Màu tím trong thơ
Thông thường mỗi màu có một vài ý
nghĩa của nó, về một vài phương diện nào đó. Màu tím là mầu buồn, ấy là nói
theo cách thông thường, nhưng chỉ riêng ở xứ ta, người ta phân biệt màu tím ở
hai nơi: Chốn vương triều và nơi dân dã.
Trong triều phục
của các vua chúa Âu tây, thường có màu tím. Nhưng ở Trung Hoa và nước ta, ngày
xưa, màu của vua là mầu vàng. Áo vua màu vàng nên gọi là hoàng bào, có khi vẽ
rồng nên gọi là long bào. Theo quan niệm xưa, màu vàng thuộc vua, hoàng gia.
Tuy nhiên, có cái lạ, tại sao nơi vua ở thì gọi là “Tử Cấm Thành.”
Huế có 3 vòng
thành: Vòng ngoài cùng thì gọi là thành Huế. Phía trong thành Huế thì gọi là
Nội thành hay Thành nội Huế, có 9 cửa. Thành nhỏ phía trong, là chỗ sinh hoạt
của hoàng gia, là các điện nơi triều thiết thì gọi là Đại Nội, có 4 cửa: Cửa
chính gọi là Ngọ Môn (ngó ra hướng Nam). đối diện với Ngọ Môn là cửa Hòa Bình.
Bên phải là cửa Hiển Nhơn, bên trái là cửa Chương Đức. Các cửa nầy khi mở có
lính khố vàng (lính của vua) canh gác.
Trong đại nội, còn
có một thành nhỏ nữa, nơi dành riêng cho vua ở, canh gác rất nghiêm nhặt gọi là
“Tử Cấm Thành”.
Tử Cấm Thành có ý
nghĩa như thế nào? Chữ tử nầy có hai nghĩa có thể giải thích ở đây: Tử như tử
tế là tinh mật, kỹ càng và hai là sắc tím, sắc tía (Theo Hán Việt Từ Điển của
Đào Duy Anh). Tuy nhiên, có lần tôi hỏi ông chú họ của tôi là người rành chữ
Nho, thì ông giải thích tử có nghĩa là tím, thuộc về nhà vua. Trong quang học,
“tia tử ngoại” là tia sáng có mầu tím.
Dù có theo nghĩa Tử
Cấm Thành hay không, Huế, nơi vua quan thì nó rất gần với màu tím. Màu tím đó
được gọi là “Tím Huế”, như bài thơ sau đây của Nguyễn Bính:
Màu tím Huế
Thôi thế là em cách
biệt rồi!
Đường đi mỗi bước lại xa xôi
Tim tím rừng chiều, tim tím núi
Tim tím chiều hôm, tim tím mai
Đường đi mỗi bước lại xa xôi
Tim tím rừng chiều, tim tím núi
Tim tím chiều hôm, tim tím mai
Ban chiều tim tím
nhớ mong nhau
Đêm tối kìa em tím rất nhiều
Anh cúi xuống hôn màu tím giấy
Thư về em, tím nét thương đau
Đêm tối kìa em tím rất nhiều
Anh cúi xuống hôn màu tím giấy
Thư về em, tím nét thương đau
Mai mốt rồi đây lầm
cát bụi
Anh lại đường xa trải kiếp người
Tim tím rừng chiều, tim tím núi
Chiều hôm nhiều tím thế em ơi!
Anh lại đường xa trải kiếp người
Tim tím rừng chiều, tim tím núi
Chiều hôm nhiều tím thế em ơi!
Màu tím ở đây không
hẵn là do Nguyễn Bính tưởng tượng ra đâu! Huế nằm bên cạnh dãy Trướng Sơn.
Những buổi chiều hè, ngồi bên bờ sông Hương, nhìn mặt trời lặn sau những ngọn
núi chập chùng, người ta sẽ thấy mặt trời to, đỏ như một khối lửa trong lò thợ
rèn, từ từ hạ xuống, chạm vào đỉnh núi rồi tóe ra muôn ngàn tia sáng đỏ rực,
tưởng như sự va chạm vào núi làm cho mặt trời vỡ ra. Ánh sáng màu đỏ của mặt
trời chiếu vào mây, làm cho mây cũng đỏ rực lên một màu lửa như thế. Thế rồi,
màu đỏ mất dần, chuyển sang màu tím nhạt, đậm dần lên cho đến khi mặt trời
khuất sau dãy Trường Sơn. Màu đen dâng lên chìm ngập cả khung cảnh núi rừng
thôn xóm phía tây thành Huế.
Có lần tôi nói với
học trò của tôi rằng không thể có sáng tím mà chỉ có chiều tím. Tại sao? Màu
tím là màu pha giữa màu đỏ và màu đen. Màu đỏ là màu của mặt trời. Khi mặt trời
sắp lặn thì mầu đen dâng lên, như Xuân Diệu từng nói vậy: “Chiều lên dần dần,
chiều không xuống.” “Chiều lên dần dần” có nghĩa là màu đen lên dần dần.
Khi màu đen dâng lên, hòa với màu đỏ của trời chiều tạo thành màu tím. Buổi
sáng, màu đen không lên dần dần mà chỉ có thể mất đi dần dần nên nó không hòa
với màu đỏ để tạo ra mầu tím được. Giải thích như thế, không biết có bị các họa
sĩ chê là múa rìu qua mắt thợ không?
Tuy vậy, cũng có
lần Xuân Diệu không nói là “Chiều lên”. Ông nói ngược lại: “Chiều xuống.”
Chiều ơi hãy xuống
thăm ta với!
Thiên hạ lìa xa đời
trống không!”
Chiều xuống là cách
nói thông thường của mọi người.
Trong bài thơ trên, Nguyễn Bính nhìn màu tím qua cảnh thực: Rừng, núi, chiều hôm, sớm mai đều tím. Tím không đậm mà “tim tím”, có nghĩa là hơi tím. Núi, chiều và cả giấy hơi tím một chút. Và tím cũng là nỗi nhớ, nỗi thương đau nên nó từ hơi tím chuyển qua tím hẵn, tím đậm hay còn gọi là tím than.
Trong bài thơ trên, Nguyễn Bính nhìn màu tím qua cảnh thực: Rừng, núi, chiều hôm, sớm mai đều tím. Tím không đậm mà “tim tím”, có nghĩa là hơi tím. Núi, chiều và cả giấy hơi tím một chút. Và tím cũng là nỗi nhớ, nỗi thương đau nên nó từ hơi tím chuyển qua tím hẵn, tím đậm hay còn gọi là tím than.
Trong một bài thơ
khác, Nguyễn Bính chỉ vẽ ra vài nét về Huế, chỉ vài nét mà ông cũng không thể
không nhắc tới màu tím:
Vài Nét Huế
1.
Cầu cong như chiếc lược ngà,
Sông dài, mái tóc cung nga buông hờ.
Đôi bờ, đôi cánh tay vua
Cung nga úp mặt làm thơ thất tình.
Cầu cong như chiếc lược ngà,
Sông dài, mái tóc cung nga buông hờ.
Đôi bờ, đôi cánh tay vua
Cung nga úp mặt làm thơ thất tình.
2.
Ở đây áo tím riêng màu
Bài thơ nón mỏng che đầu mỹ nhân.
Loanh quanh xóm vắng, đường gần
Ấy ai làm dáng phi tần với ai!
Con sông không rộng mà dài
Con đò không chở những người chính chuyên.
Ở đây áo tím riêng màu
Bài thơ nón mỏng che đầu mỹ nhân.
Loanh quanh xóm vắng, đường gần
Ấy ai làm dáng phi tần với ai!
Con sông không rộng mà dài
Con đò không chở những người chính chuyên.
3.
Ở đây có nước sông Hương
Có cây núi Ngự, có đường Nam Giao
Bồng bồng sáu nhịp cầu cao
Thờ ơ bóng mát nơi nào cũng xanh
Thâm u một dãi hoàng thành
Đình suông con én không đành bay đi.
Ở đây có nước sông Hương
Có cây núi Ngự, có đường Nam Giao
Bồng bồng sáu nhịp cầu cao
Thờ ơ bóng mát nơi nào cũng xanh
Thâm u một dãi hoàng thành
Đình suông con én không đành bay đi.
Vài nét ở trong bài
thơ trên lại nói nhiều về cung phi, cung Tần và vua. Cầu Trường Tiền cong
như cái lược ngà, nằm vắt lên hai bờ sông như hai cánh tay của vua. Điều ấy
không quan trọng bằng có một cung nga đang làm “thơ thất tình”. Có cung nga
đang làm dáng với ai, và hoàng thành thâm u một dãy thành dài.
Bài thơ thất tình
của cung nga, chính là bài thơ trong “Tần Cung Nữ Oán”:
Cặp mày xanh chiếc
lá cũng ghen,
Câu khiển hứng đánh
chìm dòng nước chảy.
Có một cung phi đời
Tần, ngồi bên dòng suối trong cung điện, nhặt một chiếc lá viết lên đó vài câu
thơ cho người tình cũ, mong rằng chiếc lá sẽ trôi xa, ra tới ngoài kia, ngoài
hoàng thành để mong sao người yêu cũ của cung nga nhận được, biết tới tấm lòng
của nàng không quên người tình cũ. Vậy mà chiếc lá ghen với sắc đẹp của nàng,
đã không trôi đi mà chìm xuống đáy nước.
Thử hỏi, trong
hoàng thành Huế kia, có bao nhiêu cung phi làm thơ thất tình như vậy?
Cái “áo tím riêng
mầu” đây là cái áo của cung phi. Và khi xa xôi cách trở như thế, kẻ trong nội
(đại nội), kẻ ngoài nội ai còn làm dáng với ai nữa?!
Đọc bài thơ nầy,
người ta có thể liên tưởng đến bài “Màu Thời Gian” của Đoàn Phú Tứ. Bài thơ tả
tâm trạng của một cung nữ, khi sắp lìa đời, không còn muốn gặp vua nữa, không
muốn để cho nhà vua thấy dung nhan tàn tạ của mình, để cho nhà vua cứ giữ trong
trí nghĩ của ông về một giai nhân sắc nước hương trời như khi mới được tuyển
vào cung:
Màu Thời Gian
Sớm nay tiếng chim
thanh
Trong gió xanh
Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình
Trong gió xanh
Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình
Ngàn xưa không lạnh
nữa, Tần phi
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian
Màu thời gian không
xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh
Tóc mây một món
chiếc dao vàng
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng
Duyên trăm năm đứt
đoạn
Tình muôn thuở còn hương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát.
Tình muôn thuở còn hương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát.
Về hình thức, bài
thơ nầy không có gì lạ như nhiều nhà phê bình tán dóc. Những câu thơ dài ngắn
không thường, có khi chen vào mấy câu thể ngũ ngôn, thất ngôn, xem lại thì nó
cũng giống như thể thơ cũ, gọi là “Trường đoản cú” (câu dài, ngắn) trong nguyên
bản “Chinh Phụ Ngâm” của Đặng Trần Côn vậy. Ví dụ các câu mở đầu trong “Chinh
Phụ Ngâm” của Đặng Trần Côn viết như sau:
Thiên địa phong
trần.
Hồng nhan đa truân
Du du bỉ thương hề,
thùy tạo nhân
Cổ bề thanh động
Tràng An nguyệt
Phong hỏa ảnh chiếu Cam Tuyền vân
Cửu trùng án kiếm khởi đương tịch
Bán dạ phi hịch truyền tướng quân
Thanh b́ình tam bách niên thiên hạ
Tùng thử nhung y thuộc vũ thần
Sứ tinh thiên môn thôi hiểu phát
Hành nhân trọng pháp khinh ly biệt
Cung tiễn hề, tại yêu
Thê noa hề, biệt khuyết
Lạp lạp tinh kỳ xuất tái sầu
Huyên huyên tiểu cổ từ gia oán
Hữu oán hề, phân huề
Hữu sầu hề, khế khoát…
Phong hỏa ảnh chiếu Cam Tuyền vân
Cửu trùng án kiếm khởi đương tịch
Bán dạ phi hịch truyền tướng quân
Thanh b́ình tam bách niên thiên hạ
Tùng thử nhung y thuộc vũ thần
Sứ tinh thiên môn thôi hiểu phát
Hành nhân trọng pháp khinh ly biệt
Cung tiễn hề, tại yêu
Thê noa hề, biệt khuyết
Lạp lạp tinh kỳ xuất tái sầu
Huyên huyên tiểu cổ từ gia oán
Hữu oán hề, phân huề
Hữu sầu hề, khế khoát…
Nếu đem thể “truờng
đoản cú” nói trên mà so với bài “Màu Thời Gian” của Đoàn Phú Tứ thì có khác gì
nhau bao nhiêu. “Màu Thời gian” cũng pha lẫn giữa ngũ ngôn, thất ngôn, thơ mới,
v.v…
Tại sao Đoàn Phú Tứ
không dùng những thể thơ cũ, như ngũ ngôn, tứ tuyệt, thất ngôn hay thể thơ mới
như Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ thường làm…
Có gì đâu! Tại vì
ông ta là một nhà viết kịch thơ. Trong kịch thơ, thường các câu nói của nhân
vật phải viết bằng thơ. Những lời nói như vậy, không thể cứ phải giữ một thể
thơ mà thôi được. Bên Tây phương cũng vậy. Nếu độc giả có đọc những vở kịch của
Shakespeare, thiên tài kịch nghệ của Anh, độc giả sẽ thấy trong lời thơ của các
nhân vật, cũng viết theo thể đại khái như “trường đoản cú” của ta vậy. Ông Đoàn
Phú Tứ quen dùng thể “trường đoản cú” để viết kịch, thì nay ông dùng nó thể
viết bài thơ “Màu Thời Gian” cũng không có gì là lạ để tán hươu tán vượn.
Điều rắc rối là bài
thơ nầy khó hiểu. Khi thì ông nói tới hiện tại như “Sớm nay…”, khi thì ông nói
tới quá khứ như: “Ngàn xưa, không lạnh nữa Tần phi” (tức cung phi đời nhà Tần
(có thể là Tần Thủy Hoàng, ông có tới ba ngàn cung phi), bên Tầu; khi thì nói
không gian: “Trời mây phảng phất”, khi thì nói thời gian: “Màu thời gian không
xanh.”, khi thì nói “tình duyên trăm năm”, khi thì nói tình duyên ngắn ngủi,
tới thề nguyền: “Tóc mây một món chiếc dao vàng.”
Đọc lên thì thấy
hay, mà hiểu cho hết thì khó hiểu.
Nguyễn Sơn là một người rất yêu văn nghệ có nói “không hiểu nổi” nhưng “cứ nhơ
nhớ, nó thanh thoát, nó lâng lâng, như khi nhìn áng mây trôi, khi ngắm dòng
nước chảy… nó lung linh như một khúc nhạc thiều…, nó chập chờn như một bóng
Liêu Trai!”
Đoàn Phú Tứ giải
bày rằng là có một giai nhân bên Hồ Tây từng học nhạc ở Hà Nội, từng quyến rũ
Đoàn Phú Tứ bằng tiếng dương cầm rất hay, nhưng khi ốm nặng, cô gái ấy đã khước
từ, dấu mặt, không cho ông vào thăm (như Tần phi “Thà nép mày hoa, thiếp phụ
chàng)
Thiên tài của nhà
thơ là đem câu chuyện tình của người ông yêu ngày nay để ví với câu chuyện một
cung Tần như đã nói ở trên. Người cung phi trong câu chuyện và cá tính của
người yêu ông có những nét giống nhau, không chịu để người mình yêu thấy cái
nhan sắc tàn tạ của mình, muốn để lại trong lòng người yêu những ấn tượng về vẽ
đẹp, về tình yêu, về nhớ nhung. Làm sao nó giữ được nguyên vẹn như thuở ban
đầu. Trong viễn tượng đó, nhà thơ còn bày tỏ được sự kín đáo, e lệ, và dịu dàng
của giai nhân, bằng những hình ảnh, âm thanh, màu sắc, xưa nay, cũ mới, không
gian, thời gian, yêu đương, nhớ nhung và tuyệt vọng trong một tình tự đặc biệt,
qua những hình ảnh của cung nhân đẹp đẽ, trong cái lạnh lẽo của cung phòng,
v.v… với những danh từ xưa nay lẫn lộn.
Ví dụ “phụng quân
vương” là tiếng cổ, ngày nay nếu chúng ta có nghe tới thì cũng chỉ thấy trong
những tuồng cổ (hát bội hay cải lương). Bên cạnh đó “thiếp phụ chàng” là những
tiếng của thời đại ông. Tản Đà viết: “Vàng bay mấy lá năm hồ hết, Hờ hững ai
xui thiếp phụ chàng.” Lại cũng qua đó, ta thấy hình ảnh cô Kiều cắt tóc thề bồi
cùng Kim Trọng: “Tóc mây một món chiếc dao vàng.”
Một điều khác, rất
đặc sắc và mới lạ của bài thơ của ông là màu sắc. Khi nói tới màu sắc, thường
người ta nói tới không gian: Màu trời, màu chiều, màu núi sông, thành quách.
Đoàn Phú Tứ có cái nhìn đặc biệt: Ông thấy màu sắc trong thời gian. Đó là màu
tím, màu buồn; mà lại tím ngắt, là tím Huế, tím của thành quách cung đền miếu
mạo, cũng có thể là màu của cung A Phòng nữa chăng, nên nó lại càng buồn hơn.
Đọc bài thơ nầy của
ông, người đọc cảm thấy buồn, nhưng cái cảm nhận ấy, không phải ở món tóc cắt
thề nguyền, không phải vì “cung lạnh”, không phải “tình trăm năm không vẹn”, mà
chính ở màu thời gian buồn bã do ông vẽ ra trước mắt người đọc, trong trí
tưởng của người đọc. Màu thời gian đó, cộng hưởng với hương thời gian, hai thứ
quyện lẫn vào nhau, đan chéo vào nhau và đem lại cho người đọc một nỗi buồn nhẹ
nhàng mà sâu lắng vô cùng.
Trong chiến tranh
chống Pháp, phần đông những người theo kháng chiến còn ít nhiều bản chất tiểu
tư sản, ít người không biết tới bài thơ “Màu Tín Hoa Sim” của Hữu Loan. Mặc dù
lúc bấy giờ, chính quyền Việt đã có lệnh cấm và lưu giữ bài thơ nầy, nhưng hầu
hết trong ba lô những người nói trên, trong sổ tay họ đều có bài thơ nầy:
Màu tím hoa sim
Nàng có ba người
anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc
quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân
nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu
hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường đông bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Ba người anh trên chiến trường đông bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...
Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi với vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu...
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...
Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi với vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu...
Nội dung bài thơ là
một câu chuyện thật, diễn tả tâm trạng một người đi bộ đội. Anh ta và người vợ
yêu nhau tha thiết, đám cưới đơn sơ vì chiến tranh, vì hoàn cảnh, nhưng rồi họ
xa nhau rất sớm. Người chồng lên đường vì nhiệm vụ, người vợ ở lại quê nhà và
mất sớm. Thay vì người lính “sợ khi mình không về, thì thương người vợ chờ…”
thì lại “chết người em nhỏ hậu phương.”
Tại sao cô ta ở hậu
phương mà chết sớm? Có riêng gì một trường hợp người vợ trẻ của Hữu Loan chết
đuối mà trong cuộc chiến tàn bạo xảy ra 30 năm trên dãi đất Việt Nam, có biết
bao nhiêu nghịch cảnh. Cuộc chiến nầy là cuộc chiến nhân dân, người ở bên nầy
hay bên kia, dù hậu phương cũng dễ chết không kém gì người ở tiền tuyến: Máy
bay oanh tạc, pháo kích bừa bãi, bị bắt dân công cực khổ, đói rách bệnh tật,
chết chóc, nhất là các dân công chiến trường…
Nội dung bài thơ là
một tâm tình đau đớn của những người đi trong chiến tranh, sống trong chiến
tranh và tồn tại trong chiến tranh. Chính những kẻ sống sót và tồn tại trong
chiến tranh, chính là những người mang một tâm trạng đau đớn nhất vì những mất
mát, chia ly, đói khổ và tù đày.
Trước năm
1954, những người ở miền Nam ít ai biết bài thơ nầy. Năm 1957, trên tuần
báo Mùa Lúa Mới xuất bản ở Huế, Đỗ Tấn giới thiệu bài thơ nầy với độc giả miền
Nam vĩ tuyến 17. Thế rồi qua báo chí, bài thơ được phổ biến ở Sài gòn, nhiều
người thích thú, đọc, in lại, chép lại và trao cho nhau. Dũng Chinh là người
đầu tiên phổ nhạc bài thơ nầy, dưới tiêu đề “Những Đồi Hoa Sim” và “Con Nhạn
Trắng Gò Công” đã truyền thụ những cảm xúc về thân phận người Việt Nam trong
chiến tranh bằng giọng hát của cô trên khắp miền Nam và ra tới miền Bắc. Vào
Nam, không ít cán bô, bộ đội miền Bắc, tìm nghe cho được tiếng hát Phương Dung
qua bản “Những Đồi Hoa Sim” của Dũng Chinh.
Dũng Chinh tốt
nghiệp khóa 26 (hay 27 Thủ Đức?) và hy sinh ở đồi Peatrice ở Phan Thiết chỉ mấy
tháng sau khi tốt nghiệp, khi mới 28 tuổi. J. Leiba có câu thơ “Người đẹp
thường hay chết yểu, Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai.” Trong trường hợp nầy, thi
nhân lại là một nhạc sĩ tài hoa.
(Phạm Duy cũng có
phổ nhạc bài thơ nầy, lời ca của ông sát với bài thơ của Hữu Loan hơn, nhưng
không được phổ biến bằng bài hát của Dũng Chinh).
Câu chuyện tình tuy
đơn giản, nhưng lời thơ thì rất hay, được đánh giá là một trong những bài thơ
tình hay nhứt thi ca Việt Nam hiện đại.
Mở đầu bài thơ, tác
giả giới thiệu gia đình người vợ của ông: Thời chinh chiến, cả ba người anh
trai đều tham gia bộ đội, trong khi đó, người vợ ông còn có những em quá nhỏ
(chưa biết nói). Cô cũng vừa mới lớn (tóc nàng xanh xanh, ngắn chưa đầy búi).
Đám cưới hai người rất đơn giản: tác giả là người lính Vệ Quốc Đoàn, xa gia
đình. Cô gái thì “không đòi may áo cưới” vì biết gia đình người chồng nghèo.
Người chồng cũng chỉ có bộ “đồ quân nhân”, và cũng là người độc đáo: trẻ, đang
làm nhiệm vụ của người con trai trong cơn khói lửa và biết làm thơ. Anh ta bê
bối hay lười biếng độc đáo đến độ đôi giày đinh không lau sạch, còn “bết đất
hành quân.”
Một điều đáng buồn
hơn: họ không có tuần trăng mật, “cưới xong là đi” ra chiến trường.
Bài thơ nầy có
nhiều hình ảnh đặc biệt: Màu hoa sim tím buồn bã và cảnh u tối của ngôi mộ
trong bóng chiều hôm: “Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối.” Và một hình ảnh
khác, không những buồn bã mà còn là nghèo khổ, nghèo đến độ không mua nỗi một
bát nhang, dùng cái bình hoa ngày cưới để biểu tượng cho người đã chết, một
bình hoa có nhiều tàn hương lạnh chung quanh chưa kịp quét: “Chiếc bình hoa
ngày cưới, thành bình hương tàn lạnh vậy quanh”.
Ý tưởng hay và hình
ảnh đẹp nhất trong bài thơ chính là cảnh “chiều hoang biền biệt!”
“Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt!”
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt!”
Buổi chiều, người
lính đi qua những đồi hoa sim, với một nỗi buồn da diết, hết “thương người vợ
chờ” thì nay lại “tôi về không gặp nàng, má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối”.
Có ai từng đi qua
những vùng đồi hoang gần chân núi Trường Sơn ở miền Trung nước Việt mới thấy
những ngọn đồi thoai thoải chập chùng, kéo dài đến bất tận. Đi trong cảnh trời
chiều lặng lẽ ấy, người ta dễ cảm nhận hết nỗi buồn của nguời xa quê. Đó là
những ngọn đồi hoang, với rừng cây hoang, phần nhiều là cây sim dại, cây mua
dại. Cây mua và cây sim đều có hoa mầu tím như nhau, khác chỉ là trái mua không
ăn được.
Vùng đồi nầy là
vùng cây hoang, nên tác giả mới gọi là chiều hoang. Tiếng hoang nầy là danh từ
Hán-Việt, có nhiều nghĩa, vừa là cây cối mọc hoang, không ai trồng, không ai
chăm sóc, vừa có nghĩa là mênh mông, xa tít mù khơi tới tận chân trời. Cây mọc
hoang ở đây là cây sim, đến mùa hoa nở thì màu tím trùm khắp cả ngọn đồi, từ
đồi nầy qua đồi khác. Màu hoa sim lan xa mãi, trải dài ra mãi, đi biền biệt tới
cuối chân trời. Vì vậy, tác giả nhắc đi nhắc lại những mấy lần câu “những đồi
hoa sim”:
Màu tím là mầu buồn,
nhưng không hẵn mầu ấy không nhắc người lính nhớ tới một kỷ niệm, một hình ảnh.
Những người con gái
thường thích mặc áo mầu tím. Mầu tím phản ảnh với nước da trắng làm cho các cô
trắng thêm. Hơn thế nữa, nó là mầu của tuổi biết yêu, đã có tình yêu, đã có cá
tính riêng hay có một kỹ niệm, một tâm sự.
Sài gòn náo nhiệt,
hình như mầu tím chìm đi trong cái náo nhiệt và ồn ào của thủ đô miền Nam,
chiếc áo tím chìm đi trong muôn vàn màu sắc rực rỡ. Huế thì trái lại. Cùng với
hoàng thành âm u, với dòng sông chảy chầm chậm, ngập ngừng với phố xá không quá
đông đúc, chiếc áo tím của các cô gái Huế nổi bật lên, khiến người ta không chú
ý không được.
Hoa tím có nhiều
loại: Hoa sim, hoa mua, hoa cà, hoa khoai lang, hoa sầu đông. Hoa sim, hoa cà
ít có mùi hương; hoa sầu đông hương thơm ngào ngạt…
Người miền quê ưa
mặc áo tím hoa cà, đậm hơn một chút người ta chọn mầu hoa sim. Các cô gái Huế,
không hiểu có phải chịu ảnh hưởng màu tử cấm thành, mầu hoàng thành mà chọn mầu
tím đậm, mầu tím than, Nguyễn Bính gọi là “Tím Huế”.
Trời chiều mầu tím
làm cho nhạc sĩ Đan Thọ xúc cảm mà phổ thơ bài Chiều Tím của Đinh Hùng, “Ngàn
Thu Áo Tím” của Hoàng Trọng, hoặc câu chuyện một cô gái thích mặc áo tím đi dạo
phố mà thành “Ngàn Thu Áo Tím”, của Hoàng Trọng, “Tà Áo Tím” của Hoàng Nguyên hoặc
Văn Quang vì yêu “Chân Trời Tím” nên viết cuốn sách cùng tên.
Đó là “Mầu Kỷ Niệm”
của Nguyên Sa được Phạm Đình Chương phổ thành nhạc. Người học trò viết thư bằng
mực tím, nhưng pha mực cho đậm hơn chút nữa cho “vừa mầu nhớ thương!
Trở lại câu chuyện
tình của Hữu Loan. Liệu ông ta có chung thủy với người vợ mới qua đời?
Nếu quả thật ông
giữ lòng nguyên vẹn trước sau, thì tại sao trong cảnh trời mầu tím buồn thảm
của một buổi chiều mênh mông, ông ta lại có thể hát một câu ca dao lẵng lơ,
nguời ta tưởng như ông đã quên người vợ trẻ quá có rồi:
“Áo anh sứt chỉ
đường tà,
Vợ anh mất sớm, mẹ
già chưa khâu,
Áo anh sứt chỉ đã
lâu…
Nhờ em tốt bụng em
khâu giúp rồi
Áo anh sứt chỉ
đường tà
Vợ anh chưa có mẹ
già chưa khâu
Áo anh sứt chỉ đã lâu
Áo anh sứt chỉ đã lâu
Mai mượn cô ấy về
khâu cho cùng
Khâu rồi anh sẽ trả công
Khâu rồi anh sẽ trả công
Ít nữa lấy chồng
anh sẽ giúp cho
Giúp em một thúng xôi vò
Giúp em một thúng xôi vò
Một con lợn béo lại
đèo buồng cau
Giúp em đôi chiếu
em nằm,
Một con lợn béo,
một vò rượu tăm
hoànglonghải
Màu Kỷ Niệm
Nhạc: Phạm Đình Chương
Lời thơ: Nguyên Sa
Nhạc: Phạm Đình Chương
Lời thơ: Nguyên Sa
Nhớ ngày nào tan
trường về chung lối
Mắt thuyền sương, nghiêng nón ngất ngây đời
Lòng trao lòng cho tình vút lên khơi,
Cho ngon màu trìu mến ướt lên môi
Áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc,
Áo nàng xanh anh mến lá sân trường.
Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương.
Anh pha mực cho vừa màu luyến thương.
Ngày hành quân, anh đi về cánh rừng thưa,
Thấy sắc hoa tươi nên mơ màu áo năm xưa
Kỷ niệm đâu len lén trở về tâm tư,
Có mắt ai xanh thắm trong mộng mơ
Hẹn ngày mai khi tan giặc sẽ cùng nhau
Góp hết hoa thơm chung tay xây kết mộng đầu
Trời thần tiên đôi bướm nhịp nhàng lả lơi,
Nương cánh nhau đi xa hơn cả cuộc đời
Ôi màu hoa, màu thương nhớ.
Mắt thuyền sương, nghiêng nón ngất ngây đời
Lòng trao lòng cho tình vút lên khơi,
Cho ngon màu trìu mến ướt lên môi
Áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc,
Áo nàng xanh anh mến lá sân trường.
Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương.
Anh pha mực cho vừa màu luyến thương.
Ngày hành quân, anh đi về cánh rừng thưa,
Thấy sắc hoa tươi nên mơ màu áo năm xưa
Kỷ niệm đâu len lén trở về tâm tư,
Có mắt ai xanh thắm trong mộng mơ
Hẹn ngày mai khi tan giặc sẽ cùng nhau
Góp hết hoa thơm chung tay xây kết mộng đầu
Trời thần tiên đôi bướm nhịp nhàng lả lơi,
Nương cánh nhau đi xa hơn cả cuộc đời
Ôi màu hoa, màu thương nhớ.
Rồi một ngày kia em
khoe áo mới xanh hơn mây trời.
Hai đứa chung vui khi xuân vừa tới thơ ngây cuộc đời.
Trò chơi trẻ con em cô dâu mới chưa nghe nặng sầu.
Chú rể ngân ngơ ra hái hoa cà làm quà cưới cô dâu.
Hai đứa chung vui khi xuân vừa tới thơ ngây cuộc đời.
Trò chơi trẻ con em cô dâu mới chưa nghe nặng sầu.
Chú rể ngân ngơ ra hái hoa cà làm quà cưới cô dâu.
Mười mấy năm qua
khi hoa vừa hé
nhụy thì đời trai vui chinh chiến
Anh xuôi miền xa bao lần đếm bước xuân qua
Anh ơi, kỷ niệm xưa em còn giữ mãi trong lòng
nhụy thì đời trai vui chinh chiến
Anh xuôi miền xa bao lần đếm bước xuân qua
Anh ơi, kỷ niệm xưa em còn giữ mãi trong lòng
Em biết không em,
xuân lại trở về,
đường rừng chiều hoang sương xuống.
Thương sao là thương trong màu tím sắc hoa xưa ...
Dĩ vãng đâu trôi về nhắc ta ngày xưa.
đường rừng chiều hoang sương xuống.
Thương sao là thương trong màu tím sắc hoa xưa ...
Dĩ vãng đâu trôi về nhắc ta ngày xưa.
Ngàn Thu Áo Tím
Nhạc và Lời: Vĩnh Phúc và Hoàng Trọng
Nhạc và Lời: Vĩnh Phúc và Hoàng Trọng
Ngày xưa xa xôi, em
rất yêu màu tím.
Ngày xưa vô tư, em sống trong trìu mến.
Chiều xuống, áo tím thường thướt tha,
Bước trên đường gấm hoa, ngắm mây chiều thướt tha.
Từ khi yêu anh, anh bắt xa màu tím.
Sầu thương cho em, mơ ước chưa kịp đến.
Trời đã rét mướt, cùng gió mưa,
Khóc anh chiều tiễn đưa, thế thôi tàn giấc mơ !!!
Ngày xưa vô tư, em sống trong trìu mến.
Chiều xuống, áo tím thường thướt tha,
Bước trên đường gấm hoa, ngắm mây chiều thướt tha.
Từ khi yêu anh, anh bắt xa màu tím.
Sầu thương cho em, mơ ước chưa kịp đến.
Trời đã rét mướt, cùng gió mưa,
Khóc anh chiều tiễn đưa, thế thôi tàn giấc mơ !!!
Ðiệp khúc :
Anh xa xôi, bóng mưa giăng mờ lối,
Anh xa xôi, áo bay trong chiều rơi,
Anh xa xôi, áo ôm tim lẻ loi,
Tím lên khung trời nhớ nhung đầy vơi.
Mưa rơi rơi, bóng anh như làn khói,
Mưa rơi rơi, bóng anh xa ngàn khơi,
Mưa rơi rơi, có hay chăng lòng tôi,
Có hay bao giờ bóng người yêu tới !!?
Anh xa xôi, bóng mưa giăng mờ lối,
Anh xa xôi, áo bay trong chiều rơi,
Anh xa xôi, áo ôm tim lẻ loi,
Tím lên khung trời nhớ nhung đầy vơi.
Mưa rơi rơi, bóng anh như làn khói,
Mưa rơi rơi, bóng anh xa ngàn khơi,
Mưa rơi rơi, có hay chăng lòng tôi,
Có hay bao giờ bóng người yêu tới !!?
Từ khi xa anh, em
vẫn yêu và nhớ,
Mà sao anh đi, đi mãi không về nữa ???
Một bóng áo tím buồn ngẩn ngơ,
Ước trong chiều gió mưa, khóc thương hình bóng xưa.
Ngàn thu mưa rơi, trên áo em màu tím.
Ngàn thu đau thương, vương áo em màu tím.
Nhuộm tím những chuỗi ngày vắng nhau,
Tháng năm còn lướt mau, biết bao giờ thấy nhau ?
Tháng năm còn lướt mau, biết bao giờ thấy nhau ?
Mà sao anh đi, đi mãi không về nữa ???
Một bóng áo tím buồn ngẩn ngơ,
Ước trong chiều gió mưa, khóc thương hình bóng xưa.
Ngàn thu mưa rơi, trên áo em màu tím.
Ngàn thu đau thương, vương áo em màu tím.
Nhuộm tím những chuỗi ngày vắng nhau,
Tháng năm còn lướt mau, biết bao giờ thấy nhau ?
Tháng năm còn lướt mau, biết bao giờ thấy nhau ?
Chiều Tím
Sáng tác: Đan Thọ, Đinh Hùng
Lời: Đinh Hùng
Nhạc: Đan Thọ
Sáng tác: Đan Thọ, Đinh Hùng
Lời: Đinh Hùng
Nhạc: Đan Thọ
Chiều tím chiều nhớ
thương ai, người em tóc dài
Sầu trên phím đàn, tình vương không gian
Mây bay quan san, có hay?
Sầu trên phím đàn, tình vương không gian
Mây bay quan san, có hay?
Đàn nhớ từng cánh
hoa bay, vầng trăng viễn hoài
Màu xanh ước thề, dòng sông trôi đi
Lúc chia tay còn nhớ chăng?
Màu xanh ước thề, dòng sông trôi đi
Lúc chia tay còn nhớ chăng?
Ai nhớ ... mắt xanh
năm nào
Chiều thu soi bóng, nắng chưa phai màu
Kề hai mái đầu nhìn mây tím... nhớ nhau...
Chiều thu soi bóng, nắng chưa phai màu
Kề hai mái đầu nhìn mây tím... nhớ nhau...
Chiều tím chiều nhớ
thương ai, còn thương nhớ hoài
Đàn ơi nhắn dùm người đi phương nao
Nếp chinh bào biếc ánh sao...
Đàn ơi nhắn dùm người đi phương nao
Nếp chinh bào biếc ánh sao...
Từ đấy đàn nhớ
thanh âm chùng dây vỹ cầm
Người xa vắng rồi chiều sang em ơi!
Thương ai hoa rơi lá rơi...
Người xa vắng rồi chiều sang em ơi!
Thương ai hoa rơi lá rơi...
Người ấy lòng hướng
trăng sao, hồn say chiến bào
Tìm trong tiếng đàn... mùi hương chưa phai
Ý giao hòa người nhớ chăng?
Tìm trong tiếng đàn... mùi hương chưa phai
Ý giao hòa người nhớ chăng?
Mây gió... bốn
phương giăng hàng
Mùa thu thêu áo nét hoa mơ màng
Và em với chàng kề vai áo... vấn vương
Mùa thu thêu áo nét hoa mơ màng
Và em với chàng kề vai áo... vấn vương
Chiều hỡi! Đàn nhớ
mong nhau, tình thương bắc cầu
Người đi hướng nào? Tìm trong chiêm bao
Tóc bay dài, gió viễn khơi
Người đi hướng nào? Tìm trong chiêm bao
Tóc bay dài, gió viễn khơi
Tà Áo Tím
Hoàng Nguyên
Hoàng Nguyên
Một chiều lang
thang bên giòng Hương giang
Tôi gặp một tà áo tím
Nhẹ thấp thoáng trong nắng vương
Màu áo tím ôi luyến thương
Màu áo tím ôi vấn vương
Tôi gặp một tà áo tím
Nhẹ thấp thoáng trong nắng vương
Màu áo tím ôi luyến thương
Màu áo tím ôi vấn vương
Rồi về đêm đêm mơ
màu áo ấy
Màu áo tím hôm nào
Dường quyến luyến trăng sầu
Chập chờn tâm tư màu áo thoáng chiêm bao
Mơ một tà áo, một tà áo qua đường
Như mong một lời nói, một lời nói yêu thương
Mặc thời gian dìu đôi cánh biếc
Mặc giòng sông dịu hiền luyến tiếc
Mà chiều thu buồn như gối chiếc
Tôi mơ.., màu áo
Ước mong sao áo màu khép kín tim nhau
Màu áo tím hôm nào
Dường quyến luyến trăng sầu
Chập chờn tâm tư màu áo thoáng chiêm bao
Mơ một tà áo, một tà áo qua đường
Như mong một lời nói, một lời nói yêu thương
Mặc thời gian dìu đôi cánh biếc
Mặc giòng sông dịu hiền luyến tiếc
Mà chiều thu buồn như gối chiếc
Tôi mơ.., màu áo
Ước mong sao áo màu khép kín tim nhau
Để rồi chiều chiều
lê chân bên giòng Hương giang
Mong tìm lại tà áo ấy
Màu áo tím nay thấy đâu
Người áo tím nay thấy đâu
Giòng nước vẫn trôi cuốn mau
Rồi chợt nghe tin qua lời gió nhắn
Người áo tím qua cầu
Tà áo tím phai màu
Để giòng Hương giang hờ hững cũng nao nao.
Mong tìm lại tà áo ấy
Màu áo tím nay thấy đâu
Người áo tím nay thấy đâu
Giòng nước vẫn trôi cuốn mau
Rồi chợt nghe tin qua lời gió nhắn
Người áo tím qua cầu
Tà áo tím phai màu
Để giòng Hương giang hờ hững cũng nao nao.
PSN
Theo http://www.phapvan.ca/vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét