Truyện
trên đường:
Một góc căn bếp nhà chị Huyền
Chúng tôi đến dốc A Mú Sung – Bát Xát – Lào Cai lúc gần 7 giờ
tối ngày mồng 5 Tết. Điểm này nếu nhìn trên bản đồ giống như đỉnh của tam giác
trên đường đi từ thành phố Lào Cai qua thị trấn Bát Xát, Trình Tường, Lũng Pô rồi
đến A Mú Sung, qua A Lù, Ngải Thầu vào Y Tý. Dù đã đi Y Tý và qua cung đường
này hai lần (gồm đi và về) tôi vẫn bất ngờ vì gió đèo biên giới. Những cơn gió
ào ạt, gầm rú, tát thẳng vào người và xe. Có lúc tôi cảm thấy dường như chiếc
xe chao đảo và bạn xế hơi run một chút. Chúng tôi đi trong bóng tối và im lặng
vì tôi biết bạn đang xế cũng lo lắng không kém gì tôi. Những cơn gió ngăn ngắt,
heo hút như cắt như cứa vào lòng người, khiến kẻ lữ hành thêm chênh chao, hoang
mang nơi đại ngàn xa thẳm rừng già biên cương. Cảm giác ấy khiến tôi nghĩ tới mấy
chục năm, thậm chí mấy trăm năm trước, những người đi đến đây, giữ gìn miền
biên ải sẽ phải đối mặt với những gì? Tâm trạng họ ra sao? Và cũng đến lúc ấy
tôi mới hiểu hơn những vần thơ biên tái, nhất là những bài thơ khắc khoải nhớ
nhung, u uất, thê thiết, xót xa vì biệt ly, xa cách. Một ngày thường như vậy,
không biết những ngày gió mùa về giật cấp 5, cấp 6 sẽ như thế nào? Chỉ nhìn những
cây rừng bị gió giật gẫy tả tơi cũng đủ rùng mình. Tôi lại nghĩ đến những dòng
văn của Nguyễn Tuân viết về gió Than Uyên trong tập tùy bút “Sông Đà” [1]:
“…Gió mạnh như sóng bão cấp năm, cấp sáu, cấp bảy, mùi gió nhạt
nhạt nhạt, vị gió ngai ngái. Gió đổ nhà đổ cửa, gió chém vào móng ngựa thồ, cuốn
rối đuôi và bờm tóc ngựa. Gió giúi gục đầu ngựa. Ngựa bạt hơi. Người ngồi ngựa
hộc máu cam trên cương ngựa. Gió quẩn mã hồi lùng nổi lên, đá to bằng quả trứng
gà cũng bay vù. Ù ù dật dật, quanh cái bếp lửa, cụm đầu vào nhau mà to tiếng
cũng chỉ nghe thấy có lời hờn của gió dấy lên từ giữa hai cái vú đá trên đỉnh
đèo Khau Co mà sà xuống” [2].
Trở lại câu chuyện của chúng tôi, dù lập lịch trình khá kỹ và
cũng tính toán nhiều khả năng nhưng do nhiều lý do chủ quan và khách quan chúng
tôi vẫn trễ so với kế hoạch. Rời khỏi thôn Lũng Pô lúc hơn 6 giờ tối, trời sập
rất nhanh. Tôi đã tính ngay đến phương án là sẽ dừng lại ngủ ở A Mú Sung vì
chuyến đi năm trước chúng tôi có dừng ở đây uống nước, mua bánh và được một anh
bán quán nói rằng có thể cho ngủ nếu đến đó mà không thể đi tiếp. Bạn đồng hành
vẫn lạc quan là đường thế này cố thể cố vào đến Y Tý. Chúng tôi đi trên những
con đường đèo xa vắng, cao vút, quanh co, tối mịt. Đến đoạn nào thấy ngọn đèn của
những ngôi nhà gần đường có cảm giác ấm áp lạ thường. Con người, dù là ai, ở
đâu, làm gì thì cuối cùng cũng mong được gặp, gần gũi với con người, muốn được ở
trong hơi thở của sự sống người mà thôi. Càng lên cao gió càng thổi mạnh. Mới đầu
gió chỉ xào xạc, lay động cây rừng, sau rít, rú, thốc như muốn quét sạch những
gì trên đường. Bốn người đi thì ba người, trong đó hai xế mắt cận nên đi đường
tối càng khó khăn. Mọi thứ chênh vênh và tôi nín thở mong mau chóng đến dốc A
Mú Sung.
Và cuối cùng chúng tôi cũng đến nơi.
Dừng xe ở dốc, vẫn mấy ngôi nhà đó, nhà của những người dưới xuôi lên đây công tác. Chúng tôi hỏi một anh và được anh mở cửa ngôi nhà, dạng một kiot bán hàng đối diện nhà chính. Anh bảo mới từ quê lên và chưa dọn dẹp gì. Nếu anh em ở sẽ dọn. Nhưng nhìn căn phòng lạnh lẽo, chật chội và bẩn, tôi vô cùng ái ngại. Một phần do đi chặng đường quá xa mệt mỏi, phần khác do những điều không được như ý về tinh thần nên tôi hầu như chỉ im lặng, mắt nhìn sang nhà phía dưới. Hiểu được cảm xúc và tình cảnh của chúng tôi, anh bảo xuống nhà dưới hỏi xem sao, nhà rộng hơn có thể cho ngủ nhờ. Lại một lần nữa lâm vào thế bí trong việc tìm chốn ngủ ở những bản làng xa xôi, cung đường hiểm trở, chúng tôi đánh liều hỏi chủ nhà dưới. Không ngờ rằng nhà chỉ có hai người phụ nữ, hai chị em gái và hình như cũng ở quê mới lên (Nhìn đống đồ vứt ở cái sập trong phòng khách tôi đoán vậy). Và một điều không ngờ là sau vài câu trao đổi ngắn, họ biết chúng tôi đi phượt gặp trời tối và cho ở, và mời ăn cơm cùng gia đình.
Dừng xe ở dốc, vẫn mấy ngôi nhà đó, nhà của những người dưới xuôi lên đây công tác. Chúng tôi hỏi một anh và được anh mở cửa ngôi nhà, dạng một kiot bán hàng đối diện nhà chính. Anh bảo mới từ quê lên và chưa dọn dẹp gì. Nếu anh em ở sẽ dọn. Nhưng nhìn căn phòng lạnh lẽo, chật chội và bẩn, tôi vô cùng ái ngại. Một phần do đi chặng đường quá xa mệt mỏi, phần khác do những điều không được như ý về tinh thần nên tôi hầu như chỉ im lặng, mắt nhìn sang nhà phía dưới. Hiểu được cảm xúc và tình cảnh của chúng tôi, anh bảo xuống nhà dưới hỏi xem sao, nhà rộng hơn có thể cho ngủ nhờ. Lại một lần nữa lâm vào thế bí trong việc tìm chốn ngủ ở những bản làng xa xôi, cung đường hiểm trở, chúng tôi đánh liều hỏi chủ nhà dưới. Không ngờ rằng nhà chỉ có hai người phụ nữ, hai chị em gái và hình như cũng ở quê mới lên (Nhìn đống đồ vứt ở cái sập trong phòng khách tôi đoán vậy). Và một điều không ngờ là sau vài câu trao đổi ngắn, họ biết chúng tôi đi phượt gặp trời tối và cho ở, và mời ăn cơm cùng gia đình.
Tôi thấy rất bất ngờ, vui mừng, cảm động vì tấm lòng của người
phụ nữ chủ nhà, chị Huyền. Giữa chốn núi rừng âm u, vắng ngắt nơi biên giới xa
xôi và hẻo lánh này, nhà chỉ có hai người phụ nữ mà cho những bốn người đàn ông
xa lạ, dật dờ ở quả là một sự liều, là một tấm lòng nhân hậu vô bờ. Một lần nữa,
đi và tôi thấy bao con người bình thường quá tốt, quá tử tế và cao thượng, ít
nhất là với chúng tôi, những kẻ xê dịch, đi bụi lênh đênh trên đường. Tôi vẫn
khắc ghi tất cả những ân tình đó mà không biết bao giờ có thể đền đáp. Bởi
trong thời tiết, địa hình như thế chúng tôi không thể đi tiếp, nếu đi là đánh
cuộc với tính mệnh của mình. Và chúng tôi dẫu có bạc triệu cũng chẳng thể tìm
được nơi ăn chốn nghỉ ở vùng sơn cước lúc trời tối mịt mù, gió thét gào dữ dội
như thế. Tôi còn cảm động và nể phục họ hơn nữa khi biết hai chị em vừa mới đi
xe máy gần 300 cây số từ quê - Tuyên Quang - lên đến đây lúc 6 giờ. Chưa
nghỉ ngơi, dọn dẹp gì, vậy mà lao vào cơm nước cho bốn người xa lạ, trôi dạt,
thất thểu ở miền xa lạ như tiếp khách quý đến nhà. Tôi thấy nhẹ lòng như cởi bỏ
được một gánh nặng lo lắng, bất an suốt từ lúc rời Lũng Pô, nghe gió thổi, hứng
gió quất táp vào mặt, dù lúc đó lòng tôi vẫn còn nhiều ưu phiền do sự cố từ buổi
chiều mang đến.
Dù bất đắc dĩ trong thụ động, bữa cơm biên ải đãi khách của
hai người phụ nữ miền xuôi vẫn thịnh soạn, đầy hương vị ngày Tết. Tôi gọi đây
là bữa cơm của tình, của duyên, của tấm lòng với bánh chưng, thịt gà, lạp xưởng,
cá kho chua, rau cải, và nhất là cả rượu. Sau chén rượu đầu xuân gặp gỡ hữu
duyên, tôi được nghe câu chuyện của chị Huyền, dù chị cũng không có kể lể chi
tiết, giãi bày tường tận, mạch lạc. Nhưng câu chuyện của chị làm mình suy nghĩ
vì nó cũng là tình cảnh của nhiều bạn trẻ hiện nay, nỗ lực học hành để rồi ra đời
chơ vơ, phải đánh đổi nhiều thứ để có một cuộc sống tương đối ổn định hoặc đơn
giản chỉ là một chỗ làm trong cơ quan nhà nước.
Học xong đại học, chị Huyền không thể xin được việc ở quê. Với
lòng quyết tâm phải thoát cảnh làm ruộng bán mặt cho đất bán lưng cho trời, chị
tình nguyện lên miền cao công tác. Mấy năm ở Hà Giang vẫn không thể xin được một
suất công chức. Do có người quen, chị tiếp tục chuyển lên A Mú Sung làm công
tác văn hóa kiêm cán bộ lâm nghiệp cho xã. Chị bảo ở những xã vùng cao, công chức
xã phải làm đủ mọi việc và như chị không riêng gì văn hóa. Từ những việc đi
tiêm phòng dịch bệnh cho trâu bò, chó ngựa, đến hướng dẫn nông dân chăn nuôi,
trồng trọt chị đều phải làm. Như đợt rét vừa rồi, chị lăn lộn suốt trong bản để
vận động bà con đem trâu bò về nhà nhốt, rồi hướng dẫn che chắn. Trong mưa lạnh,
tuyết rơi chị phải đi xem có con trâu, bò nào chết, ốm không. Nếu để nhiều gia
súc, nhất là trâu bò chết chị bị coi là không hoàn thành nhiệm vụ. Nghe chị kể,
tôi có cảm giác chị làm công tác nông lâm, thú ý hơn là đi làm văn hóa. Chị còn
bảo, ở trên này, nhiều nhà thích trâu bò bị chết bởi họ vừa được đền bù, với những
lần được đền bù nhiều lại vừa có thịt trâu, bò ăn.
Câu chuyện của chị lắng lại, trầm hẳn đi khi chị nói về những
ngày mới lên đây, chị quản lý cái bưu điện và ngủ ở đó. Những đêm gió lộng, chị
thấy buồn, chán, sợ, và cả hoang mang. Gió gào rú mà xung quanh là rừng già quạnh
vắng, một mình cô đơn trống trải. Khi ấy, chị muốn bỏ mọi thứ để về nhà, gần
gũi bố mẹ và những người trong gia đình. Động lực duy nhất cho chị ý chí, sự
kiên trì đó là quyết tâm thoát cảnh làm ruộng, không để phí những năm tháng đi
học, phấn đấu và tiền của cha mẹ lo cho chị ăn học. Tôi cũng không biết quê chị
khó khăn và làm ruộng vất vả đến mức nào mà chị lại có thể mạnh mẽ như thế
nhưng cứ hình dung ra cảnh một cô gái trẻ, ở một nơi đèo heo hút gió, đi đến bất
cứ một chỗ gọi là trung tâm, có chợ đông đều phải vượt 30km đường đèo, đêm đêm
một mình làm bạn với âm thanh ma quái của gió, làm đủ mọi việc linh tinh thì củng
đủ bải hoải, rùng mình. Yêu vùng cao, đồng cảm với cuộc sống nơi này, tôi càng
thấy cảm phục với những người bám trụ, làm việc ở đây. Ai đó nói là có chính
sách đãi ngộ, lương vùng miền vân vân nhưng mà như chị Huyền nói thì, không phải
xã nào cũng được chính sách ấy, chỉ có mấy xã giáp biên mới được. Ở những nơi
đâu đâu cũng là núi, rừng, đi toàn những con đường mòn gập ghềnh, đường lớn là
đèo thăm thẳm, địa hình chia cắt thì công việc vất vả, nhọc nhằn gấp vài lần,
chưa kể thời tiết cực khắc nghiệt vào mùa đông.
Lần đầu đến Y Tý, vào thôn Lao Chải, tôi ngỡ ngàng vì những lớp
học đơn sơ, tạm bợ. Chỉ có một ngôi nhà cấp bốn, ngăn làm hai phòng học, mỗi
phòng là một lớp ghép 1+2 và 3+4, mà vị trí của điểm trường ấy không xa so với
trung tâm xã. Đi vào sâu vài cây số nữa lại thấy một ngôi trường tiểu học khá
khang trang. Chị Huyền kể giáo viên trên này vất vả lắm, dạy thì ít mà đi vào bản,
vận động trẻ con đi học là chủ yếu. Dạy lớp ghép thì xoay liên tục: đầu này một
lớp, phía sau lớp khác. Nhưng những ngày có tuyết thì giáo viên lại đỡ hơn chị
vì trẻ con nghỉ học hết, họ không phải đến trường. Y Tý hay nhiều cung đường
Tây Bắc khác rất đẹp. Vẻ đẹp nguyên sơ, hùng vĩ, lãng mạn và có phần huyền bí hấp
dẫn bao kẻ xê dịch như chúng tôi. Nhưng để sống, làm việc suốt đời ở đây thì chắc
tôi không làm được. Dĩ nhiên những người xuôi lên đây công tác không do đặc thù
công việc kiểu bộ đội biên phòng thì cũng là vì bất đắc dĩ, không thể xin được
việc ở quê mới ra đi. Song dẫu vì mưu sinh, vì cuộc sống và bản thân trước hết
thì tôi vẫn thấy họ cũng phải hy sinh, đánh đổi nhiều thứ. Một lần nữa tôi cảm
thấy mình may mắn hơn nhiều người khác, kể cả những bạn học cùng đại học với
tôi, và một trong số đó vừa liên lạc được với tôi sau gần 10 năm ra trường qua
facebook, phải khốn đốn, long đong xin việc, làm ở những nơi thiếu thốn đủ bề.
Những cảm giác xa lạ dần dần bỏ lại phía sau. Chúng tôi trở
nên thân tình hơn, gần gũi hơn. Câu chuyện của chị Huyền lại tiếp tục bằng vài
chi tiết chấm phá về chồng chị. Anh chị gặp nhau ở A Mú Sung này, khi ấy anh
còn làm đoàn. Vốn là người Lào Cai, anh đã tham gia những phong trào tình nguyện,
được giấy khen của trung ương đoàn, rồi ở lại A Mú Sung. Nhưng sau một thời
gian cũng chẳng thể xin được một vị trí nào trong hệ thống công chức xã cả. Mà
làm hợp đồng với những việc vặt ở đây thì không đủ sống. Anh ở nhà, mở quán bán
hàng tạp hóa và làm một số công việc khác. Cũng chính vì thế mà chuyến đi trước
lên đây, chúng tôi ghé quán của anh và có cơ hội được tá túc trong chuyến đi
này, không phải đánh cuộc tính mệnh của mình với gió đèo, đêm tối biên ải mịt
mùng. Một năm trước anh mới thi đỗ và làm hành chính ở một trường học ngoài thị
trấn. Cho nên việc anh xa nhà là thường xuyên và hôm nay, anh có việc ở thị trấn
nên không về được.
Cô Huệ nói rằng cô không thể quen được với gió, với núi rừng
và cuộc sống trên này. Mọi thứ quá vắng vẻ, buồn bã dù vùng biên giới giờ đường
lớn cũng khá đẹp, điện lưới về đến tận bản. Những tiện nghi của cuộc sống hiện
đại cũng hiện hữu cả trong nhà những người dân tộc chứ không riêng gì cán bộ.
Chị Huyền nói cái khó nhất trên này là thực phẩm. Mọi thứ không hề rẻ mà khá đắt
đỏ. Tôi ngạc nhiên khi chị nói giá cá sông ở đây còn đắt hơn cả dưới xuôi nhà
mình. Cả tuần mới ra Trình Tường đi chợ và thực phẩm cứ thế tích trữ trong tủ lạnh,
biết là không tốt nhưng không còn cách nào khác. Gần Tết, chị vào bản, mua con
lợn hơn 60kg, mấy người lễ mễ khiêng qua cả một quả đồi về. Trong bếp nhà chị
tôi thấy đủ cả thịt treo gác bếp hun khói, lạp xưởng. Có lẽ ở một nơi mà dịch vụ
quá xa, thiếu thì con người cũng mạnh mẽ, gan góc, chủ động mọi việc cho sinh
hoạt, cuộc sống. Và cũng vì thế mà họ hiếu khách, nhân hậu, bỏ mọi câu nệ
chăng?
Dù xa xôi nhưng miền biên giới giờ khá hiện đại, internet về
đến tận bạn. Check in facebook, chị Huyền nói chuyện về bức ảnh mấy đứa trẻ con
ở truồng trong những ngày rét đậm làm dậy sóng dư luận mạng vừa qua. Chị bảo đó
là do thói quen sinh hoạt, trẻ con hay ở truồng, có khi trong nhà đủ quần áo.
Và cái chính là bố mẹ người dân tộc không quan tâm, chăm sóc chu đáo, không mặc,
phòng lạnh cho chúng chứ không phải nhà nó nghèo đến mức không có quần áo ấm.
Trẻ em, hay con người, dẫu quen với khí hậu khắc nghiệt thì ai cũng là da thịt,
cũng lạnh, cũng có một sức chịu đựng có hạn. Vì vậy, ở xứ này, theo chị cái khó
nhất là làm thay đổi suy nghĩ, tập quán, từ sinh hoạt đến sản xuất, mà đó lại
là công việc chính của chị. Chị Huyền tiếp lời: “Học sinh ở trên này có khi sướng.
Mọi thứ được bao cấp. Năm nào cuối năm cũng hàng đoàn xe lớn nhỏ mang đồ lên
cho. Có chỗ trẻ con còn kén chọn, không lấy đồ xấu, đồ cũ. Vất vả, thiếu thốn,
khổ sở chỉ là những nơi sâu xa, đường vào khó khawnm chia cắt. Những nơi đó thì
chẳng mấy khi có đoàn từ thiện nào vào cả”. Tự dưng tôi nhớ tớ bài viết “Từ thiện
câu like” của tác giả Đặng Hoàng Giang trong cuốn “Bức xúc không làm ta vô
can”. Và cũng rất ngẫu nhiên tôi nhớ tới hình ảnh những đứa trẻ ở Sapa, những
bài viết về việc từ thiện ở Sapa. Với riêng tôi, tôi thấy nhiều nơi ở Tây Bắc
nghèo quá, khổ quá, trẻ con thiệt thòi đủ điều. Việc làm từ thiện, đem quần áo,
đồ ăn lên chỉ là giải pháp tình thế, giải quyết phần ngọn. Điều cốt yếu là thay
đổi cả một hệ thống từ giao thông, đến cách thức sản xuất, tổ chức sinh hoạt, sắp
xếp cuộc sống. Điều này không dễ dàng. Nhưng cũng không ít nơi, thực sự chẳng
khó khăn gì vẫn cứ được hưởng quá nhiều từ những chương trình từ thiện kiểu
“câu like”, trong khi đó, bản thân những người được giúp đỡ tự họ lựa chọn cách
sống, hoặc cố tình dựa dẫm, hoặc có một sự toan tính nào đó từ người lớn, chẳng
hạn gợi lòng thương hại để bán hàng kiểu như ở Sapa, đã đẩy những đứa trẻ thành
con mồi nhử với dáng vẻ nhếch nhác, đói khổ, phơi ra đường trong đêm lạnh, nắng
lửa, mưa rầm.
Những chia sẻ chân thành của người ở miền cao cho tôi thấy
thêm nhiều điều về cuộc sống nơi vẫn được coi là núi liền núi, sông liền sông với
một quốc gia khác. Dẫu đi và được trải nghiệm thực tế một số lần song câu chuyện
của chị Huyền lại cho tôi một góc nhìn nữa, một khía cạnh nữa của cuộc sống giữa
đại ngàn Tây Bắc. Có thể những gì tôi viết ở đây, trước kia, và cả sau này chỉ
là những quan sát, suy tưởng, có khi hơi võ đoán của cá nhân nhưng đó mới thực
sự là ý nghĩa của những chuyến đi: đi để biết cách nhìn đời và nhìn người từ
góc nhìn của chính họ, đi để ngoái lại nhìn chính mình, biết rằng đời sống của
mình vẫn còn nhiều may mắn và hạnh phúc mà gìn giữ, trân quý.
Chúng tôi rời nhà chị Huyền từ lúc trời vẫn còn mờ mờ, chưa
sáng hẳn dù đã 6 giờ. Một lần nữa lại phải làm phiền chị dậy sớm để chúng tôi
tiếp tục lên đường, với hy vọng mong manh gặp mây. Chị nhất định không chịu nhận
gì từ chúng tôi và thuyết phục mãi mới nhận một chút như quà mừng tuổi cho cậu
con trai của chị. Chúng tôi đi trong gió réo rắt, thồi ù ù. Hình ảnh chị Huyền
vẫn còn vẹn nguyên, đứng ở cửa nhìn chúng tôi đi khuất, áo len đỏ, nụ cười tươi
và gương mặt có nét cương nghị. Không ai trong chúng tôi xin số điện thoại hay
facebook của chị nhưng tôi biết rằng sẽ có dịp trở lại Y Tý, qua dốc A Mú Sung
này, trở lại nhà chị để ít nhất, nói một lời cảm ơn, và có thể là được nghe những
câu chuyện mới, nhìn thấy niềm hạnh phúc trọn vẹn của chị, nhất là của anh chồng,
yên tâm với một công việc phù hợp, có đam mê chứ không phải làm vì để có việc.
Đêm nay gió mùa đông bắc lại về. Tiếng gió khiến cây trong vườn
nhà xào xạc. Và âm thanh của cơn gió véo vút, quạnh quẽ, quất táp của con đèo
qua A Mú Sung lại về chập chờn trong giấc ngủ. Đêm ngủ ở nhà chị Huyền, nhiều lần
tôi choàng tỉnh vì tiếng gió như than, như hú. Đột ngột, nó xào xạc lá rơi, lắc
cắc cành cây gẫy hay loạt soạt va chạm mái nhà. Tôi luôn vẽ ra trong tâm trí
hình ảnh của người phụ nữ đi về trong gió, trong cái tối và sự vắng lặng, xa
ngái, thâm u của miền sơn cước biên ải thâm u. Hình ảnh ấy cho thôi thấm một điều
đi sâu vào tâm của gió sắc buốt, ta sẽ gặp được những trái tim, những tấm lòng
người!
[1] Tập tùy bút của Nguyễn Tuân viết
về Tây Bắc xuất bản lần đầu năm 1960 gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng
phác thảo.
[2] “Gió Than Uyên” trong “Toàn tập
Nguyễn Tuân”, Tập IV, Nguyễn Đăng Mạnh biên soạn và giới thiệu, NXB Văn học,
2000, tr.406.
Đêm 21, 22/2/2016.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét