Xóm Ngự Viên
Một bài thơ hay về
Huế của Nguyễn Bính
Huế là mảnh đất nhiều duyên nợ với
Nguyễn Bính. Trên hành trình rong chơi, ông đã nhiều lần đến Huế. Vì thế có một
số bài thơ hay được viết ra ở đây, trong đó nổi bật là hai bài thơ Xóm Ngự
Viên và Giời mưa ở Huế.
Xóm Ngự Viên nằm trong tập Mười hai
bến nước, được xuất bản năm 1942, có thể nói là một trong những bài thơ hay
nhất của Nguyễn Bính, tuy nhiên nó lại ít được đề cập đến. Ở nơi có tên gọi
xóm Ngự Viên ấy vốn là khu vườn Thượng Uyển, (ở cạnh đường Gia Hội - Huế) là chỗ
để vua cùng quần thần dạo chơi. Nhưng cho đến khi Nguyễn Bính tới đó vào
tháng 9 năm 1941 thì vườn Ngự Uyển chỉ còn là dấu tích. Thay vào đó là một
xóm nghèo mọc lên:
Nhà cửa xúm nhau thành một xóm
Cay nồng hơi thuốc lẫn hơi men
Mụ vợ bắc nam người tứ xứ
Anh chồng tay trắng lẫn tay đen
Đổi thay tình nghĩa như cơm bữa
Khúc "Hậu đình hoa" hát tự
nhiên
Nhọc nhằn tiếng cú trong canh vắng
Nhao nhác đàn dơi lúc đỏ đèn…
Mặc dầu nhà Nguyễn vẫn còn tồn tại,
triều đình Huế vẫn còn vua - quan - hoàng hậu đủ cả nhưng đấy chỉ là hình thức.
Ở xóm Ngự Viên lúc ấy Nguyễn Bính đã thấy cảnh chiều tàn của chế độ phong kiến
rồi:
Khoa cử bỏ rồi thôi hết Trạng!
Giời đem hoa cỏ trả vườn tiên
Tôn nữ ngồi đan từng chiếc áo
Dân thường qua lại lối đi quen
Những thành phần trong hoàng tộc đã
trở thành kẻ bình dân như thế, thì thời thế đã quá đổi thay rồi. Nên vui hay
nên buồn? Có lẽ đấy là quy luật của trời đất, con người không thể cưỡng lại
được như mấy câu thơ sau đây của Tố Hữu viết về triều đại phong kiến cuối
cùng ấy:
Ý chết đã phơi vàng héo úa
Mùa thu lá sắp rụng trên đường
Mơ chi ảo mộng ngàn xưa nữa
Cây hết thời xanh đến tiết vàng
(Dửng dưng)
Tuy nhiên đối với Nguyễn Bính thì lại
khác. Trong tâm tưởng của thi nhân, cảnh chiều tàn của chế độ vua quan ngàn
năm ngự trị ấy đã gợi lên những nỗi niềm bâng khuâng khó tả. Ở điểm này, Nguyễn
Bính và Vũ Đình Liên đã gặp nhau. Vũ Đình Liên sau khi xem lễ Nam Giao vào
năm 1936 ở Huế xong đã viết mấy câu thơ:
“Lòng ta là những hàng thành quách
cũ
Tự ngàn năm bỗng vẳng tiếng loa xưa”.
Đấy là tâm trạng hoài cổ, thể hiện
bằng sự tiếc nuối bâng quơ những vàng son quá khứ. Có điều những vàng son ấy
thi nhân không hề can dự vào. Sự tiếc nuối không có lý do chính đáng nào để tồn
tại, nhưng lòng người vẫn không ngăn được tiếc nuối. Tiếc cho thời đại vua
chúa đã về chiều, những công tằng tôn nữ phải ngồi đan từng chiếc áo kiếm sống
qua ngày, những khoa thi không còn để mà “Lòng Trạng lâng lâng màu phú quý”.
Tiếc không còn cảnh vua cùng hàng đoàn cung tần mỹ nữ dạo chơi trong vườn Ngự
Uyển để mà:
Đức vua một sớm đầu xuân ấy
Lòng đẹp theo giời, dạo Ngự viên
Cung tần mỹ nữ ngời son phấn
Theo gót nhà vua nở gót sen
Ở đây ta thấy thêm một đặc điểm nữa
đối với Nguyễn Bính mà lâu nay ta không để ý đến. Ta đã để sót một đặc điểm
quan trọng đối với thơ Nguyễn Bính. Đó là chất hoài cổ mà nói rộng ra hơn là
hoài vọng. Mỗi thi nhân, dù ít dù nhiều đều có một chút tình cảm đó trong con
người nhưng ở Nguyễn Bính, tình cảm này hiện ra rất thường xuyên và đậm nét.
Riêng ở đây, trong bài thơ này, tình cảm đó hầu như lai láng. Đó là một thứ
sương khói bềnh bồng phủ lên lời thơ, khiến lòng người cô quạnh. Một thứ “buồn
tàn thu”:
Ngự viên ngày trước không còn nữa
Giờ chỉ còn tên xóm Ngự Viên.
Khoa cử bỏ rồi, thôi hết Trạng!
Giời đem hoa cỏ trả vườn tiên
Chúng ta thấy trong nhiều bài thơ,
thông thường cái buồn đến ngay trong thực tại. Buồn vì lý do chia ly, buồn vì
cảnh vật buồn... Chẳng hạn như cái buồn của Huy Cận trong câu thơ:
“Ai chết
đó? Nhạc buồn chi lắm thế
Chiều mồ côi, đời rét mướt ngoài đường”
hay là
trong câu thơ của Lưu Trọng Lư:
“Chừ đây trăng nước não nùng
Chừ đây hoa cỏ
bên sông rũ buồn...”
Những nỗi buồn ấy có lý do rõ ràng. Nhưng ở đây thì lại
khác. Ở đây cái buồn không đến từ ngay cảnh thực tại mà là vì:
“Khách du lần
giở trang hoài cổ
Mơ lại thời xưa xóm Ngự Viên”.
Ta thấy ở cái xóm Ngự Viên
nghèo ấy, có lẽ không ai có thời gian để mà buồn nhiều vì mải kiếm kế sinh
nhai. Chỉ có một mình thi sĩ của chúng ta ngồi tưởng tượng lại đủ thứ để mà
buồn thôi:
Tay ai ấy nhỉ gieo cầu đấy?
Nghiêng cả mùa xuân Trạng ngước
nhìn
Trạng bắt sai rồi, lầu rủ sáo
Có người đêm ấy khóc giăng lên
Bóng ai thấp thoáng sau bờ trúc
Chẳng Tống Trân ư cũng Nguyễn Hiền?
Từ chỗ tưởng tượng ra như thế rồi
thi sĩ buộc cái buồn vô cớ vào lòng mình:
Khách du buồn mối buồn sông núi
Núi lở sông bồi cảnh biến thiên...
Ngự Viên ngày trước không còn nữa
Giờ chỉ còn tên xóm Ngự Viên.
Nguyễn Bính làm xong bài thơ Xóm Ngự
Viên trong một buổi chiều quạnh hiu nào đó rồi viết treo lên vách để ngâm ngợi
và Yến Lan khi đến Huế đã được đọc bài thơ trên vách nhà đó. Bài thơ có lẽ
làm cho Yến Lan chạnh lòng và cũng khiến lòng ta ngẩn ngơ như vừa đánh mất
cái gì. Lâu nay ta cứ nghĩ, chỉ có Vũ Đình Liên mới làm được và làm hay những
câu thơ hoài cổ như vậy. Ta không ngờ rằng, với Xóm Ngự Viên, Nguyễn Bính hầu
như đã chiếm cái vị trí ấy của tác giả Ông đồ. Cái cảnh chiều tàn trong Ông đồ
của Vũ Đình Liên không thể làm bâng khuâng lòng người bằng cái cảnh chiều tàn
ở xóm nghèo Ngự Viên này. Bởi đây mới chính là cảnh chiều tàn của chế độ
phong kiến ngàn năm. Cả một vàng son rực rỡ đọng lại trong hình ảnh Tôn nữ ngồi
đan áo bên đường, nghèo nàn hơn cả thường dân. Vua quan, quần thần, hoàng hậu,
công chúa, trạng nguyên, cung tần mỹ nữ, những yến tiệc, những cuộc dạo chơi,
lầu son gác tía, hoa cỏ vườn tiên, tất cả được tái hiện lại và rồi vụt tắt
đi, để lại hiện ra một xóm nghèo xơ xác. Đó chính là xóm Ngự Viên:
Giậu đổ dây leo suồng sã quá
Hoa tàn con bướm cánh nghiêng
nghiêng
Buồn thu rơi nhẹ đôi tờ lá
Xóm vắng rêu xanh những lối hèn
Xóm vắng này có lẽ ít ai chú ý đến
nó. Vì nó chẳng là gì cả trong đời sống thực tại khi đó. Chỉ có một mình thi
nhân của chúng ta đến đây "lần giở trang hoài cổ" để buồn và hôm
nay để lại cho đời những vần thơ da diết ấy mà thôi.
Nguồn: thanhnien.vn
Nguyễn Bính và chùm thơ viết tại Huế
Nhà thơ Nguyễn Bính (1918 - 1966)
tên thật là Nguyễn Bính Thuyết (Triệu Xuân: Anh Mai Văn Hoan, tác giả bài
này, viết sai. Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính), quê Thiện Vịnh
(nay là xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Mẹ ông mất khi “chưa kịp bạc
đầu”. Thuở nhỏ, ông không học ở trường mà chỉ học với cha và cậu. 10 tuổi,
ông được người anh trai là nhà thơ Trúc Đường sinh sống ở thị xã Hà Đông kèm
cặp. 17 tuổi, ông ra mắt tập thơ đầu tay Tâm hồn tôi, đoạt giải thưởng của Tự
lực Văn đoàn và bắt đầu nổi tiếng từ đó. Nguyễn Bính là tác giả của hàng trăm
thi phẩm được bạn đọc nhiều thế hệ yêu thích. Theo Tô Hoài thì ông là một
“tài thơ bẩm sinh”.
Cũng như nhà văn Nguyễn Tuân, thời
trai trẻ Nguyễn Bính rất thích xê dịch. Ông từng “lăn lóc có dư mười mấy tỉnh”.
Hầu như nơi nào từng đặt chân đến ông đều có thơ để lại. Năm 1940, Nguyễn
Bính cùng Tô Hoài và Vũ Trọng Can rủ nhau đi vào Huế theo lời mời của một mạnh
thường quân. Tô Hoài chỉ lưu lại Huế trong thời gian ngắn còn Nguyễn Bính và
Vũ Trọng Can thì “bám trụ” ở Cố đô gần nửa năm trời để dàn dựng và công diễn
vở kịch thơ Bóng giai nhân (với sự cộng tác đắc lực của thi sĩ Yến Lan). Vị mạnh
thường quân tạo điều kiện cho ba thi sĩ công diễn Bóng giai nhân trên một vài
sân khấu ở Huế. Tiếc là khán giả ngày một thưa vắng. Ba thi sĩ lâm vào tình cảnh
“nợ nần như Chúa Chổm” đành phải ngậm ngùi chia tay với Huế. Yến Lan vào lại
Bình Định còn Nguyễn Bính và Vũ Trọng Can thì trở ra Hà Nội. Nhưng chính nhờ
gần nửa năm “nằm mốc” ở Cố đô mà Nguyễn Bính có được một chùm thơ viết về Huế,
bài nào cũng đặc sắc, trong đó phải kể đến Xóm Ngự Viên, Giời mưa ở Huế và Một
con sông lạnh.
Theo hồi ký của nhà văn Tô Hoài:
Lúc mới vào Huế, vị mạnh thường quân sắp xếp cho ba người ở ngôi nhà trọ ngay
xóm Ngự Viên (trên trục đường Ngự Viên, thuộc phường Phú Cát bây giờ). Qua
sách vở, Nguyễn Bính được biết xóm Ngự Viên trước đây vốn là vườn Thượng Uyển:
“Cung tần mỹ nữ ngời son phấn
Theo gót nhà vua nở gót sen
Hương đưa bát
ngát ngoài trăm dặm
Cung nữ đa tình vua thiếu niên”.
Tác giả đối sánh quá khứ
và hiện tại qua nghệ thuật sắp đặt. Quá khứ hết sức tao nhã. Nào là: “ngời
son phấn”, “nở gót sen”, “hương đưa bát ngát”… Còn hiện tại thì hết sức tàn tạ
với “giậu đổ, dây leo”, “xóm vắng, rêu xanh”, hoa tàn, lá rụng… Cái cảnh
“gieo cầu” của các nàng tôn nữ thời xưa ở vườn Thượng Uyển được Nguyễn Bính
tái hiện lại rất nên thơ:
“Gót sen bước nhẹ lầu tôn nữ
Ngựa bạch buông chùng
áo trạng nguyên
Đường hoa, má phấn tranh nhau ngó
Nhạc ngựa vang lừng khắp
bốn bên…”.
Cảnh tượng thật lãng mạn:
“Lòng Trạng lâng lâng màu phú quí
Quả cầu
nho nhỏ bói lương duyên
Tay ai ấy nhỉ gieo cầu đấy
Nghiêng cả mùa xuân, Trạng
ngước nhìn…”.
Thơ Nguyễn Bính vốn bình dị, dân dã nhưng khi cần cũng hết sức
quý phái, cao sang. Cái “màu phú quý” và “nghiêng cả mùa xuân” là cách nói
khá độc đáo của thi sĩ. Đối lập với quá khứ phồn hoa là một hiện tại hổ lốn,
nhếch nhác:
“Nhà cửa xúm nhau thành một xóm
Cay nồng hơi thuốc lẫn hơi men
Mụ vợ bắc nam người tứ xứ
Anh chồng tay trắng lẫn tay đen”.
Đạo đức suy
thoái một cách trầm trọng: Đổi thay tình nghĩa như cơm bữa. Những nàng tôn nữ
đài các ngày xưa bây giờ ngồi cặm cụi đan từng chiếc áo. Văn hóa cung đình đã
trở nên bát nháo; “khúc Hậu đình hoa” sang trọng như thế giờ đem “hát tự
nhiên”. Tiếng “nhạc ngựa vang lừng” không còn nữa, chỉ còn lại “nhọc nhằn tiếng
cú trong thanh vắng”. Nghe và thấu hiểu được tiếng cú “nhọc nhằn” thì quả là
chỉ có tài thơ như Nguyễn Bính. Bằng trí tưởng tượng vô cùng phong phú, thi
sĩ đã làm sống lại những nét văn hóa cung đình tôn nghiêm, trang nhã của đất
Cố đô vốn đã bị mai một theo thời cuộc và thời gian. Ở bài thơ Xóm Ngự Viên,
có tiếc nuối nhưng không hẳn là hoài cổ mà chủ yếu là “nỗi đau đớn lòng” trước
cảnh “bãi bể nương dâu”. Bởi vậy, chúng ta hiểu vì sao tác giả đang ở ngay
xóm Ngự Viên mà lại “nhớ Ngự Viên”! Ngự Viên chỉ là cái cớ để tác giả bày tỏ
nỗi “đau đớn lòng” của mình trước tình cảnh đất nước. Đây là trường hợp hiếm
hoi trong phong cách thơ Nguyễn Bính: chất trữ - tình - thế - sự lấn át chất
trữ - tình - riêng - tư. Xóm Ngự Viên cũng là một trong những bài thơ hiếm
hoi được viết theo lối độc vận và cái tôi được ẩn vào nhân vật “du khách”. Mặc
dù vậy, người đọc vẫn dễ dàng nhận ra vị du khách mang “nỗi buồn sông núi” đó
không ai khác mà chính là thi sĩ Nguyễn Bính.
Cũng viết theo lối độc vận nhưng so
với Xóm Ngự Viên thì bài Giời mưa ở Huế ra đời muộn hơn. Đó là thời điểm tác
giả rời xa Hà Nội “bốn tháng hình như kém mấy ngày”. Nếu Xóm Ngự Viên Nguyễn
Bính ẩn mình qua nhân vật du khách thì Giời mưa ở Huế tác giả không chỉ bộc lộ
tâm trạng của mình mà còn nói hộ nỗi lòng cho cả người bạn đang “nằm mốc” ở
Huế cùng với mình. Huế nổi tiếng với núi Ngự, sông Hương, với những đền đài,
lăng tẩm. Huế còn nổi tiếng về mưa. Cả nước ai cũng biết mưa Huế. Người Huế
quá thấm thía cái mùa mưa của xứ sở mình. Nguyễn Bính sống ở Huế vào đúng mấy
tháng mùa mưa. Điệp khúc:
“Giời mưa ở Huế sao buồn thế
Cứ kéo dài ra đến mấy
ngày”
láy đi láy lại đã phần nào diễn tả được những cơn mưa triền miên, dai dẳng,
lê thê của Huế. Điệp khúc ấy tạo nên âm hưởng thật đặc biệt. Cảm giác tụ đọng,
quanh quẩn, ẩm ướt, chán ngán cũng bắt đầu từ điệp khúc ấy. Trên cái nền mưa
triền miên, dai dẳng, lê thê rả rích... là tâm trạng tha hương của thi sĩ.
Còn nhớ, lúc tôi đang trú trên căn phòng “như tổ chim treo” ở trường Đồng
Khánh, khi hơi men đã ngấm, tôi rưng rưng đọc Giời mưa ở Huế, Hoàng Vũ Thuật,
Ngô Minh, Hải Kỳ cùng đọc theo như một dàn đồng ca. Rồi những chiều Bến Ngự sầu
nghiêng mái quán mưa tong tả, đã biết bao lần chúng tôi:
“Tỉ tê gợi tới niềm
tâm sự
Cúi mặt soi gương chén rượu đầy
Bốn mắt nhuộm chung màu lữ thứ
Đôi
lòng hòa một vị chua cay…”.
Những câu thơ như thế chỉ cần đọc lên là đã nổi
da gà. Nó ngấm vào lòng, vào tim, vào gan như những ly rượu mạnh. Thi sĩ:
“Lăn
lóc có dư mười mấy tỉnh
Để rồi nằm mốc ở nơi đây...”.
Chỉ xét về phương diện
sử dụng từ ngữ thì Nguyễn Bính cũng rất xứng đáng bậc thầy. Phải là người “đi
khắp thiên hạ mòn gót giày, gãy bánh xe”; phải “giang hồ quen thói vẫy vùng”
như Nguyễn Bính mới cảm thấy như mình đang bị mốc meo trong sự bủa vây dai dẳng
của mưa Huế. Nguyễn Bính khi buồn chán thường giải khuây bằng thuốc lào. Nhà
thơ Vũ Hoàng Chương kể lại chuyển lên Bắc Giang gặp Bàng Bá Lân: “Chủ mời
khách cùng ra đường đi dạo một lát cho tiêu cơm, đến cầu sông Thương sẽ quay
về ngủ còn sớm chán. Chàng Tô (Tô Hoài) thì mãn ý quá, nhà văn thư sinh này chỉ
phiêu lưu theo kiểu Dế Mèn. Còn Nguyễn Bính thì hận lắm. Đi khắp thiên hạ để
tìm tri kỷ mà tri kỷ lại bảo dạo phố rồi về ngủ sớm hỏi có ức không? Thế rồi
lỉnh kỉnh suốt đêm ấy, Bính cứ ngồi hút thuốc lào hoài”. Giờ đây, “nằm mốc” ở
Huế trong sự bủa vây của những cơn mưa triền miên thi sĩ lại tìm đến với điếu
cày: Thuốc lào hút mãi người ra khói! Hút thuốc lào đến mức “người ra khói”,
tôi chưa từng nghe ai nói như thế cả! Thế mà Trường Tiền vẫn “vắng ngắt người
qua lại”, Đập Đá vẫn “mênh mang bến nước đầy...”. Một chút tơ vương với cô
hàng xóm cũng không thể làm cho thi sĩ khuây khỏa nỗi niềm chán ngán của
mình:
“Tôi rờn rợn lắm giai nhân ạ!
Đành phụ nhau thôi kẻo đến ngày
Khăn
gói gió đưa sang xứ lạ
Ai cười cho được lúc chia tay?”
Quá khứ nặng nề, u ám
hiện ra trước mắt thi sĩ: gia đình ly tán, anh em phiêu dạt, người cũ thì
“vung vãi ân tình khắp đó đây”. Thi sĩ cay đắng nhìn lại quãng đời vừa qua của
mình và chua chát rút ra kết luận “sòng đời thua nhẵn cả thơ ngây!” Hiếm có
bài thơ nào của Nguyễn Bính giúp chúng ta hiểu về tính cách, cảnh ngộ, thân
phận... của nhà thơ như Giời mưa ở Huế. Mưa Huế đã gợi lên bao nhiêu nỗi niềm,
bao nhiêu tâm trạng. Giời mưa ở Huế là lời tự thú hết sức thành thực của thi
sĩ. Nguyễn Bính chinh phục và tìm được sự đồng cảm rộng rãi đối với độc giả
các thế hệ không chỉ bằng cái biệt tài trời phú mà còn ở sự chân thành rất mực
của mình.
Cũng làm theo thể thất ngôn trường
thiên nhưng ở bài thơ Một con sông lạnh Nguyễn Bính không viết theo lối độc vận
như hai bài thơ trên. Đây là bài thơ ông sáng tác trước khi chia tay với Huế:
Khoan đàn em hãy gắng say
Một đêm, còn một đêm nay thôi mà...
Một cuộc hội
ngộ, giao lưu giữa tài tử với giai nhân. Cảnh và tình hòa quyện vào nhau chẳng
khác gì Bạch Cự Dị nghe đàn tỳ bà trên bến Tầm Dương. Nhưng Bạch Cư Dị thì tỉnh
để chia sẻ, để cảm thông, để đồng cảm với người phụ nữ gảy đàn, còn Nguyễn
Bính thì say với tiếng đàn, với giọng ca của nàng kỹ nữ. Thi sĩ nhìn ánh nến
thấy “ánh nến hoen vàng”, thi sĩ nghe tiếng đàn mà ngỡ như đang nghe tiếng vó
ngựa dồn dập của quân Phiên, thi sĩ lẫn lộn giữa người thực và người trong tưởng
tượng: “Ồ nàng không phải là em!” Rồi “Đừng em, quên đấy thôi nàng... Thi sĩ
đắm mình trong cái trạng thái “chập chờn cơn tỉnh, cơn mê” nửa hư, nửa thực.
Cho đến khi: “Đêm tàn chẳng có chiêm bao
Đêm tàn có mấy chòm sao cũng tàn
Chén sầu đổ ướt tràng giang
Canh gà bên ấy giăng sang bên này”,
thi sĩ ao ước:
“Lạy giời đừng sáng đêm nay
Thuyền không cập bến tôi say suốt đời”.
Tác giả
bỏ lửng với câu kết: “Chiêu Quân lên ngựa mất rồi!” gợi bao nỗi bâng khuâng,
luyến tiếc. Bài thơ đã kết thúc nhưng chàng thi sĩ của chúng ta thì dường như
vẫn chưa hề tỉnh. Vẻ đẹp Huế, con người Huế làm thi sĩ không muốn rời xa.
Nguyễn Bính đã thành người thiên cổ
cách đây đúng 50 năm nhưng những vần thơ của ông viết tại Huế như vẫn còn
văng vẳng đâu đây. Mỗi lần đọc lại Xóm Ngự Viên, Giời mưa ở Huế, Một con sông
lạnh, tôi cứ hình dung Nguyễn Bính đang đứng trầm tư, suy ngẫm trên đường Ngự
Viên, đang cùng bạn chạm cốc bên Bến Ngự và đang nâng ly rượu mời người đẹp
trong con thuyền trôi lơ lửng trên dòng Hương… Xứ Huế đã gợi cho thi sĩ bao
nhiêu thi tứ. Đi sâu tìm hiểu chùm thơ Nguyễn Bính viết tại Huế chúng ta
không chỉ hiểu thêm tài năng thi ca, thân phận, nỗi niềm… mà còn hiểu đầy đủ
hơn tình cảm sâu nặng của ông đối với đất nước, đối với xứ Huế mộng mơ.
Huế, tháng 6/2016
Mai Văn Hoan
Nguồn: TCSH 330/08-2016
Theo http://trieuxuan.info/
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét