Khuynh hướng cách tân
trong thơ Việt Nam sau 1975
MVP
Thơ Việt Nam đương đại tương đối phong phú và đa dạng. Trong
phương diện nào đó, có thể so sánh với thơ một số nước trong khu vực và trên thế
giới. Sau năm 1975, rõ nét hơn đến đầu thập niên 90, bên cạnh những khuynh hướng
bảo tồn thơ truyền thống, thơ Việt xuất hiện trào lưu mới thường được gọi chung
bằng cụm từ: Thơ cách tân sau năm 1975. Mở đầu cho sự cách tân thơ của thế
hệ sau năm 1975, theo tôi, có thể nhắc đến 3 gương mặt thơ tiêu biểu: Nguyễn
Quang Thiều, Nguyễn Lương Ngọc và Dương Kiều Minh. Thơ họ đã khai mở, thôi thúc
một số cây bút cùng thời đi tìm giọng nói của thế hệ mình, thời đại mình. Kế tiếp
sau 3 tác giả vừa nêu, đến nay đã có thêm một số nhà thơ sáng tác trong hệ hình
thẩm mỹ mới, khác biệt với những thế hệ trước đó, tạo nên một khuynh hướng thơ
cách tân toàn triệt. Họ chủ yếu nằm ở thế hệ 5X và 6X. Tác phẩm của họ thực sự
đã có vị trí xứng đáng trong lòng người đọc với những đóng góp đáng kể vào đời
sống văn học. Trong tiểu luận này, tôi tập trung khảo sát tác phẩm của các tác
giả tiêu biểu của thế hệ cận kề sau cuộc chiến: Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn
Lương Ngọc, Dương Kiều Minh, Trần Tiến Dũng, Nguyễn Đức Tùng, Inrasara, Nguyễn
Bình Phương, Giáng Vân,…
1. Cách tân đề tài.Đề tài là phạm vi, cách tiếp cận hiện thực,
đối tượng được phản ánh. Các nhà thơ cách tân đã kết hợp hài hòa giữa cái
“Tôi” trong Thơ Mới, tính “đại tự sự” trong thơ thời chiến với tâm thức mở
nhiều chiều của đời sống văn minh hiện đại. Sự kết hợp ấy được đẩy xa một khoảng
cách bằng những ẩn ức, trực giác, mê sảng,… bằng những mô-đun, lát cắt, biểu tượng,...
để bạn đọc bình tĩnh minh định nó trong một thế giới thơ mới lạ. Các nhà thơ
theo khuynh hướng này đã kết hợp được những tinh hoa của các trào lưu thơ ca
phương Tây với những quan niệm về tâm linh trong văn hóa phương Đông từ cổ đại
đến hiện đại, nhằm tạo nên những diện mạo thơ độc đáo, đa dạng và khác biệt
ngay với những bạn viết cùng thế hệ.
Chất liệu cho đề tài của khuynh hướng này bao gồm những vấn đề
từ vi mô đến vĩ mô của đời sống hiện đại, những góc khuất trong tư tưởng, tình
cảm con người, ý thức và vô thức,... Những nhìn nhận, đánh giá tỉnh táo chân
xác từng giá trị của lịch sử, cật vấn những thân phận người, về con đường, vị
thế của dân tộc, của đất nước khi hội nhập. Tác phẩm của mỗi nhà thơ cách tân
xuất hiện trước bạn đọc như một thế giới thơ độc đáo, riêng biệt, cả dị biệt,
nhằm khúc xạ, phản tỉnh, soi tỏ lại lịch sử và mở đường cho tương lai.
Trong khuynh hướng đó, người đọc thấy được thơ Dương Kiều
Minh mang hơi xuân từ những cánh đồng trong tập thơ đầu tay Củi lửa (Nxb
Tác phẩm mới, 1989). Thấy không gian tượng trưng kết hợp với những lát cắt, những
biến hóa hai chiều của hội họa Lập thể (Cubism), của Dã thú (Fauvism) trong 3 tập
thơ của Nguyễn Lương Ngọc: Từ nước(Nxb Hội Nhà văn, 1991), Ngày sinh
lại (Nxb Thanh niên, 1991), Lời trong lời (Nxb Văn học, 1994).
Trong sự thanh tĩnh đến trong suốt của thơ Giáng Vân mà trước đó chưa từng xuất
hiện trong thơ Việt: Chúng ta chỉ có thể bay trong mơ/ Để tuyệt giao với
nhơ bẩn (Viết tặng họa sỹ Trần Trọng Vũ – Giáng Vân). Người đọc còn thấy
được tính tự sự - hiện đại, phân mảnh, diễu nhại, hỗn dung,... hay chủ ý tạo những
đường biên mờ nhòe, đảo lộn mọi quy ước, hoặc mở những khoảng không bất ngờ,
gây sửng sốt trong thơ Nguyễn Đức Tùng, Nguyễn Bình Phương,... Thêm vào đó, còn
thấy hệ thống ngôn ngữ thơ biến đổi đến kỳ ảo để tạo sinh nghĩa mới, làm gia tăng
khả năng biểu đạt của tiếng Việt trong thơ Trần Tiến Dũng, Inrasara.
Đặc biệt, tôi muốn nhấn mạnh đến sự ra đời tập thơ Sự mất
ngủ của lửa (Nxb Lao động, 1992) của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều. Tập thơ
này, trước hết làm bật lên nỗi khao khát về những cuộc lên đường, khát vọng giải
phóng khỏi những định chế cũ, quan niệm cũ. Sau đó, thơ Nguyễn Quang Thiều định
hình một phong cách riêng, kích hoạt sự cách tân của nhiều nhà thơ sau đó. Ông
xứng đáng được tôn vinh là một trong những thi sĩ tiên phong của dòng chảy thơ
cách tân sau 1975.
2. Để xác định tác giả thơ có nằm trong hệ hình thơ cách tân
hay không, trước hết cần nhìn vào kết cấu không gian trong mạch thơ, bài thơ cụ
thể. Tôi xin được trở lại với hệ hình Thơ Mới với cái “Tôi” chủ đạo, quán
xuyến tinh thần sáng tạo, tiếp đến là những “đại tự sự” trong thơ thời kỳ chống
Pháp và chống Mỹ, mà thực chất, vẫn là hệ hình thơ Hiện thực và Lãng mạn được
nâng cấp, mở rộng. Thậm chí nó được cải biên trên tinh thần lấy hiện thực làm nền
tảng, làm điểm tựa để dồn thổi cảm xúc vào đó. Để mô phỏng, tái tạo một hiện thực
thơ giống như nó vốn có, nhưng mang tinh thần chủ quan và cảm xúc của người viết.
Phương pháp này phù hợp với công việc tuyên truyền hơn là cách “mở khóa” để người
đọc bước vào không gian nghệ thuật sáng tạo của nhà thơ.
Chủ nghĩa lãng mạn bắt đầu xuất hiện tại Anh và Đức từ năm
1795 ở hầu hết lĩnh vực nghệ thuật như văn học, hội họa, điêu khắc, âm nhạc,...
Nhưng phải đến năm 1820, dòng văn học lãng mạn mới định hình ở Pháp, với những
nhà thơ tiêu biểu cho khuynh hướng này, như V. Hugo, A. de Lamartine, A. de
Musset, A. de Vigny, G.de Nerval,… Như vậy, chúng ta đang trở lại câu chuyện khởi
nguồn của phong trào Thơ Mới từng diễn ra ở phương Tây từ hai thế kỷ trước.
Nhìn lại khoảng cách giữa thơ Lãng mạn và Hiện thực, thậm chí cả thơ được sáng
tác theo phương pháp Hiện thực Xã hội chủ nghĩa sau này, giữa chúng đều là những
ranh giới mờ nhòe và linh động.
Thực tế cho thấy, “bóng râm” của Hiện thực và Lãng mạn ấy hiện vẫn tiếp tục ảnh hưởng, che phủ nền thơ đương đại chúng ta. Hiện có khá nhiều tác giả xuất hiện sau 1975, cả thế hệ 8X, 9X vẫn chưa thoát khỏi hệ hình thi pháp này. Khá nhiều tác giả có nỗ lực đổi mới, nhưng do chưa nắm được căn cốt chuyển động của các trào lưu, khuynh hướng nên tỏ ra lúng túng, không tìm thấy đường ra. Có tác giả đổi mới thơ bằng cách làm “khô” cảm xúc khi viết, đó là một sai lầm tệ hại. Hoặc có người cố tình bẻ vụn, hoặc kéo dãn hình thức câu thơ cho lạ mắt mà không chú ý đến thiết lập không gian. Quan niệm ấy đã dẫn họ đến bế tắc, thất bại.
Thực tế cho thấy, “bóng râm” của Hiện thực và Lãng mạn ấy hiện vẫn tiếp tục ảnh hưởng, che phủ nền thơ đương đại chúng ta. Hiện có khá nhiều tác giả xuất hiện sau 1975, cả thế hệ 8X, 9X vẫn chưa thoát khỏi hệ hình thi pháp này. Khá nhiều tác giả có nỗ lực đổi mới, nhưng do chưa nắm được căn cốt chuyển động của các trào lưu, khuynh hướng nên tỏ ra lúng túng, không tìm thấy đường ra. Có tác giả đổi mới thơ bằng cách làm “khô” cảm xúc khi viết, đó là một sai lầm tệ hại. Hoặc có người cố tình bẻ vụn, hoặc kéo dãn hình thức câu thơ cho lạ mắt mà không chú ý đến thiết lập không gian. Quan niệm ấy đã dẫn họ đến bế tắc, thất bại.
Khác biệt với những thi ảnh trong hệ hình thi pháp Hiện thực
và Lãng mạn (tôi tạm gọi đó là hình học phẳng) chính là không gian thơ đa chiều
trong những “khối lập phương” của hình học không gian. Những thi ảnh trong “khối
lập phương” ấy có thể được xuất hiện ở bất kỳ chiều nào trong không gian nhiều
chiều của một bài thơ. Và dĩ nhiên, chúng không nằm trên một mặt phẳng như những
hình ảnh quen thuộc mà bạn đọc thường dễ nhận biết, dễ tiếp cận như trong hệ
hình thi pháp truyền thống. Các nhà thơ cách tân đã mang đến cho bạn đọc một từ
trường mới, ánh sáng mới, chứ không chỉ là những hình ảnh “đèm đẹp” cụ thể, dễ
nhận biết. Mọi hình ảnh được nhắc đến trong câu thơ, bài thơ theo khuynh hướng
cách tân đều nằm trong áp lực, trong cách tạo áp lực của người viết. Người đọc
tiếp cận văn bản thơ với tâm thế và cảm nhận giống như người nghe một bản nhạc
không lời, thay vì nghe một ca khúc thông thường có giai điệu gắn với ca từ có
nội dung đơn giản, dễ hiểu.
Trong trường hợp thơ cách tân, nhà thơ và bạn đọc đều bình đẳng
và đồng sáng tạo. Người đọc được nhà thơ dẫn dụ, khơi mở vào không gian thơ. Họ
có cảm giác được vận động trong những không gian tự do và bình đẳng với những kết
cấu “lỏng”, nhiều hướng mở. Người đọc sẽ đọc thơ bằng kiến thức, kinh nghiệm, ẩn
ức và những khao khát của chính họ. Thậm chí cả những hiện tượng lạ kỳ, bí ẩn bất
ngờ xuất hiện trong lòng người đọc, điều mà ngay chính tác giả của bài thơ cũng
không định đoán được. Xin dẫn 2 câu thơ trong bài Gọi hạc của nhà thơ
Nguyễn Lương Ngọc: những con đã sinh ra thì đã chết/ những con chưa
chết thì chưa sinh ra. Đây là hai câu thơ tài hoa, mang vẻ đẹp linh ẩn. Đọc
hai câu thơ này, người đọc như nghe được cả tiếng những sinh linh từ hai cõi âm
dương đang chuyển động qua bức màn vô minh, nghe được những cánh hạc đập vào
khoảng không rộng mở xao xác và hiu quạnh. Thậm chí, còn có thể nghe và cảm được
những âm thanh hòa quyện, cả những nốt nhạc lẻ loi, đơn độc trong đó. Nhưng
chúng ta khó có thể ước lượng, đếm được bao nhiêu “con hạc” trong đàn hạc kia
đang chuyển động. Cách “hòa âm” của câu thơ trên đem lại cho người nghe cảm
giác một chút vui xen lẫn nỗi buồn, niềm hy vọng vừa được nhen lên trong sự cô
lạnh, tự tin trong an phận, cam chịu.
3. Cách tân ngôn ngữ, hình ảnh, nhịp điệu trong thơ bắt nguồn
từ tính đa chiều, đa tuyến tính trong kiến tạo không gian. Đó cũng chính là
ngôn ngữ của cái “Tôi” thời hiện đại khác biệt với cái “Tôi” trong Thơ Mới.
Khác hẳn với những “đơn vị” trong “đại tự sự” trước đó. Các nhà thơ cách tân
sau 1975 thường dùng hình thức trữ tình phổ biến là tự sự - độc thoại trong tác
phẩm của mình. Như trong bài Không ai gọi tôi trở dậy vào buổi cuối thu,
nhà thơ Dương Kiều Minh viết: Không ai gọi tôi trở dậy vào buổi cuối thu/
tôi nằm viên mãn - chiếc lá vàng dưới hàng song thụ/ Nếu mẹ tôi mà biết/ Liệu mẹ
tôi trách cứ các người… Ở đoạn thơ trên, một cái “Tôi” hóa nhập và hòa nhập vào
thiên nhiên làm hình ảnh người Mẹ thấp thoáng hiện về đã hiện hữu thành Mẹ
thiên nhiên, Mẹ của vũ trụ để bảo vệ và che chở con người bằng tình yêu bao
dung, rộng lớn của Người.
Bên cạnh đó, trong thơ cách tân sau 1975, hình ảnh luôn biến ảo
dị thường, vượt xa những liên tưởng thông thường, trở thành những hình ảnh
phóng dụ, ám dụ người đọc, gợi mở cho họ liên tưởng tới những điều lớn lao, hệ
trọng trong đời sống xã hội, thế nhân. Hình ảnh “con bống” trong bài thơ Dưới
trăng và một bậc cửa của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều là một dẫn chiếu:
Con bống cái chửa hoang ngơ ngác và thường chết ngất;
Hai cánh tay tôi - hai vây cá rách tướp
Dìu nỗi sợ chửa hoang đi tìm ổ đất buồn…
Trong phần này, tôi muốn dẫn chứng cụ thể hơn về cách tân
ngôn ngữ, hình ảnh, nhịp điệu thơ trong bài thơ Thời gian của một ngày của
Nguyễn Đức Tùng, một nhà thơ hiện định cư và sáng tác tại Canada. Nguyên văn
bài thơ như sau:
Bạn nghĩ một đời bắt đầu từ lúc sinh ra
Đến khi chết. Một ngày bắt đầu từ sáng
Đến khi bạn lên giường, tắt đèn, nằm dưới cơn mưa
Bạn nhớ lại: buổi học đầu tiên, kỳ thi cuối cùng
Nụ hôn ở giữa, cuộc chiến tranh
Những cãi vã, nạn cháy rừng, đứa bé chết trôi mùa lũ
Cuộc khủng bố. Nhưng một ngày không kéo dài cách ấy
Nếu bạn muốn sống nhiều cuộc đời trong một
Không phải chấn thương, khúc quanh, mà chính buổi sáng
Bình yên, ly cà phê quán cóc, thư viết tay, trò chuyện mỗi
ngày bên bàn ăn, ngọn đèn bếp ấm, đơn điệu của tình yêu, nhiệm vụ lặp lại
Của tình bạn, tiếng tích tắc đồng hồ, lặp lại, mơ hồ nhớ, hay
khắc sâu trong ký ức
Như khi người khách lạ, vừa đi vội vã vừa kéo lê va li trên
đường
Hoàng hôn xuống, trong rừng, bạn lái xe, trời sắp mưa, bạn
phân vân nửa muốn dừng
Nửa muốn không. Và bạn đã dừng lại, và một ngày như thế sẽ
dài ra
Bài thơ mở đầu và kết thúc trong tiết tấu chậm, đều đều của
ngôn ngữ kể. Nhà thơ Nguyễn Đức Tùng đã lược bỏ gần như tối đa vẻ hoa mỹ của ngôn
ngữ thơ ca truyền thống, như không tu từ, như không chú ý tới nhịp điệu câu
thơ. Ông cố ý để những hình ảnh xuất hiện ngẫu nhiên, hỗn tạp như chính đời sống
đang diễn ra. Tác giả bài thơ cũng đóng vai ngôi thứ 3 trong câu chuyện kể
này: Đến khi bạn lên giường, tắt đèn… Bạn nhớ lại… Và, những vấn đề
tưởng chừng hệ trọng, như chiến tranh, nạn cháy rừng, lũ lụt,… được tác giả kể
lại với giọng điệu nhẹ tênh, tưng tửng, rồi thoáng qua như những hình ảnh chuyển
động nhanh trong một đoạn phim ngắn. Rồi nhà thơ bất ngờ chuyển cảnh: … Cuộc
khủng bố. Nhưng một ngày không kéo dài cách ấy. Ngay trong một câu thơ, có
dấu chấm ở giữa câu, nhà thơ bất ngờ chuyển sang “kênh” khác với những hình ảnh
cố ý tạo đốm sáng để người đọc hình dung một địa văn hóa, địa chính trị khác
trong nền không gian sâu hút, mờ sương: ly cà phê quán cóc, thư viết
tay,... ngọn đèn bếp ấm, nhiệm vụ lặp lại… Đọc đến đây, tôi bỗng liên tưởng
việc tiếp cận văn bản thơ, tựa như được tác giả đặt vào tay bạn đọc một chiếc ống
nhòm. Bạn đọc cầm chiếc “ống nhòm” lên và hướng vào khu rừng, thấy một con chim
đang đậu lên đỉnh cây cổ thụ, rồi khẽ nhích ống nhòm lại thấy con đường mòn, rồi
khẽ nhích, khẽ nhích,… Bỗng chốc bạn đọc đã đủ hình dung quang cảnh cả khu rừng
rộng lớn từ mọi góc nhìn. Sẽ kéo dài ra cuộc đời bất tận/ Như khi người
khách lạ, vừa đi vội vã vừa kéo lê va li trên đường. Hai câu thơ
đặt ở vị trí gần kết thúc bài thơ như vô tình đẩy bạn đọc hòa vào dòng chảy bất
tận của đời sống đương thời với ngổn ngang những âu lo, hạnh phúc, khổ đau, ý
nghĩa và vô nghĩa,… Ngay trong một bài thơ không dài, Nguyễn Đức Tùng đã liên
tiếp mở ra nhiều không gian thơ tiếp nối và đan xen. Những không gian liên tục
chuyển động, liên tục diễn tiến và khép mở. Trong một thoáng phân vân nào đó, nếu
ta ý thức được ý nghĩa của nó, thì đó chính là niềm hạnh phúc bất tận trên thế
gian tuyệt đẹp và cũng đầy bất trắc này. Đây là một trong những bài thơ cách
tân có lối lập tứ độc đáo, cùng với ngôn ngữ và nhịp điệu chưa từng xuất hiện
trong thơ Việt trong những giai đoạn trước đây.
4. Thơ cách tân sau 1975 mang dấu ấn của nhiều khuynh hướng,
trào lưu của thơ ca thế giới, trong đó phần lớn ảnh hưởng chủ nghĩa Tượng trưng
và Siêu thực. Khác với thơ Lãng mạn dựa trên cảm
xúc, thơ Cổ điển dựa trên lý
trí, thơ Tượng trưng và Siêu thực dựa trên trực
giác, một phần ảnh hưởng thuyết Phân tâm học của nhà khoa học thần kinh và
tâm lý người Áo Sigmund Freud (1885 –1939). Có người còn cho rằng chủ nghĩa Siêu
thực ngày nay rất gần với tư tưởng của Thiền. Nếu so sánh ảnh hưởng của chủ
nghĩa Tượng trưng và Siêu thực giữa thế hệ thơ trước đây (Hàn Mặc Tử, Bích Khê,
Chế Lan Viên trong giai đoạn đầu,…) với các nhà thơ cách tân sau 1975, chúng ta
thấy có sự khác biệt căn bản.
Trong tác phẩm của các nhà thơ thế hệ trước, bóng dáng của Tượng trưng và Siêu thực nằm trong hệ hình ngôn ngữ, tổ chức câu, cách tu từ,... nhưng trên căn bản thơ họ vẫn được cấu tứ trên nền tảng của cấu trúc thơ Hiện thực và Lãng mạn. Nhưng, thơ cách tân sau 1975 đã thay đổi tận gốc rễ kiến tạo không gian, thay đổi nền tảng của cấu trúc bài thơ, tạo nên sự hỗn mang, đa chiều trong cách làm hiển lộ thi ảnh và phương hướng chuyển động của chúng. Ở khuynh hướng này, dấu ấn của Tượng trưng và Siêu thực nằm ở những mặt cắt của những mảnh không gian đan xen, tiếp nối, chồng lấn mờ nhòe,… Cách thiết lập hình ảnh, kiến tạo không gian của Tượng trưng và Siêu thực đã giúp các nhà thơ cách tân sau 1975 và bạn đọc tự mở ra nhiều cánh cửa khi sáng tạo và tiếp nhận, vượt qua được những đường biên của liên tưởng và cảm xúc quen thuộc, thông thường. Xin dẫn chiếu một số câu thơ tiêu biểu của một số tác giả có ảnh hưởng hai khuynh hướng vừa nêu:
Trong tác phẩm của các nhà thơ thế hệ trước, bóng dáng của Tượng trưng và Siêu thực nằm trong hệ hình ngôn ngữ, tổ chức câu, cách tu từ,... nhưng trên căn bản thơ họ vẫn được cấu tứ trên nền tảng của cấu trúc thơ Hiện thực và Lãng mạn. Nhưng, thơ cách tân sau 1975 đã thay đổi tận gốc rễ kiến tạo không gian, thay đổi nền tảng của cấu trúc bài thơ, tạo nên sự hỗn mang, đa chiều trong cách làm hiển lộ thi ảnh và phương hướng chuyển động của chúng. Ở khuynh hướng này, dấu ấn của Tượng trưng và Siêu thực nằm ở những mặt cắt của những mảnh không gian đan xen, tiếp nối, chồng lấn mờ nhòe,… Cách thiết lập hình ảnh, kiến tạo không gian của Tượng trưng và Siêu thực đã giúp các nhà thơ cách tân sau 1975 và bạn đọc tự mở ra nhiều cánh cửa khi sáng tạo và tiếp nhận, vượt qua được những đường biên của liên tưởng và cảm xúc quen thuộc, thông thường. Xin dẫn chiếu một số câu thơ tiêu biểu của một số tác giả có ảnh hưởng hai khuynh hướng vừa nêu:
- Nỗi đau đớn tiếp tục cháy
trước khi nàng đặt vào mắt tôi hòn đá khác
tất cả những gì thuộc về tôi đã không như trước nữa
(Ở cùng một nơi với những người vấp ngã - Trần Tiến
Dũng)
- Vít tay ga phóng vượt qua nước mắt
Sang bên kia bầu trời
Chạm vào thời tiết và tan biến
Các chấm đỏ lại nôn nao ẩn hiện
Trong đường cua quái đản
Lấp lánh theo dọc dải Ngân hà
Em lộng lẫy sau xe như tích tắc cuối cùng của mùa hạ
(Xe máy - Nguyễn Bình Phương)
Cùng với khuynh hướng Tượng trưng và Siêu thực vừa nêu, dấu ấn
của trào lưu hậu hiện đại cũng để lại khá đậm nét trong tác phẩm của một số nhà
thơ cách tân, như thơ Trần Tiến Dũng, Inrasara,… Cần nói thêm rằng, tinh thần Hậu-hiện
đại ra đời ở phương Tây đã gần nửa thế kỷ. Đây là một trào lưu văn hóa hơn là một
khuynh hướng văn học. Song, một số tác giả đã vận dụng cách viết của Hậu-hiện đại
(giễu nhại, lắp ghép, liên văn bản, trần thuật đoản mạch, ý thức hỗn dung, xóa
nhòa trung tâm và ngoại biên,…), và, họ đã có những thành công đáng kể. Đoạn
thơ dưới đây của nhà thơ Inrasara sáng tác theo phong cách Hậu-hiện đại, như một
dẫn chứng về cách tự diễu, phản tỉnh mạnh mẽ:
Tôi
đang làm
gì là gì
nhà
thơ nhà
nghiên cứu
nhà kinh doanh
hay miếng giẻ rách.
Kiếp trước chắc chắn
tôi là chim kiếp sau làm loài ếch
có
lẽ kêu
ồm ộp
ngoài mưa
Trí thức không hẳn trí thức
truyền thống không thật truyền thống
thi ca vắng mặt thi ca
Tôi kêu ồm ộp trong mưa thật
Nhà thơ Trần Tiến Dũng dùng những thủ pháp khác lạ. Tác giả
như chế bản lại (parody) hòa trộn những âm hưởng và giai điệu dân ca quen thuộc
miền Tây Nam Bộ quê hương ông với tiết tấu nhanh, ngắt quãng trong
không gian hiện đại với nhiều mặt cắt. Hình ảnh một “Tay chơi ruộng” ngất ngưởng,
phóng túng, xuất hiện thật đáng yêu trong khổ thơ sau:
Tay chơi ruộng
trên đường miệng ngậm rơm
tháng hai đuổi hơi thở hắn
khỏi hương cá, hương cơm
thương không thương cũng thôi em ơi!
chớ suốt đêm với gai mắc cỡ
chết được rồi
sống lại mà chi!
Các nhà thơ cách tân áp dụng thành công nhiều khuynh hướng
thơ thế giới vào sáng tác, một mặt, đã làm phong phú thêm thơ Việt đương đại,
và theo một cách nhìn khác, đó chính là cách để họ tìm đường đến với một phong
cách thơ Việt hiện đại trong tương lai gần. Phong cách sáng tác này khá gần với
Chủ nghĩa Cổ điển Tự nhiên – một trào lưu văn nghệ tiến bộ đương phát triển
ở Mỹ và châu Âu. Trào lưu này do Nhà thơ - Giáo sư Frederich Turner sáng lập với
những nội dung chính như, tái hợp nghệ sĩ với công chúng, tái hợp cái đẹp với đạo
đức, tái hợp nghệ thuật cấp cao với nghệ thuật cấp thấp, tái hợp nghệ thuật với
tay nghề, tái hợp nhiệt tình và trí tuệ, tái hợp nghệ thuật với khoa học, tái hợp
quá khứ với tương lai,... Một số bài thơ của Nguyễn Đức Tùng, Nguyễn Quang Thiều,
Nguyễn Bình Phương, Giáng Vân,… đã chịu ảnh hưởng hoặc vô tình rất gần với
khuynh hướng này. Đây cũng chính là dòng văn học quy tâm, đưa nhân loại trở về
với thuở oanh nhi của mình:
- Trong biệt tăm/ Tôi thả mình rơi thong thả/ Không gì bực dọc/
Chỉ rặt những thứ vu vơ/ Tôi/ Hóa ra những vụn vỡ nhỏ/ Li ti/ Hạt giống của
loài hoa cỏ/ Có thể nẩy mầm rất nhanh/ Một sáng thôi/ Làm tràn ngập sự thanh
khiết (Biến hóa – Giáng Vân)
- nước câu mặt trời/ mặt trời câu gió/ phố câu người đời/ ô/
quê mùa câu phố/ ngày mai câu một ngày mai khác/ bằng gương mặt lơ vơ (Buổi
câu hờ hững - Nguyễn Bình Phương)
- Những vòm cây đã trộn vào nhau/ Rễ trộn vào thân và lá
trộn vào quả…/ Tỉnh giấc trong khuya bởi màu trắng cơn mê/ Cố hương xoã tóc đen
đi trong gió trắng/ Cố hương vật lên như sóng/ Cố hương vùi mình như muối triệu
năm (Chuyển dịch màu đen-Nguyễn Quang Thiều)
Khảo sát những gương mặt thơ cách tân sau 1975 cho thấy, mỗi
tác giả thường ảnh hưởng từ một đến hai, thậm chí hầu hết các khuynh hướng thơ
chủ lưu trên thế giới. Điều này phụ thuộc vào cách tiếp cận, hệ hình thẩm mỹ và
nguồn tư liệu của mỗi người. Có một số tác giả dù không tiếp cận trực tiếp với
văn bản thơ của các trào lưu, khuynh hướng thơ bên ngoài, nhưng sự đổi mới,
cách tân của họ tự phát như một bản năng. Bởi ngay trong những làn điệu dân ca,
ca dao, tục ngữ, phương ngữ… của mỗi dân tộc từ xa xưa đã xuất hiện bóng dáng một
số thủ pháp nghệ thuật ngôn ngữ như Tượng trưng, Siêu thực, Biểu hiện, Hậu-hiệnđại...
Có thể, ta chưa có một khuynh hướng, trào lưu chính thức là do chưa có người
đúc kết, tập hợp và cổ xúy thành quy luật mà thôi.
5. Xây dựng và định hình một khuynh hướng thơ Việt hiện đại,
chính là đích đến của một số nhà thơ cách tân sau 1975, cũng là mong đợi của tất
cả bạn đọc hiện nay. Thơ chúng ta không thể mãi chịu ảnh hưởng các khuynh hướng,
trào lưu thơ ca bên ngoài. Như tôi đã nói trong một vài tiểu luận trước đây, nếu
đi ngược lại thời gian từ tác phẩm của nhà thơ Tản Đà, nền văn chương cử tử của
Việt Nam về trước chủ yếu ảnh hưởng thơ đời Đường và tiền thơ Tống. Giai đoạn từ
hậu thơ Tống đến nay, bạn đọc chúng ta chưa hiểu sâu rộng về thơ Trung Hoa.
Tương tự như vậy, gần đây chúng ta mới chú tâm nghiên cứu thơ Nhật Bản, Ấn Độ
và các nước trong khu vực. Sau thời điểm tính mốc từ thơ Tản Đà, cuộc cách mạng
Thơ Mới đã đưa nền thơ chúng ta gần với thơ Hiện thực và Lãng mạn của phương
Tây, chủ yếu là thơ Pháp. Sau thời điểm Đổi mới, một số tác giả cách tân áp dụng
một số thủ pháp của các khuynh hướng hiện đại châu Âu (Tượng trưng, Siêu thực,
Biểu hiện,…) và các trào lưu thơ khác sau đó, như hậu hiện đại, thơ Ngôn ngữ,
Tân hình thức, Cổ điển tự nhiên,… Hiện trạng tác phẩm đã công bố cho thấy, có một
số tác giả bị “chôn chân” trong các “bãi lầy” trào lưu, khuynh hướng thơ mà thế
giới đã đi qua. Ngay một số cây bút lý luận phê bình cũng lúng túng trong cách
phân định, đánh giá những tác phẩm mang tính “thể nghiệm” này. Tôi nhớ khoảng
mươi năm trước, mỗi khi xuất hiện tác phẩm có cách viết lạ đều được một số nhà
phê bình liệt vào dạng “Siêu thực”. Và gần đây, những hiện tượng tương tự lại
được ghép chung vào nhóm “Hậu hiện đại”…
Trong một lần trả lời phỏng vấn báo chí, tôi đã nêu quan niệm
của mình: Chúng ta nên hiểu thấu đáo tất cả các trào lưu, khuynh hướng thơ ca
thế giới, bởi dù ít nhiều đó là một phần tinh hoa, văn minh nhân loại. Nếu cố
tình bỏ qua những thành tựu đó, nền thơ chúng ta sẽ đơn điệu, nghèo nàn,...
Nhưng, thơ ca chúng ta không nên áp dụng máy móc, sống sượng những trào lưu đó.
Bởi điều kiện và đời sống văn học nước ta lúc này cần một xu thế văn học khác,
có hệ hình thẩm mỹ phù hợp hơn. Do vậy tôi quan niệm, các trào lưu, khuynh hướng
thơ ca bên ngoài cũng như các nguồn mạch, dòng sông đang chảy qua một cánh đồng.
Chúng ta không nên be ngăn dòng chảy ấy lại, mà chỉ ngưng giữ những hạt phù sa
làm tươi tốt, mỡ màu thêm cho cánh đồng thơ Việt. Để định hình một khuynh hướng
thơ Việt hiện đại trong tương lai gần, tôi tạm đưa ra một vài quan niệm cho
riêng mình khi sáng tác. Bắt đầu từ cội nguồn, tinh hoa văn hóa Việt. Những
nghi thức tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán, những giá trị văn hóa vật
thể và phi vật thể,...
Những báu vật ấy là chất liệu, nền tảng xây dựng không gian thơ với nhiều hướng mở, đa tầng hình ảnh, ý tưởng, cảm xúc,... Có ý thức chắt lọc, tôn trọng những giá trị độc sáng, khác biệt khi hòa nhập để tạo những giá trị mới mang tính khai sáng, mở đường. Hướng tới cách biểu đạt tối giản, đa nghĩa, chủ ý tạo không gian, tạo áp lực hơn là tập trung gọt giũa tu từ, hình ảnh, nhịp điệu,… Tạo những cấu trúc câu mới, những từ nghĩa mới, gia tăng khả năng biểu cảm làm trong sáng thêm ngôn ngữ Việt trong sáng tạo…Khuynh hướng thơ cách tân sau 1975 khi mới xuất hiện, và ngay trong thời điểm hiện nay vẫn gặp không ít những phản ứng tiêu cực từ phía bạn đọc và một vài nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Thực tế cho thấy, những phản ứng này không làm chậm lại chuyển động của dòng chảy thơ đổi mới, cách tân. Ngược lại, nó còn thôi thúc, kích hoạt thêm quá trình định hình, khẳng định chắc chắn một khuynh hướng sáng tạo mới.
Những báu vật ấy là chất liệu, nền tảng xây dựng không gian thơ với nhiều hướng mở, đa tầng hình ảnh, ý tưởng, cảm xúc,... Có ý thức chắt lọc, tôn trọng những giá trị độc sáng, khác biệt khi hòa nhập để tạo những giá trị mới mang tính khai sáng, mở đường. Hướng tới cách biểu đạt tối giản, đa nghĩa, chủ ý tạo không gian, tạo áp lực hơn là tập trung gọt giũa tu từ, hình ảnh, nhịp điệu,… Tạo những cấu trúc câu mới, những từ nghĩa mới, gia tăng khả năng biểu cảm làm trong sáng thêm ngôn ngữ Việt trong sáng tạo…Khuynh hướng thơ cách tân sau 1975 khi mới xuất hiện, và ngay trong thời điểm hiện nay vẫn gặp không ít những phản ứng tiêu cực từ phía bạn đọc và một vài nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Thực tế cho thấy, những phản ứng này không làm chậm lại chuyển động của dòng chảy thơ đổi mới, cách tân. Ngược lại, nó còn thôi thúc, kích hoạt thêm quá trình định hình, khẳng định chắc chắn một khuynh hướng sáng tạo mới.
Theo dõi diễn biến thơ đương đại trong khuynh hướng cách tân
sau 1975 của nền thơ Việt Nam, tôi cho rằng, một nền văn học phong phú, đặc biệt
thơ ca đương đại với nhiều khuynh hướng, nhiều phong cách sáng tạo là tín hiệu
đáng mừng cho đời sống văn học chúng ta. Cần tiếp tục khuyến khích, cổ xúy những
giá trị sáng tạo mới. Đó chính là cách chúng ta làm giàu có thêm tài sản tinh
thần dân tộc để thúc đẩy quá trình sáng tạo, đổi mới ngay chính trong mỗi trào
lưu thơ ca hiện nay. Điều đáng mừng là, sự xuất hiện những nhân tố mới trong
sáng tạo, thực tế đã và đang làm thay đổi quan niệm của khá nhiều tác giả. Những
người vẫn tiếp tục sáng tác theo hệ hình thi pháp cũ. Họ có thể phản ứng, phản
đối những tác phẩm viết theo khuynh hướng cách tân. Nhưng bản thân sáng tác là
một chuyển động liên tục, làm mới chính mình. Người viết cũng không nên đi lại
lối mòn mà cần thay đổi để phù hợp với trào lưu chung.
Đổi mới, cách tân thi pháp là cách các nhà thơ lấy lại lòng
tin, vị thế trong lòng bạn đọc hiện nay. Đồng thời, điều đó cũng giúp những người
sáng tác chúng ta tự tin hơn khi văn học Việt Nam hòa nhập với văn học các nước
trong khu vực và thế giới. Trên bình diện đó, thơ cách tân sau 1975 thực sự đã
đóng góp xứng đáng vào văn hóa tinh thần dân tộc, làm phong phú, đa dạng thêm nền
văn học Việt đương đại. Các nhà thơ đang gieo lên cánh đồng thơ Việt những hạt
giống tâm hồn Việt, thấm đẫm cảm xúc, ẩn ức, tâm lý, lịch sử, hiện thực Việt,
cùng những khao khát của con người đương thời để tạo nên những thành quả mới, giá
trị mới.
MAI VĂN PHẤN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét