Chương 6. Shaktipat:
Bí ẩn của điện thân thể
Bí ẩn của điện thân thể
Trong hoàn cảnh của thể thứ bẩy, Thầy đã nói về aum hôm qua. Vẫn còn có một câu hỏi nhỏ về cùng chủ đề này. Luân xa nào tạo ra ảnh hưởng a, u, và m và làm sao điều này lại có ích cho thiền nhân?
Hôm qua tôi đã nói với các bạn đôi điều về aum. Còn vài điều nữa cũng đáng biết trong cùng hoàn cảnh này. Trước hết, aum là biểu tượng cho thể thứ bẩy, chỉ dẫn về bình diện thứ bẩy. Đó là một biểu tượng của trạng thái thứ bẩy mà không thể nào diễn đạt được bằng bất kì lời nào. Không từ nào có thể được gắn hay được sử dụng trong mối liên hệ với nó. Vậy, một lời vô nghĩa đã được tìm ra - một lời mà không có nghĩa gì cả. Điều này tôi đã nói với các bạn hôm qua. Việc tìm kiếm cho lời này đã được tiến hành qua việc kinh nghiệm về thể thứ tư.
Điều này không phải là tìm kiếm bình thường. Thực tại, khi tâm trí đã hoàn toàn trống rỗng, không còn bất kì tiếng hò hét của từ ngữ, thậm chí không còn đến một gợn sóng ý nghĩ nữa, chỉ thế thì âm thanh của hư không mới còn lại. Hư không cũng nói đấy; hư không có âm thanh riêng của nó. Đi và đứng ở một chỗ rất hẻo lánh, nơi mà không có đến một âm thanh và bạn sẽ thấy rằng cái trống rỗng có âm nhạc của riêng nó. Hẻo lánh có loại âm thanh riêng của nó, và trong cái im lặng này chỉ các âm là còn lại - a-u-m. Tất cả các giai điệu và hoà âm đều được phát triển bằng việc hoán đổi và tổ hợp của ba âm cơ bản này. Khi tất cả các lời, tất cả các âm thanh đều vắng lặng, ba âm cơ bản này còn lại.
Cho nên aum là biểu tượng cho trạng thái thứ bẩy, thể thứ bẩy, nhưng âm thanh này đã được hiểu thấu ở bình diện thứ tư. Trong trống rỗng của thể trí, tiếng vang vọng của aum sẽ được bắt lại. Nếu thiền nhân dùng aum này, có thể có hai kết quả. Như tôi đã nói với bạn trước đây, tất cả các bình diện đều có hai khả năng. Việc lặp lại aum có thể đưa tới trạng thái ngủ, trạng thái ngủ mê, và trạng thái này có thể được đưa tới bằng việc lặp lại bất kì lời nào. Việc lặp lại ngân nga về bất kì lời nào đều tác động vào tâm trí như việc vuốt nhẹ lên đầu, điều tạo ra lơ mơ và buồn ngủ.
Cách dùng aum này thường hay xảy ra lắm, bởi vì điều này là dễ dàng. Việc tạo ra âm thanh to của aum và bị mất đi trong nó là rất dễ dàng và thích thú giống như giấc mơ dễ chịu. Phẩm chất của bình diện trí, như được tự nhiên trao cho, là phẩm chất của tưởng tượng và mơ mộng. Nếu tâm trí muốn mơ, nó có thể mơ; việc hưởng thú này là có thể cho nó. Khả năng khác là khả năng của sức mạnh ý chí và tầm nhìn về điều thiêng liêng.
Nếu aum được dùng chỉ như việc lặp lại với tâm trí, tác động của nó sẽ đem lại giấc ngủ thôi miên. Cái được gọi là yoga tandra vốn được đưa lại bởi việc lẩm nhẩm aum. Nhưng nếu aum được phát âm ra với sự chứng kiến đã được thiết lập chắc chắn bên trong; nếu bạn hoàn toàn tỉnh thức và đang lắng nghe âm thanh mà không bị chìm nghỉm vào trong nó, không bị mất đi trong nó; nếu âm thanh này là trên một bình diện và bạn đang đứng trên một bình diện khác như một thính giả, một người quan sát, một nhân chứng; nếu bạn tràn đầy tỉnh thức với âm thanh này - chỉ thế thì khả năng thứ hai mới của bình diện thứ tư có thể bắt đầu làm việc. Thế thì bạn sẽ không đi vào yoga tandra, mà đi vào yoga jagriti, tỉnh thức.
Tôi thường xuyên cố gắng giữ cho bạn tránh xa việc dùng mật chú. Tôi bao giờ cũng khuyên bạn đừng dùng bất kì mật chú nào hay bất kì lời nào, bởi vì có đến chín mươi chín trong số một trăm cơ hội là bạn sẽ đi vào cơn mê tưởng tượng. Có những lí do cho điều này. Bình diện thứ tư là mong manh với giấc ngủ; nó chỉ biết có giấc ngủ. Các rãnh mơ của nó đã có đấy. Nó mơ mọi ngày. Cứ dường như là chúng ta đã đổ nước vào trong phòng này. Sau một chốc nước sẽ chảy khô đi, nhưng nó sẽ để lại dấu vết trên sàn. Thế rồi nếu chúng ta lại đổ nước lên sàn, nước này sẽ lại chảy theo cùng rãnh như trước đây.
Khả năng lớn nhất với việc tụng niệm và mật chú là ở chỗ tâm trí bạn với khuynh hướng mơ mộng sẽ ngay lập tức, bởi chính cái quá trình rất máy móc đó, rơi vào trong việc mơ. Nhưng nếu bạn tràn đầy tỉnh thức và chứng kiến bên trong, quan sát âm thanh aum này mà không hội nhập vào trong nó, không làm mất bản thân mình vào trong nó, thế thì bạn có thể làm cùng công việc đó khi lẩm nhẩm "Tôi là ai?" - điều tôi chủ trương. Bây giờ nếu bạn hỏi "Tôi là ai?" trong trạng thái buồn ngủ và không phải là nhân chứng, cùng lỗi lầm đó vẫn có thể xảy ra tại đây và bạn sẽ đơn thuần mơ mộng. Nhưng khả năng cho điều này xảy ra với "Tôi là ai?" ít hơn với việc lặp lại aum, và có lí cho cho điều đó.
Với aum, không có câu hỏi nào được hỏi cả; nó chỉ là sự đụng chạm nhẹ nhàng. Với "Tôi là ai", có một câu hỏi, không phải đơn thuần là cái vỗ nhẹ. Có một dấu hỏi đi sau "Tôi là ai?" và điều này sẽ giữ cho bạn tỉnh thức. Sự kiện thú vị là khi có câu hỏi trong tâm trí, người ta không thể nào ngủ được. Nếu câu hỏi khó cứ xoáy mãi trong tâm trí bạn suốt cả ngày, nó sẽ làm hỏng cả giấc ngủ đêm của bạn nữa. Câu hỏi sẽ không để cho bạn ngủ. Dấu chấm hỏi là bạn đồng hành của việc không ngủ. Nếu có bất kì câu hỏi nào, bất kì lo âu nào, bất kì tò mò nào trong tâm trí, cũng đều khó ngủ cả.
Tôi gợi ý dùng "Tôi là ai?" thay cho aum bởi vì về cơ bản nó là một câu hỏi, và vì nó là một câu hỏi nên nó là việc tìm kiếm thực sự cho câu trả lời. Trong aum không có câu hỏi; nó không có cạnh góc sắc bén và do đó nó không đập vào bạn. Nó hoàn toàn tròn trịa và không có câu hỏi. Những cái vuốt ve nhẹ nhàng liên tục của nó nói chung chỉ đưa tới giấc mơ tưởng tượng.
Bên cạnh đó, không có giai điệu trong "Tôi là ai?" trong khi aum lại đầy giai điệu. Giai điệu càng lớn, nó sẽ lại càng thúc bách bạn ngủ. "Tôi là ai?", thiếu cân đối như dạng nam tính; aum rất cân xứng như dạng nữ tính: những cái vuốt ve nhẹ nhàng của nó nhanh chóng làm bạn ngủ. Các lời đều có hình dạng và tác động của chúng là khác nhau, sự vang vọng của chúng là khác nhau. "Tôi là ai?" không có giai điệu; khó mà ngủ được với nó. Nếu chúng ta lặp lại "Tôi là ai? Tôi là ai?" gần một người đang ngủ, người đó sẽ tỉnh dậy. Tuy nhiên nếu chúng ta lặp lại "Aum, aum" bên cạnh một người đang buồn ngủ, giấc ngủ của người đó sẽ trở nên sâu hơn bởi vì tác động là khác. Điều này không có nghĩa là aum không có tác dụng. Khả năng vẫn có đấy cho người nào đang đứng sau việc lặp lại như người quan sát, nhân chứng. Nhưng tôi không chủ trương dùng aum cho việc thiền. Có nhiều lí do cho điều này.
Nếu bạn dùng aum cho thiền, thế thì điều không tránh khỏi là nó sẽ trở thành được gắn với thể thứ tư. Aum là biểu tượng cho bình diện thứ bẩy nhưng tiếng vang vọng của nó được kinh nghiệm thấy ở bình diện thứ tư. Một khi bạn bắt đầu thiền về aum, mối quan hệ không tránh khỏi của aum với bình diện thứ tư sẽ tới mà điều đó, sẽ tỏ ra là rào chắn cho tiến bộ hơn nữa. Cho nên có khó khăn này với lời đó. Nó được kinh nghiệm ở bình diện thứ tư nhưng nó được dùng ở bình diện thứ bẩy. Chúng ta không có lời khác cho thể thứ bẩy. Kinh nghiệm của chúng ta về các lời chấm dứt sau bình diện thứ tư.
Chúng ta dùng lời cuối cùng của bình diện thứ tư như biểu tượng cho bình diện thứ bẩy. Không có phương thuốc nào khác, bởi vì từ bình diện thứ năm, bắt đầu trạng thái vô lời; thế rồi bình diện thứ sáu lại hoàn toàn vô lời và bình diện thứ bẩy, là cái hư không tối thượng. Trên đường biên cuối cùng của từ ngữ tại trạng thái thứ tư, nơi chúng ta bỏ lại tất cả từ ngữ, lời cuối cùng nghe thấy được sẽ là aum. Cho nên aum là lời cuối cùng trong cõi lời nói và là lời chủ yếu trong cõi vô lời. Nó ở đường biên nằm giữa cõi lời và trạng thái vô lời. Lời này là chủ chốt cho bình diện thứ tư, nhưng chúng ta không có lời khác gần hơn với bình diện thứ bẩy; tất cả các lời khác đều ở xa đằng sau. Do đó, lời này được dùng cho bình diện thứ bẩy.
Cho nên tôi ưa việc bạn không gắn nó với thể thứ tư. Nó sẽ được kinh nghiệm ở thể thứ tư, nhưng nó nên được giữ như biểu tượng cho bình diện thứ bẩy. Do đó, không cần dùng nó cho việc thiền. Với việc thiền chúng ta nên dùng những phương thức khác sẽ đi xa bình diện thứ tư. Chẳng hạn, "Tôi là ai?" - điều này có thể được dùng trong bình diện thứ tư và cũng có thể bị loại bỏ đi.
Ý nghĩa của aum nên vẫn còn là biểu tượng. Còn có lí do khác cho việc không dùng nó như một phương thức. Cái mà là biểu tượng cho điều tối thượng, không nên bị làm thành phương tiện: nó nên vẫn liên tục là mục đích. Biểu tượng cho điều tuyệt đối nên vẫn là mục đích cho việc đạt tới. Aum là cái mà chúng ta phải đạt tới, cho nên tôi chống lại việc dùng nó theo bất kì cách nào như một phương tiện cho thiền. Nó đã được dùng trong quá khứ với những kết quả bất lợi.
Thiền nhân người thực hành với âm aum coi bình diện thứ tư là bình diện thứ bẩy, bởi vì biểu tượng của bình diện thứ bẩy được kinh nghiệm thấy ở bình diện thứ tư. Khi nó được kinh nghiệm ở bình diện thứ tư, thiền nhân trở nên tin rằng mình đã đạt tới bình diện thứ bẩy. Người đó coi điều này như đích của cuộc hành trình; do vậy, gây ra tai hại lớn cho bình diện tâm lí. Thế thì thiền nhân dừng lại ở đây.
Có nhiều thiền nhân coi linh ảnh, mầu sắc và âm thanh bên trong là việc đã đạt tới đích. Điều này là tự nhiên, bởi vì biểu tượng của điều tối thượng được cảm thấy trên biên giới của bình diện này. Thế thì họ cảm thấy rằng họ đã đạt tới đích. Cho nên tôi không thiên về việc bắt phải thực hành aum cho những người ở thể thứ tư, vì kĩ thuật này sẽ không có tác dụng lên các thể thứ nhất, thứ hai và thứ ba. Tác động của nó sẽ được cảm thấy chỉ ở thể thứ tư. Đây là lí do tại sao các lời khác được dùng lại gây ra tác động cần thiết lên các thể thứ nhất, thứ hai và thứ ba.
Cần phải xem xét thêm một điểm nữa liên quan tới các âm cơ bản a-u-m. Lấy một thí dụ, Kinh Thánh không nói rằng Thượng đế tạo ra thế giới; ngài không tiến hành hành động sáng tạo. Nó nói, "Thượng đế đã nói, ‘ánh sáng có đấy,’ và đã có ánh sáng." Thượng đế đã phát âm ra lời. Kinh thánh cũng nói, "Lúc ban đầu đã có lời" - và nhiều kinh sách cổ đã xác nhận cùng điều này. Chính ngay lúc ban đầu đã có lời và tất cả những cái khác đều theo sau đó. Bây giờ thậm chí ngay ở Ấn Độ chúng ta cũng nói, "Lời là Brahman," mặc dầu điều này gây ra rất nhiều hiểu lầm. Nhiều người có khuynh hướng tin rằng lời là đủ cho việc đạt tới Brahman. Brahman chỉ được đạt tới trong trạng thái vô lời. "Lời là Brahman" có nghĩa là chỉ lời này, cái lời mà từ đó phát sinh ra tất cả các âm thanh chúng ta biết, dạng tinh tế nhất của các âm thanh, là lời về.
Nếu chúng ta đi ngược lại, ngược nữa, ngược mãi trở về ngọn nguồn của vũ trụ cho tới khi chúng ta về tới cái hư không mà từ đó thế giới phải đã bắt đầu, ở đấy nữa chúng ta cũng sẽ nghe thấy tiếng vang vọng của aum. Khi chúng ta tiến tới gần hơn cái hư không bằng việc đi vào bình diện thứ tư, chúng ta sẽ nghe thấy âm thanh của aum. Từ đây chúng ta bắt đầu rơi vào trong thế giới mà phải vẫn đã có đó từ lúc bắt đầu. Từ bình diện thứ tư chúng ta đi tới thể tâm linh; từ đó tới thể vũ trụ, và cuối cùng tới thể niết bàn. Tiếng vang vọng cuối cùng, được nghe thấy giữa hai thể cuối, cũng là tiếng vang vọng của aum.
Một mặt là tính cá nhân của chúng ta về bốn thể mà ta vẫn gọi là thế giới vật chất, và mặt khác là tính không cá nhân của chúng ta mà ta có thể gọi là Brahman. Tiếng vang vọng làm rung động trên đường biên của hai thế giới này là aum. Từ kinh nghiệm này chúng ta đi tới hiểu ra rằng khi thế giới vật chất đã thành hình dạng từ Brahman, tiếng vang vọng của aum phải đã rung lên liên tục. Do vậy, mới có lời. Cho nên mới có niềm tin là mọi điều đều đi vào sự hiện hữu qua lời. Nếu lời bị chia thành các thành phần cơ bản, chúng ta thấy ba âm cơ bản a-u-m trong nó. Tổ hợp này là aum.
Cho nên bởi lí do này mà người ta nói rằng đã có aum ngay từ đầu và sẽ có aum vào lúc kết thúc. Cái kết thúc có nghĩa là chuyển trở về cái bắt đầu, và do vậy vòng tròn được hoàn chỉnh. Vậy mà tôi bao giờ cũng cảm thấy rằng aum chỉ nên được dùng như biểu tượng chứ không như kĩ thuật thiền. Những điều khác, có thể được dùng như các phương thức. Âm thanh thuần khiết như aum, không nên bị làm thành mất thuần khiết bởi việc dùng nó như một kĩ thuật.
Nhiều người không hiểu tôi. Họ tới tôi và nói, "Sao thầy cấm việc nhẩm aum?" Có lẽ họ nghĩ rằng tôi là kẻ thù của aum, nhưng sự kiện là ở chỗ bản thân họ là kẻ thù của aum. Một lời thuần khiết như thế không nên bị dùng như một phương tiện cho việc phát triển tâm linh. Thực tế, lưỡi chúng ta không đáng để phát âm ra nó; nó quá thuần khiết không nên để thốt ra từ thể vật lí. Nó là một lời mà bắt đầu tại nơi lưỡi trở thành vô nghĩa, nơi thân thể trở thành vô dụng. Tại đấy trở đi có tiếng vang vọng của nó và tiếng vang vọng này rung động theo ý riêng của nó.
Nó có thể được kinh nghiệm; nó không thể được tạo ra. Do đó, aum phải được kinh nghiệm chứ không phát âm ra.
Có một nguy hiểm khác. Nếu bạn dùng aum như một kĩ thuật, bạn sẽ chẳng bao giờ biết tới âm thanh cơ bản của lời này khi nó phát sinh từ sự tồn tại, bởi vì việc phát âm của riêng bạn sẽ bị áp đặt lên nó. Cho nên bạn sẽ chẳng bao giờ chứng kiến biểu lộ thuần khiết nhất của nó. Bất kì ai dùng âm thanh của aum như một kĩ thuật, cũng chẳng bao giờ kinh nghiệm được aum trong thực tại. Bằng việc thực hành liên tục họ sẽ đặt chồng chất sắc thái của riêng mình lên tiếng vang vọng thực tại khi nó tới. Thế thì họ sẽ không thể nào nghe thấy tiếng vang dội thuần khiết của aum. Họ không nghe thấy tiếng vang vọng trực tiếp của hư không bởi vì họ tràn đầy với âm thanh riêng của mình. Điều này là tự nhiên, bởi vì cái mà chúng ta quen thuộc, trở thành được khắc ghi vào chúng ta. Do đó, tôi nói rằng tốt hơn cả là đừng quen thuộc với aum; tốt hơn cả là đừng dùng aum. Một ngày nào đó nó sẽ xuất hiện ở thể thứ tư và thế thì nó sẽ có ý nghĩa nào đó.
Sự xuất hiện của nó ở thể thứ tư sẽ có nghĩa là bạn đã đạt tới những giới hạn của thể thứ tư. Bây giờ bạn sắp bước ra ngoài thể tâm lí, ra ngoài cõi lời nói. Lời cuối cùng đã tới và bây giờ bạn đứng ở nơi lời bắt đầu; bạn đứng ở nơi toàn bộ thế giới đã đứng ở lúc bắt đầu; bạn đứng ở ngưỡng cửa của sáng tạo. Và thế thì, khi giai điệu của riêng nó bắt đầu tuôn chảy, cái duyên dáng của nó không thể nào diễn tả nổi. Không có cách nào để mô tả nó. Âm nhạc hay nhất của chúng ta cũng không thể nào so sánh được với tiếng vọng nhỏ bé nhất của nó. Dù chúng ta cố gắng vất vả đến đâu đi chăng nữa, chúng ta cũng chẳng thể nào nghe thấy âm nhạc này của im lặng với tai hướng ra ngoài. Do đó, tốt hơn cả là chúng ta không có bất kì ý tưởng định sẵn gì về nó. Chúng ta đừng gắn cho nó bất kì hình dạng hay mầu sắc nào bằng không, chúng ta sẽ bị trí tưởng tượng của mình bắt lại và điều này sẽ là chướng ngại.
Khác biệt về điện sinh học giữa đàn ông và đàn bà vẫn còn cho tới thể thứ tư. Liệu điều này có nghĩa là tác động của người trung gian nam hay người trung gian nữ là khác nhau đối với thiền nhân nam hay nữ không? Nếu vậy, xin Thầy giải thích tại sao.
Nhiều điều sẽ phải làm sáng tỏ trong hoàn cảnh này. Như tôi đã nói trước đây, khác biệt giữa nam và nữ tồn tại cho tới thể thứ tư. Sau thể thứ tư, không có khác biệt. Thể thứ năm vượt ra ngoài bất kì khác biệt nào về giới tính. Nhưng khác biệt là rất cơ bản cho tới thể thứ tư, và khác biệt cơ bản này sẽ đem tới nhiều loại kết quả. Trước hết chúng ta hiểu về thể nam rồi chúng ta sẽ chuyển sang thể nữ.
Thể đầu tiên của đàn ông là nam tính, thể thứ hai là nữ tính, thể thứ ba lại là nam tính, và thể thứ tư là nữ tính. Với đàn bà, vấn đề ngược lại: thể đầu tiên của cô ấy là nữ tính, thể thứ hai là nam tính, thể thứ ba lại là nữ tính và thể thứ tư là nam tính. Có khác biệt căn bản bởi vì điều này. Chính những khác biệt này đã ảnh hưởng sâu sắc lên toàn bộ lịch sử và tôn giáo của loài người và đã đem lại cho văn hoá của con người một kiểu trật tự đặc biệt.
Có một số đặc trưng duy nhất cho thể nam và một số đặc trưng và đặc thù cho thể nữ. Những đặc trưng này bù trừ lẫn cho nhau. Thực tế, thể nữ là không đầy đủ và thể nam cũng không đầy đủ; do đó, trong hành động sáng tạo họ phải hợp nhất. Việc hợp nhất này có hai loại. Nếu nam A hợp nhất với nữ B ở bên ngoài, việc sáng tạo con cái sẽ xảy ra. Nếu nam A hợp nhất với nữ B bên trong bản thân mình, việc sáng tạo xảy ra hướng về Brahman. Đây là cuộc hành trình hướng tới Thượng đế, trong khi việc hợp nhất bên ngoài là cuộc hành trình hướng tới tự nhiên. Tuy nhiên, dục đều được bao hàm trong cả hai: nếu thể nam hợp nhất bên ngoài với thể nữ, bào thai xuất hiện; nếu thể nam hợp nhất với thể nữ bên trong của riêng nó, thế thì cũng có dục xảy ra. Trong trường hợp thứ nhất năng lượng được phát ra ngoài; trong khi ở trường hợp thứ hai, năng lượng bắt đầu chuyển vào bên trong. Đây là điều vẫn được biết tới như việc dâng lên của năng lượng dục: nó là sự hợp nhất với người đàn bà bên trong.
Năng lượng bao giờ cũng chảy từ nam sang nữ bất kể liệu nó xảy ra bên ngoài thân thể hay bên trong thân thể. Nếu năng lượng dục của thể vật lí của nam chảy sang thể ê te nữ bên trong người đó, nó không bị phát tán đi. Thế thì xảy ra điều vẫn được biết tới là brahmacharya - vô dục. Thế thì năng lượng chảy lên liên tục; nó đạt tới thể thứ tư. Sau thể thứ tư brahmacharya không có ý nghĩa, bởi vì chẳng có gì giống như nam và nữ ở đó cả.
Đó là lí do tại sao đi qua bình diện thứ tư, thiền nhân không là nam cũng chẳng là nữ. Khái niệm về ardhanarishwar - thần Shiva nửa đàn ông nửa đàn bà - đi vào hiện hữu với thể thứ nhất và thứ hai trong tâm trí. Nhưng điều này đơn thuần vẫn còn là biểu tượng và chúng ta chẳng bao giờ hiểu nó. Shiva là không đầy đủ và Parvati cũng vậy. Cùng nhau họ trở thành một. Cho nên chúng ta đã vẽ ra bức tranh về Shiva nửa đàn ông, nửa đàn bà, nhưng trong cuộc sống đời thường, nửa kia là không thấy được ở bên ngoài. Nó bị che khuất đằng sau mỗi chúng ta. Bên ngoài của bạn là nam và nửa kia là nữ, và đây là lí do tại sao những sự kiện rất khôi hài đôi khi lại xảy ra.
Đàn ông trong thế giới bên ngoài dù bạo dạn và mạnh mẽ như thế nào, dù có ảnh hưởng tới đâu - dù người đó có là Alexandre Đại đế hay Napoleon hay Hitler, dù là trong văn phòng, trong cửa hiệu hay trong chợ, người đó sống như con sư tử cả ngày, nhưng buổi tối, tất cả vẻ vênh vang của người đó đều mất đi trước người đàn bà đơn giản trong nhà mình. Điều này là rất kì lạ. Đâu là lí do nằm sau điều này? Sự kiện là ở chỗ người đó sử dụng thể nam của mình mười hai hay mười bốn giờ và sau thời gian đó, thể thứ nhất của anh ta trở nên mệt mỏi. Khi anh ta về tới nhà, thể thứ nhất yêu cầu nghỉ ngơi. Thế thì thể thứ hai là nữ lại tiến lên trước và thể nam, lùi lại thứ yếu.
Bây giờ người vợ đã dùng thể thứ nhất của mình cả ngày dài, cho nên vào buổi tối thể nam đằng sau cô ấy lại nổi lên. Thế thì người đàn bà bắt đầu hành xử như đàn ông còn người đàn ông, hành xử như đàn bà.
Cần phải ghi nhớ rằng giao hợp với thể nữ bên trong của riêng mình là phương pháp cho phép luồng năng lượng sống đi lên. Quá trình này có nhiều chi tiết bên trong hơn, nhưng chúng ta sẽ không nói về điều đó bây giờ.
Một điều nữa: năng lượng bao giờ chảy từ nam sang nữ. Phẩm chất quan trọng nhất của thể nam là ở chỗ nó không tiếp nhận; nó bao giờ cũng năng nổ. Nam có thể cho nhưng anh ta không thể nhận. Không có luồng chảy từ nữ sang nam; nó bao giờ cũng chảy từ nam sang nữ. Nữ là tiếp nhận. Cô ấy có thể nhận nhưng cô ấy không thể cho.
Có hai kết quả của điều này và và cả hai đều đáng biết. Kết quả thứ nhất là ở chỗ vì đàn bà có tính tiếp nhận cho nên cô ấy chẳng bao giờ có thể trở thành người cho shaktipat; shaktipat không thể xảy ra qua cô ấy. Đây là lí do tại sao có ít bậc thầy nữ trên thế giới đến thế, cũng không có bậc thầy nữ nào ngang tầm Phật và Mahavira. Lí do là ở chỗ không năng lượng nào có thể được truyền cho bất kì ai qua cô ấy. Chính sự kiện là đàn bà tụ tập với số lượng rất lớn quanh Phật, Mahavira và Krishna, nhưng không người đàn bà nào với tầm vóc như Krishna lại đã được sinh ra mà quanh người này hàng triệu đàn ông tụ tập lại. Lí do cho điều này nằm ở chỗ đàn bà chỉ có thể là người nhận.
Một sự kiện thú vị là quanh một người như Krishna có rất ít đàn ông nhưng rất nhiều đàn bà. Cũng điều ấy xảy ra với Mahavira: có mười nghìn sư nam và bốn mươi nghìn sư nữ. Tỉ lệ bao giờ cũng là bốn trên một. Nếu có một đàn ông, bao giờ cũng có bốn đàn bà quanh ông ấy. Đàn ông không thể nào ưa thích Mahavira như đàn bà, bởi vì cả họ và Mahavira đều là đàn ông. Điều mà Mahavira phát ra, đàn bà có thể hấp thu được. Nhưng đàn ông là người không hấp thu; tính tiếp nhận của họ rất giới hạn. Do đó, mặc dầu chính đàn ông là người cầm đầu tôn giáo nhưng chính đàn bà là người bao giờ cũng bảo vệ và gìn giữ nó; chính đàn bà mới là người gìn giữ tôn giáo trên trái đất. Đàn ông chỉ là người tiên phong trong tôn giáo.
Đàn bà có tính tiếp nhận; phẩm chất của thân thể cô ấy là tiếp nhận. Cô ấy có phẩm chất này về mặt sinh học nữa. Cô ấy mang thai đứa trẻ trong chín tháng, rồi sau đó cô ấy cũng phải nuôi dưỡng nó lớn lên; vậy, cô ấy phải có tính tiếp nhận. Tự nhiên không trao công việc như vậy cho đàn ông. Anh ta trở thành bố chỉ trong khoảnh khắc và thế rồi anh ta bước ra khỏi bức tranh. Đàn bà nhận lấy tinh trùng và rồi giữ nó lại. Sự kiện này cũng xảy ra trong shaktipat nữa. Do đó, trong shaktipat đàn ông không thể nào nhận được từ đàn bà. Đây là nói chung như vậy; có thể có những ngoại lệ. Về những trường hợp hiếm hoi này tôi sẽ nói về sau. Đôi khi điều này có thể xảy ra, nhưng với các lí do khác nhau.
Thông thường, shaktipat không xảy ra qua thể nữ. Bạn có thể gọi đây là nhược điểm của thể nữ. Nhưng cô ấy có phẩm chất khác bù lại - sức mạnh và năng lực để nhận shaktipat nhanh chóng. Đàn ông có thể truyền dẫn shaktipat nhưng anh ta không thể nào nhận được nó. Do đó, shaktipat cũng khó khăn để truyền từ đàn ông sang đàn ông bởi vì thiền nhân nam không mang tính tiếp nhận; đấy là cá tính của anh ta. Tại chính bước đầu tiên, nơi đó anh ta phải bắt đầu, nam tính đứng trong anh ta không mang tính tiếp nhận. Có những giáo phái trong đó người đàn ông thực hiện công phu tâm linh bằng việc tự coi mình là đàn bà. Đây là một phương pháp làm cho anh ta thành có tính tiếp nhận. Thậm chí như vậy, đàn ông vẫn không trở nên mang tính tiếp nhận. Đàn bà trở nên mang tính tiếp nhận không khó khăn gì vì cô ấy về bản chất là tiếp nhận rồi. Do đó, trong shaktipat đàn bà bao giờ cũng cần người trung gian. Tại sao cô ấy không thể nào nhận được ân huệ trực tiếp, xin hiểu cho rõ.
Shaktipat xảy ra từ thể thứ nhất. Nếu tôi truyền dẫn shaktipat, nó xảy ra cho thể thứ nhất của bạn. Năng lượng sẽ nổi lên từ thể thứ nhất của tôi và đập vào thể thứ nhất của bạn. Nếu bạn là đàn bà, điều này sẽ xảy ra nhanh chóng. Nếu bạn là đàn ông, thế thì điều đó sẽ cần thêm nỗ lực; điều đó sẽ khó khăn. Sâu đâu đó bên trong, bạn sẽ phải thu được trạng thái buông xuôi hoàn toàn. Chỉ thế thì mới có thể; bằng không, không thể được. Đàn ông không buông xuôi; dù anh ta có cố gắng vất vả đến đâu, anh ta cũng vẫn không thể nào buông xuôi được. Cho dù anh ta nói "Tôi buông xuôi,", điều ấy vẫn cứ là theo cách hùng hổ. Nói cách khác, chính bản ngã đang tuyên bố về hành động buông xuôi. Nó nói, "Nhìn đây! Tôi buông xuôi đấy." Cái ‘tôi’ đứng đằng sau vẫn không rời bỏ anh ta.
Đàn bà không phải buông xuôi: cô ấy đã buông xuôi rồi; đấy là bản tính của cô ấy. Buông xuôi là phẩm chất của thể thứ nhất của cô ấy. Cô ấy rất tiếp nhận. Do đó, shaktipat xuất phát từ đàn ông xảy ra dễ dàng bên trong cô ấy. Từ đàn ông sang đàn ông điều ấy là rất khó khăn và từ đàn bà sang đàn ông, gần như là không thể được. Từ đàn ông sang đàn ông, dù là khó khăn những vẫn còn có thể được. Nếu có một người đàn ông với uy quyền lớn, người đó có thể đưa người khác về điều kiện gần như đàn bà. Shaktipat qua đàn bà về mặt thực tế là không thể có được, bởi vì trong khoảnh khắc xảy ra đó, cô ấy có khuynh hướng hấp thu luôn năng lượng sống vào mình. Thể thứ nhất của cô ấy giống như bọt biển và hút mọi thứ vào đó.
Cho tới giờ chúng ta đã nói về shaktipat. Trong trường hợp của ân huệ, điều kiện cũng giống hệt. Ân huệ tới từ thể thứ tư. Thể thứ tư của nam là nữ tính cho nên anh ta nhận ân huệ rất dễ dàng. Vì thể thứ tư của đàn bà là nam tính cho nên cô ấy kinh nghiệm cùng khó khăn đối với ân huệ: cô ấy không thể nào nhận được ân huệ một cách trực tiếp. Thể thứ tư của đàn ông là nữ tính; do đó Mohammed, Moise, Jesus đều ngay lập tức thiết lập được quan hệ với Thượng đế. Vì thể thứ tư là nữ tính trong họ, cho nên họ có khả năng hấp thu ân huệ ngay khi nó giáng xuống họ.
Nữ có thể thứ tư là nam tính. Thể nam của cô ấy là ở cực điểm này, và điều này làm cho cô ấy không thể nào nhận được ân huệ. Do đó, nữ không có thông điệp trực tiếp; tức là không người đàn bà nào có thể tuyên bố rằng mình đã biết tới Brahman. Thể thứ tư của cô ấy là nam tính nên gây ra cản trở. Cô ấy không thể nào nhận được từ đầu đó.
Đàn ông nhận ân huệ trực tiếp. Thật khó cho anh ta nhận nó từ ai đó, như trong shaktipat, bởi vì bản thân anh ta là rào chắn ở đó. Nhưng điều ấy không đúng cho đàn bà. Cô ấy có thể nhận shaktipat từ bất kì người trung gian nào. Ngay cả một người rất yếu cũng có khả năng thực hiện shaktipat cho đàn bà. Đây là lí do tại sao ngay cả những người trung gian rất tầm thường cũng thành công trong việc này. Shaktipat ít phụ thuộc vào bản thân người trung gian và phụ thuộc nhiều vào tính tiếp nhận của người nhận. Nhưng đàn bà bao giờ cũng đòi hỏi có trung gian. Rất khó cho họ đạt tới mà không có trung gian, bởi vì thế thì không biến có nào có thể xảy ra.
Chúng ta đã nói về trạng thái thông thường của những điều này. Những điều kiện phi thường cũng có thể được tạo ra. Chính vì quá trình thông thường của những điều này mà có ít thiền nhân nữ hơn. Điều này không có nghĩa là đàn bà không kinh nghiệm Thượng đế; họ đã kinh nghiệm Thượng đế nhưng bao giờ cũng có người trung gian ở giữa. Mặc dầu không đáng kể, người trung gian bao giờ cũng phải hiện diện; họ có kinh nghiệm của mình qua người trung gian. Một điều khác: có thể có những khác biệt được gây ra bởi những điều kiện bất thường. Chẳng hạn, ân huệ xảy ra trong đàn bà trẻ thì khó khăn hơn; nó dễ dàng hơn chút ít trong đàn bà già.
Một sự kiện thú vị là ở chỗ trong toàn bộ cuộc đời, giới tính của chúng ta luôn linh động; chúng ta không có cùng tỉ lệ nam-nữ trong suốt cuộc đời. Có thay đổi liên tục; tỉ lệ này luôn thay đổi. Cho nên có việc là đàn bà mọc râu mép và cằm vào những năm sau. Thậm chí giọng nói của người đó cũng thay đổi vào quãng năm mươi tuổi và việc ấy trở thành sâu sắc hơn, giống với đàn ông nhiều hơn. Giọng nữ sẽ mất đi. Tỉ lệ của cô ấy thay đổi; nhân tố nam nổi lên và nhân tố nữ giảm đi. Thực tại, công việc mang tính đàn bà của cô ấy đã kết thúc. Sự gắn bó sinh học cho tới độ tuổi bốn mươi nhăm nay không còn nữa. Cô ấy không còn gắn với nữ tính trong mình, cho nên khả năng của ân huệ nhiều hơn ở người đàn bà lớn tuổi. Điều này là như vậy bởi vì yếu tố nam tính tăng lên trong thể thứ nhất của cô ấy còn yếu tố nữ tính giảm đi trong thể thứ hai của ấy. Cũng vậy, yếu tố nam tính trong thể thứ tư của cô ấy giảm đi và yếu tố nam tính trong thể thứ ba của cô ấy tăng lên. Cho nên ân huệ là có thể trong đàn bà già.
Đàn bà rất già, trong những điều kiện nào đó có thể hành động như người trung gian cho đàn bà trẻ. Người đàn bà rất già, gần một trăm tuổi, không còn dấu vết gì trong tâm trí rằng mình là đàn bà, có thể hành động như trung gian cho cả đàn ông nữa. Nhưng điều này sẽ là việc khác. Điều tương tự cũng hệt cho đàn ông: khi đàn ông già đi, những nét nữ tính của người đó tăng lên. Ông già nói chung hành xử như đàn bà. Nhiều nét nam tính mất đi trong cá tính của họ và những nét nữ tính phát triển.
Trong mối liên quan này cần biết rằng nhân cách của bất kì ai nhận ân huệ trong thể thứ tư, đều phát triển những nét nữ tính. Chẳng hạn, nếu như chúng ta xem xét thân thể hay nhân cách của Mahavira hay của Phật, họ có vẻ mang nhiều nét nữ tính hơn là nam tính. Những nét mềm mại và đẹp đẽ của đàn bà được tổ hợp với tính tiếp nhận nữ tính được tăng lên trong họ. Tính cách hùng hổ đã rời bỏ họ, và do vậy họ trở thành tràn đầy không bạo hành, từ bi và tình yêu; bạo hành và giận dữ bị xua đuổi đi vĩnh viễn.
Nietzsche đã buộc tội Phật và Jesus là lại gái và ông ta nói rằng bởi lí do đó họ phải không được tính là đàn ông. Họ không có phẩm chất đàn ông và họ đã thành công trong việc làm cho toàn bộ thế giới thành nữ tính. Có đôi điều chân lí trong lời phàn nàn của ông ta. Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng chúng ta đã vẽ Phật, Mahavira, Krishna và Rama không ria mép hay râu. Không phải là họ đã không có râu ria, nhưng vào lúc chúng ta vẽ tranh họ, nhân cách của họ đã trở thành tràn đầy phẩm chất nữ tính; vậy, râu và ria sẽ bị gạt đi. Chúng ta vứt bỏ râu ria bởi vì chúng không còn thích hợp cho cách thức nữ tính của họ.
Một sự vụ như thế đã xảy ra trong trường hợp của Ramakrishna. Hoàn cảnh của ông có thể trở thành trường hợp duy nhất cho các nhà khoa học. Một điều rất kì lạ đã xảy ra. Về sau đệ tử ông đã cố gắng che giấu những sự kiện này - bởi vì làm sao họ có thể nói được về nó? Vú của Ramakrishna nở to và ông ấy thấy kinh. Điều này là biến cố rất kì lạ - chúng ta có thể nói đấy là phép màu. Tính cá nhân ông trở thành nữ tính đến mức ông ấy bước đi như đàn bà và nói như đàn bà, và trong một trường hợp ngoại lệ như thế thì nhiều điều khác cũng có thể xảy ra. Chẳng hạn, trong hoàn cảnh như thế người ta không thể nào thực hiện shaktipat lên bất kì ai. Nhân cách của ông ấy đã trở thành hoàn toàn nữ tính.
Với sự giúp đỡ của các kĩ thuật thiền của Phật và Mahavira, hàng trăm nghìn người đã đạt tới thể thứ tư. Ngay khi họ đạt tới bình diện thứ tư, nhân cách của họ trở thành nữ tính. Với điều này tôi muốn nói rằng khía cạnh thụ động của bản tính họ đã phát triển. Bạo hành và giận dữ tan biến khi hùng hổ rời bỏ họ; trìu mến, tình yêu, từ bi và không bạo hành tăng lên. Nữ tính đã thành bản tính cố hữu của toàn bộ đất nước này, và cảm giác của tôi là ở chỗ đó chính là nguyên nhân cho rất nhiều cuộc xâm lăng đã xuất hiện ở đây. Tất cả các quốc gia nam tính láng giềng đều thành công trong việc chinh phục nhân cách nữ tính của Ấn Độ.
Theo một cách, một điều rất giá trị đã xảy ra - đó là chúng ta đã kinh nghiệm những điều tuyệt diệu trên bình diện thứ tư. Nhưng trên bình diện của thể thứ nhất, chúng ta thấy mình gặp khó khăn. Mọi thứ đều phải có cái bù trừ. Những người đã được chuẩn bị để bỏ lại các kho báu của bình diện thứ tư, đạt tới của cải và vương quốc của bình diện thứ nhất. Những người không được chuẩn bị để từ bỏ niềm vui của bình diện thứ tư, phải từ bỏ nhiều thứ trên bình diện thứ nhất.
Theo Phật và Mahavira, Ấn Độ mất đi bản chất hùng hổ và trở thành tiếp nhận. Cho nên với bất kì ai tới, chúng ta cũng ở điểm trở thành tiếp nhận; bất kì ai tới, chúng ta đều hấp thu họ vào trong chúng ta. Vấn đề phân biệt chủng tộc với họ không bao giờ xuất hiện trong chúng ta, cứ để cho một mình họ tấn công. Vấn đề đó đã mất đi mãi mãi bởi vì nhân cách chúng ta đã trở thành nữ tính. Ấn Độ đã trở thành một tấm lòng mênh mông chứa chấp tất cả những ai tới với nó. Chúng ta không chối từ ai cả; chúng ta chưa bao giờ cố gắng loại bỏ bất kì kẻ xâm lược nào khỏi chúng ta, bởi vì phẩm cách hiếu chiến cần cho đánh nhau, không còn trong chúng ta nữa. Với những người vĩ đại điều đó đã trở nên bị mất đi, và quảng đại quần chúng, đi theo những người vĩ đại. Và quần chúng phải vẫn bị chi phối bởi họ. Thường dân nghe người vĩ đại nói về không bạo hành, từ bi, và thấy họ sống theo điều đó, cho nên người đó chấp nhận thế giới của họ và vẫn còn im lặng. Người đó có thể chiến đấu nhưng người đó không có người lãnh đạo.
Nếu như lịch sử thế giới được viết lại theo quan điểm tâm linh - khi chúng ta không còn coi các biến cố vật lí là lịch sử mà thay vào đó sẽ bắt đầu coi biến cố trên bình diện tâm thức là lịch sử, đó là lịch sử thật - thế thì chúng ta sẽ hiểu rằng bất kì khi nào một quốc gia chuyển sang tâm linh, nó đều trở thành nữ tính. Và bất kì khi nào nó trở thành nữ tính, các nền văn hoá kém hơn, các nền văn hoá tầm thường hơn, sẽ đánh bại nó. Một sự kiện đáng ngạc nhiên là những người đã xâm chiếm Ấn Độ đều thuộc về những nền văn hoá rất lạc hậu. Theo nhiều cách thức, họ vẫn còn là những kẻ man rợ hoang sơ, dù họ có là người Thổ nhĩ kì hay người Mông cổ hay Mogul. Họ không có văn hoá, nhưng theo một nghĩa nào đó, họ là đàn ông - mặc dầu man rợ - và chúng ta là đàn bà, thụ động. Chúng ta không có cách nào khác hơn việc hấp thu họ vào trong chúng ta.
Cho nên thể nữ tính có thể hấp thu. Do đó, đàn bà cần người trung gian trong khi thể nam tính có thể truyền năng lượng cũng như nhận ân huệ. Đó là lí do tại sao những người như Mahavira đã phải nói rằng đàn bà sẽ phải được tái sinh làm đàn ông để đạt tới chứng ngộ. Đây là một lí do trong số nhiều lí do. Cô ấy không thể nhận được ân huệ trực tiếp. Không nhất thiết là cô ây cứ phải chết đi để trở thành đàn ông. Có những phương pháp mà theo đó việc biến đổi nhân cách có thể được thực hiện. Thể thứ hai có thể trở thành thể thứ nhất của bạn và thể thứ nhất có thể được làm cho lấy vị trí của thể thứ hai. Với điều này có những kĩ thuật về sức mạnh ý chí sâu sắc mà qua đó việc biến đổi vật lí được thực hiện ngay trong chính cuộc đời này.
Có một câu chuyện hay về một trong những tirthankara của người Jaina. Một trong những tirthankara Jaina là một đàn bà có tên là Mallibai. Giáo phái Swetamber gọi bà là Mallibai, trong khi giáo phái Digamber gọi là bà là Mallinath; họ coi bà là đàn ông bởi vì người Jaina thuộc Digamber cảm thấy rằng đàn bà không được mang danh hiệu moksha, giải thoát. Do đó một tirthankara, không thể nào là đàn bà được, và do vậy họ gọi Mallibai là Mallinath. Bây giờ, không nơi đâu khác trong lịch sử loài người lại có tranh luận sôi nổi đến thế về một người. Đã có đủ mọi loại tranh luận khác: về một người cao một mét bẩy hay mét tám, về khi nào người đó được sinh ra, về khi nào người đó chết, nhưng chưa bao giờ có tranh luận sôi nổi về giới tính của người đã trở thành bậc thầy của tranh luận. Giáo phái này tin Mallibai là đàn ông còn giáo phái kia, tin là đàn bà.
Điều tôi cảm thấy là ở chỗ khi Mallibai bắt đầu việc tìm kiếm tâm linh, bà ấy phải là một đàn bà. Nhưng có những phương pháp mà nhờ đó thể thứ nhất có thể được thay đổi thành thể nam, và chỉ sau khi điều này xảy ra, bà ấy mới trở thành tirthankara. Cho nên giáo phái thứ nhất, người coi bà là đàn bà, tôn kính trạng thái thứ nhất của bà ấy; còn giáo phái thứ hai, người coi bà là đàn ông, tôn thờ trạng thái thứ hai của bà ấy. Cả hai đều đúng. Bà ấy là một đàn bà nhưng bà ấy phải đã biến thành đàn ông. Con đường của Mahavira là con đường mà bất kì người đàn bà nào đi qua, cô ấy nhất định phải trở thành đàn ông. Con đường của ông ấy không phải là của sùng kính mà là của tri thức, và do vậy nó hoàn toàn năng nổ. Con đường của ông ấy không phải là con đường của tiếp nhận.
Nếu bất kì người đàn ông nào nhảy múa và ca hát trong suốt cả năm trời như Meera, đi ngủ cũng vẫn mang hình ảnh của Krishna trên ngực và coi bản thân mình là người yêu của mình, người đó chỉ còn là đàn ông trên danh nghĩa. Tâm thức người đó sẽ trải qua biến đổi hoàn toàn. Thể thứ nhất sẽ thay đổi và trở thành nữ tính, còn thể thứ hai sẽ thay đổi và trở thành nam tính. Nếu việc biến đổi này là rất sâu sắc, sẽ có những thay đổi về thể chất trong thân thể anh ta nữa; bằng không, thân thể sẽ vẫn còn như cũ. Nhưng tâm trí sẽ không còn như cũ nữa: anh ta sẽ phát triển tâm thức nữ tính. Cho nên trong những trường hợp đặc biệt nhiều điều có thể xảy ra: biến cố của shaktipat có thể xảy ra; không có khó khăn gì. Nhưng điều này không thể là một qui tắc tổng quát.
Shaktipat có thể xảy ra qua người đàn ông và người này có thể nhận ân huệ trực tiếp nữa, nhưng sẽ khó cho đàn bà để đạt tới ân huệ trực tiếp. Cánh cửa ân huệ chỉ mở cho cô ấy thông qua shaktipat. Đây là sự kiện chứ không phải là đánh giá. Không có vấn đề về cao thấp, trên dưới: như thế là sự kiện. Nó cũng giống như là sự kiện đàn ông phóng tinh còn đàn bà nhận tinh. Nếu ai đó hỏi liệu đàn bà có phóng tinh vào đàn ông hay không, chúng ta sẽ phải nói không, bởi vì không có luật tự nhiên cho điều này. Không có vấn đề về liệu một người là ở trên hay ở dưới. Nhưng tất cả các cách thức đánh giá đều nảy sinh từ sự kiện này. Đàn bà bị coi như thấp kém bởi vì cô ấy là người nhận. Thế thì giá trị của người cho mới được tôn lên.
Khác biệt về địa vị giữa đàn ông và đàn bà trên khắp thế giới đều nảy sinh từ sự kiện là đàn ông coi mình là người cho, người cung cấp, trong khi đàn bà coi mình là người nhận. Nhưng ai nói rằng người nhận cứ phải là thấp kém? Và nếu không có ai là người nhận, người cho sẽ còn có ích gì nữa? Và ngược lại: nếu không có người cho, người nhận phỏng còn có ích gì? Chẳng có gì cao thượng hay thấp kém trong đó cả. Thực tế, cả hai đều là phần bổ sung cho nhau và cả hai đều không thể độc lập với nhau. Họ là phụ thuộc lẫn nhau; họ bị gắn vào nhau. Những người này không phải là các thực thể tách biệt, nhưng thay vì thế là hai mặt của cùng một đồng tiền mà trong đó một người cho và người kia nhận.
Tuy nhiên thông thường, chính khái niệm về người cho làm nảy sinh bức tranh về cao thấp trong tâm trí chúng ta. Không có lí do gì tại sao người nhận lại phải thấp kém. Nhiều điều được gắn với điều này, tuy nhiên, địa vị của người đàn bà đã được chấp nhận là thứ hai so với đàn ông. Không chỉ đàn ông mà ngay cả đàn bà cũng đã chấp nhận địa vị này. Thực tế, cả hai đều đứng đầu trong vị trí tương ứng của mình - anh ấy là đàn ông và cô ấy là đàn bà. Không có vị trí thứ hai; cả hai là phần bù của nhau.
Bây giờ khái niệm này đã có những hậu quả rộng rãi trong nhiều lĩnh vực và nó đã xâm nhập vào toàn bộ nền văn minh và văn hoá của chúng ta. Đó là lí do tại sao mà đàn ông đi săn - bởi vì anh ta hùng hổ. Còn đàn bà, ngồi ở nhà chờ đợi anh ta; cô ấy chấp nhận anh ta một cách tự nhiên. Anh ta đi ra cánh đồng, anh ta gặt hái mùa màng, anh ta làm việc trong cửa hiệu, anh ta bay trên máy bay, anh ta lên mặt trăng, anh ta đi ra làm đủ mọi thứ đó bởi vì anh ta năng nổ. Đàn ngồi ở nhà chờ đợi anh ta. Cô ấy cũng làm rất nhiều điều nhưng không hùng hổ; nó là tiếp nhận. Cô ấy tạo dựng ngôi nhà cho anh ấy, cô ấy thu nhặt mọi thứ lại, cô ất giữ mọi thứ ngăn nắp đúng chỗ. Trong tất cả các nền văn hoá, nguyên tắc ổn định là thuộc về đàn bà.
Nếu đàn bà không có đó, đàn ông sẽ là kẻ lang thang, gã lêu lổng; anh ta có thể chẳng bao giờ dựng nên được ngôi nhà. Đàn bà hành động như cái cọc. Đàn ông lang thang đây đó nhưng đều phải trở về với cái cọc. Nếu tình huống này mà khác đi, đàn ông sẽ chẳng bao giờ định cư nổi. Thế thì sẽ không có thành phố và thị trấn. Văn hoá thành phố đi vào hiện hữu bởi vì đàn bà muốn ổn định cuộc sống của mình ở một chỗ. Cô ấy bao giờ cũng nài xin đàn ông, "Thôi đủ rồi! Chúng ta dừng lại đi; chúng ta đỗ lại đi. Một chút ít khó khăn có thể tới, nhưng chúng ta đừng đi thêm nữa." Cô ấy chiếm lấy mảnh đất và bắt rễ vào đó. Thế rồi đàn ông phải tạo ra thế giới quanh cô ấy. Đấy là cách thức mà thành phố và thị trấn đi vào hiện hữu. Đây là cách thức tất cả nền văn hoá, văn minh và gia đình, mà người đàn bà tô điểm và làm cho thiêng liêng lên, đã được tạo ra. Cái gì người đàn ông kiếm được hay thu thập được từ bên ngoài cũng chẳng quan trọng, cô ấy lưu giữ lại tất.
Đàn ông chẳng bao giờ quan tâm tới việc để dành. Anh ta kiếm sống, và tại đó vấn đề kết thúc; anh ta không còn quan tâm nữa. Anh ta háo hức và lo âu chừng nào anh ta còn đang tranh đấu với thế giới, thách thức thế giới; chú ý của anh ta bao giờ cũng hướng về chỗ khác để chinh phục. Bất kì cái gì anh ta đem về, có ai đó khác chăm nom nó tất cả, cất giữ nó tất cả, và từng thứ này đều có chỗ riêng của nó, giá trị riêng của nó. Cô ấy là phần bổ sung cho toàn bộ tình huống, nhưng khi cô ấy không đi kiếm sống, khi cô ấy không tích luỹ, khi cô ấy không sáng tạo, với cô ấy dường như là bị tụt lại sau. Cảm giác này đi vào thậm chí từng điều rất nhỏ bé, và ở mọi nơi cô ấy bắt đầu cảm thấy cảm giác thấp kém mà hoàn toàn vô căn cứ.
Sự thấp kém này đưa lại kết quả tai hại. Chừng nào mà người đàn bà còn chưa được giáo dục, cô ấy còn chịu đựng sự thấp kém này, nhưng bây giờ, cô ấy không. Để phá vỡ cảm giác thấp kém này cô ấy đã đi làm đích xác những điều đàn ông làm. Điều này sẽ chứng tỏ điều rất bất lợi cho cô ấy. Cô ấy có thể vi phạm vào nhân cách cơ bản của mình, và điều này có thể có kết quả phá huỷ sâu bên trong tâm lí cô ấy. Bây giờ cô ấy muốn ở cùng cấp bậc với đàn ông, nhưng cô ấy không thể nào giống như đàn ông hoàn toàn được. Cô ấy sẽ chỉ thành công trong việc làm cho bản thân mình thành đàn ông hạng hai; cô ấy không thể nào là đàn ông hạng một được. Cô ấy có thể, nếu cô ấy chọn, làm cho bản thân mình thành hạng nhất trong giới đàn bà của mình.
Không có đánh giá nào trong việc này cả, nhưng đây là những sự kiện về bốn thể này; đó là điều tôi muốn nói.
Trong trường hợp đó, phải có khác biệt trong thực hành tâm linh cho đàn ông và đàn bà.
Sẽ có khác biệt, và điều đó sẽ không phải là trong thực hành tâm linh nhiều như trong trạng thái của tâm trí. Chẳng hạn, khi phương pháp là một và duy nhất, ngay cả thế thì người đàn ông cũng vẫn hăng hái đi vào nó, trong khi đàn bà sẽ đi vào nó theo cách thụ động. Đàn ông sẽ tấn công, đàn bà sẽ buông xuôi. Phương pháp sẽ là một nhưng thái độ sẽ khác. Khi người đàn ông đi vào thực hành tâm linh, anh ta nắm lấy cổ nó, nói đại thể như vậy, nhưng khi đàn bà bắt đầu thực hành tâm linh, cô ấy sẽ gục đầu vào chân nó.
Khác biệt này về thái độ là tự nhiên và không có khác biệt nào nữa giữa hai người hơn điều này. Thái độ của đàn bà sẽ là thái độ của buông xuôi: khi cô ấy đạt tới, cô ấy sẽ không nói rằng cô ấy đã đạt tới Thượng đế; thay vì thế thì cô ấy sẽ nói rằng cô ấy có may là Thượng đế đã đưa cô ấy vào trong ngài. Khi đàn ông đạt tới điều tối thượng, anh ta sẽ không nói rằng Thượng đế đã đưa anh ta vào; anh ta cảm thấy rằng anh ta đã đạt tới Thượng đế. Khác biệt là ở trong cách hiểu của họ. Khác biệt này nhất định là như vậy, nhưng chỉ cho tới thể thứ tư. Sau đó, không có vấn đề về nam và nữ nữa.
Thầy đã nói rằng việc thực hành tụng aum cũng đem lại nada, âm thanh bên trong. Liệu điều đó có tới một cách tự phát hay không? Đâu là nada đúng đắn?
Nếu nó tới một cách tự phát thì có giá trị hơn nhiều. Nếu nó tới với việc lẩm nhẩm aum, nó có thể là tưởng tượng. Cái tới theo ý riêng của nó mới là chân thực, có giá trị. Nếu nada bắt đầu, bạn nên trở thành nhân chứng. Đừng bị hội nhập vào trong nó, bởi vì đó là trạng thái của bình diện thứ bẩy. Nếu bạn định mất đi trong nada trước khi đạt tới bình diện thứ bẩy, bạn sẽ dừng lại ở đó; nó sẽ hành động như cái phanh.
Khi những âm thanh bên trong này trở thành ngày càng tinh tế hơn, việc chứng kiến của chúng ta nữa cũng sẽ phải trở thành ngày càng tinh tế hơn. Chúng ta sẽ phải tiếp tục quan sát tới cùng, khi âm thanh hoàn toàn mất đi.
Tại bình diện nào shaktipat xảy ra cho thiền nhân và tại bình diện nào ân huệ xảy ra? Nếu các thể thứ nhất, thứ hai và thứ ba của thiền nhân còn chưa phát triển đầy đủ, shaktipat và sự thức tỉnh của kundalini sẽ có tác động gì?
Tôi đã nói với bạn rằng shaktipat xảy ra trong thể thứ nhất và ân huệ, ở thể thứ tư. Nếu shaktipat xảy ra trong thể thứ nhất và kundalini chưa thức tỉnh, nó sẽ thức tỉnh - và với tốc độ rất lớn. Thế thì chúng ta sẽ phải rất cẩn thận, bởi vì với shaktipat điều thường xảy ra trong quá trình nhiều tháng sẽ xảy ra trong vài giây. Do đó, trước shaktipat nên có chuẩn bị sâu sắc cho ba thể đầu. Shaktipat bất thần trên một người không được chuẩn bị gì cả, trên bất kì Tom, Dick hay Harry, đều có thể có hại. Do đó, chút ít chuẩn bị là cần thiết trước shaktipat. Không cần phải chuẩn bị phức tạp; chỉ đem ba thể vào hội tụ là đủ. Đó là điều thứ nhất.
Điều tiếp là ở chỗ phải có đường nối giữa ba thể này để cho năng lượng không bị cản trở tại bất kì đâu cả. Nếu shaktipat bị mắc ở bình diện thứ nhất, có thể sẽ nguy hiểm. Nếu nó dàn trải khắp ba bình diện, sẽ không có hại. Nếu nó dừng lại tại bình diện thứ nhất, sẽ rất hại.
Cũng giống như bạn bị giật điện khi đang đứng trên đất: thế thì điều này là có hại. Nhưng nếu bạn đang đứng trên một khung gỗ, sẽ hoàn toàn an toàn: thế thì dòng điện đi qua thân thể bạn và tạo thành một mạch. Nếu mạch này được tạo thành, không có nguy hiểm. Nó chỉ nguy hiểm nếu mạch này bị ngắt. Tất cả năng lượng đều chảy theo cùng một qui tắc: chúng đi theo vòng tròn. Nếu mạch bị ngắt ở giữa, bạn sẽ bị giật. Cho nên nếu bạn đứng trên gỗ, bạn không thể bị giật được.
Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng việc dùng nền gỗ cho thiền không có mục đích nào khác hơn sự kiện là chúng là vật cách điện. Da hươu và da báo đã được sử dụng với cùng lí do: để cho năng lượng được thoát ra bởi việc thiền sẽ không gây ra sốc. Cho nên những chất không dẫn điện này đã được dùng làm chỗ ngồi. Người ta có thể bị chết bởi sốc điện này. Do đó, thiền nhân đi guốc gỗ và ngủ trên tấm phản gỗ. Người đó có thể không biết tại sao mình đã làm tất cả những điều này; người đó đơn thuần tuân theo các qui tắc đã được kinh sách đặt ra. Có lẽ thiền nhân thực hành điều này nghĩ rằng mình đang hành hạ thân thể để cho thân thể không được có bất kì thoải mái nào. Đây không phải là lí do. Mối nguy hiểm là hoàn toàn khác. Vào bất kì lúc nào biến cố cũng có thể xảy ra bên trong thiền nhân từ bất kì nguồn nào không được biết tới. Người này phải được chuẩn bị chu đáo.
Nếu việc chuẩn bị của người đó cho ba thể đầu được hoàn tất, năng lượng người đó nhận được sẽ tạo thành một mạch bên trong người đó. Nếu người đó không sẵn sàng và năng lượng bị cản trở tại ngay chính thể thứ nhất, điều đó là có hại. Do đó, việc chuẩn bị tối thiểu này là cần thiết để cho thiền nhân có khả năng tạo nên một mạch. Việc chuẩn bị này là dễ dàng và không lâu. Nó không khó khăn chút nào.
Cho nên shaktipat có thể được dùng với mức độ nào đó để có thoáng nhìn về điều thiêng liêng; nhưng việc chuẩn bị sơ bộ là cần thiết, bằng không, sẽ có hại cho người thường không được chuẩn bị.
Kundalini dâng lên với cường độ lớn qua shaktipat, nhưng nó chỉ có thể đi lên tới thể thứ tư. Tuy nhiên, thoáng nhìn như vậy cũng đã quá đủ. Cuộc hành trình sau đó, hoàn toàn là cá nhân. Nếu một tia chớp sáng trong đêm tối hé lộ ra một chút ít về con đường cho bạn, nó cũng là quá đủ. Một khi con đường đã được thấy, mọi thứ đều thay đổi. Thế thì bạn sẽ không còn là con người cũ như bạn trước đây nữa. Vậy, shaktipat có thể được dùng để thấy một chút ít về khoảng cách nằm phía trước mặt. Tuy nhiên việc chuẩn bị ban đầu là cần thiết. Nếu trao trực tiếp nó cho quần chúng, nó có thể có hại.
Và điều đáng ngạc nhiên nhất là ở chỗ chính quần chúng là người bao giờ cũng tìm kiếm shaktipat và những điều như vậy. Người bình thường muốn được cái gì đó không mất công sức - nhưng chẳng cái gì thu được mà không mất công sức cả. Nhiều lần chúng ta đi tới nhận ra về sau là món quà cho không đắt làm sao. Bạn chớ bao giờ cố gắng để có được cái gì cho không. Chúng ta bao giờ cũng nên sẵn sàng trả đúng giá. Thực tế, chúng ta càng biểu lộ sự sẵn sàng của mình để trả giá, chúng ta càng trở nên đáng giá hơn. Chúng ta trả giá lớn nhất là bởi nỗ lực của mình cho sự trưởng thành tâm linh.
Hai hôm trước đây một bà tới gặp tôi và nói, "Tôi đã tiến bộ nhiều trong những năm qua và tôi sắp chết. Khi nào tôi đạt tới chứng ngộ? Xin thầy khẩn trương và làm điều gì đó bằng không, tôi chết mất." Tôi bảo bà ấy tới thiền trong vài ngày; thế rồi chúng tôi sẽ xem cần phải làm gì.
Bà ấy nói, "Tôi không muốn bị phiền hà với thiền. Xin thầy làm điều gì đó để cho tôi có thể đạt tới chứng ngộ."
Bây giờ bà này đang tìm kiếm để được cái gì đó mà không phải trả giá cho nó. Tìm kiếm như thế là nguy hiểm. Bạn chẳng thu được cái gì về nó cả; ngược lại bạn lại còn bị mất. Thiền nhân không nên nuôi dưỡng những mong đợi như thế. Người ta nhận cái mà người ta sẵn sàng vì nó. Bạn nên tin rằng điều này là như vậy.
Thực tế, người ta chưa bao giờ nhận được ít hơn cái mà mình xứng đáng. Đây là luật của sự tồn tại, nó là luật vũ trụ. Bạn nhận được những cái mà bạn đã chuẩn bị cho nó, và nếu bạn không nhận được thế thì biết rằng đấy không phải là bất công đâu; thay vì thế thì bạn còn thiếu sự chuẩn bị đấy. Nhưng tâm trí chúng ta bao giờ cũng ru ngủ chúng ta trong niềm tin rằng bất công đang dồn vào ta. Chúng ta bao giờ cũng rất chắc chắn về giá trị của riêng mình và phàn nàn chê bai sự tồn tại.
Chúng ta bao giờ cũng nhận được cái tương xứng với sự xứng đáng của riêng ta. Sự xứng đáng và việc đạt tới là hai tên cho cùng một điều. Nhưng tâm trí trông đợi rất nhiều và cố gắng rất ít. Có lỗ hổng lớn giữa trông đợi của chúng ta và nỗ lực của chúng ta. Lỗ hổng này là rất thất sách. Nó có thể rất tai hại. Bởi vì điều này mà chúng ta cứ lang thang đây đó trong hi vọng có được cái gì đó ở đâu đó. Thế thì khi số người như vậy tăng lên, điều chắc chắn là một người láu cá nào đó sẽ tiến tới khai thác họ. Người đó sẽ đưa ra cho họ cái mà họ đang tìm kiếm mà chẳng phải mất công. Một người như vậy khó mà biết được cái gì. Người đó đem đến công thức nào đó từ đâu đó mà với công thức đó người đó có thể làm việc trên họ, và mặc dù hiệu quả của nó không sâu sắc cho lắm, nó vẫn cứ có thể có hại.
Chẳng hạn, ta hãy lấy một người chẳng có tri thức gì về shaktipat: người này nữa cũng có thể thực hành một chút ít shaktipat với sự trợ giúp của từ trường thân thể. Nhưng người này không có tri thức gì về sáu thể khác bên trong. Thân thể có lực từ trường riêng của nó. Nếu việc thu xếp được tiến hành qua tình huống nào đó, người đó có thể làm cho bạn nhận những cú sốc qua từ trường đó. Đây là lí do tại sao thiền nhân trong thời cổ đại lại cẩn thận về hướng của đầu khi ngủ. Người đó sẽ không để đầu theo một hướng nào đó hay để chân theo một hướng nào đó.
Trái đất có lực từ trường của riêng nó và thiền nhân, bao giờ cũng được nhắc nhở nên sắp thẳng đúng với từ trường này để cho người đó thường xuyên được thấm từ trường. Nếu bạn ngủ làm thành góc với lực này, từ trường thân thể bạn sẽ trở nên ít đi. Nếu bạn nằm theo hướng luồng từ trường, lực mà trái đất tạo ra từ trường của nó và lực tạo nên trục của trái đất cũng sẽ làm nhiễm từ thân thể bạn thành thỏi nam châm. Nó rót đầy thân thể bạn với lực từ trường theo cùng cách như một mẩu sắt bị nhiễm từ bởi việc đặt nó phía trước thanh nan châm. Sau khi trở nên được nhiễm từ, nó sẽ bắt đầu hút những vật nhỏ như đinh ghim và kim.
Cho nên thân thể có lực từ trường riêng của nó. Nếu nó có thể được sắp thẳng đúng với lực từ trường của trái đất, sẽ rất có ích lợi. Các ngôi sao nữa cũng có lực từ trường. Vào những cơ hội đặc biệt nào đó mà một số ngôi sao có từ trường đặc biệt. Điều này có thể được kiểm chứng; chúng ta có tất cả những thông tin cần thiết. Cho nên nếu bạn đang ở một trạng thái đặc biệt, ngồi trong một tư thế đặc biệt vào một khoảnh khắc đặc biệt, một ngôi sao đặc biệt sẽ làm cho thân thể bạn trở thành được đặc biệt nhiễm từ. Thế thì bạn có thể gây sốc từ cho bất kì ai và họ có thể coi đó là shaktipat. Nhưng đấy không phải là shaktipat. Thân thể có điện của riêng nó. Nếu điện này được tạo ra theo cách đúng đắn, bạn có thể thắp sáng bóng đèn năm tới mười oát chỉ đơn thuần bằng cách nắm nó trong tay bạn. Những thực nghiệm này đã thành công. Có những người chỉ nắm bóng điện trong lòng bàn tay và nó sáng lên. Nhưng năng lượng bên trong thân thể còn nhiều vô hạn.
Hai mươi năm trước đây một đàn bà ở Bỉ trở nên được nạp điện một cách bất ngờ. Không ai dám chạm vào bà ấy; bất kì ai chạm vào đều bị giật. Chồng bà ấy xin li dị, và lí do được nêu ra là ở chỗ ông ấy bị giật điện bất kì khi nào ông ấy chạm vào bà ấy. Việc li dị đã tạo ra xúc động trên khắp thế giới. Sau nhiều lần thử nghiệm người ta mới phát hiện ra là thân thể bà ấy đã bắt đầu tạo ra điện dư thừa. Thân thể có nhiều pin. Nếu chúng làm việc theo trật tự, chúng ta không cảm thấy gì. Nếu trật tự này bị rối loạn, rất nhiều năng lượng được tạo ra - thoát ra.
Bạn lấy năng lượng từ thức ăn bạn ăn và năng lượng này nạp điện cho pin trong thân thể bạn. Do đó, nhiều lần bạn cảm thấy cần nạp điện lại cho pin. Con người mệt mỏi và kiệt sức vào buổi tối. Việc nghỉ ngơi ban đêm ngon lành nạp điện lại cho người đó. Tuy nhiên người đó không biết cái gì nạp điện lại cho mình trong giấc ngủ. Trong giấc ngủ một số lực nào đó làm việc trên người đó. Nhiều nghiên cứu tâm lí đã được tiến hành và chúng ta biết loại lực nào làm việc trên người đó vào lúc ngủ. Nếu một người muốn, người đó có thể tận dụng ưu thế của những thế lực này trong trạng thái tỉnh thức. Thế thì người đó có khả năng gây cho bạn cú sốc năng lượng mà thậm chí không phải là từ trường mà chỉ là điện thân thể. Bạn có thể lầm lẫn điều này là shaktipat.
Có nhiều cách thức khác của shaktipat giả mà cũng là sai lầm tương đương. Chúng chẳng có cách nào để nối với việc truyền thực tại năng lượng thiêng liêng. Nếu một người không có tri thức gì về từ trường thân thể, về điện thân thể, nhưng người đó biết bí mật của việc phá vỡ mạch điện trong thân thể bạn, thế thì người đó cũng có thể gây sốc năng lượng cho bạn nữa. Có nhiều cách để phá vỡ mạch điện của thân thể bạn, và khi điều này bị rối loạn, bạn nhận thấy cơn sốc. Chẳng có gì từ người khác tới bạn nhưng bạn vẫn cảm thấy cái sốc. Đấy là cái sốc của điện thân thể riêng bạn bị rối loạn đấy thôi.
Tôi không thể nói cho bạn mọi điều thật chi tiết vì làm như vậy là không đúng. Tất cả những gì tôi nói đều không đầy đủ. Thậm chí những phương pháp sai mà tôi nói tới, cũng không được mô tả đầy đủ, bởi vì việc nói đầy đủ và mở rộng về chúng là rất nguy hiểm vì thế thì sẽ có ý định thử chúng xem sao. Tính tò mò của chúng ta rất nông cạn. Một nhà huyền môn đã nói tới tính tò mò như tội lỗi: chỉ có một tội lỗi trong con người - tội lỗi về tò mò. Con người không có tội lỗi nào khác. Con người phạm biết bao nhiêu tội lỗi toàn là vì tính tò mò. Chúng ta không nhận biết về điều này, nhưng chính tính tò mò làm cho con người phạm vào nhiều tội ác.
Có một câu chuyện trong Kinh thánh nói rằng Thượng đế bảo Adam được ăn tất cả quả trên mọi cây chỉ trừ mỗi một quả. Sự tò mò vể quả này đẩy Adam vào khó khăn. Tội lỗi nguyên thuỷ là tội lỗi tò mò - và Adam thấy mình lâm vào cảnh rắc rối. Bí mật là gì thế nhỉ? Trong khu rừng rộng lớn thế với bao nhiêu quả cây ngon lành, có gì đặc biệt với quả của cái cây trông bình thường thế kia. Nhưng cây này bắt đầu có ý nghĩa với Adam, tất cả các cây còn lại trở thành vô nghĩa. Tâm trí Adam vơ vẩn quanh cây này chừng nào còn chưa được nếm quả cấm. Tò mò gợi ý cái tốt hơn cho Adam, và Ki tô giáo nói rằng đây là tội lỗi nguyên thuỷ mà loài người phạm phải. Bây giờ, tội lỗi gì có thể có đấy trong việc nếm thử một quả nào đó? Tội lỗi nguyên thuỷ là tính tò mò của Adam.
Tâm trí chúng ta bị chất đầy với tò mò - nhưng hiếm khi nó điều tra về điều đó. Việc điều tra xảy ra trong người đã trưởng thành vượt ra ngoài tính tò mò. Nhớ lấy, có khác biệt cơ bản giữa tò mò và điều tra. Người tò mò không bao giờ điều tra; người đó chỉ tràn đầy với tò mò về mọi thứ và không thấy một thứ trong cái toàn bộ của nó. Người đó khó mà nhìn qua một thứ khi mười thứ khác thu hút sự chú ý của người đó. Thế thì người đó chẳng bao giờ có thể điều tra được.
Những phương pháp sai lầm mà tôi đã nói tới đều không đầy đủ. Một số phần quan trọng của những phương pháp này đã bị lược bỏ có chủ ý. Cần phải làm như vậy bởi vì tâm trí chúng ta dỗ ngon ngọt chúng ta với tính tò mò để thử chúng xem sao. Chẳng khó khăn gì trong việc thực hiện những thực nghiệm này. Khi người tìm kiếm sai đi vào việc tìm kiếm quyền năng, vào việc tìm kiếm Thượng đế, họ gặp những người ban phát quyền năng giả nữa. Thế thì cũng giống như kẻ đui dẫn người mù. Người lãnh đạo mù, nhất định ngã và thế là cả đoàn dài những người mù đi sau người đó cũng ngã theo. Thế thì cái hại được thực hiện không chỉ cho kiếp này mà nhiều kiếp khác. Phá một vật thì dễ nhưng rất khó để đặt nó đúng lại.
Cho nên bạn đừng thử theo khía cạnh này để nghiên cứu từ tính tò mò. Tự chuẩn bị bản thân mình theo hướng đúng. Thế thì cái cần cho bạn sẽ tới trên con đường của bạn; nó chắc chắn sẽ tới.
Chương 7. Kundalini: Kỉ luật siêu việt
Hôm qua Thầy đã nói cho chúng tôi về tác động của shaktipat và sự thức tỉnh kundalini trên người có ba thể đầu còn chưa được chuẩn bị cho nó. Xin Thầy giải thích thêm về loại tác động nào sẽ xảy ra nếu các thể thứ hai và thứ ba còn chưa được chuẩn bị. Cũng vậy, làm sao thiền nhân phải chuẩn bị các thể vật lí, ê te và vía cho sự kiện đó?
Chính điều đầu tiên cần phải hiểu trong mối liên hệ này là ở chỗ việc hài hoà hoàn toàn trong các thể thứ nhất, thứ hai và thứ ba là điều tuyệt đối bản chất. Nếu không có mối nối hài hoà giữa ba thể này, việc thức tỉnh kundalini có thể tỏ ra là có hại. Có vài điều rất cần thiết để đưa tới sự hài hoà này, mối quan hệ này.
Trước hết, chừng nào mà chúng ta còn chưa nhận biết và không nhạy cảm với thể vật lí, thể này không thể nào thiết lập được sự hài hoà với các thể khác. Với không nhạy cảm tôi muốn nói chúng ta không nhận biết hoàn toàn về thân thể. Khi chúng ta bước đi, chúng ta hầu như không ý thức về sự kiện ta đang bước đi. Khi chúng ta đứng, chúng ta hầu như không ý thức tới sự kiện ta đang đứng. Khi chúng ta ăn, chúng ta hầu như không ý thức tới sự kiện ta đang ăn. Bất kì hoạt động nào chúng ta làm với thân thể, chúng ta đều làm trong vô nhận biết, giống như người mộng du. Nếu chúng ta không nhận biết về thân thể này, chúng ta cũng phải không nhận biết gấp đôi về các thể bên trong khác, bởi vì chúng còn tinh tế hơn. Nếu chúng ta không nhận biết về thể thô này, cái thấy được dưới con mắt thường, vấn đề nhận biết về các thể tinh tế vô hình cũng không nảy sinh. Không thể nào biết được về chúng. Hài hoà không thể có mà thiếu nhận biết. Hài hoà chỉ có thể có trong trạng thái nhận biết. Trong trạng thái không nhận biết, tất cả mọi hài hoà đều bị phá vỡ.
Cho nên điều đầu tiên là phải nhận biết về thân thể. Với bất kì hành động nhỏ bé nào thân thể thực hiện, việc ghi nhớ cũng là tuyệt đối cần thiết. Phải để ý tới tất cả những điều chúng ta làm. Như Phật thường nói, "Khi ông bước trên đường nhận biết rằng ông đang bước. Khi ông đưa chân phải lên, tâm trí ông phải ý thức tới sự kiện là chân phải đã đưa lên. Khi ông ngủ trong đêm ông nên biết lúc nào ông trở mình."
Có một sự kiện trong cuộc đời của Phật từ lúc ông ấy mới chỉ là một người tìm kiếm. Ông ấy đi qua một thôn làng cùng một người đồng hành. Cả hai đang nói chuyện, một con ruồi đậu lên cổ Phật. Ông ấy đang thảo luận dở, đưa tay lên xua ruồi. Nó bay đi - nhưng Phật bỗng nhiên dừng lại. "Tôi đã phạm phải một sai sót nghiêm trọng,"
Phật nói với người đồng hành. Thế rồi ông ấy lại đưa tay lên trong hành động xua ruồi đi.
Anh bạn đi cùng thốt lên trong sự ngạc nhiên, "Anh đang làm cái gì thế này? Con ruồi có đâu nữa mà xua."
Phật đáp, "Bây giờ tôi đang xua con ruồi đi như tôi phải làm thế. Bây giờ tôi tràn đầy nhận biết về điều tôi đang làm. Bây giờ khi tay đưa lên, tôi tràn đầy nhận biết rằng nó đang đưa lên và rằng nó đang đi theo hướng cổ để xua con ruồi bay đi. Lần trước tôi đang nói với anh; do đó hành động của tôi là máy móc. Tôi đã phạm lỗi với thân thể."
Nếu chúng ta bắt đầu làm tất cả những hành động vật lí với nhận biết đầy đủ, thế thì việc đồng nhất với vật lí trở nên bị phá vỡ. Nếu bạn đưa một tay lên với tràn đầy chăm chú, bạn sẽ cảm thấy mình tách ra khỏi cái tay - bởi vì người đưa tay lên là khác với cái được đưa lên. Cảm giác tách ra khỏi thể vật lí là sự mở đầu cho việc nhận biết về thể ê te. Thế thì, như tôi đã nói trước đây, bạn nên nhận biết đầy đủ về thể thứ hai này nữa.
Giả sử có một dàn nhạc đang chơi. Nhiều kiểu nhạc cụ được chơi trong dàn nhạc. Nếu có một người trong số khán giả mà chưa bao giờ được nghe nhạc, người đó sẽ chỉ nghe thấy tiếng trống bởi vì đây là nhạc cụ tạo nên âm thanh to nhất; người đó sẽ không thể nào bắt được những nốt êm đềm của các nhạc cụ khác. Nhưng nếu người đó bắt đầu trở nên nhận biết về âm nhạc, người đó dần dần sẽ nắm bắt được những nốt tinh tế nhạy cảm. Thế thì khi nhận biết của người đó tăng lên thêm nữa, người đó sẽ không chỉ bắt được các nốt nhạc mà người đó sẽ trở nên nhận biết về lỗ hổng giữa hai nốt - im lặng giữa hai nốt. Thế thì người đó sẽ hiểu thấu âm nhạc hoàn toàn. Khoảng trống, lỗ hổng, là điều cuối cùng cần hiểu thấu. Thế thì có thể nói rằng việc hiểu thấu về âm nhạc của người đó là đầy đủ.
Khoảng trống, im lặng giữa hai nốt, có ý nghĩa riêng của nó. Thực tế, các nốt nhạc chỉ có nghĩa để làm nổi bật im lặng này. Điều thực trong âm nhạc chính là đưa bao nhiêu im lặng này vào vận hành.
Nếu bạn đã từng xem những bức hoạ Trung quốc và Nhật bản, bạn phải ngạc nhiên mà để ý rằng việc vẽ bao giờ cũng vào một góc; phần còn lại của tấm vải được bỏ trống. Không đâu khác trên thế giới này chúng ta tìm được phương pháp vẽ tranh này, bởi vì không ở đâu khác người nghệ sĩ vẽ tranh với trạng thái thiền như thế. Thực tế, không có đâu ngoại trừ Trung quốc và Nhật bản mới có những thiền nhân vẽ tranh. Nếu bạn hỏi người nghệ sĩ này tại sao người đó lại để lãng phí tấm vải lớn thế để vẽ phần nhỏ thế khi người đó có thể dễ dàng dùng một phần tám kích cỡ tấm vải, người đó sẽ đáp rằng để đem lại không gian trống rỗng chiếm bẩy phần tám tấm vải vẽ, người đó chỉ làm việc riêng trên phần còn lại. Thực tế, đây là tỉ số.
Thông thường khi cây đứng giữa không gian rộng mở mà được vẽ, toàn bộ tấm vải vẽ sẽ bị choán hết. Thực tại cái cây chỉ nên trong một góc nhỏ, vì trong so sánh với bầu trời bao la, cây là rất ít ý nghĩa. Đây là tỉ số thực tại. Khi cây đứng đúng tỉ lệ không gian của nó trên tấm vải, chỉ thế thì nó mới sống động. Vậy, tất cả các bức vẽ của bạn đều sai tỉ lệ. Nếu một thiền nhân làm ra nhạc, sẽ có ít âm thanh và nhiều im lặng trong đó - bởi vì các nốt là rất nhỏ nếu so với cái im lặng nối chúng lại. Âm thanh chỉ có một tác dụng - để cho hướng dẫn về cái trống rỗng, cái im lặng, và thế rồi ra đi. Bạn càng đi sâu vào trong âm nhạc, bạn càng trở nên cảm thấy im lặng sâu hơn.
Mục đích của thể vật lí của chúng ta chỉ ở chỗ nó cho chúng ta một cảm nhận về các thể tinh tế hơn của chúng ta, nhưng chúng ta chẳng bao giờ dùng nó đến cùng cả. Chúng ta vẫn còn bị dính chặt vào thể vật lí bởi vì sự đồng nhất ngủ say với nó. Chúng ta đang ngủ; và do vậy chúng ta sống trong thân thể theo một cách thức rất không có ý thức. Nếu bạn trở nên nhận biết về từng và mỗi hành động của thân thể mình, bạn sẽ bắt đầu cảm thấy sự hiện diện của thể thứ hai. Thể thứ hai nữa cũng có hoạt động riêng của nó, nhưng bạn sẽ không biết đến thể ê te chừng nào bạn chưa trở nên nhận biết đầy đủ về những hoạt động của thể vật lí, vì thể ê te tinh tế hơn. Nếu bạn nhận biết hoàn toàn về những hoạt động của thể vật lí của mình, bạn sẽ bắt đầu cảm thấy chuyển động của thể thứ hai. Thế thì bạn sẽ ngạc nhiên rằng có những rung động ê te bên trong bạn mà vẫn kích hoạt vào mọi lúc.
Một người trở nên giận dữ. Giận dữ được sinh ra trong thể ê te nhưng nó biểu lộ trong thể thứ nhất. Về cơ bản, giận dữ là hoạt động của thể thứ hai; thể thứ nhất được dùng như trung gian để diễn đạt. Do đó, bạn có thể dừng giận dữ để không cho nó đạt tới thể thứ nhất nếu bạn muốn. Đây là điều được thực hiện trong kìm nén. Giả sử rằng tôi đang tràn đầy giận dữ: tôi cảm thấy muốn dùng gậy đánh bạn nhưng tôi có thể dừng mình lại. Đánh là một hoạt động của bình diện thứ nhất. Về cơ bản, có giận dữ nhưng bây giờ, không có biểu lộ của giận dữ. Tôi có thể kìm mình khỏi hành động đánh; tôi có thể thậm chí còn mỉm cười với bạn nếu tôi muốn. Nhưng bên trong, giận dữ lan rộng khắp thể thứ hai của tôi. Cho nên trong kìm nén, điều xảy ra là ở chỗ chúng ta kìm lại trên bình diện biểu lộ, nhưng nó vẫn cứ hiện diện tại ngọn nguồn nguyên thuỷ.
Khi bạn bắt đầu nhận biết về các quá trình của thân thể vật lí, bạn sẽ bắt đầu hiểu chuyển vận của tình yêu, giận dữ và căm ghét bên trong bạn; bạn sẽ trở nên nhận biết về hiện diện của chúng. Chừng nào bạn còn chưa hiểu thấu những chuyển vận của những xúc động nảy sinh từ thể thứ hai này, tất cả những điều bạn có thể làm chỉ là kìm nén chúng. Bạn không thể nào được tự do khỏi chúng bởi vì bạn chỉ trở nên nhận biết chúng khi chúng đã đạt tới thể thứ nhất - và thậm chí cũng không nhận biết được điều này nhiều lần: thường bạn chỉ trở nên nhận biết về chúng khi chúng đã đạt tới thân thể người khác. Chúng ta không nhạy cảm đến mức mà chừng nào cái tát của bạn còn chưa đập vào má ai đó, bạn vẫn còn chưa hiểu được bạn đã làm gì. Sau cái tát bạn mới đi tới nhận ra rằng cái gì đó đã xảy ra.
Tất cả các xúc động đều nảy sinh từ thể ê te. Do đó, tôi cũng gọi thể thứ hai, thể ê te là thể xúc động. Nó có đà riêng của mình; nó có chuyển vận riêng của nó cho giận dữ, yêu thương, căm ghét, bất ổn. Bạn sẽ đi tới nhận ra những rung động này.
Trong sợ hãi, thể ê te co lại. Quá trình co lại mà chúng ta cảm thấy trong sợ hãi không thuộc về thể thứ nhất. Thể thứ nhất vẫn còn như cũ; không có thay đổi trong nó về bất kì cái gì. Nhưng tác động của việc thu nhỏ lại này của thể ê te trở thành hiển nhiên trong bước đi của người ta, trong cách người ta ngồi. Người đó trông có vẻ khẽ khàng vào mọi lúc. Người đó sẽ không đứng thẳng. Khi nói người đó sẽ lắp bắp. Chân người đó sẽ run rẩy khi bước; tay người đó sẽ rung rung khi viết.
Bây giờ bất kì ai cũng đều có thể nhận ra khác biệt giữa chữ viết tay của đàn ông và đàn bà; chẳng khó khăn chút nào. Chữ viết tay của đàn bà không bao giờ thẳng.
Dù có đối xứng và viết đẹp đến đâu, cũng chẳng thành vấn đề, chúng bao giờ cũng có dấu hiệu của sự run rẩy trong đó. Đây là một đặc trưng rất nữ tính và nó tới từ thân thể đàn bà. Đàn bà lúc nào cũng sợ hãi; nhân cách của cô ấy đã trở thành bị tác động mạnh bởi cái sợ. Cho nên không khó khăn gì người ta có thể nhận ra chữ viết tay của đàn bà từ những chữ viết tay của đàn ông. Cũng vậy, chúng ta có thể tìm ra một người đàn ông sợ hãi thế nào từ nét chữ viết của anh ta. Không có gì khác biệt giữa ngón tay của đàn ông hay của đàn bà, cũng chẳng có gì khác biệt trong cách họ cầm bút. Khi mà có liên quan tới thể thứ nhất, chẳng có gì khác biệt giữa hai giới, nhưng trên bình diện của thể thứ hai, đàn bà luôn sợ hãi.
Ngay cả đàn bà hiện đại cũng vẫn không thể nào không sợ hãi bên trong. Cả xã hội chúng ta, văn hoá chúng ta và trạng thái suy nghĩ của chúng ta đang ở mức độ mà chúng ta không thể nào làm cho đàn bà không sợ hãi được. Cô ấy sợ hãi vào mọi lúc và những rung động của nỗi sợ của cô ấy lan toả ra khắp nhân cách cô ấy. Mức độ không sợ hãi hay không hoảng hốt trong đàn ông cũng có thể được đánh giá từ nét chữ viết tay của họ. Trạng thái sợ hãi là trên bình diện ê te.
Tôi đã nói với các bạn là phải nhận biết về từng việc xảy ra trong thể thô, nhưng bạn cũng nên nhận biết về các quá trình của thể ê te nữa. Khi bạn đang trong tình yêu, bạn cảm thấy dường như bạn đã mở rộng ra. Tự do được kinh nghiệm trong tình yêu là bởi vì sự mở rộng này. Bây giờ có ai đó đứng trước người đó, bạn chẳng cần phải sợ hãi. Không có lí do gì để sợ khi ở gần người bạn yêu. Nói thực, yêu có nghĩa là tự do khỏi cái sợ trong sự hiện diện của một người mà trước người đó, người ta có thể nở hoa tới độ đầy đủ, dù người đó là gì. Do đó, cảm giác mở rộng được kinh nghiệm vào những khoảnh khắc yêu đương. Thể vật lí, vẫn như cũ, nhưng thể ê te bên trong, nở hoa và mở rộng.
Trong thiền bao giờ cũng có kinh nghiệm về thể ê te. Thiền nhân có thể cảm thấy rằng thân thể mình đang mở rộng - nhiều đến mức nó choán đầy cả căn phòng. Tuy nhiên, thể vật lí của người đó vẫn còn như cũ. Khi người đó mở mắt ra, người đó bị sốc: thân thể vẫn còn như cũ. Nhưng cảm giác của kinh nghiệm này vẫn cứ theo sát người đó và làm cho người đó hiểu rằng điều mình đã cảm thấy là không sai. Kinh nghiệm này là rõ ràng - rằng người đó đã choán đầy cả căn phòng. Đây là một biến cố của thể ê te; các khả năng bành trướng của nó là vô giới hạn. Nó có thể mở rộng ra và cũng có thể thu nhỏ lại tuỳ theo xúc động. Nó có thể mở rộng đến mức choán đầy cả trái đất; nó có thể thu nhỏ lại đến mức đủ chỗ cho nó trong một nguyên tử.
Cho nên bạn sẽ bắt đầu chú ý vào những chuyển động của thể ê te - việc mở rộng và thu nhỏ của nó, trong tình huống nào, nó thu nhỏ lại và trong tình huống nào nó mở rộng. Nếu thiền nhân bắt đầu sống trong những quá trình mà trong đó nó mở rộng, hài hoà sẽ được tạo ra. Nếu người đó bắt đầu sống trong điều kiện làm cho nó co lại, hài hoà sẽ không được thiết lập giữa hai thể. Việc mở rộng là bản tính bẩm sinh của nó. Khi nó mở rộng tới hết mức của mình, khi nó nở hoa đầy đủ, nó được nối với thể thứ nhất qua một chiếc cầu. Khi nó trở nên sợ hãi và co lại, tất cả mọi tiếp xúc của nó với thể thứ nhất đều bị gián đoạn và nó nằm tách biệt trong một xó.
Có những quá trình khác của thể thứ hai mà có thể được biết tới qua các phương pháp khác. Chẳng hạn, bạn thấy một người hoàn toàn mạnh khoẻ, hoàn toàn bình thường. Bây giờ nếu ai đó bảo người đó là người đó bị kết án tử hình, người đó sẽ tái xanh ngay lập tức. Không có gì thay đổi xảy ra trong thể thứ nhất của người đó nhưng có thay đổi tức khắc trong thể ê te. Thể ê te của người đó sẵn sàng rời bỏ thể vật lí. Nếu người chủ nhận ra rằng mình phải rời bỏ ngôi nhà, lập tức mọi niềm vui và sự nhẹ nhõm sẽ biến mất; mọi thứ sẽ bị rối loạn. Thể thứ hai đã làm gián đoạn mọi mối nối với thể thứ nhất, theo một nghĩa nào đó. Việc hành hình sắp sửa xảy ra sau một thời gian nào đó hoặc có thể không xảy ra chút nào, nhưng mối nối của anh ta với thể thứ nhất đã bị phá vỡ.
Một người tấn công bạn bằng súng hay một con sư tử tấn công bạn trong rừng: mặc dầu chưa có gì xảy ra cho thể vật lí, nhưng thể ê te nhanh chóng thu xếp để rời bỏ nó và một khoảng cách lớn được tạo ra giữa cả hai. Cho nên bạn có thể quan sát cách vận hành của thể thứ hai theo một cách tinh tế, và điều này có thể được thực hiện không khó khăn gì. Khó khăn nằm ở chỗ này, rằng chúng ta không quan sát những quá trình của thể vật lí nữa. Nếu chúng ta làm như thế thì chúng ta sẽ bắt đầu cảm thấy chuyển vận của thể thứ hai. Khi bạn có tri thức rõ ràng về cách vận hành của cả hai thể, chính sự kiện này sẽ tạo ra hài hoà giữa hai thể.
Thế rồi còn có thể thứ ba - thể vía. Sự chuyển vận của nó dứt khoát là tinh tế hơn - tinh tế hơn cả sợ hãi, giận dữ, yêu thương và căm ghét. Khó mà hiểu thấu được chuyển vận của nó chừng nào mà tri thức về thể thứ hai vẫn còn chưa được đầy đủ. Thậm chí còn khó hiểu thể thứ ba từ thể thứ nhất bởi vì lỗ hổng bây giờ còn lớn hơn; chúng ta không ý thức tới bình diện thứ nhất. Thể thứ hai gần với thể thứ nhất hơn cho nên chúng ta có thể hiểu đôi điều về nó. Cũng hệt như là thể thứ hai là hàng xóm của chúng ta vậy: đôi khi ta nghe thấy tiếng xoong chậu loảng xoảng hay tiếng trẻ con la khóc ở nhà bên. Nhưng thể thứ ba là hàng xóm của hàng xóm mà chúng ta chẳng nghe thấy âm thanh nào từ nhà người đó cả.
Hiện tượng của thể thứ ba còn tinh tế hơn. Nó chỉ có thể được hiểu thấu nếu chúng ta bắt đầu hiểu thấu đầy đủ các xúc động.
Bạn có thể gọi thể vía là một tuyển tập những rung động. Bạn sẽ có thể hiểu những điều kiện khác nhau của thể này rõ hơn thông qua một thí dụ. Chúng ta có thể thấy nước và chúng ta có thể thấy hidro cùng ô xi tách biệt: không có dấu hiệu của nước trong ô xi; không có dấu hiệu của ô xi trong nước. Cả ô xi lẫn hidro đều không có bất kì tính chất nào của nước, nhưng hai chất này tổ hợp lại, tạo thành nước: từng chất đều có phẩm chất giấu kín mà chỉ biểu lộ khi chúng tổ hợp lại. Giận dữ và yêu thương, không thấy được trong thể vía; cả căm ghét hay sợ hãi cũng vậy. Nhưng chúng có những rung động mà trở nên được biểu hiện khi được tổ hợp với thể thứ hai. Cho nên khi bạn hoàn toàn nhận biết về thể thứ hai, khi bạn hoàn toàn tỉnh táo về giận dữ của mình, thế thì bạn sẽ biết rằng một số phản ứng đã xảy ra trước khi việc giận dữ tới. Nói cách khác, giận dữ không phải là cái bắt đầu. Nó là phần sau của biến cố mà đã xảy ra đâu đó rồi.
Một bong bóng nổi lên từ đáy hồ và bắt đầu du hành đi lên. Khi nó nổi lên từ cát dưới đáy hồ, chúng ta không thể nào thấy được nó. Khi nó lên tới nửa chiều sâu hồ, nó vẫn còn không thấy được. Khi nó còn một quãng ngắn với bề mặt nước, nó bắt đầu thấy được mặc dầu còn rất nhỏ. Thế rồi nó bắt đầu to dần lên khi nó đạt tới bề mặt, bởi vì trọng lượng và sức ép của nước giảm đi khi nó đi lên. Vậy nó trở nên ngày càng rõ hơn với cái nhìn của chúng ta. Tại chiều sâu thấp nhất, sức ép của nước giữ cho nó thật nhỏ, nhưng khi nó đi lên, sức ép trở nên bé dần đi cho tới khi nó đạt tới kích cỡ đầy đủ trên bề mặt. Nhưng khi nó đạt tới kích thước đầy đủ của mình, nó vỡ tung ra.
Cho nên nó đã đi qua một con đường dài. Có những chỗ mà chúng ta không thể nào thấy được nó, nhưng nó vẫn có đấy tất cả như cũ ẩn dưới cát. Thế rồi nó phát sinh từ đó, nhưng nó vẫn còn không thấy được bởi vì nước ép nó xuống. Thế rồi nó tới gần bề mặt hơn mà từ đó chúng ta có thể thấy nó mặc dầu nó vẫn còn rất nhỏ. Thế rồi nó nổi lên bề mặt nơi chúng ta có thể thấy toàn bộ về nó - nhưng thế thì nó vỡ tung.
Cho nên bong bóng của giận dữ cũng phát triển đầy đủ và vỡ tung vào lúc nó đạt tới thể thứ nhất. Khi nó tới bề mặt, nó để lộ bản thân nó ra. Bạn có thể dừng nó lại tại thể thứ hai nếu bạn muốn nhưng điều đó sẽ là kìm nén. Nếu bạn nhìn vào thể ê te của mình, bạn sẽ ngạc nhiên mà thấy rằng nó đã đi qua một khoảng cách nào đó. Nhưng ở chỗ bắt nguồn của nó, nó có dạng rung động năng lượng.
Như tôi đã nói với các bạn trước đây không có các kiểu vật chất khác nhau; thay vì thế có những tổ hợp khác nhau của cùng hạt năng lượng. Than chì và kim cương là như nhau: khác biệt chỉ là ở cách tổ hợp các hạt năng lượng. Nếu bạn đập bất kì vật chất nào thành các thành phần, chung cuộc cái còn lại là năng lượng điện. Các tổ hợp khác nhau của những rung động năng lượng này đem tới việc hình thành ra các chất khác nhau. Tất cả những chất này là khác nhau trên bề mặt; sâu bên trong chúng là một.
Nếu bạn đánh thức thể ê te và lần theo các xúc động về ngọn nguồn của chúng, bạn sẽ bất thình lình thấy bản thân mình đang ở trong thể vía. Tại đó bạn sẽ thấy rằng giận dữ không phải là giận dữ, mà tha thứ cũng chẳng phải là tha thứ; cùng năng lượng rung động trong cả hai. Năng lượng trong rung động của yêu và ghét là một. Khác biệt chỉ là trong bản chất của các rung động.
Khi yêu đổi thành ghét và ghét đổi thành yêu, chúng ta tự hỏi làm sao mà hai cảm giác đối lập trực tiếp lại đổi lẫn cho nhau được. Chẳng hạn, một người mà mới hôm qua thôi tôi vẫn gọi là bạn mình, hôm nay đã trở thành kẻ thù của tôi. Thế thì tôi tự an ủi mình rằng có lẽ tôi đã lầm - rằng người đó chưa bao giờ là bạn tôi cả, bởi vì làm sao mà một người bạn lại có thể biến thành kẻ thù được? Năng lượng đang rung động trong tình bạn và trong tình trạng kẻ thù là một; khác biệt chỉ ở bản chất của rung động. Khác biệt là trong cấu trúc của sóng. Điều chúng ta gọi là yêu, là yêu trong buổi sáng và ghét trong buổi tối. Vào buổi trưa nó là yêu, và điều này thay đổi thành ghét vào buổi tối. Đấy là tình thế khó khăn. Người mà chúng ta yêu vào buổi sáng, chúng ta ghét vào buổi tối.
Freud đã có ấn tượng là chúng ta yêu những người ta ghét và ta ghét những người ta yêu. Lí do mà ông ấy đưa ra, đúng tới một chừng mực nào đó, nhưng vì ông ấy không có tri thức gì về các thể khác của con người nên ông ấy không thể nào đi xa hơn với việc điều tra của mình. Lí do ông ấy đưa ra là rất nông cạn. Ông ấy nói rằng mối quan hệ với mẹ là mối quan hệ đầu tiên mà đứa trẻ kinh nghiệm: người mẹ là đối tượng đầu tiên mà nó yêu. Khi người mẹ cho nó tất cả chăm nom và chú ý, nó yêu mẹ, và nó ghét cũng chính người mẹ ấy khi người mẹ quở trách hay trừng phạt nó. Cho nên hai cảm giác này tràn ngập trong tâm trí nó hướng về cùng một đối tượng - người mẹ: nó ghét mẹ cũng như yêu mẹ. Đôi khi nó cảm thấy thích giết mẹ và lúc khác nó lại cảm thấy rằng nó không thể nào sống được nếu không có mẹ - rằng mẹ là mọi hơi thở của nó. Cách suy nghĩ nhị nguyên này làm cho người mẹ thành đối tượng đầu tiên của nó về yêu và ghét. Vậy, về sau trong cuộc đời, bởi vì mối liên hệ này trong tâm trí nó, bất kì ai mà nó yêu, nó cũng sẽ ghét.
Đây là một phát kiến rất nông cạn. Bong bóng đã bị bắt lấy trên bề mặt nơi nó sắp vỡ tung. Nếu đứa trẻ có thể yêu và ghét mẹ nó nữa, điều đó có nghĩa là khác biệt giữa yêu và ghét là về định lượng chứ không phải định tính. Yêu và giận cùng biểu lộ ra đồng thời. Nếu cả hai đền hiện diện, điều này chỉ có thể trong một điều kiện - rằng chúng là chuyển đổi cho nhau được: sóng của chúng có thể dao động từ bên nọ sang bên kia. Cho nên thiền nhân chỉ nhận ra tại sao tâm trí chất đầy với những xúc động xung đột trong thể thứ ba. Một người tới và chạm vào chân tôi sáng nay và hoan nghênh tôi như một người đầy ân huệ - thầy kính yêu. Cũng người đó tới vào buổi tối, lăng mạ tôi và nói, "Con người này chính là quỉ dữ." Sang hôm sau anh ta lại tới và ca tụng tôi là bậc thầy kính yêu và chạm vào chân tôi. Thế rồi người khác tới và khuyên tôi đừng chú ý tới lời anh ta vì lúc anh ta gọi tôi là Thượng đế và lúc là quỉ.
Tôi nói rằng anh ta là người duy nhất thích hợp để mà tin được. Người nói thì không đáng trách. Người đó không tạo ra những phát biểu xung đột; thay vì thế thì phát biểu của người đó thuộc vào cùng một phổ. Chúng là những chiếc bậc của cùng một cái thang, khác biệt chỉ là định lượng. Thực tế, ngay khi người đó nói "Thầy kính yêu", người đó mới nắm giữ một phần.
Tâm trí được tạo nên từ các cặp đối lập, cho nên phần thứ hai sẽ đi đâu? Nó sẽ nằm dưới phần thứ nhất chờ đợi để cho phần thứ nhất kiệt quệ hết. Sau rốt, phần thứ nhất cũng phải mệt mỏi, bởi vì làm sao người này có thể cứ nói "Thầy kính yêu" lâu mãi được? Khi người đó mệt mỏi, phần thứ hai bước tới nhắc người đó phải nói, "Con người này chính là quỉ dữ." Bây giờ chúng không phải là hai điều; chúng là một.
Chừng nào mà chưa tới thời điểm chúng ta có thể hiểu rằng tất cả những xúc động xung đột của mình đều là những hình thái của cùng một năng lượng, chúng ta sẽ không thể nào giải quyết được vấn đề của con người. Vấn đề lớn nhất mà chúng ta phải đương đầu là ở chỗ khi chúng ta yêu, chúng ta cũng ghét nữa. Chúng ta sẵn sàng giết người mà không có người đó, chúng ta không thể sống được. Người mà là bạn bè của ta, cũng là kẻ thù của ta ở sâu bên trong. Đây là vấn đề lớn nhất của chúng ta, và bất kì khi nào có mối quan hệ, điều này lại đặt ra một câu hỏi lớn. Một điều phải được hiểu rõ là ở chỗ năng lượng nền tảng trong các xúc động khác nhau là một; không có khác biệt dù chúng là gì.
Thông thường chúng ta coi ánh sáng và bóng tối như hai điều đối lập, điều này là sai. Theo thuật ngữ khoa học, bóng tối là trạng thái ánh sáng tối thiểu. Nếu chúng ta cố gắng chúng ta sẽ thấy ánh sáng trong bóng tối nữa. Không có bóng tối nơi ánh sáng không có. Vấn đề khác đi nếu công cụ nghiên cứu của chúng ta không nhận ra nó. Mắt chúng ta có thể không có khả năng nhận ra ánh sáng trong bóng tối, nhưng ánh sáng và bóng tối là trên cùng một bình diện, chúng là các hình thái và rung động khác nhau của cùng một năng lượng.
Sẽ dễ hiểu điều này hơn nếu xét theo cách khác: chúng ta tin ánh sáng và bóng tối là hoàn toàn đối lập lẫn nhau, nhưng chúng ta không tin nóng và lạnh là đối lập lẫn nhau theo mức độ đó. Cũng thú vị mà tiến hành một thực nghiệm sau. Đưa một tay hơ lên bếp lò còn tay kia, cầm nước đá. Bây giờ nhúng cả hai tay vào một chậu nước ở nhiệt độ trong phòng. Bạn sẽ thấy khó mà quyết định được liệu nước là nóng hay lạnh. Một tay sẽ nói nước nóng còn tay kia nói nước lạnh. Bạn sẽ lúng túng không quyết định được bởi vì cả hai tay đều là của bạn. Thực tế, lạnh và nóng không phải là hai điều khác nhau; chúng là những kinh nghiệm tương đối.
Nếu chúng ta gọi một vật nào đó là lạnh, điều đó chỉ có nghĩa là chúng ta ấm hơn. Điều mà chúng ta gọi nó là ấm chỉ có nghĩa là chúng ta lạnh hơn: chúng ta chỉ diễn đạt về khác biệt định lượng về nhiệt độ giữa đối tượng đó và bản thân chúng ta - không gì khác. Chẳng có gì nóng mà cũng chẳng có gì lạnh - hay, bạn có thể nói rằng cái là nóng, cũng là lạnh nữa. Thực tế, nóng và lạnh là các thuật ngữ lầm lạc. Chúng ta nên nói dưới dạng nhiệt độ; đó là cách diễn đạt đúng đắn. Nhà khoa học cũng không dùng từ nóng và lạnh. Ông ấy nói rằng nhiệt của một vật có nhiều độ lắm. Nóng và lạnh là những từ ngữ thi ca. Chúng là nguy hiểm cho khoa học bởi vì chúng chẳng truyền đạt điều gì.
Nếu một người đi vào phòng và nói nó lạnh, chúng ta không thể nào biết được người đó ngụ ý gì. Có thể là người này đang sốt và cảm thấy căn phòng lạnh mặc dầu nó chẳng lạnh chút nào. Do đó, chừng nào người này còn chưa biết về điều kiện thân nhiệt mình, việc đánh giá về nhiệt độ của phòng là vô nghĩa. Cho nên chúng ta có thể nói, "Chớ có bình luận về liệu phòng là nóng hay lạnh. Nói nhiệt độ của phòng là gì đi." Độ không cho chỉ dẫn nào về nóng hay lạnh; nó chỉ thông báo cho bạn nhiệt độ là gì. Nếu nhiệt độ ít hơn thân nhiệt bạn, bạn sẽ cảm thấy lạnh; nếu nó nhiều hơn, bạn sẽ cảm thấy nóng. Cũng điều ấy đúng cho ánh sáng và bóng tối: nó phụ thuộc vào khả năng thấy của bạn.
Đêm dường như tối với chúng ta nhưng không tối cho cú. Cú thấy ngày rất tối. Nó phải tự hỏi, "Con người kì lạ làm sao! Nó cứ tỉnh trong đêm." Nói chung con người coi cú là đần độn, nhưng con người không biết ý kiến của cú về mình là gì. Với cú ngày là đêm và trời là đêm khi nó là ngày. Cú phải tự nhủ con người mới đần làm sao! Nó nghĩ, "Có biết bao nhiêu người trí huệ trong loài người, ấy thế mà họ vẫn cứ còn tỉnh vào ban đêm và khi trời là ban ngày, họ đi ngủ. Khi đấy là lúc thực sự để dậy và hoạt động, sinh vật đáng thương này đi ngủ." Mắt cú có khả năng thấy vào ban đêm. Bởi vì nó có thể thấy vào ban đêm nên đêm không tối với nó.
Những rung động của yêu và ghét giống như những rung động của ánh sáng và bóng tối: chúng có tỉ lệ riêng của mình. Cho nên khi bạn bắt đầu nhận biết về bình diện thứ ba, bạn sẽ ở vào một điều kiện kì lạ: sẽ không còn là vấn đề chọn lựa riêng của bạn để yêu hay ghét nữa. Bây giờ bạn sẽ biết rằng đấy là hai tên của cùng một điều.
Nếu bạn chọn một thứ, bạn sẽ tự động chọn luôn thứ kia; bạn không thể nào thoát khỏi việc chọn lựa thứ hai. Cho nên nếu bạn yêu cầu yêu từ một người ở bình diện thứ ba, người đó sẽ hỏi liệu bạn có chuẩn bị cho cả ghét nữa không. Tất nhiên bạn sẽ nói, "Không, tôi chỉ muốn yêu thôi. Xin cho tôi tình yêu!" Người đó sẽ trả lời rằng điều ấy là không thể được bởi vì yêu là một hình thái rung động của ghét. Thực tế, yêu là hình thái làm hài lòng bạn, trong khi ghét là hình thái có cùng rung động nhưng làm bạn khó chịu.
Cho nên người thức tỉnh tại bình diện thứ ba, bắt đầu được giải thoát khỏi các cặp đối lập. Người đó sẽ nhận ra lần đầu tiên rằng điều người đó đã coi là hai điều đối lập, chỉ là một và như nhau. Hai nhánh đối lập trở thành một phần của cùng một thân cây. Thế thì người đó sẽ cười phá lên vì ngu đần của mình khi cố gắng phá huỷ cái này để giữ lấy cái kia. Nhưng thế thì người đó đã không biết rằng điều này là không thể được và rằng sâu phía dưới, cây là một. Nhưng chỉ sau khi thức tỉnh với bình diện thứ hai, người ta mới biết được bình diện thứ ba, bởi vì thể thứ ba có rung động rất tinh tế. Tại đó không có xúc động - chỉ có rung động.
Nếu bạn đi tới hiểu ra những rung động của thể thứ ba, bạn sẽ bắt đầu có một kinh nghiệm duy nhất. Thế thì khi thấy một người bạn sẽ có thể biết trực tiếp những rung động nào bao quanh người đó. Bởi vì bạn không biết về những rung động của riêng mình nên bạn cũng không thể nào nhận ra những rung động của người khác; ngoài ra, những rung động phát ra từ thể thứ ba thường tụ tập quanh đầu của mọi người. Vầng hào quang được vẽ trong tranh về Phật, Mahavira, Rama và Krishna chính là hào quang được thấy quanh đầu họ. Những hào quang này có mầu đặc biệt đã được phát hiện ra. Nếu bạn có kinh nghiệm đúng đắn về thể thứ ba, bạn sẽ bắt đầu thấy những hào quang này. Khi bạn bắt đầu thấy những mầu sắc này, bạn sẽ thấy không chỉ mầu của mình mà mầu của người khác nữa.
Thực tế, chúng ta càng bắt đầu thấy sâu hơn vào bản thân mình, chúng ta càng bắt đầu thấy sâu hơn vào trong người khác nữa - với cùng mức độ. Vì chúng ta chỉ biết có thể vật lí của mình nên chúng ta cũng chỉ biết có thể vật lí của người khác. Cái ngày mà chúng ta đi tới biết về thể ê te của riêng mình, chúng ta sẽ bắt đầu nhận biết về thể ê te trong người khác.
Trước khi bạn trở nên giận dữ bạn có thể biết rõ từ trước rằng bạn đang sắp giận dữ. Trước khi bạn bầy tỏ tình yêu, có thể dễ dàng dự đoán rằng bạn đang chuẩn bị cho tình yêu. Cho nên điều chúng ta gọi là sắp biết cảm giác của người khác, cũng chẳng phải là điều gì lớn lao cho lắm. Bằng việc trở nên nhận biết về thể xúc động của riêng mình, sẽ trở nên dễ dàng hiểu thấu cảm giác của người khác, bởi vì chúng ta bắt đầu thấy tất cả những biến thể của nó. Bằng việc tỉnh thức trong thể thứ ba mọi thứ trở nên rất rõ ràng, bởi vì thế thì chúng ta có thể thấy mầu sắc của nhân cách nữa.
Mầu sắc trang phục của các sadhu và các sannyasin đã được chọn lựa theo mầu sắc được thấy qua thể thứ ba. Việc chọn lựa là khác nhau trong mỗi trường hợp tương ứng với thể nào được nhấn mạnh. Chẳng hạn, Phật đã chọn mầu vàng bởi vì ông ấy nhấn mạnh vào thể thứ bẩy. Hào quang quanh người chứng ngộ ở bình diện thứ bẩy có mầu vàng; do đó, Phật đã chọn mầu vàng cho các khất sĩ bhikkhus. Chính bởi mầu này mà các sư phật giáo bhikkhus đã gặp khó khăn để còn ở lại tại Ấn Độ. Mầu vàng được đồng nhất với cái chết. Và thực tế, nó là mầu của cái chết, bởi vì bình diện thứ bẩy là bình diện của cái chết tối hậu. Cho nên mầu vàng được gắn với cái chết ở sâu trong chúng ta.
Mầu da cam cho cảm giác về cuộc sống. Do đó, áo choàng da cam của các sannyasin trông hấp dẫn hơn áo vàng; chúng có vẻ sống động. Đó là mầu của máu, và mầu của hào quang của thể thứ sáu: nó là mầu của mặt trời lên.
Người Jaina đã chọn mầu trắng, mầu của thể thứ năm - thể tâm linh. Người Jaina nhất định gạt Thượng đế ra - gạt Thượng đế ra khỏi việc thảo luận và gạt niết bàn ra khỏi thảo luận - bởi vì những thảo luận khoa học chỉ có thể có tới thể thứ năm. Mahavira là một người mang tâm trí khoa học. Do đó ông ấy nói về những vấn đề mà có thể giải quyết được về mặt toán học; vượt ra ngoài điều đó, ông ấy từ chối nói. Ông ấy không muốn nói liệu lời của mình có khả năng sai hay không cho nên ông ấy từ chối nói chi tiết về huyền học. Mahavira nói rằng chúng ta sẽ không nói về nó; chúng ta đi vào kinh nghiệm nó. Cho nên ông ấy không nói về các bình diện sau bình diện thứ năm. Đây là lí do tại sao Mahavira chọn mầu trắng; nó là mầu của bình diện thứ năm.
Từ bình diện thứ ba bạn sẽ bắt đầu thấy mầu sắc do hiệu ứng của những rung động tinh tế bên trong. Trong tương lai rất gần người ta có thể chụp ảnh được chúng. Nếu chúng có thể được thấy bằng mắt trần, tiếp theo điều đó chúng cũng không thể thoát khỏi con mắt của máy chụp ảnh trong không lâu nữa. Thế thì chúng ta sẽ phát triển khả năng kì diệu để đánh giá mọi người và tính cách của họ.
Có một nhà tư tưởng người Đức mang tên Luschev, người đã nghiên cứu tác động của mầu sắc lên hàng triệu người. Nhiều bệnh viện ở châu Âu và Mĩ đang dùng thực nghiệm của ông ấy. Mầu sắc bạn chọn cho biết khá rõ về nhân cách của bạn. Một người có bệnh đặc biệt, ưa thích một mầu đặc biệt; người mạnh khoẻ chọn mầu hoàn toàn khác; người trầm tĩnh, ưa thích mầu khác nữa; người tham vọng thích mầu hoàn toàn khác với người không tham vọng. Với chọn lựa của mình bạn đưa ra hướng dẫn về điều đang xảy ra bên trong thể thứ ba của bạn. Bây giờ sự kiện thú vị là nếu bạn hiểu thấu về mầu được toả ra từ thể thứ ba của mình, và nếu ưa thích về mầu sắc của bạn được kiểm nghiệm, hoá ra nó là cùng một mầu: bạn sẽ chọn mầu tương tự với mầu phát ra từ thể thứ ba của mình.
Mầu sắc có ý nghĩa và ích lợi kì lạ. Trước đây người ta không biết rằng mầu sắc có thể có ý nghĩa đến mức chúng thậm chí còn có thể truyền đạt ra ngoài về nhân cách của bạn. Cũng vậy người ta đã không biết rằng tác động của mầu sắc có thể động chạm tới nhân cách bên trong của bạn. Bạn không thể nào thoát được chúng. Chẳng hạn mầu đỏ: nó bao giờ cũng được gắn với cách mạng. Nó là mầu của giận dữ và khó mà thoát khỏi nó. Do đó, các cuộc cách mạng đều mang lá cờ đỏ. Có hào quang đỏ quanh tâm trí phẫn nộ. Nó là mầu của máu, mầu của chém giết, mầu của giận dữ và của huỷ diệt.
Điều rất thú vị là nếu mọi thứ trong phòng đều mang mầu đỏ, huyết áp của tất cả các bạn ngồi đây sẽ tăng lên. Nếu một người liên tục sống với mầu đỏ, huyết áp của anh ta chẳng bao giờ bình thường cả. Mầu lam gây cho huyết áp tụt xuống: nó là mầu của bầu trời và sự tĩnh lặng tối thượng. Nếu có mầu lam quanh bạn, huyết áp của bạn sẽ tụt xuống.
Gạt con người sang bên: nếu chúng ta rót đầy nước vào một cái chai mầu lam và để nó dưới ánh mặt trời, thành phần hoá học của nước sẽ thay đổi. Nước hấp thu mầu lam mà mầu này làm thay đổi thành phần của nó. Nước này có tác động tới huyết áp con người. Tương tự, nếu chúng ta rót nước vào chai mầu vàng rồi đặt nó dưới ánh mặt trời, các đặc trưng của nước sẽ khác. Nước trong chai lam sẽ vẫn còn tươi tắn trong vài ngày trong khi nước trong chai vàng, hôi thối ngay lập tức. Mầu vàng là mầu của cái chết và nó làm tan rã mọi thứ.
Bạn sẽ bắt đầu thấy các vòng tròn đủ mọi mầu sắc này quanh bạn. Điều này sẽ là ở bình diện thứ ba. Khi bạn nhận biết về ba thể này, chính nhận biết đó sẽ đem đến hài hoà giữa chúng. Thế thì shaktipat thuộc bất kì loại nào cũng sẽ không thể nào gây ra kết quả có hại. Năng lượng của shaktipat sẽ đi vào thể thứ tư của bạn qua các tầng hài hoà của ba thể đầu; đây sẽ là đường cái nó đi qua. Nếu con đường này không sẵn sàng, có thể có nhiều nguy hiểm. Bởi lí do này tôi đã nói rằng ba thể đầu nên mạnh mẽ và ăn khớp; chỉ thế thì trưởng thành mới xảy ra một cách trôi chảy.
Nếu những người đã vào các luân xa thứ tư, thứ năm, thứ sáu hay thứ bảy mà chết đi, trong lần sinh thành tiếp, trạng thái luân xa của họ sẽ là gì? Những người thuộc bình diện nào vẫn còn trong cõi sinh linh vô thân cao hơn sau cái chết của họ? Liệu những sinh linh vô thân cao hơn ấy có phải tái sinh dưới dạng người để đi tới chứng ngộ cuối cùng không?
Chúng ta sẽ phải hiểu đôi điều từ xa đã. Tôi đã nói với các bạn về bẩy thể. Khi ghi nhớ điều này trong tâm trí, chúng ta cũng có thể phân chia sự tồn tại ra thành bẩy tầm hướng. Trong toàn bộ sự tồn tại, tất cả bẩy thể đều hiện diện mãi mãi. Dù tỉnh hay ngủ, tích cực hay trơ ì, xấu hay đẹp, chúng bao giờ cũng có đấy. Lấy một mẩu kim loại - chẳng hạn một mẩu sắt: tất cả bẩy thể đều hiện diện trong nó nhưng tất cả bẩy thể này đều ngủ; tất cả bẩy thể đều trơ ì, không tích cực. Do đó, mẩu sắt trông có vẻ chết. Lấy cây: thể thứ nhất của nó đã trở nên tích cực, thể vật lí; do đó, chúng ta có thoáng nhìn về cuộc sống trong cây cối.
Thế rồi đến con vật: thể thứ hai của nó đã trở nên được kích hoạt. Chuyển động, vốn không tồn tại trong cây cỏ, bắt đầu có ở con vật. Cây cỏ cắm gốc rễ xuống đất và bao giờ cũng ở yên một chỗ. Nó không di động bởi vì để di động được, thể thứ hai phải được kích hoạt - thể ê te là nơi phát xuất mọi sự chuyển động. Nếu chỉ có thể thứ nhất được thức tỉnh, nó sẽ bất động, cố định. Cây cối là con vật cố định. Có một số cây cối có lay động chút ít: đó là trạng thái giữa cây cối và con vật. Trong nhiều vùng lầy lội ở châu Phi có một số loài cây trườn đi được một khoảng cách chừng sáu mươi cho tới bẩy nhăm phân một năm. Nhờ có rễ của mình, chúng có thể giữ chặt lấy đất và rồi thả đi và do vậy thực hiện việc chuyển động. Đây là móc nối cách mạng giữa cây cối và con vật.
Thể thứ hai cũng bắt đầu hoạt động trong con vật. Điều này không có nghĩa rằng thể thứ hai đã đạt tới nhận biết; nó chỉ có nghĩa là nó đã trở nên được kích hoạt. Con vật không có tri thức gì về điều đó. Bởi vì thể thứ hai mới được kích hoạt nên nó kinh nghiệm giận dữ; nó có thể bầy tỏ thương yêu, nó có thể chạy, tự bảo vệ mình, kinh nghiệm cái sợ, nó có thể tấn công hay trốn tránh và nó có thể di chuyển.
Trong con người thể thứ ba được kích hoạt. Do đó, con người không chỉ có thể di chuyển thân thể mà còn có tâm trí: người đó có thể du hành với tâm trí. Người đó du hành trong quá khứ cũng như trong tương lai. Không có tương lai cho con vật, và bởi lí do này mà nó chẳng bao giờ lo nghĩ, chẳng bao giờ căng thẳng, bởi vì mọi lo âu đều là vì tương lai. Điều gì sẽ xảy ra ngày mai là lo nghĩ lớn nhất của chúng ta. Nhưng với con vật, chẳng có tương lai; hôm nay là mọi điều với nó. Thậm chí cả đến hôm nay cũng không tồn tại cho chúng theo một nghĩa nào đó, bởi vì hôm nay có nghĩa gì với người ta nếu ngày mai không có nghĩa? Cái có đấy thì có đấy.
Trong con người chuyển động tinh tế hơn đã phát sinh - chuyển động của tâm trí. Nó đến từ thể thứ ba, thể vía. Bây giờ con người có thể nghĩ về tương lai với sự trợ giúp của tâm trí. Con người cũng có thể lo nghĩ về cái sẽ có sau cái chết - người đó sẽ đi đâu, người đó sẽ không đi đâu. Người đó cũng ngẫm nghĩ về nơi mình đã ở trước khi sinh ra.
Thể thứ tư hoạt động ở một số người, không phải cho tất cả mọi người. Nếu một người chết sau khi thể thứ tư đã được kích hoạt, người đó sẽ được sinh ra ở bình diện deva, các thần, nơi có nhiều khả năng để kích hoạt thể thứ tư. Nếu thể thứ ba vẫn còn tích cực, chỉ thế thì con người mới vẫn còn là con người. Từ thể thứ tư, việc sinh trên bình diện cao hơn mới bắt đầu.
Với thể thứ tư sẽ vẫn có khác biệt cần phải hiểu. Nếu thể thứ tư được kích hoạt, ít có khả năng thu được một thể vật lí nữa và nhiều khả năng thu được sinh linh vô thể. Nhưng như tôi đã nói, nhớ tới khác biệt giữa việc kích hoạt và tâm thức. Nếu thể thứ tư đơn thuần được kích hoạt mà người ta lại không có ý thức, chúng ta gọi nó là bình diện của preta, linh hồn ác; nếu nó được kích hoạt mà có ý thức hoàn toàn, chúng ta gọi nó là bình diện của deva, linh hồn thiện. Đây là khác biệt duy nhất giữa preta và deva. Linh hồn ác, không nhận biết rằng thể thứ tư của nó đang được kích hoạt trong khi vị thần thì nhận biết. Do đó, preta có thể gây ra rất nhiều điều có hại cả cho chính nó và cho người khác với những hành động của thể thứ tư của nó, bởi vì vô ý thức chỉ có thể đem lại tai hại. Deva sẽ là nguyên nhân cho nhiều hành vi tốt cả cho chính nó và cho người khác, bởi vì nhận biết chỉ đem lại ích lợi.
Người có thể thứ năm trở nên tích cực, vượt ra ngoài sự tồn tại của deva. Thể thứ năm là thể tâm linh. Trên bình diện thứ năm việc kích hoạt và nhận biết là một và như nhau. Không ai có thể đạt tới bình diện thứ năm mà lại không có nhận biết; do đó, kích hoạt và nhận biết xảy ra đồng thời ở đây. Bạn có thể đạt tới bình diện thứ tư mà không cần nhận biết. Nếu bạn thức tỉnh, cuộc hành trình sẽ bước sang một bước ngoặt: nó sẽ hướng tới bình diện deva, bình diện của các thần. Nếu bạn không nhận biết, cuộc hành trình của bạn sẽ đi vào trong cõi giới của các linh hồn ác.
Tại bình diện thứ năm việc kích hoạt và nhận biết có đó đồng thời, bởi vì đây là thể tâm linh và vô nhận biết là vô nghĩa chừng nào còn có liên quan tới cái ta. Atman có nghĩa là tâm thức; do đó, tên khác của atman là tâm thức. Tại đây vô ý thức không có nghĩa.
Cho nên từ thể thứ năm, kích hoạt và nhận biết là một và cùng một điều, nhưng trước lúc đó, hai điều này là tách biệt. Khác biệt giữa đàn ông và đàn bà còn có đó cho tới thể thứ tư; khác biệt giữa ngủ và tỉnh còn có đó cho tới thể thứ tư. Vấn đề là nhị nguyên và xung đột vẫn còn có đó cho tới thể thứ tư. Từ thể thứ năm, bất nhị bắt đầu - cái không phân chia. Sự thống nhất bắt đầu từ thể thứ năm. Trước điều này, còn đa dạng, còn khác biệt. Tiềm năng của thể thứ năm không tới từ bình diện của preta mà cũng chẳng tới từ bình diện của deva. Điều này nên được hiểu.
Thể thứ năm không thể có được đối với preta bởi vì thể của chúng là sự tồn tại vô ý thức. Chúng không có thân thể vốn là cần thiết để nhận biết, và chúng không có thể thứ nhất mà chính là bước đầu tiên để đi tới nhận biết. Bởi lí do này mà preta phải quay trở lại hình dạng người. Do đó, sự tồn tại con người theo một nghĩa nào đó là ngã ba đường. Bình diện của deva, ở trên nhưng không vượt ra ngoài nó, bởi vì để vượt ra ngoài, cần phải quay lại sự tồn tại con người. Preta phải quay lại để phá vỡ vô nhận biết của nó, bởi vì để đạt được điều này, hình dạng người là tuyệt đối cần thiết. Deva cũng phải quay trở lại, bởi vì trong sự tồn tại của họ không có đau khổ theo bất kì điều gì. Thực tại nó là sự tồn tại đã thức tỉnh. Tuy nhiên, trong sự tồn tại như thế thì không thể nào có đau đớn và đau khổ cái làm sinh thành cho niềm khát khao thiền. Nơi mà không có đau khổ, không có ý nghĩ về việc biến đổi hay đạt tới.
Cho nên cõi giới của deva là sự tồn tại tĩnh tại, nơi không có tiến bộ. Đây là một đặc thù của hạnh phúc: nó phong toả mọi tiến bộ thêm nữa. Trong đau đớn và đau khổ, có khao khát để trưởng thành. Đau khổ kích thích chúng ta tìm con đường và phương tiện để thoát khỏi đau đớn và buồn rầu. Trong hạnh phúc tất cả mọi việc tìm kiếm đều dừng lại. Cho nên đây quả thực là trạng thái vấn đề rất kì lạ, và mọi người thường không hiểu điều này.
Trong các kiếp sống của Mahavira và Phật đều có những truyền thuyết về các thần deva tới họ để xin giáo huấn, nhưng đây là những biến cố rất ngoại lệ. Liệu có kì lạ không mà thần phải tới con người bởi vì đấy là sự tồn tại cao hơn sự tồn tại con người. Điều ấy dường như kì lạ nhưng lại không phải thế thì bởi vì sự tồn tại trên cõi trời là sự tồn tại tĩnh tại mà từ đó, không có trưởng thành. Nếu bạn muốn tiến lên trước, cũng giống như bạn lùi lại một bước trước khi nhảy, bạn phải bước lùi lại sự tồn tại con người và thế rồi mới nhảy.
Hạnh phúc thì khác, thường theo nghĩa là không có chuyển động thêm nữa. Một điều nữa: hạnh phúc trở thành chán. Không có nhân tố nào khác có thể gây ra buồn chán đến thế như hạnh phúc. Bất hạnh, không chán; tâm trí bất hạnh chẳng bao giờ chán cả. Do đó, người bất hạnh chẳng bao giờ bất mãn, mà bất mãn cũng chẳng có trong xã hội đầy rẫy những đau khổ và khốn cùng. Chỉ có người hạnh phúc hay cộng đồng hạnh phúc mới bất mãn. Ấn Độ không bất mãn như Mĩ. Lí do chỉ là thế này, rằng họ thừa mứa và hạnh phúc trong khi chúng ta nghèo nàn và khổ. Chẳng có gì để trông đợi ở Mĩ và không có đau khổ dằn vặt họ để trưởng thành thêm nữa. Bên cạnh đó, hạnh phúc, cứ lặp lại mãi: cùng những hình thức giải trí và tận hưởng cứ lặp đi lặp lại mãi thành ra vô nghĩa.
Cho nên cõi giới của các thần deva là đỉnh cao của chán. Không có chỗ nào còn đáng chán hơn nữa trong vũ trụ này, và có quá nhiều cái chán ở đấy. Nhưng cũng phải có thời gian để cho cái chán phát triển. Bên cạnh đó, điều ấy còn phụ thuộc vào nhạy cảm của từng cá nhân. Một người càng nhạy cảm, người đó sẽ càng sớm thấy chán; người càng ít nhạy cảm, sẽ mất thời gian lâu hơn. Cũng có thể là người đó không thấy chán chút nào. Con trâu ăn cùng loại cỏ hàng ngày mà nó chẳng chán bao giờ.
Nhạy cảm là rất hiếm hoi. Chán tỉ lệ với nhạy cảm của con người. Nhạy cảm bao giờ cũng tìm cái mới: nó tìm kiếm ngày càng nhiều cái mới hàng ngày. Nhạy cảm là một loại bất ổn, và điều này đến lượt nó lại là một loại sinh động. Cho nên cõi giới của các thần deva là một loại tồn tại chết, cũng như là cõi giới của quỉ preta. Nhưng cõi giới của thần, mang tính chết nhiều hơn, bởi vì trong thế giới của quỉ preta có nhiều đau khổ và cách thức để gây đau khổ cũng như sự thích thú làm cho người ta và người khác đau khổ. Có đủ những điều gây bất ổn ở đó, cho nên không có chán chút nào.
Cõi thần, rất an bình: không có rối loạn thuộc bất kì kiểu gì. Cho nên chung cuộc việc trở về từ cõi giới thần chỉ có thể là việc thoát ra khỏi cái chán. Nhớ lấy, nó ở trên kiếp người; tính nhạy cảm tăng lên ở đó. Thích thú mà không trở thành chán với chúng ta qua nhiều năm trong cuộc sống có thân thể, lại trở thành tẻ nhạt và chán ngán một khi nó được tận hưởng trong cõi giới thần.
Đó là lí do tại sao trong Purana nói rằng thần khao khát được sinh ra làm con người. Bây giờ điều này dường như rất đáng ngạc nhiên bởi vì tại đây trên trái đất này chúng ta khát khao đi tới cõi giới thần. Thậm chí còn có những câu chuyện thần nào đó xuống trái đất để yêu một người đàn bà. Những câu chuyện này là chỉ dẫn về trạng thái của tâm trí. Chúng chỉ ra rằng trong cõi giới đó có hạnh phúc, nhưng nó thành chán bởi vì chỉ có hài lòng và thích thú mà không có dấu vết nào của đau khổ hay buồn rầu. Thế thì nó trở thành chán. Nếu người ta được cho phép chọn lựa giữa hạnh phúc vô hạn không lúc nào buồn rầu và chọn buồn rầu và đau khổ vô hạn, người khôn ngoan sẽ chọn phương án sau. Chúng ta phải quay về từ cõi giới của thần; chúng ta cũng phải quay về từ cõi giới của quỉ.
Sự tồn tại con người là tại ngã ba đường: tất cả các cuộc hành trình đều có thể từ đó. Tuy nhiên, người đạt tới thể thứ năm, không phải đi đâu nữa. Người đó đi vào một trạng thái mà trong đó không còn bất kì sinh thành nào qua bụng mẹ; người đó không được tái sinh qua bụng mẹ của bất kì bà mẹ nào.
Người đã đạt tới cái ta thì chấm dứt cuộc hành trình của mình theo một nghĩa nào đó. Trạng thái trong thể thứ năm là trạng thái của giải thoát. Nhưng nếu người đó cảm thấy được thoả mãn bên trong mình, người đó có thể dừng lại tại bình diện này trong vô hạn thời đại, bởi vì tại đây không có đau đớn mà cũng chẳng thích thú, không nô lệ cũng chẳng đau khổ. Chỉ có sự hiện hữu riêng của người ta - không phải là sự hiện hữu vũ trụ, cái tất cả. Cho nên một người có thể cứ sống trong trạng thái này trong vô hạn thời đại cho tới khi một thời điểm tới mà người đó phát triển tính tò mò để biết tất cả.
Hạt mầm của việc tìm kiếm là ở bên trong chúng ta; do đó, nó phát sinh. Nếu thiền nhân nuôi dưỡng tính tò mò để biết tất cả mọi điều từ ngay ban đầu, người đó có thể thoát khỏi nguy cơ của việc bị mắc vào thể thứ năm.
Cho nên nếu bạn biết khoa học đầy đủ về bẩy thể, bạn sẽ biết rằng việc tìm kiếm nên đầy đủ và tối thượng từ ngay chính ban đầu. Nếu bạn bắt đầu với mục tiêu dừng lại giữa đường, thế thì khi bạn đạt tới thể thứ năm bạn sẽ cảm thấy bạn đã tới đích, tới địa điểm dự định của mình, và bạn sẽ lỡ vấn đề.
Cho nên người ở thể thứ năm phải không nhận sự sinh thành nhưng người đó phải cột chặt bên trong mình: người đó phải thoát khỏi mọi người nhưng vẫn còn gắn vào chính mình. Người đó vứt bỏ bản ngã nhưng không vứt bỏ cảm giác "tôi đây." Bản ngã là lời tuyên bố chống lại người khác.
Hiểu điều này cho rõ: Khi tôi nói ‘tôi’, đấy là để chi phối cái ‘bạn’ nào đó. Do đó, khi tôi thành công trong việc chi phối bạn, bản ngã cảm thấy thắng lợi. Khi nó bị cái tôi của người khác chi phối, nó khổ. Cái tôi bao giờ cũng cố gắng để làm mạnh cho bạn. Cái tôi bao giờ cũng tồn tại trong tương phản với người khác.
Tại đây ở mức độ tâm thức thứ năm người khác không còn nữa và cũng không còn bất kì cạnh tranh nào với nó. Đây là trạng thái của tính chất tôi, asmita, tự tại. Đây là khác biệt duy nhất giữa bản ngã và asmita. Bây giờ tôi chẳng có gì để làm với bạn cả; không còn tuyên bố về cái tôi, nhưng vẫn còn sự hiện hữu của tôi. Tôi không còn cần đứng ra chống lại người khác, nhưng "tôi đây" vẫn có mặc dầu không có bạn để mà so sánh.
Bởi lí do này mà tôi đã nói bản ngã sẽ nói ‘tôi’ còn sự hiện hữu, nói ‘đây’. Đây sẽ là khác biệt. Trong "tôi đây" có hai khái niệm: cái tôi là bản ngã và cái đây, sự hiện hữu.
Cảm giác về tính chất tôi không chống lại ai cả; nó là hương vị của chính nó. Cảm giác này là một với "tôi đây," cho nên để nó đấy mà không có ai khác trên thế giới này. Cứ để cho có thế chiến thứ ba và để cho tất cả chết hết nhưng tôi, nên còn lại. Cho nên mặc dầu sẽ không có bản ngã trong tôi nhưng cảm giác về tính chất tôi vẫn cứ có đấy: tôi biết rằng tôi đây, cho dù tôi sẽ không nói tôi với người khác, bởi vì với tôi không có bạn còn lại để mà tôi có thể nói về điều đó. Cho nên khi bạn hoàn toàn đơn độc và không có người khác, thế nữa bạn vẫn có - theo nghĩa sự hiện hữu tồn tại.
Bản ngã tan biến trong thể thứ năm và do vậy móc nối mạnh mẽ trong xiềng xích nô lệ sụp đổ. Những cảm giác về tính chất tôi vẫn còn lại - tự do, độc lập, vô giới hạn và không có gắn bó nào. Nhưng cái tôi có những giới hạn riêng của nó. Tất cả các biên giới khác mờ đi ngoại trừ biên giới của tính chất tôi. Tại thể thứ sáu điều này nữa bị loại bỏ và bị siêu việt lên. Thế thứ sáu là thể vũ trụ.
Câu hỏi về việc được sinh ra trong bụng mẹ chấm dứt với thể thứ năm, nhưng việc sinh thành vẫn phải được tiến hành. Khác biệt này nên được hiểu cho đúng. Một lần sinh thành là từ bên trong bụng mẹ và một lần sinh thành là từ bên trong chính mình. Đây là lí do tại sao trên đất nước này chúng ta gọi người brahmin là dwij - hai lần sinh thành. Thuật ngữ này thực tế được dùng cho Brahman gyani, người biết tới Brahman - thực tại vũ trụ. Gọi một người chưa chứng ngộ là brahmin là không cần thiết. Khi một người trải qua lần sinh thành thứ hai thuộc loại hoàn toàn khác, người đó được gọi là dwij - hai lần sinh thành; người đã chứng ngộ được gọi là brahmin.
Vậy một lần sinh là từ bụng người khác và một lần là từ chính cái ta của riêng mình. Một khi đạt tới thể thứ năm, bạn không thể nào được sinh ra từ người khác nữa. Bây giờ bạn sẽ phải được sinh ra qua thể thứ năm để vào thể thứ sáu. Cuộc hành trình này là của bạn, việc thai nghén bên trong riêng của bạn, sự sinh thành bên trong riêng của bạn. Bây giờ không có liên hệ nào với bụng mẹ bên ngoài hay với bất kì phương tiện sáng tạo bên ngoài nào. Bây giờ bạn không có bố hay mẹ; bạn là bố, bạn là mẹ, và bạn là con. Đây hoàn toàn là cuộc hành trình cá nhân. Cho nên khi một người đi vào thể thứ sáu qua thể thứ năm, người đó có thể được gọi là sinh ra hai lần và không như trước đó. Người đó được sinh ra không nhờ các phương tiện sáng tạo bên ngoài, không có sự trợ giúp của bụng mẹ bên ngoài.
Một rishi của Upanishad cầu nguyện, "Lạy trời, xin mở tấm màn vàng của bụng mẹ bên trong này mà trong đó thực tại đang ẩn náu." Tấm màn này dứt khoát là bằng vàng. Chúng bằng vàng đến mức chúng ta không muốn gạt chúng sang bên; chúng đẹp đến mức chúng ta náo nức giữ lấy chúng. Tính chất tôi là tấm màn vô giá che phủ lên chúng ta. Bản thân chúng ta sẽ không muốn chia tay với nó và không có chướng ngại bên ngoài nào dừng chúng ta lại. Bản thân tấm màn cũng đáng yêu đến mức chúng ta không thể nào rời khỏi nó. Do đó rishi nói, "Xin gạt bỏ tấm màn vàng và mở bụng mẹ tạo ra người được sinh lần thứ hai."
Cho nên Brahma gyani là từ gọi cho người được sinh ra lần thứ hai, và Brahma gyani có nghĩa là người đã đạt tới thể thứ sáu. Từ thể thứ năm sang thể thứ sáu cuộc hành trình là của người được sinh ra lần thứ hai. Bụng mẹ khác đi, cách sinh ra cũng khác. Bây giờ mọi thứ đều không có bụng mẹ: bụng mẹ là của riêng người ta, và chúng ta bây giờ tự sinh ra.
Từ thể thứ năm sang thể thứ sáu có sinh thành còn từ thể thứ sáu sang thể thứ bẩy thì có cái chết. Do đó, người đã trải qua bước chuyển sau, không còn được gọi là được sinh ra hai lần nữa; không có nghĩa trong nó. Bạn có hiểu không? Bây giờ thì dễ theo dõi.
Từ thể thứ năm sang thể thứ sáu là sinh qua bản thân mình; từ thể thứ sáu sang thể thứ bẩy là chết qua bản thân mình. Chúng ta đã được sinh ra qua người khác - qua thân thể người khác - và cái chết theo sau cũng là của người khác. Điều này tôi sẽ giải thích.
Nếu sinh của bạn là từ người khác, làm sao cái chết của bạn là của riêng bạn được? Làm sao điều này lại có thể được? Hai đầu sẽ không có liên hệ. Nếu người khác cho tôi sự sinh, thế thì cái chết không thể nào là của tôi được. Khi sinh tới từ người khác, chết nữa cũng tới từ kẻ khác. Khác biệt là thế này, rằng đầu tiên tôi xuất hiện qua một bụng mẹ và lần thứ hai tôi đi vào trong một bụng mẹ khác - nhưng tôi đâu có nhận biết. Khi tôi tới trong lần sinh thành này, nó là rõ ràng, nhưng bây giờ việc ra đi của tôi lại không rõ ràng. Chết đi trước sinh: bạn đã chết ở đâu đó trước khi bạn được sinh ra ở đâu đó. Sinh là rõ ràng, nhưng về chết, bạn không nhận biết.
Bây giờ bạn được sinh ra qua một người mẹ và một người bố: bạn kiếm được một thân thể, một công cụ sẽ chạy trong bẩy mươi cho tới một trăm năm. Sau một trăm năm, khí cụ này sẽ không làm việc. Cái ngày nó sẽ dừng làm việc đã được định trước từ khoảnh khắc sinh ra. Khi nào nó sụp đổ chẳng quan trọng lắm; điều quan trọng là ở chỗ nó sẽ sụp đổ. Với sinh, đã có quyết định rằng bạn sẽ chết. Bụng mẹ đem bạn tới sinh của bạn, cũng đem tới chết của bạn nữa. Bạn đã đem cả hai chúng cùng nhau. Thực tế, chết nằm ẩn bên trong bụng mẹ cho sự ra đời; chỉ có khoảng một trăm năm thôi.
Trong một trăm năm này bạn sẽ hoàn tất cuộc hành trình của mình từ đầu này đến đầu kia và quay lại đích xác chỗ mà từ đó bạn tới. Cái chết của thân thể bạn là được nhận từ người khác vào lúc sinh của bạn; do đó, cái chết cũng là từ người khác. Cho nên bạn, không sinh mà bạn cũng chẳng chết. Trong sinh có một trung gian và trong chết nữa cũng có một trung gian. Khi bạn đi vào thể thứ sáu, thể vũ trụ, từ thể thứ năm, thể tâm linh, bạn sẽ được sinh ra lần đầu tiên. Thế thì bạn sẽ là tự sinh ra: việc sinh của bạn sẽ không qua bụng mẹ. Nhưng thế thì việc tự chết sẽ đồng thời chờ đợi bạn - cái chết không bụng mẹ cũng chờ đợi bạn. Bất kì khi nào sinh này đón lấy bạn, từ đó chết sẽ dẫn bạn tiến lên hơn nữa. Sinh đưa bạn tới Brahman còn chết đưa bạn tới niết bàn.
Sinh này có thể kéo dài rất lâu; nó có thể là vô tận. Một người như vậy, nếu người đó vẫn còn, sẽ trở thành Thượng đế. Một tâm thức như vậy nếu nó du hành lâu, sẽ được hàng triệu người tôn thờ; lời cầu nguyện sẽ được đưa lên người đó. Những người mà chúng ta gọi là avatar, Ishvara, con của Thượng đế, tirthankara, đều là những người đã đi vào thể thứ sáu từ thể thứ năm. Họ có thể vẫn còn ở bình diện đó lâu tuỳ ý và họ có thể có ích rất lớn.
Không có vấn đề về bất kì cái hại nào tới từ họ và họ có thể là người chỉ đường vĩ đại. Những người như thế cố gắng phấn đấu mãi mãi và làm việc để những người khác cũng đi qua con đường có trước. Tâm thức của những người ở bình diện thứ sáu cũng có thể chuyển tiếp những thông điệp theo nhiều cách khác nhau, và những người có thoáng cảm giác về những người như vậy, không thể nào xếp họ ở bất kì chỗ nào thấp hơn Bhagwan, người được ban phúc. Họ là Bhagwan: không có gì thiếu trong sự hiện hữu Bhagwan của họ, bởi vì họ đã đạt tới thể thứ sáu, thể vũ trụ.
Trong chính cuộc đời này người ta có thể đi vào bình diện thứ sáu qua bình diện thứ năm. Bất kì khi nào bất kì ai đi vào bình diện thứ sáu trong cuộc đời này, chúng ta đều gọi người đó là Phật hay Mahavira hay Rama hay Christ. Và những người cảm nhận họ như vậy đều coi họ như Thượng đế. Với những người không thể thấy được, vấn đề này không nảy sinh.
Một người trong làng nhận ra Phật là Ishwara; với người khác, ông ấy chẳng là gì cả - hoàn toàn bình thường. Ông ấy cũng cảm lạnh như chúng ta; ông ấy ngã bệnh hệt như chúng ta; ông ấy ăn, ngủ, bước đi và nói giống chúng ta; ông ấy thậm chí chết cũng như chúng ta. "Thế thì đâu là khác biệt giữa ông ấy và chúng ta?" người ta hay biện luận thế. Số những người không thấy được khác biệt còn lớn vô hạn so với số người thấy được, cho nên những người thấy được, dường như là điên khùng, dối trá, bởi vì họ chẳng có bằng chứng nào về bất kì cái gì để đưa ra chứng minh cả.
Thực tại, không có bằng chứng nào cả. Chẳng hạn, chiếc microphone này ở trước tôi. Nếu bạn, người đang hiện diện mà không thể thấy được nó, làm sao tôi chứng minh cho bạn rằng nó có đó? Nếu tôi nói nó có đó còn bạn không thể nào thấy được nó, tôi sẽ bị coi là điên. Việc thấy trong khi người khác không thể thấy được là một bằng chứng rằng bạn không có tâm trí lành mạnh.
Chúng ta đo chứng ngộ cũng theo đa số phiếu bầu; ở đây nữa chúng ta cũng có hệ thống bỏ phiếu! Cho nên với một số người, họ cảm thấy Phật là Thượng đế còn số khác, lại không. Những người không thể thấy ông ấy là Thượng đế sẽ nói, "Cái loại điên khùng gì thế nhỉ? Ông ta là con vua Shuddhodana và người nọ là mẹ ông ta người kia là vợ ông ta. Ông ta chính là Gautama, không là ai khác cả." Ngay cả bố của ông cũng không thể nào thấy rằng Gautama đã trở thành một người hoàn toàn khác. Ông bố vẫn coi ông ấy như đứa con mình, và nói, "Con đã rơi vào điên khùng gì vậy? Trở về cung điện đi. Con đang làm gì vậy? Vương quốc đang điêu tàn và ta đang già đi. Con trở về và coi sóc mọi sự." Người bố đáng thương này đã không nhận ra rằng Phật đã trở thành bậc thầy của vô hạn vương quốc. Nhưng người đã có đôi mắt để thấy, đều coi những người như vậy là tirthankara, Bhagwan, hay con của Thượng đế. Họ sẽ dùng lời như vậy để diễn tả cho người ở thể thứ sáu.
Thể thứ bẩy không bao giờ đạt tới được trong thân thể này. Trong thân thể này chúng ta có thể nhiều nhất là đứng ở đường biên của thể thứ sáu từ đó chúng ta có thể thấy thể thứ bẩy. Cái nhảy đó, hư không đó, vực thẳm đó, vĩnh hằng đó, là thấy được từ đó, và tại đó chúng ta có thể đứng. Do đó, trong cuộc đời của Phật đã có nhắc tới hai niết bàn. Một niết bàn ông ấy đạt tới dưới gốc cây bồ đề trên bờ dòng sông Niranjana: đó là bốn mươi năm trước cái chết của ông ấy. Điều này được gọi là niết bàn. Ngày đó ông ấy đứng trên phần ngoại vi của thể thứ sáu - và ông ấy vẫn còn ở đó trong bốn mươi năm đằng đẵng.
Ngày ông ấy chết được gọi là mahaparinirvana; ngày đó ông ấy đi vào bình diện thứ bẩy. Do đó, khi bất kì ai hỏi ông ấy, "Điều gì sẽ xảy ra cho Như Lai (Tathagata) sau cái chết?", Phật sẽ đáp lại, "Sẽ không còn Như Lai nữa."
Nhưng điều này không thoả mãn tâm trí. Người ta cứ hỏi đi hỏi lại mãi, "Cái gì sẽ xảy ra cho Phật trong Mahaparinirvana?" Với điều này Phật đáp, "Nơi mà tất cả các hoạt động dừng lại, nơi mà tất cả các biến cố dừng lại, chỗ đó được gọi là mahaparinirvana." Khi mà cái gì đó vẫn còn giữ lại để xảy ra trong thể thứ sáu, đó là sự tồn tại; vượt ra ngoài điều này là cái không tồn tại. Cho nên khi Phật không có đó, chẳng cái gì còn lại. Theo một nghĩa nào đó, bạn có thể nói ông ấy chẳng bao giờ có. Ông ấy sẽ mờ dần đi như mơ, như đường vẽ trên cát, như đường vẽ trên nước tan biến hình dạng của nó. Ông ấy sẽ mất đi và chẳng cái gì còn lại. Nhưng điều này không thoả mãn cho tâm trí chúng ta. Chúng ta nói rằng ở đâu đó, ở mức độ nào đó, trong một góc nào đó dù xa xôi đến đâu cũng chẳng thành vấn đề, ông ấy vẫn nên tồn tại. Nhưng trong bình diện thứ bẩy, ông ấy trở thành chỉ là hư không, vô hình.
Không có cách nào mang một hình hài mới bên ngoài bình diện thứ bẩy. Có những người đứng ở trên đường biên và thấy bình diện thứ bẩy, người thấy cái vực thẳm đó; do đó, tất cả những cái đã được biết về bình diện thứ bẩy là cái được báo cáo lại bởi những người đứng tại đường biên. Không có báo cáo nào từ người đã đi qua đó, bởi vì không có cách nào để đưa ra bất kì báo cáo nào. Chỉ dường như là một người đứng trên đường biên của Pakistan nhìn và báo cáo rằng có nhà, cửa hàng, đường phố, vài người dân, và người đó có thể thấy phố xá và mặt trời ló ra. Nhưng người này đang đứng trên biên giới Ấn Độ.
Đi vào bình diện thứ bẩy từ bình diện thứ sáu là cái chết tối hậu. Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng ý nghĩa của acharya thời ngày xưa là người dạy về cái chết cuối cùng. Có câu cách ngôn nói, "Acharya là cái chết." Cho nên khi Nachiketa đạt tới thần chết, ông ấy cũng đạt tới acharya. Thần chết chỉ có thể dạy về cái chết chứ không cái gì khác. Acharya là đích mà từ đó chỉ có tan biến, tan rã và tắt ngấm là có thể được dạy.
Nhưng trước cái chết này, bạn cần phải được sinh ra đã. Ngay bây giờ bạn không tồn tại. Cái mà bạn vẫn coi là bản thân mình chỉ là đồ vay mượn; nó không phải là hiện hữu thực của bạn. Cho dù bạn có mất nó, bạn cũng chẳng bao giờ là người sở hữu cả. Chỉ dường như là tôi mới đánh cắp cái gì đó và thế rồi tôi đem nó đi làm từ thiện: vì cái mà không thuộc vào tôi, làm sao nó lại là quà tặng của tôi được? Cái mà không phải là của tôi, tôi không thể cho được. Cho nên người mà chúng ta vẫn gọi là người từ bỏ thế giới này, không phải là từ bỏ chút nào bởi vì người đó từ bỏ cái không phải của mình. Và làm sao bạn có thể là người từ bỏ cái không phải của bạn được? Công bố bỏ đi cái không phải là của bạn thì thật điên khùng.
Việc từ bỏ xảy ra khi bạn đi vào thể thứ bẩy từ thể thứ sáu. Tại đó bạn gạt sang bên cái là bạn - vì bạn chẳng còn gì khác. Bạn bỏ lại chính hiện hữu của mình.
Việc từ bỏ duy nhất có nghĩa là việc đi từ bình diện thứ sáu sang bình diện thứ bẩy. Trước đó tất cả những chuyện nói về từ bỏ đều là trò trẻ con. Người nói, "Cái này của tôi" là ngu. Người nói "Tôi bỏ tất cả cái đã là của tôi" cũng ngu nốt, bởi vì người đó vẫn cứ đòi là kẻ sở hữu. Chỉ chúng ta mới là của chúng ta - nhưng chúng ta chẳng có hiểu biết gì về điều này cả.
Do đó, từ thể thứ năm sang thể thứ sáu bạn sẽ biết bạn là ai và từ thể thứ sáu sang thể thứ bẩy bạn sẽ có thể từ bỏ cái bạn đang là. Khoảnh khắc ai đó từ bỏ cái người đó đang là thì chẳng còn gì để được đạt tới, chẳng còn gì để được từ bỏ. Thế thì không có câu hỏi nào còn lại. Thế thì có cái tĩnh lặng vô hạn, cái im lặng vĩnh hằng. Sau đó người ta không thể nói rằng có phúc lạc hay yên bình; người ta không thể nói rằng có chân lí hay giả dối, ánh sáng hay bóng tối. Chẳng có gì có thể được nói nữa. Đây là trạng thái của thể thứ bẩy.
Nếu đạt tới bình diện thứ năm trong thể vật lí, người này sẽ được tái sinh dưới dạng nào sau khi chết?
Đạt tới thể thứ năm và thành thức tỉnh là một và cùng một điều. Thế thì bạn sẽ không còn cần các thể ban đầu nữa. Bây giờ bạn có thể làm việc từ bình diện thứ năm; bây giờ bạn là người thức tỉnh. Do đó, không có khó khăn nào. Các thể ban đầu chỉ cần cho tới thể thứ tư. Nếu thể thứ tư được kích hoạt và thức tỉnh, người ta trở thành thần, deva - một linh hồn trên trời. Nếu thể thứ tư nằm yên và ngủ, người đó đi vào cõi giới của quỉ, preta - linh hồn quỉ. Bạn sẽ phải trở lại dạng người từ cả hai trạng thái này, bởi vì bạn chẳng có ý tưởng nào về căn cước của mình cả. Và để biết căn cước của mình, bạn vẫn phải cần đến người khác. Chỉ với sự giúp đỡ của người khác mà bạn mới có khả năng biết tới chính mình.
Ngay bây giờ để biết mình, bạn cần tới người khác; không có người khác bạn sẽ không thể nào nhận ra bản thân mình. Người khác sẽ tạo nên biên giới từ đó bạn sẽ biết chính mình. Do đó, cho tới bình diện thứ tư bạn sẽ phải nhận lấy sinh thành vào bất kì hoàn cảnh nào. Sau bình diện thứ năm người khác sẽ không còn cần nữa; điều đó không có nghĩa. Trong bình diện thứ năm bạn sẽ có thể không cần bốn thể đầu nữa. Nhưng với thể thứ năm, một quá trình sinh thành thuộc loại hoàn toàn mới bắt đầu diễn ra, và đó là lối vào trong bình diện thứ sáu. Đây là vấn đề khác và không bao gồm bốn thể đầu.
Khi một người đi vào bình diện thứ năm từ bình diện thứ tư, người đó sẽ không cần một thể vật lí nữa sau khi chết chứ?
Không.
Nếu một tirthankara mong muốn được sinh ra, liệu ông ấy có thể lấy một thể vật lí không?
Bây giờ đây lại là một vấn đề khác hẳn. Nếu một tirthankara mong muốn được tái sinh, một biến cố rất thú vị xảy ra: tức là, trước khi chết ông ấy không được vứt bỏ thể thứ tư của mình. Có cách thức và phương pháp để làm điều này, và đó là bằng cách phải ham muốn là một tirthankara. Cho nên khi thể thứ tư đang rời bỏ đi, người ta ham muốn được giữ còn sống để cho thể thứ tư không bị vứt đi. Nếu thể thứ tư bị vứt bỏ đi, việc sinh thành dưới hình hài vật lí là không thể được.
Thế thì cây cầu, mối nối qua đó bạn tới, sẽ không còn nữa. Cho nên ham muốn là một tirthankara phải được giữ sống động qua thể thứ tư. Không phải tất cả mọi người đều xứng đáng trở thành tirthankara; họ đi thẳng theo đường của mình mà không cần điều này. Chỉ có ít người mới trở thành những bậc thầy như thế và số này cũng được cố định từ trước. Có lí do tại sao số này lại được tiền định. Nó được tiền định sao cho với một thời đại đặc biệt, chừng ấy tirthankara là đủ cho ngần ấy người.
Cho nên ham muốn trở thành một tirthankara phải rất mạnh mẽ. Nó là ham muốn cuối cùng, và nếu nó tuột qua, bậc thầy cũng qua luôn. Cho nên hạt mầm của ham muốn là "Tôi muốn truyền giảng cho người khác" phải rất mạnh. Người ta phải cảm thấy, "Tôi sẽ chỉ cho người khác con đường; tôi sẽ giải thích cho người khác, tôi phải quay lại vì người khác." Thế thì tirthankara có thể giáng xuống trong thể vật lí. Nhưng điều này có nghĩa là thể thứ tư phải chưa bị bỏ đi. Cái móc này có thể nhanh chóng bắt rễ; do đó, việc duy trì nó ở đó là nhiệm vụ rất khó khăn.
Có một quá trình tạo ra tirthankara: họ được tạo ra trong các trường phái bí ẩn, đấy không phải là biến cố cá nhân. Theo cùng cách thức này mà một trường phái vận hành, một nhóm những người tìm kiếm cùng thiền. Thế rồi trong số họ, họ tìm ra một người biểu lộ đầy hứa hẹn trở thành tirthankara; người đó có thể diễn đạt điều mình biết, người đó có thể truyền đạt điều người đó biết, và người đó có thể trao đổi điều đó với người khác. Cho nên toàn bộ trường phái bắt đầu làm việc trên thể thứ tư của người đó. Người đó được bảo phải tập trung vào thể thứ tư của mình để cho nó không tan rã vì nó sẽ có ích cho tương lai. Vậy, người này sẽ được dạy cách thức và phương tiện gìn giữ thể thứ tư của mình. Và nhiều lao động cùng công việc vất vả phải được tiến hành để gìn giữ thể này hơn là trong việc vứt bỏ nó.
Buông bỏ và cứ để cho thể thứ tư tan biến dễ dàng làm sao. Khi tất cả các neo đã nhổ lên rồi, khi tất cả các cánh buồm đã được giương lên và căng phồng gió, khi đại dương mênh mông vẫy gọi và có phúc lạc và phúc lạc tại mọi nơi, bạn có thể tưởng tượng phải khó khăn thế nào để bảo vệ cho một cái móc nhỏ bé. Chính bởi lí do này mà khi nói tới một tirthankara chúng ta nói: "Thầy thật là người từ bi nhất."
Đây là lí do duy nhất tại sao một tirthankara lại được gọi như vậy. Phần vĩ đại nhất của từ bi của ông ấy là ở chỗ khi mọi thứ đã sẵn sàng cho việc ra đi của ông ấy, ông ấy ở lại vì những người vẫn còn ở trên bờ và thuyền của họ chưa sẵn sàng giương buồm. Thuyền của ông ấy đã hoàn toàn sẵn sàng; vậy mà ông ấy mang đau khổ của bờ này, ông ấy chịu đựng những viên đá ném và lời chửi rủa. Ông ấy có thể rời đi vào bất kì lúc nào; con thuyền của ông ấy đã sẵn sàng giương buồm. Vậy mà không phải bởi lí do của riêng mình, ông ấy ưa thích ở lại giữa những người có khả năng gây phiền nhiễu và thậm chí còn giết ông ấy nữa. Cho nên từ bi của ông ấy thật là không giới hạn. Nhưng ham muốn về từ bi này được dạy trong các trường phái bí mật. Do đó, các thiền nhân làm việc riêng lẻ không thể nào trở thành tirthankara được, bởi vì khi cái móc bị mất đi, họ sẽ không biết gì về nó. Chỉ khi con thuyền đã giương buồm, họ mới nhận ra rằng bến bờ bị bỏ lại xa đằng sau.
Ngay cả những người đã đạt tới bình diện thứ sáu - những người mà chúng ta gọi là Ishvara - đôi khi cũng giúp vào việc giáng sinh ra một tirthankara. Khi họ tìm thấy một người đủ xứng đáng để không bị biến mất khỏi bờ bên này, họ cố gắng theo cả ngàn cách để giữ người này lại. Thậm chí các thần người, như tôi đã nói, cũng có ích trong việc làm tốt, cũng tham dự vào việc này. Họ tiếp tục gây ảnh hưởng lên người như vậy để giữ lấy một cái móc. Họ bảo người đó, "Chúng tôi có thể thấy cái móc; bạn thì không thấy. Nhưng bạn phải giữ lấy nó."
Cho nên thế giới này không phải là hỗn loạn, vô trật tự. Có những thu xếp sâu sắc; có trật tự bên trong trật tự. Những nỗ lực thuộc đủ mọi loại vẫn thường xuyên được tiến hành - nhưng nhiều khi những kế hoạch đó cũng bị hỏng, như trong trường hợp của Krishnamurti. Những nỗ lực lớn đã được tiến hành với ông ấy để cố định một cái móc, nhưng họ đã thất bại. Toàn bộ trường phái những người tìm kiếm đã tiến hành những nỗ lực cực kì to lớn để gìn giữ một cái móc trong thể thứ tư của ông, nhưng tất cả những nỗ lực đó đều thất bại. Những người khác đã giúp tay vào nỗ lực này. Cũng có cả bàn tay của các linh hồn cao hơn đứng đằng sau điều này - của những người ở bình diện thứ sáu và thứ năm, và những người đã thức tỉnh ở bình diện thứ tư. Hàng nghìn người đã tham gia vào đó.
Krishnamurti đã được chọn cùng với vài đứa trẻ khác, những đứa đã biểu lộ hứa hẹn trở thành tirthankara, nhưng cơ hội đã trượt qua mà không đem lại kết quả. Cái móc không thể nào được cố định, và do vậy thế giới đã mất đi ích lợi của một tirthankara mà có thể đã có qua Krishnamurti. Nhưng đó lại là câu chuyện khác...
Chương 8. Chiều hướng bí truyền của mật tông
Thầy đã nói rằng khác biệt giữa nam và nữ chấm dứt với thể thứ năm. Làm sao các cực điện dương và âm của bốn thể đầu lại trở nên được điều chỉnh để đem lại biến cố này? Xin thầy giải thích chi tiết điều này.
Trong hoàn cảnh của các thể nam và nữ, bạn đã được nghe rằng thể thứ nhất của nữ là thể nữ tính trong khi thể thứ hai lại là nam tính, và đích xác điều ngược lại là trong trường hợp cho nam giới. Thế thì thể thứ ba của đàn bà lại là nữ tính và thể thứ tư là nam tính. Tôi đã nói với các bạn trước đây rằng thể nữ tính là không đầy đủ; thể nam tính cũng vậy. Hai thể này đi đôi với nhau tạo nên một thể trọn vẹn. Sự hợp nhất này là có thể theo hai cách. Nếu đàn ông bên ngoài tổ hợp với đàn bà bên ngoài, cùng nhau họ tạo ra một đơn vị. Với đơn vị này công việc của sinh sản, của tự nhiên được tiếp diễn. Nếu đàn ông hay đàn bà quay vào trong và hợp nhất với nữ hay nam bên trong, một cuộc hành trình khác bắt đầu mà chính là con đường hướng tới điều thiêng liêng. Tuy nhiên hợp nhất bên ngoài là cuộc hành trình hướng tới tự nhiên.
Khi thể thứ nhất của nam gặp thể thứ hai của anh ấy, thể ê te vốn là nữ tính, hai thể này tạo thành một đơn vị. Khi thể thứ nhất của nữ gặp gỡ với thể thứ hai của cô ấy, thể ê te mà vốn là yếu tố nam, chúng cũng tạo ra một đơn vị. Đây là hợp nhất kì diệu. Hợp nhất bên ngoài chỉ có thể là nhất thời. Nó cho một thời kì hoan lạc rất ngắn ngủi, thế rồi nỗi buồn của sự phân tách lớn hơn vô hạn. Và nỗi buồn này đem tới khao khát mới mẻ cho cùng một hoan lạc mà lại tỏ ra nhất thời; thế rồi lại có chia li lâu dài và đau khổ. Cho nên hoan lạc bên ngoài chỉ có thể là tạm thời trong khi hợp nhất bên trong kéo dài mãi mãi. Một khi nó xảy ra, nó chẳng bao giờ ngắt quãng.
Do đó, chừng nào mà hợp nhất bên trong còn chưa xảy ra, vẫn còn nỗi buồn và nỗi đau. Luồng hạnh phúc bắt đầu tuôn chảy bên trong ngay khi hợp nhất bên trong xảy ra. Hoan lạc này cũng tương tự như điều được kinh nghiệm một cách nhất thời trong hợp nhất bên ngoài xảy ra trong khi làm tình - hợp nhất quá nhỏ bé ngắn ngủi đến mức nó gần như bị trôi qua trước khi nó bắt đầu. Nhiều lần nó thậm chí còn không được kinh nghiệm qua; nó xảy ra mau lẹ đến mức là nó chẳng được kinh nghiệm chút nào.
Theo quan điểm của yoga, khi giao hợp bên trong trở thành có thể, bản năng về giao hợp bên ngoài lập tức biến mất. Lí do là ở chỗ hợp nhất bên trong này hoàn toàn thoả mãn và mãn nguyện. Những hình ảnh về giao cấu được vẽ trên tường các đền là những chỉ dẫn theo hướng này.
Giao hợp bên trong là quá trình thiền. Do đó, đối lập nảy sinh giữa khái niệm về giao hợp bên trong và bên ngoài. Điều này là do sự kiện là một khi người ta đi vào giao hợp bên trong, sẽ mất tất cả mối quan tâm tới giao hợp bên ngoài.
Điều này cũng nên nhớ: khi người nữ hợp nhất với thể ê te nam tính của mình, đơn vị kết quả sẽ là nữ tính; khi người nam kết hợp với thể ê te nữ tính của mình, đơn vị kết quả là nam tính. Điều này là bởi vì thể thứ nhất hấp thu thể thứ hai: thể thứ hai gộp vào trong thể thứ nhất. Nhưng bây giờ các thể này là nam tính và nữ tính theo nghĩa rất khác. Đấy không phải là đàn ông bên ngoài và đàn bà bên ngoài mà chúng ta vẫn thấy: đàn ông bên ngoài là không đầy đủ, và do đó không thoải mái, không thoả mãn. Đàn bà bên ngoài cũng không đầy đủ, và do đó bất ổn, không mãn nguyện.
Nếu chúng ta xem xét lại sự phát triển của cuộc sống trên trái đất, chúng ta sẽ thấy rằng trong những tổ chức nguyên thuỷ, cả hai tính đực và cái đều hiện diện. Chẳng hạn, con amip: con amip nửa đực nửa cái. Do đó, không có sinh vật nào khác còn được thoả mãn hơn trên thế giới này. Không có những điều như không hài lòng nảy sinh trong con amip. Đây cũng là lí do tại sao nó lại không phát triển được: nó bao giờ cũng cứ còn là con amip. Cho nên chính những tổ chức sơ cấp trong sự phát triển sinh học không có các thể tách rời cho từng giới. Cả đực và cái cùng được chứa trong một thân thể.
Khi thể thứ nhất của đàn bà hợp nhất với thể ê te, nam tính của cô ấy, một người đàn bà mới đi vào hiện hữu, một người đàn bà trọn vẹn. Chúng ta không có ý tưởng nào về nhân cách của người đàn bà trọn vẹn bởi vì tất cả các đàn bà chúng ta biết đều không trọn vẹn. Chúng ta chẳng có ước lượng nào về người đàn ông trọn vẹn bởi vì tất cả những người đàn ông chúng ta biết đều không trọn vẹn; tất cả họ chỉ là một nửa. Ngay khi đơn vị này được hoàn tất, thoả mãn tối cao tràn ngập - thoả mãn mà trong đó tất cả những không bằng lòng đều giảm đi và cuối cùng biến mất. Bây giờ sẽ khó cho người đàn ông trọn vẹn và người đàn bà trọn vẹn này thiết lập bất kì mối quan hệ bên ngoài nào, bởi vì ở bên ngoài chỉ có nửa đàn ông và nửa đàn bà mà với những người này, nhân cách của họ không cảm thấy hài hoà. Tuy nhiên, lại có thể cho người đàn ông hoàn hảo - người có hai thể đầu đã hợp nhất bên trong - tạo nên mối quan hệ với người đàn bà hoàn hảo, người có hai thể đầu cũng đã hợp nhất.
Mật tông đã thử nhiều thực nghiệm cho mối quan hệ này. Do đó, mật tông đã phải đi qua rất nhiều phiền nhiễu và hiểu lầm. Chúng ta không thể nào hiểu được người theo mật tông làm gì - một cách tự nhiên điều ấy vượt ra ngoài hiểu biết của chúng ta. Khi người đàn bà và người đàn ông được hợp nhất với thể bổ sung bên trong mà làm tình dưới hoàn cảnh mật tông, chẳng có gì khác hơn việc giao hợp bình thường đối với chúng ta cả. Chúng ta chẳng bao giờ đánh giá được điều gì đã xảy ra.
Nhưng đây là một loại biến cố rất khác thường, và điều này là giúp đỡ rất lớn lao cho người tìm kiếm. Nó có ý nghĩa trọng đại với người đó. Việc hợp nhất bên ngoài của người đàn ông trọn vẹn và người đàn bà trọn vẹn là việc bắt đầu cho gặp gỡ mới; nó là cuộc hành trình hướng về hợp nhất mới. Một loại hành trình đã qua đi: người đàn bà không đầy đủ và người đàn ông không đầy đủ đã được làm thành đầy đủ. Sự bình ổn mãn nguyện đặc biệt đã được đạt tới, bởi vì bây giờ không còn ý nghĩ về ham muốn.
Khi người đàn ông trọn vẹn và người đàn bà trọn vẹn gặp nhau theo cách này, lần đầu tiên họ kinh nghiệm phúc lạc của việc hợp nhất của hai sự hiện hữu. Thế thì họ bắt đầu hiểu rằng nếu một sự hợp nhất hoàn hảo như thế có thể xảy ra bên trong họ, sẽ có dòng thác phúc lạc vô biên. Người nửa đàn ông hưởng thú việc hợp nhất với nửa đàn bà; thế rồi người đó hợp nhất với nửa đàn bà bên trong mình và người đó kinh nghiệm niềm phúc lạc vô hạn. Thế rồi người đàn ông trọn vẹn hợp nhất với người đàn bà trọn vẹn. Thế thì điều logic là người đó nên lên đường đạt tới người đàn bà trọn vẹn bên trong mình, cho nên người đó lên đường tìm kiếm người đàn bà trọn vẹn bên trong nơi sự gặp gỡ của các thể thú ba và thứ tư xảy ra.
Thể thứ ba của đàn ông lại là nam tính và thể thứ tư là nữ tính; thể thứ ba của đàn bà là nữ tính và thể thứ tư là nam tính. Mật tông đã chú ý thấy rằng đàn ông không trì trệ lại sau khi đạt tới hoàn thiện thứ nhất. Có nhiều loại hoàn thiện bên trong chúng ta. Hoàn thiện không bao giờ là cản trở, nhưng có nhiều loại hoàn thiện mà lại là không hoàn thiện nếu so với những hoàn thiện tiếp sau còn nằm ở phía trước. Tuy nhiên, chúng là hoàn thiện trong mối quan hệ với những cái chưa hoàn thiện trước đó. Những cái chưa hoàn thiện trước đó có thể biến mất, nhưng chúng ta vẫn không có ý tưởng gì về những hoàn thiện lớn hơn còn nằm ở phía trước. Điều này có thể tạo ra trở ngại.
Do đó, nhiều phương pháp đáng ngạc nhiên đã được phát triển trong mật tông mà không thể nào hiểu ngay được. Chẳng hạn, khi có giao hợp giữa người đàn ông trọn vẹn và người đàn bà trọn vẹn, sẽ không có việc mất năng lượng: không thể mất được, bởi vì từng người đã hình thành nên một mạch trọn vẹn bên trong bản thân mình. Sẽ không có việc tiết ra năng lượng từ các tình nhân; lần đầu tiên họ sẽ kinh nghiệm niềm hoan lạc mà không mất năng lượng.
Hoan lạc được kinh nghiệm trong giao hợp vật lí vào lúc cực thích, bao giờ cũng có theo sau là kinh nghiệm nhọc mệt. Cái tối tăm, cái khổ não, mệt mỏi, ăn năn theo sau với việc mất năng lượng là điều không tránh khỏi. Cực thích trôi qua trong thoáng chốc nhưng việc mất năng lượng lại xảy ra mà phải hai mươi bốn đến bốn mươi tám tiếng hay hơn nữa mới hồi phục lại được. Chừng nào mà năng lượng còn chưa được phục hồi lại, tâm trí vẫn còn tràn đầy bi thảm.
Mật tông đã rút ra những phương pháp kì lạ và phi thường cho việc giao hợp không phóng tinh, và nó đã làm việc rất dũng cảm theo hướng đó. Chúng ta sẽ phải nói riêng về chủ đề này vào một lúc khác nào đó vì thực hành mật tông tạo nên một mạng lưới đầy đủ trong bản thân nó. Và vì mạng lưới này đã bị phá vỡ nên toàn bộ khoa học này dần trở thành bí truyền. Cũng vậy, khó mà nói về thực hành mật tông một cách cởi mở và trực tiếp, bởi vì niềm tin đạo đức của chúng ta đã làm cho điều này thành rất khó khăn. Hơn nữa, những người "khôn ngoan" ngu đần của chúng ta, những người chẳng biết gì nhưng lại có khả năng nói về bất kì cái gì đã làm cho việc gìn giữ sống động bất kì trí huệ quí giá nào thành không thể được. Việc thực hành của mật tông do vậy đã phải bị từ bỏ hoặc bằng không, nó phải được che giấu và những thực nghiệm mật tông phải đi ngầm. Bởi lí do này mà dòng chảy của tri thức mật tông không còn tuôn chảy rõ ràng trong cuộc sống chúng ta.
Việc giao hợp giữa người đàn ông trọn vẹn và người đàn bà trọn vẹn là một loại rất khác biệt hoàn toàn. Đấy là việc giao hợp mà trong đó không có việc mất năng lượng.
Một biến cố hoàn toàn mới xảy ra mà chỉ có thể được hướng dẫn tới. Khi người đàn ông không đầy đủ và người đàn bà không đầy đủ gặp nhau, cả hai cùng trải qua việc mất năng lượng. Phần năng lượng sau việc giao hợp của họ ít hơn rất nhiều so với trước lúc đó.
Hoàn toàn ngược lại là trường hợp hợp nhất của người đàn ông trọn vẹn và người đàn bà trọn vẹn. Phần năng lượng sau khi giao hợp của họ sẽ còn nhiều hơn trước đó. Năng lượng của cả hai đều tăng lên. Năng lượng này nằm bên trong họ, và nó trở nên được thức tỉnh và kích hoạt bởi việc ở gần bạn tình kia. Trong hành động dục thông thường, việc phóng tinh xảy ra bởi việc tới với nhau của đàn ông và đàn bà. Trong cuộc gặp gỡ thứ hai của người đàn ông trọn vẹn và người đàn bà trọn vẹn, năng lượng cá nhân của riêng họ trở nên thức tỉnh và kích hoạt trong sự hiện diện của người khác; bất kì cái gì còn nằm ẩn bên trong cái ta của riêng từng người đều biểu lộ đầy đủ. Từ biến cố này có hướng dẫn về sự hợp nhất của người đàn ông trọn vẹn và người đàn bà trọn vẹn có thể xảy ra ở bên trong. Sự hợp nhất thứ nhất là hợp nhất của hai con người không hoàn chỉnh. Bây giờ giai đoạn thứ hai của công trình bắt đầu đem tới việc gắn các thể thứ ba và thứ tư.
Thể thứ ba của đàn ông là nam tính và thể thứ tư là nữ tính, thể thứ ba của của đàn bà là nữ tính và thể thứ tư là nam tính. Bây giờ trong việc hợp nhất của thể thứ ba và thứ tư, chỉ nam tính sẽ còn lại bên trong nam; thể thứ ba của anh ta sẽ trở thành nổi bật. Bên trong nữ, nữ tính sẽ thành nổi bật. Thế thì hai nữ trọn vẹn sẽ gộp thành một, bởi vì bây giờ sẽ không có biên giới giữa hai và phân chia chúng. Thể nam là cần để giữ chúng cách ra. Tương tự, giữa hai thể nam, thể nữ là cần có để giữ một khoảng cách giữa chúng.
Khi nữ tính của các thể thứ nhất và thứ hai gặp nữ tính của các thể thứ ba và thứ tư, tại chính khoảnh khắc gặp gỡ chúng sẽ gộp lại làm một. Thế thì người đàn bà đạt tới nữ tính hoàn hảo gấp đôi. Không một nữ tính nào lớn hơn còn có thể có nữa, bởi vì sau điều này, không còn trưởng thành thêm nữa của nữ tính. Đây sẽ là trạng thái nữ hoàn hảo. Đây là người đàn bà hoàn hảo, người không có ham muốn nào cho dù là để gặp người đàn ông hoàn hảo.
Trong tính trọn vẹn đầu tiên có ca tụng về việc gặp gỡ của người trọn vẹn thứ hai, và gặp gỡ này đã tạo ra nhiều năng lượng hơn. Bây giờ điều đó nữa cũng trôi qua. Bây giờ thậm chí đến việc gặp gỡ với Thượng đế cũng sẽ thành vô nghĩa theo một nghĩa nào đó. Bên trong người đàn ông cả hai nam tính sẽ gộp lại thành một. Khi bốn thể hợp nhất lại, cái còn lại trong nam là nam và cái còn lại trong nữ là nữ. Từ thể thứ năm trở đi, không có nam và không có nữ nữa.
Do đó, biến cố xảy ra trong người đàn ông và người đàn bà sau bình diện thứ tư sẽ khác nhau; nó nhất định là như thế. Biến cố thì là một nhưng thái độ của họ đối với nó là khác nhau. Đàn ông vẫn sẽ năng nổ và đàn bà vẫn sẽ buông xuôi. Sau khi đạt tới thể thứ tư, đàn bà buông bỏ hoàn toàn; thậm chí không có đến một li được giữ lại trong buông xuôi của cô ấy. Buông xuôi này, buông bỏ này, sẽ đưa cô ấy tới cuộc hành trình của bình diện thứ năm nơi đàn bà không còn là đàn bà nữa bởi vì để còn là đàn bà, cần phải giữ lại cái gì đó.
Thực tế, chúng ta là cái chúng ta đang là bởi vì chúng ta giữ lại một chút ít của chính mình. Nếu như chúng ta buông bỏ mình hoàn toàn, chúng ta sẽ trở thành cái gì đó mà chúng ta chưa bao giờ là như thế trước đây. Nhưng có việc giữ lại trong sự hiện hữu của người ta vào mọi lúc. Nếu người đàn bà chịu nhượng bộ hoàn toàn ngay cả đối với một người đàn ông bình thường, sẽ có kết tinh bên trong cô ấy và cô ấy sẽ vượt ra ngoài thể thứ tư. Đây là lí do tại sao đàn bà có nhiều lần đi qua thể thứ tư với tình yêu của mình với những người đàn ông rất bình thường.
Từ sati không có ý nghĩa bí truyền nào khác. Sati không có nghĩa là người đàn bà mà mắt không nhìn vào người đàn ông khác; sati có nghĩa là người đàn bà mà không còn nhân tố đàn bà bên trong mình để nhìn vào người đàn ông khác.
Nếu người đàn bà trở thành buông xuôi hoàn toàn trong tình yêu thậm chí với người đàn ông bình thường, cô ấy chẳng phải đi qua cuộc hành trình dài này. Tất cả bốn thể của cô ấy sẽ tổ hợp lại và đứng ngay ở ngưỡng cửa của bình diện thứ năm. Do đó, chính những đàn bà trải qua kinh nghiệm này sẽ nói, "Chồng là Thượng đế." Điều này không có nghĩa là họ thực tại nghĩ rằng chồng là Thượng đế; điều đó có nghĩa là cánh cửa của bình diện thứ năm đã mở ra đối với họ qua trung gian người chồng. Không có sai lầm nào trong điều họ nói; điều họ nói tuyệt đối đúng đắn. Điều mà thiền nhân khác thu được qua nỗ lực lớn lao, cô ấy thu được dễ dàng bằng tình yêu của mình. Tình yêu với một người đưa cô ấy tới trạng thái đó.
Ta hãy lấy trường hợp của Sita: cô ấy thuộc về loại những đàn bà mà chúng ta có thể gọi là sati. Bây giờ việc buông xuôi của Sita là duy nhất. Từ quan điểm của việc buông xuôi, cô ấy là hoàn hảo; việc buông xuôi của cô ấy là toàn bộ. Ravana là người đàn ông không đầy đủ trong khi Sita là người đàn bà trọn vẹn. Sự toả sáng của người đàn bà trọn vẹn là ở chỗ người đàn ông không đầy đủ không dám động tới cô ấy. Người đó thậm chí không thể nhìn thẳng vào cô ấy, và người đó chỉ có thể nhìn người đàn bà không đầy đủ theo con mắt dục tính.
Khi người đàn ông tới người đàn bà về mặt dục, người đàn ông không phải chịu trách nhiệm hoàn toàn. Cái không đầy đủ này của người đàn bà cũng là trách nhiệm không tránh khỏi. Khi người đàn ông chạm có tính dâm dục vào người đàn bà trong đám đông, anh ta cũng chỉ có trách nhiệm một nửa. Người đàn bà mời chào, điều đó cũng có trách nhiệm tương đương. Cô ấy gợi ra điều đó, mời chào điều đó, và bởi vì cô ấy thụ động nên hăm hở của cô ấy chẳng ai để ý tới. Vì người đàn ông là chủ động nên hiển nhiên là anh ta chạm vào cô ấy. Nhưng chúng ta không thể thấy lời mời của phía bên kia cho điều đó.
Ravana thậm chí không thể ngước mắt lên nhìn Sita và Ramana chẳng hiểu ý nghĩa gì về Sita. Vậy mà sau chiến tranh Rama cứ khăng khăng đòi thử lửa đối với Sita để xác minh sự thuần khiết của cô. Sita không chống lại. Nếu như cô ấy từ chối trải qua phép thử, cô ấy sẽ mất tư thế là sati. Cô ấy cũng có thể đòi hỏi rằng cả hai người đều phải đi qua phép thử lửa, bởi vì nếu cô ấy có một mình với người đàn ông khác, Rama nữa cũng lang thang trong rừng một mình - và ai biết được anh ta có thể gặp đàn bà nào!
Nhưng câu hỏi này chưa bao giờ nảy sinh trong tâm trí Sita. Cô ấy sẵn sàng đi qua phép thử lửa. Nếu như cô ấy hỏi về uy quyền của Rama dù chỉ một lần, cô ấy đã rơi khỏi vị thế của mình - bởi vì thế thì việc buông xuôi sẽ không còn là toàn bộ nữa; sẽ có cái gì đó hơi thiếu đi trong nó. Và nếu mà cô ấy đưa ra câu hỏi dù chỉ một lần và rồi đi qua lửa, cô ấy sẽ bị thiêu cháy; cô ấy sẽ bị tổn thương. Nhưng buông xuôi của cô ấy là toàn bộ. Với cô ấy không có người đàn ông khác. Tuy nhiên chúng ta nghĩ đấy là phép màu nên cô ấy đi qua lửa mà không hề hấn gì.
Nếu người bình thường cũng đi qua lửa trong khi ở một trạng thái bên trong đặc biệt, người đó sẽ không bị cháy. Nếu trong trạng thái thôi miên một người được bảo rằng lửa sẽ không thiêu cháy anh ta, anh ta có thể bước vào lửa và không bị cháy.
Một thầy tu khổ hạnh bước trên lửa trong một trạng thái tâm trí đặc biệt khi mạch năng lượng là hoàn toàn ở bên trong người đó. Mạch năng lượng này bị ngắt ra bởi hoài nghi. Nếu một ý nghĩ hoài nghi thoáng qua tâm trí ông ta dù chỉ một lần, nếu ông ấy hoài nghi rằng có thể ông ấy sẽ bị cháy, thế thì mạch bị ngắt và ông ấy nhất định sẽ cháy. Nếu hai thầy tu khổ hạnh nhảy vào trong đống lửa và thấy họ bạn có cảm giác, "Nếu hai người này có thể nhảy vào và không hề hấn gì, làm sao mình có thể cháy được?" thế thì nếu bạn cũng nhảy vào đống lửa đó, bạn cũng sẽ không bị làm sao cả. Một đoàn người vậy có thể đi qua lửa và không bị cháy. Người mà hoài nghi thì sẽ không dám đi vào trong lửa; người đó sẽ đứng ngoài. "Nếu biết bao nhiêu người chẳng làm sao cả, sao lửa lại làm hại mình được?" Cho nên bởi lí do này mà người đó có thể đi qua đống lửa và lửa không hề chạm tới anh ta.
Nếu mạch bên trong chúng ta là trọn vẹn, thậm chí lửa cũng chẳng có cách nào chạm vào chúng ta được. Cho nên nếu lửa không ảnh hưởng tới Sita, điều đó hoàn toàn quan niệm được. Sau phép thử lửa, khi Rama đuổi cô ấy ra khỏi vương quốc, ngay cả thế thì cô ấy cũng chẳng hỏi lại Rama. Cô ấy đã đi qua phép thử lửa để chứng minh sự trong sạch của mình. Nhưng buông xuôi của Sita là toàn bộ, là trọn vẹn đến độ với cô ấy không có lí do gì để hỏi cả.
Nếu người đàn bà trọn vẹn đạt tới sự hoàn thiện của tình yêu với một người, cô ấy sẽ nhảy qua bốn bước đầu của thực hành tâm linh. Với người đàn ông, rất khó bởi vì anh ta không có tâm trí buông xuôi. Nhưng điều thú vị cần biết là ở chỗ ngay cả tính năng nổ cũng có thể là hoàn hảo. Tuy nhiên, với tính năng nổ là hoàn hảo, nhiều điều khác vẫn phải tham gia vào chứ không phải chỉ có một mình bạn. Tuy nhiên trong buông xuôi, bạn một mình chịu trách nhiệm cho sự hoàn hảo của nó và những điều khác chẳng thành vấn đề chút nào. Nếu tôi muốn buông xuôi với ai đó, tôi có thể làm như vậy hoàn toàn mà chẳng cần nói với người đó. Nhưng nếu tôi phải năng nổ hướng tới ai đó, ai đó cũng sẽ phải tham dự vào trong kết quả cuối cùng.
Do đó, trong bài nói của tôi về shaktipat, bạn có thể cảm thấy rằng có điều gì đó hơi thiêu thiếu trong đàn bà, rằng có điều gì đó hơi khó khăn khi có liên quan tới đàn bà. Tôi đã nói với các bạn rằng có những qui tắc bù trừ trong cuộc sống. Trong trường hợp của đàn bà, cái thiếu sót của cô ấy được đền bù bởi khả năng của cô ấy trong buông xuôi. Đàn ông chẳng bao giờ có thể yêu một cách trọn vẹn dù cho người đó yêu ai đó đến đâu. Lí do là ở chỗ anh ta năng nổ và ít có khả năng buông xuôi. Cho nên nếu bốn thể đầu của đàn bà trở nên trọn vẹn và gộp lại trong một đơn vị, cô ấy có thể buông xuôi rất dễ dàng ở bình diện thứ năm. Và khi người đàn bà trong trạng thái thứ tư trải qua hai bước giao hợp bên trong và trở thành hoàn hảo, không sức mạnh nào trên trái đất này có thể ngăn trở con đường của cô ấy. Thế thì không ai ngoại trừ Thượng đế là tồn tại cho cô ấy. Thực tại, người mà cô ấy yêu trong bốn thể đầu của mình cũng đã trở thành Thượng đế cho cô ấy, nhưng bây giờ, dù bất kì cái gì, cũng là Thượng đế cả.
Có một sự kiện đẹp trong cuộc đời của Meera. Một lần cô ấy tới Vrindavan. Tại đó sư coi ngôi đền lớn không nhìn nhận đàn bà, cho nên đàn bà không được phép vào bên trong đền. Chuông trong tay, chìm ngập trong Krishna của mình, thế là Meera đi thẳng vào bên trong. Những người khác trong đền vội vã bảo cô ấy rằng ngôi đền là đóng với đàn bà vì sư không nhìn nhận đàn bà. Với điều này Meera nói, "Điều ấy thật rất kì lạ. Tôi đang có ấn tượng là chỉ có một người đàn ông trên thế giới này - Krishna. Ai là người đàn ông khác người này? Còn có người đàn ông khác sao? Tôi muốn thấy ông ta."
Người ta chạy xô tới sư và kể cho ông ấy về Meera. Khi ông ấy nghe thấy tất cả những điều họ đã nói, ông ấy chạy lại chỗ Meera, quì xuống dưới chân cô, và nói, "Thật là vô nghĩa để gọi cô là đàn bà, người chỉ có một người đàn ông duy nhất. Vấn đề đàn ông và đàn bà đã chấm dứt cho cô. Tôi xin chạm chân cô và xin được tha thứ. Nhìn người đàn bà bình thường tôi cứ coi mình là đàn ông. Nhưng với người đàn bà có phẩm chất như cô, việc là đàn ông của tôi chẳng có nghĩa gì cả."
Khi đàn ông đạt tới thể thứ tư, người đó trở thành người hoàn chỉnh. Người đó sẽ phải trải qua hai bước đi tới để đạt đến hoàn chỉnh này. Từ đó trở đi, không còn đàn bà cho người đó nữa; từ đàn bà chẳng còn mang ý nghĩa gì cho người đó. Bây giờ người đó chỉ còn là một lực năng nổ, cũng giống như đàn bà đã đạt tới tính đàn bà hoàn chỉnh trong thể thứ tư, trở thành năng lượng buông xuôi duy nhất. Bây giờ họ chỉ còn là năng lượng của năng nổ và năng lượng của buông xuôi tương ứng. Bây giờ họ không còn ôm giữ cái tên của đàn ông hay đàn bà; họ chỉ còn là năng lượng.
Tính năng nổ của đàn ông đã phát triển trong nhiều công phu yoga khác nhau và buông xuôi của đàn bà nở hoa trong nhiều con đường khác nhau của bhakti, sùng kính. Buông xuôi trở thành bhakti, năng nổ trở thành yoga. Cả nam và nữ đều là như nhau; không có khác biệt giữa họ bây giờ nữa. Khác biệt giữa đàn ông và đàn bà bây giờ đơn thuần là ở bên ngoài và chỉ áp dụng cho thể vật lí. Bây giờ, dù giọt nước rơi vào trong đại dương hay đại dương rơi vào trong giọt nước, kết quả cuối cùng là một. Giọt của đàn ông sẽ nhảy vào đại dương và hội nhập với nó. Cái giọt của đàn bà sẽ trở thành vực thẳm và gọi toàn bộ đại dương đổ vào cô ấy. Cô ấy sẽ buông xuôi và toàn bộ đại dương sẽ dồn vào trong cô ấy.
Ngay cả bây giờ cô ấy cũng mang tính âm, cô ấy là hoàn toàn âm. Cô ấy là bụng mẹ ôm giữ toàn bộ đại dương bên trong nó. Toàn bộ năng lượng của vũ trụ sẽ đi vào trong cô ấy. Đàn ông, cho dù ở giai đoạn này, cũng không thể nào tiếp nhận được. Người đó vẫn duy trì phẩm chất sức mạnh, cho nên người đó sẽ nhảy và chìm đắm trong đại dương. Trong chiều sâu riêng tư của bản thể mình nhân cách của họ sẽ mang khác biệt nam-nữ - cho đến ngay chính điểm cuối của thể thứ tư.
Tuy nhiên thực tại của bình diện thứ năm hoàn toàn khác biệt. Chỉ linh hồn là còn lại. Không còn bất kì phân biệt gì dựa trên giới tính nữa, và từ đó trở đi cuộc hành trình là như nhau với tất cả mọi người. Cho đến bình diện thứ tư, vẫn còn khác biệt, và điều đó nữa cũng chỉ là vấn đề liệu giọt nước rơi vào trong đại dương hay đại dương rơi vào trong giọt nước. Nhưng kết quả cuối cùng là như nhau. Không có gì khác biệt liệu giọt nước rơi vào trong đại dương hay đại dương rơi vào trong giọt nước. Tuy nhiên cho tới giới hạn cuối cùng của thể thứ tư, khác biệt là rất rõ ràng. Tại đó nếu người đàn bà muốn nhảy vào trong đại dương, cô ấy sẽ tạo ra khó khăn cho chính mình, và nếu người đàn ông muốn buông xuôi, anh ta sẽ tự mình tiếp đất xuống rắc rối. Cho nên bạn nên nhận biết về khả năng của những lỗi lầm như thế.
Trong một bài nói của Thầy, Thầy đã nói rằng giao hợp được kéo dài dẫn tới việc hình thành một mạch điện giữa đàn ông và đàn bà. Mạch này là gì, làm sao nó được hình thành và ích lợi của nó là gì trong mối quan hệ với bốn thể đầu? Cũng vậy, chừng nào còn có liên quan tới đơn độc của thiền nhân, hình thái của biến cố nói trên là gì?
Như tôi đã nói trước đây, đàn bà là một nửa và đàn ông là một nửa. Cả hai đều là năng lượng, cả hai đều là điện. Đàn bà là cực âm, đàn ông là cực dương. Bất kì khi nào cực âm và cực dương của điện gặp gỡ nhau và tạo nên mạch điện, ánh sáng được tạo ra. Ánh sáng này có nhiều loại khác nhau: nó có thể không thấy được chút nào, nó có thể đôi khi mới thấy được, hay nó cũng có thể là thấy được đối với ai đó và không thấy được với người khác. Nhưng mạch điện được tạo thành là như nhau. Nhưng hợp nhất đàn ông và đàn bà nhất thời đến độ ngay khi mạch này được tạo ra, nó bị ngắt ngay. Do đó có những phương pháp và hệ thống kéo dài việc giao hợp. Nếu việc giao hợp vượt quá một giờ rưỡi, có thể thấy mạch điện chạy vòng quanh đôi này. Nhiều bức tranh về điều này đã được chụp ảnh. Có nhiều bộ lạc nguyên thuỷ mà việc hợp nhất dục kéo dài; do đó mạch điện được hình thành.
Thông thường rất khó tìm ra mạch năng lượng này trong thế giới văn minh. Tâm trí càng căng thẳng, giao hợp càng chóng vánh. Xuất tinh xảy ra nhanh hơn khi mà tâm trí căng thẳng. Căng thẳng càng lớn, xuất tinh càng nhanh, bởi vì tâm trí căng thẳng, không tìm kiếm việc giao hợp mà chỉ để tiết xuất. Tại phương Tây dục không có mục đích nào lớn hơn việc hắt hơi. Căng thẳng bị ném đi, tải trọng được dỡ bỏ. Khi năng lượng được tống đi, tải trọng được dỡ bỏ. Khi năng lượng được tống đi, bạn cảm thấy được tiêu tan. Thảnh thơi là một điều, cảm thấy được tiêu tan là điều hoàn toàn khác. Thảnh thơi nghĩa là năng lượng ở bên trong và bạn đang nghỉ ngơi, còn cảm thấy tiêu tan có nghĩa là năng lượng được ném đi và bạn nằm đấy cạn kiệt. Bạn yếu đi với việc mất năng lượng và bạn nghĩ bạn đang thảnh thơi.
Cho nên khi căng thẳng tăng lên ở phương Tây, dục trở thành sự tiết xuất khỏi căng thẳng, việc thoát khỏi sức ép của năng lượng bên trong. Có những nhà tư tưởng ở phương Tây không sẵn sàng coi dục có giá trị gì nhiều hơn hắt hơi. Mũi ngứa, bạn hắt hơi, và do vậy tâm trí được làm nhẹ bớt. Tại phương Tây người ta không sẵn sàng dành cho dục cái gì nhiều hơn điều này. Họ cũng là đúng, bởi vì điều họ đang làm với dục, cũng chẳng nhiều hơn điều này.
Tại phương Đông người ta cũng đang dần đi tới điểm này... bởi vì phương Đông cũng đang trở nên căng thẳng. Đâu đó, trong hang động núi non xa xôi, chúng ta có thể bắt gặp một người không căng thẳng. Người đó sống trong thế giới núi non và suối ngàn, cây cối và rừng rú, cứ như là chưa từng bị nền văn minh động chạm tới. Tại đó, thậm chí bây giờ, mạch năng lượng cũng được hình thành trong giao hợp.
Có những phương pháp mật tông mà với nó bất kì ai cũng có thể tạo ra mạch năng lượng như thế. Kinh nghiệm về mạch này là tuyệt diệu bởi vì chỉ khi mạch năng lượng được hình thành, bạn có được cảm giác về cái một. Cái một này chưa bao giờ được kinh nghiệm tới trước khi hình thành ra mạch này. Ngay khi mạch này được hình thành, đôi lứa tham gia vào giao hợp không còn là hai thực thể tách biệt nữa. Họ trở thành luồng của một năng lượng, một sức mạnh. Cái gì đó được kinh nghiệm khi nó tới rồi đi và xoay vòng; hai thực thể tách biệt biến mất.
Tuỳ theo sự mạnh mẽ của mạch này, ham muốn giao hợp sẽ kém dần và khoảng cách của nó sẽ tăng lên. Có thể xảy ra là một khi mạch này được hình thành, trong một năm tròn người ta có thể không muốn lặp lại giao hợp nữa, bởi vì mãn nguyện đã xảy ra.
Hoặc ta hãy xem xét nó theo cách này: một người ăn thịt rồi nôn ra. Thế thì người này sẽ không có tí gì thoả mãn với bữa ăn cả. Thoả mãn xảy ra không phải bởi ăn thức ăn mà bởi tiêu hoá nó. Nói chung chúng ta cảm thấy rằng hành động ăn đem tới thoả mãn. Nó không phải như vậy; thoả mãn chỉ tới khi thức ăn được tiêu hoá.
Giao hợp có hai kiểu: một kiểu đơn thuần là ăn và kiểu kia là tiêu hoá. Điều nói chung chúng ta vẫn biết như giao hợp, đơn thuần chỉ là ăn và nôn, chẳng có gì được tiêu hoá cả. Nếu cái gì đó được tiêu hoá, thoả mãn của nó sẽ dài và sâu. Tuy nhiên hấp thu xảy ra chỉ khi mạch năng lượng được tạo thành. Mạch năng lượng chỉ ra rằng tâm trí của cả hai bạn tình đã hợp nhất lại và trở nên bị hấp thu vào lẫn nhau. Bây giờ không có hai; họ trở thành một. Có hai thân thể nhưng năng lượng bên trong mỗi người đã trở thành một; năng lượng đã nhảy qua nhảy lại và trộn lẫn vào nhau.
Điều kiện hấp thu dục này để lại trạng thái thoả mãn sâu sắc: đây là điều tôi muốn nói. Nó là rất có ích cho yoga và cho thiền nhân. Nếu giao hợp bên trong đó là có thể cho thiền nhân, nhu cầu về giao hợp trở nên được giảm đi rất nhiều. Thế thì thời kì xen giữa sẽ để cho người đó tự do đi vào cuộc hành trình bên trong. Một khi cuộc hành trình bên trong bắt đầu và giao hợp bên trong xảy ra với người đàn bà hay đàn ông bên trong, người đàn bà bên ngoài trở thành vô dụng, người đàn ông bên ngoài trở thành vô dụng.
Với người đã có gia đình thuật ngữ brachmacharya, vô dục, có nghĩa là hành động giao hợp phải đã mãn nguyện đến mức nó để lại nhiều năm ròng với brachmacharya ở giữa. Một khi thời kì brachmacharya này đã được đạt tới, người tìm kiếm bắt đầu cuộc hành trình bên trong, người ngoài cần cho việc giao hợp phai mờ dần đi.
Tôi đang nói rằng đây là trường hợp cho người có gia đình. Đối với những người đã được điểm đạo thành sannyas, loại sannyas truyền thống, đối với những người không chấp nhận cuộc sống gia đình, ý nghĩa của brachmacharya là antarmaithun, sự hợp nhất dục giữa nam và nữ bên trong. Với họ có nhu cầu về giao hợp bên trong. Một người như vậy sẽ phải trực tiếp bắt đầu tìm phương tiện cho việc giao hợp bên trong, hoặc nếu không, người đó sẽ tránh xa người đàn bà bên ngoài chỉ trên danh nghĩa trong khi tâm trí người đó vẫn cứ đuổi theo đàn bà, và người đó sẽ mất nhiều năng lượng trong nỗ lực tránh né người đàn bà bên ngoài hơn là người đó bị mất bởi việc giao hợp.
Cho nên con đường có chút khác biệt đối với sannyasin truyền thống. Khác biệt chỉ là thế này: việc hợp nhất dục với người đàn bà bên ngoài là bước khởi đầu cho người có gia đình; thế rồi người đó gặp người đàn bà bên trong ở bước thứ hai, trong khi sannyasin truyền thống lại hợp nhất trực tiếp với người đàn bà bên trong bản thân mình. Bước thứ nhất không dành cho người đó.
Do đó, khái niệm truyền thống về sannyas làm cho bất kì ai và mọi người đều thành sannyasin là điều xuẩn ngốc. Thực tại, việc điểm đạo trong sannyas truyền thống chỉ có thể khi chúng ta có thể nhìn vào bên trong một người để xem liệu thể thứ nhất của người đó có trong trạng thái sẵn sàng gặp gỡ với người đàn bà của thể thứ hai của người đó hay không. Nếu quả là như vậy, chỉ thế thì việc điểm đạo thành brachmacharya mới được ban cho; ngoài ra, điều này sẽ chỉ đem tới điên khùng mà không cái gì khác cả.
Nhưng có những người cứ đi điểm đạo một cách bừa bãi. Vị thầy này có một nghìn sannyasin, vị thầy kia có hai nghìn người, và họ chẳng biết họ đang làm gì. Liệu những người họ điểm đạo có sẵn sàng và thích hợp cho việc giao hợp bên trong khi ở các trạng thái thiền không ? Chẳng sẵn sàng chút nào cả - họ thậm chí còn không biết rằng có cái gì giống như giao hợp bên trong nữa. Đây là lí do tại sao, bất kì khi nào một sannyasin truyền thống tới tôi, điều rắc rối sâu sắc và sâu kín nhất của người đó là về dục. Những người có gia đình tôi gặp cũng có rắc rối khác, nhưng tôi chưa bắt gặp một sannyasin truyền thống nào mà điều rắc rối của người đó là ngoài dục.
Dục là một trong nhiều nỗi lo nghĩ của người có gia đình, nhưng nó là một và và chỉ một nỗi ưu phiền của sannyasin truyền thống. Do đó, toàn bộ tâm trí của người đó đều tập trung vào xung quanh điểm này. Thầy của người đó chỉ ra cho người đó nhiều phương thuốc để tự cứu bản thân mình khỏi người đàn bà bên ngoài, nhưng ông ấy cũng chẳng có ý tưởng nào về cách thiền nhân có thể gặp gỡ người đàn bà bên trong. Do đó, vấn đề trở thành không thể nào loại bỏ được người đàn bà bên ngoài. Người đó chỉ có thể tạo ra những lí do để lảng tránh cô ấy - và điều đó là rất rất khó.
Năng lượng sinh học phải di chuyển đi đâu đó. Nếu nó có thể đi vào trong, chỉ thế thì nó mới có thể được ngăn cản khỏi chảy ra ngoài. Nếu nó không đi vào trong, nó nhất định sẽ chảy ra ngoài. Cũng chẳng có gì khác biệt dù người đàn bà là bằng xương bằng thịt hay trong tưởng tượng; nó có thể chảy ra với sự giúp đỡ của người đàn bà tưởng tượng nữa. Điều tương tự cũng xảy ra cho đàn bà, nhưng ở đây lại có chút ít khác biệt giữa hai loại người mà cần phải ghi nhớ trong tâm.
Dục không phải là vấn đề lớn lắm với người tìm kiếm nữ so với người tìm kiếm nam. Tôi có quen biết nhiều ni cô đạo Jaina, và với họ, dục không đặt ra vấn đề lớn. Lí do là ở chỗ dục của đàn bà là thụ động. Một khi nó được thức tỉnh, nó trở thành vấn đề; nếu nó không được thức tỉnh, cô ấy có thể đi qua suốt cuộc đời mà chẳng bao giờ cảm thấy rằng có vấn đề gì.
Đàn bà đòi hỏi được khởi đầu - ngay cả trong dục. Một khi người đàn ông đưa một người đàn bà vào trong dục, năng lượng dâng lên đột ngột bên trong cô ấy. Nhưng nếu điều này không xảy ra, cô ấy có thể vẫn còn là đồng trinh cả đời. Điều này rất dễ dàng với cô ấy bởi vì bản tính thụ động của cô ấy. Tâm trí riêng của cô ấy không năng nổ; cô ấy có thể chờ đợi và chờ đợi vô hạn định. Bởi lí do này mà tôi cảm thấy rằng thật nguy hiểm khi điểm đạo cho đàn bà đã có chồng chừng nào mà cô ấy còn chưa được dạy để hợp nhất với người đàn ông bên trong mình.
Một cô gái trinh, có thể được điểm đạo. Cô ấy ở vị trí tốt hơn là cậu thanh niên. Cô ấy có thể chờ đợi vô hạn định cho tới khi cô ấy được đưa vào dục, bởi vì cô ấy không năng nổ. Và bằng không có sự năng nổ từ bên ngoài, dần dần người đàn ông bên trong sẽ bắt đầu hợp nhất với người đàn bà bên ngoài. Thể thứ hai của cô ấy là thể nam vốn mang tính năng nổ.
Cho nên việc giao hợp bên trong, dễ dàng đối với đàn bà hơn rất nhiều so với đàn ông. Bạn có hiểu điều tôi muốn nói gì không? Thể thứ hai của đàn bà là nam tính và thể này là năng nổ. Do đó, cho dù nếu người đàn bà không tìm được người đàn ông bên ngoài, cũng chẳng thành vấn đề gì với cô ấy cả. Và nếu cô ấy không kinh nghiệm về dục từ nguồn bên ngoài, người đàn ông bên trong sẽ bắt đầu thành năng nổ. Thể ê te của cô ấy sẽ bắt đầu choán lấy cô ấy; thế thì cô ấy sẽ quay vào trong và trở nên chìm vào trong việc giao hợp bên trong.
Với người đàn ông việc giao hợp bên trong là khó khăn, bởi vì thể năng nổ của người đó là thể thứ nhất trong khi thể thứ hai của người đó lại là nữ tính. Thể này không thể nào tự khẳng định mình đối với thể thứ nhất. Chỉ khi thể thứ nhất đi với nó, nó mới đón nhận.
Đấy là tất cả những khác biệt, và một khi chúng được hiểu rõ, chúng ta sẽ phải thay đổi tất cả những thu xếp của mình. Nếu người có gia đình thành công trong việc tạo ra mạch điện trong giao hợp, điều đó sẽ rất có ích cho người đó. Cùng mạch năng lượng này sẽ được hình thành trong trường hợp giao hợp bên trong nữa. Mạch năng lượng này bao quanh một người bình thường chỉ vào lúc giao hợp bình thường. Cùng năng lượng đó sẽ bao quanh người đã hợp nhất với thể thứ hai của mình trong hai mươi bốn giờ một ngày. Vòng năng lượng này sẽ trở nên ngày một rộng hơn tại mọi bình diện.
Không một hình ảnh nào được tạo ra về Phật trong suốt năm trăm năm sau cái chết của ông ấy, và loại hiện tượng này đã xảy ra nhiều lần trong suốt lịch sử. Thay vào đó là tấm ảnh về cây bồ đề đã được khắc và được tôn thờ trong các đền, nhưng chỗ dưới gốc cây nơi người ta cho rằng Phật đã ngồi, bị bỏ trống. Bây giờ những người nghiên cứu lịch sử và huyền học đều rất phải suy nghĩ về việc tại sao ảnh Phật lại không được khắc hoạ: tại sao Phật được tượng trưng bằng một cây? Và tại sao hình ảnh của ông ấy mãi năm trăm năm sau mới được lập nên? Tại sao chỗ dưới gốc cây lại được để trống vào thời đó? Đây là bí ẩn mà cả các nhà lịch sử và các nhà huyền môn chẳng thể giải quyết nổi.
Thực tế, những người đã quan sát Phật rất kĩ lưỡng đều nhận xét rằng khi quan sát ông ấy với sự chú ý tập trung vào một điểm, không thể thấy được Phật: chỉ có cây và hào quang của năng lượng là còn lại. Thể vật lí của ông ấy biến mất. Bây giờ, chẳng hạn, nếu bạn quan sát tôi thật tinh tường, tôi nữa cũng sẽ biến mất và chỉ còn lại cái ghế. Cho nên những người thấy ông ấy một cách sâu sắc đều nói rằng không thể thấy được Phật, nhưng những người không thấy, lại nói rằng có thể thấy được ông ấy. Tuy nhiên, phát biểu của người trước thì xác thực hơn. Trong năm trăm năm lời của những người nói rằng Phật không bao giờ thấy được, và rằng chỉ có cái cây và chỗ trống dưới gốc cây, vẫn được tôn trọng. Nhưng khái niệm này chỉ có tác dụng chừng nào mà có những người có thể thấy được sâu sắc. Khi phẩm chất của những người này bắt đầu giảm đi, người ta sẽ khó mà tôn thờ một mình cái cây mà không có Phật. Năm trăm năm sau Phật thần tượng của ông ấy đã được thiết lập. Đây là một sự kiện rất thú vị.
Những người đã nhìn sâu sắc vào Jesus cũng đều không thể thấy được ông ấy; họ chỉ có thể thấy ánh sáng. Những người thấy Mahavira sâu sắc cũng chỉ thấy ánh sáng, sự việc cũng tương tự cho Krishna nữa. Nếu người ta quan sát người có phẩm chất này với sự tỉnh táo hoàn toàn, chỉ ánh sáng của năng lượng là thấy được; không người nào như thế lại thấy được ở đó.
Cứ sau mỗi hai thể, năng lượng sống lại tăng lên. Sau thể thứ tư nó đạt tới độ đầy đủ. Tại thể thứ năm, chỉ có năng lượng. Tại thể thứ sáu năng lượng này sẽ xuất hiện không tách biệt mà là một với các ngôi sao và bầu trời. Tại bình diện thứ bẩy ngay cả điều này cũng biến mất. Ban đầu vật chất biến mất, rồi đến năng lượng biến mất.
Tại bình diện nào thiền nhân đạt tới trạng thái vô suy nghĩ? Liệu ý nghĩ có thể không đồng nhất tâm thức với các vật hay việc đồng nhất là bản chất của ý nghĩ?
Trạng thái vô suy nghĩ hoàn hảo được đạt tới ở thể thứ năm nhưng những thoáng nhìn nhỏ bắt đầu từ thể thứ tư. Suy nghĩ tiếp tục trong thể thứ tư nhưng người ta bắt đầu quan sát thấy lỗ hổng giữa hai ý nghĩ. Trước thể thứ tư có toàn những ý nghĩ và chỉ có ý nghĩ; chúng ta không thấy lỗ hổng giữa các ý nghĩ. Trong thể thứ tư các khoảng hở bắt đầu xuất hiện và sự nhấn mạnh đã thay đổi. Nếu bạn quan sát những hình ảnh động thái, bạn sẽ có thể hiểu được sự thay đổi này. Giả sử có một bức tranh các bậc thang, nó có thể được vẽ sao cho nếu bạn nhìn chăm chú bạn sẽ thấy bậc thang đi lên; thế rồi nếu bạn nhìn lại bạn sẽ thấy bậc thang đi xuống. Nhưng phần thú vị nhất là ở chỗ bạn không thể nào quan sát bậc thang đi lên và đi xuống đồng thời. Bạn chỉ có thể thấy một trong hai loại bậc thang này. Khi bạn quan sát bức ảnh thứ hai, bức ảnh thứ nhất sẽ tan biến.
Chúng ta có thể làm một bức ảnh mà trong đó hai khuôn mặt nhìn vào nhau, đối xứng mắt, mũi và râu. Lần đầu tiên nó sẽ có vẻ như hai người đàn ông đang đối mặt với nhau. Bây giờ tô các khuôn mặt đen lại để khoảng trắng chen vào giữa. Bây giờ bạn sẽ thấy rằng có một bình hoa trong khoảng trống ở giữa này, và mũi, mắt trở thành đường viền của bình. Bạn sẽ không thể nào thấy được cái bình và hai khuôn mặt đồng thời. Khi bạn thấy hai khuôn mặt, không thấy cái bình; khi bạn thấy cái bình, các khuôn mặt tan biến. Dù bạn có cố gắng đến đâu để thấy chúng, động thái sẽ thay đổi việc nhấn mạnh của nó. Khi nhấn mạnh của bạn dịch chuyển về phía các khuôn mặt, cái bình sẽ tan biến; khi nhấn mạnh dồn vào cái bình, các khuôn mặt sẽ tan biến.
Cho tới thể thứ ba, động thái của tâm trí chúng ta vẫn còn nhấn mạnh vào ý nghĩ. Rama tới, cho nên Rama là thấy được và việc tới của ông ấy là thấy được. Không gian trống rỗng giữa Rama và việc tới của ông ấy, hay không gian trống rỗng trước việc tới của Rama và sau việc đi của Rama, là không thấy được đối với chúng ta.
Sự nhấn mạnh là vào việc tới của Rama; khoảng trống chen giữa không được quan sát. Sự thay đổi bắt đầu từ thể thứ tư. Bất thình lình sự việc đập vào bạn là việc tới của Rama không còn rất quan trọng nữa. Khi Rama không tới, vẫn có không gian trống rỗng; khi Rama đã đi, vẫn có không gian trống rỗng. Không gian trống rỗng bắt đầu đi vào bên trong hội tụ của tâm trí bạn: khuôn mặt biến mất; cái bình trở thành thấy được. Và khi sự chú ý của bạn dồn vào không gian trống rỗng, bạn không thể nghĩ được.
Bạn chỉ có thể làm một trong hai việc sau: khi mà bạn còn thấy ý nghĩ, bạn sẽ nghĩ, nhưng khi bạn thấy không gian trống rỗng, bạn sẽ là sự trống rỗng bên trong. Tuy nhiên, điều này sẽ thường đan xen trong thể thứ tư. Đôi khi bạn sẽ thấy hai khuôn mặt và đôi khi bạn thấy cái bình: tức là đôi khi bạn sẽ thấy ý nghĩ và đôi khi thấy lỗ hổng. Im lặng sẽ tới và ý nghĩ cũng sẽ tới như thế.
Khác biệt giữa im lặng và trống rỗng chỉ là thế này: im lặng có nghĩa là ý nghĩ còn chưa kết thúc, nhưng nhấn mạnh đã thay đổi. Tâm thức đã dịch chuyển khỏi ý nghĩ và lấy thích thú trong im lặng, nhưng ý nghĩ vẫn còn. Đấy chỉ là tâm thức đã dịch chuyển: chú ý đã dịch chuyển khỏi ý nghĩ. Thế thì chú ý là dồn vào im lặng. Nhưng ý nghĩ đôi khi trở lại - và khi nó xoay xở để lôi kéo chú ý của bạn, lần nữa im lặng lại bị mất và ý nghĩ bắt đầu.
Trong những khoảnh khắc cuối của thể thứ tư tâm trí sẽ thay phiên chuyển giữa cả hai điều này. Trên bình diện thứ năm tất cả các ý nghĩ đều sẽ mất và chỉ im lặng là còn lại. Đây không phải là im lặng tối hậu, bởi vì im lặng này là trong so sánh với ý nghĩ và lời nói. Im lặng có nghĩa là không nói; trống rỗng có nghĩa là trạng thái không có im lặng lẫn lời nói. Không có khuôn mặt nào còn lại mà cũng chẳng có bình hoa; chỉ có giấy trắng. Bây giờ nếu bạn được hỏi liệu các khuôn mặt có đó hay bình hoa có đó, bạn sẽ chẳng nói gì cả.
Trạng thái vô ý nghĩ xuất hiện trong tính toàn bộ của nó ở thể thứ năm. Tại thể thứ tư chúng ta có thoáng nhìn về trạng thái này; nó sẽ được quan sát thấy có rồi mất giữa hai ý nghĩ. Tại thể thứ năm, trạng thái vô ý nghĩ sẽ trở thành hiển nhiên và ý nghĩ sẽ biến mất.
Bây giờ đến phần thứ hai của câu hỏi của bạn là, "Liệu việc đồng nhất có cần thiết cho việc hình thành các ý nghĩ không, hay các ý nghĩ có thể xuất hiện mà không có bất kì sự đồng nhất nào?" Cho tới thể thứ ba, việc đồng nhất và ý nghĩ là cùng đến. Có sự đồng nhất của bạn và có việc ý nghĩ tới: không có khoảng hở giữa cả hai. Ý nghĩ của bạn và bạn là một - không phải hai. Bây giờ khi bạn giận dữ, nói rằng bạn giận dữ là sai. Đúng hơn phải nói là bạn đã trở nên giận dữ, bởi vì để giận dữ, bạn cũng phải có thể không giận dữ. Chẳng hạn, tôi nói, "Tôi đang di chuyển tay." Thế rồi giả sử bạn nói, "Bây giờ dừng tay lại," còn tôi nói, "Điều đó là không thể được; tay vẫn đang di chuyển" - thế thì bạn có thể nghi vấn điều tôi ngụ ý khi tôi nói, "Tôi đang di chuyển tay." Tôi phải nói, "Tay đang di chuyển," bởi vì nếu tôi đang di chuyển tay, tôi phải có khả năng dừng nó lại. Nếu tôi không thể nào dừng tay tôi lại, tôi không thể nào công bố mình là chủ của nó được. Điều đó không có nghĩa. Bởi vì bạn không thể dừng ý nghĩ của mình nên việc đồng nhất của bạn với chúng là trọn vẹn cho tới thể thứ ba. Cho tới đó bạn là ý nghĩ.
Cho nên tới thể thứ ba, bằng việc huých vào ý nghĩ của ai đó là chúng ta huých vào chính bản thân người đó. Nếu tôi bảo một người "Điều anh nói là sai," thì anh ta sẽ chẳng bao giờ cảm thấy rằng điều mình nói là sai; anh ta sẽ cảm thấy anh ta sai. Cãi nhau và đánh nhau xảy ra không phải bởi vì câu nói mà bởi vì cái tôi - bởi vì có sự đồng nhất hoàn toàn. Công kích vào ý nghĩ của bạn tức là công kích vào bạn. Ngay cả nếu bạn nói, "Thôi cũng được nếu bạn không đồng ý với cách nghĩ của tôi,", bên trong bạn sẽ cảm thấy rằng bạn đã bị phản đối. Nhiều lần việc xảy ra là ý tưởng đang tranh luận bị gạt sang bên và chúng ta bắt đầu đánh nhau vì đơn thuần chúng ta đưa ra quan điểm chứ chẳng bởi lí do gì khác. Bạn ủng hộ nó đơn thuần bởi vì bạn đã đưa nó ra như quan điểm của mình - bởi vì bạn đã tuyên bố nó là kinh sách của mình, nguyên tắc của mình, luận cứ của mình.
Cho tới thể thứ ba không có khoảng cách nào giữa bạn và ý nghĩ của mình. Bạn là ý nghĩ. Trong thể thứ tư sự nghiêng ngả bắt đầu. Bạn sẽ bắt đầu thoáng thấy sự kiện là bạn là cái gì đó riêng và ý nghĩ của bạn là cái gì đó riêng. Nhưng cho đến lúc này bạn còn chưa thể dừng lại ý nghĩ của mình, bởi vì sâu bên trong gốc rễ mối liên kết vẫn còn tồn tại. Trên các cành bạn cảm thấy khác biệt. Bạn ngồi trên một cành và ý nghĩ trên cành khác và bạn thấy chúng không phải là bạn. Nhưng sâu bên trong bạn và ý nghĩ vẫn là một. Do đó, dường như ý nghĩ là tách biệt, và cũng dường như là nếu mối liên kết của tôi với chúng mà bị phá vỡ, ý nghĩ sẽ dừng. Nhưng chúng lại cứ không dừng. Tại chiều sâu nào đó mối liên kết với ý nghĩ vẫn tiếp tục.
Thay đổi bắt đầu xảy ra trên bình diện thứ tư. Bạn bắt đầu có được khái niệm mơ hồ về ý nghĩ là khác và bạn là khác. Tuy nhiên, bạn vẫn chưa thể nào tuyên bố ra được điều này, và quá trình suy nghĩ vẫn là máy móc. Bạn không thể nào dừng lại ý nghĩ, mà bạn cũng chẳng đem chúng tới được. Nếu tôi có thể nói với bạn, "Dừng giận dữ lại và chứng tỏ bạn là người chủ," thì người ta cũng có thể nói, "Đem giận dữ tới và chứng tỏ rằng bạn là người chủ." Bạn sẽ hỏi, "Làm sao làm được điều này? Chúng tôi không thể đem giận dữ tới được." Khoảnh khắc bạn có thể làm được điều đó, bạn là người chủ của nó. Thế thì bạn có thể dừng nó lại vào bất kì khoảnh khắc nào. Khi bạn là người chủ, quá trình đem giận dữ tới và chấm dứt nó cả hai đều trong tay bạn. Nếu bạn có thể đem giận dữ tới, bạn cũng có thể dừng nó lại nữa.
Một điều thú vị là để ý rằng việc dừng nó có chút ít khó khăn, nhưng việc đem nó tới lại dễ dàng hơn. Cho nên nếu bạn muốn là người chủ, trước hết bắt đầu với việc đem giận dữ tới, bởi vì điều này dễ dàng hơn. Trong tình huống đem nó tới, bạn đang tĩnh lặng, nhưng trong tình huống phải dừng nó lại, bạn đã giận dữ rồi và do vậy bạn thậm chí không biết đến bản thân mình. Thế thì làm sao bạn dừng nó được? Do đó, bao giờ cũng dễ hơn cả là bắt đầu thực nghiệm này bằng việc đem giận dữ tới thay vì bởi việc dừng nó lại. Chẳng hạn, bạn bắt đầu cười nhưng rồi bạn thấy rằng bạn không thể nào chấm dứt việc cười được; điều ấy là khó. Nhưng nếu bạn đang không cười và bạn muốn đem lại tiếng cười, bạn có thể làm việc đó trong một hoặc hai phút. Thế thì bạn sẽ biết đến bí mật của cái cười - từ đâu nó tới và tới như thế nào - và thế thì bạn sẽ biết cái bí mật của việc dừng nó lại nữa, và nó có thể được dừng lại thật.
Tại bình diện thứ tư bạn sẽ bắt đầu thấy rằng bạn là tách biệt và các ý nghĩ là tách biệt; rằng bạn không phải là ý nghĩ của mình. Do đó, bất kì khi nào trạng thái vô ý nghĩ xuất hiện - như tôi đã nói trước đây - việc chứng kiến cũng tới, và bất kì khi nào có ý nghĩ, việc chứng kiến sẽ mất. Trong khoảng giữa các ý nghĩ - tức là trong lỗ hổng giữa các ý nghĩ - bạn sẽ hiểu việc đồng nhất tách biệt của mình với ý nghĩ. Thế thì không có liên hệ nào giữa bạn và và ý nghĩ. Nhưng ngay cả thế thì bạn cũng vẫn là người quan sát vô dụng. Bạn sẽ không thể nào làm được gì nhiều nhặn cho lắm, mặc cho tất cả những nỗ lực đã được tiến hành chỉ trong thể thứ tư.
Cho nên tôi đã định nghĩa hai khả năng của thể thứ tư - một là khả năng tự nhiên và hai là khả năng thu được qua thiền. Bạn sẽ luân phiên giữa hai khả năng này. Khả năng thứ nhất là ý nghĩ và khả năng thứ hai là hiểu biết. Khoảnh khắc bạn đạt tới tiềm năng thứ hai của thể thứ tư - vivek, hay hiểu biết - thì thể thứ tư sẽ rũ sạch việc đồng nhất tâm thức với tâm trí. Khi bạn đạt tới thể thứ năm, hai điều sẽ bị gạt bỏ: thể thứ tư và sự đồng nhất này.
Trong thể thứ năm bạn có thể đem ý nghĩ tới hay không đem chúng tới, tuỳ ý bạn. Lần đầu tiên ý nghĩ sẽ là phương tiện và sẽ không phụ thuộc vào sự đồng nhất nữa. Nếu bạn muốn đem giận tới, bạn có thể đem giận tới; nếu bạn muốn đem yêu tới bạn có thể làn điều đó. Nếu bạn không muốn đem bất kì cái gì, bạn được tự do không làm như vậy. Nếu bạn muốn dừng giận mà mới thành hình một nửa, bạn có thể ra lệnh cho nó dừng lại. Bất kì ý nghĩ nào bạn muốn đem tới, sẽ tới với bạn, và cái mà bạn không muốn đem tới sẽ không có bất kì sức mạnh gì để choán ngập tâm trí bạn.
Có nhiều hoàn cảnh như thế trong cuộc đời của Gurdjieff. Người ta coi ông ấy như một người lập dị. Nếu hai người ngồi trước ông ấy, ông ấy sẽ nhìn vào một người với giận dữ nhất và nhìn vào người kia với thương mến nhất. Ông ấy thay đổi cách bầy tỏ tình cảm nhanh chóng đến nỗi hai người mang hai báo cáo khác nhau về ông. Mặc dầu cả hai người cùng gặp ông ấy, một người sẽ nói, "Ông ấy trông như một người nguy hiểm," trong khi người kia, nói, "Ông ấy đáng yêu làm sao." Điều này rất dễ dàng ở bình diện thứ năm. Gurdjieff đã vượt ra ngoài cách hiểu biết của mọi người quanh ông. Ông ấy có thể ngay lập tức đem lại bất kì cách diễn đạt thái độ nào trên vẻ mặt. Chẳng có khó khăn gì đối với ông ấy trong việc này, nhưng lại là khó khăn với người khác.
Lí do nằm sau điều này là ở chỗ trong thể thứ năm, bạn là người chủ của chính mình; bạn có thể đem lại bất kì cảm giác nào bạn thích. Thế thì giận dữ, yêu thương, hận thù, tha thứ, tất cả những ý nghĩ của bạn, đều đơn thuần trở thành trò chơi; do đó, bạn có thể thảnh thơi khi bạn thích. Thảnh thơi sau trò chơi là rất dễ dàng nhưng thảnh thơi trong cuộc sống là khó khăn. Nếu tôi chỉ chơi đùa với giận dữ, tôi sẽ không ở trong giận dữ sau khi bạn đã rời khỏi phòng. Nếu tôi đang chơi trò chơi nói chuyện, tôi sẽ không nói nữa khi bạn đi. Nhưng nếu việc nói là hơi thở cuộc đời của tôi, thế thì tôi sẽ cứ nói ngay cả khi bạn đã bỏ đi. Thậm chí không có ai nghe cả, tôi sẽ nghe. Tôi sẽ cứ nói bởi vì đó là chính cuộc đời tôi; nó không phải là trò chơi mà sau đó tôi có thể thảnh thơi. Nó chính là cuộc đời tôi, nó choán trong tôi. Cho nên một người như vậy sẽ nói thậm chí cả vào ban đêm. Trong giấc mơ người đó cũng tụ tập đám đông và nói. Trong giấc mơ người đó cũng cãi nhau, người đó sẽ đánh nhau và làm tất cả những gì người đó đã làm lúc ban ngày. Người đó sẽ cứ làm điều này cả hai mươi bốn giờ, bởi vì đấy là cuộc sống của người đó, đấy là chính sự tồn tại của người đó.
Sự đồng nhất của bạn bị phá vỡ ở thể thứ năm. Thế thì lần đầu tiên bạn được an bình, bạn là trống rỗng, bởi ý chí tự do riêng của bạn. Nhưng khi nhu cầu nảy sinh, bạn cũng nghĩ. Cho nên trong thể thứ năm, lần đầu tiên, bạn sẽ đem năng lực suy nghĩ của mình ra dùng. Đúng hơn, nên nói rằng trước thể thứ năm ý nghĩ sử dụng bạn; sau thể thứ năm bạn dùng ý nghĩ. Trước đó nói "tôi nghĩ" là không đúng. Trong thể thứ năm bạn cũng đi tới nhận ra rằng ý nghĩ của bạn, không phải là của bạn: ý nghĩ của mọi người quanh bạn đi vào tâm trí bạn. Tuy nhiên, bạn thậm chí không biết rằng ý nghĩ mà bạn nghĩ là của riêng mình, có thể là của ai đó khác.
Một Hitler được sinh ra và toàn bộ nước Đức bị thấm đẫm ý nghĩ của ông ta - nhưng từng người Đức lại cảm thấy rằng đấy là ý nghĩ của riêng mình. Một người rất năng động, lan truyền ý nghĩ của mình vào tâm trí của những người khác và họ trở thành tiếng vọng của cùng một điều. Thuyết động lực học là nghiêm chỉnh vì nó sâu sắc. Chẳng hạn, đã hai nghìn năm trôi qua kể từ khi Jesus chết. Sóng ý nghĩ mà ông ấy đã để lại trên thế giới này vẫn còn ăn sâu vào tâm trí những người Ki tô giáo, người nghĩ rằng đấy là ý nghĩ của riêng mình. Điều tương tự cũng là trường hợp của Mahavira, Phật, Krishna và những người khác. Bất kì loại ý nghĩ nào của người năng động, dù họ là người thiện hay người ác, cũng đều ảnh hưởng vào tâm trí con người. Ảnh hưởng của Tamerlane và Genghis Khan lên tâm trí chúng ta không bớt đi mà ảnh hưởng của Krishna và Rama cũng chẳng kém đi. Sóng ý nghĩ của họ chuyển động mãi mãi quanh chúng ta, và bạn có thể bắt được những sóng ý nghĩ này, cái đưa đến trạng thái tâm trí đặc biệt của chúng ta.
Điều bao giờ cũng xảy ra là một người rất hiền vào buổi sáng lại trở thành ác vào buổi trưa. Vào buổi sáng người đó đi trong sóng của Rama; đến trưa người đó có thể bị sóng của Genghis Khan chụp lấy. Tính tiếp nhận và thời gian tạo ra khác biệt. Những người ăn xin bao giờ cũng đi ăn xin vào buổi sáng, bởi vì tác động của những rung động ác là tối thiểu vào lúc mặt trời lên. Khi ngày qua đi và khi mặt trời mệt mỏi bởi cuộc hành trình dài trên bầu trời, ảnh hưởng của những rung động đó lại thu được sức mạnh, cho nên người ăn xin chẳng hi vọng vào lòng từ thiện của người khác vào buổi tối. Nếu người ăn xin hỏi xin hai ru pi của một người vào buổi sáng sớm, người đó sẽ không thể từ chối thẳng cánh được; khi ngày qua đi, khó mà nói có cho người ăn xin. Đến tối người này mệt mỏi với cả ngày làm việc cho nên bây giờ người đó được chuẩn bị hoàn toàn để từ chối. Điều kiện tâm trí của người này bây giờ hoàn toàn khác; cho nên đấy cũng là do toàn bộ bầu không khí bao quanh người này. Cho nên ý nghĩ mà chúng ta cảm thấy là của chúng ta, cũng chẳng thuộc vào chúng ta.
Điều này bạn sẽ kinh nghiệm thấy chỉ trong thể thứ năm và bạn sẽ ngạc nhiên mà thấy cách thức các ý nghĩ đến và đi. Ý nghĩ đến, rồi lại đi; nó ảnh hưởng lên bạn, rồi nó bỏ lại bạn một mình. Có hàng nghìn loại ý nghĩ - và rất mâu thuẫn với nhau nữa; do đó, có lẫn lộn trong tâm trí chúng ta. Từng người đều lẫn lộn. Nếu ý nghĩ của bạn thuộc về bạn hoàn toàn, không có vấn đề về lẫn lộn. Một tay bạn bị ảnh hưởng bởi Genghis Khan và tay kia, bị ảnh hưởng bởi Krishna, cho nên nhất định là có lẫn lộn. Cả hai luồng ý nghĩ này đều nằm chờ bạn, và ngay khi bạn bộc lộ sự sẵn sàng của mình, chúng sẽ đi vào. Chúng hiện diện khắp xung quanh bạn.
Tất cả những điều này bạn sẽ nhận ra khi sự đồng nhất của bạn với các ý nghĩ bị phá vỡ hoàn toàn. Thay đổi lớn nhất sẽ là ở chỗ từ trước đó cho đến lúc này bạn không có ý nghĩ, nhưng bây giờ bạn sẽ có việc suy nghĩ. Có khác biệt giữa hai điều này. Ý nghĩ là các nguyên tử: chúng tới và đi và chúng bao giờ cũng là xa lạ. Nói rằng ý nghĩ bao giờ cũng xa lạ là hoàn toàn đúng đắn. Việc suy nghĩ là của chúng ta, nhưng ý nghĩ là xa lạ. Việc suy nghĩ này sẽ bắt đầu bên trong bạn sau thể thứ năm. Thế thì bạn sẽ có khả năng suy nghĩ; bạn sẽ không còn đơn thuần là việc tích tụ ý nghĩ của người khác. Do đó, việc suy nghĩ ở thể thứ năm không bao giờ là gánh nặng lên bạn, bởi vì nó là của riêng bạn. Việc suy nghĩ này được sinh ra trong thể thứ năm có thể được gọi là trí huệ hay hiểu biết hay bất kì cái gì bạn thích gọi nó.
Tại bình diện thứ năm bạn có trực giác riêng của mình, hiểu biết riêng của mình, thông minh riêng của mình. Tại bình diện thứ năm ảnh hưởng của tất cả các ý nghĩ bên ngoài sẽ chấm dứt, và theo nghĩa này bạn sẽ là người chủ của chính mình; bạn sẽ đạt tới bản thể của mình; bạn sẽ trở thành cái ta của mình. Bây giờ bạn sẽ có ý nghĩ riêng của mình, quyền năng suy nghĩ riêng của mình, con mắt riêng của mình và tầm nhìn riêng của mình. Sau điều này, chỉ cái bạn muốn mới tới với bạn; cái bạn không muốn sẽ không bao giờ tới gần bạn. Bạn có thể nghĩ chỉ điều bạn muốn nghĩ; các ý nghĩ khác không thể choán ngập bạn. Bây giờ bạn sẽ là người chủ. Tại đây vấn đề về sự đồng nhất không nảy sinh.
Trong thể thứ sáu việc suy nghĩ cũng là không cần nữa. Ý nghĩ chỉ cần tới thể thứ tư; suy nghĩ và trí huệ là cần trong thể thứ năm. Trên bình diện thứ sáu thậm chí những điều này cũng đã chấm dứt, bởi vì tại đó chúng chẳng cần tới chút nào. Bạn trở thành vũ trụ; bạn trở thành một với Brahman. Bây giờ không có gì khác.
Thực tế, mọi ý nghĩ bao giờ cũng có quan hệ tới người khác. Các ý nghĩ trước thể thứ tư là móc nối vô ý thức với người khác. Các ý nghĩ của thể thứ năm là móc nối có ý thức nhưng chúng vẫn có liên hệ với người khác. Sau rốt, tại sao các ý nghĩ lại là cần thiết? Chúng là cần chỉ để thiết lập mối quan hệ với người khác. Cho tới thể thứ tư chúng là các móc nối vô ý thức; tại thể thứ năm chúng là các móc nối có ý thức. Nhưng tại thể thứ sáu, không còn có "người khác" để thiết lập móc nối nữa. Tất cả các mối quan hệ đã kết thúc; chỉ còn lại vũ trụ. Tôi và bạn bây giờ là một. Bây giờ không có chỗ nào, không có lí do nào cho ý nghĩ tồn tại.
Thể thứ sáu là Brahman - thực tại vũ trụ, nơi không còn ý nghĩ. Trong Brahman không có ý nghĩ; do đó, có thể nói rằng trong Brahman có việc biết. Thực tại, ý nghĩ mà tồn tại cho tới thể thứ tư là ý nghĩ vô ý thức; chúng chứa dốt nát sâu sắc. Nó biểu lộ rằng chúng ta cần ý nghĩ để đánh nhau với cái tự dốt nát này. Tại thể thứ năm có việc biết tới cái ta bên trong, nhưng chúng ta vẫn còn dốt nát về cái khác với ta; người khác vẫn có đó đối với chúng ta. Do đó, có nhu cầu suy nghĩ trong thể thứ năm. Tại thể thứ sáu, không có bên trong hay bên ngoài nữa, không có tôi hay bạn, không có cái này hay cái kia. Bây giờ không có khoảng cách để biện minh cho ý nghĩ. Bây giờ cái gì có đấy thì có đấy. Do đó, tại thể thứ sáu chỉ có việc biết, không có ý nghĩ.
Tại bình diện thứ bẩy, việc biết cũng không tồn tại, bởi vì người biết không còn nữa và cái mà có thể được biết cũng không còn nữa. Cho nên ngay cả việc biết cũng không có trên bình diện thứ bẩy. Bình diện thứ bẩy không phải là không có việc biết, mà là vượt ra ngoài việc biết. Nếu bạn thích bạn có thể gọi nó là trạng thái của dốt nát nữa. Đó là lí do tại sao bao giờ cũng có trường hợp một người với tâm thức tối thượng và một người hoàn toàn dốt nát dường như là giống hệt nhau - bởi vì hành vi của họ thường là tương tự. Đây là lí do tại sao bao giờ cũng có tương tự lớn giữa trẻ nhỏ và người già người đã đạt tới chứng ngộ: họ thực tế không là một nhưng vẻ bề ngoài, họ dường như giống nhau. Đôi khi một hiền nhân chứng ngộ hành động theo cách thức trẻ thơ; đôi khi trong hành vi của đứa trẻ chúng ta thoáng thấy tính thánh thiện. Đôi khi người chứng ngộ trông như người dốt nát hoàn toàn, đần độn hoàn toàn, và dường như không ai có thể đần độn như ông ta. Nhưng hiền nhân đã vượt ra ngoài tri thức và trẻ nhỏ vẫn còn ở dưới mức tri thức. Tương tự nằm ở sự kiện rằng họ cả hai đều ở ngoài tri thức.
Tại thể nào, người ta đạt được cái mà Thầy vẫn nói là samadhi?
Thực tại có nhiều kiểu samadhi. Một samadhi sẽ xảy ra giữa thể thứ tư và thứ năm. Nhớ lấy, samadhi không phải là biến cố của một bình diện; nó bao giờ cũng xảy ra giữa hai bình diện, nó là thời kì chuyển tiếp, thời kì tranh tối tranh sáng. Người ta rất có thể hỏi liệu lúc tranh tối tranh sáng là thuộc vào ngày hay đêm. Tranh tối tranh sáng chẳng thuộc vào ngày mà cũng chẳng thuộc vào đêm, nó là biến cố giữa ngày và đêm. Cho nên samadhi cũng vậy.
Samadhi thứ nhất xuất hiện giữa bình diện thứ tư và thứ năm. Samadhi này dẫn tới tự hiểu biết, atma gyan. Một samadhi xuất hiện giữa bình diện thứ năm và thứ sáu; lần này dẫn đến brahma gyan - hiểu biết vũ trụ. Samadhi xuất hiện giữa bình diện thứ sáu và thứ bẩy là samadhi dẫn tới niết bàn. Cho nên nói chung có ba samadhi này xuất hiện giữa ba sharira cuối, ba thể cuối.
Có một samadhi giả mà cũng phải nhận ra. Nó xuất hiện trong thể thứ tư, nhưng nó không phải là samadhi mặc dầu nó dường như giống samadhi. Tại Nhật thuật ngữ của thiền phật giáo cho nó là satori tỏ ngộ. Nó là samadhi giả. Nó là trạng thái mà hoạ sĩ hay nhà điêu khắc hay nhạc sĩ đạt tới khi người đó hoàn toàn ngập chìm trong tác phẩm của mình; người đó kinh nghiệm phúc lạc lớn. Đây là một biến cố trên bình diện thứ tư - bình diện hồn. Nếu khi ngắm nhìn vào mặt trời buổi sáng hay lắng nghe giai điệu hay ngắm điệu vũ, hay quan sát việc nở hoa, mà tâm trí đắm chìm hoàn toàn trong biến cố đó, một samadhi giả xảy ra. Samadhi giả đó có thể được đem tới bằng rượu và ma tuý như thuốc phiện, heroin.
Cho nên có bốn kiểu samadhi. Thực tại có ba samadhi chân thực và chúng xảy ra tuần tự. Samadhi thứ tư hoàn toàn là kinh nghiệm giả xuất hiện tựa như samadhi. Trong samadhi này không có kinh nghiệm thực tại - chỉ có cảm giác của samadhi bị hiểu lầm. Nhiều người bị lầm bởi satori. Samadhi giả này xuất hiện ở thể thứ tư - bình diện hồn. Nó không phải là quá trình chuyển biến giữa bình diện thứ tư và thứ năm; nó xảy ra ngay bên trong thể thứ tư. Ba samadhi chân thực xuất hiện bên ngoài các thể trong thời kì chuyển tiếp khi chúng ta đi từ bình diện này sang bình diện khác. Một samadhi là cánh cửa, một bước chuyển.
Giữa các thể thứ tư và thứ năm xảy ra samadhi chân thực thứ nhất. Người ta đạt tới việc tự thảnh thơi. Chúng ta có thể bị mắc kẹt ở đây. Thông thường mọi người dừng tại samadhi giả trong thể thứ tư bởi vì nó dễ dàng lắm. Chúng ta hầu như chẳng tốn nỗ lực, chẳng phải cố gắng gì cả, và nó thu được hệt như thế. Do đó đại đa số thiền nhân bị trì trệ ở đây. Samadhi thực sự đầu tiên, xảy ra trên cuộc hành trình từ thể thứ tư sang thể thứ năm, là rất khó; và samadhi thứ ba, từ thể thứ sáu sang thể thứ bẩy, là khó hơn cả. Tên được chọn cho samadhi thứ ba là vajrabhed - xuyên thấu như cú sét. Nó là samadhi khó nhất bởi vì nó là bước chuyển từ hiện hữu sang không hiện hữu; nó là cái nhảy từ sự sống vào cái chết; nó là việc nhào từ sự tồn tại vào trong cái không tồn tại.
Cho nên thực tại có ba samadhi. Samadhi thứ nhất bạn có thể gọi là atma samadhi, samadhi thứ hai gọi là brahma samadhi, còn samadhi cuối được gọi là samadhi niết bàn. Chính samadhi đầu tiên và giả, bạn có thể gọi là satori. Đây là samadhi mà bạn nên cảnh giác chống lại, bởi vì nó rất dễ đạt tới.
Một phương pháp khác để kiểm tra tính hợp lệ của samadhi là ở chỗ nếu nó xảy ra bên trong một bình diện thì nó là giả; nó phải xảy ra giữa các bình diện. Nó là cánh cửa; nó chẳng liên quan gì tới bên trong căn phòng. Nó phải ở bên ngoài căn phòng, kề với phòng tiếp.
Tại sao rắn được chọn làm biểu tượng cho kundalini? Xin thầy giải thích tất cả các lí do. Trong một biểu tượng mà Hội thông thiên học đã dùng, con rắn cuộn xoắn cắn đuôi nó được đưa ra. Trong biểu tượng Sứ mệnh của Ramakrishna, đuôi rắn chạm tới chỏm đầu rắn. Xin Thầy giải thích ý nghĩa của những điều này.
Biểu tượng rắn cho kundalini là rất thích hợp và có nghĩa. Có lẽ không có biểu tượng nào tốt hơn biểu tượng này. Do đó, không chỉ kundalini mà cả rắn cũng đã trải qua nhiều cuộc du hành lớn trong hình dạng biểu tượng này. Không ở đâu trên thế giới này có một tôn giáo mà trong đó không có mô tả về rắn ở đâu đó. Điều này là bởi vì rắn có nhiều phẩm chất phù hợp với kundalini.
Chính điều đầu tiên xuất hiện trong tâm trí nói tới rắn là việc chuyển động trườn đi - bò đi. Chính kinh nghiệm đầu tiên về kundalini là ở chỗ cái gì đó chuyển động ở bên trong. Bạn cảm thấy dường như cái gì đó đã chuyển động bên trong - giống như rắn bò. Một điều khác cũng tới trong tâm trí với chính việc chuyển động này của rắn là ở chỗ nó không có chân, thế mà nó vẫn di chuyển được. Nó không có phương tiện để chuyển động - nó là năng lượng hoàn toàn - thế mà nó vẫn đi. Điều thứ ba tới trong tâm trí là ở chỗ khi rắn dừng, nó cuộn mình lại. Khi kundalini nằm ngủ bên trong chúng ta, nó nữa cũng nghỉ theo cùng cách thức này.
Khi một vật dài phải dọn chỗ cho nó trong một chỗ nhỏ hẹp, nó phải cuộn lại; không có cách nào khác cho nó cả. Sức mạnh rất lớn ngụ tại một trung tâm rất nhỏ, nó chỉ có thể tự cuộn mình lại. Bây giờ khi rắn tỉnh dậy nó tháo dần từng vòng cuộn ra; nó vươn lên, vòng cuộn cũng tháo ra. Theo cùng cách này chúng ta cảm thấy kundalini đã tháo ra bên trong khi năng lượng kundalini dâng lên trong chúng ta.
Rắn đôi khi cũng chơi đùa bằng việc ngậm đuôi mình. Việc ngậm đuôi này cũng là biểu tượng có ý nghĩa. Đây là biểu tượng có giá trị và nhiều người nhận ra nó như thế. Nó có giá trị bởi vì nó gợi ý rằng khi kundalini đã thức tỉnh hoàn toàn, nó sẽ trở thành tuần hoàn và bắt đầu tạo nên mạch riêng của nó ở bên trong. Bây giờ khi biểu tượng được tạo ra để mô tả sadhana nam, việc thực hành tâm linh nam, sẽ là việc ngậm đuôi; đấy sẽ là năng nổ. Nếu biểu tượng này được đạt tới bởi sadhana nữ, việc thực hành tâm linh nữ, cái đuôi sẽ chỉ chạm lên chỏm đầu. Đây là cái đuôi buông xuôi - cái đuôi không bị ngậm trong mồm. Đây là khác biệt duy nhất và không gì hơn nữa.
Chỏm đầu của rắn cũng trở thành có mục đích. Đuôi rất hẹp trong khi chỏm đầu lại rất rộng. Khi kundalini thức tỉnh hoàn toàn, nó đạt tới sahasrar. Nó mở ra và trải dài giống như chỏm đầu của rắn; nó mở rộng ra vô cùng. Dường như nhiều hoa nở ra trong nó. Thế thì đuôi của nó trở thành rất nhỏ.
Khi rắn đứng thẳng lên, đấy là một cảnh tượng kì diệu; nó đứng thẳng trên chỏm đuôi. Điều đó gần như phép màu. Rắn là loại không xương sống, sinh vật không xương, ấy vậy mà thực hiện được hành động này. Điều ấy chỉ có thể được với sự hỗ trợ của năng lượng sống trong nó, bởi vì không có phương tiện chủ chốt nào khác cho nó để đứng thẳng. Nó đứng lên bởi sức mạnh của ý chí riêng của nó; nó không có sức mạnh vật chất nào để dựa vào. Sự việc cũng là như thế khi kundalini thức tỉnh: nó không có sự hỗ trợ vật lí; nó là năng lượng phi vật chất.
Đấy là những lí do tại sao rắn lại được chọn như một biểu tượng. Cũng còn nhiều lí do khác nữa. Chẳng hạn, nó là một sinh vật vô tư; do đó, thần Shiva của Hindu - người cũng được gọi là "Shiva vô tư" - đội nó trên đầu. Theo ý riêng của nó, rắn chẳng gây rắc rồi cho bất kì ai, nhưng nếu nếu nó bị quấy rối, nó có thể rất nguy hiểm. Cùng điều đó cũng áp dụng cho kundalini. Nó là một năng lượng rất vô tư; nó không gây rắc rối cho bạn theo ý riêng của nó. Nhưng nếu bạn quấy rối nó theo cách sai lầm, bạn sẽ thấy mình bị rắc rối. Nó có thể tỏ ra rất nguy hiểm. Cho nên biểu tượng của rắn nhắc nhở chúng ta rằng việc quấy rối kundalini theo cách sai lầm là nguy hiểm.
Khi nhớ tất cả những điều này trong trí, không có biểu tượng nào thích hợp hơn là rắn.
Trên khắp thế giới rắn đều được lấy làm biểu tượng cho trí huệ. Jesus đã nói, "Nhanh trí và thông minh như rắn và vô tư như bồ câu." Rắn là sinh vật rất thông minh - rất tỉnh táo, rất quan sát và rất nhanh nhẹn, sắc sảo. Đó là tất cả phẩm chất của nó. Kundalini cũng giống như thế. Bạn đạt tới đỉnh tối thượng của trí huệ qua nó; nó rất mau lẹ, và cũng rất mạnh mẽ.
Ngày xưa, khi biểu tượng này được chọn cho kundalini, có lẽ chẳng có gì tốt hơn rắn. Ngay cả bây giờ cũng chẳng có gì tốt hơn. Có lẽ trong tương lai có thể có một biểu tượng mới - như tên lửa. Một khái niệm tương lai nào đó có thể thâu tóm kundalini như quả tên lửa. Cuộc hành trình là như nhau; nó đi từ bầu trời này sang bầu trời khác, từ hành tinh này sang hành tinh khác, và có hư không ở giữa. Nó có thể trở thành biểu tượng. Thời đại quyết định ra biểu tượng.
Biểu tượng này đã được chọn khi con người còn rất gần với vương quốc loài vật. Tất cả các biểu tượng của chúng ta của những thời này đều lấy từ loài vật, bởi vì đó là tất cả những gì mà tri thức chúng ta có được cho nên chúng ta đã cố gắng tìm ra biểu tượng trong chúng. Rắn vậy đã là biểu tượng thích hợp nhất để định nghĩa kundalini.
Trong những ngày ấy chúng ta không thể nói rằng kundalini giống như điện; khi chúng ta nói tới ngày nay, chúng ta có thể nói như vậy. Năm nghìn năm trước không thể nói về kundalini dưới dạng điện bởi vì không có khái niệm về điện. Nhưng rắn có phẩm chất của điện. Điều này thật khó cho chúng ta tin bởi vì nhiều người trong chúng ta chẳng có kinh nghiệm gì về rắn cả. Chúng ta có thể không có kinh nghiệm về kundalini so với bất kì cái gì, nhưng chúng ta khó mà có kinh nghiệm về rắn nữa. Rắn là huyền thoại đối với chúng ta.
Gần đây người ta đã tiến hành một cuộc điều tra ở London và người ta thấy rằng bẩy trăm nghìn trẻ con chưa bao giờ thấy con bò. Bây giờ những đứa trẻ này, chưa từng thấy con bò, không thể nào có ý tưởng về rắn được. Cho nên toàn bộ cách nghĩ của chúng - và biểu tượng của chúng - sẽ hoàn toàn khác.
Bây giờ rắn đã quá lỗi thời: nó không còn là phần quan trọng trong cuộc sống chúng ta nữa. Ngày xưa nó rất gần gũi chúng ta; nó đã là hàng xóm của chúng ta và cùng chúng ta cả hai mươi bốn giờ một ngày. Thế thì chính con người đã để ý đến nhanh nhẹn của nó, thông minh của nó, chuyển động của nó, và thoải mái mà nó luôn mang theo mình. Chính là con người đã hiểu con vật này nguy hiểm như thế nào. Có những câu chuyện về rắn canh gác cho trẻ con, và nó vô tư làm sao... Có những trường hợp khi nó cắn những người hung dữ nhất và giết chết người đó, cho nên nó có thể nguy hiểm lắm. Cho nên cả hai khả năng này đều có trong nó.
Khi một người ở rất gần với rắn, người đó phải quan sát nó thật chăm chú. Chủ đề về kundalini cũng bắt đầu vào cùng lúc, và cả rắn lẫn kundalini đều tương tự nhau trong phẩm chất của chúng. Nhưng tất cả các biểu tượng đều có nghĩa, và nếu chúng tới với chúng ta qua các thời đại, cũng có phù hợp, nhịp điệu trong chúng. Nhưng bây giờ điều đó nhất định bị phá vỡ. Biểu tượng về rắn không còn kéo dài lâu. Chúng ta sẽ không thể nào gọi là sức mạnh rắn kundalini, bởi vì bây giờ con rắn tội nghiệp ở đâu? Nó không còn là hàng xóm của chúng ta nữa; chúng ta không còn mối liên quan nào với nó. Chúng ta thậm chí không thấy nó trên đường. Cho nên khi chúng ta không còn liên quan gì tới nó về bất kì cái gì, câu hỏi này nảy sinh. Trước đây nó không thể nảy sinh ra khi nó là biểu tượng duy nhất.
Người ta nói rằng khi kundalini thức tỉnh, nó ăn thịt và uống máu. Điều này có nghĩa là gì?
Có ý nghĩa cho điều này. Mô tả này gần đúng theo từng từ. Thực tại, khi kundalini dâng lên, nhiều biến đổi xảy ra bên trong thân thể. Bất kì khi nào năng lượng mới nảy sinh trong thân thể, những thành phần cũ của nó lại trải qua thay đổi hoàn toàn. Điều đó nhất định thay đổi; thân thể vận hành theo biết bao nhiêu cách thức mà chúng ta không ý thức tới chúng. Chẳng hạn, lấy trường hợp người keo kiệt. Keo kiệt là phẩm chất của tâm trí, nhưng thân thể người keo kiệt cũng trở thành kẻ keo kiệt. Thân thể người đó sẽ bắt đầu thu thập những chất mà có thể nó cần tới trong tương lai. Nó sẽ cứ tích luỹ mà chẳng có lí do gì cho tới khi nó đạt tới một điểm mà tại đó nó trở thành quấy rối và bất tiện.
Bây giờ xét người khác, kẻ hèn nhát. Thân thể người đó sẽ thu thập tất cả các phần tử dẫn tới sợ hãi. Giả sử thân thể muốn run rẩy trong sợ hãi và nó không có những yêu cầu cần thiết - nó sẽ làm gì? Bạn yêu cầu sợ hãi từ thân thể và nó không có các tuyến và hóc môn cần thiết: nó sẽ làm gì? Cho nên thân thể giữ một cái kho sẵn sàng vì nó biết yêu cầu của bạn. Thân thể của người sợ hãi thu thập các tuyến sợ để làm thuận tiện cho việc chiều theo nỗi sợ của bạn. Người toát mồ hôi khi sợ sẽ có tuyến mồ hôi rất mạnh; người đó có khả năng toát mồ hôi vô khối. Sự thu xếp này là tuyệt đối cần thiết bởi vì yêu cầu của người này có thể là nhiều trong quá trình một ngày. Cho nên thân thể trữ sẵn những thứ tương ứng với yêu cầu của tâm trí - và còn nữa.
Khi tâm trí thay đổi, thân thể cũng thay đổi. Khi kundalini dâng lên, sẽ có thay đổi hoàn toàn trong thân thể bạn. Trong biến đổi đó da thịt bạn có thể giảm đi và máu bạn cũng vậy, nhưng nó sẽ giảm đúng theo yêu cầu của bạn. Cho nên thân thể sẽ hoàn toàn được biến đổi. Chỉ những da thịt và máu cần thiết cho thân thể mới còn lại; phần thừa sẽ bị thiêu đốt đi. Chỉ thế thì bạn mới cảm thấy nhẹ nhàng; chỉ thế thì bạn mới có thể bay vào bầu trời bên trong. Điều này sẽ là khác biệt.
Điều vừa nói là đúng đắn. Thiền nhân phải có một chế độ ăn uống đặc biệt và sự thu xếp đặc biệt cho việc sống, bằng không, người đó sẽ thấy mình gặp khó khăn. Khi kundalini dâng lên, rất nhiều nhiệt sẽ được tạo ra bên trong bởi vì đấy là lực điện; đấy là năng lượng có điện thế rất cao. Cũng hệt như tôi đã nói cho các bạn rằng rắn là biểu tượng của kundalini, lửa cũng là biểu tượng của kundalini ở một số nơi. Đây nữa cũng là biểu tượng rất sát.
Cho nên kundalini sẽ thiêu đốt giống như lửa bên trong bạn và ngọn lửa sẽ dâng lên cao. Rất nhiều thứ sẽ cháy trong ngọn lửa này. Khô khan nào đó có thể nảy sinh từ việc thức tỉnh của kundalini. Do đó, nhân cách phải rất hài hoà và một số kênh chất lỏng cần phải phát triển. Chẳng hạn, lấy một người hay giận dữ: nếu kundalini của người này thức tỉnh, người đó sẽ thấy mình gặp khó khăn. Người đó là người khô khan và thô lỗ, cho nên nếu ngọn lửa thiêu đốt bên trong, người đó sẽ gặp rắc rối. Người đáng yêu có hài hoà hoá học sâu sắc. Có hanh thông về hài hoà hoá chất bên trong người đó. Người đó sẽ không bị ảnh hưởng bất lợi bởi việc thức tỉnh của kundalini.
Bất kì điều gì đã được nói, cũng đều đã được nói với tất cả những chi tiết này. Mọi thứ đã được đưa ra khá đại khái bởi vì nghệ thuật diễn đạt của thời xưa còn chưa được phát triển cho lắm và cách tiếp cận cũng còn thô sơ. Cho nên điều đã được nói là rất đúng: da thịt sẽ cháy và cả máu và tuỷ cũng vậy, bởi vì bạn sẽ thay đổi hoàn toàn; bạn đang sắp là một người mới hoàn toàn. Tất cả những mẫu hình của bạn, thành phần của bạn, đều phải trải qua thay đổi. Thiền nhân phải ghi sâu điều này trong trí và chuẩn bị tương ứng cho mình.
Chương 9. Chiều sâu huyền bí của kundalini và tâm linh
Ở trại thiền Nargol, Thầy đã nói rằng những thực hành yoga - asanas, pranayamas, mudras và bandhas - đã được phát hiện ra trong trạng thái thiền. Trong những trạng thái khác của thiền, những tư thế khác được thân thể hình thành để từ đó thiền nhân có thể đạt tới chiều sâu của thiền. Đảo lại, liệu cùng trạng thái bên trong đó có thể được đem lại bởi việc hình thành các tư thế cần thiết hay không? Trong trường hợp đó, liệu việc thiền có thể đạt tới được bằng việc dùng các asanas, pranayamas, mudras và bandhas không? Đâu là ích lợi và ý nghĩa của chúng?
Điều đầu tiên tới từ kinh nghiệm của thiền. Với kinh nghiệm của thiền người ta đã thấy rằng thân thể lấy nhiều tư thế. Thực tại, bất kì khi nào tâm trí đang ở một trạng thái đặc biệt, thân thể lấy một tư thế tương ứng thích hợp. Chẳng hạn, khi bạn tràn ngập tình yêu, khuôn mặt bạn, cách bầy tỏ của bạn đi theo một cách nào đó, còn khi bạn giận dữ, cách bầy tỏ của bạn trở thành khác hoàn toàn. Trong giận dữ bạn nghiến răng và siết chặt nắm đấm và thân thể sẵn sàng để đánh nhau hay bỏ chạy. Khi bạn đang trong tâm trạng khoan dung, đôi mắt mềm dịu và bàn tay để mở. Khi một người tràn đầy khoan dung, nắm tay người đó không bao giờ siết lại. Giống như siết chặt nắm tay là việc chuẩn bị để đánh nhau, việc mở nắm tay và trải rộng bàn tay là chỉ dẫn về việc thoát khỏi thôi thúc đánh nhau; nó là sự đảm bảo cho việc bảo vệ. Siết chặt nắm tay là để đe doạ người khác.
Bản chất của thân thể là ở chỗ nó vận hành tương ứng theo trạng thái của tâm trí. Thân thể tuân theo tâm trí: nó bao giờ cũng đi sau. Cho nên thông thường chúng ta biết một người sẽ làm gì trong giận và người đó sẽ làm gì trong yêu - cả việc người đó sẽ làm gì trong trạng thái tin cậy. Nhưng chúng ta không biết cách thức người đó phản ứng lại với những trạng thái sâu sắc hơn của tâm trí.
Khi những trạng thái sâu sắc được tạo ra trong tâm trí, rất nhiều điều cũng xảy ra trong thân thể nữa. Nhiều điệu bộ, cử chỉ, và nhiều tư thế asana xảy ra nói về những thay đổi bên trong. Thực tế, các động thái được hình thành vào lúc chuẩn bị cho những trạng thái bên trong đặc biệt. Các điệu bộ được hình thành về sau và chúng cho thông tin về trạng thái bên trong của người ta.
Khi thay đổi xuất hiện bên trong, thân thể phải tìm một sự điều chỉnh tương đương với những thay đổi bên trong đó. Khi kundalini thức tỉnh bên trong, thân thể sẽ lấy tất cả các tư thế bất thường để tạo đường cho năng lượng. Xương sống tự nó sẽ uốn theo nhiều cách để cho phép năng lượng đi lên. Đầu cũng lấy những vị trí khác nhau khi kundalini thức tỉnh. Thân thể lấy những tư thế mà chúng ta chưa bao giờ có trước đây. Cũng hệt như khi ta tỉnh dậy thân thể lấy vị trí đứng thẳng và khi chúng ta ngủ, thân thể phải nằm ra - nó không thể đứng hay ngồi.
Bây giờ giả sử có một người không biết đến ngủ là gì từ khi sinh: người đó sẽ chẳng bao giờ nằm cả. Nếu sau ba mươi năm người đó muốn ngủ, người đó sẽ nằm xuống lần đầu tiên. Lần đầu tiên điều kiện tâm trí người đó sẽ thay đổi theo khía cạnh này và người đó sẽ đi ngủ. Tuy nhiên, người đó sẽ rất suy nghĩ bởi tư thế mới, vì thân thể người đó chưa bao giờ lấy tư thế đó trước đây. Cho tới nay người đó vẫn quen ngồi, đứng, bước, nhưng chưa bao giờ nằm xuống cả. Bây giờ người đó phải nằm xuống để cho điều kiện cần thiết cho giấc ngủ xảy ra bên trong mình. Khi thân thể nằm dài ra, tâm trí thấy dễ trượt vào điều kiện đặc biệt hơn. Nhưng những người khác nhau có những cách khác nhau để nằm ra bởi vì trạng thái tâm trí của mỗi người mỗi khác.
Chẳng hạn, người ở vùng bộ lạc không dùng gối khi ngủ, nhưng người văn minh lại không thể nào ngủ được nếu thiếu gối. Người bộ lạc ít nghĩ đến mức dòng máu chảy lên đầu cũng ít hơn nhiều. Để ngủ, điều cơ bản là dòng máu lên đầu phải ít nhất có thể được. Nếu quá nhiều máu, bạn sẽ không thể nào ngủ được. Nếu thần kinh trong bộ não không thảnh thơi, sẽ khó cho bạn thảnh thơi; máu sẽ cứ chảy lên não. Thế thì bạn phải thêm một cái gối nữa rồi gối nữa. Người ta càng văn minh và có giáo dục, người đó càng được mở mang, người đó lại càng cần nhiều gối dưới đầu hơn. Cổ phải gần như thẳng đứng để ngăn cản dòng máu lên đầu.
Tư thế của thân thể tương ứng với trạng thái tâm trí của người ta. Cho nên với thức tỉnh của năng lượng bên trong, những chuyển vận của nó theo nhiều cách bắt đầu hình thành. Các luân xa khác nhau cũng đưa thân thể tới các tư thế asana khác nhau. Vậy, nhiều tư thế được hình thành. Khi một trạng thái đặt biệt bắt đầu hình thành bên trong, cách biểu hiện của tay bạn, mặt bạn và mắt bạn cũng thay đổi. Điều này xảy ra trong thiền. Xem như kết quả, điều ngược lại cũng xuất hiện trong sự chú ý của con người: tức là, khi thực hiện những động tác này, có thể đi vào trong thiền được không? Cần phải hiểu điều này.
Trong thiền những quá trình này xảy ra; ấy thế mà chúng không phải là không tránh khỏi. Nói cách khác, tất cả các thiền nhân không trải qua cùng các quá trình thân thể. Một điều kiện phải được sinh ra trong tâm trí: trạng thái thân tâm của mọi thiền nhân là khác với trạng thái thân tâm của người khác - do đó, tất cả sẽ không trải qua cùng các động tác. Chẳng hạn, nếu dòng máu ít đi lên đầu của một thiền nhân và nếu lại cần dòng máu lớn hơn để thức tỉnh kundalini, người này, mặc dầu không biết, sẽ đi vào tư thế trồng cây chuối, shirshasana. Tất cả các thiền nhân sẽ không đi vào tư thế này bởi vì tỉ lệ dòng máu là khác nhau cho từng người; mỗi người có những yêu cầu khác nhau. Cho nên các động tác sẽ hình thành tương ứng theo nhu cầu của từng thiền nhân.
Khi bản thân chúng ta chọn một động tác và thực hành chúng, thế thì chúng ta không biết động tác đặc biệt nào là có ích hay cần thiết cho chúng ta. Các động tác có thể có hại cũng như có lợi. Nếu không được cần tới trong trường hợp của một thiền nhân đặc biệt, chúng có thể tỏ ra có hại - nếu chúng là cần thiết, chúng sẽ có ích. Một khó khăn là ở chỗ đây là điều bất định. Khó khăn nữa là ở chỗ khi cái gì đó xảy ra bên trong và đồng thời cái gì đó bắt đầu xảy ra bên ngoài nữa, thế thì năng lượng sẽ chuyển ra ngoài. Khi chúng ta thực hiện một hành động từ bên ngoài, nó có thể vẫn không khác gì việc biểu diễn vật lí.
Bây giờ như tôi đã nói, trong giận dữ, nắm tay siết lại một cách tự động. Nhưng đấy không nhất thiết là trường hợp bạn trở nên giận dữ bằng việc nắm tay lại. Chúng ta có thể diễn lại một hành động giận dữ trong khi không có bất kì giận dữ nào bên trong. Vậy mà nếu chúng ta muốn gợi lên cơn giận dữ bên trong, việc siết chặt nắm tay có thể có ích, nhưng chúng ta không thể nói chắc rằng giận dữ sẽ sinh ra. Nếu chúng ta phải chọn giữa siết chặt và không siết chặt nắm đấm, khả năng đem lại giận dữ nhất định sẽ nhiều hơn với việc siết chặt nắm đấm. Chút ít trợ giúp này là có thể.
Khi một người trong trạng thái an bình, tay người đó sẽ ở một điệu bộ cần thiết. Nhưng nếu một người luyện tập hình thành điệu bộ ấy của tay, không thể nói chắc rằng tâm trí người đó có đạt tới an bình không. Vậy mà những trạng thái đặc biệt của thân thể lại giúp cho tâm trí được an bình. Thân thể sẽ biểu lộ tính sẵn sàng của nó để hợp tác; thế thì để cho tâm trí làn điều cần thiết. Nhưng thay đổi thân thể không có nghĩa là tâm trí sẽ thay đổi, và lí do là ở chỗ trạng thái của tâm trí đi trước trạng thái của thân thể. Đó là lí do tại sao khi tâm trí thay đổi, thân thể thay đổi theo, nhưng việc thay đổi ban đầu trong thân thể nhiều nhất chỉ tạo ra một khả năng cho thay đổi trong tâm trí thôi. Điều đó không phải là điều chắc chắn.
Cho nên bao giờ cũng có nguy cơ lừa dối. Một người có thể thường xuyên thực hiện các động tác và điệu bộ và cho rằng mình đã làm mọi việc; những trường hợp như thế vẫn xảy ra. Trong hàng nghìn năm người ta đã tập các động tác và điệu bộ trong khi nghĩ rằng mình thực hành yoga. Thế rồi dần dần khái niệm về thiền bị mất đi trong yoga. Với từ yoga sadhana, điều đến trong tâm trí là asanas, pranayamas, vân vân. Nếu bạn hỏi ai đó yoga là gì, người đó sẽ nghĩ về asanas, pranayamas, và cứ như thế mà tiếp. Do đó, tôi bao giờ cũng nhấn mạnh rằng nếu các yêu cầu của một thiền nhân được hiểu đúng, những vị trí thân thể nào đó có thể tỏ ra có ích cho người đó. Nhưng kết quả là bất định. Đó là lí do tại sao tôi bao giờ cũng thiên về làm việc từ bên trong chứ không phải từ bên ngoài.
Nếu cái gì đó bắt đầu từ bên trong, chúng ta có thể hiểu ý nghĩa của nó. Giả sử một thiền nhân ngồi thiền và tôi cảm thấy rằng bên trong người đó muốn bật khóc nhưng người đó phải kìm nó lại. Tôi có thể thấy rằng nếu người đó khóc trong mười phút, người đó sẽ bắt đầu chuyển biến và việc thanh tâm sẽ xảy ra. Tuy nhiên, người đó sợ rằng mình buột khóc cho nên người đó tự chặn mình lại. Bây giờ nếu người đó được phép không tự chặn mình lại mà cứ khóc, người đó ban đầu sẽ giả khóc. Nhưng trong hai hay ba phút, việc khóc đó sẽ trở thành chân thật khi xung động khóc đã vỡ bờ tràn ra từ bên trong. Quá trình khóc sẽ phá vỡ rào chắn và cái phải chảy ra sẽ ào ạt tuôn ra.
Thiền nhân khác cảm thấy muốn nhảy múa nhưng người đó phải kìm mình lại. Nếu chúng ta bảo người đó nhảy múa, ban đầu người đó sẽ chỉ đóng kịch: vì việc nhảy múa sẽ không đến từ bên trong. Một khi người đó bắt đầu nhảy múa, điều đó sẽ đem lại cho việc nhảy múa cơ hội để phá ra. Chẳng mấy chốc điều này sẽ bắt đầu và điệu vũ bên trong sẽ hội nhập vào với điệu vũ bên ngoài. Nhưng nếu không có lí do gì cho việc nhảy múa bên trong người đó và chúng ta bảo thiền nhân nhảy múa, người đó sẽ cứ nhảy múa mà chẳng có gì xảy ra cả.
Cho nên nhiều điều cần phải xem xét tới. Có nhiều, nhiều điều kiện cho tất cả mọi người mà tôi đã nói với các bạn. Nếu bạn nhớ những điều này trong tâm trí, bạn sẽ hiểu. Nếu bạn không muốn bị nặng gánh với tất cả những điều này, cách tốt nhất là bắt đầu từ bên trong và để cho mọi thứ xảy ra một cách tự phát. Đừng chặn biến cố bên ngoài, đừng đánh nhau với nó. Thế thì mọi việc sẽ tự nó xảy ra.
Trong những thực nghiệm thiền mà Thầy hiện đang hướng dẫn, đâu là khác biệt về vật lí và tâm lí đưa lại bởi việc ngồi hay đứng cho thực nghiệm đó?
Điều ấy tạo ra khác biệt lớn đấy. Như tôi đã nói với các bạn trước đây, sâu bên trong, mọi trạng thái thân thể đều có gắn với một trạng thái đặc biệt của tâm trí tương ứng với nó. Nếu chúng ta bảo một người thức khi người đó đang nằm, rất khó cho người đó làm như vậy; nếu chúng ta bảo người đó tỉnh táo khi người đó đang đứng, điều này sẽ dễ dàng. Nếu chúng ta bảo người đó ngủ khi người đó đang đứng, điều đó sẽ khó khăn; nếu chúng ta bảo người đó ngủ khi người đó nằm, điều đó sẽ dễ dàng.
Cho nên có quá trình kép trong đó có sợ là thiền nhân có thể rơi vào giấc ngủ hay mê đi. Nếu người đó đứng, việc này sẽ giúp xua đuổi sợ này. Nếu người đó đứng, khả năng mê sẽ kém đi.
Phần thứ hai của thực nghiệm này là thái độ chứng kiến - nhận biết. Ban đầu khó mà duy trì nhận biết khi nằm ra. Về sau điều đó sẽ dễ dàng. Bao giờ cũng dễ dàng duy trì việc chứng kiến khi bạn đứng. Quá trình khởi đầu thôi miên, mà thay vì thế sẽ đưa bạn vào giấc mê, sẽ bị thu hẹp lại rất nhiều bởi việc đứng.
Có hai hay ba điều nữa. Khi bạn đứng, chuyển động của thân thể là tự do; khi bạn nằm chuyển động của bạn sẽ không được tự do như thế. Khi bạn ngồi, nửa thân thể sẽ không thể nào tham gia vào hoạt động. Giả sử chân bạn muốn nhảy múa còn bạn đang ngồi: thế thì chân không thể nhảy múa được. Bạn thậm chí sẽ không biết chúng cần gì bởi vì chân không có cách nào tự bầy tỏ được. Có những hướng dẫn tinh tế mà chúng ta không nắm được. Nếu bạn đang đứng, chân sẽ bắt đầu đưa lên và bạn sẽ biết chúng muốn nhảy. Nhưng nếu bạn đang ngồi, hướng dẫn này không thể nào được truyền đạt ra.
Thực tại, truyền thống về ngồi thiền đặc biệt có nghĩa để kìm nén tất cả những chuyển động nảy sinh của thân thể. Siddhanasana, padmasana và sukhasana phải được thực hành mở rộng trước khi việc thiền được dạy để cho chuyển động của thân thể có thể được dừng lại. Cho nên khả năng của việc năng lượng dâng lên bên trong vẫn có đó từ ban đầu. Rất nhiều điều xảy ra như kết quả. Bạn cảm thấy muốn nhảy múa, ca hát, nhảy nhót, chạy. Những hành động xúc động này bao giờ cũng bị coi như là điên khùng. Người điên kêu khóc, cười nói, nhảy múa, nhảy nhót. Khi thiền nhân làm cùng điều đó, do vậy người đó sẽ bị coi dường như là điên.
Không phải dường như điên khùng trong xã hội, siddhasana, padmasana và những tư thế ngồi khác đã được công phu rất nhiều để cho thân thể được trong kiểm soát hoàn toàn. Thế thì thiền nhân sẽ không trông như điên khùng đối với thế giới. Bây giờ các tư thế ngồi padmasana, sukhasana và siddhasana là để cho chúng làm cho chân bạn thành cứng nhắc. Trọng lượng của bạn lớn hơn khi gần đất, khi xa đất, nó trở thành nhẹ bớt đi. Phần mông bạn trở nên nặng nề tựa như ngôi đền hay kim tự tháp: rộng đáy, hẹp trên đỉnh. Thế thì khả năng chuyển động là rất tối thiểu - gần bằng không.
Việc chuyển động tối đa là có thể khi bạn đứng - khi không có gì giữ bạn cố định. Khi bạn xếp chéo chân và ngồi, bạn tạo thành một chân đế không thể di động nổi. Phần lớn thân thể bạn được cố định bởi trọng lực, cái vẫn luôn nắm giữ nó. Thế rồi bạn để tay theo cách mà khả năng chuyển động bị giảm tối thiểu. Xương sống nữa cũng được dựng thẳng và cố định. Trước khi bạn sẽ được phép đi vào trong thiền, kiểu động tác này phải được làm hoàn hảo trước hết qua một thời kì tập luyện dài.
Theo cách tiếp cận của tôi, vấn đề là đối lập lại. Theo quan điểm của tôi, chẳng có mấy khác biệt cơ bản giữa chúng ta và những người điên. Tất cả chúng ta đều là người điên bị kìm ném; cái điên của chúng ta là cái điên bị kìm nén. Bạn có thể nói rằng chúng ta là điên theo cách bình thường hay chúng ta là "điên thông thường." Có nhiều điểm chung giữa chúng ta và điên khùng... Nhưng người tiến thêm chút nữa trong điên khùng của mình, thấy mình gặp rắc rối, nhưng điên khùng vẫn nằm quanh chúng ta và nó cố gắng tìm lối ra của mình.
Khi bạn giận dữ, bạn tạm thời hoá điên. Vào những lúc như thế bạn làm những điều mà bạn sẽ không bao giờ mơ tới việc làm đó khi bạn có ý thức. Bạn sẽ chửi rủa, ném đá, đập phá đồ đạc. Bạn thậm chí còn có thể nhảy từ mái nhà; bạn có thể làm bất cứ điều gì. Nếu một người điên làm những việc này, chúng ta có thể hiểu được, nhưng khi một người "bình thường" làm điều này, chúng ta đơn thuần nói rằng người đó giận dữ. Bây giờ đây chính là cùng người "bình thường" đó, và nếu những điều này không phải là ở bên trong người đó, chúng phải không ló ra. Tất cả những điều này là ở bên trong chúng ta và tất cả chúng ta đều canh giữ nó. Việc hiểu của tôi là ở chỗ trước khi đi vào thiền, điều cần thiết là tất cả những điều này phải được tống ra hết từ bên trong. Bạn càng xả bớt cái điên khùng này đi bao nhiêu, tâm trí bạn sẽ càng được nhẹ thêm đi bấy nhiêu.
Do đó, trong khi phương pháp siddhasana cổ phải mất nhiều năm mới cho kết quả, phương pháp mới này thực hiện cùng nhiệm vụ đó chỉ trong trong vài tháng. Phương pháp cổ phải tốn nhiều lần sinh thành để hoàn thành nó; phương pháp mới này có thể chỉ tốn vài tháng. Cái điên khùng bên trong phải được xả ra, nhưng trong phương pháp cổ, thanh tâm được tiến hành trong thể ê te thay vì trong thể vật lí. Bây giờ điều này là cái gì đó khác hẳn, bởi vì cười, khóc, múa, vân vân tất cả đều bên trong bạn, và điều tuyệt đối cần thiết là phải cho chúng ra.
Nếu bạn đã huấn luyện thể vật lí của mình một cách rộng rãi để hoàn toàn tĩnh lặng trong hàng giờ cho đến cuối, thế thì bạn sẽ thực hiện thanh tâm qua thể ê te của mình. Thế thì điều đó sẽ không thấy được đối với người khác ngoài bạn. Bạn bây giờ tự bảo vệ mình đối với xã hội; bây giờ không ai biết khi nào bạn nhảy múa hay ca hát vì bạn sẽ chỉ làm như vậy ở bên trong. Việc nhảy múa và ca hát này sẽ dường như trong mơ. Bạn sẽ nhảy múa bên trong, kêu khóc bên trong, cười bên trong, nhưng thể vật lí của bạn, chẳng lộ ra bằng chứng nào về điều đang xảy ra bên trong bạn. Nó sẽ vẫn ngồi tĩnh lặng mà không có dấu vết nào về việc xảy ra bên trong.
Quan điểm của tôi là ở chỗ không đáng phải trải qua quá nhiều rắc rối để được điều nhỏ bé như thế. Chẳng có gì quan trọng trong việc làm cho người tìm kiếm mất nhiều năm để rèn luyện thể chất trước khi đưa người đó vào thiền. Cũng còn có những khả năng khác nữa. Nếu một người trở nên rất thành thạo trong việc kiểm soát thân thể mình và thành công trong việc kìm nén hoàn toàn thân thể vật lí của mình, có khả năng là không có rung động nào sẽ nảy sinh trong thể ê te và nó có thể trở thành hoàn toàn trơ ì. Dưới những điều kiện như thế thì có thể là những quá trình không sâu sắc sẽ xảy ra bên trong bạn nhưng bạn sẽ thành công đơn thuần trong việc ngồi im như bức tượng. Bây giờ dưới những điều kiện như thế thì khi tất cả các quá trình đều bị kìm nén bên trong, có nỗi sợ của người này trở thành điên khùng.
Trong quá khứ người ta đã thấy các thiền nhân bị phát điên. Tuy nhiên phương pháp mà tôi đề ra ở đây, nếu được thực hành, ngay cả người điên trong vòng một hay hai tháng, cũng sẽ thoát khỏi điên khùng của mình. Không thể nào có chuyện một người bình thường lại trở thành điên khi thực hành phương pháp này, bởi vì trong phương pháp của tôi, chúng ta không kìm nén cái điên khùng bên trong chúng ta, chúng ta khơi nó ra. Các phương pháp thiền cũ đã biến nhiều người thành điên khùng, và sự kiện này đã bị che đậy bởi những từ ngữ hoa mĩ. Chúng ta sẽ nói về một người như thế là "Ông ấy sướng điên; ông ấy say về Thượng đế; ông ấy đã trở thành thánh." Nhưng sự kiện còn lại là ông ấy đã hoàn toàn phát điên. Ông ấy đã kìm nén đôi điều bên trong mình tồi tệ đến mức chúng trở thành hoàn toàn vượt ra ngoài kiểm soát của ông ấy.
Phương pháp này làm hai việc. Nhiệm vụ thứ nhất nó thực hiện là ném đi tất cả những rác rưởi vẫn có bên trong bạn bằng cách thanh tâm. Trước hết bạn phải trở thành vô trọng lượng - vô trọng lượng đến mức không một dấu vết nhỏ nhặt nào của cái điên khùng là còn lại bên trong; thế rồi bạn du hành bên trong. Cho nên điều dường như rõ ràng giống như điên khùng trong phương pháp này, về bản chất là quá trình làm cho bạn thoát khỏi tất cả các cái điên khùng. Tôi ưa thích rằng cái ở bên trong bạn sẽ đi ra, và với nó, gánh nặng, căng thẳng, lo âu cũng đi ra.
Sự kiện thú vị nhất là ở chỗ khi điên khùng tới với bạn, bạn không kiểm soát được nó. Nhưng bạn là người chủ của cái điên khùng mà bạn vẫn thường đem bên mình. Một khi bạn nhận biết về sự kiện này, cái điên khùng sẽ chẳng bao giờ chiếm giữ được bạn.
Xét một người đang nhảy múa, ca hát hay cười nói, hò hét theo ý riêng của mình: người đó đang làm tất cả những cái mà người điên làm. Chỉ có khác biệt này: với người điên, mọi sự tự chúng xảy ra trong khi thiền nhân đem chúng tới. Không có hợp tác hoàn toàn của thiền nhân, cái điên khùng này không thể kéo dài được một khoảnh khắc. Người đó có thể dừng lại vào khoảnh khắc người đó muốn. Bây giờ người đó chẳng bao giờ có thể phát điên, bởi vì người đó đã sống cái điên khùng, thấy cái điên khùng, trở nên quen thuộc với cái điên khùng. Bây giờ điều này đã trở thành một biến cố tự nguyện cho người đó; cái điên khùng bây giờ ở trong phạm vi kiểm soát của người đó.
Nền văn hoá của chúng ta đã đào tạo chúng ta theo cách mà cái điên khùng nằm ngoài sự kiểm soát của ta; nó đã trở thành không tự nguyện. Vậy, khi nó xảy ra cho chúng ta, chúng ta không thể nào làm bất kì cái gì về nó.
Tôi coi phương pháp này là rất có giá trị cho nhân loại tương lai, bởi vì toàn bộ nền văn minh hàng ngày đều phải đương đầu với cái điên khùng toàn bộ. Mọi người sẽ cần kĩ thuật này để loại bỏ cái điên khùng của mình; không có cách nào khác.
Nếu người ta tống khứ đi cái điên khùng của mình theo cách này trong một giờ thiền, mọi người sẽ dần dần quen với phương thức thiền này. Mọi người sẽ biết rằng con người này đang thiền. Tuy nhiên, nếu người ta thực hiện hành động tương tự bên hè đường, người ta sẽ bị tống vào nhà giam. Nếu người đó xả ra sự giận dữ của mình giữa mọi người, tất cả các mối quan hệ của người đó sẽ trở nên xấu và tan vỡ.
Cái điên khùng này phải ra đi theo cách này hay cách khác, nếu không người đó sẽ gặp khó khăn. Nếu người đó không cho phép nó được xả ra một cách tự nguyện, cái điên khùng này sẽ tìm hàng trăm cách để nổ bùng ra. Đôi khi người ta trở thành say khướt để cho cái điên khùng đi ra khỏi mình; đôi khi người đó bộc lộ điên khùng của mình trong nhảy múa điên cuồng. Nhưng tại sao phải đi qua tất cả những rối loạn này? Bây giờ những cách nhảy múa mới, như nhảy múa quay tít, vân vân, không phải là biến cố ngẫu nhiên nữa. Bên trong thân thể muốn chuyển động và chúng ta không dành chỗ nào cho việc chuyển động. Vậy nó sẽ tự thu xếp cho chính nó và thế thì nó lại dệt thêm mạng nhện bên trong những thu xếp này.
Thiền đang ném đi cái điên khùng mà không cần những thu xếp thay thế này. Trong thiền chúng ta đơn thuần ném đi cái mà ta biết là ở bên trong chúng ta và cái mà chúng ta biết cần phải vứt đi. Nếu chúng ta dạy phương pháp thanh tâm này cho trẻ nhỏ cùng với việc giáo dục, sẽ có sụt giảm hẳn số người điên. Cái điên có thể bị loại bỏ vĩnh viễn. Nhưng thay vì thế chúng ta thấy nó tăng lên hàng ngày. Khi xã hội chúng ta tiến bộ thêm nữa, nó ngày càng quá khích hơn.
Nền văn hoá dạy chúng ta kìm nén. Qui ước thông thường không cho phép chúng ta khóc to hay cười to; nó không cho phép chúng ta nhảy múa hay gào thét như ta muốn. Nó dồn sức ép lên chúng ta từ mọi phía với kết quả là tất cả những cái cần phải xảy ra bên trong chúng ta đều bị kìm nén lại. Thế rồi một hôm nào đó sức ép bị tích luỹ của những xúc động này bùng nổ và tình huống này vượt ra ngoài kiểm soát của chúng ta. Vậy, thanh tâm là bước đầu tiên trong phương pháp thiền của chúng ta, và qua nó chúng ta xả ra tất cả những xúc động bị dồn nén bên trong.
Chính bởi lí do này mà tôi khuyên nên đứng trong khi thực nghiệm, bởi vì thế thì bạn sẽ nhận biết về chuyển động nhỏ bé nhất bên trong và bạn sẽ có khả năng di chuyển tự do. Thiền nhân nên ở trong một phòng đóng kín. Người đó không chỉ nên đứng, mà người đó nên hoàn toàn ở trần để cho không một mảnh quần áo nào có thể gây ra cản trở cho người đó. Người đó nên hoàn toàn được tự do để cho tất cả mọi chuyển động xảy ra. Không nên có chướng ngại dù là nhỏ nhặt nhất trong bất kì phần nào của tính cách người đó mà cản trở chuyển động. Thế thì người đó sẽ thu được tiến bộ nhanh chóng và cái mà phải mất nhiều năm hay thậm chí nhiều kiếp để đạt được qua hatha yoga và các yoga khác, sẽ xảy ra trong quá trình vài ngày theo phương pháp này.
Những công phu yoga kéo dài sẽ không có tác dụng cho thế giới; bây giờ người ta không có ngày hay thậm chí giờ rảnh nữa. Chúng ta cần các phương pháp cho kết quả nhanh chóng. Nếu một người cam kết luyện tập trong bẩy ngày, đến cuối thời kì đó người đó nên cảm thấy rằng cái gì đó đã xảy ra cho mình. Người đó nên trở thành con người khác trong thời gian bẩy ngày. Nếu một thực nghiệm cho kết quả chỉ sau bẩy lần sinh, chẳng ai sẽ tới gần thực nghiệm ấy nữa. Các phương pháp cũ nói kết quả tới sau nhiều lần sinh. Họ quen nói, "Tiến hành thực nghiệm này trong kiếp này và kết quả nhất định sẽ tới trong kiếp khác." Đấy là những người rất kiên nhẫn và bền bỉ. Họ tiến hành thiền cho dù kết quả được hứa hẹn ở những kiếp sau. Bây giờ bạn sẽ không tìm được người như thế. Nếu kết quả không đạt được ngay chính hôm nay, chẳng ai sẵn lòng chờ đợi dù là đến mai.
Và ai có thể tin vào ngày mai được? Kể từ khi bom nguyên tử rơi xuống Hirosima và Nagasaki, ngày mai của chúng ta đã tan biến rồi. Hàng nghìn thanh niên nam nữ Mĩ từ chối đến trường đại học. Họ nói, "Liệu thế giới có còn nguyên vào lúc chúng ta kết thúc việc học tập không? Người ta chẳng bao giờ biết điều gì có thể xảy ra vào ngày mai cả." Họ cảm thấy đấy là lãng phí thời gian. Họ trốn khỏi trường học và trường đại học. Họ biện minh với bố mẹ: "Trong sáu năm chúng con vào đại học, liệu thế giới có tồn tại nữa hay không? Bố mẹ có đảm bảo điều đó không? Tại sao chúng ta không dùng tất cả sáu năm quí giá này trong cuộc sống của mình?"
Khi ngày mai đã trở thành bất định thế, thật là vô nghĩa để nói theo kiểu nhiều lần sinh thành. Không ai sẵn sàng lắng nghe, không ai nghe nữa. Cho nên tôi nói công phu hôm nay và cảm thấy kết quả ngay lập tức. Nếu một người sẵn lòng trao cho tôi một giờ làm thực nghiệm này, người đó nên thu được cảm giác về kết quả sau chính giờ này. Chỉ thế thì người đó mới có thể trao cho tôi một giờ của thời gian ngày mai của người đó; bằng không, chẳng chắc là người đó sẽ thực hiện nó vào ngày mai. Cho nên yêu cầu đã thay đổi cho thời đại này. Trong thế giới của xe bò kéo mọi thứ đều chuyển động chậm chạp, cho nên thiền cũng chuyển động với nhịp độ rất chậm chạp. Bây giờ là thời đại phản lực; bây giờ thiền không thể nào chịu đựng được chậm trễ. Nó phải tăng tốc lên.
Xin thầy giải thích ý nghĩa và nghĩa của điều sau đây đối với năng lượng của kundalini: nằm phủ phục trên đất trong kính trọng một người linh thiêng, chạm vào chân người đó bằng đầu hay tay, cúng dường tại các chỗ thiêng liêng, ân huệ của một người thiêng liêng được trao bằng việc chạm vào đầu hay lưng người tìm kiếm, người Sikh và người hồi giáo quấn đầu khi đi vào trong đền thờ hay gurudwara.
Có nhiều lí do cho những điều này. Như tôi đã nói trước đây, khi chúng ta tràn đầy giận dữ, chúng ta cảm thấy muốn đánh ai đó; chúng ta cảm thấy muốn dẫm lên đầu người đó. Vì điều này quá ư không thực tế nên chúng ta làm điều tiếp sau tốt nhất: ta ném giầy vào người đó. Rất khó làm cho người cao mét bẩy phải nằm dưới chân ta, cho nên chúng ta ném giầy vào đầu người đó như một biểu tượng cho thôi thúc của giận dữ bên trong ta. Nhưng chẳng ai hỏi đâu là lí do nằm sau việc ném giầy này. Và đây không phải là hành động do một giáo phái hay một nước ham muốn; nó là phổ quát. Chính sự kiện là bất kì khi nào một người giận dữ với người khác, ham muốn tràn ngập của người đó là dẫm lên đầu của người kia dưới chân mình.
Khi con người vẫn còn nguyên thuỷ, có lẽ con người chỉ nghỉ sau khi đã dẫm chân lên đầu địch thủ vì con người còn chưa có giầy. Cho nên khi bạn đang trong trạng thái giận dữ, bạn cảm thấy muốn dẫm chân lên đầu ai đó. Tuy nhiên, điều đối lập lại cũng đúng: khi bạn tràn ngập tin cậy và tôn kính, bạn cảm thấy phải đặt đầu dưới chân ai đó. Có nhiều lí do cho điều này cũng như là đã có nhiều lí do cho tình huống trước đây.
Có những khoảnh khắc bạn cảm thấy phải phủ phục xuống, và đấy chính là những khoảnh khắc khi bạn cảm thấy năng lượng sống tuôn chảy từ ai đó vào bạn. Thực tế, bất kì khi nào bạn muốn nhận bất kì luồng năng lượng nào bạn đều phải cúi mình xuống. Nếu bạn muốn trút đầy nước sông vào cái bình của mình, bạn phải cúi người xuống. Người ta phải cúi mình để nhận được bất kì luồng nước nào bởi vì tất cả các luồng nước đều chảy xuống. Cho nên nếu bạn cảm thấy rằng cái gì đó đang chảy xuống từ ai đó, đầu bạn càng cúi thấp xuống và khoảnh khắc đó, bạn càng nhận được nó nhiều hơn.
Thứ hai là năng lượng chảy từ các cực điểm của người ta: chẳng hạn, từ các ngón tay, ngón chân. Năng lượng không chảy ra từ mọi chỗ. Năng lượng sinh học, hay năng lượng của shaktipat, hay với vấn đề đó bất kì năng lượng nào chảy ra từ thân thể, đều chảy ra từ đầu ngón tay hay ngón chân. Nó không chảy từ toàn bộ thân thể mà chỉ từ các cực điểm. Cho nên người phải nhận năng lượng sẽ đặt đầu mình xuống dưới chân thầy và người muốn trao năng lượng sẽ đặt tay lên đầu của người nhận.
Những điều này là vấn đề rất huyền bí và khoa học. Cũng tự nhiên mà nhiều người sẽ bắt chước hành động này. Hàng nghìn người đặt đầu dưới chân người khác mà chẳng có mục đích nào cả, và có hàng nghìn người đặt tay lên đầu người khác cũng chẳng có nghĩa lí gì. Vậy một nguyên lí rất sâu sắc đã dần trở thành một lễ nghi đơn thuần. Khi lễ nghi tiếp tục trong một thời gian dài, người ta nhất định nổi dậy chống lại nó. Họ sẽ nói, "Cái điều vô nghĩa gì thế này? Cái gì tới từ việc đặt đầu dưới chân người khác? Và điều gì xảy ra đơn thuần bởi việc chạm vào đầu?" Chín mươi chín phần trăm số lần điều ấy chỉ là vô nghĩa; tuy nhiên, một phần trăm vẫn còn có nghĩa.
Đã có thời một trăm phần trăm lần đều có nghĩa bởi vì nó là tự phát. Bạn không chạm vào chân ai đó bởi vì bạn nghĩ bạn phải làm như thế. Đôi khi, khi bạn cảm thấy bạn phải sụp xuống dưới chân ai đó, đừng kìm mình lại: cứ sụp xuống! Và đấy không phải là người khác phải đặt tay lên đầu người nhận. Việc xảy ra là trong khoảnh khắc nào đó là bàn tay trở nên rất nặng và cái gì đó sẵn sàng chảy ra từ nó. Nếu người khác đã sẵn sàng nhận, chỉ thế thì tay mới được đặt lên đầu. Nhưng qua một thời kì dài mọi thứ biến thành một nghi lễ đơn thuần mà điều này, trở thành vô nghĩa. Và khi nó trở thành vô nghĩa, nó bị phê phán. Những phê phán này mang sức lôi cuốn rất lớn vì khoa học đứng sau truyền thống này đã bị mất. Cho nên điều này là một cử chỉ rất có ý nghĩa, nhưng nó chỉ có nghĩa khi có một bậc thầy sống và một đệ tử tiếp nhận.
Một người sụp mình dưới chân một Phật, một Mahavira, và kinh nghiệm thấy sự say mê duy nhất; người đó cảm thấy ân huệ đổ xuống từ ông ấy. Không ai sẽ có thể thấy điều này từ bên ngoài bởi vì đây là toàn bộ biến cố ở bên trong. Nó là thực tại cho người đã kinh nghiệm nó. Nếu người khác yêu cầu bằng chứng về nó, người này chẳng có gì để đưa ra cả. Thực tế, đây là khó khăn cho mọi hiện tượng huyền bí: cá nhân có kinh nghiệm nhưng người đó không có bằng chứng về nó để đưa ra trước người khác. Thế thì người này dường như là người tin tưởng mù quáng. Người này nói, "Tôi không thể diễn tả được nó, nhưng cái gì đó đã xảy ra." Những người còn chưa kinh nghiệm, từ chối tin điều này vì họ chẳng cảm thấy gì cả. Thế thì họ cảm thấy rằng con người đáng thương này đang trong ảo tưởng.
Nếu một người như thế sụp mình xuống dưới chân Jesus, chẳng có gì sẽ xảy ra cho người đó và người đó sẽ bắt đầu tuyên bố to rằng tất cả những điều này là vô nghĩa: người đó đã đặt đầu xuống dưới chân Jesus mà chẳng có gì xảy ra cả. Cũng hệt như bình nước với miệng bình mở được nhấn xuống nước. Khi được lấy lên nó nói, "Tôi đã được nhấn xuống nước và đã tràn đầy." Bây giờ một cái bình khác có miệng bình đóng kín có thể bắt đầu tự mình thử việc ấy. Nó có thể đi sâu vào trong dòng sông những sẽ trở ra trống rỗng. Thế rồi nó sẽ xác nhận rằng tất cả đều là sai và chẳng ai được múc đầy bởi việc nhúng sâu vào trong dòng sông. Nó sẽ tuyên bố, "Tôi đã cúi mình xuống, tôi đã nhúng mình vào, nhưng tôi trở lại trống rỗng."
Đấy là một biến cố hai mặt. Năng lượng chảy từ một người vẫn chưa đủ; điều quan trọng tương đương là bạn phải trống rỗng và cởi mở. Nhiều lần luồng chảy của năng lượng từ ai đó không quan trọng như việc chuẩn bị của bạn, sự cởi mở của bạn để đón nhận nó. Nếu bạn đủ cởi mở, thế thì thậm chí nếu năng lượng không có trong người đứng trước bạn, những nguồn năng lượng cao hơn ở trên người đó sẽ bắt đầu chảy về phía bạn và đạt tới bạn. Cho nên điều đáng ngạc nhiên nhất là ở chỗ nếu bạn để cho bản thân mình sống toàn tâm toàn ý thậm chí ngay trước một người mà chẳng có gì cho bạn, bạn sẽ vẫn cứ nhận được năng lượng từ người đó. Nhưng năng lượng không đến từ người đó; người đó chỉ là trung gian và người đó hoàn toàn không hay biết gì về biến cố đã xảy ra.
Bây giờ đến phần thứ hai trong câu hỏi của bạn về việc đi vào đền thờ hay gurudwara với cái đầu được quấn khăn. Nhiều thầy tu khổ hạnh ưa thích quấn đầu và thế rồi thực hành thiền. Việc đó có ích của nó. Khi năng lượng thức tỉnh, có khả năng đầu trở thành rất nặng. Nếu bạn quấn đầu bằng một tấm vải, năng lượng này không thể chảy đi được. Thế thì năng lượng này sẽ tạo ra một mạch bên trong bạn và do vậy làm mạnh thêm việc thiền của bạn. Cho nên kiểu quấn đầu này tỏ ra rất có ích. Nếu bạn thiền với đầu được quấn khăn, bạn sẽ cảm thấy khác ngay lập tức. Thế thì điều có thể được hoàn thành trong mười lăm ngày cũng có thể được hoàn thành trong năm ngày.
Khi năng lượng đạt tới đầu, cũng có các cơ hội nó trở nên bị phân tán và rải rác đi. Nếu nó có thể bị buộc lại và nếu một mạch như vậy được hình thành, kinh nghiệm của bạn sẽ sâu sắc hơn nhiều. Nhưng hiện tại việc quấn đầu này trong các đền thờ hồi giáo và gurudwara chỉ là nghi lễ đơn thuần; bây giờ nó chẳng có nghĩa gì. Tuy thế thì sự kiện vẫn còn đấy là có nhiều ý nghĩa đằng sau tục lệ này.
Bây giờ có thể hiểu được rằng một năng lượng nào đó có thể nhận được bằng việc chạm vào chân ai đó hay qua tay người đó đưa lên ban ân huệ. Nhưng một người cúi mình trước một nấm mồ hay trước hình ảnh trong đền, người đó có thể thu được gì? Có nhiều điều trong việc này cũng cần phải được hiểu. Đằng sau việc tạo ra hình ảnh và thần tượng có thu xếp rất khoa học.
Giả sử rằng tôi sắp chết và có vài người quanh tôi, những người yêu mến tôi, người đã thấy cái gì đó trong tôi, người đã tìm kiếm và đã thấy điều gì đó ở tôi. Bây giờ những người này có thể hỏi tôi họ nên tưởng nhớ tới tôi theo cách nào. Cho nên trước khi tôi chết có thể thiết lập biểu tượng giữa chúng tôi. Nó có thể là bất kì cái gì - thần tượng, hòn đá, cây, thậm chí cái bục, hay nấm mồ của tôi, samadhi của tôi, hay một mẩu quần áo của tôi, hay đôi dép của tôi - bất kì cái gì. Nhưng vật này phải được quyết định trước giữa chúng tôi; nó là hiểu biết giữa chúng tôi. Nó không thể được quyết định chỉ bởi riêng bất kì một bên nào; tôi phải là một nhân chứng. Sự chấp nhận của tôi, sự chuẩn y của tôi là cần thiết đối với biểu tượng này. Thế thì tôi có thể nói rằng nếu họ ra trước biểu tượng đó và nghĩ về tôi, tôi sẽ hiện diện trong trạng thái vô thân thể. Lời hứa mà tôi đã đưa ra, và tất cả những công việc đều tiến hành tương ứng với lời hứa này. Và điều này là hoàn toàn đúng.
Do đó, có những ngôi đền là ngôi đền sống và những ngôi đền là đền chết. Đền chết là những đền đã được tạo ra chỉ bởi một phía; không có sự đảm bảo từ phía bên kia. Đấy là mong ước của chúng ta để làm ra ngôi đền về Phật - nhưng đây sẽ là một ngôi đền chết bởi vì Phật chẳng đưa ra bất kì lời hứa nào đối với nó. Có những ngôi đền sống mà có sự đảm bảo từ phía bên kia nữa, và tại nền tảng của nó có tuyên bố của một người thần thánh nào đó.
Có một nơi ở Tây Tạng mà lời đảm bảo của Phật đã được thực hiện từ hai nghìn năm trăm năm qua. Tuy nhiên, nơi này bây giờ đang trong khó khăn. Có một nhóm, một uỷ ban năm trăm lạt ma, và khi một trong năm trăm người này chết, sẽ rất khó để thay thế người đó. Số năm trăm này là hằng số; không thể nhiều hơn hay ít hơn được. Khi một trong số họ chết, một người nữa sẽ được chọn, nhưng chỉ với sự chấp thuận của bốn trăm chín mươi chín người. Và nếu dù chỉ một người trong số bốn trăm chín mươi chín người từ chối chấp nhận người đó, người đó cũng không thể được chọn. Uỷ ban năm trăm lạt ma này họp lại trên một vùng núi đặc biệt vào đêm Phật Poornima - đêm trăng tròn tháng năm để kỉ niệm ngày sinh Phật - và vào đúng giờ đã xác định, người ta nghe thấy tiếng nói của Phật. Biến cố này không thể xảy ra tại bất kì chỗ nào khác và với bất kì người nào khác. Nó xảy ra đích xác theo sắp xếp đã hứa hẹn.
Cũng hệt như nếu bạn quyết tâm trước khi ngủ đêm rằng bạn sẽ dậy buổi sáng vào lúc năm giờ: thế thì bạn không cần chuông báo thức để đánh thức mình. Vào đúng năm giờ bạn sẽ đột nhiên tỉnh dậy. Đây là một điều gì đó khá ngạc nhiên - và bạn có thể kiểm tra điều đó theo đồng hồ. Đồng hồ có thể sai nhưng bạn thì không. Nếu quyết tâm của bạn là vững chắc, bạn sẽ chắc chắn dậy lúc năm giờ.
Nếu bạn kiên quyết nhất định chết vào một ngày nào đó trong năm nào đó, chẳng có sức mạnh nào trên thế giới này có thể dừng được bạn: bạn sẽ chết vào khoảnh khắc đã quyết định đó. Nếu quyết tâm của bạn rất sâu sắc và mạnh mẽ, bạn cũng có thể hoàn thành lời hứa của mình thậm chí sau khi chết. Chẳng hạn, sự xuất hiện của Jesus sau cái chết: đó là một lời hứa được thực hiện. Điều này gây ra nhiều khó khăn cho người Ki tô giáo, bởi vì họ không biết điều đã xảy ra về trước và do vậy họ không chắc liệu Christ có phục sinh hay không. Tuy nhiên, đây là một lời ông ấy đã hứa với một số tông đồ, điều này đã được thực hiện sau cái chết.
Thực tế, những nơi mà lời hứa sống động nào đó vẫn được thực hiện qua hàng nghìn năm đã dần dần biến thành tirths, nơi thần thánh cho việc hành hương. Thế rồi dần dần những lời hứa cũng bị lãng quên. Chỉ một điều còn lại trong kí ức mọi người - rằng họ phải tới và viếng thăm những nơi này; có vậy thôi.
Có những lời hứa mà Mohammed đã đưa ra; có những lời hứa mà Shankara đã đưa ra. Rồi cũng những lời hứa đã được Phật, Mahavira và Krishna đưa ra, và những lời hứa đó gắn với những nơi đặc biệt, những khoảnh khắc đặc biệt và với những thời gian đặc biệt. Nhưng chúng ta vẫn có thể thiết lập mối quan hệ với họ. Cho nên bạn sẽ phải cúi mình tại những nơi này và buông xuôi bản thân mình hoàn toàn; chỉ thế thì bạn mới có thể thiết lập được mối nối này.
Những nơi thần thánh, các đền, samadhi, tất cả đều có ích lợi của chúng, nhưng cũng như với các vật khác, những nơi có ích này chung cuộc đều trở thành tín ngưỡng, và thế thì chúng trở thành chết và vô dụng. Thế thì chúng phải bị giật đổ để cho những lời hứa mới có thể được đưa ra mà sẽ làm phát sinh ra các chỗ hành hương mới, những thần tượng mới, những đền mới. Cái cũ phải bị phá đổ bởi vì nó đã trở thành chết. Chúng ta chẳng có ý tưởng gì về những quá trình vẫn đang vận hành qua chúng.
Có một nhà yoga ở miền Nam Ấn Độ. Một lữ hành người Anh đã tới gặp ông. Vào lúc ra đi, người này nói với nhà yoga, "Tôi sắp đi bây giờ và có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ quay lại Ấn Độ nữa. Nhưng nếu tôi muốn gặp ông, tôi sẽ phải làm gì?
Nhà yoga lấy tấm ảnh của mình và trao nó cho ông ta nói, "Bất kì khi nào ông tự nhốt mình vào trong một căn phòng và tập trung trong năm phút vào bức ảnh này không chớp mắt, tôi sẽ ở đó."
Bây giờ người đáng thương này không thể nào kìm mình được trong cuộc hành trình. Ông ta bị ám ảnh bởi ý nghĩ: thử thực nghiệm này ngay lập tức. Ông ấy không tin điều như vậy có thể xảy ra - nhưng điều đó đã xảy ra. Lời hứa được nêu ra đã được hoàn thành theo thể vía. Chẳng khó khăn gì trong việc này. Người đã thức tỉnh có thể hoàn thành lời hứa của mình ngay cả khi người đó đã chết. Do đó, những bức ảnh trở thành có ý nghĩa và cả các bức tượng nữa. Lí do cho ý nghĩa của chúng là ở chỗ qua chúng một số lời hứa có thể được thực hiện. Cho nên có khoa học phức tạp đằng sau việc tạo ra các hình ảnh và thần tượng.
Thần tượng không thể nào được làm ra theo bất kì cách nào; có phương pháp đầy đủ đằng sau nó. Bây giờ nếu bạn định quan sát hai mươi bốn tirthankara của người Jaina, bạn sẽ gặp khó khăn bởi vì tất cả họ đều giống nhau; chỉ các biểu tượng của họ là khác nhau. Mahavira có một dấu hiệu, Parshwanath một dấu hiệu khác, Neminath lại một dấu hiệu khác, và cứ thế mãi. Nếu những biểu tượng này bị bỏ đi, không thể nào nói được tirthankara nào là ai từ những người khác. Tuy nhiên, không thể nào có chuyện tất cả họ đều giống nhau được. Do đó, có thể là các tượng tirthankara đã được làm ra tuân theo việc dùng hình ảnh của tirthankara đầu tiên xem như bản mẫu cho họ. Cho nên không cần phải làm ra các hình ảnh khác nhau; chỉ một hình ảnh của tirthankara được dùng cho tất cả.
Nhưng điều này không thoả mãn cho những người sùng kính, người sùng kính với các tirthankara khác, cho nên họ đã gọi tirthankara đặc biệt của mình với ít nhất một dấu hiệu, một hiệu bài để phân biệt ông ấy với những người khác. Vậy, các biểu tượng khác nhau đã được tạo ra cho các tirthankara khác nhau nhưng hình ảnh vẫn còn là một. Người này có con sư tử, người kia có cái gì đó khác, và cứ thế. Cho nên có khác biệt này trong các dấu hiệu của họ - và điều này nữa cũng là một phần của lời hứa đã đưa ra. Chỉ tirthakara đặc biệt có gắn với một biểu tượng mới có thể được tiếp xúc.
Cho nên những điều này đã được thoả thuận về những biểu tượng và chúng vận hành. Chẳng hạn dấu hiệu của Jesus là chữ thập; điều này sẽ vận hành. Nhưng Mohammed đã từ chối làm thần tượng của mình. Thực tế, người ta đã tạo ra nhiều thần tượng trong thời Mohammed đến mức ông ấy muốn cho đồ đệ của mình một loại biểu tượng hoàn toàn khác. Ông ấy bảo họ, "Đừng làm tượng về ta. Ta sẽ thiết lập mối quan hệ với ông không cần tượng. Đừng làm tượng về ta; đừng làm ảnh về ta. Ta sẽ có liên hệ với ông mà không cần ảnh hay tượng." Đây là một phương pháp rất sâu sắc và dũng cảm, nhưng người thường thấy rất khó thiết lập tiếp xúc với Mohammed.
Do đó, sau Mohammed người Mô ha mét giáo đã bắt đầu xây dựng lăng tẩm và mồ cho hàng nghìn vị thánh của họ. Họ không biết cách thiết lập mối nối với Mohammed một cách trực tiếp cho nên họ đã làm điều đó bằng cách làm ra các nấm mồ cho vị thánh Mô ha mét giáo. Không nơi đâu trên thế giới này mà lăng tẩm và mồ mả lại được sùng kính đến thế như ở người Mô ha mét giáo. Lí do duy nhất là ở chỗ họ chẳng giữ lại điều gì về Mohammed để thiết lập tiếp xúc trực tiếp với ông ấy. Họ không thể nào làm ra hình ảnh của ông ấy cho nên họ phải tạo ra hình ảnh khác và họ bắt đầu thiết lập mối quan hệ qua các hình ảnh đó.
Tất cả điều này là một quá trình khoa học hoàn toàn. Nếu điều này được hiểu một cách khoa học, những kết quả có thể là kì diệu, nhưng nếu nó được tuân theo một cách mù quáng, đó lại là tự tử.
Đâu là ý nghĩa huyền bí của quá trình được thực hiện trong prana pratishtha, việc thiết lập thần tượng?
Nó có ý nghĩa lớn. Chính thuật ngữ prana pratishtha - hay việc thiết lập huyền bí cho một thần tượng - có nghĩa là chúng ta đã tạo ra hình ảnh mới dựa trên lời hứa cổ. Bây giờ chúng ta phải phát hiện ra qua những chỉ dẫn liệu lời hứa cũ có được thực hiện đúng đắn không. Về phần mình chúng ta phải tuân theo thu xếp cũ một cách trung thành; chúng ta không nên coi thần tượng là thần tượng đơn thuần mà phải là một thực thể sống. Chúng ta nên thực hiện tất cả những thu xếp cho nó như là chúng ta thu xếp cho người sống, và thế thì chúng ta sẽ bắt đầu nhận được hướng dẫn và dấu hiệu mà qua đó chúng ta có thể biết rằng việc thiết lập huyền bí cho thần tượng đã được chấp nhận. Nhưng khía cạnh thứ hai này đã tan biến hoàn toàn khỏi tri thức của chúng ta. Nếu những dấu hiệu như thế không hiện diện, thế thì dù chúng ta đã làm việc thiết lập thần tượng, việc ấy vẫn không thành công. Phải có bằng chứng rằng việc thiết lập thần tượng đã thành công. Cho nên bởi lí do này, một số chỉ dẫn huyền bí đặc biệt đã được ấn định. Nếu những dấu hiệu này được tìm thấy, người ta hiểu rằng việc thiết lập thần tượng đã được chấp nhận bởi các lực huyền bí và rằng bây giờ nó sống và hoạt động.
Bây giờ giả sử rằng bạn đem về nhà một chiếc radio mới... Điều đầu tiên là ở chỗ nó phải trong điều kiện tốt; tất cả các thành phần của nó phải ở đúng chỗ. Thế rồi bạn nối điện vào nó, và thế mà bạn chẳng bắt được đài phát nào cả. Điều đó có nghĩa là nó không làm việc. Nó là một công cụ chết và nó sẽ hoặc phải đem đi sửa hay được thay thế. Thần tượng nữa cũng là một loại vị trí nhận mà qua đó một người chứng ngộ đã chấm dứt về mặt vật lí hoàn thành lời hứa mà người đó đã đưa ra cho những người khác. Nhưng nếu bạn giữ một hình ảnh và bạn không biết về những chỉ dẫn xác nhận cho việc thiết lập, thế thì bạn sẽ chẳng bao giờ biết liệu hình ảnh ấy là sống hay chết.
Quá trình thiết lập một thần tượng có hai phần. Phần thứ nhất được các tu sĩ thực hiện. Họ biết bao nhiêu mật chú cần phải niệm, bao nhiêu dây cần phải buộc vào, kiểu lễ nào cần phải tiến hành cho việc tôn thờ nó, kiểu tôn thờ nào cần phải được thực hiện, vân vân. Đây mới là một nửa công việc. Phần thứ hai của buổi lễ này chỉ có thể được tiến hành bởi người ở bình diện thứ năm. Khi người này thông báo rằng hình ảnh là sống, chỉ thế thì nó mới trở thành sống. Điều này đã trở nên gần như không thể nào có được trong thời hiện đại; do đó, các đền của chúng ta không phải là các ngôi đền sống mà là những chỗ chết. Những đền mới ngày nay chắc chắn là những chỗ chết.
Không thể nào phá huỷ một ngôi đền sống bởi vì đấy không phải là sự kiện bình thường. Nếu nó bị phá huỷ, điều đó chỉ nghĩa là cái bạn cho rằng sống, không còn sống, như trường hợp ngôi đền Somanath. Câu chuyện về việc phá huỷ nó là một chuyện rất kì lạ và đấy là một chỉ dẫn về khoa học về tất cả các đền. Có năm trăm pujari - tu sĩ - phục vụ cho ngôi đền, và họ đã chắc chắn rằng hình ảnh bên trong là hình ảnh sống, cho nên họ đã chắc chắn nó không thể nào bị phá huỷ. Các tu sĩ thực thi phần phận sự của mình, nhưng điều này là một phía, bởi vì không có ai có thể thực tế tìm ra liệu hình ảnh này là chết hay sống.
Một hôm, vua và các nhà quí tộc của vùng đó gửi chỉ dụ cho ngôi đền cảnh báo họ về việc bọn xâm lăng hồi giáo Gajanawi sẽ tới và muốn bảo vệ họ, nhưng các tu sĩ khước từ sự giúp đỡ, nói rằng thần tượng đã bảo vệ tất cả mọi người cho nên không cần việc bảo vệ của họ. Các quí tộc tạ lỗi và rút đi - nhưng đó là sai lầm: thần tượng này đã là một thần tượng chết. Các tu sĩ vẫn dưới ảo tưởng rằng một sức mạnh vĩ đại đang đứng sau bức ảnh, và khi họ coi nó là sống, thật sai lầm mà nghĩ tới việc bảo vệ nó. Gajanawi đã tới với một nhát kiếm đập vỡ thần tượng ra làm bốn mảnh. Ngay cả thế các tu sĩ vẫn không nghĩ là thần tượng là một vật chết. Điều này không thể xảy ra cho một thần tượng sống; không một viên gạch nào có thể rơi khỏi hình ảnh bên trong mà vẫn còn sống. Nếu ngôi đền vẫn còn là ngôi đền sống, nó không thể bị động chạm tới được.
Nhưng thông thường, đền không phải là đền sống bởi vì có rất nhiều khó khăn trong việc giữ cho nó sống. Một ngôi đền trở nên sống là phép màu vĩ đại. Nó là một phần của một khoa học rất sâu sắc. Tuy nhiên ngày nay chẳng còn người nào sống mà biết tới khoa học này, người có thể tiến hành các yêu cầu khác nhau của nó. Ngày nay tầng lớp người cai quản các đền như cửa hàng đã trở nên lớn đến mức nếu có người nào đó biết được khoa học này, người đó sẽ không được phép ở trong ngôi đền. Đền bây giờ được cai quản theo đường lối kinh doanh, và chính mối quan tâm của các tu sĩ là đền hãy cứ còn chết đấy. Đền sống, không có lợi cho purohit, tu sĩ. Ông ta muốn có vị thần chết trong ngôi đền mà ông ta có thể khoá lại, và thế rồi ông tự mình ấy giữ lấy chìa khoá. Nếu đền được nối với những quyền năng cao hơn, tu sĩ không thể nào còn lại ở đó. Cho nên tu sĩ là công cụ trong việc tạo ra những đền chết này vì điều này đem lại cho họ việc nở hoa kinh doanh. Thực tế, đền sống còn rất ít.
Nỗ lực lớn đã được tiến hành để giữ cho đền còn sống, nhưng số các tu sĩ và học giả trong mọi tôn giáo, trong mọi đền, lại lớn đến mức làm cho khó mà thực hiện được nỗ lực này. Đây là điều bao giờ cuối cùng cũng xảy ra. Đây là lí do tại sao có nhiều đền thế; bằng không, sẽ chẳng cần nhiều đến thế. Nếu những ngôi đền và những nơi hành hương của thời Upanishad vẫn còn sống cho tới thời đại của Mahavira, đã chẳng cần Mahavira phải xây dựng ra những đền mới. Nhưng đền và nơi thiêng liêng đã hoàn toàn chết bởi đã có một mạng lưới các tu sĩ bao quanh chúng mà không thể nào phá vỡ nổi. Những ngôi đền này đã không thể nào được vào nổi cho nên không còn cách nào khác ngoại trừ việc làm đền mới. Ngày nay ngay cả đền của Mahavira cũng đã chết và cùng loại mạng lưới tu sĩ bao quanh chúng.
Nếu những nguyên lí sống của tôn giáo còn được gìn giữ, biết bao nhiêu tôn giáo như thế đã không đi vào hiện hữu trong thế giới này. Nhưng những nguyên lí này không thể nào được gìn giữ, bởi vì tất cả các loại rối loạn đều tụ hội xung quanh và cuối cùng làm cho chúng mất đi tất cả các tiềm năng. Thế thì, khi các ước định của một phía đã bị phá bỏ, lời hứa của phía bên kia cũng sẽ huỷ bỏ. Chính hiểu biết lẫn nhau đã được đạt tới bởi cả hai phía. Chúng ta phải giữ thoả thuận về phần mình; chỉ thế thì phía bên kia mới đáp ứng lại; bằng không, lời hứa sẽ không được thực hiện và vấn đề chấm dứt ở đấy.
Chẳng hạn, nếu trong khi rời khỏi thân thể mình tôi nói với các bạn, "Nhớ đến tôi và tôi sẽ có đấy" - nhưng nếu bạn chẳng bao giờ nghĩ đến tôi hay nếu bạn vứt ảnh tôi vào thùng rác và quên hết về nó, thoả thuận của chúng ta kéo dài được bao lâu? Và nếu thoả thuận này bị phá vỡ về phần bạn, cũng chẳng cần để tôi giữ nó làm gì. Cho nên những thoả thuận như vậy bao giờ cũng bị phá vỡ.
Cho nên các quá trình huyền bí của việc thiết lập một thần tượng mang một ý nghĩa, nhưng ý nghĩa của nó lại dựa trên nhiều phép kiểm tra khác nhau và những chỉ dẫn xác định xem liệu việc thiết lập thần tượng có thành công hay không.
Trong một số đền, những giọt nước rơi xuống một cách tự nhiên trên các hình ảnh. Liệu đấy có phải là dấu hiệu rằng ngôi đền như thế là ngôi đền còn sống không?
Không. Tính hợp lệ của ngôi đền sống chẳng có quan hệ gì với điều này cả. Nước vẫn rơi xuống dù dưới nó có ảnh hay không. Đây là những bằng chứng sai, và bởi vì chúng nên chúng ta giả sử rằng đền này là ngôi đền sống. Nơi không có một giọt nước rơi, vẫn có những đền mà có thể và đang là đền sống.
Trong truy tìm tâm linh, deeksha, điểm đạo, chiếm vị trí rất quan trọng. Những nghi lễ đặc biệt được tiến hành trong những trạng thái đặc biệt. Phật và Mahavira thường cho điểm đạo. Có bao nhiêu kiểu điểm đạo? Đâu là ý nghĩa và cách dùng và tại sao chúng lại cần tới?
Một chút ít nói về điểm đạo sẽ có ích. Điều đầu tiên, deeksha, điểm đạo, không bao giờ được cho; điểm đạo xảy ra, nó là sự xảy ra. Chẳng hạn, một người ở với Mahavira và phải mất nhiều năm để cho việc điểm đạo của người đó xảy ra. Mahavira bảo người đó ở lại, ở cùng ông ấy, bước đi cùng ông ấy, đứng theo cùng cách như thế, ngồi theo cùng cách như thế, thiền cùng cách như thế. Thế rồi một thời điểm tới khi người này đã được chuẩn bị đầy đủ. Thế thì Mahavira chỉ là trung gian. Có lẽ thậm chí nói rằng ông ấy là trung gian cũng không hoàn toàn đúng - thay vì thế trong một cảm giác rất sâu sắc ông ấy chỉ là nhân chứng và việc điểm đạo xảy ra trước ông ấy.
Điểm đạo bao giờ cũng là từ điều thiêng liêng, nhưng nó có thể xảy ra trong sự hiện diện của Mahavira. Bây giờ người được điểm đạo thấy Mahavira ngay trước mình, nhưng người đó không thể thấy điều thiêng liêng. Điều đó xảy ra cho người đó ngay trước Mahavira một cách tự nhiên đến mức người đó trở nên biết ơn Mahavira - và điều này đúng là vậy. Nhưng Mahavira không chấp nhận lòng biết ơn của người đó. Ông ấy có thể chỉ chấp nhận lòng biết ơn của người đó nếu ông ấy thừa nhận rằng ông ấy đã điểm đạo cho người đó.
Do vậy có hai kiểu điểm đạo. Một là ở chỗ nó xảy ra và cái đó tôi gọi là điểm đạo "thật", bởi vì trong điều này bạn thiết lập mối quan hệ với điều thiêng liêng. Thế thì cuộc hành trình của bạn qua cuộc sống lấy bước ngoặt mới: bây giờ bạn trở thành ai đó khác; bạn không còn là cùng con người bạn trước đây; mọi thứ bên trong bạn đều được biến đổi. Bạn đã thấy điều gì đó mới. Điều gì đó mới đã xảy ra cho bạn, một tia sáng đã đi vào bạn, và bây giờ mọi thứ bên trong bạn đều khác.
Trong điểm đạo thật, thầy đứng cạnh giống như nhân chứng và thầy có thể xác nhận rằng việc điểm đạo đã xảy ra. Người đó có thể thấy đầy đủ quá trình nhưng bạn chỉ thấy một nửa. Bạn chỉ có thể thấy điều đang xảy ra cho bạn; người đó thấy cái mà từ đó việc điểm đạo xảy ra. Nhưng liệu việc điểm đạo có xảy ra hay không, liệu bạn có được chấp nhận hay không, điều đó bạn không thể nói chắc được. Ngay cả sau khi bạn được điểm đạo, bạn vẫn sẽ tự hỏi, "Mình đã được chấp nhận chưa? Mình đã được chọn chưa? Mình đã được điều thiêng liêng chọn chưa? Bây giờ mình có thể coi là mình là của nó chưa? Về phần mình, mình đã buông xuôi, nhưng ngài đã coi mình là ngài chưa?" Điều này bạn không thể biết ngay được. Bạn sẽ đi tới nhận ra sau một chốc, nhưng khoảng chờ đợi này có thể dài đấy. Cho nên người thứ hai, người mà chúng ta gọi là thầy, có thể biết điều này bởi vì người đó đã quan sát sự việc xảy ra từ cả hai phía.
Điểm đạo thật không thể được cho, mà cũng chẳng thể được lấy. Nó tới từ điều thiêng liêng; bạn đơn thuần là người nhận.
Bây giờ tới kiểu điểm đạo khác, mà chúng ta có thể gọi là điểm đạo giả, có thể được cho mà cũng có thể được nhận. Điều thiêng liêng hoàn toàn vắng bóng ở đây; chỉ có thầy và đệ tử. Thầy cho, đệ tử nhận, nhưng cái thứ ba, nhân tố thực, vắng bóng.
Nơi chỉ có hai hiện diện - thầy và đệ tử - việc điểm đạo là giả. Nơi có ba hiện diện - thầy, đệ tử và ngài từ nơi điều đó xảy ra - mọi thứ đều thay đổi. Việc cho điểm đạo không chỉ là không thật mà còn nguy hiểm nữa, tai hoạ nữa, bởi vì trong ảo tưởng của điểm đạo, việc điểm đạo thật không thể xảy ra. Bạn sẽ đơn thuần sống dưới ảo tưởng rằng việc điểm đạo đã xảy ra.
Một người tìm kiếm tới tôi, người đã được ai đó điểm đạo. Người đó nói, "Tôi đã được điểm đạo bởi thầy này nọ và tôi phải tới thầy để học thiền."
Tôi hỏi người đó, "Thế thì tại sao bạn nhận điểm đạo? Và nếu bạn không đạt tới thiền, bạn thu được cái gì từ việc điểm đạo của mình? Tất cả những cái bạn nhận được là quần áo và tên tuổi. Nếu bạn vẫn còn đi tìm thiền, thế thì việc điểm đạo của bạn có ý nghĩa gì?"
Chân lí là ở chỗ điểm đạo chỉ có thể xảy ra sau thiền. Thiền sau điểm đạo chẳng có ý nghĩa gì cả. Điều ấy cũng giống như một người tuyên bố rằng mình mạnh khoẻ và người đó vẫn đến gõ cửa nhà bác sĩ và hỏi xin thuốc. Điểm đạo là việc chấp nhận thu được sau thiền. Nó là sự phê chuẩn được trao cho sự chấp nhận của bạn - sự đồng ý. Điều thiêng liêng đã được hỏi ý kiến về bạn và lối vào của bạn trong cảnh giới của ngài đã xảy ra. Điểm đạo chỉ là xác nhận cho sự kiện này.
Việc điểm đạo như vậy bây giờ đã mất, và tôi cảm thấy nó nên được làm sống lại: điểm đạo là nơi thầy không phải là người cho và đệ tử không phải là người nhận - còn người cho là Thượng đế. Điều này có thể có; điều này nên có. Nếu tôi là nhân chứng cho việc điểm đạo của ai đó, tôi không trở thành thầy của người đó. Thế thì thầy của người đó là điều thiêng liêng. Nếu người đó biết ơn, đấy là việc của người đó. Nhưng yêu cầu lòng biết ơn là điên rồ còn chấp nhận nó là vô nghĩa.
Gurudom, mạng lưới cái gọi là thầy, đã được tạo ra bằng việc ban phát dạng thức mới cho điểm đạo. Lời nói được thì thầm vào tai, mật chú được trao, và chẳng có ai điểm đạo cho bất kì ai. Liệu bản thân người đó có được điểm đạo hay không cũng không chắc chắn; liệu điều thiêng liêng có chấp nhận người đó hay không cũng chẳng được biết. Có lẽ ông thầy ấy nữa cũng đã được điểm đạo theo cùng cách ấy. Ai đó đã thì thào vào tai ông ta, ông ta lại thì thào vào tai ai đó, và người này đến lượt mình lại sẽ thì thào vào tai ai đó khác nữa.
Con người tạo ra điều dối trá và lừa dối trong mọi thứ - và một biến cố càng bí ẩn, càng có nhiều lừa dối, bởi vì chẳng có gì thực chất để nêu ra như bằng chứng.
Tôi có ý định tiến hành phương pháp này ở đây nữa. Khoảng mười hay hai mươi người đang chuẩn bị cho nó. Họ sẽ nhận việc điểm đạo từ điều thiêng liêng. Những người khác đang hiện diện sẽ là nhân chứng, và công việc của họ sẽ là xác nhận liệu việc điểm đạo có được chấp nhận bởi điều thiêng liêng hay không; có vậy thôi. Bạn sẽ kinh nghiệm nhưng bạn sẽ không thể nào nhận ra ngay điều gì đã xảy ra. Nó quá không quen thuộc với bạn, làm sao bạn nhận ra rằng sự việc đã xảy ra? Việc xác nhận có thể được tiến hành bởi sự hiện diện của người đã chứng ngộ. Một mình người này này là cơ sở cho việc đánh giá về nó.
Cho nên người thầy tối cao là paramatman - Thượng đế duy nhất. Nếu thầy đứng giữa bước lùi lại, việc điểm đạo sẽ dễ dàng hơn, nhưng ông thầy trung gian lại hay đứng ì ở đấy. Bản ngã của ông ta đắc chí khi làm mình thành thượng đế và thể hiện bản thân mình. Nhiều loại điểm đạo đã được trao quanh cái bản ngã này. Tuy nhiên chúng chẳng có giá trị gì; theo ngôn ngữ tâm linh, tất cả những việc đó là tội ác. Những người điểm đạo giả sẽ kết thúc việc đi tìm kiếm chân lí, cứ tin rằng đã tới nơi. Nếu một ngày nào đó những dối trá tâm linh bị xét xử, những ông thầy này phải bị trừng phạt.
Người tìm kiếm không hoài nghi coi điều đó là được công nhận rằng mình đã được điểm đạo. Thế rồi người đó đi đâu cũng tự hào rằng mình đã nhận được điểm đạo, rằng mình đã có mật chú, và rằng tất cả những gì phải xảy ra, đã xảy ra cho mình. Cho nên tất cả việc tìm kiếm của người đó cho biến cố đúng đắn đều dừng lại.
Khi bất kì ai tới Phật ông ấy cũng không bao giờ điểm đạo cho ngay; đôi khi phải mất nhiều năm trời. Phật sẽ cứ trì hoãn bằng việc bảo người đó thực hiện công phu này công phu khác. Thế rồi, khi thời điểm tới, ông ấy sẽ bảo người đó sang phía điểm đạo.
Có ba phần trong việc điểm đạo của Phật. Người tới để xin điểm đạo phải trải qua ba kiểu buông xuôi. Đầu tiên người đó nói, "Tôi buông xuôi theo Phật - Buddham sharanam gachchhami." Bằng việc này người đó không nói tới Phật Gautam; điều này có nghĩa là buông xuôi bản thân mình theo người đã thức tỉnh.
Có một lần, một người tìm kiếm tới Phật và nói, "Tôi buông xuôi theo vị phật." Phật nghe và vẫn cứ lặng thinh.
Thế rồi ai đó hỏi ông ấy, "Người này nói, ‘Tôi buông xuôi theo vị phật,’ mà thầy chỉ nghe người đó thôi ư?"
Phật đáp, "Người này không buông xuôi theo ta, người này buông xuôi theo người đã thức tỉnh. Ta chỉ đơn thuần là cái cớ. Đã có rất nhiều vị phật trước ta, và sẽ còn rất nhiều vị phật sau ta. Ta chỉ là cái cớ. Ta chỉ là lí do. Người này đang buông xuôi bản thân mình theo người đã thức tỉnh, cho nên ta là ai mà dừng anh ta lại? Nếu anh ta buông xuôi theo ta, ta chắc chắn sẽ dừng anh ta lại, nhưng anh ta đã nói ba lần rằng anh ta đang buông xuôi bản thân mình theo người đã thức tỉnh."
Thế rồi có việc buông xuôi thứ hai mà còn tuyệt diệu hơn. Trong việc này người ta nói, "Tôi buông xuôi theo tập thể những người đã thức tỉnh - Sangham sharanam gachchhami." Bây giờ tập thể này có nghĩa là gì? Nói chung, những người theo Phật đều coi điều đó nghĩa là nhóm người của Phật, nhưng điều này không phải là ý nghĩa. Tập thể này là tập hợp tất cả những người đã thức tỉnh. Không chỉ có một Phật là người đã trở nên thức tỉnh; còn có nhiều vị phật trước đó và sẽ có nhiều vị phật sau này, người sẽ thức tỉnh. Họ tất cả đều thuộc vào một công xã, một tập thể. Bây giờ các phật tử cứ nghĩ từ này có nghĩa là hội các phật tử, nhưng điều này là sai.
Chính lời khẩn cầu thứ nhất, trong đó Phật giải thích rằng người tìm kiếm buông xuôi bản thân mình theo người đã thức tỉnh chứ không phải theo ông ấy như một con người, làm cho mọi việc thành rõ ràng. Lời khẩn cầu thứ hai làm cho tất cả điều đó còn rõ ràng hơn. Trong lời này người đó dâng bản thân mình cho công xã những người đã thức tỉnh.
Ban đầu người đó cúi mình trước một người đã thức tỉnh, người đang ở ngay đó ngay trước mình. Vì người đó đang ở ngay đấy nên dễ dàng tiếp cận tới người đó, nói với người đó. Thế rồi người đó buông xuôi bản thân mình theo nhóm người đã thức tỉnh mà đã thức tỉnh từ lâu và là những người mà người đó không biết, và những người sẽ thức tỉnh trong tương lai và cũng là những người mà người này không biết. Người này buông xuôi theo tất cả họ và người này tiến thêm một bước tới điều tinh tế.
Việc buông xuôi thứ ba là cho dhamma - tôn giáo. Lần thứ ba người tìm kiếm nói, "Tôi buông xuôi theo pháp - Dhammam sharanam gachchhami." Việc buông xuôi đầu tiên là theo một người đã thức tỉnh, việc buông xuôi thứ hai là theo nhóm những người đã thức tỉnh, và bây giờ việc buông xuôi thứ ba là theo cái chính là trạng thái tối thượng của việc thức tỉnh - theo pháp. Tức là, theo bản tính của chúng ta, nơi không có cá nhân, không có cộng đồng; nơi chỉ có pháp, có luật. Người này nói, "Tôi buông xuôi theo pháp đó."
Khi ba việc buông xuôi này đã được hoàn tất chỉ thế thì việc điểm đạo mới được thừa nhận. Phật chỉ là nhân chứng cho biến cố này. Điều này không phải là vấn đề lặp lại đơn thuần. Khi ba việc này đã được hoàn tất - và Phật có thể thấy liệu chúng đã được hoàn tất hay chưa - chỉ thế thì cá nhân này mới được điểm đạo. Phật vẫn còn là nhân chứng cho sự kiện này.
Cho nên về sau Phật cũng sẽ nói với người tìm kiếm, "Chớ có tin những gì ta nói chỉ bởi vì ta là một người đã thức tỉnh; đừng tin vào điều ta nói chỉ bởi vì ta nổi tiếng hay bởi vì ta có nhiều đệ tử hay bởi vì kinh sách xác nhận điều đó. Bây giờ hãy chỉ tin vào cái mà hiểu biết bên trong ông mách bảo ông."
Phật chưa bao giờ trở thành thầy. Vào lúc chết của ông ấy, khi được hỏi về thông điệp cuối cùng của mình, ông ấy đã nói, "Là ánh sáng lên bản thân mình đi. Đừng đi theo người khác; đừng theo đuôi kẻ khác. Là ánh sáng lên bản thân mình. Đây là thông điệp cuối cùng của ta."
Một người như Phật không thể là thầy. Một người như vậy là một nhân chứng. Jesus nhiều lần đã nói, "Đến ngày phán xử cuối cùng, ta sẽ là nhân chứng của ông." Nói cách khác, vào ngày cuối cùng Jesus sẽ làm chứng, "Đúng, người này là người đã cố gắng trở thành người thức tỉnh. Người này muốn buông xuôi theo điều thiêng liêng." Đây là việc nói theo biểu tượng. Điều Christ muốn nói cũng là thế này: "Ta là nhân chứng của ông, không phải là thầy ông."
Không có thầy; do đó, nhận biết về việc điểm đạo nơi ai đó trở thành thầy bạn. Việc điểm đạo mà bạn lập tức trở thành và trực tiếp được nối với điều thiêng liêng là việc điểm đạo duy nhất. Nhớ lấy, trong việc điểm đạo này bạn không phải rời bỏ nhà cửa và ra đi, bạn không phải trở thành người Hindu hay người Mô ha mét giáo hay người Ki tô giáo, mà bạn cũng không cần phải bị gắn với ai đó. Bạn vẫn còn ở nơi bạn đang ở trong tự do đầy đủ của mình; việc thay đổi sẽ xảy ra chỉ từ bên trong. Theo kiểu điểm đạo giả bạn sẽ bị cột vào một tôn giáo: bạn sẽ là người Hindu hay Mô ha mét giáo hay Ki tô giáo. Bạn sẽ là một phần của một tổ chức. Một niềm tin nào đó, một phẩm cấp tôn giáo nào đó, học thuyết nào đó, người nào đó, thầy nào đó, sẽ ảnh hưởng lên bạn và họ sẽ giết tự do của bạn.
Điểm đạo không đem đến tự do, không phải là điểm đạo. Điểm đạo đem cho bạn tự do tuyệt đối, duy nhất là việc điểm đạo thật.
Thầy đã nói rằng Phật đã đạt tới mahaparinirvana - niết bàn tối hậu, nhưng thầy cũng nói rằng Phật còn quay lại dạng người và sẽ được biết tới là Di lặc. Liệu có thể lấy lại dạng người sau khi đã đạt tới niết bàn không? Xin Thầy giải thích.
Điều này có đôi chút khó khăn; do đó, tôi đã không nói về nó hôm qua. Nó đòi hỏi giải thích chi tiết; vậy bây giờ tôi sẽ nêu cho các bạn một giải thích ngắn gọn.
Không thể nào quay trở lại sau khi đạt tới bình diện thứ bẩy. Không có việc tái sinh sau thể thứ bẩy. Đấy là điểm không có quay lại; bạn không thể về lại từ nơi đó. Nhưng cũng đúng là Phật đã nói ông ấy sẽ quay trở lại dưới dạng của Di lặc. Bây giờ cả hai điều này dường như mâu thuẫn: Tôi nói bạn không thể quay lại sau thể thứ bẩy còn Phật lại hứa quay lại. Phật đã đạt tới thể thứ bẩy và nhập vào trong niết bàn - thế thì làm sao điều này lại có thể được? Còn có cách khác. Bây giờ bạn phải biết và hiểu đôi điều.
Khi chúng ta chết, chỉ thể vật lí bị loại bỏ đi; phần còn lại của sáu thể vẫn còn với chúng ta. Khi một người đạt tới bình diện thứ năm, bốn thể đầu bị loại bỏ đi và chỉ còn lại ba thể - thứ năm, thứ sáu và thứ bẩy. Trong thể thứ năm người ta có thể quyết tâm giữ các thể thứ hai, ba và bốn, và điều này có thể xảy ra nếu quyết tâm đó là rất mạnh mẽ và sâu sắc. Và với một người như Phật, điều này là việc dễ dàng: ông ấy có thể để lại sau vĩnh viễn các thể thứ hai, ba và bốn của mình. Giống như khối lượng năng lượng, những thể này của Phật vẫn di chuyển trong không gian.
Tất cả các tình cảm mà Phật đã tiếp nhận trong suốt vô lượng kiếp sống đều là tính chất của thể thứ hai - thể ê te. Và những dấu ấn của tất cả các nghiệp mà Phật đã có trong các kiếp trước đều được tích luỹ trong thể thứ ba - thể vía. Thể thứ tư mang tất cả những thành tựu của tâm trí Phật. Tất cả những thành tựu của ông ấy vượt ra ngoài tâm trí đều đã được ông ấy diễn đạt qua tâm trí như tất cả các cách diễn đạt được cho qua tâm trí. Bất kì khi nào một người muốn nêu ra những thành tựu của mình ở thể thứ năm hay thậm chí thể thứ bẩy, người đó phải sử dụng thể thứ tư của mình - bởi vì phương tiện diễn đạt là thể thứ tư. Cho nên người đã nghe Phật nhiều hơn bất kì ai hay bất kì điều gì khác chính là thể thứ tư của riêng ông ấy. Bất kì điều gì ông ấy đã nghĩ, đã sống và đã biết đều được thu thập trong thể thứ tư của ông ấy.
Ba thể đầu này tan rã rất dễ dàng. Khi một người đi vào thể thứ năm, ba thể này bị phá huỷ. Khi một người đi vào thể thứ bẩy, tất cả sáu thể trước đều bị phá huỷ. Nhưng nếu một người ở bình diện thứ năm ham muốn lắm, người đó có thể để lại tất cả những rung động của ba thể này trong không gian. Cũng giống như bây giờ chúng ta đang làm các trạm không gian: tuyển tập các thể thứ hai, thứ ba và thứ tư của Phật sẽ cứ di chuyển trong không gian cho tới khi chúng tự biểu lộ trong một cá nhân với tên Di lặc.
Cho nên khi một người có trạng thái cần thiết cho Di lặc được sinh ra, ba thể này của Phật sẽ đi vào người đó. Cho tới giờ người ta vẫn chờ đợi việc tới của ông ấy. Khi ba thể này đi vào trong người đó, người đó sẽ đạt tới phẩm chất của Phật, bởi vì chúng là sự tích luỹ của tất cả những kinh nghiệm, tất cả những xúc động, ham muốn và hoạt động của Phật.
Bây giờ, chẳng hạn, giả sử tôi bỏ lại thân thể mình ở đây và nó được gìn giữ thật kĩ lưỡng...
Tại Mĩ một người đã chết quãng ba hay bốn năm trước đây. Ông ta đã để lại việc uỷ thác nhiều triệu đô la và ông ta viết di chúc rằng số tiền này được dùng để gìn giữ thân thể mình cho đến lúc khoa học khám phá ra bí mật của việc đưa một cái xác chết trở về với cuộc sống. Hàng triệu đô la đã được tiêu để gìn giữ thân thể người đó sao cho nó không bị huỷ hoại. Thân thể người đó được gìn giữ bằng quá trình khoa học. Nếu đến cuối thế kỉ này mà chúng ta thành công trong việc làm sống lại người chết, cái xác này sẽ được đem lại cuộc sống. Nhưng linh hồn sẽ khác; nó không thể là linh hồn cũ được.
Thân thể sẽ vẫn như cũ: mắt, mầu da, nét mặt, cách đi, tất cả các thói quen vật lí của người đó, sẽ vẫn như cũ. Theo một nghĩa nào đó, người đã chết sẽ được biểu thị trong cái xác này. Nếu người này được tập trung quanh thân thể vật lí của mình - mà người đó phải ở đấy vì bằng không, ham muốn sắc bén ấy để gìn giữ thân thể sẽ không có đó - mà chẳng có ý tưởng gì về các thể khác, một linh hồn khác cũng có thể hành động như người đó. Nó sẽ hành động đích xác hệt theo cùng cách như người chết, và các nhà khoa học vậy sẽ nói rằng đấy vẫn là cũng con người cũ đã quay lại cuộc sống. Tất cả kí ức và hồi ức của người đó mà được cất giữ trong bộ não vật lí sẽ thức tỉnh lại một lần nữa: người đó sẽ có thể nhận ra ảnh của mẹ mình và con mình, những người đã chết từ lâu; người đó sẽ nhận ra thành phố nơi mình sinh ra; người đó sẽ chỉ ra nơi mình chết; người đó cũng sẽ gọi tên những người hiện diện khi mình chết. Linh hồn sẽ khác mặc dầu nội dung bộ não vẫn như cũ.
Bây giờ khoa học nói rằng trong ngày gần đây họ sẽ có thể cấy được kí ức. Điều này là có thể. Nếu tôi chết, toàn bộ hồi ức và kí ức của tôi cũng mất đi cùng tôi. Nhưng bây giờ có thể cất giữ toàn bộ cơ chế kí ức của tôi vào lúc tôi chết cũng như chúng ta gìn giữ mắt để cấy ghép. Ngày mai ai đó sẽ có thể thấy bằng mắt tôi. Và không phải là một mình tôi có thể yêu bằng trái tim mình - ngày mai ai đó khác cũng có thể yêu bằng trái tim tôi nữa. Bây giờ không thể nào hứa hẹn rằng "Trái tim anh mãi mãi là của em." Bởi vì chính trái tim này có thể được thề dành cho người khác trong tương lai xa.
Theo cùng cách đó, kí ức cũng sẽ được cấy ghép. Sẽ phải mất thời gian để làm điều này bởi vì nó rất tinh vi và rất tinh tế. Nhưng trong tương lai, như chúng ta đem mắt cho ngân hàng mắt, sẽ có ngân hàng kí ức nữa. Thế thì kí ức của tôi sẽ được cấy vào một đứa bé nhỏ và nó vậy sẽ biết tất cả những điều tôi đã phải học. Nó sẽ trưởng thành mà đã biết bao nhiêu điều vì kí ức của tôi sẽ là một phần tạo nên bộ não nó. Thế thì ý nghĩ của tôi sẽ là của nó, hồi ức của tôi sẽ là của nó, và trong một số vấn đề nó sẽ nghĩ theo cùng cách như tôi nghĩ, vì nó sẽ có bộ não của tôi.
Bây giờ Phật đã kinh nghiệm theo một hướng khác - một hướng không phải là khoa học mà là huyền bí. Bằng một số phương pháp, các nỗ lực đã được tiến hành để gìn giữ các thể thứ hai, thứ ba và thứ tư của ông ấy. Phật không tồn tại chút nào nữa; linh hồn đã sống bên trong cũng đã mất tại bình diện thứ bẩy. Nhưng trước khi linh hồn nhập vào bình diện thứ bẩy, những thu xếp đã được tiến hành để lo liệu rằng ba thể này - thể thứ hai, thứ ba và thứ tư - không chết. Cái đà của quyết tâm và hứa hẹn của Phật vẫn còn thấm đẫm trong chúng. Cũng hệt như nếu tôi ném một hòn đá với lực đủ, nó sẽ đi được tám mươi cây số; thế rồi tôi chết ngay sau khi ném hòn đá đi. Nhưng cái chết của tôi không thể gây nhiễu lên chuyển động của hòn đá. Nó có lực mà tôi đã trao cho nó để đi được tám mươi cây số, và nó sẽ đi dù tôi còn hay không còn. Sức mạnh mà tôi đã sử dụng sẽ giữ cho hòn đá đi tiếp.
Phật đã trao đà cho ba thể này và chúng sẽ sống. Ông ấy cũng đã nói chúng có thể tồn tại được bao lâu. Bây giờ thời gian đã chín muồi cho Di lặc sinh thành. Chính thực nghiệm này đã được tiến hành với J. Krishnamurti để cho ông ấy sẽ đạt tới ba thể của Phật. Đầu tiên thực nghiệm này được tiến hành trên Nityananda, anh của Krisnamurti, nhưng ông này đã chết trong quá trình đó. Đây là một quá trình duy nhất - một quá trình khó khăn để trải qua.
Một nỗ lực đã được tiến hành để tách các thể thứ hai, thứ ba và thứ tư của Nityananda và thay chúng bằng các thể của Di lặc. Thế rồi Nityananda chết. Thế rồi cùng thực nghiệm đó lại được thử lên Krishnamurti, việc này cũng không thể thành công được. Thế rồi điều đó lại được thử lên một hay hai người nữa: George Arundale là một trong những người mà thực nghiệm này đã được thử bởi những người biết về bí mật này. Trong số những người biết về bí mật này, bà Blavatsky là người đàn bà sâu sắc nhất của thế kỉ chúng ta với tri thức liên quan tới khoa học huyền bí. Annie Besant là người khác; Leadbeater cũng có nhiều hiểu biết trong vấn đề huyền bí. Rất ít người có hiểu biết này.
Những người này biết rằng bây giờ sức mạnh đằng sau ba thể của Phật đang sắp giảm đi. Nếu Di lặc không sinh ra, những thể này sẽ không thể nào giữ được lâu hơn nữa; chúng sẽ phân tán. Bây giờ đà của chúng đang sắp hết. Ai đó bây giờ phải sẵn sàng để hấp thu ba thể này. Bất kì ai hấp thu ba thể này sẽ thành nguyên nhân cho việc tái sinh của Phật. Linh hồn của Phật sẽ không quay lại, nhưng linh hồn của cá nhân đó sẽ lấy ba thể của Phật và hành động tương ứng. Người đó lập tức sẽ đích thâm tham gia vào sứ mệnh của Phật.
Không phải mọi người đều có thể ở vào trạng thái này. Dù người đó là ai, người đó cũng phải ít nhất ở mức độ tâm thức cao như mức độ của Phật. Chỉ người như thế mới có khả năng hấp thu ba thân này; bằng không, người đó sẽ chết. Cho nên thực nghiệm này đã không thành công, bởi vì có nhiều khó khăn trong quá trình này. Cố gắng vẫn còn tiếp tục. Thậm chí ngày nay vẫn còn các nhóm bí truyền nhỏ đang cố gắng đem xuống ba thể này của Phật. Nhưng bây giờ không có tuyên truyền rầm rĩ về nó, vì điều đó tỏ ra có hại.
Đã có khả năng ba thể này giáng xuống Krishnamurti. Ông ấy xứng đáng với điều đó và điều này đã được thông báo rộng rãi. Việc tuyên truyền này đã được tiến hành với niềm tin chân thành. Nó đã được tiến hành bởi lí do là khi việc giáng sinh của Phật xảy ra, ông ấy sẽ nhanh chóng được thừa nhận. Điều đó cũng được tiến hành để làm sống lại các kí ức kiếp quá khứ của những người đang sống bây giờ mà đã sống vào thời Phật, để cho họ có thể nhận ra rằng đây là cùng một con người. Nhưng việc tuyên truyền này lại thành bất lợi cho quá trình này. Nó đã tạo ra phản ứng trong tâm trí của Krishnamurti, người có một nhân cách giản dị, kín đáo và nhạy cảm. Thật khó cho ông ấy ở trong đám đông. Nếu thực nghiệm này được tiến hành trong im lặng tại một chỗ hẻo lánh, bằng không ai biết gì về nó cho tới khi biến cố xảy ra, rất có thể là biến cố đó đã xảy ra thật.
Nhưng việc đó đã không xảy ra. Krishnamurti đã từ chối việc buông bỏ các thể thứ hai, thứ ba và thứ tư của mình để được thay thế bằng ba thể của Phật. Đây là một cú khủng khiếp đối với khoa học huyền bí của thời đại chúng ta. Chưa bao giờ một thực nghiệm rộng lớn và phức tạp như thế được thực hiện trên thế giới này ở bất kì đâu ngoại trừ tại Tây Tạng. Quá trình này đã được tiến hành ở Tây Tạng trong thời gian lâu dài, và nhiều linh hồn làm việc thông qua trung gian của các thể khác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét