NẮNG MỚI
Lưu Trọng Lư
Lưu Trọng Lư
Mỗi lần nắng mới hắt bên song
Xao xác gà trưa gáy não nùng
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng
Chập chờn sống lại những ngày không.
Xao xác gà trưa gáy não nùng
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng
Chập chờn sống lại những ngày không.
Tôi nhớ mẹ tôi, thuở thiếu thời
Lúc người còn sống, tôi lên mười
Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội
Áo đỏ người đưa trước dậu phơi.
Lúc người còn sống, tôi lên mười
Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội
Áo đỏ người đưa trước dậu phơi.
Hình bóng me tôi chửa xoá nhòa
Hãy còn mường tượng lúc vào ra
Nét cười đen nhánh sau tay áo
Trong nắng trưa hè trước dậu thưa.
Hãy còn mường tượng lúc vào ra
Nét cười đen nhánh sau tay áo
Trong nắng trưa hè trước dậu thưa.
Lưu Trọng Lư làm bài thơ này hẳn là khi đã xa mảnh đất Cao Lao Hạ
quê ông! Thế nên mới sinh nhớ cảnh quê, nhớ mẹ, mới phải “mường tượng” những
hình ảnh đã xa! Đọc bài thơ, ta hết sức xúc động. Xúc động về những kỷ niệm
tươi sáng về người mẹ đã khuất. Xúc động vì tâm trạng buồn thương mà không bi lụy
của một người con sớm mồ côi. Và điều đặc biệt, người con ấy là Lưu Trọng Lư vốn
đãng trí, hay quên, có thể nhầm thơ mình là thơ bạn, song với mẹ thì không bao
giờ quên mà cứ luôn nhớ, nhớ như khắc, như in, nhớ rất cụ thể. Ta hãy đọc lại từng
câu thơ:
“Mỗi lần nắng mới hắt bên song
Xao xác gà trưa gáy não nùng
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng
Chập chờn sống lại những ngày không”.
Với hai câu thơ đầu, ta được biết thời điểm nhà thơ nhớ về mẹ là buổi trưa - là giữa ngày - “mỗi lần nắng mới”. Theo lô gích sự biến đổi giữa cũ và mới thì mỗi lần nắng mới ở đây có nghĩa là mỗi ngày; mà thời gian cao điểm nhất dồn tụ nỗi nhớ, cháy lên niềm khát khao gặp mẹ trong mỗi ngày ấy là giờ trưa – cái giờ im ắng buồn thiu của cảnh vật đang ngái ngủ, khi bên song cửa nắng hắt, tiếng gà não nùng, xao xác gáy với vẻ khác thường. Thời điểm nhớ mẹ của Lưu Trọng Lư so với một số người có khác, âu cũng là do cái riêng trong kỷ niệm về mẹ của nhà thơ (phần cuối sẽ nói rõ thêm). Chỉ biết vào thời điểm trên, con người đa sầu đa cảm Lưu Trọng Lư đang sống trong mộng với những ngày hư không giữa hai mốc thời gian chuyển động ngược chiều nhau. Một chiều thì:
“Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng”.
Còn một chiều thì:
“Chập chờn sống lại những ngày không”.
Và nhà thơ xúc cảm, bồi hồi với kỷ niệm:
“Tôi nhớ mẹ tôi, thuở thiếu thời
Lúc người còn sống, tôi lên mười,
Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội
Áo đỏ người đưa trước giậu phơi”.
Lưu Trọng Lư đi rất xa về quá khứ, tận “thuở thiếu thời” lúc “lên mười” (cái tuổi chỉ biết ăn biết chơi). Ấy là vì cái tuổi lên mười của nhà thơ, mẹ còn sống, nhà thơ được gần mẹ, thấy rất rõ, nhớ rất đậm hình ảnh mẹ đưa áo ra giậu phơi mỗi khi có nắng mới. Áo đỏ, giậu (xanh), nắng (vàng, trắng) hợp với nhau tạo thành những gam màu thật rực rỡ, lại thêm vào đấy cái “reo” của nắng vàng làm tăng thêm chất sống cho bài thơ. Ta có thể hình dung khi ấy thi sĩ đang ngồi bên cửa sổ đọc sách hay đang tư lự điều gì đó, bất giác nhìn ra giậu thưa bắt gặp hình ảnh mẹ quen thuộc. Mẹ đón nắng để phơi áo: “Hình bóng mẹ tôi chửa xóa mờ
Hãy còn mường tượng lúc vào ra
Nét cười đen nhánh sau tay áo
Trong ánh trưa hè trước giậu thưa”.
Bài thơ kết thúc bằng việc dựng lại hình ảnh thật lúc còn đang sống của mẹ, từ bước đi dáng đứng đến nụ cười, hàm răng của một người mẹ Việt Nam tiêu biểu thời Lưu Trọng Lư: áo nâu đỏ, răng đen tuyền, hiền từ, kín đáo. Cái “Nét cười đen nhánh sau tay áo” mà Lưu Trọng Lư tả thật gợi cảm và có duyên. Mẹ hiện về dần dần trong tâm trí nhà thơ và đọng mãi trong ký ức người đọc với ấn tượng khó quên. Trong “nắng mới”, bên “song cửa”, “trước giậu thưa”, “ngoài nội” hiện lên lung linh hình ảnh mẹ!
Trong những lần gặp nhà thơ Lưu Trọng Lư ở Hà Nội và Huế, tôi quên không hỏi thêm ông những chuyện thực về người mẹ của ông. Song qua bài thơ và tìm hiểu thêm những người ở quê, tôi thấy dấu ấn vùng quê nơi chôn rau cắt rốn của nhà thơ và hình ảnh người mẹ trong bài thơ với ngoài đời là rất thực. Đó là một bà mẹ Việt Nam ở vùng đất Quảng Bình vốn chăm chỉ, ít nói, giàu lòng yêu thương.
Bên cạnh bài thơ Tiếng thu rất nổi tiếng, Nắng mới là bài thơ tôi yêu thích trong số những bài thơ hay của nhà thơ Lưu Trọng Lư.
“Mỗi lần nắng mới hắt bên song
Xao xác gà trưa gáy não nùng
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng
Chập chờn sống lại những ngày không”.
Với hai câu thơ đầu, ta được biết thời điểm nhà thơ nhớ về mẹ là buổi trưa - là giữa ngày - “mỗi lần nắng mới”. Theo lô gích sự biến đổi giữa cũ và mới thì mỗi lần nắng mới ở đây có nghĩa là mỗi ngày; mà thời gian cao điểm nhất dồn tụ nỗi nhớ, cháy lên niềm khát khao gặp mẹ trong mỗi ngày ấy là giờ trưa – cái giờ im ắng buồn thiu của cảnh vật đang ngái ngủ, khi bên song cửa nắng hắt, tiếng gà não nùng, xao xác gáy với vẻ khác thường. Thời điểm nhớ mẹ của Lưu Trọng Lư so với một số người có khác, âu cũng là do cái riêng trong kỷ niệm về mẹ của nhà thơ (phần cuối sẽ nói rõ thêm). Chỉ biết vào thời điểm trên, con người đa sầu đa cảm Lưu Trọng Lư đang sống trong mộng với những ngày hư không giữa hai mốc thời gian chuyển động ngược chiều nhau. Một chiều thì:
“Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng”.
Còn một chiều thì:
“Chập chờn sống lại những ngày không”.
Và nhà thơ xúc cảm, bồi hồi với kỷ niệm:
“Tôi nhớ mẹ tôi, thuở thiếu thời
Lúc người còn sống, tôi lên mười,
Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội
Áo đỏ người đưa trước giậu phơi”.
Lưu Trọng Lư đi rất xa về quá khứ, tận “thuở thiếu thời” lúc “lên mười” (cái tuổi chỉ biết ăn biết chơi). Ấy là vì cái tuổi lên mười của nhà thơ, mẹ còn sống, nhà thơ được gần mẹ, thấy rất rõ, nhớ rất đậm hình ảnh mẹ đưa áo ra giậu phơi mỗi khi có nắng mới. Áo đỏ, giậu (xanh), nắng (vàng, trắng) hợp với nhau tạo thành những gam màu thật rực rỡ, lại thêm vào đấy cái “reo” của nắng vàng làm tăng thêm chất sống cho bài thơ. Ta có thể hình dung khi ấy thi sĩ đang ngồi bên cửa sổ đọc sách hay đang tư lự điều gì đó, bất giác nhìn ra giậu thưa bắt gặp hình ảnh mẹ quen thuộc. Mẹ đón nắng để phơi áo: “Hình bóng mẹ tôi chửa xóa mờ
Hãy còn mường tượng lúc vào ra
Nét cười đen nhánh sau tay áo
Trong ánh trưa hè trước giậu thưa”.
Bài thơ kết thúc bằng việc dựng lại hình ảnh thật lúc còn đang sống của mẹ, từ bước đi dáng đứng đến nụ cười, hàm răng của một người mẹ Việt Nam tiêu biểu thời Lưu Trọng Lư: áo nâu đỏ, răng đen tuyền, hiền từ, kín đáo. Cái “Nét cười đen nhánh sau tay áo” mà Lưu Trọng Lư tả thật gợi cảm và có duyên. Mẹ hiện về dần dần trong tâm trí nhà thơ và đọng mãi trong ký ức người đọc với ấn tượng khó quên. Trong “nắng mới”, bên “song cửa”, “trước giậu thưa”, “ngoài nội” hiện lên lung linh hình ảnh mẹ!
Trong những lần gặp nhà thơ Lưu Trọng Lư ở Hà Nội và Huế, tôi quên không hỏi thêm ông những chuyện thực về người mẹ của ông. Song qua bài thơ và tìm hiểu thêm những người ở quê, tôi thấy dấu ấn vùng quê nơi chôn rau cắt rốn của nhà thơ và hình ảnh người mẹ trong bài thơ với ngoài đời là rất thực. Đó là một bà mẹ Việt Nam ở vùng đất Quảng Bình vốn chăm chỉ, ít nói, giàu lòng yêu thương.
Bên cạnh bài thơ Tiếng thu rất nổi tiếng, Nắng mới là bài thơ tôi yêu thích trong số những bài thơ hay của nhà thơ Lưu Trọng Lư.
Lý Hoài Xuân
TIỂU SỬ
Lưu Trọng Lư
* Người làng
Cao Lao Hạ, xã Hạ Trạch,
huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
* Ông sinh
trưởng trong một gia đình quan lại xuất thân nho học.
Thuở nhỏ, ông
học trường tỉnh, rồi học ở Huế và Hà Nội.
Sau đó, ông
bỏ học đi dạy tư, làm văn và làm báo để kiếm sống.
* Năm 1932,
ông là một trong những nhà thơ khởi xướng và tích cực
cổ vũ cho Phong trào Thơ mới.
+ Năm 1933-1934,
ông chủ trương mở Ngân Sơn tùng thư ở Huế.
+ Năm 1941,
ông và thơ ông được Hoài Thanh và Hoài Chân giới thiệu trong quyển
Thi nhân Việt Nam.
+ Sau Cách
mạng tháng Tám (1945), ông tham gia Văn hóa cứu quốc ở Huế.
+ Những năm
kháng chiến chống Pháp, ông tham gia hoạt động tuyên truyền, văn nghệ ở
Bình Trị Thiên và Liên khu IV.
+ Sau 1954,
ông công tác ở Bộ Văn hóa
và làm Tổng
Thư ký Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam.
+ Năm 1957,
ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam.
* Lưu Trọng
Lư mất tại Hà Nội. Ngày 10 tháng 8 năm 1991.
* Ông đã được
tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2000.
Tác phẩm
• Tiếng thu
(1939)
• Tỏa sáng
đôi bờ (1959)
• Người con
gái sông Gianh (1966)
• Từ đất này
(197l)
• Chị em
(1973)
• Đây mùa thu
tới (1987)
• Bâng khuâng
(1988)
• Bao la sầu
(1989)
Sân khấu
• Nữ diễn
viên miền Nam (cải lương)
• Cây thanh
trà (cải lương)
• Xuân Vỹ Dạ
(kịch nói)
• Anh Trỗi
(kịch nói)
• Hồng Gấm,
tuổi hai mươi (kịch thơ,1973)
Văn xuôi
• Người sơn
nhân (truyện, 1933)
• Chiếc cáng
xanh (truyện, 1941)
• Khói lam
chiều (truyện, 194l)
• Mùa thu lớn
(tuỳ bút, hồi ký, 1978)
• Nửa đêm sực
tỉnh (hồi ký, 1989)
Đánh giá
Là một trong
những người tiên phong của Phong trào Thơ mới, những bài thơ của ông mà “nhiều
bài thực không phải là thơ, nghĩa là những công trình nghệ thuật, mà chính là
tiếng lòng thổn thức cùng hòa theo tiếng thổn thức của lòng ta” đã góp phần
khẳng định vị thế của Thơ mới. Hình ảnh:
…Con nai vàng
ngơ ngác
Đạp trên lá
vàng khô…
(Tiếng thu)
hay người mẹ
với:
…Nét cười đen
nhánh sau tay áo
Trong nắng
trưa hè trước dậu thưa
(Nắng mới)
Trong thơ Lưu
Trọng Lư đã trở thành những biểu tượng vượt thời gian.
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét