Tranh luận và suy ngẫm
về định vị văn hóa
cho tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung
Kim Dung
“từ dân gian đến
với giới nghiên cứu”
Từ ngày ra đời, tiểu
thuyết của nhà văn Trung Quốc Kim Dung đã được giới văn hóa người Hoa
nghiên cứu, đến nay đã trải qua hơn nửa thế kỷ, từ dân gian đến với
giới nghiên cứu, từ bạn đọc đại chúng đến với diễn đàn học thuật.
Chỉ riêng năm 1998, Trung Quốc đại lục, Đài Loan, Mỹ đã có năm cuộc
hội thảo quốc tế về tác phẩm của Kim Dung. Cũng năm 1998, Hiệp hội
Văn học nghệ thuật Hồng Kông trao giải Kim Long cho văn hào đương đại
là Kim Dung, Ba Kim và Băng Tâm. Ngày 6-7-2001, Đài thiên văn quốc gia
Viện Khoa học Trung Quốc được Trung tâm tiểu hành tinh quốc tế thẩm
định, đã đặt tên cho một ngôi sao là Sao Kim Dung, ngôi sao thứ hai cùng
với Sao Ba Kim. Những điều đó chứng tỏ mức độ nổi tiếng và ảnh
hưởng của Kim Dung ở nước ngoài.
Tiểu thuyết Kim Dung lọt
vào tầm mắt của giới phê bình văn học là do hai cuộc tranh luận năm
1994 và năm 1999.
Tranh luận năm 1994 bắt
nguồn từ bộ sách Kho văn của đại sư văn học Trung Quốc thế kỷ XX do
tiến sĩ Vương Nhất Xuyến, trường Đại học Sư phạm Bắc Kinh, biên soạn.
Trong đó, lần đầu tiên Kim Dung được xếp vào hàng đại sư, đứng thứ tư
sau Lỗ Tấn, Thẩm Tùng Văn, Ba Kim và trên Lão Xá, Úc Đạt Phu, Trương
Ái Linh, còn Mao Thuẫn xưa nay vẫn được coi là đại sư lại bị gạt ra
ngoài. Hơn nữa, ngày 25-10-1994, trường Đại học Bắc Kinh trao danh hiệu
Giáo sư danh dự cho Kim Dung; trong lễ trao danh hiệu, Nghiêm Gia Viêm đọc
bài viết Một cuộc cách mạng văn học tiến hành lặng lẽ định
vị giáo sư cho Kim Dung. Hai việc này khiến giới học thuật phản ứng
kịch liệt.
Tranh luận lần hai bắt
nguồn từ bài Tôi nhìn nhận Kim Dung của nhà văn Vương Sóc
đăng trên báo Thanh niên Trung Quốc ngày 1-11- 1999, trong bài
tác giả điểm bình tiểu thuyết Kim Dung theo lối “mạn mạ” (đánh giá
thấp bằng lời lẽ thô dã). Trước sự khiêu chiến của Vương Sóc, các
học giả, các nhà văn cùng rất nhiều fan của Kim Dung, fan của
Vương Sóc tham gia tranh luận, khiến các giới trong xã hội, nhất là
giới văn học đặc biệt quan tâm tới tiểu thuyết Kim Dung.
Thật ra, tiểu thuyết Kim
Dung từ năm 1980 đã chính thức bước vào Trung Quốc đại lục. Tháng 10
năm ấy, tạp chíVõ lâm ở Quảng Châu bắt đầu đăng dài kỳ Xạ điêu
anh hùng truyện. Tuy nhiên trước thập niên 90 của thế kỷ trước, tư
liệu về nghiên cứu tiểu thuyết Kim Dung ở đại lục không nhiều. Cơn
sốt nghiên cứu tiểu thuyết Kim Dung ở đại lục chỉ xuất hiện sau cuộc
tranh luận năm 1994, bài và sách nghiên cứu mới tăng mạnh, các loại
hội thảo mới được tổ chức và các loại Hội nghiên cứu Kim học mới
được thành lập.
“Hiện tượng Kim Dung” có
đặc tính là người nhã kẻ tục đều cùng thưởng thức. Trong thập niên
90, một mặt các loại hội thảo về Kim Dung ở trong và ngoài nước
được tổ chức, hàng mấy trăm bài nghiên cứu được đăng tải, tác phẩm
Kim Dung trở thành đề tài cho luận án tiến sĩ, Tiểu thuyết Kim
Dung và văn hóa truyền thống trở thành chuyên mục giảng dạy của
GS Lãnh Thành Kim, trường Đại học Nhân dân; năm 1995, GS Nghiêm Gia Viêm
giảng giáo trình Nghiên cứu tiểu thuyết Kim Dung; năm 2004, NXB Giáo
dục nhân dân ra bộ Ngữ văn độc bản, bài thứ 6 trong tập IV
là hồi thứ 41 truyện Thiên Long bát bộcủa Kim Dung. Mặt khác,
trong phạm vi toàn quốc, các đài truyền hình cùng chiếu phim cải biên
từ tiểu thuyết Kim Dung. Như thế là văn hóa tinh anh giải mã “tinh
thần nhân văn” thì văn hóa đại chúng giải mã “thành phần giải trí”
trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung.
“Một cuộc cách mạng văn
học tiến hành lặng lẽ”
Hồng Kông và Đài Loan là
hai nơi nghiên cứu tiểu thuyết Kim Dung sớm nhất. Ngoài bài Bàn
chung về Kim Dung, Lương Vũ Sinh do Lương Vũ Sinh lấy bút danh Đông
Thạc Chi đăng trên tạp chí Hải quang văn nghệ năm 1966 là tư
liệu quan trọng và sớm nhất trong lịch sử nghiên cứu tiểu thuyết Kim
Dung, nhà văn Nghê Khuông trong bài Năm điều nhìn nhận về Kim Dung tiếp
tục khẳng định, cho tiểu thuyết Kim Dung là “bác đại tinh thâm”. Nhà
văn Ôn Thụy An ở Đài Loan phân tích, so sánh nhân vật trong tác phẩm,
giúp người đọc hiểu thêm vềKim Dung.
Ở đại lục, GS Phùng
Kỳ Dung nghiêm túc đánh giá nội dung lịch sử xã hội rộng lớn và
thành tựu nghệ thuật xuất sắc trong tiểu thuyết Kim Dung, cho rằng
danh từ Kim học là có lý, tiểu thuyết Kim Dung là “niềm kiêu
hãnh của văn hóa Trung Quốc, là niềm kiêu hãnh của văn học Trung
Quốc”(1).
Năm 1990, đại lục xuất
bản sách Thưởng thức, phân tích tiểu thuyết Kim Dung của
Trần Mặc. Đến nay Trần Mặc đã có 12 sách chuyên nghiên cứu Kim Dung.
Cảm xúc của ông là “đối với tôi, mỗi khi đọc một truyện của Kim Dung
là như bắt đầu một cuộc thần du lãng mạn; cho dù tình tiết truyện
đọc đã hầu thuộc, mỗi khi đọc lại vẫn cảm thấy vui sướng, tâm tình
xao động”(2).
Trong lễ trao danh hiệu
Giáo sư danh dự cho Kim Dung, Nghiêm Gia Viêm phát biểu: “Tiểu thuyết Kim
Dung xuất hiện đánh dấu việc cố gắng vận dụng kinh nghiệm của văn
học mới Trung Quốc và của văn học cận đại phương Tây để cải tạo văn
học thông tục đã giành được thành tựu rất lớn. Nếu nói cách mạng
văn học Ngũ Tứ đã khiến tiểu thuyết từ “nhàn thư” (sách tiêu khiển -
PTC) bị coi rẻ bước vào cung điện thần thánh thì thực tiễn nghệ
thuật của Kim Dung lại khiến cho tiểu thuyết võ hiệp hiện đại lần
đầu tiên bước vào cung điện văn học. Đấy là một cuộc cách mạng nữa,
một cuộc cách mạng tiến hành lặng lẽ. Với tư cách là một kỳtích
của văn hóa Trung Hoa thế kỷ XX, tiểu thuyết Kim Dung đáng trở thành
một chương rạng rỡ trong văn học sử”(3). Bài này về sau trở thành tư
liệu kinh điển trong lĩnh vực nghiên cứu Kim Dung.
Đến bài Nội công
của Kim Dung: cái gốc của văn học mới, Nghiêm Gia Viêm bàn về tác
phẩm Kim Dung và cội nguồn văn hóa truyền thống, cho rằng nhân vật lý
tưởng mà nhà văn xây dựng vừa có thể thấy nhân cách đạo đức của Nho
gia, vừa thấy nhân cách tiêu dao của Đạo và Thích.
Văn hóa tinh anh giải mã
“tinh thần nhân văn” thì văn hóa đại chúng giải mã “thành phần giải
trí” trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung.
Tác giả cho những nhân
vật này có cá tính rõ nét, nhân cách hấp dẫn mê hồn thì đồng thời
cũng cho thấy xu hướng giá trị, tâm lý thẩm mỹ của văn hóa truyền
thống một cách hình tượng. “Đúng là tiểu thuyết Kim Dung bao gồm đủ
các nhà Nho, Mặc, Thích, Đạo và Pháp. Rất nhiều nhân vật chính đã
từng vào sinh ra tử, hành hiệp trượng nghĩa, hào khí bốc cao, cuối
cùng lại lãng du nơi xa, ở ẩn trốn đời, như thế là vừa thực hiện
tôn chỉ của Nho, Mặc, lại tuân theo giáo lý của Thích, Đạo”(4).
Ông Lưu Đăng Hàn, tác giả
bộ Văn học sử Hồng Kông có ảnh hưởng khá lớn, viết: “Mặt
tốt đẹp của văn hóa Trung Quốc, mặt tình thơ ý họa đều được biểu
hiện lâm ly thống khoái trong tác phẩm của Kim Dung, trên từ luân lý
triết học Nho, Đạo, Thích, dưới đến phong tục dân gian, tất cả đều
hiển hiện sinh động trước mắt bạn đọc, khiến người Trung Quốc sống
trong thời hiện đại từ chốn sâu trong lòng cảm thụ được cái gốc và
cái hồn ấy. Về điểm này mà nói, tiểu thuyết Kim Dung bằng phương
thức văn học đã hàn gắn được vết nứt giữa hiện đại và truyền
thống do văn học mới Ngũ Tứ kịch liệt phản kháng ý thức truyền thống
gây ra, từ đó khiến cho nội dung mỹ học truyền thống của Trung Quốc
giành lại được sức sống thâm hậu”(5).
Học giả Lư Đôn Cơ viết
bài trình bày cống hiến độc đáo của Kim Dung cho văn học mới, đặc
biệt chỉ ra “Vi Tiểu Bảo và AQ tuy khác nhau nhưng đều được xây dựng
rất khéo, chỉ có điều AQ thiên về tâm lý và nội tại, còn Vi Tiểu
bảo thiên về hành động và ngoại tại”(6).
Người đầu tiên trong học
giới ở đại lục đánh dấu hỏi về tiểu thuyết Kim Dung là ông Yên Liệt
Sơn. Ngày 2-12-1994, trên báo Nam phương cuối tuần, ông Yên đăng bài Cự
tuyệt Kim Dung, trong bài ông nghi ngờ võ hiệp và tiểu thuyết võ hiệp
về ba góc độ: tri thức lịch sử, xu hướng giá trị và văn hóa giải
trí. Ông viết: “Lý trí và tu dưỡng học vấn của tôi ngoan cố từ chối
Kim Dung (và cả Lương Vũ Sinh lẫn Cổ Long), không hề lầm lẫn và không
hề hối hận. Tôi cố chấp cho rằng võ hiệp ngay từ lúc ra đời đã là
quái vật đảo ngược đầu đuôi, bất kể thiên tài văn học nào dùng ngòi
bút nở hoa tài tình miêu tả vô cùng sinh động anh hùng hoặc quái nhân
đi bằng đầu, tôi đều không có cách nào chấp nhận nổi… Tôi không nhớ
nổi cốt truyện và nhân vật, chỉ có một ấn tượng ở lại là tình
tiết trùng lặp, hành văn dài dòng, cứgặp mặt là đánh nhau… Toàn bộ
nhân vật đều có thù sâu hận lớn không chính đáng, tình tiết cả câu
chuyện đều nhờ đó mà được đẩy tới. Như thế thì mới mẻ nỗi gì?
Tiểu thuyết cũ của Trung Quốc, bất kể diễn nghĩa hay sắc tình đều
theo lối đó cả, nói cho cùng là nhân quả, báo ứng. Lần đầu đọc Kim
Dung là lần thể nghiệm tồi tệ. Tôi không tin những nhân vật dưới bút
Kim Dung từng tồn tại chân thực trong loài người, điều tôi muốn nói
là bộ phận nhân tính ở trên người những nhân vật đó. Tôi cho rằng Kim
Dung đã hư cấu rất không cao minh một số hình tượng người Trung Quốc,
gây hiểu lầm lớn cho thế giới, để thế giới cho rằng đó là bộ mặt
vốn có của người Trung Quốc”(7).
Bình luận của Vương Sóc
gây nên một cuộc tranh luận mới về Kim Dung. Ông viết: “Tiểu thuyết cũ
Trung Quốc hầu hết đều có một chủ đề rõ ràng, đó là mượn danh
nghĩa đạo đức để giết người, dạy dâm, dạy cướp dưới cái mũ hoằng
pháp. Điều này cũng thấy rất rõ trong tiểu thuyết của Kim Dung. Hiệp
dưới bút Kim Dung nếu bảo là nhà võ thuật không bằng gọi là tội
phạm, mỗi một môn phái là một bang phỉ. Chúng thù giết lẫn nhau do
ân oán riêng tư thì chẳng nói làm gì, điều không thể chịu đựng nổi
là lại chụp cái mũ yêu nước cho hành động bạo ngược của chúng,
dường như việc giết người bằng hình phạt riêng tư cũng chia làm chính
nghĩa và phi chính nghĩa, vì chính nghĩa thì cho dù máu chảy thành
sông cũng được. Kim tiên sinh có lẽ viết sách loại này để cho mọi
người tiêu khiển, nếu bắt ông phải gánh trách nhiệm giáo hóa dân
chúng thì ông nhất định chẳng chịu nào, vậy thì hà tất phải khổ
sở dát vàng lên mặt một số nhân vật?”(8).
Năm 1999, tạp chí Văn
đàn phương Nam đăng cuộc đối thoại giữa mấy học giả Cát Hồng
Binh, Đặng Nhất Quang, Lưu Xuyên Ngạc về “Ai là đại sư của thế kỷ
chúng ta?”, qua đó gọi Kim Dung là “đại sư được nâng cao”, thẩm tra
nghiêm ngặt để hóa giải vòng hào quang gán cho Kim Dung. Mấy học giả
này cho rằng Kim Dung chưa đủ tư cách là đại sư, tác phẩm của ông
không có mấy sức mạnh để xây dựng tinh thần ở bậc cao trong xã hội.
Nửa cuối năm 1999, học
giả Hà Mãn Tử liên tục đăng mấy bài trên Văn hối báo, Quang
minh nhật báo, Trung Hoa độc thư báo, trình bày quan điểm: tiểu
thuyết võ hiệp là văn học cũ, đề cao quan niệm cũ, đi ngược lại tinh
thần nhân văn mới thời Ngũ Tứ.
Học giả Viên Lương Tuấn
cho rằng thế giới võ hiệp là thế giới “nửa tiên” khác hẳn với
người thường, hiệp khách võ nghệ cao cường, bay trên mái nhà, đi trên
tường nhưng đáng tiếc đều là người trần mắt thịt nên là những quái
vật hư cấu, không hề tồn tại, hoàn toàn phá hoại truyền thống tốt
đẹp của văn học Trung Quốc, khiến văn học Trung Quốc từ miêu tả cuộc
sống hiện thực chuyển sang tạo ra thế giới hư ảo. Về tiểu thuyết
của Kim Dung, ông cụ thể chỉ rõ: “Mâu thuẫn giữa năm đại phái hệ
không phải là mâu thuẫn tồn tại khách quan trong xã hội hiện thực mà
chỉ là sự bịa đặt của nhà văn”, “vẫn là thoát ly cuộc sống hiện
thực”(9).
GS Cát Hồng Binh cho rằng
Kim Dung đã “tạo ra ảo giác về văn hóa hiệp nghĩa. Ông lãng mạn hóa
văn hóa phong kiến cho phù hợp với tâm lý trốn tránh, ẩn náu của
tầng lớp thị dân do chủ nghĩa công lợi, kim tiền bản vị trong xã hội
đương đại gây ra. Thực tế là ông cho xã hội thế tục chỉ là chất độc
phong kiến, còn người thời nay lại thành tâm dùng để uống cho đỡ
khát. Chiêu này của ông thậm chí đã mê hoặc được số người tự cho là
giáo sư đại lục - những giáo sư trở thành người ngoài rìa trong xã
hội đương đại Trung Quốc đang thị trường hóa, những nhân sĩ trong giới
học thuật, những người theo chủ nghĩa sĩ đại phu chịu sự chế giễu
vô tình của nguyên tắc thị trường hóa Trung Quốc đương đại. Họ ngay
lập tức tìm được tổ ấm về tâm lý ở Kim Dung, thế là chui sâu vào
đó”(10). Cát Hồng Binh coi tác phẩm của Kim Dung là ma túy tinh thần.
Nhà nghiên cứu Vương Bân
Bân có viết một đoạn rất tiêu biểu: “Thực sự bình tĩnh và nghiêm
túc xem xét góc độ nghệ thuật của tiểu thuyết thì Kim Dung mắc quá
nhiều lỗi… Thần hồn điên đảo, đêm ngày bất phân khi đọc Kim Dung chưa
hẳn đã là cách hưởng thụ thẩm mỹ thuần chính, cao cấp nhất. Cách
ấy khác hẳn về lượng và về chất so với cách nhấm nháp từng chút
một khi đọc Hồng lâu mộng. Nói cho cùng, tiểu thuyết Kim Dung vẫn
là “tiểu thuyết thông tục cao cấp”, vẫn là một loại “văn hóa ăn liền
cao cấp”, vẫn mang dấu ấn sâu đậm của văn hóa thương nghiệp. Vì thế,
đối với Kim Dung, nghiên cứu một góc độ đặc định nào đó trong một
thời gian là điều hoàn toàn có thể, nhưng cho rằng tiểu thuyết Kim
Dung cũng tạo nên một môn Kim học như Hồng lâu mộng tạo
nên môn Hồng học thì e rằng đó là lời nói sảng sau khi thần
hồn điên đảo, đêm ngày bất phân mà thôi”(11).
Từ Yên Liệt Sơn cự tuyệt
Kim Dung tương đối sớm cho đến các ông Hà Mãn Tử, Cát Hồng Binh, Viên
Lương Tuấn, Vương Bân Bân sau này, họ đều dị khẩu đồng thanh cho rằng
thú vị ở tiểu thuyết võ hiệp ngay từ lúc sinh ra đã thấp, không
đáng đọc; cho rằng tự thân loại hình văn học đã quyết định tiểu
thuyết võ hiệp chắc chắn là ma túy tinh thần, không cần đọc cũng
biết tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung là thứ gì; cho rằng tiểu thuyết
võ hiệp Kim Dung là thứ văn học tiếp sức sống cho văn hóa cũ, là
một bát “canh mê”; cho rằng từ lúc ra đời, võ hiệp đã là một loại
quái vật, không có bất kỳcơ sở hiện thực nào, nhân tính của các
nhân vật trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung về căn bản chưa hề tồn
tại ở loài người, vì thế tiểu thuyết đólà ma túy, rác văn hóa, cần
triệt để thanh trừ.
Suy ngẫm về những ý
kiến khen, chê tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung
Một số ý kiến khen, chê
trích dẫn trên đây đã cho thấy mức độ chênh lệch rất lớn trong việc
đánh giá tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung. Điều đó khiến chúng ta không
khỏi suy nghĩ. Tại sao các nhà phê bình văn học lại bình luận hoàn
toàn trái ngược nhau? Mấu chốt vấn đề ở chỗ nào? Tôi cho rằng khảo
sát giá trị và ý nghĩa của tiểu thuyết Kim Dung cần xuất phát từ
định vị văn hóa: tiểu thuyết Kim Dung là tinh phẩm của văn hóa đại
chúng, có như thế mới đánh giá sát với thực tế. Vì thế, chúng ta
không thể dùng tiêu chuẩn của văn hóa tinh anh, văn hóa chủ đạo để
đánh giá và nêu ra những yêu cầu không phù hợp với thực tế.
Xét những bình luận cụ
thể nêu trên, tôi nhận thấy dường như phán đoán cảm tính mạnh hơn phân
tích lý tính; hai là, hiện tượng “xa rời đầu đề” nghiêm trọng. Đương
nhiên, còn rất nhiều vấn đề nữa như tính trì trệ lạc hậu của quan
niệm phê bình, tính đơn nhất của thủ pháp phê bình, tính bá quyền
của thoại ngữ phê bình, tâm thái nôn nóng của người phê bình v.v…
Về thủ pháp, quan niệm,
tâm thái phê bình, GS Từ Đại cho rằng: “Trước hết là lấy quan niệm
tiểu thuyết hiện thực chủ nghĩa để hạ thấp tiểu thuyết võ hiệp
thuộc văn bản chủ nghĩa lãng mạn; hai là đứng trên lập trường tiên
nghiệm mà mọi người đều quen thuộc là văn học thuần (văn học nghiêm
túc) cao hơn văn học thông tục (văn học đại chúng) để ‘phong sát’ (hạn
chế, cấm đoán) phẩm vị nghệ thuật của tiểu thuyết Kim Dung”. Theo
ông, quan điểm phê bình phi lịch sử đã đặt tiểu thuyết võ hiệp đối
lập với văn học mới một cách đơn giản, xóa nhòa ý nghĩa văn học
của loại văn bản này, như thế là có hại cho thực tiễn văn học. Đồng
thời ông phân tích thấu triệt tư thái của nhà phê bình như sau: “Nói
chung, nhà văn là người hành hiệp đơn độc, nhiệt tình biểu đạt với
thế giới tiếng nói của cái ‘tôi’ cá thể, còn nhà phê bình thì
ngược lại, quen xuất hiện với tư cách ‘chúng tôi’, dường như mình đại
diện cho cả xã hội… Khi nhà phê bình hữu ý hay vô tình đóng vai đại
biểu của dân chúng hoặc xã hội, người ấy sẽ biến ‘thảo luận’ thành
‘thẩm phán’, trút áp lực ngoài văn học lên nhà văn, khiến sinh mệnh
sáng tác của nhà văn phải gánh chịu sức nặng khó gánh chịu nổi.
Vì thế, văn học phê bình chân chính chỉ có thể là ‘đối thoại’ cởi
mở của ‘người khác’, bao gồm cả nhà văn trong đó, chứ không phải là
một loại ‘phán quyết’ nào đó đối với hiện tượng văn học”(12).
Về tiêu chuẩn của phê
bình, học giả Đặng Tập Điền nhận xét: “Trong giới nghiên cứu, phê
bình tiểu thuyết Kim Dung, thường xuyên xuất hiện hai loại là phê bình
văn học và giải thích văn học, tức hiện tượng phê bình dị nguyên
(kiến giải khác hẳn, không thể hiểu nhau để đối thoại - PTC) và xiển
thích (thuật lại và giải thích - PTC) quá mức. Hiện tượng đầu phần
nhiều xuất hiện ở phe phản đối, hiện tượng sau phần nhiều xuất hiện
ở phe ủng hộ”(13).
Về vấn đề nhã, tục của
văn học, Đặng Tập Điền cũng cho rằng: “Văn học Trung Quốc vốn dĩ
nhấn mạnh nhã, tục cùng thưởng thức, đó là cảnh giới cao nhất của
văn học. Ở Trung Quốc thế kỷ XX, thực tế vẫn tồn tại quan điểm và
lời kêu gọi này. Nhưng quan niệm văn học lý tưởng ấy đã khó giành
được tính hợp lý hiện thực đầy đủ trong hoàn cảnh xã hội và ngữ
cảnh văn hóa cụ thể. Từ cuối thập kỷ 80 đến nay, một mặt nhã, tục
cùng thưởng thức được mọi người hoan nghênh; mặt khác, hầu như tất
cả nhà văn và tác phẩm được đông đảo bạn đọc yêu thích đều bị giới
văn học chủ lưu phê phán kịch liệt và tẩy chay theo bản năng. Vương
Sóc, Kim Dung, Dư Thu Vũ… đều như thế cả”(14).
Những vấn đề nảy sinh
từ các cuộc tranh luận về tiểu thuyết Kim Dung vừa phản ánh sự xung
đột kịch liệt giữa quan niệm văn hóa và văn học ở thời giao tiếp
giữa hai thế kỷ, vừa phản ánh sự thiếu hụt quy phạm tương quan ở giới
học thuật và giới văn hóa trong nước.
* Giảng viên trường Đại học
Sư phạm Thanh Hải (Trung Quốc).
(1) Phùng Kỳ Dung: Nói
về nghiên cứu Kim Dung (Thay lời nói đầu) trong sách Đọc thế
giới Kim Dung. NXB Thượng Hải thư điếm, năm 2000.
(2) Trần Mặc: Chuyến
đi lãng mạn - Cuộc thần du tiểu thuyết Kim Dung. NXB Tam liên thư
điếm Thượng Hải, năm 2000.
(3) Nghiêm Gia Viêm: Bàn
về tiểu thuyết Kim Dung. NXB Đại học Bắc Kinh, năm 1999, tr.213.
(4) Nghiêm Gia Viêm: Nội
công của Kim Dung - cái gốc của văn học mới trên Bình luận
tác gia đương đại, số 6 năm 1999.
(5) Lưu Đăng Hàn: Hồng
Kông văn học sử. NXB Nhân dân văn học, năm 1999, tr.269.
(6) Lư Đôn Cơ: Bàn về
cống hiến độc đáo của Kim Dung đối với văn học Trung Quốc trên Học
san Chiết Giang, số 6 năm 1999.
(7) Yên Liệt Sơn: Cự
tuyệt Kim Dung trên Nam phương cuối tuần, 2-12-1994.
(8) Vương Sóc: Tôi nhìn
nhận Kim Dung trên Thanh niên Trung Quốc, 1-11-1999.
(9) Viên Lương Tuấn: Lại
nói về nhã, tục - lấy Kim Dung làm ví dụ trên Trung Hoa độc thư
báo, 10-11- 1999.
(10) Cát Hồng Binh: Va
chạm giữa quan niệm văn học khác nhau - Bàn về tranh luận giữa Kim
Dung và Vương Sóc trên báo Thám sách dữ tranh minh, 30-2- 2000.
(11) Vương Bân Bân: “Hồng
học”, “Lý học”, “Kim học” - chính danh cho phê bình. NXB Văn nghệ thời
đại, năm 2000, tr.259.
(12) Từ Đại: Quan niệm
và tư thái phê bình - cũng lấy sáng tác của Kim Dung làm thí dụ trên Văn
nghệ tranh minh, số 27 năm 2000.
(13) Đặng Tập Điền: Dị nguyên
phê bình và xiển thích quá mức trên Học báo Học viện sư
phạm Hoài Nam, số 47 năm 2005.
(14) Đặng Tập Điền: Tính
hạn hẹp của hệ thống quan niệm văn học chủ lưu hiện nay trên Văn
nghệ nghiên cứu, số 55 năm 2006.
HUỆ CHUYỂN
NINH*
PHẠM TÚ
CHÂU trích dịch
Nguồn
www.literature.net.cn
(14) Đặng Tập Điền: Tính
hạn hẹp của hệ thống quan niệm văn học chủ lưu hiện nay trên Văn
nghệ nghiên cứu, số 55 năm 2006.
HUỆ CHUYỂN
NINH*
PHẠM TÚ
CHÂU trích dịch
Nguồn
www.literature.net.cn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét