Thứ Bảy, 28 tháng 10, 2017

Bên kia sông Đuống - Bài thơ bất hủ của thi sĩ Hoàng Cầm

Bên kia sông Đuống - Bài thơ bất hủ 
của thi sĩ Hoàng Cầm
Chúng ta đã từng biết đến nhà thơ Kinh Bắc tài hoa Hoàng Cầm với nhiều thi phẩm, nhưng có lẽ "Bên kia sông Đuống" vẫn là bài thơ "Đinh" trong sự nghiệp sáng tác của ông. Tác phẩm này đã được chọn lựa trong sách giáo khoa THPT và nhiều lần được dùng làm đề thi quốc gia, đề thi tuyển sinh đại học các khối C,D. Chỉ điều ấy thôi cũng đủ khẳng định giá trị nghệ thuật và tầm tư tưởng của thi phẩm này.
Bên kia sông Đuống
Việt Bắc, tháng 4/1948
Hoàng Cầm 
Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp loáng
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?
Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu? Về đâu?

Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng
Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen
Bãi Trầm Chỉ người giăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa mầu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu? Về đâu?
Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông
Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp trên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu?
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ
Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu díu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc dày vò những nét môi xinh
Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn
Đêm buông xuống dòng sông Đuống
Con là ai? - Con ở đâu về?
Hé một cánh liếp
- Con vào đây bốn phía tường che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
Những chuyện muôn đời không nói năng
Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
Bộ đội bên sông đã trở về
Con bắt đầu xuất kích
Trại giặc bắt đầu run trong sương

Dao lóe giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo trên đống lửa
Mà cánh đồng ta còn chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa
Tiếng bà ru cháu xế trưa
Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu
"À ơi... cha con chết trận từ lâu
Con càng khôn lớn càng sâu mối thù"
Tiếng em cắt cỏ hôm xưa
Hiu hiu gió rét mịt mù mưa bay
"Thân ta hoen ố vì mày
Hờn ta cùng với đất này dài lâu..."
Em ơi! Đừng hát nữa! Lòng anh đau
Mẹ ơi! Đừng khóc nữa! Dạ con sầu
Cánh đồng im phăng phắc
Để con đi giết giặc
Lấy máu nó rửa thù này
Lấy súng nó cầm chắc tay
Mỗi đêm một lần mở hội
Trong lòng con chim múa hoa cười
Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đã tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để nó cuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đời
Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trảy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.
Một hướng cảm nhận bài thơ "Bên kia sông Đuống"
Đề tài "Dòng sông" là đề tài luôn được thi ca khai thác và trong miền thơ này đã có không ít những thi phẩm đạt tới đỉnh tuyệt vời. Xuôi dòng sông thơ thi ca Việt Nam hiện đại ta đã chạm phải nỗi buồn ám ảnh của một “Tràng giang” của Huy Cận, một dòng “Sông Thao” dịu ngọt và tình tứ của Nguyễn Duy; và Hoài Vũ đã để "Vàm Cỏ Đông" quẫy mình âm vang chiến công sông nước. Song một hồn thơ đa tình đẫm hơi thở, dòng sông toát lên từ hồn Kinh Bắc thì chỉ có "Bên kia sông Đuống" của Hoàng Cầm. Con sông chảy qua không gian vùng văn hóa cổ, nghiêng chảy giữa thời kháng chiến đã hóa thơ, và nó cùng với thi phẩm mãi tồn tại như một sinh thể sống trong lòng con người .
"Bên kia sông Đuống" là bài thơ của thế giới Kinh Bắc, cái nôi văn hóa cổ nổi tiếng một thời với đình chùa lễ hội với dòng tranh độc nhất vô nhị và làn điệu quan họ ngọt ngào. Cái miền quê mà Hoàng Cầm yêu như máu thịt. Tình yêu ấy tiềm tàng trong chất máu, chất tâm hồn của thi sĩ và khi gặp tình huống thì hóa thành thơ trào lên ngọn bút. Tình huống đó xuất hiện vào đêm tháng 4/1948 khi nhà thơ nhận được tin giặc tàn phá quê hương mình. Thi sĩ cực kỳ xao xuyến tâm tư chồng chất những nhớ nhung tiếc nuối xót xa với cảnh con người, quê hương bị tàn phá, giết hại. Chồng lên cảm xúc ấy niềm căm giận quân thù và "Bên kia Sông Đuống" đã khởi nguồn cuồn cuộn như vậy. Và vì thế thi phẩm làm sống dậy một thế giới Kinh Bắc, thế giới tình yêu, nỗi đau và lòng căm giận quân xâm lược đến tột cùng
Hình ảnh Sông Đuống
Mở đầu thi phẩm là tiếng gọi tha thiết yêu thương nhưng đồng thời là lời an ủi vỗ về:
"Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống"
Ngày xưa cát trắng phẳng lì"
Ba câu thơ này bắt nguồn từ cơn thần hứng, thi sĩ đã tự bạch: "Đột nhiên từ thôn xóm nào xa vang vọng ngay bên tai tôi một giọng hát như than thởt như ru em, một giọng phụ nữ trong trẻo ngge rõ một một nhưng lại nghe như lúc tôi còn thơ dại". Và chính những âm thanh mà tác giả lắng được ấy tạo ra những dòng thơ trầm buồn, nó thật dịu dàng nhưng cũng thật xót xa nuối tiếc.
Nhân vật em xuất hiện trong những dòng âm thanh ấy nhưng "Em" chỉ là một nhân vật phiếm chỉ một thủ pháp trữ tình để nhà thơ tâm sự sẻ chia. Tất nhiên, với phong cách lãng mạn của thi sĩ thì em phải là cô gái vùng Kinh Bắc những cô gái mặc yếm thắm thắt lụa hồng bây giờ trở thành  một nhân vật vừa hữu hình vừa vô hình để lắng nghe dòng cảm xúc miên man bất tận ngân lên  từ cõi lòng thi sĩ .
Tuy nhiên hình ảnh trung tâm trong miền hoài niệm của nhà thơ vẫn là hình ảnh dòng sông Đuống. Dòng sông nổi bật lên trong không gian tâm tưởng.
Hình ảnh con sông quê hương với đôi bờ cát trắng ngày xưa chảy về thời hiện tại, hiện hình trong tâm trí nhà thơ như một dòng lấp lánh.
"Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ"
Con sông nghiêng chảy giữa hai bờ thực ảo. Xúc cảm mãnh liệt cùng với trí tưởng tượng phong phú đã giúp nhà thơ tạo nên hình ảnh dòng sông đầy ấn tượng, xáo trộn cả không gian. Dáng nằm nghiêng của dòng sông Đuống trở thành một phát hiện sáng tạo độc đáo của Hoàng Cầm. Con sông vì thế không bất động vô hồn, nó trở thành sinh thể sống đầy ám ảnh. Con sông yêu thương ấy khi quân thù tràn đến đã hóa thành dòng sông của thương đau:
"Đứng bên sông này sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay"
Đoạn thơ kết thúc bằng một hình ảnh tạo ra cảm nhận xót xa vô hạn. thi sỹ đã lấy nỗi đau về thể xác để diễn tả một cách cụ thể nỗi đau về tinh thần. Nỗi đau ấy như truyền thẳng vào người đọc cái buốt nhói tái tê hữu hình. Phải là người yêu quê hương như máu thịt mới có được tình cảm ấy và dòng xúc cảm mãnh liệt này đã đạt tới mức độ điển hình
Hình ảnh quê hương với vẻ đẹp và  những nỗi đau thương, uất hận căm thù
Cảm hứng chủ đạo trong phần đầu của đoạn thơ là nỗi đau tiếc nuối trước cảnh tượng quê hương thanh bình đã bị giặc tàn phá. Cảm xúc ở đây có vẻ phức tạp hơn, nó được thể hiện trên một trục thời gian quá khứ  và hiện tại; tình yêu hòa trộn với nỗi đau soi chiếu vào nhau. Mỗi khổ thơ được mở đầu bằng hình ảnh gợi cuộc sống thanh bình tươi đẹp, dòng cảm xúc cuồn cuộn chảy nhưng kết thúc đột ngột bằng một câu hỏi nghẹn ngào tiếc thương ngơ ngẩn.
Vùng quê Kinh Bắc trong hoài niệm nhà thơ, được gợi lên bởi hương lúa nếp thơm nồng và những bức tranh làng Hồ:
"Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp"
Hương lúa và dòng tranh Đông Hồ được dùng như những biểu tượng về cuộc sống vật chất ấm no và đời sống tinh thần tươi đẹp . Sự am hiểu cái đẹp và tinh tuý của hồn văn hoá dân gian đã giúp Hoàng Cầm chỉ bằng một vài nét mà đã lột tả được cái độc đáo, đặc sắc của dòng tranh làng Hồ.
Ba câu thơ, ba tính từ, Hoàng Cầm mở căng giác quan đón nhận quê hương: thơm nồng (khứu giác), tươi trong (thị giác), sáng bừng (cảm giác);  hình ảnh sáng bừng trở thành điểm sáng lung linh nhất nó đưa màu tranh Kinh bắc hòa nhập thành "màu dân tộc". Hoàng Cầm đã thể hiện được cái thần thái cái linh hồn của dòng tranh và cũng là vẻ đẹp độc đáo của quê hương.
Vẻ đẹp ấy lại ngập chìm trong khói lửa chiến tranh. Thi sĩ đã miêu tả thật xúc động những cảnh tan tác chia lìa, những đau thương mất mát:
"Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu"
Ở đây cái ảo và cái thực hoà nhập vào nhau khó lòng tách bạch riêng biệt. Mượn hình ảnh trong tranh để diễn tả cánh tượng thật ngoài đời, thi sỹ đã lay động được tình cảm của những con người gắn bó máu thịt với truyền thống văn hoá nghìn đời vùng Kinh Bắc.  Bốn câu thơ như được viết ra trong trạng thái mơ tỉnh lẫn lộn. Bức tranh Đông Hồ hiện cùng bức tranh đời. Cái độc đáo của câu thơ là ở chỗ thi sỹ vừa tái hiện nỗi đau quê hương bị tàn phá vừa nói được nỗi đau nền văn hoá dân tộc bị dày xéo, chà đạp. Đoạn thơ khép lại trong một tâm trạng đầy hoang mang đầy cảm xúc thơ tới chót đỉnh của sự tê tái.
Quê hương Kinh Bắc được gợi lên với những đình chùa cổ kính, những hội hè đình đám thể hiện khát vọng một cuộc sống hạnh phúc bình yên của nhân dân. Bài thơ đã tái hiện cảnh hội ngày xuân tưng bừng rộn rã thanh bình  cuộc sống êm ả ngọt ngào "Mấy trăm năm giấc mộng bình yên". Nói tới mộng bình yên tác giả đã chạm vào niềm khao khát chân chất của con người đất Việt từ nghìn đời: khát vọng hoà bình. Nhưng tất cả đều tan vỡ.
"Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu về đâu"
Những con người như một phần linh hồn của quê hương xứ sở giờ đây đã nên bơ vơ tan tác… chỉ còn lại âm thanh của tiếng chuông chùa văng vẳng như gọi linh hồn quê hương trở lại, tạo ra sự hoang vắng rợn ngập. Câu thơ kết như một tiếng thở dài tiếc nuối.
Tái hiện trong tâm trí nhà thơ, Kinh Bắc còn là xứ sở của buôn bán sầm uất đông vui - miền quê lao động và con người cũng mang vẻ đẹp chân chất của gió nội hương đồng:
"Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gởi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng"
Khác với những giai nhân trong buồng the, trướng gấm, cô gái Kinh Bắc trong nỗi nhớ Hoàng Cầm là những con người lao động. Họ đẹp vẻ đẹp tảo tần mà vẫn tinh tế ngọt ngào. Những câu thơ tài hoa Hoàng Cầm đã thổi sự sống vào hình ảnh của người thục nữ: một khuôn mặt thật độc đáo vừa có vẻ đẹp tạo hình gợi sự mịn màng sắc màu phớt hồng đầy sức sống vừa gợi làn hương e ấp trinh nguyên .và nụ cười thật trong sáng ấm áp dịu dàng như mùa thu tỏa nắng. Đó là cái hồn riêng ánh sáng riêng của vùng Kinh Bắc mà Hoàng Cầm nhận ra trong nỗi nhớ bâng khuâng.
Đi hết tình yêu lại gặp nỗi đau Hoàng Cầm lựa chọn đưa vào thơ mình hai hình ảnh, hai nạn nhân tội nghiệp nhất của chiến tranh người mẹ già và đứa trẻ. Hình ảnh người mẹ già dạt ra khỏi phiên chợ nghèo khi giặc tràn tới xuất hiện ba lần trong một đoạn thơ ngắn. đất lành hóa thành đất dữ con người và những cánh cò cũng tan tác không chốn nương thân:
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng Sông Đuống về đâu
Mẹ già lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa tạnh mái đầu bạc phơ
Hai hình ảnh bổ sung cho nhau cánh cò trời cao mẹ già đất thấp tạo nên một không gian hoảng loạn. Không phải cánh cò trong những áng ca dao thơ mộng mà là cánh cò bay trốn đạn bom. Người mẹ già quẩy gánh hàng rong trên con đương mưa lạnh và hướng đi vô định... đã nói thật sinh động cái không gian chiến tranh mà con người trong đó với thân phận bơ vơ, mất phương hướng và luôn bị cái chết rình rập.
Những đứa trẻ với nỗi bất hạnh là đói khát và đạn bom đe dọa được tái hiện thật thảm thương. Bóng đen tử thần cũng luôn rình rập chúng, toàn bộ thời gian ban ngày lẫn ban đêm cả khi thức cũng như khi ngủ. Lòng căm giận đã bùng lên đến đỉnh điểm của sự dữ dội lời thơ thét lên phẫn nộ:
Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn.
Những câu thơ xót đau tê tái đã trở thành lực nén cho tiếng sét trả hận cho đoạn thơ tiếp nối. Đó là hình ảnh quê hương quật khởi. Giọng thơ từ nhớ tiếc xót thương chuyển sang phẫn uất căm thù. Nhân vật trữ tình không còn là nhân vật hoài niệm mà là nhân vật hành động.
Những câu thơ trong đoạn kéo dài trong lặng lẽ những hình ảnh được miêu tả cái gì cũng bé nhỏ nén để thu gọn lại "Liếp hé" ánh sáng leo lét tiếng nói ngậm ngùi thầm kể những câu thơ hình ảnh như những dòng nước tích tụ đổ về dòng sông để cuối cùng biến thành dòng lũ quật khởi. Sông Đuống sinh thể thương đau đang vùng dậy cuốn phăng ra bể những đòn thù và những thương đau.
Khát vọng giải phóng
Sáu câu cuối làm thành một giấc mơ đẹp bay lên giữa khốc liệt hiện thực. Hình ảnh sáng tạo lúng liếng sắc màu và lung linh ánh sáng "Yếm thắm” và “lụa hồng" “xuân xanh” và đặc biệt là hình ảnh nụ cười làm tỏa rạng ánh sáng bài thơ:
Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại gặp em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh
Đó là giấc mơ chan chứa niềm hy vọng. Một hình ảnh tương lại của kinh Bắc thật lộng lẫy chan chứa yêu thương và đặc biệt là sự thay đổi từ cảnh sắc đến muôn lòngcon người sự hồi sinh tươi trẻ.Một kết thúc có hậu mê đắm nụ cười thiếu nữ đã nâng cánh lãng mạn của bài thơ và gieo vào lòng người đọc niềm vui và hy vọng.
“Bên kia sông Đuống” mang hai đặc điểm nổi bật xoắn xuýt hoà quyện đó là dòng cảm xúc nuối tiếc xót thương căm giận và yêu thương quê hương gia diết xuyên suốt bài thơ. Bài thơ thể hiện đậm đà bản sắc dân gian và rất dân tộc; trên một nền nhạc buồn, hồn quê hương dân tộc phảng phất trong mỗi dòng thơ.
"Bên kia sông Đuống" ghi nhận dòng tình cảm mãnh liệt chân thành trong sáng mà Hoàng Cầm dành cho quê hương mình. Bài thơ viết về vùng Kinh Bắc nhưng dư ba của nó lan rộng và động tới vùng nhạy cảm của trái tim, đó là tình yêu quê hương của tất cả con người Việt Nam.
Nguyễn Đình Minh
Theo https://vanhaiphong.com/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...