Quê hương, ngôi chùa và thiên nhiên
trong cõi thơ của Trần
Nhân Tông
I. Quê hương là gì?
Một bữa nọ về thăm quê của Tổ phụ, Trần Nhân Tông đã leo lên
ngọn đồi cao sau làng. Ta có thể đoán chắc như vậy, vì phải đứng trên cao thì
Trần Nhân Tông mới thấy toàn thể cảnh vật buổi chiều tà nơi phủ Thiên Trường.
Như bài thơ mà ông đã làm sau đây:
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lý quy ngưu tận
Bạch lệ song song phi hạ điên.
(Thiên trường vân vọng)
Thôn trước, thôn sau đều mờ mờ như khói phủ
Bên bóng chiều (cảnh vật) nửa như có, nửa như không
Trong tiếng sáo, mục đồng lùa trâu về hết
Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng.
Dù đó chỉ là buổi chiều tà trên làng Tức Mặc của phủ Thiên
Trường, nơi chôn nhau cắt rốn của Tổ tiên Trần Nhân Tông, nhưng với chúng ta,
là người Việt Nam, mà hầu hết cuộc đời đều gắn chặt với miếng ruộng, mảnh vườn,
thì bốn câu thơ mà Trần Nhân Tông đã tả cảnh chiều trên quê hương của ông, cũng
có thể là cảnh chiều tà trên quê hương của mỗi người trong chúng ta nữa.
Nhưng vì long đong chạy theo cuộc sống nên chúng ta bị bắt buộc
phải sống tha hương. Rồi đến một lúc nào đó, khi ta đã bắt đầu cảm thấy già
nua, tàn tạ, khi ta cảm thấy mất mát nơi tâm hồn, thì lúc bấy giờ ta mới ngoái
nhìn lại tuổi thơ: Ở đó, có con đường làng êm ả, có đàn cò trắng đứng trên cánh
đồng lúa xanh, có dăm ba đứa trẻ lùa trâu về chuồng, trong bóng chiều mờ mờ
khói phủ.
Thứ bóng chiều mà Trần Nhân Tông đã quan sát rất tinh tế qua
câu: "Bán vô bán hữu tịch sương biên". Tức là "Trời nhá nhem tối"
hay "Trời chạng vạng" như người dân ở các miệt miền quê thuộc miền
Trung vẫn thường gọi như vậy, để chỉ lúc ngày và đêm đang giao thoa với nhau.
Thật là một điều sai lầm, trong thi ca cổ điển của Việt Nam,
ngay cả Nguyễn Du, một thi hào đã nhìn thấu suốt hết nỗi "đoạn trường"
của kiếp nhân sinh, khiến mỗi lần chúng ta đọc đến là thấy tâm hồn buốt lạnh. Vậy
mà khi tả về phong cảnh thì tuyệt nhiên không thấy con trâu, con bò, con cò trắng
hay cánh đồng lúa xanh đâu cả. Phải đợi đến Nguyễn Khuyến, tức là đến tận cuối
thế kỷ thứ 19 thì phong cảnh và đời sống "chân lấm tay bùn" của quê
hương mới xuất hiện trong thi ca. Vì sao như vậy? Có lẽ, đó là kết quả đương
nhiên của lối học từ chương chăng? Hay cũng có thể là vì mặc cảm nữa, rằng sự
nghèo nàn và mộc mạc đối với họ không phải là cái đẹp mà thi ca họ muốn hướng đến.
Chính vì thế, mà mỗi khi tả về phong cảnh thì lúc nào cũng phải
có "tuyết, nguyệt, phong, hoa" hay "hồ, đình, liễu, tạ", những
cảnh mà ta bắt gặp đầy rẫy khi đọc thi ca Trung Quốc. Mặc dù, chính họ thì đang
sống và đôi chân hằng ngày vẫn lê bước trên những con đường thôn dã của Việt
Nam.
Trong khi đó, Trần Nhân Tông được sinh ra và lớn lên giữa chốn
triều đình, không sống ở thôn dã. Thế mà Trần Nhân Tông đã làm một bài thơ
phong cảnh, có thể nói là hoàn toàn Việt Nam. Như vậy, ta thấy rằng tấm lòng
ông mộc mạc và gần gũi với quê hương đất nước đến chừng nào.
Một lần khác, cũng tại quê nhà, Trần Nhân Tông đi dạo một
mình trên con đường đất có nhiều bùn lầy. Cơn mưa vừa tạnh, đã xóa sạch những
đám bùn nhơ đó. Trước mắt Trần Nhân Tông hiện ra những màu sắc linh hoạt vô
cùng:
"Lục ám hồng bi bội tịch liêu
Tễ vân thôn vũ thổ hoa tiêu"
Màu xanh thẫm, màu đỏ thưa, cảnh thêm vắng vẻ
Mây quang, mưa tạnh, ngấn bùn đất cũng mất sạch
Trần Nhân Tông vừa đi vừa ngước nhìn ngôi chùa Phổ Minh rêu
phủ thì lòng chợt u hoài vì nhớ đến vua cha:
"Phổ Minh phong cảnh hồn như tạc
Phảng phất canh trường nhập mộng nhiên"
Phong cảnh chùa Phổ Minh vẫn như trước,
Phảng phất trong chiêm bao hình dáng vua cha, như trông
tường thấy bóng, ăn canh thấy hình...
Tại sao nhìn ngôi chùa mà lại nhớ đến vua cha? Phải nhìn những
gì có liên hệ đến sinh hoạt của vua cha khi còn sanh tiền, như nơi làm việc của
vua cha, lăng mộ của vua cha, nơi vua cha thường đi dạo như vườn ngự uyển thì
nhớ vua cha mới hợp lý chứ? Có lẽ, đây là lần đầu tiên ngôi chùa và hình bóng
người cha lại xuất hiện cùng một lúc trong cõi thơ của Việt Nam vậy.
Vì dường như, với Trần Nhân Tông, thì ngôi chùa, người cha,
hay quê cha đất tổ cũng chỉ là một mà thôi?
Còn một biến cố này nữa, vào năm Mậu Thân, tức là năm 1308,
chị của Trần Nhân Tông bị bệnh nặng. Thiên Thụy công chúa muốn thấy mặt em mình
trước khi nhắm mắt, bèn sai người nhà lên Yên Tử báo tin. Trần Nhân Tông liền
chống gậy xuống núi. Theo sách Thánh Đăng ngữ lục, thì Trần Nhân Tông bắt đầu rời
núi từ mồng 3 nhưng đến mồng 10 mới đến kinh đô Thăng Long. Sau khi thăm và dặn
dò chị xong, đến ngày Rằm Trần Nhân Tông lại chống gậy về núi trở lại.
Trên đường trở về, Trần Nhân Tông ghé và nghỉ lại trong một
ngôi chùa cổ ở làng Hương Cổ Châu. Sáng hôm sau, trước khi tiếp tục lên đường,
Trần Nhân Tông đã ghi lại bốn câu thơ này trên vách tường của chùa:
"Thế số nhất sách mạt
Thời tình lưỡng hải ngân
Ma cung hồn quản thậm
Phật quốc bất thắng xuân"
(Đề cổ Châu Hương thôn tự)
Số đời hoàn toàn mờ tịt
Tình người đổi thay qua đôi mắt
Khi cung ma bị quản chặt
Thì cõi Phật tràn ngập màu xuân.
Có những bài thơ, ta đọc mà không cần biết làm ở đâu và trong
hoàn cảnh nào, nhưng đọc vẫn cứ thấy hay. Nhưng ngược lại, có những bài thơ mà
ta phải biết lý do và hoàn cảnh khi tác giả làm, thì đọc mới thấy hay được. Đây
là trường hợp bài "Đề cổ Châu Hương thôn tự" này chẳng hạn.
Đứng trước cái chết sắp xảy ra cho chị mình, Trần Nhân Tông
không giữ được sự xúc động về số phận bi thảm của kiếp người.
Nhưng kiếp người càng đen tối bao nhiêu, thì ông lại càng tin
tưởng mãnh liệt vào con đường đi lên đầy chông chênh mà ông đang đi bấy nhiêu.
Vì, như Trần Nhân Tông đã viết:
"Phật Quốc bất thắng xuân"
Vì cõi Phật thì tràn ngập màu xuân
Và trên đỉnh cao của núi Yên Tử ấy, chắc Trần Nhân Tông đã
tìm thấy một mùa xuân vô tận?
Những bài thơ độc đáo ở chỗ, khi đọc lên ta thấy nỗi dằn vặt
khôn nguôi của Trần Nhân Tông về thân phận bi thảm của kiếp người.
Đêm ấy, trong một ngôi chùa cổ ở làng Hương Cổ Châu, ta có thể
đoán chắc rằng, cả đêm Trần Nhân Tông đã không chợp mắt được, vì ông đã bị đôi
mắt của người chị mình ám ảnh. Trong đôi mắt ấy, hiện ra những mảnh đời: những
năm tháng làm vua trong triều, cơ nghiệp nhà Trần, dù đang hồi hưng thịnh đấy,
nhưng cuộc đời thì đầy dâu biển, chắc chắn một ngày nào đó không xa, rồi cũng sẽ
như đôi mắt của chị mình, đôi mắt như đang luyến tiếc cả những năm tháng huy
hoàng xưa, rồi cũng từ từ khép lại vĩnh viễn mà thôi.
Thì ra, ngôi chùa với Trần Nhân Tông, không chỉ là nơi ông trở
về để an thân lập mệnh, mà cũng còn là nơi chốn để ông tâm sự về những nỗi dằn
vặt và khổ đau của chính đời mình nữa.
II. Nếu ai đã từng đọc Thiền (Zen) và thi ca Nhật Bản,
chắc khó quên được hai nhà thơ Tây Hành (Saigyo) và Ba Tiêu (Bashô).
Lịch sử thi ca Nhật Bản gọi họ là hai nhà thơ lãng tử, vì cả
hai đều bỏ trọn cả đời để đi lang thang khắp mọi nẻo đường, nhất là những nẻo
đường thôn dã của nước Nhật.
Họ đã đi tận đến những nơi xa xôi, đến tận những chân trời
mênh mông bát ngát để lắng nghe niềm im lặng của cỏ nội hoa đồng.
Tây Hành và Trần Nhân Tông của Việt Nam có nhiều điểm tương đồng.
Tây Hành đã từ bỏ chức quan dưới triều Kiếm Thương
(Kamakura). Và Trần Nhân Tông thì từ bỏ ngôi báu của nước Đại Việt. Như vậy là,
cả hai cùng từ bỏ giai cấp quý tộc của mình để đi tu, và cả hai đều say mê Phật
giáo Thiền Tông.
Ở Nhật Bản, chân dung của Tây Hành trong chiếc áo du tăng, đứng
ngóng ngọn núi Phú Sĩ phủ đầy tuyết trắng được trưng bày khắp nơi như niềm hãnh
diện của dân tộc Nhật.
Nhưng rất buồn là ở Việt Nam, hầu như chỉ biết Trần Nhân Tông
như một nhà anh hùng dân tộc hay vị sơ tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, chứ
ít ai biết Trần Nhân Tông như một thi sĩ lang thang. Sách Tam Tổ Thực Lục có
ghi: "Điều ngự (tức Trần Nhân Tông) đã đi khắp mọi nẻo đường thôn quê,
khuyên dân phá bỏ các dâm từ và thực hành giáo lý Thập Thiện".
Dĩ nhiên trong tư cách một Thiền sư, mà lại là người đã sáng
lập ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, thì sứ mạng chính là hoằng dương chánh pháp,
khai mở yếu chỉ của Thiền tông. Nhưng khi bước chân của Trần Nhân Tông đã lang
thang đây đó thì cái đẹp của thiên nhiên cũng đã quyến rũ tâm hồn ông rất nhiều.
Mặc dù, đang gánh vác nhiều trách nhiệm nặng nề nhưng khi đứng trước cái đẹp của
thiên nhiên, thì Trần Nhân Tông như muốn bỏ hết mọi hệ lụy của cuộc đời, để được
đắm mình trọn vẹn vào cái đẹp hồn nhiên của thiên nhiên. Bởi vậy, ông gần như
muốn đưa ra một điều kiện cho những ai muốn cùng ông thưởng thức cái đẹp của
thiên nhiên. Ví dụ, khi đứng trước một mùa xuân như thế này:
"Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì
Họa đường thiềm ảnh mộ vân phi"
(Xuân cảnh)
Trong khóm hoa dương liễu rậm, chim hót chậm rãi
Dưới bóng thềm ngôi nhà chạm vẽ, mây chiều lướt bay.
"Khách lai bất vấn nhân gian sự
Cộng ỷ lan can khán thúy vi"
Khách đến chơi không hỏi việc đời
Mà nên cùng tựa lan can ngắm màu xanh mờ mịt ở chân trời.
Chuyện đời, với Trần Nhân Tông là chuyện gì?
"Thị phi niệm trục triêu hoa lạc
Danh lợi tầm tùy dạ vũ hàn
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch
Nhất thanh đề hiểu hựu xuân tàn"
Niềm thị phi rụng theo hoa buổi sớm
Lòng lợi danh lạnh theo trận mưa đêm
Hoa rụng hết, mưa đã tạnh, núi non tịch mịch
Một tiếng chim kêu, lại cảnh xuân tàn.
Thị phi, thành bại, vinh nhục cùng bao nhiêu chuyện đời lô
nhô lố nhố khác cũng ra đi cùng với trận mưa đêm qua. Cuối cùng, chẳng còn lại
gì cả, chỉ còn một chút "núi non tịch mịch" đọng lại trong hồn Thiền
sư thi sĩ mà thôi.
Để tiếp tục cuộc lãng du của đời mình, vào năm 1301, Trần
Nhân Tông quyết định đi Chiêm Thành, không phải đi trong tư cách một vị Thái
Thượng Hoàng của nước Đại Việt, mà ông đã ra đi như một du tăng, vì lúc bấy giờ
ông đã đi tu rồi.
Khởi hành từ mùng 3 nhưng mãi đến tháng 11 năm đó Trần Nhân
Tông mới về lại Thăng Long.
Không còn hồ nghi gì nữa, chắc chắn Trần Nhân Tông đã mang
thông điệp hòa bình của Phật Giáo Đại Việt đến cho Chế Mân, vua của nước Chiêm
Thành, trong cuộc gặp gỡ giữa hai người tại kinh đô Đồ Bàn.
Và cũng nhân cơ hội này, để tạo tình hữu nghị lâu dài cho hai
nước nên Trần Nhân Tông đã hứa gả con gái mình, tức Huyền Trân công chúa cho Chế
Mân. Ta có thể xem đây như là một hy sinh lớn lao, vì Trần Nhân Tông đã đặt quyền
lợi Tổ quốc lên trên quyền lợi gia đình.
Nhưng điều mà ta muốn nói ở đây là: Trần Nhân Tông đã ra đi
như một thi nhân, một thi nhân rất khát khao đến những miền đất xa lạ.
Con đường thiên lý từ Thăng Long đến Đồ Bàn (Bình Định ngày
nay) biết bao là kỳ hoa dị thảo trên bước chân của thi nhân. Thiên nhiên lúc ấy
vẫn còn hoang sơ. Sở dĩ ta gọi là hoang sơ vì con người thời ấy chưa hề có ý
nghĩ chinh phục thiên nhiên.
Và con người sẽ trơ trọi biết bao, nếu con người bị ly cách
khỏi thiên nhiên!
Ta có thể tạm kết luận một cách thơ mộng rằng, Trần Nhân Tông
là thi nhân đầu tiên của nước ta, đã nhìn được dãy Trường Sơn chạy dọc theo miền
Trung bấy giờ.
Có lẽ, từ thủa con người mới biết làm thơ, thì núi non đã là
nơi gợi hứng vô tận cho hồn thơ của họ rồi, nhất là các thi sĩ của Đông phương.
Chẳng hạn, Tây Hành và Ba Tiêu luôn luôn đứng ngóng đỉnh núi
Phú Sĩ của Nhật Bản phủ đầy tuyết trắng, Tô Đông Pha của Trung Quốc vẫn ôm giấc
mộng khám phá cho được chân diện mục của núi Lô Sơn khuất sau những tảng mây
mù, và Nguyễn Du của Việt Nam vẫn thường rong chơi trên chín ngọn Hồng Lĩnh.
Có lẽ, vì núi cao và đầy hiểm hóc, nên núi non vẫn luôn luôn
là biểu tượng cho những kẻ đi tìm tuyệt đối.
Mà thi nhân, chẳng phải là kẻ đi tìm tuyệt đối đó sao?
Với Trần Nhân Tông cũng thế, trong bài phú bằng tiếng Nôm,
bài "Cư trần lạc đạo", ông viết:
"Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao
Chiền vắng am thanh, chỉn thật đạo nhân du hí.."
Trần Nhân Tông mất ngày 1 tháng 11 năm Mậu Thân (1308). Vậy
mà tháng 9 năm đó, ông đã cùng với đệ tử là Bảo Sát đi dạo khắp các núi nằm
trong dãy Yên Tử, thì ta biết lòng của Trần Nhân Tông yêu núi non biết chừng
nào!.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét