Người đàn bà bí mật
của vua Lê Thánh Tông
Vua Lê Thánh Tông nổi tiếng anh minh, sáng suốt, ngay đến cả
người tài là khuê nữ cũng được ông trọng dụng trong việc hệ trọng. Thế nên dư
luận xưa mới đồn rằng, Kim Hoa học sĩ Ngô Chi Lan là người đàn bà bí mật của
Vua Lê Thánh Tông.
Yêu hiền tài hay yêu tình?
Vua Lê Thánh Tông sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất 1442, mất
ngày 30 tháng 1 năm Đinh Tỵ 1497. Ông vốn là vị Hoàng đế thứ năm của nhà Hậu Lê
trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1460 đến 1497. Ông tên thật là Lê Tư
Thành, còn có tên khác là Lê Hạo. Ông nổi tiếng là vị minh quân, là người đã
đưa Đại Việt lên tới thời hoàng kim của chế độ phong kiến. Sử sách chép rằng,
vua Thánh Tông là một ông vua thông minh, có hiếu với cha mẹ… Ông trị vì được
38 năm, sửa sang được nhiều việc chính trị, mở mang sự học hành, chỉnh đốn các
việc vũ bị, đánh dẹp nước Chiêm, nước Lào, mở thêm bờ cõi…
Trong lúc trị vì, Lê Thánh Tông đã để lại tiếng thơm về sự
anh minh của mình như đã đề xuất nhiều cải cách trong hệ thống quân sự, hành
chính, kinh tế, giáo dục và pháp luật. Ngoài ra, ông đã mở mang bờ cõi Đại Việt
bằng cách đánh chiếm kinh đô của vương quốc Chiêm Thành (năm 1471), sáp nhập một
phần lãnh thổ Chiêm Thành vào Đại Việt; đồng thời có cuộc hành quân về phía Tây
đất nước (năm 1479). Thụy hiệu do người kế vị ông, Lê Hiến Tông truy tôn là
Sùng thiên Quảng vận Cao minh Quang chính Chí đức Đại công Thánh văn Thần vũ Đạt
hiếu Thuần hoàng đế.
Lên nắm triều chính, Lê Thánh Tông nhanh chóng chấm dứt tình
trạng chia rẽ của triều đình. Ông làm việc không biết mệt mỏi, làm gương cho
các quan lại. Lê Thánh Tông khẩn trương tổ chức củng cố và xây dựng nền hành
chính Đại Việt mạnh mẽ, táo bạo. Ở Văn Miếu Quốc Tử Giám, Trường đại học đầu
tiên của xã hội phong kiến Việt Nam, trên một tấm bia đá có ghi một danh sĩ nổi
tiếng thời nhà Lê, đó là Thân Nhân Trung, người quê Việt Yên, Bắc Giang.
Ông có sớ dâng vua chiêu nạp hiền tài và cho rằng hiền tài là
nguyên khí quốc gia. Sự kiện này được khắc trên bia đá dựng thời Lê Thánh Tông.
Điều này nói lên rằng, ông là người rất trọng dụng nhân tài và thực tế dưới thời
trị vì của ông, những người tài thường được trọng dụng và đã cùng ông đoàn kết
xây dựng một Đại Việt trong yên vui, ngoài yên ổn, dân chúng rất mến mộ vị
Hoàng đế của mình.
Lê Thánh Tông bắt đầu cho phép tôn vinh việc học bằng các cuộc
lễ xướng danh (lễ đọc tên người thi đậu), lễ vinh quy bái tổ (lễ đón rước người
thi đậu về làng) và nhất là lệ khắc tên và lý lịch tiến sĩ vào bia đá Văn Miếu
(bắt đầu từ 1442). Vì thế khuyến kích mọi tầng lớp cư dân đua nhau học hành để
tên tuổi được ghi vào bảng vàng, để gia môn được vinh dự và để làng quê được
vinh hiển. Với sự yêu mến nhân tài đó, vua Lê Thánh Tông đã tin dùng cả những
người đàn bà có tài vào việc hệ trọng của đất nước cũng như việc của hoàng gia,
nhưng chính vì tin dùng cả hiền tài là phái nữ nên mới xảy ra việc nhiều người
cho rằng ông trọng dụng cả nữ tài danh là do vì tình chứ không phải vì mến tài
thực của họ?
Người đàn bà bí mật của vị vua anh minh
Người con gái được vua Lê Thánh Tông ưu ái tên đầy đủ là Ngô
Chi Lan, bà còn có tên là Nguyễn Hạ Huệ, tự là Quỳnh Hương, là người làng Phù Lỗ,
huyện Kim Hoa, trấn Kinh Bắc (nay là huyện Sóc Sơn, Hà Nội). Sử sách chép, bà
Ngô Chi Lan rất đẹp, lại giỏi thi ca, từ khúc. Bà là vợ của Đông các Đại học sĩ
Phù Thúc Hoành, là cháu gái ruột của Thứ phi Ngô Thị Ngọc Dao.
Khi Thái tử Tư Thành, con trai của bà Ngọc Dao lên ngôi vua,
bắt đầu triều đại Lê Thánh Tông (1460 -1497), thì Ngô Chi Lan thường vào cung
bái kiến cô mình. Cũng như nhiều cung cấm các triều, vua Lê Thánh Tông cho tuyển
những trí thức phụ nữ vào cung làm chức học sĩ để dạy dỗ các cung nữ. Thế là bà
Ngô Chi Lan được tuyển chọn, thậm chí nhà vua còn cho hầu nghiên bút và dự nhiều
cuộc xướng họa thơ văn. Theo sử sách, bà không những được Thái hậu Ngọc Dao vô
cùng yêu chiều, mà vua Lê Thánh Tông cũng rất đỗi mến mộ.
Tương truyền, có lần nhà vua đi dạo, dừng chân thưởng ngoạn tại
Thanh Dương Môn, chợt thấy làn mây biếc là đà trên mái điện bèn sai quan thị họ
Nguyễn làm từ vịnh cảnh. Khi từ khúc “Uyên ương” dâng lên, nhà vua không vừa ý
và truyền ngay nữ học sĩ họ Ngô làm bài khác. Ngô Chi Lan vâng mệnh, thảo luôn
một chương, trong đó có hai câu kết rất đắc vị: “Điện ngọc ngói mời mây biếc phủ
/Cẩm Giang sóng lụa sắc hồng dâng”. Nghe xong, nhà vua lấy làm hài lòng, khen
tài văn hay chữ tốt của bà và ban hiệu là Phù gia nữ học sĩ (họ của chồng bà).
Kể từ buổi đó, tên tuổi của Phù gia nữ học sĩ Ngô Chi Lan
ngày càng vang dội khắp kinh kỳ. Nhiều tao nhân mặc khách vô cùng kính nể,
nhưng cũng không ít kẻ tiểu nhân ganh ghét, đố kỵ. Và có lẽ vì thế, bà bỗng… vướng
phải thị phi. Người ta đồn rằng, một ông vua trẻ có tâm hồn thi sĩ Lê Thánh
Tông gần gũi với người đẹp tài hoa Ngô Chi Lan - có lẽ không ít lần cái nghĩa
vua tôi đã xảy ra trong “màn loan giường ngự”. Cụ thể, dân gian đã loan truyền
một câu thơ rất kín đáo, mà cũng rất sỗ sàng: “Quân vương muốn được khuây buồn
nản/ Hãy gọi Kim Hoa học sĩ vào”. Điều này nghĩa là khi vua thấy thiếu thốn thế
nào, thì phải gọi bà học sĩ vào trò chuyện…
Không dừng ở đó, dư luận còn có câu “ác” hơn: “Lầu rồng, thơ
cạn, tiệc tàn/ Năm canh bảnh mắt còn khan giấc nồng”. Năm canh là suốt đêm; bảnh
mắt là gần sáng thì mở mắt ra, nhưng vẫn “khan giấc nồng” - còn muốn ôm nhau ngủ
nữa. Vậy, nữ học sĩ Ngô Chi Lan có phải là người đàn bà bí mật của Vua Lê Thánh
Tông hay không? Nhiều sử gia thời đó cho rằng, những vần thơ vô danh bội nhọ
trên thực chất là có ý châm chọc và xuyên tạc về phẩm hạnh của Phù gia nữ học
sĩ.
Tiến sĩ Thái Thuận, phó súy Tao đàn Nhị thập bát tú và là tác
giả của tập thơ Lữ Đường, đã lên tiếng khuyên giải bà: “Nào phải một mình phu
nhân mới bị khốn vì ngòi bút trào lộng của những kẻ ác mà các bậc trinh liệt
xưa nay đã thường bị những lời thơ khinh bạc trây bẩn, song nước Ngân Hà dễ gì
khuấy cho nhơ, nên nữ học sĩ cũng chẳng cần bận tâm làm gì”.
Được người đời tôn thờ
Tuy nhiên, những tin đồn đó đã làm cho nữ sĩ Chi Lan vô cùng
buồn rầu. Có lúc, bà đã mượn giấc mộng để thổ lộ tâm tư tình cảm của mình với mọi
người trong nội cung: “Bấy nay tôi chầu hầu Thuận đế, thi phụng tôn vương.
Nghĩa cả là vua tôi, song vẫn còn tình thâm đồng tộc, lại vốn Ngô gia phép tắc;
Phù gia trọng đạo”. Thế mà lẽ nào trong giới thi văn lại có hạng đơn bạc, đặt
giọng quàng xiên, tệ hại cho đành? Bách khoa toàn thư mở viết: Theo “Cuộc nói
chuyện thơ ở Kim Hoa” của Nguyễn Dữ, năm ngoài 40 tuổi, bà Ngô Chi Lan mất,
táng ở cánh bãi Tây Nguyên. GS. Trịnh Vân Thanh ghi Phù gia nữ học sĩ mất năm
41 tuổi, còn Ngô Văn Học chép bà mất ở tuổi ngoài 50. Sử liệu lại ghi, Vua Lê
Thánh Tông mất ở tuổi 55. Nếu bà sinh trước vị vua này và bài thơ “Điếu vua Lê
Thánh Tông” cũng đúng là của bà, tức bà mất sau vua Lê, thì thông tin của Ngô
Văn Học là phù hợp hơn cả.
Để tỏ lòng tiếc thương và ngưỡng mộ bà, nhân dân Phù Lỗ đã dựng
đền thờ với tên đề Kim Hoa nữ học sĩ. Ngôi đền đó hiện nay được đặt ngay trên nền
nhà ở ngày xưa của gia đình bà.
Thành Văn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét