Thứ Năm, 15 tháng 12, 2016

“Xuân” trong thơ Hàn Mặc Tử

“Xuân” trong thơ Hàn Mặc Tử 
Nhà thơ đa tình lãng mạn Hàn Mặc Tử đã cô độc rời thế gian hơn 70 năm nhưng vẫn còn đọng lai nhiều xao xuyến trong lòng người yêu thơ qua vài thế hệ. Biết bao người đọc, người viết nhận định đánh giá về thơ và những mối tình đắng cay da diết của nhà thơ tài hoa bạc mệnh nầy. 
Hầu hết đồng cảm để lệ lòng tươm chảy theo thơ và cuộc đời bi thương của thiên tài xuất chúng Hàn Mặc Tử. Mỗi người ca ngợi mỗi kiểu về thiên chất của thi sĩ họ Hàn. Đa số xúc động khi đọc lời kêu rên thống thiết của ông vọng đến tai ai đó, gửi vào trời đất nào, bung ra vũ trụ bao la hoặc ngậm ngùi tự sự với số phận tật nguyền: 
Trời hỡi  làm sao khi khát đói, -  Gió trăng  có sẵn làm sao ăn?…/ Trời hỡi bao giờ tôi chết đi?.../ Ôi trời ôi! Là Phan Thiết! Phan Thiết!...”.
Người ta không thích lắm những ai bi lụy đến yếm thế kể cả khu vực văn thơ. Đặc biệt sao ai cũng xót thương không hối tiếc, phê bình không khinh khi những tiếng kêu than rát ruột tới trời của Hàn Mặc Tử! Dòng văn của một “linh nhân” vắn số do “định mệnh tàn khốc” đã tạo ra những tiếng thơ lòng réo rắt làm rẫy rụa người đời. Người ta có thiên vị đôi chút với Hàn Mặc Tử? - Nếu có, không trái lẽ công bằng mà vì nhà thơ đau thật mới rên, quằn quại thể xác lẫn tâm hồn mới gào thét. Người yêu thơ không phải bác sĩ quen nhờn với nỗi đau và cái chết, vô cảm vô tâm trước lời than tiếng thở của bệnh nhân Nguyễn Trọng Trí. Mà nghe sao diễm lệ, thanh thoát đến lạ lùng…
Ngoài Trăng, Hàn Mặc Tử còn ôm ấp một mối tình nồng ấm với Xuân. Cuộc sống ngắn ngủi không cho phép thi nhân ở mãi bên hai “nàng”. Nhưng chắc ông đã mang hương hồn ấy vào cõi mộng vĩnh hằng tiếp nối sứ mệnh yêu thương.
Ta đọc lại những đoạn thơ xuân chứa chan màu “huyết lệ” dưới ngọn “bút thần” mà sinh thời cố thi nhân Hàn Mặc Tử đã “ói thơ theo đường sữa”:
Có thể lần yêu đầu, Hàn Mặc Tử ngất ngây trước những quyến rũ vô cùng khi nhìn người đẹp trong xuân:
Đôi lòng cũng ấm như xuân ấm, - Chỉ có áo xuân trắng trẻo thay!... Xuân ấm đầu tiên giữa cõi đời, - Mùi thơm ngây dại sóng con ngươi…( Xuân đầu tiên).
Hàn Mặc Tử xao xuyến bồi hồi khi nhìn nụ cười luôn nở trên môi các nàng sơn nữ vùng quê khi mùa xuân về:
Xuân trẻ, xuân non, xuân lịch sự, - Tôi đều nhận thấy trên môi em…” (Gái quê).
Những cô gái non tơ ngồi giặt lụa dưới sông xuân làm say lòng các chàng trai phiêu lãng:
Xuân em hơ hớ như đào non, - Chàng đã thương thương muốn kết hôn. Từ ấy xuân em càng chín ửng, - Ngày ngày giặt lụa bến sông con…” (Mất duyên).
Xuân đi, cô em mõi mòn trông đợi, từ hạ sang thu, chờ đông tàn xuân trở lại để thỏa dạ nhớ nhung. Nhưng mãi không thấy lương duyên, nàng cảm giác muộn màng cho số phận bèo bọt xênh xang:
Những lượt thu về em nhớ  xuân, - Trên đôi má nõn lại phai dần… Nhưng xuân em chín từ năm ngoái, - Há phải vì em áo nối quàng. (Xuân muộn).
Anh mãi đi, em như nhạn lạc hồn nơi làng bản dù khi xuân hiện diện:
“ Hoa đào vắng mùi hương, - Lòng em xuân hờ hững…” (Nhớ nhung).
Hàn Mặc Tử có khi tâm sự bằng cuộc “thương vay” cho tình duyên bẽ bàng ngang trái của các nàng. Tâm sự ấy có thể cùng là nỗi chua cay của ông? Và bây giờ Hàn Mặc Tử trở nên “tai nạn” cho cuộc chia cách. Ông thẩn thơ trông chờ người yêu biền biệt xa mù dưới ánh trăng thề hay giữa lòng xuân chín rộ. Hàn Mặc Tử than:
Trong khi nhìn mây nước, - Lòng xuân cũng não nề”. (Tình quê). 
Vì Hàn Mặc Tử có những mối tình quê thắm thiết và mỗi khi hoa xuân rợp bóng ông ngùi ngùi nhớ lại:
Từ gió xuân đi gió lại về, - Anh thường gởi gắm mối tình quê… Độ ấy xuân về em lớn lên, - Thấy anh em đã biết làm duyên… (Âm thầm).
Mùa xuân là quà tặng tâm hồn thi nhân. Hàn Mặc Tử nghe ẩn khuất trong khói mơ tan, trong nắng hồng ửng rạng như đốt chín tình xuân, tiễn biệt cô gái về bên chồng mà nghe đau. Và rồi Hàn Mặc Tử nhớ cố hương, ở đó có những thôn nữ gánh thóc trong xuân:
Sột soạt gió trêu tà áo biếc, - Trên giàn thiên lý bóng xuân sang… Ngày mai trong đám xuân xanh ấy, - Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi… Khách xa gặp lúc mùa xuân chín, - Lòng trí bâng khuâng chợt nhớ làng… (Mùa xuân chín).
Có lúc Hàn muốn bay bỗng giữa lòng xuân để quên đi thân phận nhọc nhằn:
Xuân đây rồi lan tràn như bóng nắng, - Ta nên hay cho khỏi vướng sầu u…” (Lời chim phụ họa).
Hàn Mặc Tử xem xuân rất thiêng liêng mầu nhiệm, nó đẹp lung linh dưới niềm tin những ngôi sao sáng ngời trong vũ trụ bao la:
Bằng tràng hạt bằng sương mai chiếu rạng, - Một đêm xuân là rất đổi anh linh?” (Ave Maria).
Hàn Mặc Tử tiên đoán, khi nhân gian chiêm ngưỡng nàng xuân lộng lẫy trở về thì linh hồn ông cũng chờn vờn đón đợi nơi thế giới “vô thủy vô chung”, một cuộc hẹn hò, một cuộc đeo đuổi như ngày nào ông lãng mạn đi tìm bóng dáng tiên nga:
“May không chết lạnh trước lầu mĩ nhân, - Ta đi tìm mộng tầm xuân…” (Lang thang).
Hàn Mặc Tử làm thơ bằng hứng khởi đa chiều: cảm xúc, cảm giác, xúc giác cả ảo giác… Hồn bay lung và tim dạt dào cảnh mộng “hợp cẩn giao bôi”, ngất ngư trong biển đời, lướt mướt cùng hoa lệ  xuân thưa:
Rồi muôn xuân đã như chiều thổn thức, - Đều run lên như thể tấm hồn mơ…” (Đàn ngọc).
Nhìn xác cô gái thơm trinh, Hàn Mặc Tử lãng mạn tới mức yêu cả cái xác tinh khôi ấy, ông nghe chừng hồn phách lạc loài của cô gái “nhập” thân, một hiện tượng rất ư nguy hiểm và tồi tệ với người thường! Nhưng đối với nhà thơ đa tình lãng mạn là thuộc tính nên xem đó là nỗi niềm xót thương giữa người còn lại trên cõi đời và kẻ vĩnh viễn ra đi, có chăng chỉ là sự hóa giải tình yêu cho đôi kiếp. Cái khí xuân và tuổi xuân của nàng chết ta nghe trong thơ Hàn một hạnh phúc rất ghê rợn, bẽ bàng, trái lẽ:
Xác cô thơm quá, thơm như ngọc, - Cả một mùa xuân đã hiện hình… Bao nhiêu mơ ước trong tim ấy, - Như chực xuân về thố lộ ra…” (Cô gái đồng trinh).
Nỗi lòng trắc ẩn với nhân thế và tư thân bàng bạc trong kịch bản “Duyên kỳ ngộ”. Hàn Mặc Tử làm nên những câu thơ chết giãy lòng người, ngây ngất vì xuân:
Xuân vô cùng đến ngàn năm ân phước… Ôi chao! Mê toàn thân như khoái cảm, - Như đêm xuân uống phải rượu huỳnh tương… Anh van em cho anh quì san sát, - Cho mùi xuân ngân ngấn tâm hồn anh… Mùa xuân em sẽ rất nhiều hoa bướm, - Bởi thơ anh tô thắm đẹp trăm chiều…”.
Trong “Quần tiên hội”, Hàn Mặc Tử bỏ lửng cuộc tình thơ, chưa hoàn tất “sứ mạng” giao duyên giữa trời đất, tiên nương cùng loài người thế tục nhưng vẫn có những câu thơ xuân rất đỗi ngọt ngào âm hưởng:
Liên hồ đây bốn mùa xuân cả bốn, - Ngát hương đưa trong gió sớm chơi vơi… Để em nước da cô thắm dậy, - Và đôi môi biểu lộ hết xuân tình…”.
 Tiết xuân làm vơi bớt nỗi đau thân thế và tâm hồn những mảnh đời cô liêu bất hạnh. Ở tận cùng đáy vực, người ta vẫn thấy xuân mơn mởn dễ yêu. Những vết hồng mủ máu tanh tóe hôi nồng có lẽ cũng giảm đi cường độ đau tê khi xuân về để thi sĩ xấu số nghe mình lành lặn mà yêu, mà tha thiết diễm kiều, mà “khạc hồn ra cửa miệng” mang theo những hương hoa tươi sắc tạc vòng vương miện tặng xuân thương:
Mây trời không phủ đồi cao nữa, - Vì cả trời xuân tắm nắng tươi. - Lá xuân sột soạt trong làn nắng,- Ta ngỡ,  em ơi vạt áo hường. Thứ áo ngày xuân em mới mặc,- Lòng ta rộn rã nỗi yêu thương” (Nắng tươi).
Hàn mặc Tử xem xuân rất nhiệm mầu: Cơn đau giảm tải, nỗi buồn vơi tan…Trong mọi tình cảnh, khi có nàng xuân hiện diện thì cái xấu không lành đều trở nên say đắm:
Buồn đau say ngắm áo xuân ai…” (Buồn ở đâu).
Và còn nhiều tiếng xuân của Hàn Mặc Tử ăn sâu vào hơi thở, dòng sông, dòng suối… mơn man động đậy không tháng ngày… 
Ai cũng có thể muốn khóc khi đứng trước mộ phần Hàn Mặc Tử ở Ghềnh Ráng – Tiên Sa.  Đó cũng đậm chất lạ lùng giữa hương hồn Hàn Mặc Tử với nhân gian.
Thơ Hàn Mặc Tử không tan biến vào khói mây, nó vương vướng với trần ai những tưởng vọng. Cuộc đời cô liêu, kiêu bạc, ngắn ngủn của ông làm thành dòng văn siêu nhiên thanh thoát…
Ở cõi “mộng mị phân thân”, biết đâu Hàn Mặc Tử đã hóa kiếp thành “linh vật thiên năng tuyệt bích” và là “thánh thi” cho tình yêu mộng mị, liêu trai, trữ tình…?
Văn học thời hoàng kim những năm 30 còn đọng lại bóng dáng ngập ngừng mà sôi nổi của làng Thơ Mới. Một số nhà thơ nặng lòng ái quốc không có điều kiện xả thân, đau đáu nỗi niềm, nghe mất đi cả hồn thiêng sông núi. Họ viết ra những câu thơ như xát muối vào hồn đoàn quân xâm lược và bọn bản địa vong quốc. Một số “nổi loạn” cách nầy cách  khác. Hàn Mặc Tử cộm lên “chức sắc” Thơ Mới, cổ vũ trường phái “Điên-Loạn”. Trong cõi sống thiên địa nhân hòa, nhà thơ cùi hủi góp cùng non nước những tơ lòng bất tận phá bỏ rào cản, tập quán thơ văn cố hữu nghìn đời của cha ông thời phong kiến bị trị xa xưa (thơ cũ phải “khuôn vàng thước ngọc”, mài vẽ sáo khúc, tự tình khuôn hậu…).
Cho nên dù chỉ thể hiện cái buồn đau tê tái, cái đoạn trường dâu bể, cái chia ly sầu muộn, cái duyên phận bẽ bàng, cái tả tơi hồn xác, cái “trời hỡi, trời ơi, trời à”… Hàn Mặc Tử và số nhà thơ điêu linh, điêu tàn, điêu đứng… ấy đã góp phần làm cho thơ văn nước nhà sáng hơn trong cái quạnh quẽ cô liêu, mịt mờ những đêm trường nô lệ….Và gây cho người yêu thơ cảm giác mát rượu lúc xuân về, không phải chỉ ta mà đồng cảm có nơi trên trái đất. (Có chỗ dịch thơ ông ra tiếng nước người). 
Hơn 70 năm, thơ Hàn Mặc Tử không cũ, không “bùi nhùi” trong đống “phế liệu” chữ nghĩa tang thương mà nó lóng lánh những sắc thể huyền thi. Vẫn còn nhiều đóa hoa thơm quanh năm suốt tháng đặt lên mộ phần thi sĩ tài danh nầy, giống nhân cách “nữ thần tình ái” bên trời nào!
Mùa Trăng hay mùa Xuân đều là mùa để Hàn Mặc Tử sáng lên ngòi viết và ngọn lửa lòng. Ông đã ôm trọn hồn thơ, hồn Mộng Cầm, hồn Mai Đình… vào lòng đá lạnh thâm sâu, mang cái “hài cốt ân tình” chuyển dịch từ “nơi an nghỉ cuối cùng nầy” sang nơi “an nghỉ cuối cùng khác”! Và có lẽ họ đã gặp lại nhau trong cõi vĩnh hằng?
Ở đó có còn cuộc “chuyển tiếp tình yêu”, tình xuân nào không? Nơi đó hồn thơ Hàn Mặc Tử còn đau ướt hay đã chết đi theo kiếp chết của mình?
Ta nghĩ, chỉ có cõi đời ô trược đau thương mới tạo ra, làm nên thi vị châu báu ban vào lòng Hàn Mặc Tử những tinh hoa để cảm thụ thơ, nơi “vô thủy vô chung”, nơi “hoang tưởng vô thường”… không thể còn những đoản tình thơ tuyệt tác để Hàn Mặc Tử gởi thông điệp trả về đời lập thành ơn nghĩa với gió, trăng, hơi thở điếng đau và mùa xuân?…
Tôi yêu thơ Hàn Mặc Tử từ những năm còn rất trẻ dưới lứa tuổi đôi mươi. Ngày ấy tôi thầm chia sẻ nỗi đau tận cùng trái tim nhân thế của ông, trái tim thanh xuân không đủ máu – không hồng vì bận bịu sớt chia vùng lỡ loét “ngoại biên” thân thể. - Nhưng chỉ trong mơ và thơ… thẩn. Vì khi tôi sinh ra ông đã vĩnh viễn rời xa thế giới nầy “về nước Chúa” hơn thập kỷ!
Tôi mơ được một lần đến viếng mộ Hàn Mặc Tử để nghe ở đó cái cô liêu đọng lại, cái tâm sáng dội lên từ cõi “tha ma” yên ắng, dật dờ những vần điệu uyển ảo và cái tiết xuân lai láng bồi hồi nơi những quả đồi trùng điệp gió réo mây trêu… Thực hiện ước mơ ấy đã là mơ mộng một thời…
Một ngày tháng 6 năm 2010, tôi rõ ràng được đến viếng mộ phần Hàn Mặc Tử. Thời gian nuôi nấng ước mơ ấy phải nửa thế kỷ làm người – gấp đôi cái tuổi Hàn Mặc Tử “hưởng dương”- !
Mộ mới Hàn Mặc Tử nằm ở Ghềnh Ráng – Tiên Sa, thuộc thành phố Quy Nhơn (Bình Định) miền duyên hải Trung phần Tổ quốc. Ở đó có con đường mang tên Hàn Mặc Tử nằm trên dốc Mộng Cầm tại đồi Thi Nhân.
Cảnh trí bao quanh mộ phần Hàn Mặc Tử rất đẹp, nên thơ. Có một tảng đá dựng ghi tên “cúng cơm” ông: “Trí” và câu thư pháp đầy triết lý nghĩa nhân nghìn đời: “Cuộc đời rất đẹp nếu chúng ta biết sống bằng một trái tim yêu thương”.
Tôi cảm giác nơi đó “bốn mùa xuân cả bốn” và nằng nặng lâng lâng khối tình Trăng, Xuân trong thơ ông. Phần mộ nầy là điểm cải táng sau cùng (tính đến thời điểm nầy, biết đâu ông sẽ về một “nơi an nghỉ cuối cùng” nào nữa!) của Hàn Mặc Tử.
Ngày đầu tiên “về với Chúa”, một cuộc vĩnh biệt đầy sơ sài: người ta chôn ông ở Qui Hòa – Qui Nhơn, hồn xác được lấy đi từ trại phong hủi nơi đó. Giờ phút tiễn đưa nhà thơ đến mộ cát, lần đầu, chỉ có vị Linh mục cùng vài người làm nhiệm vụ an táng. Không có Mộng Cầm, không có Mai Đình, không có người thân yêu nhất, chỉ có chiếc “Thập tự giá” làm bằng cây dựng lên, đỡ linh hồn nhà thơ tài hoa lạnh lẽo không ngã quị ở cõi tiếp sau?!
Thời ấy, người ta quá hờ hững, lơ là với thân phận một tài năng trăm năm của nền văn học nước nhà. Người ta xem bệnh tình Hàn Mặc Tử là loại nan y lây lan nhờm tởm như bây giờ nhiều người xa lánh căn bệnh thế kỷ bất trị!
Tôi bớt đi sự rúng động con tim so với hồi đầu tiếp xúc với thơ Hàn Mặc Tử. Dù quí ông, tôi không còn nhiều “năng lượng” để trân trọng hơn một linh hồn, một con người “lạnh” mang trái tim yêu thương hực lửa, ấm nồng và đắm say dằn vật lúc sống đã gởi trọn cho tình yêu đầy trớ trêu nghịch cảnh, mãi mãi nằm đó. Vì tiếc rằng tôi không đến sớm hơn, sớm vào cái tuổi hoa niên đẹp nhất đời người như ông thuở yêu tha thiết Mộng Cầm, Mai Đình…
Tôi nghe lòng mình cần gởi gắm chút biệt ly cho mây khói miền Trung – nơi hồn thơ và hồn thiêng Hàn Mặc Tử lưu danh qua vài câu thơ cảm tác:
Hàn Mặc Tử ơi!
Hồn tôi bỗng dưng bay bỗng
Nghe như có núi lửa phun trào
Và từng đĩa đá bay ngang…
Tôi róc rách giữa đại ngàn: Trăng - Xuân…yến nguyệt
Phiêu du như cõi mộng thuở nào
Hàn vững chảy phiêu diêu đồi cuối mộ
Để thơ tình lơ lửng kiếp nhân gian!...
Bài mang nhiều  chữ “xuân” nhất của Hàn Mặc Tử có lẽ là “Sầu xuân” (12 câu chứa đến 14 từ “xuân”). Hàn Mặc Tử nói lên bản chất của nhiều vấn đề liên lụy đến xuân:
Đêm xuân lạnh, bóng xuân tàn,
Hoa xuân mơn trớn can tràng thuyền quyên.
Trời xuân vắng vẻ hương nguyền,
Sông xuân lặng lẽ con thuyền xa xa.
Xuân đi đi khắp sơn hà,
Tuổi xuân chất mái tóc da đổi màu.
Ngày xuân như gió thoảng mau,
Tình xuân một khối ai sầu hơn ai?
Mưa xuân như nhắc chuyện đời,
Rượu xuân như gợi những lời nước non.
Thề xuân dù chẳng vuông tròn,
Khóa buồng xuân lại vẫn còn sầu xuân.
Cũng là một người yêu Trăng, yêu Xuân, tôi viết như thái độ xin nghiêng mình trước những mảnh tình xuân chứa chan huyền cảm của thi sĩ bệnh tật đau thương Hàn Mặc Tử…
Thành Nam
Theo http://gpcantho.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tiếng gọi đêm cuối năm

Tiếng gọi đêm cuối năm Đêm hai mươi sáu Tết, chị đứng trên ban công tầng bốn, lặng lẽ đưa đôi mắt u buồn nhìn xa xăm xuống đường phố. Hai ...