Bài viết sau đây được tổng hợp
từ nhiều người viết đã gửi về cho chúng tôi để thành một liên kết; về Thanh
Thúy một nữ danh ca nổi tiếng từ thập niên 1960 cho đến nay. Bài viết như đúc kết
cuộc đời và sự nghiệp của người nữ danh ca từng được mệnh danh là “Tiếng hát
khói sương” hay “Tiếng hát liêu trai” đó.
Thanh Thúy tên thật là Nguyễn
Thị Thanh Thúy, sinh 2/12/1943 tại cố đô Huế, trong một gia đình gồm 5 chị em.
Trong số các chị em chỉ có Thanh Châu còn theo đuổi nghiệp ca hát như người chị
ruột của mình (Thanh Châu bắt đầu tập sự đi hát từ các Giải Kim Khánh do nhật
báo Trắng Đen tổ chức và tại phòng trà International Quốc Tế của Ngọc Chánh và
Thanh Thúy, khi ra hải ngoại mới chính thức bước vào sự nghiệp ca hát).
Nói về Thanh Thúy, khi vào
tuổi trăng tròn đã xuất hiện đầu tiên tại phòng trà Đức Quỳnh (nằm bên cạnh rạp
Việt Long, vào cuối năm 1974 được xây dựng lại lấy tên Văn Hoa Sài Gòn, còn bây
giờ tên rạp là Thăng Long) vào cuối năm 1959, cùng Minh Hiếu lúc đó. Nhưng thật
sự Thanh Thúy đã yêu thích nghề ca hát từ năm 16 tuổi, đã đi hát nhiều nơi,
nhưng khi hát ở phòng trà Đức Quỳnh mới tỏa sáng, được mọi người biết đến qua
báo chí thời đó thường viết bài ca tụng.
Giọng ca Thanh Thúy trầm trầm,
mang nỗi buồn man mác, nghẹn ngào, nức nở cùng với dáng dấp mảnh mai, yểu điệu
thục nữ, mái tóc dài buông lơi trên vai gầy trong tà áo dài thuần túy của người
phụ nữ Việt, mặc dù nhiều nữ ca sĩ trong thời kỳ này khi đi hát cũng đều mặc áo
dài, nhưng với Thanh Thúy lại mang một sắc thái… liêu trai đặc biệt khó quên.
Ngoài hàng đêm hát tại phòng
trà Đức Quỳnh rồi Anh Vũ, trong thời gian này Thanh Thúy còn xuất hiện trước
công chúng trên các Đại Nhạc Hội, các chương trình phụ diễn Ca Nhạc Kịch của
các rạp chiếu bóng cùng với các ca sĩ như Bạch Yến, Kim Tước, Châu Hà, Hà
Thanh, Thúy Nga (vợ Hoàng Thi Thơ sau này), Minh Hiếu, Phương Dung… , đồng thời
tiếng hát còn vang vọng trên các làn sóng phát thanh, đĩa nhạc từ cuối thập
niên 50; qua những nhạc phẩm như Nửa Đêm Ngoài Phố, Kiếp Nghèo, Người Em Sầu Mộng,
Ngăn Cách, Tàu Đêm Năm Cũ, Giọt Mưa Thu, Tiếng Còi Trong Sương Đêm… nhưng Thanh
Thúy nổi tiếng qua những nhạc phẩm của nhạc sĩ Trúc Phương và Y Vân.
Thanh Thúy đã tạo dựng tiếng
hát truyền cảm đặc biệt của mình đi vào lòng khán thính giả khắp nơi, từ những
năm 1960 như ánh sao lấp lánh trong khung trời âm nhạc. Chỉ trong khoảng thời
gian ngắn, Thanh Thúy đã bước lên đài danh vọng của thế giới đèn màu để đạt được
ước mơ của mình và có điều kiện trang trải cho cuộc sống gia đình đang trong
hoàn cảnh khó khăn, thân mẫu đang lâm trọng bệnh. Nhưng niềm ước mong của người
con hiếu thảo không được toại nguyện trước định mệnh cay nghiệt. Tháng 6 năm
1960 khi thân mẫu qua đời, Thanh Thúy phải thay người quá cố để chăm sóc hai cô
em gái là Thanh Mỹ và Thanh Châu. Và hai người em vẫn nương theo thời gian gần
gũi với Thanh Thúy, qua bao năm sống từ trong nước cho đến khi ra hải ngoại chị
em vẫn cùng ở bên nhau.
Người ta nói có lẽ Thanh
Thúy mang tâm trạng đau buồn vì thương nhớ mẹ, mà tiếng hát càng u sầu, não
nùng, bi cảm, trong âm điệu mượt mà, ngọt ngào, du dương… khiến mọi người xúc động,
tái tê từ phong cách trình diễn cho đến lời ca trầm mặc, thiết tha tạo nên nét
độc đáo riêng biệt cho ngôi sao bồng bềnh giữa khói sương.
Năm 1962 Thanh Thúy được bầu
chọn là Hoa Hậu Nghệ Sĩ. Đồng thời trong ba năm liền (1972-1974) theo cuộc
trưng cầu ý kiến đọc giả của nhật báo Trắng Đen, Thanh Thúy được bình chọn là nữ
ca sĩ ăn khách nhất. Và còn nhận được rất nhiều mỹ từ do giới văn nghệ sĩ và
báo chí phong tặng như Tiếng Hát Liêu Trai, Tiếng Hát Khói Sương, Tiếng Hát Lúc
Không Giờ, Tiếng Sầu Ru Khuya, Tiếng Hát Lên Trời, Tiếng Hát Khói Sương Chiêu
Niệm v.v…
Rồi giữa thập niên 1960 có một
thời gian Thanh Thúy vắng bóng không đi hát, bởi trong thời gian này Thanh Thúy
đã lên xe hoa cùng Trung tá Ôn Văn Tài (thuộc binh chủng Không
Quân và sinh ra một cậu con trai), khiến người mộ điệu “Tiếng hát liêu trai”
đâm ra nhung nhớ.
Đã có một mái ấm gia đình hạnh
phúc, nhưng Thanh Thúy không thể bỏ nghiệp cầm ca quên đi sự lưu luyến của mọi
người, cho nên Thanh Thúy đã đi hát trở lại tại phòng trà khiêu vũ trường Queen
Bee bấy giờ đang do Khánh Ly khai thác. Rồi khi Khánh Ly ra lập phòng trà
riêng, Thanh Thúy cùng nhạc sĩ Ngọc Chánh chính thức đứng ra khai thác nơi đây
thêm một vài năm mới trở thành chủ nhân phòng trà khiêu vũ trường International
Quốc Tế.
Từ khi “tái xuất giang hồ”
Thanh Thúy hoạt động văn nghệ rất hăng say, làm chủ phòng trà, ra băng nhạc và
đóng phim (không nhiều, chỉ vài ba phim với hãng phim của Kim Cương).
Còn khi qua Mỹ vào cuối những
ngày tháng 4/1975 cho đến nay, Thanh Thúy đã được mời đi trình diễn gần như khắp
các tiểu bang bên Hoa Kỳ và cũng đã đặt chân đến nhiều quốc gia như Canada, Úc,
nhiều nước ở Âu Châu, xuất hiện trên nhiều nhãn hiệu băng nhạc Video, CD, đồng
thời còn điều hành một trung tâm sản xuất băng nhạc của riêng mình. Đối tượng
khán thính giả của Thanh Thúy phần đông là những người đứng tuổi, những người từng
mến mộ giọng ca liêu trai này từ khi còn ở trong nước, và trải qua bao nhiêu biến
đổi nhưng vẫn trung thành với tiếng hát đã gợi lại tâm hồn họ biết bao nhiêu kỷ
niệm.
Nguyễn Việt
Nguyễn Việt
Trong một bài viết của
Hoàng Bích Yên:
Trong kiếp cầm ca, tiếng hát
Thanh Thúy được nhiều cây bút tên tuổi xuất thủ với ngôn từ độc đáo, tuyệt vời
được dàn trải ra, bồng bềnh theo hình bóng qua bốn thập niên của hậu bán thế kỷ
20, tiếng hát đó đã gói trọn tình khúc vượt thời gian và không gian, đi vào ký ức,
đi vào chiều dài lịch sử trong làng ca nhạc Việt Nam.
Tiếng Hát Qua Ngọn Bút
Thanh Thúy qua những ca khúc
trữ tình, lãng mạn của nhiều nhạc sĩ tài danh được mô tả bằng tiếng hát lơ lửng
với khói sương, nhấp nhô cùng sóng nước, đam mê theo cung bậc, thì thầm với kẻ
tình si, du dương trong tĩnh lặng, vỗ về với yêu thương.
Nguyên Sa viết: “Thanh
Thúy là nữ ca sĩ được ngợi ca nhiều nhất trong văn, trong thơ. Thi sĩ Hoàng
Trúc Ly, nhà văn Mai Thảo, nhà thơ Viên Linh, nhà văn Tuấn Huy…. Bởi vì Thanh
Thúy chính là người yêu trong mộng của cả một thế hệ, trong đó có những nhà
văn, nhà thơ bén nhạy bắt được cảm xúc riêng tư mà diễn đạt cái khách quan mênh
mông trong cái chủ quan, riêng lẽ sống thực và chân thành…
Nguyên Sa lấy tựa đề “Từ Em
Tiếng Hát Lên Trời” trong bốn câu thơ lục bát rất tuyệt của Hoàng Trúc Ly tỏ
bày trong niềm giao cảm về Thanh Thúy:
“Từ em tiếng hát lên trời
Tay xao dòng tóc, tay mời âm
thanh.
Sợi buồn chẻ xuống lòng anh
Lắng nghe da thịt tan thành
hư vô”.
Khi xuất hiện dưới ánh đèn
màu, trên sân khấu, tiếng hát Thanh Thúy hòa nhập vào cung đàn, chan hòa với âm
thanh đã bay bổng, vươn cao trên đỉnh non cao.
Đầu thập niên 60, ngọn bút của
cây bút đầu đàn nhóm Sáng Tạo & Kịch Ảnh, Mai Thảo đã gọi Thanh Thúy là “Tiếng
Hát Lúc Không Giờ”. Và Mai Thảo, trong giới văn hữu gán cho danh xưng là ông
hoàng của vũ trường, như bị mê hoặc bởi âm điệu, như bị cuốn hút trong mơ hồ,
lãng đãng của cung bậc và bóng dáng, trong men rượu, trong ánh đèn mờ ảo, tay
kiếm lão luyện trong văn giới đã phóng với đường gươm: “Tôi vẫn thấy một con
chim nhạn bay trong giòng sông sương mù… chậm và khuya… công phu… kỳ lạ !”. Với
tiếng hát đó, Mai Thảo còn gọi thêm “Tiếng Hát Khói Sương” qua bài viết của Lâm
Tường Dũ, hình như thông dụng nhất. Sau nầy có ca khúc Tiếng Hát Khói Sương của
Đắc Đăng, Thanh Thúy đã hình thành CD mang tựa đề với ca khúc đó.
Ở hải ngoại, vào cuối thập
niên 90, tác phẩm “Chân Dung Những Tiếng Hát” của Hồ Trường An, bằng cái nhìn
cá nhân của nhà văn, không viết dưới dạng “order” đầy dẫy hình dung từ sáo ngữ.
Nhiều chân dung bị đẽo, gọt, nhận xét khắt khe qua ngọn bút; Nhưng Hồ Trường An
đã viết về Thanh Thúy “Tiếng Hát Khói Sương Chiêu Niệm” : “Cô là một nhà ảo thuật
âm thanh. Cô giỡn vọt âm thanh, bẻ vặn tiết điệu, bỏ đứt nền nếp chân truyền
trong lối hát. Chính ở cách phá thể, ở những quái chiêu táo bạo đó cô thành
công rực rỡ”.
Cuộc Đời & Nghệ Thuật
Họa sĩ Vũ Hối, qua nét bút độc
đáo như tranh vẽ với bốn câu thơ:
“Liêu trai tiếng hát khói
sương
Nghẹn ngào nhung nhớ giòng
Hương quê mình
Nghiên sầu từng nét lung
linh
Giọng vàng xứ Huế ấm tình
quê hương”.
Cũng như Lệ Thanh, Hà Thanh…
Thanh Thúy sinh trưởng ở sông Hương núi Ngự, lớn lên ở Sài Gòn. Gia đình Thanh
Thúy ở phía sau chùa Kỳ Viên Tự, đường Phan Đình Phùng (bây giờ là đường Nguyễn
Đình Chiểu). Gia đình rất mộ đạo Phật, từ nhỏ, Thanh Thúy thường theo bà ngoại
và mẹ đến làm công quả ở chùa. Quy y với pháp danh Sumana, được sự dạy dỗ của
Thượng tọa Thích Hộ Giác và Tăng thống Tố Thắng. Vì vậy khi mới tuổi thanh
xuân, bước chân vào nghề ca hát, thân mẫu Thanh Thúy rất lo sự cám dỗ ánh đèn
sân khấu nên lúc nào cũng tựa cửa chờ con mỗi khi đi trình diễn. Và Thanh Thúy
vào nghề ca hát vì yêu thích lẫn kế sinh nhai để giúp đỡ gia đình.
Đầu thập niên 60 Thanh Thúy
nổi danh, tên tuổi Thanh Thúy rất ăn khách vì vậy Nguyễn Long đưa hình ảnh đó
vào điện ảnh. Nguyễn Long viết và thực hiện cuốn phim “Thúy Đã Đi Rồi” vào
tháng 11 năm 1961. Ca khúc Thúy Đã Đi Rồi (nhạc Y Vân lời Nguyễn Long) làm tựa
đề trong phim, nữ ca sĩ Minh Hiếu vào vai Thanh Thúy trong phim, làm nổi bật
hình ảnh yêu kiều chân dung người nữ ca sĩ xứ Huế. Ngoài phim còn đi vào kịch
nghệ, các vở thoại kịch được trình diễn trên sân khấu, truyền hình được các nghệ
sĩ Xuân Dung, Kim Cương, Bích Thủy đóng vai Thanh Thúy. Hình ảnh đó làm mê hoặc
bao kẻ tình si, và chân dung Người Em sầu Mộng trong thơ Lưu Trọng Lư đã mang đến
cho bao trái tim đa cảm, lãng mạn.
Trong đó, có chàng nhạc sĩ vừa
tròn tam thập, người Trà Vinh, dong dỏng cao, tóc phủ dài trông rất lãng tử,
cũng là hoàng tử trữ tình của thể điệu Boléro, Rumba qua nhiều ca khúc được ái
mộ. Từ tỉnh lên thủ đô, chàng sống phiêu bạt ở Sài Gòn, dang dở mối tình với cô
học trò con nhà giàu có. Hình ảnh Thanh Thúy dẫm lên trái tim Trúc Phương, là
nguồn cảm hứng cho chàng nhạc sĩ đam mê sáng tác. Và ngược lại, Thanh Thúy nổi
danh, được yêu thích nhiều qua nhiều ca khúc của Trúc Phương. (Sau ba thập niên,
tháng ngày thoi thóp với căn bệnh ngặt nghèo, trong căn phòng thuê tồi tàn, nhỏ
hẹp ở ngõ hẻm quận 11, Sài Gòn, nhạc sĩ Trúc Phương lìa bỏ cõi trần ngày 18
tháng 9 năm 1995, để lại cho đời 65 ca khúc và một số tác phẩm khác chưa được
phổ biến).
Trong những ca khúc đầu đời
của trái tim đau khổ, duyên nợ bẽ bàng, tình yêu đơn phương tan theo mây khói
nhưng hào quang lại về trên đỉnh mây trời giữa kẻ viết dòng nhạc, lời ca và người
nâng niu tiếng hát. Đâu đây vẫn vang vọng với tuyệt phẩm Chuyện Chúng Mình, Hai
Lối Mộng, Ai Cho Tôi Tình Yêu, Chiều Cuối tuần, Buồn Trong Kỷ Niệm, Bóng Nhỏ Đường
Chiều, Tàu Đêm Năm Cũ, Hình Bóng Cũ… mang mang thiên cổ lụy, xót thương, nghe để
tiếc thương cho chuyện tình cay đắng… tiếng hát Thanh Thúy chơi vơi, bồng bềnh
trên đỉnh cao, trái tim nhạc sĩ rướm máu, chôn vùi bên vực thẳm.
Sau khi mãn tang cho thân mẫu,
Thanh Thúy lập gia đình vào năm 1964, người chồng cũng là tài tử chính trong
phim Bão Tình (do Lưu Bạch Đàn sản xuất và đạo diễn). Chàng sĩ quan Ôn Văn Tài
sau nầy mang cấp bậc đại tá trong binh chủng Không Quân. Gia đình được định cư
tại Hoa Kỳ trong năm 1975. Vào cuối thập niên 90, đôi tình nhân thuở nào được
trở thành ông bà nội.
Với Trúc Phương, duyên nợ
không trọn nhưng mối giao cảm trong âm nhạc vẫn cón cao đẹp, giữ mãi cho nhau.
Bên bờ Thái Bình Dương, Thanh Thúy vẫn tiếp tục gởi đến tha nhân nhiều ca khúc
của Trúc Phương, tương trợ tác giả nơi quê nhà sống bất hạnh. Được tin Trúc
Phương vĩnh biệt nhân gian, bên trời Cali, bên người thân trong gia đình,
Thanh Thúy viết :
- “Anh Trúc Phương, một
ngôi sao sáng của vòm trời âm nhạc Việt Nam vừa vụt tắt. Tin anh qua đời đến với
tôi quá đột ngột. Tôi đã bàng hoàng xúc động với sự mất mát lớn lao nầy. Anh và
tôi không hẹn nhưng đã gặp nhau trên con đường sống cho kiếp tằm. Anh trút tâm
sự qua cung đàn, còn tôi qua tiếng hát. Trong khoảng thập niên 60, tên tuổi anh
và tôi gắn liền nhau : nhạc Trúc Phương, tiếng hát Thanh Thúy…
“Đường đời đã chia đôi chúng
tôi ra hai ngã, hai hướng đi. Tôi đã giã từ sân khấu, giã từ lời ca tiếng nhạc,
theo chồng đi đến những phương trời xa. Còn anh vào quân ngũ và tiếp tục hăng
say sáng tác, hầu hết những nhạc phẩm đều nói về cuộc đời người lính phong
sương, xa nhà, xa thành phố, xa người em nhỏ hậu phương…
“Rồi lại thêm một lần cuộc đời
lại chia đôi chúng tôi đôi ngã : Anh kẹt lại quê nhà, tôi sống đời lưu vong…” (TGNS,
tháng 2-1996).
Trúc Phương đã yên nghỉ ở
nghĩa trang Lái Thiêu, để lại người vợ bệnh hoạn và sáu con. Trong ca khúc “Mắt
Chân Dung Để Lại”, dòng nhạc cuối đời của Trúc Phương vẫn còn tơ vương bóng
hình Thanh Thúy : “Gửi người xưa bỏ ta để đôi mắt lại, giọt vắn giọt dài mãi đọng
vũng bùn nhỏ, ta và em trót đã thiên thu nhầm lỡ, khóc mình khóc người, đỏ hoe
suốt đời”.
Bên cạnh Trúc Phương, ngoài
văn nhân đa tình, từ đất thần kinh, chàng thư sinh gầy gò, lang bạt vào Sài Gòn
cuối thập niên 50, bắt gặp bóng dáng đồng hương Thanh Thúy, trái tim chàng say
đắm. Và cũng là cơ hội tạo nguồn rung cảm, đem cung đàn dẫn nhập vào mối tình
si. Ca khúc đầu tay “Ướt Mi” của Trịnh Công Sơn đã gọi tiếng hát buồn não nề của
Thanh Thúy như “khóc trong đêm mưa, than trong câu ca”. và ca khúc “Thương Một
Người” qua hình ảnh “Thương ai về ngõ tối, sương rơi kín đôi vai… Thương một
người và mái tóc buông lơi…” Nhưng tình yêu đơn phương của chàng nhạc sĩ mới bước
chân vào làng ca nhạc chỉ còn lại bóng mờ trước tiếng hát thành danh. Thanh
Thúy hát bài “Ướt Mi” qua tiếng đàn dương cầm của Nguyễn Ánh 9 rất tuyệt. Thời
gian sau, Trịnh Công Sơn chạy theo tiếng hát khác ở Đà Lạt (tiếng hát Khánh
Ly).
Với nhiều ca khúc nói lên nỗi
niềm cay đắng, nghiệt ngã, u hoài, tâm trạng thương cảm, ai oán, bẽ bàng, ngang
trái trong cuộc đời và cuộc tình được dàn trải qua tiếng hát Thanh Thúy như sự
an bày, kết hợp, tạo dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn người thưởng ngoạn. Từ nhạc
phẩm tiền chiến như Giọt Mưa Thu, Con Thuyền Không Bến của Đặng Thế Phong, Đêm
Đông của Nguyễn Văn Thương, Tan Tác của Tu Mi, Chuyển Bến của Đoàn Chuẩn, Biệt
Ly của Dzoãn Mẫn, Nhắn Gió Chiều của Nguyễn Thiện Tơ, Tiếng Còi Trong Sương Đêm
của Lê Trực, Tiếng Đàn Tôi và Thuyền Viễn Xứ của Phạm Duy… đến Ngăn Cách, Người
Em Sầu Mộng của Y Vân, Lạnh Lùng của Đinh Việt Lang sang Kiếp Cầm Ca của Huỳnh
Anh, Tiếng Ve Sầu của Lam Phương đến Mộng Chiều của Khánh Băng, Nhạt Nắng của
Xuân Lôi, Đường Nào Lên Thiên Thai cửa Hoàng Nguyên… và nhiều ca khúc của Trúc
Phương phù hợp với tiếng hát Thanh Thúy đã gắn liền giọng ca và dòng nhạc trong
giới thưởng ngoạn.
Bước sang lãnh vực kinh
doanh, Thanh Thúy và nhạc sĩ Ngọc Chánh – con chim đầu đàn của Shotguns - mở
phòng trà khiêu vũ trường International Quốc Tế, mở nhãn hiệu băng nhạc Thanh
Thúy, được hai năm thì qua Mỹ theo làn sóng di tản vào tháng 4/1975.
Cuộc sống lưu vong xứ người
không còn môi trường thuận lợi tưởng chừng tiếng hát khói sương bị nhạt nhòa
theo sương khói nhưng rồi sinh hoạt văn học nghệ thuật của người Việt tha hương
được hồi sinh. Thanh Thúy trở lại với với kiếp tầm nhả tơ.
Tháng 6 năm 1976, Thanh Thúy
cho phát hành cassette đầu tiên “Sài Gòn Ơi ! Vĩnh Biệt” được đồng hương nhiệt
tình đón nhận. Theo thời gian, Trung Tâm băng nhạc Thanh Thúy được hình thành,
thực hiện được ba cuốn Video: Thúy, Chuyện Tình buồn và Ngày Về Quê Cũ. Bước
vào thế kỷ 21, hai mươi lăm năm sau năm 1975, khoảng ba mươi CD của Thanh Thúy
được thực hiện, trong đó có những CD về tôn giáo như Mẹ Hiền và Phật Ca I, II,
III… Là Phật tử thuần thành, Thanh Thúy đã hướng tâm làm công quả trong chương
trình phát thanh Tiếng Nói Hương Sen của Phật Giáo. Vào cuối thập niên 90 Thanh
Thúy cùng người em gái thực hiện công tác từ thiện ở Á Châu để giúp vui và ủy lạo
bà con đồng hương đang bị kẹt ở trại tị nạn.
Khi người nghệ sĩ được thành
danh thì cũng là đối tượng cho báo giới khai thác để đáp ứng thị hiếu của độc
giả.
Hồ Trường An viết: “Thanh
Thúy là nghệ sĩ có tư cách, có phẩm hạnh. Cô không gây ngộ nhận nào cho nhóm ký
giả ưa săn tin giật gân…Trong hàng ngũ các nữ ca sĩ nổi tiếng thuở xa xưa chỉ
có Lệ Thanh, Thanh Thúy và Hoàng Oanh là nhu mì, khiêm tốn, ngoan hiền và biết
tự trọng. Ở chót vót đỉnh danh vọng mà cô không hề nói một lời kiêu căng hay một
lời làm thương tổn tha nhân, không hề bôi bẩn kẻ vắng mặt, không khoe
khoang thành tích của mình khi tiếp xúc với báo chí”.
Nhìn lại cuộc đời nghệ sĩ,
Thanh Thúy được ái mộ từ nghệ thuật đến nhân cách. Nghệ thuật xử thế của Thanh
Thúy tự nhiên và lịch sự không có vẻ đóng kịch, không đẩy đưa vì vậy khi tiếp
xúc với Thanh Thúy, thiện cảm, chân tình và thoải mái để trao đổi với nhau.
Trung tâm Thanh Thúy vẫn đều đặn hình thành nhiều băng nhạc qua hàng trăm ca
khúc với giới tiêu thụ thân quen, dĩ nhiên, tiếng hát của Thanh Thúy ngày nay
phù hợp cho giới thưởng ngoạn đã đứng tuổi trải qua một thời cảm mến khi còn ở
quê nhà.
Trước kia, trong một lần đọc
bài viết của Thanh Mỹ, Thanh Châu về người chị biểu tượng như hình ảnh người mẹ
hiền đã kề cận bên nhau qua bao thập niên trong nghệ thuật và cuộc sống, tôi cảm
mến hình ảnh đó, gọi điện báo tin cho bài viết, Thanh Thúy hỏi thăm cần hỏi
điều gì không, tôi trả lời đã thưởng thức nhiều bài hát và đọc qua những bài viết
về Thanh Thúy rồi cũng đủ tạo dựng cho hình ảnh tiếng hát thành danh từ quê nhà
và hải ngoại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét