Sơn La có nghĩa là vùng đất bắt
nguồn từ con suối trên núi. Cùng với thời gian, con suối ấy vẫn đang tuôn trào
bao bọc 12 dân tộc anh em, tạo thành sức mạnh, tỏa sáng như viên ngọc giữa đất
trời Tây Bắc.
Sơn La - vẻ đẹp hoang sơ, thuần khiết đầy quyến rũ.
Sơn La - vẻ đẹp hoang sơ, thuần khiết đầy quyến rũ.
Vùng đất Sơn La có vẻ đẹp hoang sơ thuần
khiết của rừng, của núi, của những dòng suối nước trong veo, của những thắng
cảnh thiên nhiên hùng vĩ, và cả tấm lòng chân chất, hiếu khách của người dân
bản xứ. Mùa xuân về, hoa ban nở trắng càng tô thêm vẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc
trong những cuộc hành trình về với Sơn La.
Đến Sơn La để ngắm nhìn những cảnh
đẹp hùng vĩ mà nên thơ như Hang Dơi, Thác Dải Yếm, hang Trâu… và để tận hưởng
không khí trong lành của vùng khí hậu tiểu ôn đới đang quyện hòa cùng hương chè
ngan ngát.
Thác Dải Yếm
Hang Thẳm Ké (hang Trâu) dài chừng
1km với 2 cửa hang thông ngang 2 sườn núi. Đây từng là kho chứa vũ khí lớn nhất
mà chúng ta tìm được ở Tây Bắc sau khi thực dân Pháp thua trận ở Điện Biên. Hang
bia Quế Lâm Ngự Chế - nơi ghi dấu bút tích của Vua Lê Thái Tông năm 1440 với
bài thơ được khắc trên vòm hang vách đá thẳng đứng. Dưới lòng hang rộng là rất
nhiều thạch nhũ từ vòm hang buông xuống.
Thác nước Bản Vặt, một địa danh gắn liền
với lịch sử cư trú rừ rất xa xưa của tộc người Thái ở vùng đất Mường Sang xưa,
Mộc Châu ngày nay.Có thể nói đây là một cảnh quan sinh thái tuyệt đẹp được
thiên nhiên ban tặng cho chủ nhân vùng đất này. Ngoài tên gọi dân dã trên, thác
nước này còn có tên gọi khác như thác Nàng, thác Dải Yếm, nhằm ví vẻ đẹp của
thác nước như xuân sắc của người con gái tuổi trăng tròn.…
Đó là những thắng cảnh kỳ vĩ do thiên
nhiên và con người kiến tạo, là một phần không thể thiếu của vùng rừng
núi Tây Bắc Sơn La.
Vùng đất văn hóa giàu hương sắc
Đến với Sơn La, bạn không chỉ được ngắm
nhìn một vùng núi non hùng vĩ mà còn được khám phá về giá trị văn hóa đặc
sắc của các dân tộc vùng Tây Bắc: những vòng xòe cuốn hút, rượu cần ngây ngất
men say, ánh lửa bập bùng và giọng hát ngọt ngào của các thiếu nữ miền sơn
cước….
Sơn La là nơi hội tụ sinh sống lâu đời
của 12 dân tộc anh em: Thái, Mông, Dao, Kinh, Mường, Khơ Mú, Kháng, La ha, Xinh
Mun, Lào, Hoa, Tày. Giữa cái rất riêng của 12 dân tộc ấy là những nét rất
chung, đó là sự giao hòa giữa các nền văn hóa:
Di tích lịch sử, văn hoá và khảo cổ
Vùng đất Sơn La hiện còn lưu giữ hơn 100
di tích lịch sử văn hóa và di chỉ khảo cổ, trong đó có chín di tích đã được xếp
hạng cấp quốc gia. Ngoài những chứng tích từ thời kỳ Lê sơ cho đến các di tích
của một thời oanh liệt chống thực dân Pháp, các nhà khảo cổ còn phát hiện nhiều
dấu vết của người Việt cổ và thu được nhiều công cụ sản xuất, săn bắt của người
tiền sử.
Những di tích, dấu tích trên Hang Bia,
Quế Lâm Nghị Chế, với bài thơ khắc của vua Lê Thái Tông đã khẳng định lịch sử,
truyền thống hàng nghìn năm trước của mảnh đất này. Nhà tù Sơn La và cây đào Tô
Hiệu vẫn còn đó, là một minh chứng về những tội ác của giặc Pháp và tinh thần
bất khuất, anh hùng của các chiến sĩ cách mạng Việt Nam đấu tranh giành độc lập
dân tộc. Hàng nghìn cán bộ cách mạng từng bị giam cầm và có tới gần 200 đồng
chí lãnh đạo các cấp của VN đã trưởng thành từ đó.
Cây Đào Tô Hiệu
Bảo tàng Sơn La lưu giữ những nét văn
hóa đặc sắc của 14 dân tộc anh em sống ở Sơn La với hàng trăm di vật từ thời kỳ
tiền sử, sơ sử được tìm thấy tại địa phương. Gần 1.000 bản sách được ghi chép
bằng chữ Thái cổ ở nhiều thể loại (sử thi, trường ca, truyện thơ dân gian...)
và nhiều vật dụng cầm tay bằng đá, sắt, hay trống đồng có niên đại nhiều
nghìn năm, được tìm thấy trong các hang động và di chỉ ở Chiềng Ơn, Pắc Ma,
Mường Chiên và khắp vùng lòng hồ sông Đà đang được bảo quản và trưng bày tại
đây.
Đồn mộc lỵ huyện Mộc Châu, một địa
danh đã đi vào lịch sử cuộc kháng chiến chống Thực Dân Pháp của quân và dân Mộc
Châu, Son La. Đồn được Thực Dân Pháp xây dựng năm 1947, năm 1951 được tăng
cường lực lượng, vũ khí và mở rộng qui mô để cai trị, đàn áp nhân dân các dân
tộc huyện Mộc Châu, khống chế quốc lộ 6 và quốc lộ 43 sang Hủa Phăn (Lào). Trong
chiến dịch Tây Bắc, đêm 19/11/1952, trung đoàn 174, sư đoàn 3, đại đoàn 316 tấn
công tiêu diệt Đồn Mộc Lỵ 53 chiến sĩ đã hy sinh trong trận đánh lịch sử này.
Đền thờ Vua Lê Thái Tông mang dáng dấp
kiến trúc Đền cổ Việt Nam với các hoạ tiết mang đậm nét tâm linh của dân tộc,
được khởi công tháng 9/2001, khánh thành 22/01/2003 để ghi nhớ công đức của nhà
Vua, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân địa phương.
Di tích lịch sử Tập đoàn cứ điểm Nà Sản,
nơi đánh dấu 5 trận đánh lớn nhất của quân và dân ta vào một căn cứ quân sự
mạnh về hoả lực, đông về lực lượng của Pháp. Di tích đã đi vào lịch sử quân sự
cách mạng Việt Nam, là bước tập dượt cho cuộc tấn công Tập đoàn cứ điểm Điện
Biên Phủ ; Kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp.
Lễ hội truyền thống
Phong tục tập quán và lễ hội truyền
thống ở Sơn là mang nét đặc trưng riêng biệt của từng dân tộc. Nhiều lễ hội
truyền thống đặc sắc của 12 dân tộc sinh sống tại Sơn La đang được gìn giữ,
phát huy, tiêu biểu như các lệ hội: Vào mùa, Hoa Ban, Cầu mưa của dân tộc Thái;
Pang A Nụn Pan của dân tộc La Ha; Mương A Ma của dân tộc Xinh Mun; Xênh Pang Ả
của dân tộc Kháng…
Như lễ hội Xen Pang Ả dân tộc Kháng được
tổ chức với quy mô một vùng rộng lớn, gồm nhiều bản, và cứ 2 hay 3 năm được tổ
chức một lần vào khoảng từ tháng 10 tới tháng 12. Lễ hội được tổ chức với mục
đích mời các "ma nhà", "ma bản", "ma trời" hưởng
lễ vật và những người được Pa Ả chữa cho khỏi bệnh (được coi là con nuôi) đến
dâng lễ, tạ ơn, đồng thời để Pa Ả cầu chúc cho hồn vía các con nuôi lành mạnh,
không hay ốm đau, làm ăn phát tài. Lễ hội Xen Pang Ả ngoài phần lễ cúng cầu
xin, còn là nơi nhân dân diễn lại các công việc nương rẫy, thu hái lâm sản
trong đời sống thường nhật, thông qua các trò diễn; chơi các trò chơi dân gian;
hát đối đáp giao duyên; múa ống, múa khăn.
Đây là dịp để mọi người tạ ơn tổ tiên và
các thế lực siêu nhiên đã giúp đỡ cho họ có sức khỏe, bản mường yên bình, no
ấm. Đặc biệt lễ hội còn là dịp để lớp thanh niên chưa vợ chưa chồng tìm hiểu,
hẹn hò nên vợ thành chồng, bởi vậy lễ hội Xen Pang Ả còn có ý nghĩa trong việc
tái tạo cộng đồng dân tộc.
Hay lễ hội Mương A Ma dân tộc Xinh Mun
thường từ 3- 5 năm tổ chức một lần. Người đứng ra tổ chức, chủ trì lễ hội là
những người làm thầy mo trong bản. Lễ hội diễn ra trong 2 ngày, vào khoảng thời
gian từ tháng 12 đến tháng 2 âm lịch, khi mùa màng đã thu hoạch xong và năm đó
được mùa, lúa ngô đầy nhà và nuôi được nhiều gà, lợn…Lễ hội Mương A Ma được tổ
chức trong phạm vi gia đình, nhưng lực lượng tham gia làm công việc chuẩn bị lễ
vật, cỗ bàn và đặc biệt là lực lượng tham gia phần hội thì bao gồm cả bản, từ
các ông, bà già, thanh niên nam nữ và cả trẻ nhỏ, mọi người đều tham dự lễ hội
với tinh thần tự giác, hăng say và nhiệt tình. Lễ hội Mương A Ma là một
nét văn hóa tiêu biểu, đặc sắc nhất của đồng bào dân tộc Xinh Mun, là một hình
thức sinh hoạt văn hóa tập thể lành mạnh, góp phần tích cực vào việc vun đắp
tình đoàn kết cộng đồng, giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn, tạo ra bầu
không khí vui tươi phấn khởi, hướng người dân theo những cái thiện, xa rời cái
xấu.
Có thể nói, lễ hội dân gian truyền thống
chính là tiếng nói thể hiện ước muốn vươn tới những điều tốt đẹp của đồng bào
các dân tộc Sơn La, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa các dân tộc
Việt Nam.
Văn hóa ẩm thực
Ở Sơn La, những món ăn đặc sản từ cây
rừng, từ ao vườn, ruộng đồng, được chế biến bởi những bàn tay khéo léo của
người con gái bản đảm đang thành những món ăn ngon khó quên.
Cơm lam
Cơm lam vẫn thấy trong các tiệc tùng lễ
hội của nhiều dân tộc trên núi rừng Sơn La. Nhưng với người Thái, nó còn có
trong từng bữa ăn thường ngày. Cũng là từ hạt nếp nương, nhưng cơm lam là loại
cơm đặc biệt ngon vì nó không được nấu theo cách thức thông thường mà được
nướng trên rừng rực than củi trong những ống nứa. Gạo nếp ngâm ủ qua đêm được
cho vào từng ống nứa non, một loại tre rừng đặc biệt có lớp vỏ lụa mỏng bên
trong lòng đốt, thêm nước vừa đủ và nút lại bằng lá chuối khô rồi đưa lên bếp
đốt cho đến khi vỏ ống tre cháy sém. Sau đó chẻ tách phần cật nứa chỉ còn lại
lớp lụa mỏng bó chặt từng cây cơm trắng nõn nà. Trên lớp vỏ lụa trắng mỏng ấy
có thoáng chút mặn, chút hương của rừng và của khói làm cho miếng cơm dẻo thật
sự thăng hoa. Ăn cơm lam, ngoài muối vừng, không thể thiếu một loại thức chấm
có tên là chẩm chéo. Chẩm Chéo được chế biến từ muối, ớt tươi nướng, hành, rau
mùi…, đặc biệt không thể thiếu loại trái rừng có tên là mắc khén, tất cả được
đâm nhuyễn. Không có mắc khén không làm ra chẩm chéo, không có chẩm chéo không
thành bữa cơm lam. Cơm lam Sơn La thường được bán vào mùa đông. Vì loại ống nứa
để nướng cơm lam mùa này mới có. Để thưởng thức được một ống cơm lam.
Hay như món cháo “Mắc nhung” mang hương
vị đặc trưng của núi rừng. Sau mùa gặt, quả mắc nhung gieo vãi trên nương bắt
đầu chín mọng, bà con hái đem về rửa sạch, thêm gừng xả, trộn với gạo tấm, tưới
ít nước đủ chín, túm vào lá chuối buộc chặt vùi trong tro bếp nóng, hoặc đồ xôi
như món “Mọ gà” của đồng bào dân tộc Thái, chỉ 30 phút sau sẽ có ngay một món
ăn sền sệt, ngăm ngăm đắng, thơm cay là lạ đầy hấp dẫn và chấm với xôi rất hợp
khẩu vị, Ngày nay, cháo “Mắc nhung” đã trở thành món ăn đặc sản được mọi người
ưa chuộng.
Để có món cháo Mắc nhung (tiếng Mường gọi là quả ngố), người chế biến phải biết chọn loại tẻ thơm, nếu được tấm đầu vụ gặt non (như cốm) thì càng tốt. Dùng thịt sương sườn lợn nướng khô hay hun khói, băm nhỏ nấu nhuyễn với cháo tấm. Khi cháo chín tới cho quả Mắc nhung vào, đập thâm củ gừng, ở nướng và xả cả củ bỏ vào đáy nồi cháo, khuấy đều. Vài phút sau, đã có ngay món cháo "Mắc nhung" đặc sản thơm nồng, đặc sánh.
Để có món cháo Mắc nhung (tiếng Mường gọi là quả ngố), người chế biến phải biết chọn loại tẻ thơm, nếu được tấm đầu vụ gặt non (như cốm) thì càng tốt. Dùng thịt sương sườn lợn nướng khô hay hun khói, băm nhỏ nấu nhuyễn với cháo tấm. Khi cháo chín tới cho quả Mắc nhung vào, đập thâm củ gừng, ở nướng và xả cả củ bỏ vào đáy nồi cháo, khuấy đều. Vài phút sau, đã có ngay món cháo "Mắc nhung" đặc sản thơm nồng, đặc sánh.
Các món ăn ngày tết của các dân tộc ở
Sơn La cũng là một nét văn hóa ẩm thực gây ấn tượng sâu sắc đối với những ai đã
từng đặt chân đến đây. Một số dân tộc ở Sơn La từ xưa đã có lệ vào mùa măng
(nhất là măng tre, vầu, bương. lay) là làm các loại măng giành cho tết.. Măng
chua: Chủ yếu dùng măng vầu, bương thái nhỏ hoặc giã cho vào hũ ủ lên men, càng
để lâu càng chua. Măng chua chủ yếu để xào với các loại lòng lợn, gà và xào với
thịt mỡ ăn đỡ ngấy. Măng héo: (Nó héo): Bà con Thái Trắng, đồng bào Mông ở Mộc
Châu, Bắc Yên thường hay làm loại măng này. Măng héo làm từ măng chua. Măng
chua vắt kiệt nước phơi nhiều ngày cho khô quắt lại, đem đồ xôi, rồi lại phơi
thật khô, sau đó cho vào ống hay gói lá khô để dùng dần.
Nó héo là một đặc sản. Một cân Nó héo
tốn hàng hũ măng chua và dùng được nhiều lần. Món lòng xào chỉ cần cho một nắm
"Nó héo", sẽ có vị chua ngon và rất thơm. Món canh ULR (còn gọi là
lom nhọk): Ngày lễ – tết của người Khơ Mú không thể thiếu được món canh ULR ,
ULR được chế biến từ các loại thịt chuột, chim, sóc sấy khô băm nhỏ trộn với
hoa chuối, các loại rau thơm, ớt chỉ thiên (cá quả), mắc khén, bột gạo nếp cho
vào ống tre, bương bánh tẻ, đổ nước vào đem đốt (như đốt cơm lam). Khi sôi lấy
que tre vót nhọn sọc liên tục đến lúc nào nhuyễn thì thôi. Khi đổ ra bát nó sền
sệt, sánh dùng xôi nếp nắm chấm quệt ăn rất thơm và ngon.
Món mọk: Món mọk này người Thái, Mường,
Khơ Mú…đều hay làm nhưng mỗi dân tộc làm một kiểu khác nhau, ngon nhất vẫn là
mọk của người Khơ Mú. Mọk được chế biến từ thịt gà (nếu gà to chỉ lấy cổ, cánh,
bộ lòng mề là đủ) băm nhỏ, ớt khô, mắc khén giã nhỏ, củ sả thái nhỏ, bột gạo
nếp trộn với nhau cho vào lá chuối túm lại bỏ vào chõ xôi sôi lên. Khi chín
cũng nhuyễn, sánh sền sệt như món canh ULR.
Bạn hãy thử một lần lên Tây Bắc,
đến với Sơn La, vào một đêm lạnh dịu ngồi quanh bếp lửa, nhâm nhi rượu
cần nồng nàn, ăn một miếng cơm lam, hay một bát cháo Mắc nhung ngọt ngào... thì
mới cảm nhận hết được hương vị núi rừng của nền văn hoá ẩm thực nơi đây.
Nét đặc sắc của những làn điệu dân ca và
những điệu múa say đắm lòng người
Nếu như hoa ban - hoa đào - hoa ''bó
mạ''... là biểu tượng của các dân tộc ở Sơn La, thì những điệu múa của họ cũng
làm nên một vườn hoa muôn sắc và ngát hương, mang bản sắc văn hoá độc đáo, vẻ
đẹp tâm hồn trong sáng và thấm đẫm tình người...
Sơn La - thủ phủ trước đây của Khu tự
trị Tây Bắc - một miền quê được mệnh danh là xứ sở Hoa Ban nổi tiếng với những
làn điệu dân ca say đắm lòng người, và đặc biệt là những điệu múa vừa dịu dàng
tha thiết, vừa rộn ràng, sôi nổi…
Điệu múa “nhảy khèn” của các chàng trai
H’Mông thật độc đáo và hấp dẫn. Trong tiếng khèn lá dập dìu của các cô gái, các
chàng trai cất lên tiếng khèn dập dìu, dồn dập… kèm theo những động tác múa thể
hiện tài năng, sự khéo léo và cả sức dẻo dai: vừa thổi khèn liên tục, vừa quay
tít nhiều vòng hoặc nhảy nhanh với những động tác chân phức tạp, có lúc lại lăn
tròn dưới đất mà điệu khèn vẫn không dứt tiếng… Các nghệ nhân kể rằng: trước
đây, trai tráng H’Mông còn thi tài quay trên lá chuối mà lá chuối không rách,
quay trên đầu ba chiếc cọc gỗ nhỏ mà không ngã, thậm chí còn ly kỳ hơn: quay
trên miếng ván bắc qua chảo nước nóng… Điểm độc đáo có một không hai của “nhảy
khèn” là các động tác múa đều mang tính ngẫu hứng rất cao với sự sáng tạo phong
phú đến bất ngờ của từng cá thể.
Ngày xưa các cô gái H‘Mông không có múa,
nhưng ngày nay, từ giao thoa văn hóa và sức cuốn của phong trào các cô gái cũng
múa chẳng kém con trai; phổ biến nhất là điệu múa ô nổi tiếng: những chiếc ô
màu sắc rực rỡ cứ xoay tròn, lên cao, xuống thấp, quấn quýt ôm lấy thân hình
con gái tạo nên vẻ đẹp uyển chuyển và sinh động.
Đến với đồng bào Dao để thưởng
thức điệu múa Chuông. Những chiếc chuông được lắc mạnh tạo thành nhịp đều đặn,
những sợi tua màu được tung lên, hạ xuống, lượn tròn thật nhịp nhàng, sinh động
và đẹp mắt. Xem múa Chuông, ta có cảm giác như những chùm tua màu tung tăng,
nhảy nhót giữa không gian cùng tiếng chuông thôi thúc... như lòng người háo
hức, hân hoan. Xem múa Chuông, người am hiểu nghệ thuật cũng phải thán phục vì
người Dao Tiền đã tạo nên tiết tấu múa bằng nhịp 5/4 và nhịp 7/4 - đó là loại
nhịp ''phức'' của âm nhạc hiện đại. Độc đáo hơn, từng loại nhịp (5/4 hoặc 7/4)
lại không kéo dài mà thường đan cài với nhau thành từng cụm: cứ hai nhịp 5/4
lại đến một nhịp 7/4 và thỉnh thoảng lại xen vào một số nhịp 4/4 mở đầu cho các
đoạn múa lớn.
Xòe vòng là hình thức múa cộng đồng của
dân tộc Thái. Từ xưa đến nay, xòe vòng của dân tộc Thái luôn có sức hấp
dẫn đặc biệt. Mỗi khi âm thanh trầm bổng, nhịp điệu của trống xòe nổi lên lại
thôi thúc mọi người đến với vòng xòe. Trong tiếng trống, tiếng chiêng, mọi
người xích lại gần nhau, quây quần bên nhau, vui tươi, đầm ấm. Một vài
chục người thì làm một vòng xòe, dăm bảy trăm người trở lên có thể chia ra
nhiều vòng hay xếp vòng trong, vòng ngoài, nhiều nơi còn chia vòng theo lứa
tuổi. Tay trong tay, vai kề vai, chân người nọ dịch bước theo chân người kia
trong không khí, tình cảm say sưa, đầm ấm của vòng xòe, đêm xòe. Động tác, đội
hình xòe đều rất giản dị, các tạo hình và động tác, tính chất nhịp nhàng của độ
nhún, bước đi của vòng xòe rất gần gũi với nhiều động tác hoạt động của con
người trong lao động và sinh hoạt hàng ngày. Nhịp xòe nhẹ nhàng uyển chuyển,
nhưng đôi khi do không khí cuộc vui thôi thúc, mọi người vỗ tay, nhảy lên, hú
lên rất náo nhiệt. Cũng có những động tác như người trực tiếp xòe, người đánh
trống, đánh chiêng rất uyển chuyển, lúc mạnh, lúc nhẹ và có sức lôi cuốn mạnh
mẽ.
Mang trong lòng ấn tượng về vòng Xòe và
âm thanh của trống cồng... chúng ta lại đến với tiếng ''Cống tốp''
- một loại trống độc đáo của đồng bào Kh'Mú.
Khác với chiếc trống lớn được đánh bằng
dùi trong những lễ hội lớn: Tiếng ''cống tốp''- (một loại trống nhỡ, vỗ bằng
tay vào hai mặt trống) là tiếng trống đầm ấm của trai gái tộc người Kh' Mú. Bất
cứ ở đâu, dù trong đêm trăng sáng hay bên ánh lửa hồng, tiếng trống cứ vang lên
là con trai, con gái cùng háo hức bước chân, rạo rực nỗi lòng. Bởi trong tiếng
trống đặc biệt ấy, họ tìm được bạn tình qua vũ điệu ''nộc Dung'' (chim Công);
Một vũ điệu được cấu tạo qua con mắt thẩm mỹ rất độc đáo của người Kh' Mú từ
ngàn xưa truyền lại: Trong vũ điệu, người Kh' Mú không miêu tả vẻ đẹp lộng lẫy
bên ngoài của chim Công mà họ tái hiện những cử chỉ của chúng thành những động
tác múa sôi nổi, quyến rũ, lôi cuốn và gợi cảm... Để vũ điệu trở thành mê say
trong sự giao duyên đầy ý nhị của đầu, của vai, của mông, trong những bước chân
nhịp nhàng, lẫn và ánh trăng, hòa vào bóng núi, giữa bản mường quê hương.
Sơn La - phố núi thật giàu bản sắc. Mới
chỉ vài nét văn hóa giản đơn trong ăn mặc, ẩm thực, sinh hoạt tinh thần mà đã
ấn tượng biết bao, đã tạo thành thế mạnh vật thể và phi vật thể của vùng
sơn cước; thành lời mời gọi, thành cớ giữ chân, thành lời nhắn nhủ, ước hẹn gặp
lại với những người đã đến và cả những người chưa đến Sơn La.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét