Thuật hoài là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, chia thành hai phần
khá rõ: ở hai câu đầu là hình tượng con người và hình tượng quân đội thời Trần,
hai câu sau là “nỗi lòng” của tác giả. Mở đầu bài thơ là hình ảnh tráng lệ với âm
hưởng hào hùng, sảng khoái:
Hoàng sóc giang san kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Hai câu thơ có hai hình ảnh: hình ảnh tráng sĩ (con người thời
Trần) và hình ảnh ba quân (quân đội thời Trần, thời đại, dân tộc). Tráng sĩ hiện
lên trong hành động cắp ngang ngọn giáo với mục đích giữ gìn non sông đã mấy
thu rồi. Các bản dịch thơ dịch “hoành sóc” bằng “múa giáo”. Theo tôi, cách dịch
như vậy là hay nhưng chưa có sức âm vang. “Múa giáo” thể hiện sự điêu luyện, bền
bỉ, dẻo dai nhưng thiếu đi độ cứng rắn, mạnh mẽ. “Cầm ngang ngọn giáo” khắc họa được tư thế hiên ngang, lẫm liệt, vững chãi của người trai thời Trần. Câu thơ
nguyên tác dựng lên hình ảnh con người cầm ngang ngọn giáo trấn giữ đất nước. Đó
chính là dáng đứng của con người Việt Nam đời Trần.
Thuật hoài (Tỏ lòng) - Phạm Ngũ Lão
Nếu câu thơ đầu thể hiện vẻ đẹp của con người với tầm vóc, tư
thế, hành động lớn lao, kỳ vĩ thì câu thơ thứ hai tô đậm hình ảnh “ba quân” tượng
trưng cho sức mạnh dân tộc.
Tam quân tì hổ khí khôn ngưu
“Tam quân” là chỉ quân đội, dân tộc; “Ngưu” có nghĩa: là sao
Ngưu, là trâu. Hình ảnh ba quân trong tư thế xông lên giết giặc với khí thế bừng
bừng. Thủ pháp nghệ thuật so sánh vừa cụ thể hóa sức mạnh vật chất vừa hướng tới
sự khái quát hóa sức mạnh tinh thần của “hào khí Đông A”. Câu thơ gây ấn tượng
mạnh bởi sự kết hợp giữa hình ảnh khách quan và cảm nhận chủ quan, giữa hiện thực
và lãng mạn.
Tác giả Trần Trọng Kim dịch là “Ba quân hùng khí át sao Ngưu”,
còn Bùi Văn Nguyên dịch là “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”. Tôi thích cách dịch
của Trần Trọng Kim, bởi lẽ dịch “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu” nói được sức
mạnh, khí thế dũng mãnh “Sát Thát” của quân đội, sẵn sàng lăn xả vào bọn giặc dữ
một khi chúng tràn tới… nhưng chưa nói được tầm vóc. Hơn nữa dịch “át sao Ngưu”…
câu thơ có lẽ giàu hình ảnh, gợi cảm hơn, kết hợp với câu thơ thứ nhất mở ra cả
một không gian rộng lớn, vì thế ý thơ cũng giàu sức khái quát hơn.
Hai câu thơ nhỏ mà mang hai hình ảnh lớn: Hình ảnh một tráng
sĩ cắp ngang ngọn giáo đi cứu nước ròng rã bao năm mà chưa hề mảy may mệt mỏi.
Hình ảnh “ba quân” xông lên giết giặc bừng bừng hùng khí át cả sao Ngưu, nghĩa
là át cả trời cao. Bút pháp miêu tả, so sánh, phóng đại, phép đối hài hòa, giọng
thơ hào hùng, sôi nổi tạo ra cách nói hấp dẫn và ấn tượng. Hình ảnh tráng sĩ còn
có tính chất cụ thể ít nhiều, hình ảnh ba quân thì rõ ràng chỉ từ ấn tượng, từ
cảm hứng chủ quan, dĩ nhiên là rất mãnh liệt và sảng khoái. “Ở đây chủ quan mà
lại chân thực, chân thực của ấn tượng chứ không phải chân thực của thị giác. Chân
thực ở cái hồn của sự việc chứ không phải ở sự việc cụ thể. Xét cho cùng, chính
đó là cái chân thực của thời đại, của đất nước” (Nguyễn Đình Chú).
Nếu cái tư thế của tráng sĩ với hình ảnh cây trường giáo như đo
bằng chiều ngang của non sông thì tư thế của ba quân lớn mạnh đo bằng chiều dọc.
Nghĩa là không gian mở ra theo chiều rộng của núi sông và mở theo chiều cao đến
tận sao Ngưu thăm thẳm. Con người kì vĩ như át cả không gian bao la trong một bối
cảnh không – thời gian kì vĩ. Hình ảnh tráng sĩ lồng vào trong hình ảnh dân tộc
thật đẹp có tính chất sử thi, hoành tráng. Đó chính là sức mạnh, âm vang của thời
đại, vẻ đẹp của người trai thời Trần. Đó chính là sản phẩm của “hào khí Đông A”.
Nói cách khác, đó là hình ảnh con người vũ trụ, mang tầm vóc
lớn lao. Con người mang tầm vóc của vũ trụ này vì ai mà xông pha, quyết chiến…?
Tất cả xuất phát từ trách nhiệm, ý thức dân tộc và nền thái bình đất nước… Vì
thế con người vũ trụ gắn với con người trách nhiệm, con người ý thức, bổn phận,
con người hành động, đó chính là những biểu hiện củacon người cộng đồng, con người
xả thân vì đất nước. Điều đặc biệt ở đây là, khác với văn học Trung Quốc hay Ấn
Độ, con người vũ tru, con người cộng đồng trong văn học Việt Nam nói chung và
Thuật hoài nói riêng gắn với lòng tự hào, tự tôn dân tộc, gắn với thời đại và đất
nước.
Nếu ở hai câu đầu giọng điệu sôi nổi hùng tráng thì đến đây âm
hưởng thơ bỗng dưng như một nốt trầm lắng lại. Điều đó rất phù hợp với lời bộc
bạch, tâm sự, bày tỏ nỗi lòng của nhà thơ. Nói cách khác âm hưởng thơ góp phần
thể hiện nỗi lòng của Phạm Ngũ Lão.
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu).
Vẻ đẹp của người trai thời Trần không chỉ thể hiện ở cái tư
thế, khí phách, tầm vóc, sức mạnh mà còn thể hiện ở cái chí, cái tâm của người
tráng sĩ. Cái chí, cái tâm ấy gắn liền với quan niệm chí làm trai. Theo Phạm Ngũ
Lão chí làm trai phải gắn liền với hai chữ công danh, Chí làm trai này mang
tinh thần, tư tưởng tích cực, gắn với ý thức trách nhiệm, lập công (để lại sự
nghiệp), lập danh (để lại tiếng thơm cho đời). Chí làm trai đó được coi là món
nợ đời phải trả. Trả xong nợ công danh có nghĩa là hoàn thành nghĩa vụ đối với
dân, với nước. Quan niệm lập công danh đã trở thành lý tưởng sống của trang nam
nhi thời phong kiến. Sau này Nguyễn Công Trứ cũng khẳng định:
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Đặt trong thời đại của Phạm Ngũ Lão, chí làm trai này đã cổ vũ
con người từ bỏ lối sống tầm thường, ích kỉ, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì sự
nghiệp lớn lao “cùng trời đất muôn đời bất hủ”. Phạm Ngũ Lão cũng từ cái chí, cái
nợ nam nhi, nam tử đó mà cùng dân tộc chiến đấu chống xâm lược bền bĩ, ròng rã
bao năm. Đặc biệt ở đây cũng từ cái chí, cái nợ đó mà nảy sinh trong tâm trạng
một nỗi thẹn. Nói cách khác cái tâm thể hiện qua nỗi thẹn…
Phạm Ngũ Lão “thẹn” chưa có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu Gia Cát
Lượng đời Hán để trừ giặc, cứu nước. Thẹn bởi vì so với cha ông mình chưa có gì
đáng nói. Gia Cát Lượng là quân sư của Lưu Bị, mưu trí tuyệt vời, song điểm làm
cho Gia Cát Lượng nổi tiếng là lòng tuyệt đối trung thành với chủ. Vì thế “luống
thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu” thực chất là một lời thề suốt đời tận tụy với chủ
tướng Trần Hưng Đạo, “thẹn” còn được hiểu là cách nói thể hiện khát vọng, hoài
bão muốn sánh với Vũ hầu. Xưa nay, những người có nhân cách vẫn thường mang
trong mình nỗi thẹn.
Nguyễn Khuyến trong bài thơ “Thu vịnh” từng bày tỏ nỗi thẹn
khi nghĩ tới Đào Tiềm – một danh sĩ cao khiết đời Tấn. Đó là nỗi thẹn của người
có nhân cách. Trong bài Thuật hoài, Phạm Ngũ Lão thẹn vì chưa trả xong nợ nước. Đó
là nỗi thẹn có giá trị nhân cách. Nỗi thẹn ấy không làm cho con người trở nên
nhỏ bé mà trái lại nâng cao phẩm giá con người. Đó là cái thẹn của một con người
có lý tưởng, hoài bão vừa lớn lao, vừa khiêm nhường. Nỗi thẹn của một con người
luôn dành trọn cái tâm cho đất nước, cho cộng đồng. Như vậy, Phạm Ngũ Lão vừa đề
cao cái chí, vừa đề cao cái tâm của con người Việt Nam đời Trần. Đó chính là
con người hữu tâm trong thơ ca trung đại Việt Nam.
Tóm lại bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão đã thể hiện được
quan niệm về con người trong văn học phương Đông. Hình ảnh tráng sĩ - con người
Việt Nam đời Trần vừa mang tầm vóc vũ trụ, vừa có ý thức, trách nhiệm cộng đồng,
vừa lắng sâu một nỗi lòng cao cả. Nói cách khác ba kiểu con người: con người vũ
trụ, con người cộng đồng và con người hữu tâm đồng hiện, hài hòa. Chính ý thức
trách nhiệm với đất nước (con người cộng đồng) nên sẵn sàng xông pha cứu nước với
tư thế và tầm vóc lớn lao (con người vũ trụ) và luôn biết nghĩ suy, khát vọng
(con người hữu tâm)… Dáng đứng Việt Nam, con người Việt Nam đời Trần cao đẹp làm
sao!
“Bài thơ nêu cao lý tưởng trai thời loạn. Lý tưởng trai thời
loạn là “cắp ngang ngọn giáo”, luôn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu dẹp giặc cứu nước.
“Nợ công danh” lúc này là trách nhiệm của người thanh niên đối với đất nước khi
có giặc ngoại xâm… Người thanh niên thời đại ấy đã ý thức được trách nhiệm cao
cả của mình đối với Tổ quốc. Từ bài thơ còn nổi lên hình ảnh quân đội cứu nước,
ngùn ngụt khí thế của hổ báo nuốt trâu. (Nguyễn Sĩ Cẩn)
“Cầm ngang ngọn giáo mà trấn giữ non sông. Ngọn giáo ấy phải đo
bằng chiều ngang của non sông. Thế thì con người cầm ngang ngọn giáo bảo vệ Tổ
quốc ấy tất phải được đo bằng kích thước của trời đất. Con người có tầm vóc vũ
trụ như vậy đã đồng nhất với non sông. Tầm vóc hoành tráng, tư thế vững chắc ấy
của dân tộc ta có cơ sở từ tinh thần làm chủ đất nước sâu sắc, từ ý chí bảo vệ đất
nước rất kiên cường. Với tinh thần ấy, nhân dân ta đã làm nên những chiến công
oanh liệt ở Chương Dương, Hàm Tử, Chi Lăng, v.v… và nhất là Bạch Đằng” (Đinh
Gia Khánh)
Phân tích bài thơ “Thuật Hoài” - Phạm Ngũ Lão
Việt Nam, đất nước tuy bé nhỏ đầy những gian lao vất vả nhưng rất đỗi anh hùng đã trải qua bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước với những mốc son chói lọi trong lịch sử. Một trong những mốc son ấy chính là ba cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên xâm lược của vua tôi nhà Trần.
Nhà Trần đã ghi vào pho sử vàng Đại Việt những chiến công Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng… bất tử. Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được ghi lại trong những áng văn chương kiệt xuất như: “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu, v.v… Đặc biệt và nổi bật hơn hết cả là tác phẩm “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão. Bài thơ là một khúc tráng ca hào hùng và mang nặng nỗi niềm của tác giả.
Phạm Ngũ Lão sinh ra trong thời kì loạn lạc với cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên của đất nước. Tên tuổi của ông gắn liền với câu chuyện về một chàng trai nghèo mãi nghĩ kế giúp vua đánh giặc đến nỗi bi giáo đâm vào đùi. Bên cạnh một nhà quân sự tài giỏi, ông còn là một nhà thơ vĩ đại với hai tác phẩm “Thuật hoài” và “Viếng Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương” còn vang vọng mãi với non sông.
“Thuật hoài” là bản tuyên ngôn về lý tưởng của kẻ làm trai là chiến đấu để bảo vệ non sông đất nước đồng thời thể hiện khí thế, sức mạnh và khát vọng chiến thắng của một thời đại anh hùng. Bài thơ tiêu biểu cho quy luật văn chương nghệ thuật “Quý hồ tinh, bất quý hồ đa”
Mở đầu bài thơ là hình ảnh tráng lệ với âm hưởng hào hùng:
“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”
Bước vào thời đại chiến tranh ấy, cái thời mà ngọn lửa như thiêu đốt cả tâm hồn quyết tâm diệt tan kẻ thù xâm lăng bờ cõi, khẳng định lại một lần nữa: “Nam quốc sơn hà Nam Đế cư”! Và khi đó, xuất hiện tư thế hiên ngang của người anh hùng đất Việt “hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”. Câu thơ đầu tiên đã vẽ nên hình tượng oai phong lẫm liệt của người tráng sĩ với tư thế cầm ngang ngọn giáo sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Tư thế ấy mang đậm tính tự hào rằng mình là người con đất Việt và sẵn sàng hy sinh để bảo vệ bờ cõi Việt, bảo vệ nhân dân Việt, bảo vệ non sông gấm vóc ngàn thu này. Hình ảnh lớn lao của người chiến sĩ đã sánh với tầm vóc bao la hùng vĩ của đất trời, lấn át cả khí thế của quân giặc. Đó còn biểu trưng cho lối sống cao đẹp cống hiến hết sức để bảo vệ đất nước một cách kiên trì, nhẫn nại. Dù bao nhiêu năm đi chăng nữa thì lí tưởng bảo vệ, khôi phục non sông vẫn mãi trường tồn.
Thuật Hoài - Phạm Ngũ Lão
Nếu câu thơ đầu thể hiện vẻ đẹp của con người với tầm vóc, tư thế, hành động lớn lao, kỳ vĩ mang tầm vóc vũ trụ thì câu thơ thứ hai tô đậm hình ảnh “ba quân” tượng trưng cho sức mạnh của quân đội nhà Trần và sức mạnh dân tộc Đại Việt lúc bấy giờ.
“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
Đội quân “Sát Thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. “Khí thôn ngưu” nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời xuất phát từ câu “khí thôn Ngưu đẩu” hay đó chính là khí thế hùng mạnh có thể nuốt trôi trâu của tam quân thời Trần. Biện pháp nghệ thuật cường điệu hóa sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, có tính sử thi. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hổ…” trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân “Sát Thát” bất khả chiến bại mà nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc:
Thuyền bè muôn đội,
Tinh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
(Phú sông Bạch Đằng - Trương Hán Siêu)
Nếu tư thế của tráng sĩ với hình ảnh cây trường giáo như đo bằng chiều ngang của non sông thì tư thế của ba quân lớn mạnh đo bằng chiều dọc gợi không gian mở ra theo chiều rộng của núi sông và mở theo chiều cao đến tận sao Ngưu thăm thẳm. Con người kỳ vĩ như át cả không gian bao la, kỳ vĩ. Hình ảnh tráng sĩ lồng vào trong hình ảnh dân tộc thật đẹp có tính chất sử thi, hoành tráng. Đó chính là sức mạnh, âm vang của thời đại, vẻ đẹp của người trai thời Trần, là sản phẩm của “hào khí Đông A”. Nói cách khác, đó là hình ảnh con người vũ trụ, mang tầm vóc lớn lao. Con người ấy vì ai mà xông pha, quyết chiến? Tất cả xuất phát từ trách nhiệm, ý thức dân tộc và nền thái bình. Vì thế con người vũ trụ gắn với con người trách nhiệm, con người ý thức, bổn phận, con người hành động, đó chính là những biểu hiện của con người cộng đồng, con người xả thân vì đất nước.
Nếu ở hai câu đầu giọng điệu sôi nổi hùng tráng thì đến đây âm hưởng thơ bỗng dưng như một nốt trầm lắng lại với lời bộc bạch, tâm sự, bày tỏ nỗi lòng của nhà thơ:
“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”
Thời xưa, Nho giáo đã nêu lên triết lý kẻ làm trai từ lúc sinh ra đã gánh nợ công danh. Người đàn ông phải hướng đến “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” lấy đó là lí tưởng, là cái đích phải hướng tới. Nói như Nguyễn Công Trứ thì:
“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”.
Thời Trần, cái chí làm trai ấy là “Phá cường địch, báo hoàng ân” của vị anh hùng trẻ tuổi Trần Quốc Toản, là câu nói quả quyết của Thái sư Trần Thủ Độ: “Đầu thần còn chưa rơi xuống xin bệ hạ đừng lo” hay đó là vị Quốc Công tiết chế với “Hịch tướng sĩ” mang đậm hào khí anh hùng: “…dẫu cho thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng cam lòng”. Ấy chính là khát vọng được gánh vác vận mệnh đất nước, dân tộc, lập chiến công hiển hách, là lý tưởng lập công danh sự nghiệp của nam nhi thời loạn lạc. “Công danh” mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao lược, bằng tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là thứ “công danh” tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm.
Đặt trong thời đại của Phạm Ngũ Lão, chí làm trai này đã cổ vũ con người từ bỏ lối sống tầm thường, ích kỉ, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì sự nghiệp lớn lao “cùng trời đất muôn đời bất hủ”. Phạm Ngũ Lão cũng từ cái chí, cái nợ nam nhi, nam tử đó mà cùng dân tộc chiến đấu chống xâm lược bền bĩ, ròng rã bao năm. Đặc biệt ở đây cũng từ cái chí, cái nợ đó mà nảy sinh trong tâm trạng một nỗi thẹn. Phạm Ngũ Lão “thẹn” chưa có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu Gia Cát Lượng đời Hán để trừ giặc, cứu nước. Thẹn bởi vì so với cha ông mình chưa có gì đáng nói. Gia Cát Lượng là quân sư của Lưu Bị, mưu trí tuyệt vời, song điểm làm cho Gia Cát Lượng nổi tiếng là lòng tuyệt đối trung thành với chủ. Vì thế “luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu” thực chất là một lời thề suốt đời tận tuỵ với chủ tướng Trần Hưng Đạo. Xưa nay, những người có nhân cách vẫn thường mang trong mình nỗi thẹn. Nguyễn Khuyến trong bài thơ “Thu vịnh” từng bày tỏ nỗi thẹn khi nghĩ tới Đào Tiềm – một danh sĩ cao khiết đời Tấn. Với Phạm Ngũ Lão, tuy là một nhà thao lựơc kiệt xuất, có công rất lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên lần hai, ba nhưng ông vẫn tự thấy hổ thẹn. Ông thẹn vì chưa khội phục được giang sơn, vì kém cỏi chưa được như Vũ hầu, chưa báo được Hoàng ân. Nỗi thẹn ấy không làm cho con người trở nên nhỏ bé mà trái lại nâng cao phẩm giá con người.
Đó là cái thẹn của một con người có lý tưởng, hoài bão vừa lớn lao, vừa khiêm nhường. Nỗi thẹn của một con người luôn dành trọn cái tâm cho đất nước, cho cộng đồng. Ẩn sau cái thẹn cao cả, khiêm tốn và ấy là cả một nỗi niềm khao khát được cống hiến hơn nữa cho Tổ quốc, cho dân tộc. Ông nguyện học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu “Khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…” để Tổ quốc Đại Việt được trường tồn bền vững: “Non sông nghìn thuở vững âu vàng”.
Đó là cái thẹn của một con người có lý tưởng, hoài bão vừa lớn lao, vừa khiêm nhường. Nỗi thẹn của một con người luôn dành trọn cái tâm cho đất nước, cho cộng đồng. Ẩn sau cái thẹn cao cả, khiêm tốn và ấy là cả một nỗi niềm khao khát được cống hiến hơn nữa cho Tổ quốc, cho dân tộc. Ông nguyện học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu “Khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…” để Tổ quốc Đại Việt được trường tồn bền vững: “Non sông nghìn thuở vững âu vàng”.
Thuật hoài là một bài thơ Đường luật ngắn gọn nhưng hàm súc với thủ pháp gợi, thiên về ấn tượng, khái quát kết hợp với bút pháp hoành tráng mang âm hưởng sử thi đã khắc họa vẻ đẹp của người anh hùng hiên ngang, hùng dũng với sức mạnh lý tưởng lớn lao cao cả, tâm hồn sáng ngời nhân cách cùng khí thế hào hùng, quyết chiến quyết thắng của “hào khí Đông A” - hào khí thời Trần. Ngày nay, việc “cứu nước phò nguy” đâu phải là không cần thiết nữa vì vậy, mỗi thanh niên chúng ta cần học tập thật tốt, rèn luyện nhân cách đạo đức, xác định cho mình lí tưởng sống đúng đắn và quan trọng hơn là phải biết ước mơ và hành động vì sự nghiệp đất nước, đưa Việt Nam sánh ngang tầm với các cường quốc khắp năm châu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét