Ngôn ngữ và giọng điệu trong
Văn chương là nghệ thuật của ngôn từ và mỗi nhà văn lớn đều
là những nghệ sĩ bậc thầy về tiếng nói. Khác với ngôn ngữ không có tính nghệ
thuật, chỉ nhằm mục đích chủ yếu là thông tin, truyền đạt một điều gì đó chính
xác, nội dung được giới hạn chặt chẽ. Ngôn ngữ nghệ thuật bao giờ cũng tìm cách
truyền các quan điểm của nghệ sĩ vào đối tượng được miêu tả, truyền vào đấy một
lối nhìn sự vật, cách nhận thức và cảm quan về thế giới của nhà văn, nói
cách khác là ngôn ngữ mang dấu ấn của cá tính và phong cách nghệ sĩ.
Xuất hiện trên văn đàn cùng thời với rất nhiều nhà văn khác,
Thạch Lam mang một dấu ấn rất riêng. Không trào lộng như Vũ Trọng Phụng, không
hài hước như Nguyễn Công Hoan, không triết lý như Nam Cao. Thạch Lam nhẹ nhàng
và tinh tế. Ngôn ngữ và giọng điệu trữ tình cũng vì thế là đặc trưng cơ bản của
truyện ngắn Thạch Lam. Mỗi truyện ngắn của ông như một bài thơ về những cuộc đời,
những thân phận nhỏ bé, côi cút và bất hạnh, gợi sự thương cảm, xót xa sâu sắc
của tình người. Giản dị mà sâu sắc, chứa chan tình nhân ái, Thạch Lam hướng người
đọc tới sự thanh cao của cái đẹp, cái thiện. Ông luôn đi sâu vào khám phá đời sống
tâm linh của nhân vật bằng một ngòi bút rất tinh tế, rất hiểu sự đời - đó là những
vẻ đẹp lẩn khuất bên trong tâm hồn con người: tình thương, sự cảm thông, lòng vị
tha giữa người với người, giữa người với vật. Thật cảm động trước tình thương
mà bọn trẻ dành cho lũ chim non trong cơn giông tố, sự sám hối bởi một phút giận
dữ đã gây bất hạnh cho một con người, sự cảm thông với số phận nghèo khổ của những
tấm lòng cao cả, những tâm hồn trong sáng, hồn nhiên của những em bé nghèo nơi
phố huyện… những con người nhỏ bé, bình thường ấy bỗng vút cao trong tác phẩm
Thạch Lam, gợi sự ám ảnh về nhân cách và tình người cao cả. Ngôn ngữ truyện ngắn
Thạch Lam là lối ngôn ngữ dư ba, có sức đọng lớn:
“…Tôi ngạc nhiên tự hỏi sao mình hãy còn là người lương thiện,
không phải là kẻ ăn cắp, cái đó cũng không khiến tôi lấy làm ngạc nhiên hơn. Mà
còn là người lương thiện, tôi tự thấy mình cũng chẳng có gì là đáng khen. Tôi
nhớ rõ lúc đó không một ý nghĩ nào về danh dự, về điều phải, điều trái ngăn cản
tôi, và khiến tôi đi vào con đường ngay, như người ta vẫn nói. Không, không có
một chút gì như thế. Cái gì đã giữ tôi lại? Tôi không biết… có lẽ chỉ có lời
nói không đâu, một cử chỉ nào đấy, về phía này hay phía kia, đã khiến tôi có ăn
cắp hay không ăn cắp. Chỉ một sợi tóc nhỏ, một chút gì đó, chia địa giới hai
bên…” (Sợi tóc)
“Bà Cả hình như không nghe thấy gì nữa. Mắt bà đờ ra như đang
theo đuổi một ước vọng xa xôi, bà đang nghĩ rằng không bao giờ bà biết được những
nỗi lo sợ ấy, bởi không bao giờ bà được bồng đứa con trên tay, nâng niu ấp ủ một
cái mầm sống trong lòng. Không bao giờ… giá bà đánh đổi tất cả của cải để lấy đứa
con…” (Đứa con).
“… Hình như có những cái lẽ tối tăm làm cho nàng sợ hãi,
không dám nhận lời. Liên lờ mờ thấy rằng nàng không đủ can dảm làm một việc như
thế, không đủ quả quyết với mình để chống lại những cái cay nghiệt gây nên xung
quanh nàng. Không phải vì nàng quyến luyến đứa con lên sáu: nàng không yêu nó
vì nó xấc láo như bố. Nhưng bỏ chồng bỏ con để lấy Tâm, để được sung sướng
riêng lấy mình nàng, Liên cho như là một sự việc không bao giờ có thể làm được.” (Một
đời người)
Thạch Lam không gân guốc, không đao to búa lớn mà luôn thâm
trầm kín đáo. Và đằng sau những dòng chữ lặng lẽ ấy là bao nhiêu những dằn vặt
của sự thức tỉnh nhân cách con người. Mỗi người ai rồi cũng sẽ có tình huống phải
lựa chọn, những phút giây chống chếnh bên bờ vực của sự sa ngã nhân cách. Nếu
không sáng suốt và bản lĩnh để chiến thắng người ta sẽ ngã, sẽ tự đánh mất
mình. Truyện ngắn Thạch Lam với những lời văn nhẹ nhàng và kín đáo, như những
khúc tâm tình giúp người ta sáng suốt để lựa chọn cho mình lối đi đẹp nhất cho
cuộc đời. Thuở sinh thời, Thạch Lam luôn tâm niệm: “Văn chương không phải
là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên…, văn chương là một
thứ khí giới thanh cao và đắc lực làm cho lòng người thêm trong sạch và phong
phú hơn.” (Theo dòng)
Văn Thạch Lam nhẹ nhàng, thủ thỉ nhưng có sức ám ảnh lớn. Là
lối truyện tâm tình, không có cốt truyện, toàn truyện không hề có hành động
phát triển xung đột mà chỉ toát lên một tâm trạng, một không khí nhưng lại rất
thực, rất đời. Truyện ngắn Thạch Lam như một tấm gương sáng mà ai soi vào đó
cũng thấy có mình, thấy ưu điểm, nhược điểm để hiểu mình hơn, hiểu người hơn, để
cảm thông hơn và sống đẹp hơn.
“… Tôi rùng mình nghĩ đến số phận của anh xe khốn nạn. Ba đồng
bạc phạt! Anh ta sẽ phải vay trả cai xe để nộp phạt; nhưng ba đồng bạc nợ ấy,
bao giờ anh mới trả xong, sau những ngày nhịn đói, bị cai xe hành hạ đánh đập
vì thù hằn?
Tôi càng nghĩ đến bao nhiêu càng khinh bỉ tôi bấy nhiêu. Qua
ô Yên Phụ, nhìn thấy những thợ thuyền tấp nập làm việc dưới ánh đèn trong những
căn nhà lá lụp xụp, tôi rảo bước đi mau, hình như trông thấy tôi họ sẽ biết cái
hành vi khốn nạn và nhỏ nhen đáng khinh bỉ của tôi ban nãy… sự hối hận thấm
thía vào lòng tôi…” (Một cơn giận).
Thạch Lam là vậy đó, luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu,
hiểu lòng mình để hiểu về người khác. Ông đã đặt mình vào vị trí nhân vật để
nói lên cảm nghĩ về số phận những kiếp người nhỏ bé trong xã hội và để từ đó
toát lên sự cảm thông sâu sắc với những cảnh đời nghiệt ngã, khổ đau. Thạch Lam
đã từng nói: “Nhà văn cốt nhất phải đi sâu vào tâm hồn mình, tìm thấy những
tính tình và cảm giác thành thực; tức tìm thấy tâm hồn của mọi người qua tâm hồn
của chính mình, đi đến chỗ bất tử mà không tự biết và qua tâm hồn ta, chúng ta
có thể đoán biết được tâm hồn mọi người. Và chỉ khi nào chúng ta hiểu biết được
những trạng thái tâm lý người ngoài.” Cái hiện thực nhà văn quan tâm bậc
nhất là hiện thực tâm trạng, là lối nghĩ, lối cảm ẩn khuất bên trong mỗi con
người và nhà văn dùng nó để khám phá thế giới. Cảm xúc tâm trạng của nhà
văn bao giờ cũng xuất phát từ thế giới hiện thực, nhưng được biểu hiện qua bút
pháp lãng mạn, làm cho Thạch Lam vừa gần gũi với các nhà hiện thực, vừa mang
vóc dáng lãng mạn, trữ tình.
Là một thành viên của Tự lực văn đoàn, Thạch Lam có ảnh hưởng
của trường phái lãng mạn. Song trong cái lãng mạn của Thạch Lam có vẻ tươi sáng
của ngày mai tốt đẹp hơn ngày hôm nay, nó thức tỉnh trong sâu thẳm con người một
chút mơ mộng, một niềm vui sống. Giọng văn Thạch Lam có sức sôi cuốn kỳ diệu là
vì vậy. Càng đọc càng say, càng đọc càng bị cuốn hút. Nó như kiểu “lạt mềm buộc
chặt”, càng đi sâu vào người đọc càng không thể dứt ra. Chất giọng ấy đã diễn tả
một cách tinh tế những cung bậc tình cảm của con người. Một nỗi buồn khe khẽ,
vơ vẩn, mơ hồ của một cô bé trong cảnh chiều tàn nơi phố huyện.
“Chiều. Chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch
nhái kêu ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã
bắt đầu vo ve. Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen: đôi mắt chị bóng tối
ngập đầy dần vào cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của
chị; Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của
ngày tàn.” (Hai đứa trẻ)
Sự xúc động khi nhìn thấy người em gái xưa: “… Một sự
bâng khuâng nhẹ nhàng dìu tâm hồn người đến những tình cảm man mác, tôi bỗng thấy
cả người xúc động vì nhận ra trong bọn người lác đác ở bến một cái xe đỗ vội,
và trên xe bước xuống một người con gái ngơ ngác nhìn về phía tôi.” (Tình
xưa)
Tất cả đều thật kín đáo, dịu dàng và tinh tế biết bao. Cuộc sống
phong phú và đa dạng sẽ phải có những khoảnh khắc buồn, những thoáng vui, những
phút giây cảm động và tiếc nuối về một cái gì đó, về một ai đó. Những xúc cảm
thầm kín, những khoảnh khắc đẹp ấy luôn lẩn khuất trong tâm hồn con người mà
không phải ai cũng thấy, cũng cảm nhận được. Phải rất tinh tế và nhạy cảm Thạch
Lam mới chộp được những phút giây rung động thẳm sâu trong đời sống tâm linh ấy
của nhân vật, ghi lại được những thoáng chốc, những lát cắt tâm trạng nhân vật
trong sự tương tranh giữa không gian, ngoại cảnh và lòng người. Ngôn ngữ văn
xuôi Thạch Lam có sức lay động và ám ảnh là vì thế.
Là một nhân vật yêu cái đẹp, luôn đi tìm cái đẹp nhưng khác với
những nhà văn lãng mạn đương thời tìm kiếm cái đẹp trong cõi mộng thần tiên, Thạch
Lam tìm về những cái đẹp của đời thường, của những tâm hồn bình dị, mộc mạc mà
tinh tế. Ông như một nghệ sĩ tâm huyết mải miết đi tìm những hạt ngọc đẹp đang
lẩn khuất đâu đây giữa cõi đời thường. Đó là những hạt ngọc ẩn chứa trong tâm hồn
con người. Lòng thương yêu đồng loại của những đứa trẻ hồn hậu trong Gió lạnh
đầu mùa và cơ sở của tình nhân ái đó bắt nguồn từ một gia phong đẹp, lòng
nhân hậu của người mẹ đã nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ. Lòng thương yêu loài vật,
những tiếng kêu thảm thiết của lũ chim non trong cơn giông tố đã lay động tình
thương trong lòng bọn trẻ, đã làm cho chúng phải lo lắng, phải thao thức trước
những sinh linh nhỏ bé đang bị dập vùi. Là sự sám hối của con người trước tội lỗi,
trong cõi đời này ai trong chúng ta cũng ít nhất một lần có lỗi. Nhận ra lỗi lầm
để rồi sám hối là rất khó, xin lỗi và sửa lỗi lại càng khó hơn nhiều. Nhưng
Thanh của Thạch Lam đã làm được điều đó. “Những ngày hôm sau thực sự là những
ngày khổ sở của tôi. Lòng hối hận không để tôi yên. Hình như có một cái gì nặng
nề đè nén trên ngực làm cho tôi khó thở và lúc nào hình ảnh anh phu xe cũng hiện
ra trước mắt.
Tôi nhất định đem tiền đến cho người xe kia để chuộc lỗi của
mình….” Cho dù đã muộn nhưng thật đáng quý, đáng trân trọng. Một tâm hồn
dũng cảm và đầy tình người.
Thạch Lam là người luôn chắt chiu cái đẹp, không chỉ là cái đẹp
của hồn người mà còn là cái đẹp của truyền thống, của quá khứ đã qua. Cuộc sống
như một dòng sông luôn chảy về phía trước. Và con người, dù rất yêu quá khứ
cũng không thể giữ nó mãi bên mình. Nhưng nếu có một trái tim nhạy cảm và một
tâm hồn tinh tế, ta có thể lưu giữ lại cho mình những ký ức đẹp của cuộc đời Dưới
bóng hoàng lan là một sự trở về, trở về với quá khứ đẹp của tuổi thơ, của
một mái đầu bạc hiền từ như trong cổ tích, của tiếng cười trong trẻo từ cô hàng
xóm, của mặt đất dưới chân, của mùi hương quen thuộc từ một loài hoa… Để rồi
lúc ra đi, chàng thanh niên kia đã mang cho mình những hành trang dịu ngọt, những
dư vị quê hương rất cần cho mỗi người trong hành trình đi tới tương lai.
Bằng giọng văn nhẹ nhàng, thủ thỉ, Thạch Lam đã đánh thức miền
ký ức của mỗi người, đánh thức những xúc cảm thầm kín nhất, sâu xa nhất về những
kỷ niệm yêu dấu đã qua trong tâm hồn mỗi người. Có một điều khiến cho Thạch Lam
khác với các nhà văn khác: Ông để cho nhân vật của mình thức tỉnh một cách
rất hồn nhiên. Hầu như chẳng phải chịu một thứ luân lý cao siêu nào, cũng như
không hề thông qua một cuộc đấu tranh tư tưởng nào. Truyện ngắn Thạch Lam
giàu chất thơ vì vậy chỉ thủ thỉ nhẹ nhàng mà không gân guốc, triết lý xa xôi.
Như một khách lữ hành mải miết đi tìm cái đẹp giữa cuộc đời,
cái đẹp lẩn khuất bên trong những phức tạp của cuộc sống, thế giới nghệ thuật của
Thạch Lam luôn ở trong sự tương tranh của không gian, lòng người, sự giao tranh
giữa tối và sáng, làng và phố, nông thôn và thành thị, trần tục và thanh cao…
Cái tôi của Thạch Lam là từ sự giao tranh giữa những đối lập ấy, ông tìm thấy
cái đẹp và luôn có xu hướng khẳng định chân giá trị của cái đẹp, cái đẹp luôn
thắng thế và tồn tại vĩnh viễn.
Cái đẹp lớn nhất mà Thạch Lam đem đến cho mọi người là tình
yêu vô hạn của những người phụ nữ hết lòng vì gia đình. Một người mẹ
nghèo nàn kiếm từng hạt thóc còn sót lại trên cánh đồng. Tưởng chừng sự đói
nghèo khổ sở như thế thì còn lấy đâu ra cái đẹp nhưng dưới cái nhìn của Thạch
Lam, cái đẹp chẳng phải là cái gì cao vút mà là vẻ đẹp rất bình dị nhưng thanh
cao, đáng quý. Sự vất vả của người mẹ đã được đền đáp bằng sự đầm ấm của gia
đình. “Thật là sung sướng, nếu chúng mang về được một lượm, trong những
ngày may mắn. Vội vàng, bác Lê đẩy con ra vơ lấy bó lúa, đem để xuống dưới chân
vò nát, vét vội thóc, giã lấy gạo. Rồi là một bữa cơm nóng lúc buổi tối giá
rét, mẹ con ngồi xúm quanh nồi cơm bốc hơi, trong khi bên ngoài gió lạnh rít
qua mái tranh” (Nhà mẹ Lê). Một con người, người chị hết lòng lo cho gia
đình, gánh hàng đi từ lúc sương mù còn giăng kín cả bầu trời, trở về nhà lúc mọi
nhà đã lên đèn nhưng Cô hàng xén không một lời kêu ca. Lo cho cuộc sống gia
đình cô phải hy sinh cả ước mơ của một cô gái mới lớn. Vất vả, nhọc nhằn nhưng
nghĩ đến cảnh đầm ấm của gia đình bao nhiêu khó nhọc tiêu tan cả. Vẻ đẹp tâm hồn
của Liên thể hiện qua sự dâng hiến, chu toàn của bản thân đối với gia đình.
Những người phụ nữ trong các truyện ngắn Thạch Lam là những
người chịu nhiều khổ đau, bất hạnh nhưng họ vẫn hướng tới cái đẹp, vẫn giữ cho
mình những nét đẹp trong tâm hồn. Cho dù nhìn bề ngoài những người ấy ta không
cảm tình với họ, nhưng Thạch Lam hoàn toàn khác, ông đã mẫn cảm và tìm thấy ở
đáy sâu tâm hồn họ những khoảng sáng thanh cao. Liên và Huệ trong Tối ba
mươi là những người làm cái nghề dưới đáy cùng của xã hội. Những ngày Lễ –
Tết hai cô vẫn nhớ tới quê hương làng xóm với một mái nhà yên ấm, nhớ tới ông
bà tổ tiên cùng tuổi thơ trong sáng của mình. Cao hơn nữa là một niềm tiếc hận,
khổ đau cho thân phận và cuộc sống của mình. Hai cô vẫn đau đáu ngày trở về
trong sự hoàn lương: “… những giọt nước mắt chảy tràn mi, nàng không giữ
được; Liên cảm thấy một nỗi tủi cực mênh mang tràn khắp người, một nỗi thương
tiếc vô hạn; tất cả thân thể nàng lướt hiện qua trước mắt với những ước mong tuổi
trẻ, những thất vọng chán chường” (Tối ba mươi).
Khi viết về những người dân nghèo – tầng lớp dưới đáy của xã
hội ngòi bút Thạch Lam cũng ánh lên vẻ đẹp thanh cao của những tâm hồn bất hạnh
và khổ đau. Ông đến với những người nghèo bằng cả tấm lòng của mình bằng tình
thương đồng loại. Sự thương cảm ấy, nó khác xa kiểu ban ơn của những nhà
tiểu thuyết lãng mạn ngả câu bít và vòng tay của mình cứu vớt những con người
nhỏ bé. Mọi nguồn cảm hứng, mọi nỗi rung cảm của nhà văn muốn đóng góp cho đời
đều bắt nguồn và nảy nở từ những chân cảm đối với người nghèo.
Thương người một cách kín đáo, lại có quan niệm tình thương hết
sức tiến bộ Thạch Lam xây dựng các nhân vật khổ sở, nghèo hèn nhưng chưa bao giờ
ông coi thường, xem nhẹ. Trái lại, ông luôn nâng niu với tình cảm yêu mến, trân
trọng và luôn giúp họ vươn tới cái thiện, cái đẹp.
Lặng lẽ và sâu kín, Thạch Lam viết về những con người bình
thường với niềm trắc ẩn mênh mông. Niềm trắc ẩn đó trở nên đặc biệt sâu sắc khi
ông nhắc đến thân phận của những người mẹ, người vợ tần tảo, luôn hy sinh thầm
lặng cho gia đình, gánh chịu mọi vất vả tủi phận để đem đến niềm vui cho mọi
người trong gia đình. Đó là Cô hàng xén tận tuỵ buôn bán để nuôi cha
mẹ và các em, đến khi lấy chồng phải lo lắng thêm gia đình chồng, một mẹ Lê cho
đến lúc chết vẫn chưa hết lo cho những đứa con thơ dại, một mẹ Hiên dù thoảng
qua cũng kịp để lộ ra phẩm chất tốt đẹp của người đàn bà nghèo khổ nhưng thật
thà, tự trọng, một cô Sen rất chịu đựng vì thương mẹ… Thạch Lam lặng lẽ âm thầm
phản ánh đời sống hết sức khốn khó của con người với cái nhìn đôn hậu và đầy
thương cảm. Ông đã tạo ra những trang văn đẹp giản dị nhưng vô cùng nhân đạo.
Những con người dù bị chà đạp vẫn cố gắng vươn tới vẻ đẹp thanh cao, những con
người dù khốn khó vẫn tự đấu tranh để vươn tới cái đẹp trong cuộc sống. Mỗi người
một hoàn cảnh, một cuộc sống riêng nhưng họ đều có chung tâm trạng dày vò, buồn
rầu và lòng khát khao vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn, cao quý hơn.
Thạch Lam mẫn cảm và nhân hậu, ông đi sâu vào thế giới nội
tâm con người, biết quan sát cái bên trong, biết đi sâu vào những bí ẩn tâm lý.
Tác giả đã hướng cái nhìn của mình vào những vùng khuất tối nhất trong thế giới
nội tâm con người: cái khoảng tối ẩn náu sự hèn hạ, yếu đuối, xấu xa đáng loại
bỏ để tìm ra những khoảng sáng thanh cao. Bởi thiếu cái đẹp, cuộc sống trở nên
tầm thường biết bao. Thạch Lam từng quan niệm:
“Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm,
tiềm tàng ở mọi vật bình thường. Công việc của nhà văn là phải hiểu cái đẹp ở
chính chỗ mà người ta không ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật
cho người khác một bài học trông nhìn và thưởng thức.”
Thạch Lam, nhà văn của cái đẹp bình dị mà thanh cao. Văn
chương của ông luôn có sự hài hoà giữa thiên nhiên và tâm trạng, giữa cảnh và
tình. Bằng lối ngôn ngữ miêu tả giàu xúc cảm và hình tượng, Thạch Lam đưa người
đọc trở về với những miền quê êm đềm, yên ả của nông thôn Việt Nam:
“Thanh lách cửa gỗ để khép, nhẹ nhàng bước vào. Chàng thấy
mát hẳn cả người, trên con đường gạch Bát Tràng rêu phủ, những vòng ánh sáng lọt
qua vòm cây xuống nhảy múa theo chiều gió. Một mùi lá tươi non phảng phất trong
không khí… Yên tĩnh quá, không một tiếng động nhỏ trong căn vườn… Thanh bước xuống
giàn thiên lý. Có tiếng người đi, rồi bà chàng mái tóc bạc phơ, chống gậy trúc,
ở ngoài vườn vào… Ngoài khung cửa sổ, trời xanh ngắt ánh sáng, lá cây rung động
dưới làn gió nhẹ. Một thân cây bút cao lên trước mặt. Cùng một lúc, chàng lẩm bẩm:
cây hoàng lan!, mùi hương thơm thoang thoảng đưa vào. Thanh nhắm mắt ngửi mùi
hương thơm và nhớ đến cái cây ấy chàng thường hay chơi dưới gốc nhặt hoa…” (Dưới
bóng hoàng lan).
Một thế giới hoàn toàn yên bình, tĩnh lặng và đẹp như cổ
tích. Con đường gạch, giàn cây, bóng mát và đặc biệt là hương hoa đã xoa dịu
tâm hồn con người sau một quãng đường dài đầy bụi bặm. Trở về với quê hương
chính là trở về với dân tộc, trở về với những nét đẹp truyền thống được lưu giữ
từ thuở xa xưa. Trong khung cảnh ấy, tâm hồn con người trở nên trong sáng hơn,
thuần khiết hơn, đẹp đẽ hơn. Lời văn mượt mà, giàu chất họa, chất nhạc đã diễn
tả một cách hình tượng cảnh thiên nhiên cùng với những tinh tế của tâm hồn con
người.
Con người luôn chan hòa với thiên nhiên, ngòi bút trữ tình
tinh tế của Thạch Lam đã miêu tả một cách tinh vi, sắc sảo sự vận động của nội
tâm nhân vật cùng với sự biến chuyển của thiên nhiên. Chính vì vậy, trong truyện
ngắn của Thạch Lam dường như màu sắc âm thanh, hương vị tự nhiên của cuộc sống
hòa trộn với nhau và kết hợp với tâm hồn con người tạo nên chất thơ chất nhạc
trong văn Thạch Lam: mùi quen của đất màu, mùi bèo ở dưới ao, mùi rạ ẩm ướt,
mùi phân trâu nồng ấm, rồi tiếng lá tre khô xao xác, tiếng gió thổi qua đồng trống
những chiều đông lạnh giá, tiếng trống thu không của buổi chiều tà… Thạch Lam
đã rất nhạy cảm và tinh tế khi diễn tả một cách chính xác và sinh động hương vị
tự nhiên của cuộc sống thôn quê ấy.
Cái độc đáo trong thế giới nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam
là tiếp cận và khám phá thế giới nội tâm con người. Nhân vật truyện ngắn Thạch
Lam là con người tâm hồn với những tâm trạng, tâm tình, cảm xúc, cảm giác. Với
lối văn nhẹ nhàng, đậm chất trữ tình man mác, giàu xúc cảm, Thạch Lam diễn tả cảm
giác của con người với những cung bậc khác nhau.
Đọc truyện Đói ta không chỉ xót thương cho cảnh đớn
đau, cơ cực của Sinh mà còn cảm thấy rùng mình khi cơn gió đi qua trong cơn đói
lả. Ta cũng cảm thấy mùi thơm ngậy và quyến rũ đến chết người của những thứ đồ
ăn đó. Chính cái cảm giác đã tạo nên trong văn Thạch Lam một thứ mật ngon mà đã
ăn thì không thể không nhớ. Giọng văn nửa như mơ hồ, nửa như không nhớ rõ thực
hay mơ, ngôn ngữ dùng một cách bàng quan của cảm giác: hay là, thoáng qua,
thoáng nghe, hình như, mang máng đã diễn tả rất tinh tế tâm trạng của nhân
vật.
“Một cơn gió hắt hiu thổi đến làm cho chàng rùng mình. Bỗng
nhiên tất cả người chàng chuyển động: chàng vừa thoáng ngửi thấy cái mùi thơm
và béo của những miếng thịt ướp mà mỡ còn dính ở tay.
Cơn đói lại sôi nổi dậy như cào xé ruột gan, mãnh liệt, át hẳn
cả nỗi buồn. Chàng muốn chống cự lại, muốn quên đi, nhưng không được, cái cảm
giác đói đã lẩn khắp cả người như nước triều tràn lên bãi cát. Mỗi lần cơn gió,
mỗi lần chàng ngửi thấy mùi béo ngậy của miếng thịt ướp, mùi thơm của chiếc
bánh vàng. Mũi Sinh tự nhiên nở ra, hít mạnh vào, cái mùi thơm thấu tận ruột,
gan, như thấm nhuần vào xương tuỷ” (Đói).
Đi vào thế giới truyện ngắn Thạch Lam nhiều lúc ta phải giật
mình, ta nhận ra được nhiều điều mà từng trước đến giờ phải chăng vì nhỏ qua mà
ta chưa khám phá ra? Trước cuộc sống đã có lần ta thắc mắc: “có những ngày
mà tự nhiên không hiểu sao ta thấy khó chịu, hay gắt gỏng và không muốn làm
gì” (Một cơn giận). Con người bực dọc, rồi không kiểm soát được mình và dẫn
đến những sai lầm trong hành động để rồi lại hối hận, tiếc nuối, xót xa. Cái cảm
giác hối hận cũng rất thật: “Ngày hôm sau thực là những ngày khổ sở cho
tôi. Lòng hối hận không để tôi yên. Hình như có một cái gì nặng nề đè nén trên
ngực làm cho tôi khó thở, và lúc nào hình ảnh anh phu xe cũng biểu hiện ra trước
mặt” (Một cơn giận).
Nhân vật của Thạch Lam là như vậy, luôn hiện lên với đầy đủ cả
cái thiện và cái ác, cả mặt tốt lẫn mặt xấu như những con người thực ngoài đời Một
đời người khiến ta có biết bao suy nghĩ, trăn trở và lựa chọn. Con người
Liên cũng có lúc nghĩ thế, cũng có lúc lại nghĩ khác đi. Liên đã phải khổ sở rất
nhiều khi lựa chọn đi với Tâm để được hưởng hạnh phúc ngọt ngào của tình yêu
hay ở lại với chồng con để chịu đầy đoạ. Và rồi:
“Liên lờ mờ thấy rằng nàng không đủ can đảm làm một việc như
thế không đủ quả quyết với mình để chống lại những cái cay nghiệt gây nên chung
quanh nàng. không phải nàng quyến luyến đứa con lên sáu: nàng không yêu nó vì nó
cũng xấc láo như bố nó. Nhưng bỏ chồng bỏ con để lấy Tâm, để được sung sướng
riêng mình nàng. Liên coi như là một việc không bao giờ có thể làm được” (Một
đời người).
Cảm giác dường như là chất liệu trọng yếu để Thạch Lam khám
phá thế giới nội tâm con người. Trước hành động không đúng, nhân vật cảm giác
mình có lỗi. Trước một nghịch cảnh, nhân vật cảm giác mình khó có thể vượt qua.
Trước sự đấu tranh giành quyền hạnh phúc, nhân vật cảm giác mình không đủ
can đảm… Cảm giác là cái ngưỡng không cho nhân vật vượt qua ranh giới mong manh
của cái thiện để ngã mình sang cái ác, cái xấu xa tội lỗi. Thạch Lam cũng đã để
cho nhân vật tự đấu tranh để chọn ra một lối đi thích hợp. Và bao giờ cái thiện,
cái đẹp cũng chiến thắng. Con người lại trở về với những phẩm chất tốt đẹp của
mình. Nhân vật của Thạch Lam không tha hoá, không tội lỗi là vì vậy.
Thạch Lam là nhà văn của cảm giác. Trước những biến động của
cuộc sống nhà văn đã dùng cảm giác để giữ nhân vật của mình ở lại với
cái đẹp. Còn trước đổi thay của thời tiết thì sao? Nhà văn lại cũng đánh thức cảm
giác của con người qua một đêm trời trở lạnh:
“Buổi sáng hôm nay, mùa đông đột nhiên đến, không báo cho biết
trước. Vừa mới ngày hôm qua trời hãy còn nắng ấm và hanh, cái nắng về cuối
tháng mười làm nứt nẻ đất ruộng và làm giòn khô những chiếc lá rơi. Sơn và chị
chơi cỏ gà ngoài cánh đồng còn thấy nóng bức, chảy mồ hôi.
Thế mà qua một đêm mưa rào, trời bỗng đổi gió bấc, rồi cái lạnh
ở đâu đến làm cho người ta tưởng đang ở giữa mùa đông rét mướt” (Gió lạnh
đầu mùa).
Rồi cảm giác về mùi hương cùng tình yêu ở buổi đầu hò hẹn: “…
đi qua hai bên bờ lá đã ướt sương. Mùi hoàng lan thoang thoảng bay trong gió
mát… có cái gì dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây, khiến chàng vương phải” (Dưới
bóng hoàng lan).
Ai rồi cũng trải qua mối tình đầu đầy ngọt ngào và thơ mộng.
Ai rồi cũng có sự hồi hộp của buổi hò hẹn đầu tiên. Đọc Thạch Lam tất cả những
cảm giác về tạo vật, cuộc sống và tình yêu bỗng bừng dậy. Nó thức tỉnh tâm hồn
con người, giúp ta yêu hơn, trân trọng hơn những xúc cảm ngọt ngào, những phút
giây hạnh phúc đã có và đang có trong cuộc đời.
Để diễn tả những xúc cảm mơ hồ ấy của nhân vật, Thạch Lam rất
hay sử dụng từ cảm giác:“chàng thấy một cảm giác mát lạnh tràn lên hai vai” (Trở
về); “nhớ lại cảm giác vui mừng khi thấy bông lúa se sắt vào da thịt” (Nhà
mẹ Lê); “Dung thấy một cảm giác chán nản và lạnh lẽo” (Hai lần chết).
“Qua kẽ lá của cành bàng, hàng ngàn ngôi sao lấp lánh, một
con đom đóm vào dưới mắt lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy, rồi hoa rụng xuống
vai Liên khe khẽ, thỉnh thoảng từng hạt. Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm
giác mơ hồ khó hiểu” (Hai đứa trẻ).
Và những từ chỉ cảm giác, diễn tả cảm giác như: thoáng
trông thấy, lờ mờ, cảm thấy, hình như, hình như cảm thấy, tựa như…
“Thành tựa như thấy trong lòng mưa bụi, buồn rầu và chán nản,
một nỗi buồn không sâu sắc, nhưng êm đềm làm tê liệt cả tâm hồn” (Cuốn
sách bỏ quên).
“Chàng vừa thoáng ngửi thấy cái mùi thơm và béo của những miếng
thịt ướp mà mỡ còn dính ở tay” (Đói).
“Chàng mơ màng yêu cô thôn nữ, và ước mong cùng nhau sống
trong cảnh thanh bình dưới một túp lều tranh” (Trở về).
Đi sâu vào đời sống tâm linh nhân vật với những cảm xúc và cảm
giác tinh tế, ngôn ngữ Thạch Lam nhẹ nhàng, đậm chất trữ tình man mác. Cái
đẹp của ngôn ngữ Thạch Lam là cái đẹp của thứ ngôn ngữ vừa cho ta nhìn và cho
ta cảm. Tâm hồn đa cảm và tinh tế đến độ có thể thu nhận được sự thay đổi về độ
ánh trăng hay âm sắc các loại lá khô rụng va vào đất, đã đem đến cho bạn đọc những
trang văn đạt đến sự trong sáng, thuần khiết của tiếng Việt, có khả năng diễn tả
được một cách đầy đủ những cung bậc khác nhau của đời sống nội tâm con người ở
độ tinh vi nhất. Trong mỗi con người dường như ai cũng có một đời sống nội tâm
đầy bí mật. Và Thạch Lam, một nhà giải phẫu tâm lý tài ba, đã lách sâu ngòi bút
của mình vào mọi ngõ ngách của tâm hồn để khám phá cái bí mật ấy:
“Tôi cảm thấy một cái thú khoái lạc kỳ dị, khe khẽ và thầm lặng
rung động trong người, có lẽ là cái khoái lạc bị cám dỗ, mà cũng có lẽ cái
khoái lạc đã đè nén được sự cám dỗ. Và một mối nuối tiếc ngấm ngầm, tôi không tự
thú cho tôi biết và cũng cố ý không nghĩ đến, khiến cho cái cảm giác ấy của tâm
hồn tôi thêm một vẻ rờn rợn và sâu sắc” (Sợi tóc), một cái gì dịu ngọt
chăng tơ đâu dây, một sự rung động khẽ như cánh bướm non hay những
cái bé nhỏ, hèn mọn hàng ngày đang phá hoại cuộc đời…
Trái tim mẫn cảm của Thạch Lam đã thấu hiểu được những xúc cảm
sâu kín nhất bên trong tâm hồn con người và ông luôn trân trọng những tình cảm ấy.
Tâm hồn đa cảm cũng đã đi vào những trang viết của ông, tạo cho ông một văn
phong và cốt cách riêng biệt. Cái nhẹ nhàng lặng lẽ từ cuộc sống dường như
nếu bước đi mạnh thì sợ đất đau đã chuyển thành giọng kể nhỏ nhẹ, dịu dàng mà
sâu lắng trong văn ông. Vũ Ngọc Phan cho rằng: “Ông có một ngòi bút lặng lẽ,
điềm tĩnh vô cùng, ngòi bút chuyên tả tỉ mỉ những cái rất nhỏ và rất đẹp, những
cảm tình, cảm giác cỏn con nảy nở và biểu lộ ở đủ các hạng người mà ông tả một
cách thật tinh vi…” Còn giáo sư Phong Lê thì nhận xét rằng: “Thạch Lam có một
bút pháp tinh tế, trầm tĩnh, khách quan – nhưng không khách quan chủ nghĩa,
luôn luôn ẩn thoáng một thái độ, một tâm sự kín đáo mà có sức thông báo và lan
truyền.”
Thạch Lam trầm lặng, cái sự yêu của ông cũng trầm lặng, lắng
sâu để rồi giọng văn đậm chất trữ tình. Một con người luôn yêu cái đẹp, chắt
chiu từng mảnh đẹp bị vương vãi ở khắp thế gian này đã để lòng mình rung lên,
hòa nhập, cảm thông, chia sẻ những đắng cay của cuộc đời cùng những con người bất
hạnh. Trái tim Thạch Lam đã không biết bao lần phải thổn thức trước những thâm
phận nhỏ bé, khổ đau ở cõi đời này. Và chính vì thế, văn Thạch Lam vừa giản dị
trong sáng, vừa gợi lên một nỗi buồn man mác, một nỗi buồn in đậm trong văn Thạch
Lam khắc khoải ở chỗ này, bàng bạc ở chỗ khác, trở thành khí quyển tâm trạng
bao phủ những cảnh đời mà nhà văn dẫn ta vào.
Nhân vật của Thạch Lam hầu hết đều có một số phận đáng buồn,
một cảnh đời nghịêt ngã. Cuộc sống khốn cùng đã khiến cho nhiều thân phận đi đến
ngõ cụt và phải tìm đến cái chết như mẹ Lê (Nhà mẹ Lê), Dung (Hai lần chết),
Bào (Người bạn trẻ)… Cái chết của họ đã tạo cho âm điệu câu chuyện chùng xuống
bởi quá thương tâm:
“… bác Lê lên cơn sốt. Những cái rùng mình lạnh lẽo nối nhau
lướt trên da bác, manh chiếu rách không đủ đắp ấm thân. Trong lúc mê sảng, bác
Lê tưởng nhớ lại cuộc đời mình, từ lúc còn bé đến bây giờ, chỉ toàn những ngày
khổ sở, nhọc nhằn. Cái nghèo nàn không biết tự bao giờ đã vào nhà Bác, lúc sinh
ra bác đã thấy nó rồi, và từ đấy, nó cứ theo liền bác mãi. Nhưng giá cứ có người
mướn làm thì cũng không đến nỗi bác nhớ lại những buổi khó khăn đi làm, những
lúc vui vẻ được lĩnh gạo về cho con, những bữa cơm nóng mùa rét…
… Đấy còn là những ngày no đủ. Rồi đến những buổi chợ vắng,
những ngày nhịn đói như hôm nay. Bác mơ màng thấy vàng son chói lọi trong nhà
ông Bá, thấy nét mặt gian ác, tinh nghịch của cậu Phúc, con chó Tây nhe nanh chồm
lên…” (Nhà mẹ Lê).
Cuộc đời của mẹ Lê dường như chỉ được gói gọn trong chữ nghèo
hèn để rồi đã gây ra bất hạnh. Bất hạnh cho bác và bất hạnh cho những đứa trẻ mồ
côi. Cuộc đời chúng rồi sẽ ra sao, chúng sẽ đi về đâu khi bên mình không có mẹ,
lại tay trắng? Nỗi buồn đau dường như được nén lại rồi toả ra, nén lại trong
lòng tác giả để rồi toả ra âm điệu buồn cho người đọc suốt cả câu chuyện.
Thế giới nghệ thuật của Thạch Lam là thế giới của những người
nghèo khó cam chịu, thế giới của những người quanh năm phải vật lộn với miếng
cơm manh áo, bị ngược đãi đến thậm tệ: Liên (Một đời người), Minh (Cái chân què),
Sinh (Đói)… và cho dù chưa phải tìm đến cái chết nhưng những dằn vặt, những khổ
đau đã làm cho họ điêu đứng, tàn tạ. Kết thúc câu chuyện Một đời người, giọng
điệu buồn man mác lan toả trong lòng người đọc trước tương lai mù mịt của Liên:
“Ngày nọ nối tiếp này kia, Liên phải chịu cái đời khổ sở, đau
đớn mọi ngày. Cái mộng cuộc đời sung sướng với Tâm, Liên buồn rầu coi như là những
vật tốt đẹp mà nàng thấy bày trong tủ kính các cửa hàng, những vật quý giá mà
nàng tưởng không bao giờ có thể về nàng được” (Một đời người).
Một sự cam chịu đến cùng cực của những con người có độ
dư phẩm chất làm người. Và chính vì vậy, khác với con người làm trò, con người
đánh rơi phẩm chất làm người trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan, con người bị
vật hóa, bán dần sự sống như trong sáng tác của Nam Cao, con người hành động cải
tạo xã hội vì mục tiêu cá nhân với những ảo tưởng xa vời của Nhất Linh, Khái
Hưng.. Tâm hồn Thạch Lam là đối tượng cho nhà văn khám phá miêu tả. Đó là một
khối thủy tinh trong suốt, mong manh, dễ vỡ, không quen va chạm với những xung
đột, mâu thuẫn khắc nghiệt của cuộc đời. Âm điệu buồn trong truyện ngắn Thạch
Lam cũng vì thế rất riêng. Không bi thảm như Nam Cao, không dữ dội như Vũ Trọng
Phụng, không tuyệt vọng như Nhất Linh, Khái Hưng… Thạch Lam buồn mà đẹp, buồn
nhẹ nhàng nhưng day dứt, ám ảnh khôn nguôi về thân phận làm người.
Với ngòi bút hiện thực giàu tính nhân đạo, hình ảnh những người
dân nghèo từ thành thị đến nông thôn, từ những người trí thức đến những cô gái
bán thân đều được Thạch Lam miêu tả hết sức chân thật. Kết thúc câu chuyện là
tương lai đen tối mờ mịt của những thân phận nghèo khó nhọc nhằn. Và giọng điệu
buồn trầm gợi niềm xót xa thương cảm về số phận bấp bênh của con người dưới xã
hội cũ là nét đặc trưng của phong cách truyện ngắn Thạch Lam. Một nỗi buồn man
mác nhè nhẹ phủ lên và thấm vào đời sống của các nhân vật, nỗi buồn xa xôi, nỗi
buồn mơ hồ. Một cô hàng xén, một cô Liên, một cô Dung.. sống buồn bã trong gia
đình và cả ở xã hội. Một đứa trẻ cố thức đêm chỉ để nhìn ánh sáng đèn của chuyến
tàu đêm với hy vọng được nhìn thấy cảnh náo nhiệt ở sân ga. Thạch Lam
gieo vào lòng người đọc sự thương cảm cho những kiếp người nhọc nhằn.
hình ảnh người bán bánh giầy giò trong đêm khuya vắng lặng, qua việc miêu tả tiếng
rao buồn thảm, yếu ớt và uể oải như mang một nỗi thất vọng cùng lời kết thúc
bùi ngùi: “cái đời tối tăm ấy, những đường phố xa, hẻo lánh như không còn mong
mỏi chút gì” (Cô hàng xén). Nhà văn với giọng diệu này đã khái quát lên cả một
bức tranh hiện thực xã hội đương thời. Tại đó những kiếp người luôn phải sống mỏi
mòn, nhọc nhằn, vô vọng… Điều này cho thấy sự kết nối xuyên suốt trong cảm hứng
sáng tạo của Thạch Lam. Trong bất cứ thể loại nào, ngòi bút của ông cũng
nghiêng về phía những con người nhỏ bé bằng một giọng văn đầy lòng trắc ẩn, cho
thấy được những cuộc sống tù đọng, bế tắc của cả đời người. Ngay cả những người
lầm lỡ trong chốn bùn lầy của xã hội ông cũng miêu tả họ bằng giọng văn xót xa,
buồn chứ không chì chiết, khinh rẻ. Ông còn tìm sâu trong tâm can họ những nét
đẹp còn tiềm ẩn trong bản chất của họ.
Thạch Lam đã từng quan niệm: “cái thực tài của nhà văn
nguồn gốc chính là ở tâm hồn nhà văn, một nghệ sĩ phải có một tâm hồn phong
phú, những tình cảm dồi dào. Nếu không, nghệ sĩ đó chỉ là thợ văn khéo thôi.” Ông
đã lặng lẽ tự mổ xẻ mình để xây dựng nên những con người sống động giữa cuộc đời
thường. Và từ đó, ngôn ngữ trong truyện ngắn Thạch Lam là thứ ngôn ngữ được hoà
trộn giữa ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật.
“Tâm thấy ngày nay cũng như mọi ngày, ngày kia cũng thế nữa,
tất cả cuộc đời nàng lúc nào cũng chịu khó và hết sức như tấm vải thô dệt đều
nhau. Có phải đâu chỉ mình cô; trong những luỹ tre xanh kia, bao nhiêu người
cũng như cô, cũng phải chịu khó và nhọc nhằn để kiếm tiền nuôi chồng, nuôi con,
nuôi các em.” (Cô hàng xén).
Thật khó có thể phân biệt đâu là ngôn ngữ tác giả đâu là ngôn
ngữ nhân vật . Nhà văn đã thực sự đặt mình vào địa vị nhân vật để nói lên suy nghĩ
về số phận và cuộc đời những cô hàng xén nghèo khó sớm tối phải tần tảo vất vả
vì gia đình. Và Thế Lữ đã rất xúc động khi nhớ về Thạch Lam: “Sự thật tâm hồn
Thạch Lam diễn trong văn chương phức tạp nhiều hình, nhiều vẻ, nhưng bao giờ
cũng đằm thắm, thân mật, cũng nhân hậu, cũng nghẹn ngào một chút lệ thầm kín của
tình thương.” (Thạch Lam và văn chương)
Thạch Lam luôn yêu thương và trân trọng đối với con người, giọng
văn của ông cũng vì thế mà mang một hơi thở ấm áp, có sự đồng cảm sâu sắc giữa
người với người, giữa nhà văn với nhân vật. Thạch Lam xưng hô với nhân vật rất
nhẹ nhàng và thân mật, bằng cách gọi tên: Liên, Tâm, Sinh… hoặc bằng cách gọi
trìu mến Mẹ, mẹ Lê, chàng, nàng…. Thạch Lam đã rất đồng cảm với người lao động
và dường như cao hơn còn là sự hòa nhập vào dòng người khốn khổ ấy. Nhân vật Thạch
Lam luôn có một cái tên rất nhẹ, vần không hoặc vần bằng như chính con người và
tình cảm trong suốt, dịu dàng, mỏng manh của họ vậy.
Cùng viết về nỗi khổ, cảnh ngộ của con người trong xã hội: sự
bươn chải nhọc nhằn, sự nghèo túng hay những kẻ phải làm cái nghề bán thân mạt
hạng nhất trong xã hội nhưng khác với cách kể của Nam Cao lạnh lùng khách quan,
hay không trào phúng như Vũ Trọng Phụng… ngôn ngữ Thạch Lam sử dụng có tác dụng
xoa dịu nỗi đau, không có ranh giới của đẳng cấp, tầng lớp xã hội.
Tác phẩm Thạch Lam càng đọc càng bị lôi cuốn, càng đọc càng say.
Ông đã biết chọn cho mình một lối ngôn ngữ rất riêng, rất độc đáo. Ngôn ngữ là
chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của văn học. Nhưng
không phải bất cứ ngôn ngữ nào cũng là ngôn ngữ của văn học. Chỉ trong ngôn ngữ
đời sống được trau dồi, mài dũa kỹ mới chuyển tải được một cách nghệ thuật cuộc
sống hàng ngày. Và mỗi nhà văn có phong cách đều để lại một dấu ấn riêng về
ngôn ngữ trên văn đàn. Thạch Lam đã lựa chọn ngôn ngữ thể hiện mình bằng ngôn từ
giản dị, trong sáng, mượt mà nhưng sâu lắng, đằm thắm và thấm đượm tình người.
Văn Thạch Lam nhẹ nhàng nhưng sức gợi mở lớn và có khả năng khơi sâu tìm vào cảm
giác. Ông đã dùng thủ pháp so sánh để miêu tả tâm hồn nhân vật và thiên
nhiên: “Tiếng mưa reo và gió thổi như một thứ âm nhạc vui vui, ru ngủ người
ta dần dần” (Tiếng chim kêu); “Tâm hồn Thành trơ trọi như một cánh đồng
thấp mà lúa đã gặt rồi” (Cuốn sách bị bỏ quên); “bà cụ già lê nhích lại gần,
cúi xuống khe khẽ kéo lại như có một vết thương chưa khỏi” (Nhà mẹ Lê).
Sử dụng nhiều thủ pháp so sánh nhưng không nhàm chán, ngược lại,
rất đắt, rất hay. Nó làm cho câu văn giàu hình tượng và sức biểu cảm. So sánh
cùng với cảnh ngắt nhịp câu dài, ngắn nhịp nhàng uyển chuyển tạo cho tác phẩm
giàu nhạc điệu:
“Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru…” (Hai đứa trẻ); “có
cái gì dịu ngọt, chăng tơ đâu đây” (Dưới bóng hoàng lan); “những thứ
hàng nho nhỏ, khác nhau và xinh xắn: cuộn chỉ, bao kim, hộp bút, cúc áo, giấy
lơ một trăm thứ lặt vạt qua lại trên ngón tay nhỏ bé của thiếu nữ, vừa quý báu
lại vừa ít ỏi” (Cô hàng xén)… tất cả đều tạo nên một âm thanh dịu nhẹ,
trong trẻo, man mác khiến cho lòng người vừa thanh thản, bằng lặng vừa níu kéo,
ám ảnh khôn nguôi.
Trong truyện ngắn Thạch Lam, nhân vật thường sống bằng thế giới
cảm giác với những khoảng không gian, thời gian mang tính tâm trạng, khơi mạch
tâm trạng và thường tìm vào thế giới nội tâm chìm khuất bên trong của những con
người nhỏ bé, đời thường trong sự bủa vây của cuộc sống tàn úa, mòn mỏi để lột
tả những biến thái tinh vi sâu sắc của cuộc đời mà vẫn giữ được vẻ đẹp thanh
cao. Và vì vậy, giọng điệu ở đó thường là giọng điệu trữ tình êm ái với lối
ngôn ngữ biểu cảm, giàu hình tượng.
Thạch Lam ra đi ở tuổi sung sức nhất của một người nghệ sĩ
sáng tác. Mẫn cảm trước số phận ngắn ngủi của cuộc đời phải chăng đã giúp ông
yêu hơn cuộc sống này. Là nhà văn luôn trân trọng và chắt chiu cái đẹp, Thạch
Lam đã để lại một dấu ấn đẹp trên văn đàn: phong cách độc đáo của nhà truyện ngắn
tâm tình.
Hà Văn Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét