mới, là cặp
Tản Đà và Á Nam Trần Tuấn Khải, một đằng nghiêng về cổ điển, một đằng nghiêng về
dân gian. Giữa thời Thơ mới là cặp Nguyễn Bính - nghiêng về dân gian và Huy Cận
- nghiêng về cổ điển… Đến thời sau này thì hai phong cách ấy thường hoà vào
nhau, mà chất dân gian thường trội hơn, đồng hoá cả chất cổ điển. Có thể thấy
nhiều cây bút sáng giá: Tố Hữu, Bùi Giáng, Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, Lê Đình
Cánh, Phạm Công Trứ… Cứ thế, qua các thời, lục bát luôn như một dòng
sông, mà các dòng chảy của nó cứ song hành và hoà quyện để làm giàu cho nhau,
làm nên cái diện mạo bền bỉ mà luôn mới mẻ của lục bát.
Trong thời buổi hội nhập, toàn cầu hoá hiện
nay, dường như đang có hai thái độ trái ngược đối với lục bát. Lắm kẻ thờ ơ,
hoài nghi khả năng của lục bát. Họ thành kiến rằng lục bát là thể thơ quá gò bó
về vần luật, về thanh luật, về tiết tấu, nó đơn điệu, nó bằng phẳng. Cho nên, họ
vội cho rằng lục bát chỉ biểu hiện được những cảm xúc quen thuộc của người Việt
truyền thống. Còn tâm sự của người hiện đại thì lục bát khó chuyển tải. Họ lầm
tưởng rằng lục bát sẽ khó thể hiện được những suy tư chân thực và phức tạp, khó
thể hiện các bước biến hoá khôn lường của tư duy thơ hiện đại. Thậm chí, có người
còn coi lục bát như một rào cản đối với lối tư duy thơ tân kì. Và, họ từ chối lục
bát để một mực chạy theo những thể khác. Thực ra, mọi vẻ đẹp và bíến thái mơ hồ
nhất của thiên nhiên, mọi biến động phức tạp khôn lường của đời sống, mọi tầng
sống sâu xa huyền diệu nhất của tinh thần cá thể, mọi khuynh hướng tư duy nghệ
thuật truyền thống hay tân kì đều không xa lạ với lục bát. Vấn đề là người viết
có đủ tài để làm chủ được lục bát hay không. Vì thế mà có xu hướng ngược lại,
nhiều người đã nhận thấy ở lục bát những ưu thế mà không có thể thơ nào có được.
Họ đã tìm về lục bát. Họ ý thức rõ, từ xưa đến nay, lục bát luôn là thể thơ đầy
thách thức. Sự gò bó có thể là một khó khăn bất khả vượt đối với ai đó, nhưng
nó là một thách thức đầy hấp dẫn đối với những tài năng thơ thiết tha với tiếng
Việt, thiết tha với điệu tâm hồn Việt. Họ nâng niu, chăm chút. Họ làm mới, họ
cách tân để gửi gắm tấc lòng của con người hôm nay vào thể thơ hương hoả của
cha ông. Họ dùng lục bát như một phương tiện tâm tình gần gũi, để nói những gì
sâu sắc nhất của tâm tư. Đọc thơ lục bát thế kỉ XX, có thể thấy rõ rệt, càng về
sau, hơi thở lục bát càng hiện đại hơn so với hồi đầu. Điều đó là bằng chứng khẳng
định lục bát vẫn là thể thơ gắn bó máu thịt với tâm hồn Việt. Vì thế, lục bát sẽ
trường tồn. Lục bát mãi mãi là một tài sản thiêng liêng của nền văn hoá Việt.
Chừng nào thế giới còn chưa thấu tỏ vẻ đẹp của
lục bát, chừng ấy họ chưa thực sự hiểu vẻ đẹp của thơ Việt.
Chừng nào ta còn chưa làm cho thế giới tiếp
nhận được vẻ đẹp của thơ lục bát, chừng ấy nền thơ Việt còn chưa làm tròn sứ mạng
của nó.
Chừng nào tre còn xanh, chừng nào sen còn
ngát, chừng nào tà áo dài còn tha thướt, chừng nào tiếng đàn bầu còn ngân nga,
chừng ấy những điệu lục bát vẫn tiếp tục sinh sôi trên xứ sở này.
Văn Chỉ
Nguồn: Tổ quốc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét