Sáng
tác thơ là một việc do cá nhân
Tâm hồn con người là cả một thế giới phong phú. Thơ là sản phẩm
của tâm hồn, nên nó mang lắm điều kỳ diệu. Sáng tác thơ là một công việc đặc biệt,
ở mỗi bài thơ, vai trò cá nhân người thi sĩ rất lớn. Làm thơ, đòi hỏi nhà thơ
phải xác định cho được cái tôi của mình. Điều này đã được nhiều nhà thơ khẳng định.
Chính Xuân Diệu trong cuốn trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ đã nhấn mạnh:
“Sáng tác thơ là một việc do cá nhân thi sĩ làm, một thứ sản
xuất đặc biệt và các thể. Anh phải đi sâu vào tâm hồn cá biệt của anh để nói cái
to tát của xã hội, cái tốt đẹp của chế độ, để tránh cái khô khan, nhạt nhẽo,
anh phải có cá tính, anh phải trau dồi cái độc đáo mà công chúng rất đòi hỏi.
Nhưng đồng thời, anh phải đấu tranh để cái việc tự sáng tạo ấy không trở thành
anh hùng chủ nghĩa”.
Trong cuộc sống, không phải ai cũng làm được thơ mặc dù trong
mỗi con người mà tạo hóa sinh ra đều có chất thi sĩ. Làm thơ đã khó, làm thơ
hay lại càng khó hơn. Ngay ở những nhà thơ lớn, không phải bài nào cũng hay. Bởi
thơ là một sáng tạo rất “đặc biệt”, rất “cá thể”.
Thơ là sản phẩm của tâm hồn. Nói cho cụ thể hơn, thơ là con đỏ
của “những trạng thái tâm hồn”. Ngay điều đó so với quá trình tạo ra các sản phẩm
khác, nó đã đặc biệt lắm rồi. Mỗi tâm hồn là một vương quốc riêng, đầy bí ẩn,
tuy giữa những tâm hồn có những tàn sóng giao thoa nhau. Chính vì thế nên thơ
không thể là sự “cộng tác” của những tâm hồn, cho dù là “những tâm hồn đồng điệu”.
Nó là “một việc do cá nhân thi sĩ làm”. Có thể trong một phút rung động, một trạng
thái khác thường, tràn đầy cảm xúc của thi sĩ, thế là thơ ca ra đời. Phút rung
động ấy ở nhà thơ này không giống nhà thơ khác. Nếu nhà thơ để giây phút ấy qua
đi, thì khó có thể tìm thấy nó ở những thời điểm khác. Trong lĩnh vực văn học
nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng, cá nhân người nghệ sĩ có vai trò quyết
định. Một tác phẩm xuất sắc là kết quả sáng tạo của một thi sĩ, ra đời trong hoàn
cảnh lịch sử nhất định, không có sự trùng lặp. Điều đó giúp chúng ta cắt nghĩa
lại sao cho đến bây giờ chế độ tốt đẹp của chúng ta vẫn chưa sản sinh ra được một
Nguyễn Du, một Truyện Kiều. Làm thơ và cả một quá trình lao động nghệ thuật nặng
nhọc và lâu bền. Nhưng theo tôi, đấy cũng chỉ là một trong những yếu tố” tạo nên
“sức nặng” cho bài thơ. Điều quan trọng hơn có lẽ phải kể đến tài năng cá nhân,
đôi khi do bẩm sinh, của người nghệ sĩ. Bông hồng vàng của Pauxlôpxki có cái lóng
lánh sắc vàng của những vảy vàng góp nhật bàn tay lao động, bằng sự miệt mài, bằng
nghị lực phi thường. Nhưng thật là thiếu sót, nếu chúng ta không cảm nhận được ở
đó cái duyên dáng rất riêng của bàn tay sàng sẩy. Tôi nghĩ, chính cái khác biệt,
cái riêng lẻ là phần tạo nên giá trị của Bông hồng vàng, làm cho chúng ta luôn
nhớ Pauxtôpxki.

“Sáng tác thơ là một việc do cá nhân thi sĩ làm” - đó là một
sự hiển nhiên. Sự hiển nhiên ấy đòi hỏi người làm thơ phải để lại ở mỗi bài thơ,
mỗi tập thơ dấu ấn riêng biệt của mình.
Trong tác phẩm nghệ thuật nói chung và nhất là trong thơ ca
nói riêng, dấu ấn cá nhân được thể hiện trên nhiều phương diện. Nó có thể được
người đọc nhận thấy ở cả nội dung lẫn hình thức, ở trong cách cảm, cách nghĩ… của
nhà thơ. Theo tôi, người đọc luôn tìm thấy ở nhà thơ những quan điểm riêng trước
cuộc sống, tìm ở nhà thơ một cách nói mới mẻ, độc đáo…
Con người và cuộc sống từ ngàn xưa đã là đối tượng phản ánh của
thơ ca. Nhưng cuộc sống và con người trong thơ ca là cuộc sống và con người được
phản ánh qua một lăng kính rất cụ thể, rất cá biệt - đấy là tâm hồn, tư tưởng,
tình cảm… của người nghệ sĩ. Nếu như các ngành khoa học tự nhiên loại trừ các yếu
tố cá biệt để xác lập tính quy luật có giá trị phổ quát thì văn học nghệ thuật,
trong đó có thơ ca, lại chỉ có thể tồn tại trong cuộc đời khi có dấu ấn của sự
cá biệt. Trong mỗi câu thơ hay, người đọc đều tìm thấy một tấm lòng, một nỗi niềm,
một ước vọng, một khao khát riêng tư,…
Nhưng thơ không chỉ nói cái gì riêng của nhà thơ mà phải thông
qua cái riêng ấy để nói lên những lo toan chung, sướng khổ chung của cuộc sống
và của mọi người, của mọi thế hệ. Đọc Truyện Kiều, nhiều thế hệ thấy nét rất riêng
của cụ Nguyễn Tiên Điền, đồng thời cũng tiếp nhận được một điều gì đó lần gũi,
hữu ích cho mình, cho cuộc sống hôm nay. Đúng là nhà thơ “phải đi sâu vào tâm hồn
cá biệt” của mình “để nói cái to tát của xã hội, cái tốt đẹp của chế độ”: nói cách
khác là để nói những cái đó một cách riêng, ghi dấu ấn cá nhân. Trong khi nói “cái
to tát của xã hội”, “cái tốt đẹp của chế độ”, nhà thơ phải tạo ra được những tâm
trạng điển hình. Đó là một đòi hỏi, một phẩm chất của thơ ca.
Có nhà thơ đã nói: “Thơ chỉ bật ra khi trong tim ta cuộc sống
đã tràn đầy”. Chất liệu cuộc sống trên đường thâm nhập vào tác phẩm đã mang
theo bao nỗi niềm của người sáng tạo. Và khi bài thơ trở lại với cuộc đời, nó đã
in dấu “tâm hồn cá biệt” của nhà thơ. Thật chí lí khi một nhà thơ nước ngoài nói
đại ý: Thế giới nứt làm đôi, vết nứt xuyên qua con tim nhà thơ. Nỗi đau ấy, khi
đến với chúng ta đã “nhuốm máu” người nghệ sĩ. Chất “cá tính” trong thơ làm cho
tác phẩm khỏi “khô khan” và “nhạt nhẽo”, làm cho thư nói được điều ngàn xưa đã
nói mà vẫn mới mẻ như thường. Công chúng đến với thơ đâu phải chỉ để tìm những
tri thức về con người và xã hội, mà họ còn thú vị trước sự độc đáo của một tâm
hồn, trước tài năng của đồng loại. Đọc một bài thơ, người ta nghĩ về cuộc sống,
về con người, về một tâm hồn thơ “cá biệt”. Sự hiện diện của cá nhân người nghệ
sĩ trong bài thơ mở ra cho người đọc nhiều vấn đề có ý nghĩa, gợi lên một sự
say mê, hấp dẫn. Nhà thơ đi sâu vào tâm hồn riêng tư của mình để nói những điều
nhiều người cùng suy nghĩ, cùng quan tâm. Cho nên điều nhà thơ nói đến đối với
chúng ta nhiều khi sâu sắc đến lạ kỳ. Tính cá thể trong lao động thơ đã góp phần
làm nên sức mạnh đặc trưng của thơ. Con người mà nhà thơ để lại trong thơ của mình
phải là con người có cá tính. Chúng ta cần sự độc đáo của cá tính ấy, do đó mỗi
nhà thơ nên có một phong cách thơ.
Rõ ràng, sáng tác thơ là một công việc rất đặc biệt, rất khó
khăn, đòi hỏi người nghệ sĩ phải hình thành một cá tính sáng tạo. Tuy vậy - theo Xuân Diệu - tuyệt nhiên không nên thổi phồng cái cá biệt, cái độc đáo ấy lên
một cách quá đáng. Điều đó không hợp với thơ và không phải là phẩm chất của người
làm thơ chân chính. Hãy sáng tác thơ một cách tự nhiên, bình dị, phải đấu tranh
để cái việc tự sáng tạo ấy không trở thành “anh hùng chủ nghĩa”. Trong khi sáng
tác, nhà thơ không thể cứ chăm chăm nghĩ rằng mình phải ghi dấu ấn của mình vào
trong bài thơ này, tập thơ nọ. Chính trong quá trình lao động, dồn toàn tâm, toàn
ý, bằng xúc cảm tràn đầy, có thể nhà thơ sẽ tạo ra được bản sắc riêng biệt một
cách tự nhiên, nhà thơ sẽ hiểu hiện được cái cá biệt của mình trong những giây
phút cầm bút.
Tính đặc thù của thư đòi hỏi cái “tôi” của nhà thơ phải có chỗ
đứng đặc biệt, nhất là đối với thơ trữ tình, ở nước ta, có lẽ dòng văn học lãng
mạn là dòng văn học trong đó có các nhà thơ sớm có ý thức về cái “tôi” của mình.
Câu thơ của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám:
Ta là một, là riêng, là duy nhất
Không có chỉ bè bạn nổi cùng ta.
Vừa có cái ngạo nghễ, cực đoan của một nhà thơ trẻ sớm được xã
hội thừa nhận, song vừa là sự khẳng định cái cá biệt, độc đáo - một yêu cầu không
thể hiểu được của quá trình sáng tạo nghệ thuật, nhất là thơ ca
Nhà thơ phải có cá tính, có sự độc đáo. Những phẩm chất đó sẽ
khắc chạm thơ anh vào tâm trí người đọc, khẳng định sự tồn lại của tác phẩm nghệ
thuật. Thơ vốn cần có cá tính, cá tính này có giá trị thẩm mỹ, để thông qua tâm
hồn nhà thơ nói lên những điều mọi người cùng trăn trở, lo toan. Lời tâm sự của
Xuân Diệu thật đúng đắn cả về lí luận cũng như trên thực tế sáng tác. Lời tâm sự
ấy rút ra từ chính cuộc đời làm thơ, sống hết mình với thơ của Xuân Diệu và nhớ
đến những vần thơ bỏng cháy yêu thương rất Xuân Diệu: Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn
vào ngươi!
Hãy đập vào tim anh. Thiên tài là ở đó. Khi ấy những bài thơ
của riêng anh sẽ ra đời. Đó cũng chính là bài thơ của mọi người, bài thơ thơ nhất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét