Tuệ Sỹ, Một thiên tài của Việt Nam:
Thầy xuất gia từ thuở còn thơ và sống ở Lào,
làm chú tiểu Sa Di sớm chiều kinh kệ, công
phu bái sám, đó là bổn phận của người làm điệu, trong nếp
sống nhà chùa. Dù chùa ở Lào hay Việt Nam cũng vậy, tụng
kinh học luật là điều chính yếu của người xuất
gia tu Phật. Bằng bản chất thông minh, thiên tư từ
thuở nhỏ, cho nên sau khi xuất gia, Thầy đã miệt mài học hỏi kinh
điển, siêng năng nghiên cứu nghĩa lý đạo mầu. Có lần được nghe
quý Ngài kể lại, thời gian sống nơi chùa Lào, suốt ngày Thầy ở dưới
bàn tượng Phật Bổn Sư thờ nơi chánh điện, để học kinh luật, sưu
tra luận nghĩa, mà quý sư Lào sau một thời gian dạy dỗ, đã thấy
được trí tánh thông minh của Thầy, biết được đây là bậc kỳ tài,
là rường cột của Phật giáo, mà chư sư Lào đã không đủ khả
năng dạy nữa. Để không làm mai một thiên tư trác
việt, trí tuệ tuyệt vời, các vị Bổn sư Lào đã gởi Thầy
về Việt Nam, cho quý Hòa thượng tiếp tục hướng dẫn, dạy dỗ.
Thầy được đưa về Huế, cùng tu học với
quý chư Tăng và thành đạt sở học một cách nhanh chóng, như
con phượng hoàng khi đã đủ lông cánh tung bay giữa trời cao, như rồng
thiêng vẫy vùng nơi biển sâu, sóng lớn. Do vậy, sau một thời
gian tham học với chư Tổ Đức về phần kinh luật và chữ Nho, Thầy
đã thông suốt và tự mình phát huy sở học mà không cần Thầy dạy. Từ
đó, Thầy tiếp tục vân du tham học ở chư bậc kỳ tài, hữu
danh đương thời, lần hồi Thầy đã vào Sài Gòn để tiếp tay xây
dựng và giáo dục đàn em, học trò của mình. Dĩ nhiên, lúc
bấy giờ Thầy đã trở thành bậc giáo sư lịch lãm, tri
thức bạt chúng. Là vị giáo sư gương mẫu, nồng cốt của Đại
học Vạn Hạnh, mà cứ mỗi lần gặp nhau thăm hỏi, những
người đồng nghiệp đều gọi Thầy là "chú Sỹ" vì Thầy còn quá
trẻ.
Thầy phụ trách dạy tại Đại học Vạn
Hạnh chương trình Triết học Tây phương, văn học Đông
Phương, luận đề Phật giáo: triết học Tánh Không, Trung Quán
luận, A Tỳ Đạt Ma, đại cương Thiền Quán.... Mặc dầu ở
vào lứa tuổi đôi mươi, nhưng Thầy đã đóng góp một phần không nhỏ trong
nền văn hóa, giáo dục của nước nhà và Thầy đã xuất sắc hơn
trong lãnh vực ngôn ngữ: sinh ngữ và cổ ngữ. Thầy tự
học, rèn luyện lấy chính mình vì vậy mọi người ai cũng
kính mến, thán phục và có nhiều bạn vong niên dưới mái
trường Đại học Vạn Hạnh.
Là một trong những vị tu sĩ trẻ dẫn
đầu với kiến văn quảng bác, được sự ngưỡng mộ của nhiều thế
hệ Tăng sinh, sinh viên. Thầy là vị tu sĩ trẻ nhất, tự học,
tự nghiên cứu và thấu đạt, thông suốt nền Triết
học Đông Tây. Một trí tuệ vô sư trí, một vị Thầy không Thầy cho
chính mình. Thầy đã nghiên tầm thâm sâu vào mọi lãnh
vực kinh, luật, luận, xuyên qua những cánh đồng
giáo lý mênh mông, bát ngát, khó hiểu, sâu xa, đòi hỏi
một kiến văn xuất chúng, mới thể nhập được, nhưng đối với
Thầy dường như không khó khăn gì.
Thầy đã đơn đao đột kích, phá tung nền Triết học
Tánh Không, khai quật và trình bày giá trị sâu thẳm tận cùng tư
tưởng Trung Quán, phiên dịch giảng giải Trí Độ luận, để từ
đó, hình ảnh chư Tổ Đức, luật sư nổi tiếng, vang
danh oai đức như Tổ Long Thọ, người bấy giờ tôn xưng là Đệ
nhị Thích Ca, Đề Bà, Vô Trước, Thế Thân, Mã
Minh, Huyền Trang, La Thập, Tăng Duệ, Tăng Triệu... dường
như quá gần gũi, quen thân với Thầy. Vì tất cả các tác
phẩm trước tác, dịch thuật của chư Tổ, như là sách gối đầu giường của
Thầy, còn Tam Tạng kinh điển, bộ Đại Tạng, chẳng bộ nào mà Thầy không
dở đọc. Người viết đã học với Thầy, sau đó cùng Thầy làm việc dịch
thuật Trung A Hàm, Kinh Pháp Cú, tuyển tập Nikàya A Hàm... qua
những năm 75-77 tại Viện Cao Đẳng Hải Đức Nha Trang và 80-84
tại Tu Viện Quảng Hương Già Lam, thư viện Vạn Hạnh (Võ
Di Nguy, Phú Nhuận) mới thấy được khả năng, trí nhớ trác
tuyệt của Thầy. Kinh, luật, luận, Tam Tạng giáo điển, hầu như
Thầy nằm lòng tự kiếp nào. Có lẽ trong dòng sinh tử vô tận, đã có bao
đời Thầy đã là Thiền sư, Pháp sư, Luận sư, cho nên mỗi khi hỏi
đến những pháp số, ý kinh, nghĩa luận trong Đại Tạng, Thầy đều dở
đúng số trang, số quyển, số dòng. Phải làm việc chung với Thầy mới biết được
tính cần mẫn, ý chí kiên quyết, tự lập để xây
dựng cho chính Thầy. Hầu như bất cứ thời điểm nào Thầy cũng học,
cũng nghiên cứu, cũng nghiền ngẫm, cũng đọc kinh điển, thi
văn, kinh thi, kinh dịch, triết lý, thi ca; cũng tự học âm
nhạc: dương cầm, vĩ cầm; cũng tự tập viết chữ Nho: chữ Thảo của Vương Hy Chi;
đọc thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha.... Thầy sống thanh
bạch, đơn sơ, đêm ngày miệt mài, trầm mình trong thế
giới tâm linh, tư tưởng, triết học, thi ca, ngôn ngữ,
nên không còn thời giờ nghĩ đến cách ăn mặc, bề
ngoài như kẻ khác. Do vậy, trên người của Thầy, luôn luôn với bộ áo nhật
bình 4 vạt úa mầu với thời gian, dài tới dưới đầu gối, khi dạy học cũng
như lúc ra ngoài. Dáng người tuy nhỏ nhắn, nhưng khối óc thì vĩ đại, thông
minh thiên phú. Chính vì bản chất thông minh đó mà tên Tuệ
Sỹ là do Thầy tự đặt, sau khi hiểu và thông đạt được tư
tưởng tu chứng của Thiền sư Tuệ Trung Thượng Sỹ, đời Trần,
Thầy đã lấy tên Tuệ Sỹ, trong bốn chữ Tuệ Trung Thượng Sỹ. Khi đặt pháp
danh của Thầy là Nguyên Chứng có lẽ Ôn Già Lam đã thấu hiểu được
tâm tư của Thầy, tài nghệ khác thường hơn người đời, như rồng thiêng vẫy
vùng nơi đại hải, nên lắm lúc cũng bất chừng khi tâm thức vùng
dậy, như trận cuồng phong xô giạt phá đổ mọi thành trì, chướng
ngại, trở lực của thế giới trí thức, liễu tri thế
gian, mở bày một chân trời giải thoát của tâm hồn Đại
Sỹ, bao la, vô cùng tận. Do vậy, nhìn vào đời sống của Thầy
thật đơn giản nhưng sung túc, cặm cụi nhưng thư thái, nhiệt
tâm nhưng buông xả, mà Thầy thường dạy anh em Tăng sinh viên, như
"hạt xả không trì", như hạt bỏ ao hoang, không luyến lưu, tham đắm
mọi hình thái của cuộc đời.
Từ trí tuệ hơn người, Thầy đã đi bằng đôi chân
dân tộc, đạo pháp, khai quật và tỏ bày con đường tự do, hạnh
phúc cho quê hương Việt Nam; mang tinh thần triết
lý văn học vào cuộc đời thăng hoa sự sống; phát triển và
trao truyền tinh thần triết học của luận, thực nghiệm tu
chứng của kinh và hành trì nghiêm mật của luật cho nếp
sống Tăng sinh trẻ, Thầy đã sống bằng giá trị thực
tiễn của lẽ sống phụng sự, hy sinh, gương
mẫu nhằm hướng đến chân trời kiến văn cho tất cả mọi người.
Dừng chân đứng lại trên ngọn đồi Trải Thủy, như hình
con dơi đang xòe cánh, Thầy đã sống bình lặng qua bao tháng ngày êm đềm,
giản dị, gần gũi, thân thương như hòa tâm cùng cỏ cây, vách đá, gió núi, và
hương vị nước mặn của sóng biển. Lần đầu tiên gặp Thầy, như đã nói trên, trong
cung cách thật dung dị, chiếc quần màu cà-phê tái nhạt, chiếc áo nhật bình
đã sờn vai theo năm tháng mà lại ngắn ngủn, đầu tóc hơi dài hơn bình
thường, thật phù hợp, ăn tiệp với nhau từ đầu đến chân. Tuy
nhiên, một điểm nổi bật trên khuôn khổ ấy là đôi mắt sâu và sáng
quắc. Nhìn vào đôi mắt ấy như hai hố thẳm của tư tưởng, khó ai có thể dò
tới đáy sâu của hố thẳm là bao nhiêu. Trong tận cùng của hố thẳm ấy, là một
trời trăng sao văn học, triết lý, đạo lý... tiềm tàng ngút ngàn mù
khơi, như sóng biếc trên dòng Chiết Giang; thâm u, cô tịch như
hòn Lô Sơn mà Thầy đã dịch trong bộ Thiền Luận.
Giờ học đầu tiên Thầy giảng về nền Triết
học Tây phương qua các tư tưởng Henry Miller, Jean Paul
Sartre, Engel, Platon... nghe sao mà khó hiểu vô cùng nhưng có gì là
lạ, lý thú trong cách giảng dạy của Thầy, không cần
sách vở, chỉ nói và nói. Nói như dòng thác đổ từ trên cao, vì đầu nguồn
của dòng thác chứa đầy nước, được sung mãn vô kể, do vậy, cứ đổ hoài
mà không bao giờ vơi. Thầy đem tất cả sở học, kiến thức trao truyền
lại cho anh em; tuy nhiên, anh em Tăng sinh khó có thể thâu đạt
được hết những gì Thầy đã truyền giảng. Từ chân trời phương Tây đến góc
biển phương Đông, bao nền Triết họcKhổng Tử, Lão Tử, Trang
Tử, Kinh Dịch, Đạo Đức Kinh, Kinh Thi; văn học Trung
Hoa, Đào Tiềm, Hàn Dũ, Tô Đông Pha.... Các thi hào, thi bá
như một cánh đồng văn học đầy hoa thơm cỏ lạ mà Thầy là con
ong đang bay đi hút mật trên cánh đồng nhiều hoa thơm cỏ lạ đó, để
rồi luyện thành mật sáp nuôi dưỡng tinh thần, đời sống tâm
linh. Là một đạo sĩ trưởng thành trên nền tảng giáo
lý giác ngộ giải thoát xuất thế gian, được hấp thụ và thể
nhập tư tưởng giáo pháp siêu phàm của bậc Đạo sư, từ
đó Thầy đã quán triệt qua các giáo nghĩa Hoa
Nghiêm, một thế giới quan trùng trùng vô tận; giá
trị đích thực tu chứng từđịa vị phàm phu, đắc thành
Phật quả của kinh Pháp Hoa; từ yếu nghĩa vô ngã, phá trừ, đập
nát cái vỏ chấp ngã, để nhơn pháp câu không của Bát Nhã; từ
đỉnh núi Lăng Già của vua Dạ Xoa đến cánh đồng A
Hàm nguyên thủy, từng bước chân đi của Đức Phật, hầu như
Thầy theo dõi trọn vẹn, trên lãnh vực trí tuệ thế gian, và
chính nơi đây, chỉ đợi đến giây phút tối hậu, cánh cửa tâm
linh bật mở, chân trời giải thoát bao la hiện bày,
và con người của thế nhân bặt dứt.
Suốt thời gian bốn năm Trung
đẳng Chuyên khoa, 70-74, ngày hai buổi dạy học, như một trách
nhiệm mặc nhiên, mà Thầy tự xem đó như là lẽ sống trên tinh
thần phụng sự, trao truyền kinh nghiệm tu học cho tất
cả. Thầy tận tụy trong từng giờ dạy học, Thầy chia sẻ những hiểu biết, tâm
tình với anh em Tăng sinh trên đồi, tháp sắt vào những buổi chiều, sau giờ cơm
chung của đại chúng. Thầy kể chuyện không mấy có duyên lắm nhưng rất rộn
rã và khôi hài, trong những lúc đó, đôi mắt Thầy to tròn lên gần như gấp
đôi diễn đạt và biến chuyển theo tình tiết câu chuyện,
lời kể lúc nào cũng thâm thúy nhưng đầy vẻ hài hước, vui tươi.
Thầy làm việc gần như không biết mệt, thức thật khuya nhưng dậy sớm,
bên cạnh tách cà phê giúp Thầy thêm tỉnh táo để tuôn trào những
dòng tư tưởng, triết lý, thi ca cho thời đại, đóng góp
những tinh hoa văn học cho dân tộc, con người.
Vẫn chưa đủ trên phạm trù xây dựng, cung
phụng văn học, nghệ thuật, giáo dục, đạo học, mà còn đích thân
lăn xả vào xã hộiđể gần gũi với con người trong từng miếng ăn,
giấc ngủ. Thầy đã thể hiện điều này qua cuộc chiến mùa hè đỏ lửa
1972. Hàng trăm ngàn người tị nạn từ Ban Mê Thuột, Pleiku đổ xuống, từ Quảng
Trị, Thừa Thiên tràn vào, tạm trú tại các trường trại, từ tiểu học
đến trung học, tư thục hay công lập đều được trưng dụng cho làn sóng người tị
nạn các tỉnh địa cầu giới tuyến và vùng cao nguyên Trung phần, già trẻ, lớn bé,
đàn ông, đàn bà gánh gồng chiu chít, người mất cha, kẻ mất chồng, lầm
than, cơ cực trong cảnh màn trời chiếu đất. Thầy cùng anh em học
Tăng tình nguyện đi cứu trợ, từ Nha Trang ra Vạn Giả, Tu Bông xin
gạo, tiền, vật thực về phân phối cho đồng bào. Thầy tự lái chiếc xe Jeep của
Viện mà chẳng ai dám tin tưởng tí nào, vì từ trước tới giờ
Thầy chưa bao giờ lái xe, nhưng vì tinh thần tương thân
tương trợ, lá lành đùm lá rách, và chí nguyện của Bồ Tát
hành Bồ Tát đạo không cho phép Thầy không thể hiện.
Thấy vậy, anh em học Tăng lại càng xả thân cho công cuộc
cứu trợ, người đào giếng ngoài Đồng Đế, kẻ căng lều, mang vật thực, săn
sóc vết thương, người chở gạo, tải thuốc men, cấp cứu, mà hình
ảnh Thầy như một chiến tướng giữa đám quân binh, vì đồng bào lúc bấy giờ
không có hàng ngũ trật tự gì nữa, cảnh tượng như ong vỡ tổ,
tay xách nách mang, đạp nhau mà chạy. Máu chảy ruột mềm, chính trong cảnh
huống này mới thấy được tấm lòng cứu độ, lợi tha trước vận
mạng đen tối của quốc gia dân tộc. Thầy đã phát
huy con đường Bồ Tát đạo ngày càng rộng rãi, thênh
thang hơn nữa, cũng chính vì vậy mà sau này, ngày 2/4/1984,
Thầy đã bị bắt và lãnh bản án tử hình ngày 30/9/1988 tại
Tòa án nhân dân Sài Gòn.
Thời gian như âm thầm trôi đi dưới mái Phật
học viện thân yêu đầm ấm, tình Thầy trò như được quyện lại bên nhau
mà mỗi lần trời mưa, sáng sớm Thầy trò xuống nhà bếp nấu nước sôi pha trà, thì
thấy cô Bảy đã xong nồi cơm sáng cho đại chúng, còn ông Đông thì ngồi trên
cái đòn gần bếp để sưởi ấm, những hình ảnh thật đơn sơ, mộc mạc,
và chính trong những giờ phút đó mới thấy thật gần gũi, cảm thông, tình
nghĩa. Ngồi bên bếp lửa bập bùng cháy sáng, tiếng lửa củi kêu tí tách, nhìn
xuống chân đồi, vườn rau, luống cải của viện, cạnh chùa Phước Điền, để
nghe Thầy đọc thơ:
Vác cuốc xuống lưng đồi
Nắng mai hồng trên môi
Phương đông mặt trời đỏ
Mùa hạ không mây bay...
Bướm vàng trên vách đá
Tịch mịch cảnh chùa xưa
Chim chóc từ viễn phố
Tình không rặng núi mờ...
Từ âm điệu, từ khung cảnh, bên bếp lửa hồng, ấm
cúng, ngồi nghe giọt mưa rơi dưới mái hiên, như hình ảnh một Thiền
sư ngồi gõ nhịp thời gian, người viết làm bốn câu thơ tặng Thầy:
Bếp lửa hồng Thiền sư ngồi gõ mộng
Bình tâm không động giọt sương trong
Ai khơi ánh lửa chiều đông
Hơ lòng lãng tử chốc mòng phiêu du.
Đây chính là thời gian bình thản, yên
lòng để lo việc học, thi cử mãn khóa, tiếp tục lên cao đẳng,
thì hình ảnh Thầy lại càng kề cận, chăm sóc, lo lắng cho
anh em học Tăng hơn nữa. Thầy đã soạn thảo chương trình, bài
giảng, học liệu để mở ra chân trời Cao đẳng Chuyên khoa mà ước
nguyện của quý Ôn, quý Thầy mong thành đạt, để mở ra kỷ nguyên
mới, kỷ nguyên của dịch thuật, người lãnh đạo trực tiếp là Thầy. Tất
cả mọi nỗ lực được thành như ý nguyện, tấm bảng hiệu Viện
Cao Đẳng Phật Học Hải Đức Nha Trang được dựng lên nơi đầu đường,
cạnh chùa Núi, Linh Phong Cổ Tự. Và cũng chính từ ngày hôm đó, thời
gian ấy, Thầy bận rộn nhiều, phần học vụ làm Thầy không
có thời gian như trước. Ban ngày lo soạn chương trình, bài vở,
hoặc dịch thuật, trước tác và phụ tá cho Hòa thượng Viện
Trưởng, ban đêm đến giờ hô canh ngồi Thiền thì Thầy lại mặc áo
tràng, bây giờ thì Thầy đã có đủ áo quần đàng hoàng như quý Thầy khác mà không
như trước, một nghệ nhân, hay du sĩ, đi canh chúng ngồi Thiền, nhìn qua lỗ
trống của mỗi phòng trên dãy nhà cư xá Tăng sinh viên, nằm ven triền đồi Trại
Thủy gần gác chuông. Những đêm mưa gió, từ biển khơi thổi vào đập nát cả
lá hoa sườn đồi, nhưng Thầy vẫn không bỏ giờ canh Thiền đại chúng.
Thời gian của năm thứ nhất cao đẳng cũng
là thời gian chiến tranh bùng nổ dữ dội, chiến trận tổng
tấn công của bộ đội Bắc Việt, xâm chiếm từ các vùng cao nguyên Trung phần,
từ các tỉnh Dầu Giây, Xuân Lộc, Củ Chi, miền Tây, và miền Đông Sài Gòn. Trong
khi đó, từ các tỉnh địa đầu vĩ tuyến 17 cũng mất dần an ninh, và cuối
cùng là bộ đội Bắc Việt tiến chiếm dần miền Nam.
Trước ngày 30/4/1975, quân đội Việt Nam Cộng
Hòa đã rút lui, bỏ ngỏ trên các tuyến đường quốc lộ I, chẳng có ai kiểm
soát, thành phố Nha Trang bỏ trống, các phi đội, khu trục Không quân ở phi
trường Nha Trang được lệnh bay vào phi trường Phan Rang để từ đó mang bom ra
dội Cầu Xóm Bóng, cắt đứt đường tiến quân của Bắc Việt. Thì lại một
lần nữa Thầy và anh em học Tăng làm nghề cứu thương, xuống bệnh
viện toàn khoa Nha Trang, những bệnh nhân nào hơi khỏe mạnh, hay đi đứng được thì
đã di tản, còn lại những bệnh nhân nặng thì vẫn nằm đó, vì lúc đó không
còn bác sĩ, y tá trực nữa, mạnh ai nấy lo liệu, bệnh viện,
trường ốc, cư xá, chợ búa như nhà không chủ. Trong cảnh nước mất nhà tan này,
Thầy lại lăn xả vào vùng lửa đạn để cứu giúp đồng bào, an ủi bệnh
nhân, thương binh, trẻ mồ côi lạc mất gia đình cha mẹ, để
bồi đắp tình thương trong cuộc đời khổ lụy này.
Trước tình thế mới đầy rối ren, khủng
hoảng, chưa biết phải xử trí như thế nào, ngay tối hôm đó, anh
em học Tăng gặp Thầy tại thư viện, quây quần bên nhau, mong
tìm phương pháp giải quyết, có anh em đề nghị Thầy nên di
tản, chúng ta không thể ở lại viện được nữa. Khi ấy, anh em cứ ngỡ là
Thầy sẽ đồng ý, chấp nhận cho anh em tự do đi, hay là
đi cùng đi tập thể, nào ngờ Thầy nhìn tất cả anh em, rồi nói bằng giọng cương
quyết: "Tôi vẫn còn đây, thì anh em cũng phải ở đây, quê hương và đất nước
này còn cần đến anh em nhiều hơn nữa. Chúng ta không thể trốn chạy
khi dân tộc, đạo pháp đang gặp cảnh điêu linh". Qua lời nói khẳng
khái đó, ai nấy đều nhìn nhau mà bàng hoàng. Trong cái bàng
hoàng thầm kính phục tấm lòng sắt son, hy sinh đời mình để chia
sẻ nỗi tang thương vận nước. Một con tim nóng hổi đang ấp ủ, che
chở hàng triệu con tim đang thiếu máu.
Đây là thời điểm đánh dấu sự quyết
định dứt khoát của Thầy là phải ở lại trên mảnh đất quê hương này.
Dân tộc, đạo phápcòn cần sự có mặt của Thầy. Ngày nào dân tộc còn lầm
than, quê hương còn khốn khổ thì ngày đó còn có những đôi tay, khối óc như Thầy
để cày xới, gieo rắc hạt mầm yêu thương, để vơi đi sự thù hận,
để thấy trên quê hương còn có những bông hoa tươi thắm tô điểm, thêm
hương, khởi sắc giữa cánh đồng hoang, lau sậy gầy guộc. Thầy là hiện
thân của đóa hoa tình thương nguyện ở lại để thọ nhận thương đau
cùng với cái thương đau của dân tộc, nguyện dấn thân vào nơi khốn cùng, của cơn
phong ba bão tố để đưa con thuyền đạo pháp đến bến bờ bình yên. Sự ở
lại của Thầy mang nhiều ý nghĩa của một tâm hồn đạo sĩ, thi
sĩ, văn nhân, và tự tình con dân nước Việt. Là mấu chốt, là yếu điểm vàng
son của chặng đường lịch sử dân tộc và đạo pháp. Thầy ở lại vì
còn hàng triệu người ở lại. Thầy không đi vì chung quanh Thầy còn nhiều đôi tay
giơ lên réo gọiThầy. Quê hương Việt Nam, dân tộc giống nòi, ngàn năm
Tổ quốc, còn hiện rõ hình bóng chư vị anh hùng liệt nữ, một thời
chống xâm lăng giữ yên bờ cõi, một Lý Thái Tổ, Lê Đại Hành, Trần
Thái Tông, Trần Thánh Tông... là những vị Phật tử mang hương
vị giáo pháp giải thoát giác ngộ vào nơi trận mạc, giữa
chốn ba quân, trong cơn quốc biến để tu tập và giáo hóa.
Một đại tướng Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trãi... là những
bậc Thiền sư, bằng đôi tay mạnh, trái tim nóng để an bang xã tắc, thì
có lý do nào để ra đi? Đó là những hình ảnh hào hùng của
người dân Việt. Còn đạo Phật Việt thì sao? Từ thuở đầu đời, chư
vị Thiền sư, Tổ Đức gieo rắc ánh đạo mầu vào lòng dân tộc, trên
mảnh đất Luy Lâu thân yêu, một Ngài Khương Tăng Hội, Chi Cương
Lương, Mâu Bác... hay vào thời cận đại, Tổ Phước Huệ, chùa Thập Tháp,
Tổ Liễu Quán, Phú Yên, Bồ Tát Quảng Đức, ngọn lửa bình
đẳng, tự do tín ngưỡng, đã thắp sáng bao thập niên qua.
Những hình ảnh đó sừng sững như tường đồng, vách sắt trong
mỗi nhịp thở con tim của Thầy, và hình ảnh của một thế hệ,
một chặng đường lịch sửcủa đạo pháp còn cần sự tiếp tay của
Thầy, còn cần lời nói của Thầy, còn cần ngọn bút thiên
tài của Thầy để viết nên những trang sử vàng son, oai hùng của thời
đại. Và đến giờ này, thật sự Thầy đã viết nên những dòng sử mệnh đó.
Sau sự quyết định của Thầy, tất cả anh
em học Tăng đều vui vẻ ở lại tiếp tục làm việc
dưới sự hướng dẫn của Thầy. Lúc bấy giờ, Viện đã đóng cửa, một số anh em
đã trở về với Thầy Tổ, số còn lại lo công việc dịch bộ Trung, Tăng
Nhứt và Tạp A Hàm. Tuy nhiên, sau khi hoàn
thành bộ Trung A Hàm thì hoàn cảnh lại không cho
phép. Lý do, người thì phải đi lao động xã hội chủ nghĩa, kẻ
phải đi làm thủy lợi, kinh tế mới... sản xuất các hợp tác xã, nói
chung là không còn có thì giờ để ngồi xem kinh, trước tác gì
nữa. Và cũng chính trong thời điểm này, 1976, đời sống giữa anh em
với Thầy cũng cách xa. Thầy cũng phải đi lao động, làm rẫy tại Vạn Ninh, Vạn
Giả, vui với cỏ cây, khoai sắn, lúa mạ, vườn tược, làm xúc cảm hồn thơ của
Thầy, và tập thơ "Soi Đê" được ra đời. Nhưng có lẽ, điều mà Thầy nhìn
thấy mạnh mẽ và thiết thực nhất là quê hương bị tàn phá, dân tộc bị lầm
than, đạo pháp bị bức bách, cả một thế hệ trẻ
bị vong bản vì chế độ cộng sản, cho nên Thầy càng thấy buồn
cho tiền đồ đạo pháp, vận mạng quốc gia sẽ ra sao? Lúc này
trông Thầy như cánh hạc trong đêm, khi gặp khi không, vì Thầy thường ở nơi cái
chòi bằng tranh, "Soi Đê" của Thầy tại Vạn Giả, để ngày thì vác cuốc
làm rẫy, tỉa bắp, trồng rau, đêm thì nằm nghe núi rừng u tịch, tiếng
côn trùng rỉ rả, dế mèn nỉ non dưới lòng đất mới. Tiếp xúc với mảnh
đất gầy gò quê hương, qua chứng tích điêu tàn loang lổ
trên đất mẹ, không cầm được lòng đau thương, tủi phận cho giống
nòi Hồng Lạc, cho những hạt giống tinh anh, siêu việt của
dân tộc bị mai một, và cho những cái gì của hàng ngàn năm lịch
sử bị tàn phá, quê hương lùi dần vào bóng đêm, và tâm tình của Thầy như
lời thơ "Mười Năm Trong Cuộc Lữ":
Ngọn gió đưa anh đi mười năm phiêu lãng
Nhìn quê hương qua chứng tích điêu tàn
Triều đông hải vẫn thì thầm cát
trắng
Chuyện tình người và nhịp thở của Trường sơn
Mười năm nữa anh vẫn lầm lì phố thị
Yêu rừng sâu nên khóe mắt rưng rưng
Tay anh vói trời cao chim chiều rủ rỉ
Đời lênh đênh thu cánh nhỏ bên đường
Mười năm sau anh băng rừng vượt suối
Tìm quê hương trên vết máu giữa đồng hoang
Chiều khói nhạt như hồn ai còn hận tủi
Từng con sông từng huyết lệ lan tràn
Mười năm đó anh quên mình sậy yếu
Đôi vai gầy từ thủa dựng quê hương
Anh cúi xuống nghe núi rừng hợp tấu
Bản tình ca vô tận của Đông Phương
Rồi ngày ấy anh trở về phố cũ
Giữa con đường còn rợp khói tang thương
Trong mắt biếc mang nỗi hờn thiên cổ
Vẫn chân tình như mưa lũ biên cương.
Từ Nha Trang ra Vạn Giã khoảng 60 cây số, Thầy đã đi
về bằng những chuyến tàu đêm, âm thầm lặng lẽ trong tâm tư lắng đọng
nên Thầy ít nói hơn khi xưa. Có lúc Thầy đóng cửa phòng
ở một mình cả tuần không cơm nước. Thầy chỉ uống nước chanh đường,
hoặc nước lạnh, thỉnh thoảng mới thấy Thầy đi bách bộ bên
ngoài. Trông Thầy gầy hẳn, nhưng trên khuôn mặt luôn luôn phảng
phất một niềm riêng sầu kín, thiêng liêng qua ánh mắt. Một tâm
sự, nỗi niềm dường như không thể nói cùng ai, dù thời
gian ấy vẫn có Hòa thượng Viện Trưởng, Thượng
tọa Giám sự, Thượng tọa Phó Viện Trưởng, cùng anh em học
Tăng. Có lẽ, tất cả không ai có thể hiểu và cảm thông được nỗi
lòng chất chứa, tràn đầy những tâm sự mà chẳng biết tỏ cùng ai, nên Thầy
đã viết thành lời thơ:
Ta làm kẻ rong chơi từ hỗn độn
Treo gót hài trên mái tóc vào thu
Ngồi đếm mộng đi qua từng đọt lá
Rũ mi dài trên bến cỏ sương khô
Vì lêu lổng mười năm dài gối mộng
Ôm tình già quên bẵng tuổi hoàng hôn
Rồi một sáng nghe chim rừng đổi giọng
Người thấy ta xô giạt bóng thiên thần
Đất đỏ thắm nên lòng người hăm hở
Đá chưa mòn nên lòng dạ trơ vơ
Thành phố nọ bởi mưa phùn nắng quái
Nên mười năm quên hết mộng giang hồ....
Này đêm rộng như khe rừng cửa biển
Hai bàn tay vén lại tóc tơ xưa
Miền đất đỏ trăng đã gầy vĩnh viễn
Từ vu vơ trong giấc ngủ mơ hồ
Một lần định như sao ngàn đã định
Lại một lần nông nỗi vết sa cơ
Trời vẫn vậy vẫn mây chiều gió tĩnh
Vẫn một đời nghe kể chuyện không như
Để sống chết với điêu tàn vờ vĩnh
Để mắt mù nhìn lại cuối không hư
Một lần ngại trước thông già cung kỉnh
Chẳng một lần lầm lỡ không ư?
Ngày mai nhé ta chờ mi một chuyến
Hai bàn tay vén lại tóc tơ xưa...
Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn
chăng?
Đến tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vạch tường ủ rũ
Rồi từ đó, xuôi ngược, trải qua bao nhiêu
thác ghềnh, biến cố của quê hương, xứ sở, mỗi người một ngả, hàng vạn
lối chông gai; tuy nhiên người viết vẫn còn cái duyên tao ngộ
với Thầy, mà trải qua bao năm tháng cùng Thầy làm việc, phiên
dịch đánh máy kinh điển, Trung A Hàm, sưu tra tuyển tập Nikàya
- A Hàm, Kinh Pháp Cú... tại thư viện Phật học viện Nha
Trang. Tất cả những kỷ niệm đó còn đậm nét trong tâm khảm để đến hôm nay
được tiếp tục những gì còn dang dở của một thời đèn
sách, miệt mài bút nghiên.
Sau khi Viện Cao Đẳng Hải Đức Nha Trang đóng
của như đã nói ở trên. Ôn Già Lam vẫn mang hoài bão phụng
sự, giáo dụcthế hệ trẻ. Để hoàn thành ước nguyện đó,
Thầy là một trong những người nòng cốt cho sự tiếp nối chương
trình cao cấp bốn năm của lớp học Tăng sinh Già Lam. Lớp
học được hình thành, trải qua bốn năm vừa làm việc vừa học
hành trong sự lo lắngmà nhiều đêm cả chùa chẳng ai ngủ được, vì công
an soát hộ khẩu một hai giờ khuya, anh em học Tăng phải leo lên trần
nhà để trốn.
Chế Độ Cộng Sản Kết Án Tử Hình
Hai Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ - Phạm Văn Thương và Thích Trí Siêu - Lê
Mạnh Thát
Một buổi sáng mùa xuân, cuối tháng 3 năm 1984,
khí trời êm ả, cảnh vật êm đềm, tĩnh lặng cũng như bao nhiêu thời
khóa công phu và lạy Sám mỗi sáng. Ôn Già Lam và đại
chúng xong thời lễ tụng 108 biến Hồng danh. Về phòng, Ôn uống trà
và điểm tâm. Sau giờ điểm tâm, là việc làm thường nhật,
tưới nước, quét sân, cho cá ăn... Nhưng sáng hôm nay Ôn đã không làm việc đó,
vì có lệnh công an mời lên họp trên Mặt trận Tổ quốc, do vậy Ôn đi từ sáng sớm.
Sau khi Ôn đi rồi thì công an vào soát chùa Già Lam, đồng lúc bên
viện Phật học Vạn Hạnh cũng bị lục soát. Họ, công an, bắt quý
Thầy vào ngồi phòng khách, không được đi lại, một số công an khác lên phòng Thầy
Tuệ Sỹ và Nguyên Giác kè hai Thầy lên xe và chở đi, không nói một
lời từ biệt. Và bên Vạn Hạnh cũng không khác, cùng một thủ
thuật, họ bắt Thầy Trí Siêu và Thầy Như Minh cũng kè ra xe rồi chạy mất. Có
điều thật dễ thấy là mạng lưới công an đã bao vây chùa Già
Lam và Vạn Hạnh từ sáng sớm, cũng như họ đã toan tính
trước, vì vậy, bên chùa Già Lam thì họ mời Ôn đi họp sớm, còn
bên Vạn Hạnh thì Ôn Minh Châu cũng đã đi họp mấy hôm ở Hà
Nội, cho nên cả hai nơi đều vắng mặt hai Ôn, mục đích để họ
dễ bề hành sự.
Nói đến Thầy Thích Trí Siêu - Lê Mạnh Thát, một sử
gia, một nhà văn hóa lớn, một học giả uyên bác, tinh
thâm ngôn ngữhọc, Phật học. Người viết cũng đã một thời
gian làm việc với Thầy tại thư viện Vạn Hạnh, 1981-1984, công
trình khảo cứu, sưu tra làm bộ bách khoa Phật học Đại Từ Điển
cho Ôn Già Lam. Thầy cũng bình dị không kém gì Thầy Tuệ Sỹ, cuộc
sống đơn sơ của một nhà đạo sĩ. Vóc người nhỏ nhắn, với vầng
trán cao, bóng nhụi, biểu lộ một sự thông minh xuất chúng.
Dáng đi của Thầy, không giống như người thường, đôi tay hơi khung lên và xăm
xăm tới, chữ viết của Thầy còn khó đọc gấp mấy lần chữ
viết của Thầy Tuệ Sỹ. Có lần Sư cô Huệ Khương, thư
ký đánh máy tại thư viện, người đã bị bắt cùng ngày với quý
Thầy, đọc bản thảo của Thầy không hiểu, cô hỏi Thầy, Thầy trả lời:
"Chữ nghĩa văn chương là của con người, sao lại không
hiểu?" bằng giọng Quảng Trị khó nghe, rồi Thầy tiếp tục đọc,
viết, không nói gì nữa, cô Khương cũng chẳng dám hỏi thêm. Thầy làm việc
thật cặm cụi, có những đêm thức trắng bên chồng kinh, sách, sử liệu cổ. Thầy
không ngừng phát kiến, lục đạonhững chứng tích, di tích xa
xưa, mà một thời đã bị mai một. Đích thân Thầy đi về các ngôi chùa cổ ở
miền Tây, hay miền Trung, để đọc lại những bản kinh, lịch
sử được viết tay bằng chữ Nho, mà theo năm tháng gần như mục nát,
nhưng đó chính là những tài liệu vô giá trong công
trình khảo đính văn học sử, lịch sử Phật giáo Việt Nam. Qua
những công bố sử học mới nhất của Thầy, ngay cả Bộ Văn
Hóa Hà Nội cũng phải tham kiến với Thầy, dù họ chẳng ưa gì những
sự khám phá mới mẻ này. Vào những năm đầu sau ngày 30/4/1975,
Bộ Văn Hóa Thành phố Hồ Chí Minh mời Thầy cộng tác,
giảng huấn, nhưng sau một thời gian, họ thấy trí tuệ của Thầy
vượt họ quá xa, sự hiểu biết lịch lãm, kinh nghiệm chuyên
môn sâu sắc, nên thôi, và cũng từ thời gian đó, công an theo
dõi Thầy cho đến ngày Thầy bị bắt và bị kết
án tử hình. Có lần Thầy ra Phật Học Viện Nha Trang, cùng Thầy Tuệ Sỹ,
hai người đi bộ xuống biển rồi chiều về, đi ngang qua Sở công an thành phố,
được mời vào ngủ lại đêm, sáng mới về. Hỏi ra, Thầy nói: "Họ
không biết mình là ai nên bắt nhốt một đêm muỗi cắn quá chừng".
Nói xong, Thầy cười tự nhiên.
Ngoài thiên tư, bẩm chất của một nhà sử
học, đạo học, nghiên tầm Đại Tạng kinh điển. Thầy còn là
một Bác sĩ Y khoa tốt nghiệp tại Hoa Kỳ, mà qua thời
gian thân phụ Thầy là Ôn Trí Lưu. Giám tự Linh Mụ, Huế,
bệnh nằm trong phòng Thầy, Viện Vạn Hạnh, tự tay Thầy chăm sóc thuốc men,
cơm cháo. Thầy cùng thân phụ là đệ tử của cố Đại Lão
Hòa Thượng Chánh Thư Ký kiêm Xử lý Viện Tăng
Thống, Hòa Thượng Thích Đôn Hậu.
Thân thế và sự nghiệp của hai Thầy khác hẳn
với tất cả mọi người. Thầy Tuệ Sỹ là đệ tử của Hòa
Thượng Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Thích Trí Thủ, có
một sự nghiệp văn học lừng lẫy, giáo pháp thông
suốt, liễu tri, thơ văn đầy ắp trong tư tưởng. Còn Thầy Trí Siêu như
trên đã nói, cả hai là những ngôi sao sáng dưới bầu trời Việt Nam,
là tinh hoa nước Việt, là những cây bút trác việt, tuyệt
luân của Phật giáo, chính những yếu tố đó mà hai bản
án tử hình đã tròng vào cổ hai Thầy. Cộng Sản không thể làm ngơ và
để tự do cho những con người ưu tú như vậy.
Đọc lịch sử hình thành từ những ngày đầu tiên của Cộng sản Quốc tế,
đến đường lối xây dựng xã hội chủ nghĩa Việt Nam hôm
nay, ai cũng thấy tầng lớp công nông đứng lên cướp chính quyền, đấu
tố giai cấp thượng lưu, trí thức, địa chủ, phú hương. Do vậy,
sự hiện diện của hai Thầy trong xã hội chủ nghĩa không có
lý do gì tồn tại được, mà đã không thể tồn tại được
thì chế độ Cộng sản phải làm gì? Đây là lý do đẻ ra bản
án tử hình. Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam kết án tử hình
hai Thầy là mặc nhiên công nhận với thế giới về
việc đàn áp Phật giáo.
Ngay sau ngày 30/4/1975, Cộng sản đã ra lệnh tịch thu
tất cả sách báo miền Nam trước 30/4/1975 từ mọi lãnh vực: triết học,
kinh tế, chính trị, tôn giáo, xã hội, âm nhạc... họ cho rằng sách
báo của miền Nam là bồi bút của "Mỹ-Ngụy", chất
chứa những tư tưởng phong kiến, đồi trụy, và bắt phải hủy bỏ.
Lúc bấy giờ, vì đau lòng thương tiếc bao công
trình văn hóa của đất nước nên nhiều nơi sách vở được cất vào bao bố
và đem ra ngoài rẫy cất dấu, thời gian sau coi lại, mối mọt đã ăn
rách nát. Cộng sản Việt Nam đã hủy hoại nền văn hóa dân
tộc. Đôi bút của hai Thầy đã đóng góp một phần không nhỏ cho nền văn
họcđương đại, khơi dậy một chặng đường lịch sử văn học, sử học và
nghệ thuật nước nhà. Hai con người, bốn hình ảnh, vừa cưu
mang sứ mệnh con dân tộc Việt, đang đứng trước vực thẩm của thời
đại mới, thời đại bần cùng và nghèo đói; hai Thầy phải làm
gì cho sự tồn vong của đất nước? Vừa gánh nặng trên vai
công cuộc khai phá và phát huy con đường giáo pháp"Duy Tuệ Thị
Nghiệp" để tiếp nối ngọn đèn chánh pháp mà mấy ngàn
năm qua. Tổ Tổ tương truyền, trong sử mệnh của người tu sĩ Phật giáo.
Dân tộc lầm than, đang sống dưới sự đọa đày bức ép của chế độ,
hai Thầy cũng không thể đành lòng ngó lơ. Đạo pháp trong cơn
pháp nạn, hai Thầy không thể bó gối xuôi tay. Hai Thầy đã thể
nhập vào đời, như hình ảnh Thiền sưchống tích
trượng xuống núi, đem tấm thân giả tạm hiến dâng cho đại cuộc. Ngày
hai Thầy bị bắt mang đi và kết án tử hình, là ngày chế
độ Cộng sản Việt Nam tuyên bố cho thế giới biết
rằng: xã hội chủ nghĩa Việt Nam không gìn
giữ chứng tích sử học, không thừa truyền nền văn hóa dân
tộc, tự phát bởi những tấm lòng, ước mơ xây dựng một
nền văn hiến, văn phong cho đất nước. Bản án đó đã hủy diệt
những danh tài trẻ tuổi với nhiều ước mơ và lý
tưởng siêu xuất khỏi chốn đọa đầy, nô lệhóa của xã hội chủ
nghĩa. Vì lứa tuổi hai Thầy đại diện cho tầng lớp thế
hệ trẻ, mang nhiều hoài bão, vươn đôi tay ôm choàng Tổ quốc vào lòng, bằng
khối óc no tròn tình tự nòi giống tổ tiên. Bản án tử
hình hai Thầy đã đánh động lương tâm thế giới, khiến mọi
người từ quốc nội đến hải ngoại, từ Liên Hiệp Quốc đến
Hội Ân Xá Quốc Tế, tất cả đều lên tiếng yêu cầu nhà
nước Cộng sản Việt Nam phải hủy bỏ bản án tử hình phi
nhân, vô đạo. CS Hà Nội kết án tử hình hai nhà
tu sĩ Phật giáo, những người đã nuôi dưỡng lòng từ bi,
mang tình thương, ban vui cứu khổ; khơi dậy ngọn đuốc trí tuệ,
thắp sáng đến tận cùng tự mỗi lương tâm của con người. Đối với
hai Thầy, những người mang đạo tâm vì dân vì nước thì bản
án đó có nghĩa gì khi phải hy sinh thân mạng trên nền
tảng chân lý, cứu khổ độ mê. Chết để cho bao người được sống, để
làm viên sỏi lót đường cho bao người bước tới. Chết như là tiếng
sóng ngầm của đại dương làm các loài thủy tộc tỉnh
giấc mơ hóa rồng thiêng bay cùng mây trắng. Chết như cơn địa chấn làm sụp
đổ mặt đất này. Người đã đứng trên đỉnh núi Lăng Già của A Bà Tu
LaVương, dùng mọi thứ ngôn ngữ, văn từ, thi ca, âm
nhạc để tự trang nghiêm mình, trang nghiêm quốc độ,
cùng với sinh mệnhhơn 70 triệu dân, vì lòng Bi nguyện, hai Thầy có
sức tự tại bằng giá trị thực nghiệm Tánh Không,
thì bản án tử hình có làm run rẩy chân lông, sợi tóc? Hai Thầy
đã liễu giải nhơn pháp đều vô ngã, phiền não và sở
tri, thường thanh tịnh không, mà sanh khởi lên tâm Đại
Bi. Nếu không vì Đại Bi tâm, thì hai Thầy đâu cưu
mang tù tội, nhưng tất cả chỉ vì hoa đốm giữa hư không, mấy
chốc có không, thiên lưu thiên biến. Chế độ Cộng sản đã không thấy rõ thực
chân, thực tướng dòng máu Đại Cồ Việt. Dòng máu của chư anh
linh Thánh Tử Đạo, đã tưới lên từng ngọn cỏ, đọt cây làm xanh tươi non
sông gấm vóc. Lý tưởng tứ đại giai không, đem nắm xương tàn bón phân
hoa lá cũng có ích cho đất trời mù khơi, sương tuyết.
Tất cả đều cưu mang tự tính vô tình và hữu tình đồng thành Phật đạo, thì đâu sá gì một chút cỏn con sanh di tử độ. Chỉ có Cộng sản mới chấp thủ, bảo thủ, định thủ những tư kiến chủ nghĩa của cái nhìn không qua khỏi mũi cho nên cứ mãi ghìm chặt súng đạn, gươm đao, và cho đó là sức mạnh vô cực đối kháng để bảo tồn danh vọng, địa vị. Sự sát hại xem như cứu cánh, kết án tử hình xem như giải pháp tối thượng thì đó chính là ảo ảnh của lương tri, mà trước mặt là hố sâu đưa cả chế độ xuống vực thẳm. Một thế giới mù lòa vì không có văn hóa, văn học, văn phong, văn mỹ. Xã hội chủ nghĩa Cộng sản Việt Nam chưa hề có một nền văn học thuần túy dân tộc, phụng sự cái hay, cái đẹp, cái thanh cao, tinh khiết con người. Họ giết người vì tự ái thua kém của mình. Giết người để thấy cái khôn của người không còn phải chứng kiến, chướng tai gai mắt. Giết người là để chôn đi hết mọi chứng tích của sự hiểu biết, thông minh, tri thức con người. Và họ giết người vì không cùng đường hướng, chủ trương với chế độ. Bản án tử hình năm xưa, 1988, nơi hai Thầy là chứng nhân một oan nghiệt của chế độ Cộng sản Việt Nam mà mãi mãi ngàn sau, qua những dòng lịch sử dân tộc, đàn cháu con, hậu sinh sẽ biết thế nào là tội trạng của chế độ Cộng sản đối với Phật giáo. Suốt một dòng lịch sử dân tộc và đạo pháp, trải qua những chặng đường thăng trầm, vinh nhục của đất nước, mấy nghìn năm qua có thể nói thời đại Cộng sản Việt Nam là thời đại đầu tiên tuyên án tử hình đối với giới tu sĩ Phật giáo mà hai Thầy đã phải nhận lãnh. Bản án tử hình cũng nói lên sự thật cho mọi người biết rằng: có chế độ xã hội chủ nghĩa thì không có Phật giáo, hoặc nếu có chỉ để làm vì. Cộng sản đâu biết rằng từ ngụm nước đầu nguồn, cha ông, tổ tiên đã ăn trái cây giải thoát của Phật giáo, đã uống dòng nước thanh hương từ bi của đạo Phật mấy nghìn năm qua, mà ngày nay là đàn con cháu lại nhổ gốc cây, bứng tận rễ, tát cạn suối nguồn, quấy phá tanh hôi. Người ta thường nói: "Con hơn cha là nhà có phước", nhưng quê hương Việt Nam thật kém phước, vì nhà cầm quyền CSVN đã làm đảo lộn mọi trật tự gia đình, xã hội, mọi đạo đức, lễ nghĩa. Họ đã hủy hoại mọi nền tảng lễ nghi, nhân phẩm đến văn hóa, văn học, văn minh của dân tộc qua những hành động áp bức, khủng bố, vô nhân và hủy diệt tất cả sách báo miền Nam. CSVN đã làm hoen ố những trang sử Việt.
Tất cả đều cưu mang tự tính vô tình và hữu tình đồng thành Phật đạo, thì đâu sá gì một chút cỏn con sanh di tử độ. Chỉ có Cộng sản mới chấp thủ, bảo thủ, định thủ những tư kiến chủ nghĩa của cái nhìn không qua khỏi mũi cho nên cứ mãi ghìm chặt súng đạn, gươm đao, và cho đó là sức mạnh vô cực đối kháng để bảo tồn danh vọng, địa vị. Sự sát hại xem như cứu cánh, kết án tử hình xem như giải pháp tối thượng thì đó chính là ảo ảnh của lương tri, mà trước mặt là hố sâu đưa cả chế độ xuống vực thẳm. Một thế giới mù lòa vì không có văn hóa, văn học, văn phong, văn mỹ. Xã hội chủ nghĩa Cộng sản Việt Nam chưa hề có một nền văn học thuần túy dân tộc, phụng sự cái hay, cái đẹp, cái thanh cao, tinh khiết con người. Họ giết người vì tự ái thua kém của mình. Giết người để thấy cái khôn của người không còn phải chứng kiến, chướng tai gai mắt. Giết người là để chôn đi hết mọi chứng tích của sự hiểu biết, thông minh, tri thức con người. Và họ giết người vì không cùng đường hướng, chủ trương với chế độ. Bản án tử hình năm xưa, 1988, nơi hai Thầy là chứng nhân một oan nghiệt của chế độ Cộng sản Việt Nam mà mãi mãi ngàn sau, qua những dòng lịch sử dân tộc, đàn cháu con, hậu sinh sẽ biết thế nào là tội trạng của chế độ Cộng sản đối với Phật giáo. Suốt một dòng lịch sử dân tộc và đạo pháp, trải qua những chặng đường thăng trầm, vinh nhục của đất nước, mấy nghìn năm qua có thể nói thời đại Cộng sản Việt Nam là thời đại đầu tiên tuyên án tử hình đối với giới tu sĩ Phật giáo mà hai Thầy đã phải nhận lãnh. Bản án tử hình cũng nói lên sự thật cho mọi người biết rằng: có chế độ xã hội chủ nghĩa thì không có Phật giáo, hoặc nếu có chỉ để làm vì. Cộng sản đâu biết rằng từ ngụm nước đầu nguồn, cha ông, tổ tiên đã ăn trái cây giải thoát của Phật giáo, đã uống dòng nước thanh hương từ bi của đạo Phật mấy nghìn năm qua, mà ngày nay là đàn con cháu lại nhổ gốc cây, bứng tận rễ, tát cạn suối nguồn, quấy phá tanh hôi. Người ta thường nói: "Con hơn cha là nhà có phước", nhưng quê hương Việt Nam thật kém phước, vì nhà cầm quyền CSVN đã làm đảo lộn mọi trật tự gia đình, xã hội, mọi đạo đức, lễ nghĩa. Họ đã hủy hoại mọi nền tảng lễ nghi, nhân phẩm đến văn hóa, văn học, văn minh của dân tộc qua những hành động áp bức, khủng bố, vô nhân và hủy diệt tất cả sách báo miền Nam. CSVN đã làm hoen ố những trang sử Việt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét