23/10/2014
1/ Nếu không thức dậy đúng lúc loa phóng thanh báo rằng, tàu sắp rời ga Diêu Trì thì ngày hôm đó tôi phải vất vả quay lại Qui Nhơn ở ga dừng kế tiếp. Không hiểu sao tôi thức dậy được để hấp tấp lấy hành lý, xách giày chạy ra cửa toa, vừa nhảy xuống khỏi tàu chỉ kịp nghe ông bảo vệ la toáng:
1/ Nếu không thức dậy đúng lúc loa phóng thanh báo rằng, tàu sắp rời ga Diêu Trì thì ngày hôm đó tôi phải vất vả quay lại Qui Nhơn ở ga dừng kế tiếp. Không hiểu sao tôi thức dậy được để hấp tấp lấy hành lý, xách giày chạy ra cửa toa, vừa nhảy xuống khỏi tàu chỉ kịp nghe ông bảo vệ la toáng:
- Có ngủ thì nhờ người chung quanh đánh thức
chứ!!
Cũng vừa lúc chuyến tàu SE 7 hú còi chuyển
bánh. . .
Vào thành phố Quy Nhơn lúc 7g hơn, còn quá sớm
để đến nhà Lê Văn Ngăn ở đường Hai Bà Trưng, tôi dạo một vòng quanh mấy con đường
mong tìm lại vài hình ảnh Quy Nhơn ngày trước, nhưng hoàn toàn xa lạ, chỉ thấy
nhà cao cửa lớn, khắp nơi đều bê-tông hóa, những con đường không còn cát biển nằm
rải rác đó đây, thỉnh thoảng vướng vào chân tạo cho người đi cảm giác vui vui
như được nghe muối biển thì thầm dưới gót.
Tôi đến nhà Ngăn lúc 8g30, chị Phước vợ Ngăn
đang dọn dẹp bên trong, chị thấy tôi liền vội ra mở cổng và câu chuyện của chị
bắt đầu. . .Chị kể rất nhiều chuyện, mới có, cũ có, chuyện bệnh tật của Ngăn,
chuyện bạn bè. . .Chi kể một thôi, tôi nghe một hồi, rồi chị mới đi lên lầu báo
cho chồng biết là tôi ở Huế mới vào. Lát sau tôi nghe Ngăn vọng xuống gọi tôi
lên, giọng rất bình thường, không có vẻ gì là người đau yếu cả. Ô. Lê Văn Ngăn
mới mổ não ngồi đó, trên giường, nhìn tôi cười, mắt vẫn vui vui như mọi khi
nói:
- À! Cậu mới vào! Đến đây ngồi.
Tôi đến ngồi bên cạnh, lạc quan:
- Ông hơi trắng, mập ra, chỉ có cái đầu là
khác, giống mấy ông thầy chùa.
- Ừ! phải vậy thôi!
Ngăn đứng dậy bảo tôi đến ngồi ở bàn pha trà
uống, dáng đứng và đi vẫn nhẹ nhàng, nếu không có tấm băng phía sao ót thì tôi
không nghĩ ông Lê Văn Ngăn mới qua cơn mổ não nguy kịch. Điều tuyệt vời là trí
nhớ của Ngăn không suy suyễn, thậm chí số ĐT của Lê Gành, Ngăn đọc cho tôi từng
số một không chút ngập ngừng. Ông Ngăn vẫn đinh ninh là hồi đó bị té nên máu bầm
ứ ở não mới ra cớ sự và hy vọng là không di căn di kiết gì hết. Tôi đồng ý với
mong muốn của Ngăn và không nói gì về bệnh trạng nữa.
2/ Quy Nhơn mới 9g30 sáng mà tìm quán
bia mồi nhắm đàng hoàng thì khó thật. Lê Gành chở Kim Quy (bạn thời sinh viên của
Gành) và tôi (ngồi giữa) Quy nói:
- Ông ốm vậy, công an chỉ thấy tôi thôi !
Không thấy ông đâu mà lo. Gành lái xe qua phố nầy phố nọ, vẫn không thấy
có quán bia nào mở cửa. Cuối cùng đến đường Trần Cao Vân thấy có quán cà phê
bán cả bia bên lề đường, thế là chúng tôi ghé vào, Gành gọi bia và mấy bịch đậu
phụng.
Năm 1973 Lê Gành được phóng thích khỏi Lao Thừa
Phủ - Huế, thì ba mẹ Kim Quy cho Gành về ở căn nhà nằm phía sau đường Chi Lăng.
Nhà có sân vườn rộng, trước cổng vào tôi còn nhớ có ba chữ khắc nổi trên cột trụ
“Y Tá Diệm“. Thời ấy tôi biết gia đình Kim Quy vì trong nhà ở đường Trung Bộ
(Tô Hiến Thành) có Thanh Hương, em ruột Kim Quy, người đẹp vang bóng một thời,
mỗi lần nàng đi học vào sớm mai thì rất nhiều trai trẻ áo trắng quần xanh nhìn
theo nàng xao xuyến.
Than ôi! Hồng nhan bạc mệnh! Sau nầy nàng là
phát thanh viên của đài truyền hình Huế trước 1975, và cuộc đời nàng truân
chuyên từ đó.
Tôi hỏi Kim Quy, Thanh Hương bây giờ đâu rồi?
Quy đưa hai tay lên trời! Nói:
- Thanh Hương vào Sài Gòn, rồi về Kiên Giang
vượt biên để lại hai đứa con cho mình và từ đó . . .mất tích. . .
Sáng hôm ấy chúng tôi nói về Lê Văn Ngăn, “Cuộc
đời! Thơ ca! Và những kỷ niệm với bạn hữu.“ Gành nói:
- Kỷ niệm về ông Ngăn thì nhiều và bắt đầu kể
:
- “ . . .Vào một đêm nào đó!. . .năm 1970, Lê
Gành đang ở tại cư xá Minh Mạng Nam Giao thì Ngăn xuất hiện, mặt mày có vẻ hớt
hãi. . .”trốn lính”, Gành mở tấm cửa thông lên gác, nói Ngăn mau vội leo lên
trên ấy, đừng ho hen, đụng đậy gì hết. Nửa đêm, chung quanh chó sủa náo loạn,
ngoài kia quân cảnh, cảnh sát đang đi lùng sục. . .Quá nửa đêm thì không nghe
chó sủa nữa, Gành biết đã yên liền mở cửa thông gọi Ngăn xuống. Có lẽ
“Người đi trốn” tôi hôm đó chưa có chén cơm nào trong bụng nên hỏi Gành có gì
ăn không ? Gành kéo mấy hộc tủ, may mà còn sót vài khúc bánh mì khô cứng, bỏ
vào ca đổ nước cho đường, xăm dầm thành món xúp mì đưa cho nhà thơ. . .
Trưa tôi về nhà Ngăn kể lại kỷ niệm ấy, Ngăn
không quên, buột miệng:
- Bữa đó mình ăn ngon thiệt.
3/ Chiều hôm ấy, bác xe thồ chị Phước gọi
chở tôi về ga Diêu Trì, khi tàu chuyển bánh khoảng 15 phút thì Ngăn gọi:
- Cậu về ga có kịp tàu không?
- Mình đang ngồi trên tàu, tàu chạy rồi, mong
ngày gặp lại.
- Ừ !
“Mong ngày gặp lại! Có không? Tôi hỏi lòng
mình.”
Lê Văn Ngăn! Thi Sĩ! Sống chân thật với lòng
mình, với bạn hữu và cuộc đời! Cho dù có những thời đoạn Ngăn nhầm lẫn chọn
pháp môn dấn thân sai khác với lòng, nhưng con người vốn dĩ có ai không sai lạc.
“Vào Một Thời Im Bóng“ tập thơ đầu tay của Lê
Văn Ngăn xuất hiện ở Đà Lạt năm 1972, bây giờ như là một định mệnh ứng vào số
phận của ông. Hình ảnh ông Lê Văn Ngăn lặng lẽ với bệnh tật như chiếc bóng trên
mái lầu, phía trước có một khoảng trời xanh và vài ba cây kiểng nói thầm với
ông về ý nghĩa màu xanh hy vọng. Tôi nhớ có một câu thơ Ngăn viết rằng: “ Đừng
đi về phí khổ đau nhiều hơn hạnh phúc. “ Những năm tháng sau nầy, bạn
bè đều biết, “ Ông đang đi dần về phía khổ đau.” Có lần khi Ngăn và tôi ngồi ở
Sài Gòn, qua điện thoại nói chuyện với Lê Huỳnh Lâm ở Huế, tôi nhớ mãi câu nói
của Ngăn mà xót xa, “Mình đang sống dần và đang chết dần. “ Đó là tiếng kêu
thương của một người đang đi dần vào “Cuối Mùa Im Bóng“ đang đi về phía khổ đau
không còn hạnh phúc.
4/ Mùa thu, năm 1974, Huế là nơi tôi
sinh trưởng học hành, ở tù và bị bắt lính. Những tháng năm cuối mùa chinh chiến,
không một ngày đi đứng yên ổn, cuối cùng tôi phải “nương bóng từ bi”, Phạm Tấn
Hầu là người mở đường đưa tôi vượt qua cơn bão từ hai phía để vào Nha Trang. Hẳn
bạn bè Trung – Nam thời ấy, đậm đà nhất là giới văn nhân, thi sĩ chẳng ai mà
không kính yêu anh Nguyễn Huy Hoàng, Mạnh thường Quân của Nha Trang một thời,
anh đã mở “ Trung Tâm Bụi đời “ nằm giữa phố Độc Lập để đón những cơn gió lạc
đường, lạc sá, đây cũng là nơi Phạm Tấn Hầu từng cọng tác với anh Huy Hoàng nhiều
năm để dung dưỡng bao nhiêu kẻ đứng bên lề khắp nơi sa cơ lỡ vận.
Hầu đưa tôi vào Nha Trang cư ngụ nơi ấy, sống
cùng những đứa em bụi đời tâm tánh dễ thương.
5/ Đà Lạt! Một sáng tạo kỳ diệu của
thiên nhiên, con người khi lên xứ sương mù, cảm giác như bao nhiêu bụi trần đều
rũ sạch, mọi lo âu, phiền não hình như thiên nhiên hóa giải hết. Hầu dẫn tôi dạo
quanh Hồ Xuân Hương, những hàng thông xanh thẳm vút cao ôm lấy mặt hồ, sương
chiều huyền hoặc như mơ như mộng, và lạ lùng, không khí chiến tranh hình như
không hiện diện ở miền đất hoa ấy, con người Đà Lạt hiền hòa, chân thiện. Hầu dừng
lại ở cái quán “ Hướng Đạo Sinh “ nằm dưới chân đồi Cù, cô chủ quán tười cười
chào đón khách, Hầu gọi:
- Cho chai bia Larue!
- Còn thầy uống nước cam ạ?
- Không! Cho thầy chai bia!
Tôi còn nhớ, cô chủ đôi mắt tròn xoe, tự hỏi
nhưng cũng phải phục vụ ông khách không giống ai.
Trước khi Hầu đưa tôi lên tạm trú dài hạn ở
nhà ông chú của Hầu bên Hồ Than Thở, thì trước đó Hầu đã dẫn tôi vào căn nhà gỗ
ở khu Chi Lăng để gặp một người. Đây là nơi phòng trọ của Lê Văn Ngăn nằm cạnh
ao rau muống. Đó là lần đầu tiên tôi gặp Ngăn, Hầu có đôi lời gởi gắm:
- Nếu sau nầy có gì thì chia xẻ . . .
Ngăn chân thành, vì quý mến bạn nên không đắn
đo, liền trả lời:
Sau nầy khi Hầu về sài Gòn không quay lại nữa,
đến hồi lúng túng mọi bề, tôi đã tìm đến căn phòng “Im bóng” bên ao rau muống hỏi
xin Ngăn gạo và tiền. Ngăn không ngừng ngại, đáp ứng ngay.
6/ “Thơ, trước hết là phải cảm xúc thật,
tự nhiên”, đó là quan niệm của Lê Văn Ngăn trong sáng tác khi chúng tôi trao đổi
về những bài thơ “Tân Hình Thức” xuất hiện gần đây trên Tạp Chí Sông Hương, phải
tự nhiên như hoa nở, chim hót, cái đẹp nằm ở trong ấy. Suốt một đời làm thơ, Lê
Văn Ngăn đã để lại rất nhiều tác phẩm tự nhiên như đời sống, những gì đi qua
trong đời ông để lại cảm xúc, và những lúc nhớ về ông đã bật ra tiếng lời để
thành những bài thơ xúc động lòng người. Ví dù như bài:
THƠ TẶNG CHỊ BA Ở PHAN RANG
Phan Rang năm ấy, có lẽ chị Ba không còn nhớ
nữa nhưng tôi, kẻ từng chịu ơn chị, tôi không thể nào quên quá khứ.
Năm ấy, tôi đến
từ phương xa
không giấy tờ,
không người quen, không nhà không cửa
và tương lai
tôi. . . .
Có thể tôi đã
rơi vào bước đường cùng
nếu không tình
cờ gặp chị
Dưới rặng me
già, bên chiếc xe những ổ bánh mì lặng im
Chị ngồi trông
khách đến
Và chiều hôm ấy
kẻ lỡ bước được chị mướn về nhà dạy kèm con
cái chị học hành.....
Bây giờ chị
còn sống không chị Ba
bao nhiêu năm,
dù chưa trở lại mái nhà xưa
tôi vẫn nhìn
thấy chị qua những người lao động bình thường.
Ai ở Đà lạt thời ấy mà không biết đến cà phê
Tùng cũng như cà phê chị Sáu nằm ở bến xe, tôi đoan chắc trong sổ tay của chị
còn rất nhiều người uống cà phê ghi sổ đến nay chưa trả, trong số ấy chắc chắn
có bạn bè của Ngăn và tôi. Trong bài thơ “Lâu Năm, Nhưng Chưa Phải Là Vĩnh Viễn”
, Ngăn đã cởi lòng với chị Sáu :
Lâu năm, chưa
trở về Đà Lạt
đi qua mấy chặn đường
mưa
ghé vào quán cà phê
chị Sáu.. . .
Tôi biết chị thường thức dậy lúc người chưa
xuất hiện trên đường
Người an ủi chị lúc cô đơn
là ngôi sao mai trên nền trời sẫm
ngọn lửa bập bùng trong bếp
than hồng
tiếng rơi đều trong tách
cà phê đợi chờ khách đến . . .
Lâu năm, chưa trở về Đà Lạt
Lâu năm, nhưng chưa phải
là vĩnh viễn
khoản nợ nần một thủa cơ
hàn
tôi vẫn hẹn lòng có ngày
hoàn trả
ngoài chút tiền trong cuốn
sổ ghi
tôi còn nợ chị vài ánh mắt dịu dàng vài buổi
nắng vàng bên khung cửa sổ
Mấy mươi năm trước lúc cuộc
đời chưa yên ổn
những điều ngỡ như bình
thường ấy đã giúp tôi sống sót đến bây giờ.
Có phải không chị
Sáu
lâu năm, nhưng chẳng
phải là vĩnh viễn.
Nếu cuộc đời đôi khi có sự
mầu nhiệm đến từ trời cao, tôi ước sao sự mầu nhiệm ấy được đến cùng căn bệnh của
Lê Văn Ngăn, để anh em bạn bè ở Huế cũng như khắp nơi còn có dịp ngồi uống với
ông thêm một ly cà phê nữa hoặc một ly bia trước khi hoàng hôn tắt nắng.
Sài Gòn 1/11/2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét