Đâu rồi những đàn chim bay qua
mùa thu
Gió
heo may mơn man. Gió heo may se se. Từng làn từng làn thoang thoảng trên cánh
đồng đem theo phấn lúa trôi mênh mang. Rồi những làn gió bấc từ phía núi xa, từ
đỉnh Yên Tử lùa về lành lạnh trong bước dịch chuyền của mùa thu. Bấc ra! Chim
ngói đã về! Ai đó đã thốt lên như vậy. Từng đàn như những đám mây la lả trên
vòm trời rồi đáp xuống cánh đồng như mẻ cốm đang giã, xông hương…
Gió heo may mơn man. Gió
heo may se se. Từng làn từng làn thoang thoảng trên cánh đồng đem theo phấn lúa
trôi mênh mang. Rồi những làn gió bấc từ phía núi xa, từ đỉnh Yên Tử lùa về
lành lạnh trong bước dịch chuyền của mùa thu. Bấc ra! Chim ngói đã về! Ai đó đã
thốt lên như vậy. Từng đàn như những đám mây la lả trên vòm trời rồi đáp xuống
cánh đồng như mẻ cốm đang giã, xông hương…
Đấy là hình ảnh trong ký
ức tôi những năm xưa, những tháng ngày bom đạn ì ùng đây đó thời chống Mỹ, nơi
chân trời xa hay bên kia sông… như vẫn còn vương vấn xung quanh. Bây giờ mùa
thu vẫn đẹp như cái đẹp lộng lẫy, đằm thắm vốn có của tự nhiên. Nhưng những đàn
chim ngói thì đã thưa vắng khỏi bầu trời, không còn theo ngọn bấc ra… Vào chợ
quê, mọi mùa thu vẫn thấy những người nông dân lam lũ bày bán những lồng chim
ngói, chim dẽ gà, rồi những con vạc, con bồ nông, con sếu… Nay không thể thấy
tiếng chim kêu, tiếng chim gù nữa! Bởi nơi đâu, trên các cánh đồng, dọc các
triền đê, các gò bãi, đầm áng nuôi tôm cá bên sông cũng giăng lưới bắt chim
hàng loạt. Người ta còn áp dụng công nghệ, thu tiếng chim vào băng đĩa, vào thẻ
nhớ, cắm vào máy nghe nhạc, đêm đêm phát ra để gọi lừa bẫy chim. Chim vơi nhanh
trong lòng trời. Bầu trời vơi nhanh bóng đàn chim bay qua, như nồi cơm đơm
nhanh, cơm hết rồi nồi còn bốc khói hơi…
Chính vì thế khiến ta
cảm thấy như mùa thu đánh rơi mất, thực ra là ta đánh rơi mất của mùa thu một
nét đẹp ngàn đời như người thôn nữ không còn mặc cánh áo nâu tươi che chiếc yếm
đào giấu bên trong cả một mùa xuân rưng rức nụ hồng!
Đi trên cánh đồng đang
nhuốm dần những gam màu xanh theo nắng hanh hao, nhìn lên bầu trời xanh cao
thăm thẳm và trống rỗng, tôi chợt nhớ ngày xưa… ngày xưa… mà như mới đây thôi!
Tuồi thơ học ở trường
làng dưới mái đình, về mùa này chúng tôi rất thích đi trên cánh đồng ven làng
đang kỳ lúa trỗ đòng và vào độ sậm sữa. Hồi ấy nông dân quê tôi chỉ cấy các
loại lúa tám đồng, lúa dự hương, lúa nếp… Hương lúa thơm khiến bước chân nhẹ
nhàng, thơ thới và tâm hồn trong treo như muốn bay lên. Vào lớp ngồi học, hương
lúa vẫn còn thoảng nơi vạt áo của nhau!
Những hôm đẹp trời, tôi
thường được theo chân bác rể tôi đi đánh bẫy chim ngói. Hai bác cháu đi trong
thảm lúa còn ướt đẫm sương đêm, trong ánh bình minh đang lên chiếu tỏa khắp
cánh đồng. Tôi giúp bác khuân vác bộ đồ nghề ra bãi sập chim trên cánh đồng sau
miếu Tiên Công. Đấy là một gò đượng cao bằng phẳng, xanh tươi thảm cỏ chỉ, cỏ
gà, cỏ bánh dày. Giữa gò đượng có một bãi vuông vức, cỏ rất mịn, mát cả bàn
chân. Nơi đây từ lâu đã là bãi đánh chim của bác và dân thường gọi là đượng Sập
Chim. Bộ đồ nghề của bác chỉ mấy thứ: những cành lá của cây móc xanh rờn
(thường gọi là lá sập chim xòe như cánh chim), hai tấm lưới rộng chục mét vuông
đã bó lại, một cuộn dây gai, những cây cọc và chiếc lồng tre nhốt sẵn con chim mồi…
Tất nhiên không thể thiếu chiếc lồng to đợi để nhốt chim mới. Tới nơi, bác tôi
thoăn thoắt lấy những tấm lá lợp mái thành một chiếc chòi nhỏ, ngụy trang cẩn
thận, làm chỗ hai bác cháu ngồi. Cửa chòi nhìn về phía bắc, đón nơi sẽ xuất
hiện những đàn chim di cư về phương nam tránh rét. Rồi bác bắt đầu sắp soạn các
thứ, đóng cọc, đặt bẫy. Hai cánh bẫy đóng khuôn lưới to như hai tấm chiếu lớn
được đặt nằm ngả ra hai bên mặt bãi phẳng phiu. Bác thử đi thử lại mấy lần để
kiểm tra độ nhạy. Ở giữa hai cánh lưới, bác buộc chân một con chim ngói mồi đã
khâu kín đôi mắt và đặt nó trên một chiếc vỉ ruồi có nối dây vào chòi để giật
từ xa.
Bác dặn tôi: Phải náu
mình cho kín trong những tấm lá ngụy trang để quan sát và xem bác giật bẫy.
Cháu phải nín thở, không được nói to, không được động đậy kẻo chim phát hiện ra
người. Nó bay vượt về phía sau là toi công, lại phải chờ bầy khác… Bác kể có
bận sơ đễnh vì thèm thuốc lào, tranh thủ rít điếu cày, lơ mơ, không trông thấy
đàn chim đằng xa. Thế là để vuột qua mất. Có hôm về không hoặc chỉ được dăm ba
con…
Hai bác cháu ngồi hồi
lâu, nén đợi. Bác phóng tầm mắt rất xa. Khi nhác thấy bóng những đàn chim ngói
như những chiếc lá nhỏ, rồi to dần, bác bấm vai tôi im lặng. Lúc chúng bay gần,
đoán chừng cỏ vẻ vào tầm bẫy, ông giật giật đoạn dây gắn với vỉ ruồi để thúc
chim mồi. Giật mình, con chim mồi hết bay lên lại hạ xuống, lúc trượt, lúc đậu,
cánh vỗ sàn sạt như báo hiệu với đồng loại: Ở đây đang có thức ăn! Nào đỗ
xuống!
Đúng như dự đoán. Đàn
chim bay từ xa bỗng lượn một vòng rộng, rồi thẳng hướng bãi đỗ chỗ chim mồi.
Tôi hồi hộp vô cùng. Nhiều lần tôi thấy bác chỉ buộc chân con chim mồi rồi để
nó đứng trong bẫy. Mỗi khi thấy có đàn chim ngói từ xa hoặc tạt phía đông bay
qua, bác lại tung con chim mồi lên rồi giật nhanh xuống. Cứ như vậy, con chim
mồi xập xòe đôi cánh. Đàn chim ngói đang say mê sắc trời xanh phát hiện bóng
bạn, không kịp phân rõ gì cả, liền lao xuống, đậu giữa hai cánh lưới. Và lập
tức bác tôi giật đánh phập, nhanh như cắt. Hai tấm bẫy úp khít, khép lại rất
nhanh. Đàn chim đã nằm gọn trong lưới. Chúng nhao nhao giẫy phành phạch, phành
phạch muốn tìm lối thoát. Sướng quá, tôi nhảy cẫng lên vỗ tay, suýt làm xiêu
ngửa cả mái chòi. Như muốn cho tôi thưởng thức cái thích thú nhìn những con
chim sa bẫy, bác đứng một lúc khá lâu rồi mới giục: Nào! Ta vào việc gỡ chim!
Tôi nhanh nhảu giúp bác gỡ lưới bắt những con chim ngói béo mẫm. Những con chim
ngói bàng hoàng không hiểu những gì đã xảy ra.Không biết dọc đường di cư đã
nhằn được ít hạt lúa non nào chưa? Không biết chất ngọt phù sa, vị heo may có
kịp tan trong mỏ trong miệng, chúng đã bị mắt lưới xiết ghì đôi cánh? Vòng lông
cườm biếc trên cổ chim nhiều chiếc rụng tứ tung. Hạt lông cườm rơi lả tả
trên thảm cỏ, lay phơ phất, gió cuốn bay đi. Những con chim ngói lần lượt bị
tóm, nhốt chặt trong lồng.
Ngắm những chú chim sa
bẫy, tôi vừa thích thú đấy, song lại vừa nặng lòng suy nghĩ. Ôi! Những chú chim
vừa khôn ngoan vừa dại dột! Vừa mới trên bầu trời xanh thẳm, mặt đất vời vợi
dưới đôi mắt, sao bây giờ đã thu cánh ở đây? Liệu có chú chim nào từng xổ lồng
và bị nhốt lần thứ hai không? Đôi mắt ngơ ngác. Đôi chân run rấy. Một lần vào,
đã khép lại trời xanh!
Bà nội tôi từng kể, mẹ
tôi từng bảo: Chim ngói là một kiếp của cá mòi. Cá mòi lại là kiếp trước của
chim ngói… Mùa thu, chim ngói bay từ rừng ra cửa biển hoá cá mòi. Mùa xuân cá
mòi lại bơi từ biển về rừng để biến thành chim ngói... Không biết có phải
không?
Tôi đang miên man những
dòng vẩn vơ thì bác rể vỗ vai: Sập chim thì sập vậy thôi cho thỏa cái thú vui
với chim trời cá nước, cơm làm ruộng cá kiếm ăn… Chiều về bác gái xào thịt chim
với mướp và rau rút cho cháu hưởng chút hương vị đồng quê. Chứ chả bán chác,
chợ búa gì đâu!
- Thế đám chim này bác để
làm gì ạ?
- Vỗ béo, đợi đến tháng
ba “ngày Bụt đẻ”, đem ra dâng nhà chùa làm lễ Phóng sinh cháu ạ! Lại thả về với
trời xanh để tồn tại giống nòi chúng nó!
Ôi! Ông bác rể của tôi!
Tôi vẫn còn nhớ mãi đến tận bây giờ hình ảnh ông bần thần bên chiếc lồng tre
nhìn những chú chim ngói đôi mắt long lanh như hạt ngọc huyền cùng vòng cườm
trên cổ cũng long lanh! Và mong sao những chú chim ngói còn sót lại trong gầm
trời này cứ nhiều lần vào bẫy lại nhiều lần ra với gió bấc và ngậm vị heo
may!.
DƯƠNG PHƯỢNG TOẠI
Theo http://tacphammoi.net/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét