Trời đất mênh mang sương khói, một thời thơ trẻ
dại, bàng bạc nắng quái u buồn nơi quê nhà giữa hai đầu biển núi lung linh.
Sinh năm 1952 ở Quán Rường, Tam Kỳ, thuộc tỉnh Quảng Nam, một chốn miền “Đất
Quảng Nam chưa mưa đà thấm. Rượu hồng đào chưa nhấm đà say” ấy, Nguyễn
Lương Vỵ lớn lên trong một gia đình có truyền thống Nho học. Từ thuở nhỏ vốn
bẩm sinh có năng khiếu làm thơ, đặc biệt được ông nội ( nguyên là một nhà
Nho, có thời kỳ làm chánh tổng ) trực tiếp truyền dạy các loại thơ tứ tuyệt,
Đường luật, nên biết mần thơ ngay từ lúc 12, 13 tuổi, thuở còn chạy rông chơi
bên mấy cổ tháp rêu phong Chiên Đàn, cạnh dòng sông Tam Kỳ và bãi biển Tam
Thanh xanh biếc mộng.
Không biết đất trời có muốn đẩy xô chàng vào
cái nghiệp thi sĩ bị đày đọa hay chăng mà bắt chàng phải mồ côi cha hồi mới
13 tuổi, sớm chịu cảnh bơ vơ? Sờ sững, kinh hoàng, nhưng chàng không gục ngã
mà đứng bật dậy trên hai chân gầy sậy yếu, mở trừng trừng đôi mắt, giáp mặt với
tận cùng điêu linh của tồn sinh bức bách để băng qua trùng trùng chông gai,
chướng ngại, vượt qua cả ngàn oan khiên, nghiệt ngã và đã tựu thành mảnh bằng
Cử nhân Triết ở Viện đại học Vạn Hạnh, trước năm 1975.
Tâm hồn sớm hun đúc trong nỗi buồn đau thân phận
kiếp người, ngậm ngùi uống cạn chén đắng cay đầy lệ trào máu ứa, không ngừng
nhức nhối trước bao bão lốc khốc liệt, khiến cho hồn thơ chàng chan chứa màu
huyết lệ, trộn lẫn thanh âm trầm túy dị thường. Nước mắt, mồ hôi lặng trào
qua những phương trời gió loạn, phát xuất từ hố thẳm tâm tư dữ dội, kỳ lạ và
đã dồn tụ lại tinh hoa, tinh túy quanh vườn lòng kết trái đơm chồi nẩy lộc
thành những thi phẩm: Âm Vang Và Sắc Màu (1991) Phương Ý (2000) Hòa
Âm Âm Âm Âm…(2007) Huyết Âm (2008) Tinh Âm (2010) Bốn Câu Thất Huyền
Âm (2011) Tám Câu Lục Huyền Âm (2013) Năm Chữ Năm Câu (2014) và sắp
ấn hành Tổng Tập Thơ 45 Năm (1969- 2014) như để tổng kết bốn bề,
dồn lại tinh anh, cốt tủy một đời thiết tha tận hiến tuyệt cùng cho nghệ thuật
thi ca. Trừ hai tập Âm Thanh Và Sắc Màu, Phương Ý, sáng tác tại quê
nhà thân thiết Việt Nam, còn sáu tập sau đều được làm trên đất khách tha
hương, kể từ năm 2001, ở tận chân trời xa xăm bên kia đại dương nước Mỹ. Thế
là thấm thoát cũng gần 15 năm trời khơi vơi đằng đẵng, chàng thi sĩ phiêu
linh, lãng bạt ngàn phương viễn xứ, rồi định cư lâu dài nơi xứ sở Hoa Kỳ xa
nghi ngút khói mây bay.
Mây gió thời gian rộn ràng lượn vờn về quá khứ,
từ năm 1969, mới 17 tuổi, thơ Nguyễn Lương Vỵ đã có mặt trên các tạp chí Văn,
Khởi Hành rồi tiếp tục đăng ở các tập san Thời Tập, Văn Chương những năm sau
đó. Ngay từ lúc xuất hiện đầu tiên trên các tạp chí, tập san văn nghệ ở Sài
Gòn, thơ Nguyễn Lương Vỵ liền được anh em văn nghệ bốn phương đánh giá khá
cao, vì thơ có chất giọng riêng biệt, độc đáo, cô đọng với những bài tứ tuyệt
hàm súc, lung linh mới lạ như Nửa Đêm Thức Dậy Nhìn Mây Trắng:
Lung linh hồn quê cũ
Mây trắng phủ khắp trời
Nhớ trăng khô hết máu
Lời thơ ngậm ngùi một nỗi đau thời đại, một niềm
u hoài sầu nhân thế thê lương. Sống bồng bềnh, bấp bênh trong thời buổi chiến
tranh đang diễn ra tàn khốc trên khắp quê hương xứ sở, đêm ngày phải chứng kiến
biết bao cảnh tang thương, chết chóc, khổ lụy đoạn trường, nên nhà thơ nhạy cảm
sầu vô hạn man thiên. Biết làm chi hơn là lắng hồn vào âm nhạc, tìm nguôi
ngoai, khuây khỏa qua từng cung cầm sâu lắng Beethoven, lặng trầm những âm
thanh thánh thót, ngân nga quá cùng diễm tuyệt huyền hòa. Năm 1973 tập san Văn
Chương đăng bài thơ Âm Nhạc của chàng, có dòng ghi tưởng nhớ
Beethoven, một nhạc sĩ người Đức, dạt dào bản giao hưởng số 5 thấm thía sầu
câm nhập máu tim hồn:
Âm nhập cốt
Âm binh phiêu hốt tiếng tru
Ta tru một kiếp cho mù mắt
Mù lệ đề thơ để nhớ đời
À ơi ! Rượu đỏ hoàng hôn tắt
Ta dắt hồn ta túy lúy chơi!
Âm nhập cốt
Âm vàng mấy gót hồ ly
Vạn kỷ cung thương còn réo rắt
Còn ru ta mãi quãng đời xanh
À ơi! Ai hát ngoài phương Bắc
Chờ nhau, tinh đẩu sáng long lanh…
Thạch cầm vỡ
Ngàn năm thơ thẩn với âm vang
Ta ôm trời đất sầu vô hạn
Thương nhớ Thanh Xuân mộng úa tàn
À ơi! Dâu bể chưa khô cạn
Chưa dứt tâm tư, vọng ngút ngàn…
Bài thơ ngân dài những âm vang nghẹn ngào cô độc
của chàng thi sĩ cô đơn rờn lạnh, một mình một bóng trong tàn xiêu hiu hắt, lặng
hồn nghiêng xuống hố thẳm uyên nguyên, chạm đến mạch ngầm hư linh cùng tuyệt…
Ngày tháng buồn tênh, ngơ ngác vạn cổ sầu. Đau khổ trào tuôn theo gót lữ lênh
đênh lưu lạc, chàng thi sĩ bơ vơ phải sớm rời khỏi gia đình, tự bươn chải,
mưu sinh kiếm sống để tiếp tục việc học hành qua các phố thị Đà Nẵng, Quy
Nhơn, Sài Gòn, thành thử chàng hay lặng lẽ, khép kín như muốn che dấu bi kịch
điêu linh của bản thân mình, ngay cả với những người bạn chí thiết, Nguyễn
Lương Vỵ cũng không hề hé răng kể lể. Tuy nhiên qua bài thơ Nói Với Người
Đã Khuất, chàng lại thổ lộ niềm đau thấu ruột bầm gan ngàn nhói buốt:
Muôn trước muôn sau là hạt bụi
Đất trời đa sự vẫn hồn nhiên
Như nhiên?! Bụi vẫn bay lầm lũi
Sương núi mây ngàn một cõi riêng
Bụi bay có một thằng con nít
Đầu chít khăn tang ngó sửng đời
Đời vốn mồ côi từ lịch kiếp
Con nít mồ côi cũng thế thôi !!!
Ngày sặc máu nuôi thân thơ dại
Đêm xanh xương tái mặt nhớ mồ
Mồ chôn xác tươi màu nắng quái
Thằng con nít âm thầm đi biệt
Bay và bay hạt bụi khốn cùng
Đời quá chật mà sao thống thiết
Chó tru lời nhật nguyệt linh lung…
Thằng con nít thò tay ra hái
Đóa mồ côi vẽ lại thời gian
Oan khiên đó chim kêu đầu bãi
Vút duyềnh quyên một tiếng lạnh tràn…
“Người đã khuất” ở đây là cha và hai người
chú ruột của nhà thơ đã bị chết oan khuất, bức tử một cách thảm khốc năm
1965. Chứng kiến cảnh đau đớn tột cùng ấy, thi nhân trực nhận, thấy ra bộ mặt
thật của chiến tranh Việt Nam và thấm thía quặn lòng, cảm thương vô hạn núi
xương biển máu của cả dân tộc một thời. Buốt cóng long đong mấy mùa đông dài
lạnh lẽo trong bóng tối côi cút, buồn bã quá độ thê lương, bước đi giữa chợ đời
bão loạn đầy oan nghiệt, xót xa giã từ lũy tre bờ giậu, ngõ trúc, vườn rau, bụi
chuối… Thôi hết rồi, sông ơi, chảy đi nhé! Chảy đi những chiếc lá vàng rơi rụng
bên cổ tháp Chiên Đàn hoang vắng tịch liêu, chảy đi máu lệ hận thù u uẩn, chảy
đi bao thảm họa hoành sinh, mịt mù u ám ở cố quận Tam Kỳ:
Sông ơi, em chảy bao giờ
Nước mùa sẫm lục, bến bờ về xa
Ta cầm viên sỏi phôi pha
Ném lên ngày rộng, vòng hoa tím chiều
Chiên Đàn lá rụng hoang liêu
Hồn thơ dại nhớ cánh diều đứt dây
Ta mang xương máu lưu đày
Làm thân đất khách, ăn mày sương thâu
Đêm cuồng những cánh buồm nâu
Ngày điên khóc hận bên cầu nước trôi
Dang tay đón nhịp luân hồi
Thấy trong ngất tạnh núi ngồi vong thân
Sông ơi, em chảy trong ngần
Khắc ghi những dấu mộ phần ban sơ
Người thân thiết giục sang bờ
Người xa lạ bỗng không ngờ… mình thôi!
Quán Rường miếu cũ bình vôi
Hồn tre trúc dựng trang đời Thu Đông…
Quán Rường nằm giữa hương đồng cỏ nội, nơi một
thời đôi chân trần trụi bé bỏng thơ ngây tha hồ nhảy nhót, chạy tung tăng dọc
theo mấy bờ ruộng lúa thả diều, tắm nắng ven sông, thả gót lan man ngát mộng
gió nguyệt rằm. Tâm hồn thi nhân vẫn ngàn năm còn lưu giữ màu xanh cố quận,
rưng rưng trong đôi mắt buồn xa vắng, lặng vờn theo gió nắng trời trăng sương
vời vợi… Ơi chao! Chẳng biết nói gì. Cầm cây bút viết dòng thi ca trào… Ồ, ồ,
vừa đi vừa mần thơ trên khắp dặm phù du lữ thứ vui buồn. Cuộc đời bắt đầu
chơi vơi, chìm nổi theo dòng dâu bể vô thường, tuy phải chịu nhiều thử thách,
gian truân, nhưng thi nhân vẫn âm thầm hàm dưỡng một nội lực vững chãi, một nội
công thâm hậu. Chàng buông bỏ bớt hành trang, để nhẹ nhàng đi và đi và đi
phiêu nhiên, phóng đãng như là cái nghiệp mệnh bềnh bồng, không thể nào dừng
chân lại được. Bước cô lữ gõ nhịp hòa âm bài Phương Đông hành lạnh rờn xương
xảu máu me, nghe tiếng khóc điệu cười của nhân loại trong từng trận trận điêu
linh, ngập ngụa biển dâu giữa Âm Vang Và Sắc Màu lãng đãng:
Ngàn năm bước thấp bước cao
Ta xin bước tiếp, bước nào nữa đây ?!
Bước xa : Viễn tượng hao gầy
Bước gần : Hiện tại vẫn đầy bão giông
Vết thương nhân loại đèo bòng
Vết bầm thế giới những vòng quay nhanh
Khóc hờ, chén rượu tàn canh
Cười khan, cạn hết bài hành phương Đông
Người em nô rỡn bụi hồng
Hát rong oan nghiệt, tạ dòng sông xanh
Ngàn năm sầu dựng trường thành
Ta xin cúi lạy âm thanh sắc màu
Điệp trùng thế kỷ trôi mau
Thương câu lục bát mà đau lục bình
Quê nhà: Hoa Nắng quyên sinh
Xứ người: Trăng Huyết run mình chết theo
Hàm ơn ngọn lửa thầm reo
Đêm thiêng rạch một tiếng kêu sáng lòng
Vẫn còn những bước thương mong
Trong tim hồn thi nhân vẫn luôn luôn đồng vọng
những âm dư, âm vang, âm thanh, âm hưởng, âm ba, âm động, âm trầm, âm tĩnh,
âm diệu, âm huyền miên man bất tận bản Hòa Âm Câm Nín Máu. Tiếng Âm hình
như vang dội, rền ngân một cõi phiêu bồng trong thơ Nguyễn Lương Vỵ đâu từ tiền
kiếp xa xôi vọng về, để Huyết Âm bật lên một câu hỏi quyết liệt và
đồng thời cũng là lời đáp thâm trầm:
Khởi kỳ thủy là Âm ?!
Âm huyết lá
Huyết thi ươm nắng lạ
Đá khóc sắc chiều tà viễn xứ
Bướm rung chuông
Rung hết vết thương sâu…
… Khởi kỳ thủy là Âm?!
Chôn hoàng hôn trong huyết lá
Chôn tịch liêu trong huyết thi
Rừng âm mưa vô sắc
Biển âm mưa vô sắc
Huyết âm em trong giọt nước sơ huyền…
Giọt nước sơ huyền là những tiếng rơi từ thi
tưởng xứ mà nhà thơ thường lắng nghe trong lúc tàn khuya trăng khuyết, hay giữa
buổi ngọ thiên tuyệt tích một mình. Thinh lặng sắt son, hồn thơ chất chứa đầy
niềm trắc ẩn về kiếp nhân sinh qua từng hơi thở lâm ly, bi ai mà dạt dào hào
khí, vi vút ngút ngàn như tiếng hát trữ tình, long lanh lấp lánh bản Thanh
Ca:
Cảm ơn mộng mị cảm ơn đời thường cho ta giàu
tưởng tượng cho ta giàu thơ ca từ buổi đầu xanh chưa ráo máu đầu bây giờ vẫn
còn mang theo muôn triệu mặt trời lung linh giữa trần gian tràn sắc nắng bay
qua ngực rộng bay qua mãi mãi bay qua đến bao giờ chẳng biết nhưng ta biết
thơ ca là chiếc lá diệu kỳ là chiếc hôn diệu vợi của nòi tình muôn triệu năm
vậy đó em ơi ta chỉ biết mần thơ để thở phập phồng hai lá phổi một buồng tim
rung động mấp máy hai con mắt xa xăm nhớ trời cha thương đất mẹ vô cùng vô tận
vô biên hai bàn tay bấu chặt tiếng cười tiếng khóc núi sông bà con làng xóm
láng giềng ruột thịt không riêng tây gì nữa ta mở cửa đón vào trao bài thơ đạm
bạc tẩm muối mặn gừng cay ngày hôm xưa mần sao ngày hôm nay mần vậy ân tình
trọn vẹn vậy đó em ơi ta chỉ biết mần thơ như bến bờ tụ lại như tiếng đờn cò
thiệt chẳng biết mần sao nhưng ta biết thơ ca là cái liếc ngấm ngầm là cái
nghe thâm hậu thấu trời thấu đất thấu tử cung cuộc sống cơm áo gạo tiền điên
đảo em ơi đổ mồ hôi sôi nước mắt không phải dễ đâu nha thơ ca sát sạt đời thường
cũng soi gương rửa mặt ì xèo sống hết ga mần hết cỡ mới có thơ để thở để thấy
rõ mặt nhau mai sau vạn đại gì gì cũng phải vậy đó em ơi ta thèm đi suốt xứ
thèm phố phường rừng núi ruộng đồng thèm ao suối sông hồ biển nhỏ biển to
thèm niềm vui thèm nỗi buồn thèm em thèm tất cả xương da mộng mị đời thường
cho thơ ca càng bổ khỏe phương phi vì nhau mà sống vì nhau mà chết nên chẳng
dễ gì ta chép hết khúc Thanh Ca…
Thanh Ca là bài thơ viết một mạch như nước
chảy mây trôi, như bản hòa âm tâm đắc của thực và mộng, chung và riêng, trời
với đất, cất lên thành nhạc thành thơ, là tiếng hát yêu đời tha thiết, yêu sự
sống nhiệm mầu trong từng hơi thở, yêu nhạc, yêu thơ và mần thơ ráo riết,
chuyên cần, siêng năng, tận tụy….Nhưng thơ là gì mà mê mẩn mần hoài như rứa?
Thưa rằng vô lượng kiếp rồi. Chuyện thơ với thẩn chao ôi ly kỳ. Thôi thì chẳng
biết nói chi. Cười vang một tiếng tức thì thấy ra… Ồ ồ, thấy ra, nhìn ra, hiểu
ra, ngộ ra cái gì không rõ nữa, nhưng khi biết xem sinh tử như hoa đốm giữa
hư không thì cũng rỗng rang, vô ngại mà tự tại nhàn du, luân vũ khúc thường hằng
rồi. Mỉm cười bắt tay với cái chết, ôm ấp vi vu với tử thần, bắt tay với vô tận,
như Nguyễn Lương Vỵ hoan hỷ bắt tay Bất Tuyệt:
Chìa ta ra bắt tay cái chết
Cái tuyệt vời giống hệt cái em
Cái vạn thuở nở ra vạn kiếp
Cái hình hài nhiếp dẫn sương bay…
Chìa tay ra bắt tay bất tuyệt
Phía đầu non xuất huyết biển xanh
Huyết vũ trụ bụi mù thao thiết
Tủy càn khôn chôn giọt nắng tan…
Chìa tay ra bắt tay vô tận
Tuyết băng kia ôm hận trắng ngời
Trắng rợn rợn trắng rờn rờn trắng
Nhắn một lời Vắng Lặng rồi thôi !!!
Vắng Lặng là gì? Im lặng có nghĩa là chi? Vô
ngôn bất khả tư nghì ngắm trăng. Rỡn mây đùa gió vĩnh hằng. Đá cười sỏi hát rợn
băng tuyết rờn. Tận miền tuyệt đích hàm ơn. Nghe ra mưa nắng sương vờn qua
sông… Hoan ca hòa trong niềm cô tịch, lặng lẽ trở về cõi ban sơ tuyệt diệu vô
vàn. Bản đại tấu khúc Hòa Âm Câm Nín Máu của Nguyễn Lương Vỵ thấm cảm
vô biên, huyền hòa vô lượng những cái Không và cái Có giữa chập chùng cõi tạm
phù vân. Rồi hoát nhiên linh thức thi nhân trực nhận gốc Đạo và nguồn Thơ vốn
là một, viên dung rốt ráo, cho nên thong dong, thư thả bước ra vào:
Nhìn trong đạo thấy thơ
Nhìn trong thơ thấy gạo
Nhìn trong gạo thấy mình
Có khộng thiệt rốt ráo…
Đó là cái thấy trùng trùng duyên khởi giữa cuộc
lữ quy hồi vĩnh cửu, là những bước chân bất nhị phiêu nhiên trên cung bậc bất
tuyệt của Nhạc và Thơ. Thơ như nghiệp mệnh lạ lùng. Nghe nhìn suy gẫm riêng
chung trong ngoài. Thơ về nguyên chất trần ai. Viết lên cẩn trọng miệt mài
ngân rung… Rung ngân giữa thiên thanh vĩnh thúy những tiếng lòng sơ thủy ngát
xuân phong. Trong lời bạt tập thơ Huyết Âm, thi sĩ Lý Đợi có trích dẫn lời
Nguyễn Lương Vỵ lý giải, bày tỏ về thơ: “Hành trình của văn học nghệ
thuật nói chung và thi ca nói riêng là sự trở về Tịch Liêu, Tịch Lặng, Tịch Mịch
như Nguyên Thủy, Nguyên Sơ của nó, bằng bàn chân, bàn tay có gắn con mắt, lỗ
tai trí tuệ bão giông. Vì vậy cứ tiếp tục mần thơ. Mần một cái việc Đại Tào
Lao, hoan hỷ điên theo kiểu rung động của mình. Thế mà vui !” Như vậy
chuỗi Âm trong suốt đời thơ Nguyễn Lương Vỵ, phải chăng là nỗ lực
chuyển Âm, đẩy Âm cho đến chỗ tận cùng, chỗ Tịch Liêu Vắng
Lặng, Tịch Mịch như Nguyên Thùy, Nguyên Sơ của tính thể ban đầu?:
Câu thơ này kiên khổ
Lì đòn chờ âm rung
Chờ nát tan tri ngộ
Chờ ngất gió loạn bùng
Một cú nhảy sau cùng…
“Một cú nhảy sau cùng” là một cú nhảy trọng
đại, rốt ráo để nhảy tung vào cõi Hoan Hỷ Địa, Hoan Hỷ Điên như
ước nguyện thiết tha của người thi sĩ trọn đời miên mật Tu Thơ:
Tu thơ là tu chữ
Là tu e-mờ-em
Đánh vần cho thiệt bự
Hiện cái em cho xem
Nhem thèm hết vũ trụ…
Tu thơ là tu hú
Hú làm sao cho lâu
Cho huyết tan máu tụ
Nở một nụ nhiệm mầu
Bồng em tu cho mau…
Bồng em tu suốt kiếp
Kiếp sau thề tu luôn
Tu một lèo chưa kịp
Thơ rụng đầy một guồng
Biết nắm mới biết buông…
Giọng thơ cà rỡn bông đùa nhưng nghiêm túc,
nghiêm chỉnh. Em ở đây là Thơ, là cái Đẹp vĩnh cửu mà thi sĩ hết lòng tín mộ,
tôn thờ trên chốn trần gian vừa điêu linh mà cũng vừa thơ mộng. “Biết nắm
mới biết buông” là câu thơ sấm rền, huyết lệ của một người đã từng nếm
trải biết bao khổ lụy, bi kịch kinh hoàng, khủng khiếp của cuộc đời. Buông là
buông xả, buông bỏ, buông xuống hết sạch sành sanh mọi cái gọi là sự nghiệp,
tài sản, bằng cấp, lợi danh… của suốt một cuộc bình sinh tận tụy, hì hục tạo
dựng trên cõi phù vân nhân thế này. Biết buông bỏ được vì đã biết nắm cầm chắc
nịch trong hai bàn tay rớm máu, thấm đẫm đủ đầy kinh nghiệm lịch lãm giang hồ,
rờn rợn giá băng quằn quại của kiếp con người. Bao nhiêu hương sắc trần gian,
âm vang, hình tướng, bao nhiêu học thuyết, triết lý, chủ nghĩa, dục vọng, sân
si, hỷ, nộ, ái, ố… đều tan biến vào hư không, chỉ còn lại lấp lánh ánh tinh
sương, long lanh rực ngời gió trăng, tặng trao hào phóng, trên đường về tịch
mịch vô ngôn cùng Hòa Âm Bụi Đỏ:
…Vịn hạt bụi chùi lau mây chín cõi
Nhạc mười phương lửa ngún gió hòa âm
Âm bụi đỏ chiều xa ta đứng ngó
Dáng em nằm, lông ướt nắng mênh mông
Hú một tiếng chiều ơi! Rơi đáy mộ
Bụi còn đau? Sau trước tỏ nguồn cơn
Nhạc vẫn rụng, ngàn sông kia đã ló
Chút mầm kia, ta cúi lạy hàm ơn
Ơi bụi đỏ, có ngàn trùng lưu dấu
Có em đau nhật nguyệt với sơ huyền
Với tuyệt đích Hòa Âm Câm Nín Máu
Trong một bức thư, nhà thơ Nguyễn Tôn Nhan gởi
Nguyễn Lương Vỵ, tháng 6 năm 2007 (in lại trong tập thơ Hòa Âm Âm Âm
Âm…) có đoạn viết: “Thi ca sẽ giúp “sau trước tỏ nguồn cơn.” Đến
bây giờ, ở trong nước và ngoài nước (thực ra tôi đâu có khái niệm gì về
trong hay ngoài) tôi chỉ nhờ thơ Vỵ giúp tôi tin ở những cuộc “viễn mộng” xa
xôi nọ. Tôi phải cảm ơn Vỵ nhiều lắm. Hãy cho tôi đọc nhiều thơ nữa đi, đọc
suốt đời càng thích. Vì “chữ” của Vỵ đâu phải chỉ có “chữ” không thôi, nó
chính là Tính Linh của chúng ta, dù chỉ là loại tính linh đầy những máu:
Với tuyệt đích Hòa Âm Câm Nín Máu
Bài Hòa Âm Câm Nín Máu ấy mới chính là tiếng gầm
rung rinh cát bụi trần gian. Phải không Nguyễn Lương Vỵ?” Tâm tình của
tri kỷ, tri âm rúng động đất trời, Nguyễn Lương Vỵ đã đáp lại bằng một bài
thơ với tất cả tâm huyết của mình, nhân ngày giỗ giáp năm của Nguyễn Tôn Nhan
(mất ngày 31.01.2011) Cuối Năm Nhớ Nguyễn Tôn Nhan:
Bồng bềnh bồng bềnh như u mộng ảnh
Đêm cuối năm sóng sánh một trời thơ
Chữ biệt tích ý biệt tăm quá lạnh
Nhớ bạn hiền ngồi độc ẩm bơ vơ
Tay gõ phím vu vơ tìm tiếng vọng
Tiếng cười năm xưa giọng nói vang trầm
Hất mái tóc nhắc Lão Đam lồng lộng
Đạo khả Đạo… phiêu bồng cao hứng ngâm…
Thánh Ca rất xanh dưới trời Tượng Số
Lá tương tư tự vẫn dưới chân đồi
Thi sĩ để tang cùng mây vạn cổ
Rồi trầm mình trong huyệt mộ mồ côi
Tay gõ phím tìm nhau nơi đất lạ
Mà trời rất quen Lục Bát Ba Câu
Câu lục cuối nhẹ thênh mà buốt quá
Khều cái mênh mông sấm động gió đau…
Hãy dựng sẵn ngôi nhà mây Ngu Cốc
Chờ ta về cùng đọc thơ huyền âm
Lạnh lạnh lạnh trầm trầm trầm tán dóc
Huyền chi hựu huyền nhậu với sương câm…
Tình bạn của hai nhà thơ Nguyễn Tôn Nhan –
Nguyễn Lương Vỵ rất chân tình, trước sau như nhất, thật hy hữu, hiếm hoi
trong thời buổi nhiều đổi thay này. Chính niềm tin vào thi ca, vào cái đẹp
vĩnh hằng của thi ca đã tạo được sự rung động, đồng cảm sâu xa, quá đỗi chí
tình, chí cốt, tâm đầu ý hợp đến như vậy. Thấy gì chăng, cõi thơ mở ra những Âm và Chữ là
sự khám phá lâu dài, kiên nhẫn, không mệt mỏi của thi nhân. Với vốn tri thức
Đông phương thâm trầm, sâu thẳm, thường ẩn mình trong tịch cốc cô liêu, để
nghe lại cái Nghe, thấy lại cái Thấy ban sơ, nên chi mỗi tập thơ ra đời là một
dấu ấn độc đáo, chứa đầy sự khai phá mới lạ của một người có dụng công, nỗ lực Tu
Thơ. Thơ của chàng mang chất cổ điển nhưng cũng rất hiện đại, giàu hình ảnh,
gợi hình gợi cảm, nhiều biểu tượng, siêu thực, tượng trưng và ẩn dụ, hoán dụ
tài tình. Hồn thơ lênh láng, trang trải, bay lên hòa âm thâm thúy cùng với những
bậc tiền bối như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Bùi Giáng, Hàn Mặc Tử… Từ thuở nhỏ,
thi nhân đã tự nhận Nguyễn Trãi là bậc thầy trong đời thơ của mình, hết lòng
kính ngưỡng bậc đại thi hào dân tộc này, đối với Hàn Mặc Tử, nhà thơ vĩ đại của
thi ca Việt Nam, Nguyễn Lương Vỵ dành riêng một niềm quý trọng, ngưỡng mộ vô
cùng và nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ thượng thừa mà thi ca và tư tưởng đã thấm
sâu vào xương tủy bao nhiêu tơ tưởng vô vi, ý niệm tiêu dao, hào sảng un đúc
thành nghi ngút lửa tim hồn. Đốt lên ngọn lửa Thơ Vô Tận Vui huy
hoàng bát ngát, mở ra Ngày Tháng Ngao Du phóng khoáng tang bồng,
khiến cho Nguyễn Lương Vỵ luôn luôn gìn giữ ánh lửa thiêng đó, không bao giờ
để ngọn lửa thi ca trong lòng tàn lụn, làm nhụt chí nam nhi. Đi từ ngạc nhiên
này đến ngạc nhiên khác, dưới nhãn quan của kẻ đăng trình, thích khám phá
phiêu lưu, mạo hiểm vào những phương trời sáng tạo, ưa nhập cuộc tưng bừng
luân vũ rạt rào, nhào lộn giữa tồn sinh, thử xem chữ tài chữ mệnh có lênh
đênh, bềnh bồng trôi lăn lông lốc đến đâu. Sẵn sàng dang tay chấp nhận tất cả
mọi nghịch cảnh như Thúy Kiều chấp nhận mười lăm năm luân lạc nổi trôi. Trôi
và chảy, chảy và trôi cho đã cái đời lêu lổng lang thang, để rồi cùng rung
lên cung bậc Hòa Âm Lục Bát Nguyễn Du - Bùi Giáng:
Một xe trong cõi hồng trần
Như bay (Hãy một đôi lần thử xem!)
Bay đi bất kể ngày đêm
Vù mu thiên cổ đã mềm môi chưa?
Sá gì Tài Mệnh cù cưa
Trăm năm trong cõi dây dưa em Kiều
Hỏi rằng: Em đẹp bao nhiêu?
Bao nhiêu thì bấy nhiêu điều Đạm Tiên
Liên tồn hồn hậu tuy nhiên
Đoạn trường thế ấy cuồng điên thế nào?
Như lao xuống vực như trào lên không
Hỏi rằng: Em có mênh mông
Mà sao bát ngát từ trong ra ngoài?
Tất nhiên cái đó u hoài
Thành ra viễn mộng có đòi được đâu
Miên trường giấc ngủ dài lâu
( Làm sao biết được canh thâu em về ! )
Em Kiều em Thúy em Huê
Em tồn sinh mở bốn bề dư vang…
Cái giọng thơ nồng nàn pha chút rỡn đùa, tiếu
lâm nhưng nghe đau thấu ruột gan của kẻ hậu sinh đồng cảm với bậc tiền bối
Nguyễn Du và đàn anh Bùi Giáng. Thi hào Nguyễn Du qua Truyện Kiều đã đưa ngôn
ngữ Việt Nam đến chỗ vô cùng diệu dụng của hiển ngữ và mật ngữ, vừa trong
veo, thanh khiết vừa kỳ ảo, siêu việt, xuyên suốt muôn tình qua cung bậc sáu
tám tuyệt hảo vô song, mở ra một con đường mây trắng ngoạn mục, thung dung
cho thi nhân cất bước. Thơ và nhạc hoài vang ngân trên gót lữ phong trần,
chàng thi sĩ chỉ còn biết tiếp tục sống và sống quyết liệt, sống hết mình hết
dạ với cõi người ta, với anh em bằng hữu và nhất là bạn bè văn nghệ tứ xứ mười
phương. Đối với chàng, sống trên cõi trần gian này, bạn bè là trên hết, ưu
tiên trước hết, dù còn sống hay đã chết, dù thành đạt hay hàn vi, chàng vẫn
trân trọng đối xử với tất cả tấm lòng nhiệt tình, sòng phẳng, hăng say. Về
cái khoản bạn bầu thân sơ này, có lẽ chàng là người có bầu bạn đông đảo nhất.
Gần gũi, mật thiết như ruột rà, có những mối giao tình sâu đậm, sâu xa là nhà
thơ Joseph Huỳnh Văn, một kẻ tài hoa, đức hạnh, thanh lương, được chàng tặng
thơ khá nhiều, như bài Khúc Cầm Dương Trên Đường Về:
… Này khúc cầm dương trên đường về
Mười lăm năm ta vẫn lóng nghe
Vẫn mở ngực chiều ngực khuya ngóng đợi
Câu thơ tuyệt bi âm đâu hề chi
Đâu hề chi tiếng vọng lá khô
Bi âm kia là âm huyền hồ
Cao hứng thì nhắn trăng xưa hạc cũ
Còn không thì cụng trán với hư vô
Hề chi tiếng hú của muôn chiều
Bi âm kia là âm lá reo
Là nắng của ngàn thâu là yếm thắm
Là các em đang hát ngát đang gieo
Muôn thu ngơ ngác cũng vậy thôi
Ngồi lau năm tháng nhắn xa xôi
Lời cổ thạch trăng huyền âm gõ nhịp
Người cười im ta khóc nín sóng đôi…
Đó là 4 khổ cuối của bài thơ, Nguyễn
Lương Vỵ viết nhân kỷ niệm 15 năm, ngày giỗ thi sĩ Joseph Huỳnh Văn. Mối giao
tình của nhị vị thi sĩ này cũng khá sâu nặng, như đôi bạn vong niên. Năm
1973, Nguyễn Lương Vỵ gởi bài thơ Âm Nhạc đến tập san Văn Chương và
đã được Joseph Huỳnh Văn chọn đăng ngay số báo tiếp sau. Cơ duyên thiện cảm bắt
đầu từ đó, càng ngày càng bền bỉ tri âm cho đến năm 1995, thi sĩ bất ngờ lên
đường, qua chơi bên miền không có đâu giữa thiên thu vời vợi...
Trời thơ Nguyễn Lương Vỵ tiếp tục rung ngân bản
hòa âm thâm cảm với những tâm hồn đồng điệu, dù còn sống hay đã lên xe tang
chạy về thiên cổ, thi nhân vẫn một tấm lòng chia sẻ ruột rà, như nhà thơ Võ
Chân Cửu, một bạn hiền cố cựu từ lúc còn trọ học ở phố biển Quy Nhơn thuở thiếu
thời. Cuối năm 2012, Võ Chân Cửu làm một chuyến du lịch, phiêu lưu sang Hoa Kỳ.
Suốt hai tháng rong chơi khắp nước Mỹ đến ngày quy cố hương, Nguyễn Lương Vỵ
không quên gởi gắm niềm chia sẻ qua bài thơ Một Mình:
… Một chớp nháy một niềm trời
Hạt bụi bay lang thang chơi
Vết hằn xoáy theo trốt gió
Miềm thương tít tắp trùng khơi
Rạch một âm sâu nhớ bạn
Gõ vài phách lạnh đau đời
Năm với tháng chìm trong ngực
Mở lời thưa một tiếng thôi…
Một lời thôi cũng đủ, một tiếng thôi cũng vừa,
phải không hỡi những văn nghệ sĩ tri tâm, tri tình? Tình huynh đệ, nghĩa bạn
bè sâu nặng, gắn bó với thi ca qua bao nhiêu cuộc dâu bể vô thường vẫn không
hề suy giảm mà càng thêm thấm thía chứa chan, quả thật là quý giá biết bao
nhiêu. Nhiều khi rảnh rỗi, ngồi thưởng thức những vần thơ Nguyễn Lương Vỵ viết
về những thi nhân đã khuất như Huy Cận, Hồ Dzếnh, Hữu Loan, Quang Dũng, Phạm
Hầu, Phạm Phú Hải, A Khuê, Vũ Hữu Định, Nguyễn Tất Nhiên… thì có lẽ, ai trong
chúng ta cũng không tránh khỏi xúc động bồi hồi. Ngay cả khi làm thơ gởi tặng
những thi sĩ còn hiện tiền tại thế, Nguyễn Lương Vỵ đều dành trọn vẹn sự trân
trọng với người thơ, với Thơ bằng tất cả niềm cảm ứng có được của mình. Đó là
điều hy hữu, đáng trân trọng trong phong cách sống, lối cư xử ở đời như một
nhà thơ đích thực Đông phương.
Mang mang khúc tình ca nhã nhạc rung rinh. Nằm
trong cô tịch, nhà thơ lặng yên, nghiền ngẫm bao tuồng đời diễn ra khắp ta bà
là bóng hiện của cảnh giới tự tâm. Tâm mình nghĩ sao thì ứng hiện ra cảnh đời
như vậy đấy thôi. Rồi thôi, thôi vậy một đời. Hay nghìn muôn kiếp cũng trôi bọt
bèo. Ấy tuy nhiên vẫn còn theo. Bóng ai cái nghiệp còn vèo bay qua. Nghiệp
thơ nghiệp mộng đây mà. Rung ngân mần tiếp tuôn ra dòng dòng. Méo tròn ngôn
ngữ đục trong. Đều do mình buộc xỏ tròng hay buông… Vì thế thi sĩ thường hay
lui về với chính mình, lặng lẽ độc thoại nội tâm trong thi tưởng xứ uyên mặc,
uyên tư… Sống lang thang lãng tử, biệt xứ gần mười năm trời trong sầu nhớ
khôn nguôi về quê nhà, cố xứ mù xa, rồi một hôm bất chợt nghe hung tin mẹ già
đã tàn xiêu yếu ớt, còn gắng gượng chút tàn hơi thở sau cùng, nên thi sĩ liền
vội vàng, tức tốc bay về cố quận. Rưng rưng quỳ xuống giữa vườn xưa, còn thưa
thớt màu cỏ cây héo úa, tàn tạ trong nắng xế chiều tà vàng vọt, sụp cúi lạy
mười phương gò đống, mồ mả, lạy hết cõi ta bà mà tạ ân sâu nghĩa nặng tình
thâm:
Nghe tủy xương réo rắt mưa dầm
Có lịch kiếp chảy xiết huyễn ảo
Cho tuyệt cùng âm, âm điếc thâm
Con về bên Mẹ, thấy tuyết đỏ
Thấy tủy xương trong veo vút gió
Có trầm luân chảy theo tiếng chuông
Cho hồn cháy xanh um cổ độ…
Con về bên Mẹ, thấy lá thắm
Thấy tinh sương xướng âm thăm thẳm
Lục phủ ngũ tạng bè mây trôi
Tụng một thời kinh cho huyết ấm
Quỳ xuống lạy hết cõi ta bà
Tai mắt rưng rưng rừng thi ca
Chắp tay hứng trọn huyết âm Mẹ
Lô hỏa thuần thanh âm huyết hoa !!!
Mẹ và em là hai hình ảnh đẹp đẽ nhất trên cõi
nhân gian này, đẹp quá đi thôi, khiến chàng thi sĩ ghiền sống đến độ say mê dữ
dội, dang rộng hai tay ra mà ôm trọn lấy toàn thể cuộc đời. Giống như văn hào
Dostoievsky nói: “Cái đẹp sẽ cứu rỗi thế giới” Nguyễn Lương Vỵ
cũng đem hết tâm tình hiến dâng cho cái Đẹp, phụng sự cái Đẹp qua hành
động rất trân trọng là quỳ lạy cái Đẹp, một hành động tôn nghiêm như lạy Phật,
lạy Chúa chưa từng thấy xưa nay:
Lạy em đẹp mãi cho ta mừng
Mần thơ ào ạt như chưa từng
Cái chi cũng đẹp cũng ứng mộng
Cỏ áy hừng đông mượt quá chừng…
Lạy em đẹp mãi cho ta vui
Mần thơ ngùn ngụt ngún một nùi
Chẳng sợ hồn tan hay vía nát
Rất vô tư nhậu với ngậm ngùi…
Lạy em đẹp mãi cho ta sướng
Mần thơ cộng hưởng với âm u
Chẳng sợ đầu non hay cuối vực
Rất hồn nhiên đụng cái mịt mù…
Nhìn thấy tất cả cái gì trước mắt, từ hoa lá cỏ
cây đến tinh tú, càn khôn vũ trụ, bất cứ cái chi chi cũng đều đẹp hết qua
hình ảnh người em thi ca. Em là biểu tượng cho cái đẹp hoàn hảo, trinh nguyên
tuyệt diễm nhất của trần thế. Em là nguồn cảm hứng bất tận cho nghệ thuật thi
ca, âm nhạc, hội họa và tác động mạnh mẽ vào mọi lãnh vực xã hội trong cuộc sống.
Người thi sĩ biết sáng tạo ra cái mới lạ, biết sống triệt để kỳ cùng cho bùng
nổ hết tam độc tham, sân, si cùng vỡ tan hoang hang ổ vô minh, nghiệp chướng.
Từ đó mới rực sáng tinh anh, thanh tịnh tâm hồn mà thưởng thức vẻ đẹp Chân
Thiện Mỹ kỳ tuyệt hiện về trên dòng yêu thương trong trẻo rạt rào, dào dạt từ
suối nguồn muôn thuở thương yêu diệu dụng. Diệu dụng cũng là biết mình đã đầy
đủ rồi, chẳng còn thiếu thốn điều chi. Biết đủ là một thái độ nhẹ nhàng,
thanh thản của kẻ thông tuệ, lịch duyệt trong cuộc sống đầy dịch chuyển, biến
động này. Không tham muốn, ôm đồm vơ vét, chẳng bươn chải, nhục nhằn chuyện
ăn uống se sua. Thua với hơn làm chi nữa giữa ngày tháng rong rêu nơi xứ lạ
quê người, thôi cứ nhẹ mỉm cười tri túc tự nhiên:
…Biết đủ nên bài thơ viết chậm
Âm trùng âm, đầm đậm kiếp người
Gỏn lỏn một đôi lời lạnh ấm
Gởi về sau lẩm bẩm tài bồi
Biết đủ nên bài thơ viết nhanh
Ngôn trùng ngôn, níu thanh tượng thanh
Ta biệt xứ ?! Ừ ta biệt xứ
Mưa nắng bão bùng ngọn lửa xanh…
Ngọn lửa xanh mãi cháy ngời tịch mịch trong
lòng dường như gần đến độ lô hỏa thuần thanh rồi, cho nên thi sĩ tuy ngậm
ngùi nơi xứ lạ mà vẫn miệt mài sáng tạo và sáng tạo, nỗ lực kiên trì khai phá
cõi thơ Hòa Âm Thâm Cảm với một nguồn thơ bát ngát tràn bờ Huyết
Âm, Tinh Âm, Huyền Âm, cảm ứng Hòa Âm Bất Tận Tịch Mịch Sấm Rền trên
cuộc về vô sở trú như nhiên. Nguyễn Lương Vỵ đi về mặt đất hoang vu này, hú
lên một tiếng hú lanh lảnh lạnh rờn giữa bao la trong bóng chiều thiên thu
óng ả và hát vang bản Hòa Âm Câm Nín Máu vỡ cung sầu. Hòa Âm
Câm Nín Máu là bản hòa âm tâm nội tối hậu, chan chứa một điều chi bí ẩn
vô ngôn. Hòa âm muôn chiều diệu dụng phiêu bồng, phiêu lãng giang hồ bụi bặm,
trầm túy ca qua những sa mạc khô cằn nóng bỏng, những cánh rừng tuyết băng lạnh
buốt, suốt cuộc lữ hoang đàng vừa chạy vừa chảy và cháy ngời ngọn lửa thi ca
bừng bừng rực đỏ.
Đó là bản hòa âm kỳ vĩ của Nguyễn Lương Vỵ, một
thi nhân độc đáo, xuất cốt nhập hồn, qua lại lên xuống miền thực tại, chiêm
bao ảo diệu. Dạo lên tấu khúc cung đàn đầy sáng tạo, vang ngân thần khí hý lộng
ngôn ngữ nơi thi tưởng xứ, nhảy múa cùng chữ nghĩa chon von, chốn ngọn ngành Tính
Linh cực kỳ mỹ lệ. Thế là bản Hòa Âm Câm Nín Máu thấu thị
tử sinh, thấu triệt cõi nguyên sơ mở rộng từ trái tim hồng tinh khôi đã ngân
rung, rúng động tuyệt cùng với tất cả ba đời, sáu cõi trần sa. Hòa âm xanh
ngát hàng ngàn bài thơ kính tặng mười phương thục nữ, thấm đượm gió trăng bằng
hữu, thơm tho hương vị chí cốt ruột rà. Hòa âm giọt lệ và nụ cười, khổ đau và
hoan lạc, địa ngục và thiên đường, thẩm thấu hai miền âm dương, vượt qua biên
tế nhị nguyên nhằm mục đích hướng tới là nhảy tung vào cung bậc Nhất Như để rốt
ráo tận cùng Hòa Âm với Tinh Âm, Huyết Âm, Huyền Âm tâm đắc
ngay bây giờ và ở đây, một cách tự tại, thanh thản tự do.
Phải chăng, đó là khúc đại hòa điệu chơi, là bản
hòa âm vĩnh viễn miên trường của Nguyễn Lương Vỵ ? Tôi đã có dịp nhiều lần
nghe ra qua những lần tao phùng, trùng ngộ với thi sĩ tại nhà riêng ở Gò Vấp
hay các quán nhậu lai rai quanh phường phố Sài Gòn. Dịp gặp gỡ gần đây nhất,
nhân chuyến thi sĩ về thăm quê, là buổi họp mặt đầu năm 2014 ở nhà nữ sĩ Lê
Phương Châu, quận 6, Sài Gòn. Hôm ấy, có nhà thơ Võ Chân Cửu, Mịch La Phong,
Triệu Từ Truyền, Nguyễn Hữu Duyên và nữ sĩ Nguyễn Kim Anh, Hạnh Hiền tham dự.
Rồi vài ngày sau, ở quán Đất Phương Nam, có Trần Xuân Kiêm, Nguyễn Tiến Văn,
Phạm Việt Cường, Phù Hư và gần chục bằng hữu làm một trận lu bù, cụng ly tiễn
đưa thi sĩ qua lại Mỹ. Bữa đó, tôi có mần bài thơ này như thầm gởi theo điều
gì vi vu vi vút qua bên kia miền viễn xứ xa mờ, thở nhẹ tiêu dao du cùng mấy
bờ sương .khói tương tri:
THƠ TIỄN NGUYỄN LƯƠNG VỴ
Đã đi tận chân trời góc bể
Về nơi đâu cũng vậy tùy duyên
Không cầu chẳng đắc gì thêm nữa
Cứ thênh thang qua lại khắp trăm miền
Tan mù tối rơi trên cái thấy
Ngay bây giờ thở nhẹ tiêu dung
Cùng thơ nhập diệu phiêu bồng mở
Cửa thiên thu ôi tha thiết tuyệt cùng
Âm Vang Và Sắc Màu hư ảo
Tạo nên đời như huyễn mà thôi
Đôi bờ mộng thực đừng dính mắc
Thì tự nhiên xuống biển lên đồi
Hòa Âm với Tinh Âm Huyết Âm nhập
Vào vô thanh tan giữa vô hình
Huyền Âm thâm thúy trời Phương Ý
Dị thường nghe cơn gió thoảng phù sinh
Thơ Nguyễn Lương Vỵ trích
trong các tác phẩm:
Âm Vang Và Sắc Màu. Nhà xuất bản Trẻ, Sài Gòn
1991
Phương Ý. Nhà xuất bản Thanh Niên, Sài Gòn
2000
Hòa Âm Âm Âm Âm. Nhà xuất bản Thư Ấn Quán, New
Jersey 2007
Huyết Âm. Q&P Production. California 2008
Tinh Âm. Q&P Production. California 2010
Bốn Câu Thất Huyền Âm. Q&P Production.
California 2011
Tám Câu Lục Huyền Âm. Q&P Production.
California 2013
Năm Chữ Năm Câu. Q&P Production.
California 2014.
Tâm Nhiên
Nguồn; vanchuongviet.org
|
Thứ Hai, 6 tháng 2, 2017
Nguyễn Lương Vỵ - Thi nhân bất tuyệt hòa âm
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Nhà văn Văn Lê: Huyền thoại luôn bắt đầu từ sự thật
Nhà văn Văn Lê: Huyền thoại luôn bắt đầu từ sự thật Nhà văn Văn Lê vừa vĩnh biệt chúng ta. Ông là cây bút chuyên nghiệp và bền bỉ, cuối đờ...
-
Sự tích mặt đất và muôn loài Trái đất ngày xưa không được đẹp như bây giờ, một nửa đất sống, một nửa đất chết. Lúc ấy bề mặt quả đất ...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét