Xin đi vào thiền hôm nay với tràn đầy hi vọng và ý chí vô
cùng, và biết rằng bạn sắp thực hiện nó. Biết rằng như mặt trời đã lên và tràn
ngập ánh sáng lên mặt đất, ánh sáng riêng của bạn cũng sẽ làm tràn ngập bạn ở
bên trong. Như hoa đã nở sáng nay, hoa của phúc lạc cũng nở bên trong bạn. Người
bắt đầu cuộc hành hương của mình với hi vọng tràn trề đạt tới mục đích của
mình, người đòi hỏi với tất cả khao khát của mình thì đạt tới Thượng đế.
Những người có thể thì nên thiền ở tư thế đứng. Các bạn đang
ngồi gần những người đứng sẽ ở chỗ tốt hơn khi rời xa khỏi họ để cho mình không
bị tổn thương bởi ai đó ngã lên mình. Đà của hành động là lớn khi nó được
thực hiện trong tư thế đứng; toàn thể thân thể sẽ bắt đầu nhảy múa trong cực lạc.
Do đó các bạn ngồi gần họ nên dời ra xa, để cho họ có đủ không gian.
Và thu lấy dũng cảm và đem tất năng lượng của bạn vào việc
thiền ngày. Đừng để dành lại cái gì.
Giai đoạn thứ nhất
Nhắm mắt lại và bắt đầu thở sâu. Hít vào sâu và thở ra sâu,
và quan sát bên trong rằng hơi thở này đi vào và hơi thở khác đi ra. Hít hơi thở
sâu vào và tống hơi thở sâu ra... Lấy hơi thở vào sâu và lấy hơi thở ra sâu. Thở
sâu, thở sâu, thở sâu. Đem tất cả năng lượng của bạn vào trong nó. Trong mười
phút thở thật hết sức - vào và ra. Thở sâu - vào và ra. Thở sâu, thở sâu. Và sử
dụng tuyệt đối bản thân mình.
Thở sâu, thở sâu hơn, thở sâu hơn nữa. Và giữ việc quan sát
bên trong; vẫn còn là nhân chứng cho từng hơi thở vào và ra. Thở sâu, thở sâu,
thở sâu, và giữ việc quan sát, giữ việc chứng kiến. Thấy hơi thở này đang đi
vào và hơi thở khác đang đi ra. Và đầu tư tất cả sức mạnh của bạn vào việc thở
sâu. Thở sâu, thở sâu hơn và thở còn sâu hơn nữa.
Trong mười phút đem tất cả sức mạnh của bạn vào cuộc chơi. Thở
sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu. Và giữ việc quan sát bên trong rằng
hơi thở sâu đi vào và hơi thở sâu khác đi ra. Và dùng hết sức mạnh của bạn
trong việc thở. Đừng giữ lại dù chỉ một li của nó. Sử dụng bản thân mình tới mức
cực đại. Thở sâu, thở sâu, thở sâu. Để thân thể biến thành một đống năng lượng.
Để không cái gì còn lại ngoài việc thở. Để thân thể biến thành điện. Thở sâu,
sâu hơn, sâu hơn nữa... Thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu. Không ai
nên tụt lại sau; cho nên dùng tất cả năng lượng của bạn vào việc thở. Thở sâu,
thở sâu...
Bây giờ chỉ còn lại năm phút, cho nên sử dụng sức tối đa của
bạn. Rồi chúng ta sẽ đi vào giai đoạn thứ hai. Thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở
sâu, thở sâu, thở sâu. Để thân thể trở thành cái máy, cái máy thở. Cho nên thở
sâu, thở sâu hơn, thở sâu hơn nữa. Đem vào cuộc chơi này toàn thể sức mạnh của
bạn, không giữ lại cái gì... chỉ việc thở còn lại, chỉ việc thở. Đừng lẩn
tránh, đừng kìm lại, đừng giảm bớt nỗ lực; không giữ lại cái gì, đưa vào vận động
toàn bộ sức mạnh của bạn. Đem tất cả năng lượng của bạn vào cuộc chơi. Đặt tất
cả sức mạnh của bạn vào việc thở. Đem tất cả sức của bạn vào thở sâu.
Đừng lẩn tránh, đừng giảm bớt nỗ lực, đừng tụt lại sau. Để
toàn thể bầu không khí được tích điện. Làm hết sức bạn và điều đó sẽ xảy ra. Đầu
tư tất cả năng lượng của bạn và bạn sẽ làm ra nó... Thở sâu, thở sâu, thở sâu,
thở sâu, thở sâu. Và sử dụng sức tối đa của bạn... Thấy rằng bạn không làm giảm
bớt đà này. Tôi bây giờ ở rất gần các bạn và đang yêu cầu các bạn làm hết sức
mình để cho các bạn không phải nói về sau rằng các bạn đã không thể làm được
nó. Cho nên đem tất cả năng lượng của bạn vào việc thở nhanh và sâu. Đem tất cả
năng lượng của bạn. Đem tất cả năng lượng của bạn. Và thở sâu, thở sâu hơn, thở
sâu hơn nữa, thở nhanh và sâu. Bạn thở càng sâu càng dễ đánh thức năng lượng.
Thế thì kundalini bắt đầu dâng lên. Thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu.
Kundalini sẽ dâng lên, chỉ khi bạn thở nhanh và sâu. Thở sâu, thở sâu, thở sâu,
thở sâu... Năng lượng sẽ thăng lên, bạn chỉ thở nhanh và sâu. Thở sâu, thở sâu,
thở sâu.
Bây giờ chỉ còn hai phút để làm nữa thôi, cho nên đi vào nó với
toàn thể sức mạnh của bạn. Thở sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu. Thở sâu nhất có
thể được. Chỉ còn lại hai phút thôi, cho nên sử dụng tối đa sức của bạn. Thế rồi
chúng ta sẽ chuyển sang giai đoạn thứ hai. Thở sâu, thở sâu... thở sâu... Nếu
cái gì đó đang dâng lên bên trong, cứ để nó dâng lên... Bây giờ phút cuối cùng,
đem toàn thể sức mạnh của bạn vào trong nó. Rồi chúng ta chuyển qua giai đoạn
hai... Thở nhanh và sâu... và làm điều đó với tất cả sức mạnh của bạn. Thở với
tất cả sức mạnh của bạn. Năng lượng đang dâng lên bên trong, cho nên đừng để
dành cái ta của bạn. Đem tất cả năng lượng của bạn vào trò chơi. Thở sâu, sâu
hơn, sâu hơn nữa. Đặt tất cả năng lượng của bạn vào việc thở. Nện bên trong bạn
bằng thở nhanh và thở sâu, và năng lượng sẽ bắt đầu thức dậy. Thở sâu, thở sâu,
thở sâu, thở sâu, thở sâu, và thở sâu. Bây giờ chúng ta sắp đi vào giai đoạn thứ
hai. Cho nên thở sâu, thở sâu hơn và thở sâu hơn nữa. Tôi đang bảo từng người
các bạn trực tiếp đầu tư toàn bộ năng lượng của mình vào việc thở. Thở sâu, thở
sâu, thở sâu, thở sâu, thở sâu.
Bây giờ sang giai đoạn thứ hai.
Giai đoạn thứ hai
Tiếp tục thở sâu, và buông bỏ thân thể. Bất kì điều gì xảy ra
cho thân thể, cứ để nó xảy ra. Nếu nó khóc, để cho nó khóc. Nếu nó cười, cho
phép nó. Nếu nó nhảy múa, để nó tự do nhảy múa. Cho phép mọi thứ xảy ra cho
thân thể. Buông bỏ nó. Đừng kháng cự lại. Đừng can thiệp. Để thân thể một
mình... Để thân thể một mình. Cho phép mọi điều xảy ra cho thân thể. Buông bỏ
nó hoàn toàn. Cho phép bất kì điều gì xảy ra cho các chi của thân thể; buông bỏ
chúng. Buông bỏ thân thể. Bất kì điều gì xảy ra cho thân thể trong mười phút
này, để cho nó xảy ra không bị cản trở... buông bỏ thân thể. Buông bỏ thân thể
hoàn toàn. Nó sẽ nhảy múa. Nó sẽ nhảy nhót. Cho phép mọi điều xảy ra cho nó
theo cách riêng của nó. Nếu năng lượng bên trong dâng lên, thân thể sẽ diễn đạt
điều đó qua việc nhảy múa, nhảy nhót... cho phép nó làm như vậy. Buông bỏ thân
thể tuyệt đối. Buông bỏ là từ khoá.
Buông bỏ thân thể, và tiếp tục thở sâu. Khi năng lượng bên
trong dâng lên, thân thể sẽ nhảy múa, nhảy nhót và run rẩy; cho phép mọi thứ xảy
ra cho nó. Thân thể sẽ lăn lộn trên đất, nó sẽ la hét và gào thét; đừng chống lại.
Buông bỏ. Buông bỏ thân thể hoàn toàn để cho bạn thấy nó tách rời với bạn.
Buông bỏ thân thể; buông bỏ thân thể tuyệt đối. Để thân thể cho chính nó. Buông
bỏ nó hoàn toàn. Để nó chỉ là một công cụ của điện. Nó đang nhảy múa. Nó đang
nhảy lên. Nó đang rung lắc... Buông bỏ nó. Thân thể đang kêu khóc. Thân thể
đang cười. Để nó một mình làm điều nó thích. Bạn tách rời với thân thể; buông bỏ
thân thể. Để cho mọi điều xảy ra cho nó; đừng chống lại. Một số bạn đang kháng
cự lại, đừng làm như vậy. Buông bỏ. Đừng kháng cự lại chút nào. Để cho mọi điều
xảy ra cho nó... Thân thể phải bị mệt mỏi rã rời. Hợp tác với thân thể. Cho
phép mọi điều xảy ra cho nó... Thân thể phải tự nó làm mệt mỏi rã rời. Buông bỏ.
Buông bỏ toàn bộ. Để mọi điều xảy ra. Buông bỏ. Buông bỏ. Đừng kháng cự. Thấy rằng
bạn không kháng cự. Đừng kháng cự chút nào. Buông bỏ. Buông bỏ hoàn toàn.
Bây giờ còn lại năm phút nữa, cho nên buông bỏ thân thể toàn
bộ. Hợp tác với nó trong bất kì điều gì xảy ra với nó. Bất kì điều gì thân thể
làm, bạn hợp tác với nó. Để nó cười nếu nó chọn làm vậy. Để nó khóc nếu nó muốn
vậy. Để nó nhảy múa nếu nó bắt đầu nhảy múa. Đừng gây chướng ngại, đừng kháng cự.
Nếu nó nhảy nhót cứ để nó nhảy. Buông bỏ. Buông bỏ toàn bộ.
(Micro phôn dừng làm việc một chốc khi thao tác viên rời bỏ
công việc và tham gia thiền, và Osho phải hướng dẫn thiền mà không có micro
phôn.)
Buông bỏ thân thể hoàn toàn. Và cho phép đầy đủ bất kì điều
gì xảy ra cho nó. Buông bỏ với toàn bộ sức mạnh của bạn. Buông bỏ. Bây giờ chỉ
còn lại hai phút để làm. Cho nên buông bỏ thân thể tuyệt đối... Thân thể tách rời
với bạn và bạn tách rời với thân thể. Cho phép mọi thứ xảy ra cho thân thể... bạn
tách rời với thân thể. Trong hai phút để thân thể cho chính nó hoàn toàn. Thế rồi
chúng ta chuyển sang giai đoạn thứ ba. Buông bỏ, buông bỏ, buông bỏ thân thể
theo mọi cách... Thở sâu và buông bỏ thân thể. Để cho thân thể mệt mỏi hẳn.
Buông bỏ. Buông bỏ. Buông bỏ. Thở sâu và buông bỏ thân thể... Nếu thân thể nhảy
múa để cho nó làm vậy. Buông bỏ nó hoàn toàn... Đem toàn thể sức mạnh của bạn
vào nó trước khi chúng ta đi vào giai đoạn thứ ba. Buông bỏ thân thể; buông bỏ.
Bây giờ chỉ còn lại một phút, cho nên buông bỏ thân thể hoàn toàn. Và cho phép
mọi thứ xảy ra với nó. Trong một phút buông bỏ tuyệt đối. Buông bỏ. Để thân thể
la hét, khóc lóc và cười. Buông bỏ hoàn toàn. Để thân thể làm điều nó muốn
làm... Các bạn sẽ thấy rõ ràng rằng các bạn là tách rời và thân thể là tách rời.
Buông bỏ thân thể tuyệt đối, và thế rồi chúng ta chuyển sang giai đoạn thứ ba.
Buông bỏ. Buông bỏ... Hợp tác với nó. Buông bỏ thân thể và đi vào giai đoạn thứ
ba.
Hỏi từ bên trong: "Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi
là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?" Trong trọn mười phút để thân thể nhảy múa và
xoay tròn, để việc thở sâu tiếp diễn và liên tục hỏi bên trong, "Tôi là
ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?" Sử dụng bản
thân mình đầy đủ và hỏi, "Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi
là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?" Cứ tiếp tục
hỏi với tràn đầy sức mạnh, "Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?" Cứ hỏi
với tràn đầy sức mạnh, "Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là
ai? Tôi là ai?"
Hỏi: "Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là
ai? Tôi là ai? Tôi là ai?" Hỏi với toàn thể sức mạnh của bạn, "Tôi là
ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?" Hỏi, "Tôi
là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?"
Đem toàn thể năng lượng của bạn cho nó và hỏi, "Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi
là ai? Tôi là ai?" Đưa vào hành động toàn thể năng lượng của bạn và hỏi,
"Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là
ai? Tôi là ai?"
Bây giờ còn trong tay năm phút, cho nên dành cho bản thân bạn
toàn bộ câu hỏi này, và thế rồi chúng ta sẽ thảnh thơi và nghỉ ngơi. Buông bỏ
thân thể và tiếp tục hỏi từ bên trong, "Tôi là ai? Tôi là ai?" Dùng
toàn thể sức mạnh của bạn, dùng toàn diện sức mạnh của bạn và hỏi, "Tôi là
ai? Tôi là ai?" Đem toàn thể năng lượng của bạn vào nó và hỏi, "Tôi
là ai? Tôi là ai?" Sử dụng bản thân bạn tuyệt đối và hỏi, "Tôi là ai?
Tôi là ai?" Sử dụng tối đa bản thân bạn và hỏi, "Tôi là ai? Tôi là
ai?"
Bây giờ chỉ còn lại ba phút và thế rồi chúng ta sẽ nghỉ, cho
nên hỏi mãnh liệt, "Tôi là ai? Tôi là ai?" Làm mệt bản thân bạn đi.
Năng lượng đang dâng lên bên trong... "Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?
Tôi là ai?" Bây giờ chỉ còn hai phút, cho nên hỏi, "Tôi là ai? Tôi là
ai? Tôi là ai?" Cứ tiếp tục hỏi, "Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?
Tôi là ai?" Hai phút cuối cùng, và thế rồi chúng ta sẽ nghỉ, cho nên đưa
vào hành động toàn thể sức mạnh của bạn và hỏi, "Tôi là ai? Tôi là
ai?" Năng lượng đang thức dậy bên trong, cho nên để thân thể nhảy múa với
sự bỏ mặc. Buông bỏ và hỏi, ''Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi
là ai?" Để năng lượng bên trong thức dậy đầy đủ và hỏi, "Tôi là ai?
Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?" Hoàn toàn phát điên, và hỏi,
"Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?"... Làm mệt rã rời bản
thân bạn, sau đó bạn sẽ thảnh thơi và nghỉ ngơi..."Tôi là ai? Tôi là ai?
Tôi là ai?"
Bây giờ phút cuối cùng, "Tôi là ai?" Để thân thể nhảy
múa với việc bỏ mặc, nếu nó muốn thế..."Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?
Tôi là ai?" Trước khi chúng ta đi vào thảnh thơi, đem tối đa năng lượng của
bạn vào trong nó. Sử dụng bản thân bạn tới mức tối đa trong phút cuối cùng này,
và hỏi, "Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?" Đừng bỏ lỡ cơ hội
này; sử dụng bản thân bạn tới mức tối đa..."Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là
ai? Tôi là ai? Tôi là ai?" Đưa vào giọt năng lượng cuối cùng của bạn, và
thế rồi chúng ta đi vào thảnh thơi, "Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi
là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?"
Giai đoạn thứ tư
Đó là tất cả, không thêm nữa. Vứt bỏ mọi thứ. Vứt việc thở, vứt
thở sâu, dừng mọi hoạt động và nằm ra ở bất cứ chỗ nào bạn đang ở. Những người
đang đứng nên giữ việc đứng. Nhưng nếu ai đó muốn nằm ra, người đó có thể nằm...
Để mọi thứ tĩnh lặng và yên tĩnh, yên tĩnh và trống rỗng... Không hỏi cũng
không làm gì cả. Chỉ nằm ra dường như các bạn chết rồi, dường như các bạn không
còn nữa... Cơn bão đã dừng, để lại sau an bình bên trong... Mọi thứ đã được xoá
hết... Mọi thứ đều im lặng. Cơn bão đã qua... cho nên nằm và thảnh thơi, thảnh
thơi trong mười phút này. Chính trong im lặng này, trong trống rỗng này mà người
ta đi tới người mà chúng ta đã từng tìm kiếm... Chỉ giữ nằm thảnh thơi và yên
tĩnh... Không còn thở sâu, không còn hỏi "Tôi là ai?" Không làm gì cả.
Từ bỏ mọi thứ. Nếu các bạn đang đứng giữ việc đứng. Nếu các bạn đã ngã ra trên
đất, vẫn còn như vậy. Cứ nằm nếu các bạn đã ở tư thế đó. Chết trong mười phút
này, dường như các bạn không còn nữa... Cơn bão đã qua và có an bình khắp xung
quanh. Có im lặng khắp nơi...
Chính trong tĩnh lặng này, trong hư không này mà cái gì đó sẽ
xảy ra, hoa nào đó sẽ nở ra, dòng suối an bình nào đó sẽ phun ra, âm nhạc của
phúc lạc sẽ được nghe thấy. Chính trong hư không này mà Thượng đế tới. Chờ đợi
ngài, chờ đợi, chờ đợi ngài... Cứ nằm, cứ nằm. Chờ đợi, chờ đợi, chỉ chờ đợi. Mọi
thứ đều kiệt quệ. Mọi thứ đều trống rỗng... Chờ đợi, chờ đợi. Tôi bây giờ sẽ im
lặng trong mười phút. Và trong mười phút này các bạn nằm yên tĩnh.
Dường như các bạn chết rồi, dường như các bạn đã biến mất. Chỉ
trống rỗng còn lại. Mọi thứ đều yên tĩnh. Mọi thứ đều an bình. Mọi thứ đều im lặng.
Chính trong im lặng này mà Thượng đế tới... Trống rỗng này là cánh cửa qua đó
ngài đi vào chúng ta. Chờ đợi, chỉ chờ đợi... Dường như các bạn chết rồi. Dường
như các bạn đã biến mất. Cơn bão đã qua để lại đằng sau chỉ an bình và lặng lẽ.
Chờ đợi, chờ đợi, chỉ chờ đợi...
Chính trong khoảnh khắc này cái gì đó xảy ra. Chờ đợi một
cách im lặng. Chờ đợi một cách im lặng. Mọi thứ đều trống rỗng, hư không. Chờ đợi.
Chờ đợi. Chờ đợi... Dường như bạn không còn nữa; nhưng ai đó bên trong vẫn thức.
Mọi thứ đều trống rỗng, hư không; nhưng bên trong ánh sáng đang chiếu sáng, thấy,
biết và hiểu. Bạn bị xoá sạch, nhưng thực thể nào đó bên trong vẫn thức... Đó tất
cả là ánh sáng bên trong. Dòng suối phúc lạc tuôn chảy bên trong. Thượng đế ở rất
gần. Chờ đợi. Chờ đợi... Dường như bạn chết rồi. Dường như bạn không còn nữa.
Dường như bạn đã biến mất. Dường như bạn bị lau sạch. Làm mất bản thân mình theo
cách giọt nước làm mất bản thân nó trong đại dương... Chờ đợi một cách yên
tĩnh...
Chính trong việc mất đi này mà người ta lại được, người ta đạt
tới. Chỉ chờ đợi. Ánh sáng yên tĩnh và im lặng sáng lên bên trong. Bên trong bạn
phúc lạc sâu sắc chói sáng lên. Bên trong bạn dòng sông phúc lạc đang tuôn chảy.
Chỉ chờ đợi. Chờ đợi... Phúc lạc sẽ tuôn chảy bên trong. Ánh sáng sẽ hạ xuống
bên trong. Chờ đợi, chờ đợi và chờ đợi. Dường như bạn không còn nữa. Dường như
bạn chết rồi. Dường như bạn đã biến mất. Mọi thứ đã biến thành hư không.
Và chính trong hư không này bạn có darshan của Thượng đế, viễn
kiến của ngài. Chính trong hư không này bạn đạt tới ngài. Chờ đợi. Chờ đợi. Chờ
đợi... Nhìn bên trong, ai đó được thức tỉnh. Nhìn vào trong, phúc lạc nào đó đã
trở nên biểu lộ - phúc lạc bạn chưa bao giờ biết tới, điều hoàn toàn không quen
thuộc và không được biết. Thấy, mọi thớ của bản thể bạn được rót đầy với cái gì
đó siêu phàm. Chờ đợi. Chờ đợi...
Bây giờ phúc lạc và một mình. Bây giờ phúc lạc và phúc lạc một
mình còn lại. Bây giờ ánh sáng và ánh sáng một mình còn lại. An bình và an bình
một mình còn lại. Chờ đợi. Chỉ chờ đợi. Trong khoảnh khắc im lặng thế ngài tới.
Trong khoảnh khắc im lặng thế bạn gặp ngài. Chờ đợi. Chờ đợi. Chờ đợi... Ngài,
người mà bạn đang tìm kiếm đang ở rất gần bên cạnh. Ngài, người bạn đang tìm kiếm
đang ở ngay tầm tay. Chờ đợi. Chỉ chờ đợi. Chờ đợi một cách im lặng.
Bây giờ chậm rãi quay về thế giới của phúc lạc. Bây giờ dần dần
quay lại từ thế giới ánh sáng này. Rất nhẹ nhàng rời bỏ thế giới bên trong. Và
mở mắt ra rất chậm rãi và từ tốn. Nếu mắt bạn không mở thì che chúng bằng lòng
bàn tay và rồi mở chúng nhẹ nhàng. Không ai phải vội vã. Những người đã ngã ra
và thấy khó dậy thì trước hết nên thở sâu và thế rồi dậy rất từ tốn. Dậy rất im
lặng. Không nói, không gây tiếng động nào. Và những người đứng nên ngồi xuống rất
im lặng, và mở mắt từ tốn ra. Quay lại từ thế giới thiền.
Phiên sáng kết thúc.
Chương 8. Khoảnh khắc quyết định ở trong tay
Khá nhiều câu hỏi đã được nhận trong ba ngày qua, tôi muốn
hôm nay trả lời ngắn gọn thật nhiều nhất trong số chúng.
Một bạn đã nói rằng khi Vivekananda hỏi Ramakrishna, "Thầy
đã thấy Thượng đế chưa?" Ramakrishna trả lời lại, "Có chứ, ta đã thấy
thượng đế như ta thấy ông ngay bây giờ." Và người bạn này muốn biết liệu
người đó có thể đặt cùng câu hỏi đó với tôi không.
Trước hết, Vivekananda, trong khi đặt ra câu hỏi này, đã
không hỏi xin phép Ramakrishna, ông ta đã đặt thẳng câu hỏi này ra. Còn bạn
không làm như vậy, bạn chỉ muốn biết liệu bạn có thể làm được như vậy không. Một
Vivekananda là cần để nêu ra câu hỏi này. Và nhớ lấy, câu trả lời của
Ramakrishna đặc biệt ngụ ý dành cho Vivekananda, ông ấy sẽ không đưa ra cùng
câu trả lời này cho bất kì ai khác.
Trong thế giới tâm linh mọi câu trả lời đều rõ ràng mang tính
cá nhân, chúng được dành cho các cá nhân có liên quan. Tại đó người trả lời, dĩ
nhiên là quan trọng, nhưng người được trả lời cũng không kém phần quan trọng.
Người cho là có ý nghĩa, nhưng người nhận, người phải hiểu nó, cũng không kém
phần quan trọng.
Rất nhiều người yêu cầu tôi chạm vào họ để cho họ có cùng
kinh nghiệm mê say như Vivekananda đã được Ramakrishna chạm tới. Nhưng họ không
biết tại sao hàng nghìn người khác, những người mà Ramakrishna đã chạm vào, đã
không trải qua cùng kinh nghiệm đó. Để Vivekananda có kinh nghiệm này,
Ramakrishna chỉ được năm mươi phần trăm công lao thôi, năm mươi phần trăm kia
thuộc về Vivekananda. Đó là công việc năm mươi năm mươi.
Và cũng không nhất thiết là kinh nghiệm này sẽ xảy ra nếu
Ramakrishna đã chạm vào Vivekananda vào một ngày khác. Nó đã xảy ra trong một
khoảnh khắc đặc biệt, cho nên khoảnh khắc này cũng quan trọng. Bạn không là
cùng một người cả hai mươi bốn giờ một ngày. Trong quá trình hai mươi bốn giờ bạn
biến thành bất kì số người nào, như vậy. Trong một khoảnh khắc đặc biệt...
Vivekananda hỏi, "Thầy đã thấy Thượng đế chưa?" Những lời này đơn giản
thế. Điều đó đối với chúng ta dường như chúng ta hiểu điều Vivekananda đang hỏi.
Nhưng không, chúng ta không thực hiểu đâu.
Câu hỏi "Thầy đã thấy Thượng đế chưa?" không đơn giản
thế, mặc dầu trên bề mặt dường như là ngay cả học sinh lớp một cũng có thể hiểu
nó. "Thầy đã thấy Thượng đế chưa?" thực sự là câu hỏi khó. Và
Ramakrishna không đơn thuần trả lời câu hỏi của Vivekananda, ông ấy thực sự đáp
ứng lại khao khát của Vivekananda, đam mê của ông ấy. Người đã thức tỉnh không
trả lời câu hỏi của bạn, họ đáp ứng lại khao khát của bạn, đam mê của bạn.
Vivekananda với toàn bộ khao khát của ông ấy, toàn bộ thèm khát của ông ấy về
Thượng đế đã đi vào câu hỏi này, và Ramakrishna đơn giản đáp ứng cho người đứng
đằng sau câu hỏi này.
Một sáng đẹp trời, Phật tới thăm một làng và ai đó hỏi,
"Có Thượng đế không?" Và Phật nói, "Không, không có Thượng đế."
Đến giữa ngày một người khác tới ông ấy và nói, "Tôi nghĩ không có Thượng
đế. Thầy phải nói gì về điều đó?" Và Phật trả lời, "Thượng đế có chứ."
Đến tối người thứ ba nói với ông ấy, "Tôi không biết liệu Thượng đế có hay
không. Thầy nói gì?" Với người này Phật nói, "Tốt hơn cả là im lặng
đi; đừng nói có hay không."
Một đệ tử của Phật, người đi cùng ông ấy trên chuyến du hành,
rất sửng sốt khi ông ta nghe ba câu trả lời khác nhau của thầy mình cho cùng một
câu hỏi. Thế là trước khi đi ngủ buổi đêm ông ấy bảo Phật, "Tôi rất đỗi ngạc
nhiên bởi những câu trả lời của thầy tới mức tôi dường như phát điên mất. Trong
câu trả lời cho cùng một câu hỏi liệu Thượng đế có hay không thầy nói 'không'
vào buổi sáng, 'có' vào buổi trưa, và 'chẳng có chẳng không' vào buổi tối."
Phật nói với người đó, "Không câu trả lời nào được trao
cho ông cả; chúng đã được dành cho những người có liên quan, những người đã nêu
ra câu hỏi của mình. Chúng chẳng liên quan gì tới ông cả. Sao ông nghe chúng?
Làm sao ta có thể trả lời cho ông khi ông đã không hỏi những câu hỏi này? Cái
ngày ông đem câu hỏi của mình tới thì ông cũng sẽ có câu trả lời." Đệ tử
này nói, "Nhưng dẫu sao đi chăng nữa tôi đã nghe câu trả lời rồi."
Thế là Phật nói, "Những câu trả lời đó được ngụ ý dành
cho người khác, và chúng hợp với những nhu cầu khác nhau của họ. Người tới gặp
ta vào buổi sáng là người tin, người hữu thần, và anh ta muốn rằng ta phải xác
nhận niềm tin của anh ta. Anh ta không biết liệu có Thượng đế hay không. Anh ta
chỉ muốn thoả mãn bản ngã mình rằng ta cũng hỗ trợ cho niềm tin của anh ta. Anh
ta đã tới để kiếm hỗ trợ của ta, xác nhận của ta. Do đó ta nói, 'Không, không
có Thượng đế đâu.' Do vậy ta đã làm anh ta choáng tới tận gốc rễ. Anh ta đã
không biết Thượng đế; nếu anh ta thực sự biết, anh ta đã không đến ta. Anh ta
không biết tìm kiếm xác nhận từ tri thức của mình. Cho dù cả thế giới có phủ nhận
Thượng đế, anh ta sẽ nói, 'Có Thượng đế; vấn đề phủ nhận đơn giản không nảy
sinh.' Nhưng người này vẫn còn đang truy tìm, tìm kiếm; anh ta không biết theo
cách riêng của mình. Đó là lí do tại sao ta phải nói không với anh ta. Thực tế
anh ta đã dừng việc tìm kiếm, và ta đã phải cho anh ta cú ngạc nhiên choáng
váng để cho anh ta bắt đầu tìm kiếm lại. Người đã tới với ta vào buổi trưa là
người không tin, người vô thần; anh ta tin rằng không có Thượng đế. Với anh ta,
ta nói, 'Có Thượng đế.' Anh ta nữa, đã dừng việc tìm kiếm; anh ta cũng muốn rằng
ta phải xác nhận niềm tin vô thần của anh ta. Còn người tới vào buổi tối thì
không hữu thần không vô thần. Cho nên sẽ không thích hợp mà gắn anh ta với bất
kì niềm tin nào, bởi vì cả có và không đều gắn với nhau. Cho nên ta đã bảo anh
ta rằng nếu anh ta muốn câu trả lời đúng, thì anh ta tốt hơn cả là giữ yên tĩnh
và không nói có hay không. Và khi có liên quan tới ông, câu hỏi không nảy sinh,
bởi vì ông vẫn còn chưa hỏi câu hỏi của mình."
Tôn giáo là chuyện riêng tư cao độ. Nó cũng giống như tình
yêu. Nếu, từ tình yêu, ai đó nói điều gì đó cho người yêu, thì điều đó không cần
phải phát thanh ở bãi chợ. Đó là chuyện hoàn toàn thân mật và cá nhân. Và nó mất
hết mọi ý nghĩa của nó một khi bạn mang nó ra công cộng. Theo cùng cách này các
chân lí tôn giáo đều mang tính cá nhân cao, chúng được truyền cho cá nhân này từ
cá nhân khác; chúng không phải là cái gì đó ném theo gió.
Cho nên hỏi câu hỏi đó đi, và hỏi điều bạn cần phải hỏi,
nhưng chỉ khi bạn trở thành một Vivekananda, khi bạn có cùng đam mê và mãnh liệt
như ông ấy có.
Nhưng một Vivekananda không hỏi xin phép, ông ấy hỏi thẳng
câu hỏi của mình.
Một thời gian ngắn trước đây tôi đã ở một thị trấn nơi một
thanh niên tới tôi và hỏi liệu anh ấy có nên trở thành sannyasin không. Tôi bảo
anh ấy, "Chừng nào bạn cảm thấy thích tư vấn người khác, đừng nhận tính chất
sannyas; bằng không bạn sẽ ăn năn. Và sao bạn lôi tôi vào rắc rối này? Điều đấy
là để cho bạn quyết định chứ. Cái ngày bạn cảm thấy rằng bạn không thể trì hoãn
được nó cho dù cả thế giới có chen vào đường của bạn, ngày đó sẽ là ngày điểm đạo
của bạn để mang tính sannyas. Chỉ thế thì tính chất sannyas mới có thể mang lại
kết quả và vui mừng, không trước đó." Rồi anh ta hỏi, "Thế về thầy
thì sao?" Tôi nói, "Tôi chẳng bao giờ đi tư vấn ai cả. Ít nhất trong
cuộc đời này tôi đã không tư vấn ai cả. Và nếu tôi phải tư vấn chút nào, tôi sẽ
tư vấn bản thể bên trong riêng của tôi. Sao đi tư vấn người khác? Và làm sao bạn
có thể tin cậy vào điều người khác nói? Bạn không thể dựa vào lời khuyên của
người khác được.
Bất kì điều gì bạn làm, bạn không thể phụ thuộc vào điều người
khác khuyên bạn làm."
Và liệu có gì khác biệt nếu tôi nói rằng có Thượng đế? Điều
đó có tạo ra khác biệt gì cho bạn khi bạn đọc nó trong cuốn sách mà Ramakrishna
đã bảo với Vivekananda, "Ta thấy Thượng đế còn sinh động hơn là ta thấy
ông"? Bạn có thể viết ra cuốn sách khác nói rằng bạn đã hỏi tôi và tôi
nói, "Có, có Thượng đế. Và tôi thấy Thượng đế còn rõ ràng hơn tôi thấy bạn."
Điều đó có tạo ra khác biệt không? Cho dù cả nghìn cuốn sách nói rằng có Thượng
đế, điều đó tất cả đều vô ích. Chừng nào câu trả lời rằng có Thượng đế chưa tới
từ bản thể bên trong của bạn, tất cả mọi câu trả lời từ người khác đều sẽ không
ích lợi gì cả. Câu trả lời vay mượn sẽ không có tác dụng. Việc vay mượn có thể
có ích trong mọi bước đường khác của cuộc sống, nhưng nó sẽ không có tác dụng
trong hoàn cảnh về Thượng đế. Cho nên tại sao bạn hỏi tôi? Và làm sao câu trả lời
có hoặc không của tôi có thể có ích được cho bạn? Nếu bạn phải hỏi một chút gì,
hỏi bản thân mình đi. Và nếu câu trả lời không mà tới từ bạn, thế thì coi nó là
định mệnh bắt buộc nó vậy. Thế thì đợi nó một cách im lặng; và sống không có
câu trả lời, sống với việc không biết. Nếu bạn có thể sống với việc không biết,
thế thì một ngày nào đó câu trả lời sẽ tới trên con đường của bạn.
Và tất cả mọi câu trả lời đều nằm bên trong chúng ta, chỉ nếu
chúng ta biết cách hỏi đúng, chỉ nếu chúng ta biết nghệ thuật đặt câu hỏi đúng.
Và nếu chúng ta không biết cách đặt câu hỏi đúng và cứ đi hỏi cả thế giới, điều
đó sẽ hoàn toàn vô ích. Khi một người như Vivekananda hỏi một câu hỏi và
Ramakrishna trả lời nó, không phải là câu trả lời của Ramakrishna giúp đỡ cho
Vivekananda. Vivekananda hỏi với khao khát mãnh liệt đến mức câu trả lời của
Ramakrishna thậm chí dường như không là của Ramakrishna, mà là của riêng ông ấy,
tới từ bản thể bên trong nhất của ông ấy. Đó là lí do tại sao nó có ích, bằng
không thì nó chẳng có ích. Khi một người hỏi ai đó một câu hỏi nảy sinh từ rất
sâu trong bản thể mình, và sự khẩn thiết của nó tới mức người ta có thể đánh cược
cả đời mình cho nó, thế thì câu trả lời nhận được trở thành câu trả lời riêng của
người ta, nó không là câu trả lời của người khác nữa. Thế thì người khác chỉ là
tấm gương cho người đó, phản xạ câu trả lời riêng của người đó. Nếu Ramakrishna
nói, "Có, có Thượng đế," điều đó không thực là câu trả lời của
Ramakrishna; ông ấy chỉ phản xạ lại bản thể bên trong của Vivekananda. Và bởi
lí do này nó trở thành câu trả lời đích thực, dường như ông ấy đã nghe tiếng vọng
riêng của mình, tiếng nói của bản thể bên trong nhất của riêng mình được vọng
qua Ramakrishna. Với Vivekananda, Ramakrishna đường như không là gì ngoài tấm
gương.
Vivekananda đã đặt cùng câu hỏi này cho người khác trước khi
ông ấy tới Ramakrishna. Người đó là Maharshi Devendranath, ông của nhà thơ vĩ đại
Rabindranath Tagore. Ông ấy được gọi là Maharshi Devendranath - nhà tiên
tri lớn - và ông ấy hay dành cả đêm trên con thuyền trên sông Hằng và làm
sadhana của mình - thực hành tâm linh - tại nơi ẩn cư. Vào giữa đêm, bóng tối của
trăng hạ huyền, Vivekananda bơi qua sông và trèo vào chiếc thuyền của ông ấy,
tròng trành từ đầu nọ tới đầu kia. Vivekananda đẩy cửa vẫn đóng hờ và đi vào
trong cabin. Trời tối và Devendranath đang ngồi với mắt nhắm trong suy tư.
Vivekananda nắm lấy cổ áo ông ta và lay ông ta. Devendranath thất kinh khi thấy
một thanh niên, ướt sũng, bỗng nhiên đi vào trong cabin của mình giữa đêm khuya
vắng. Cả con thuyền tròng trành. Ngay khi ông ấy mở mắt ra, Vivekananda trút
luôn câu hỏi của mình vào ông ấy, "Tôi ở đây để hỏi liệu có Thượng đế hay
không." Devendranath đầu tiên bảo anh ta hãy thảnh thơi và rồi ông ấy cảm
thấy lưỡng lự về câu hỏi của người thanh niên này. Bạn có thể hình dung hoàn cảnh
khó khăn của người đang giữa đêm thanh vắng bỗng nhiên bắt gặp một thanh niên
không quen biết tới chỗ ẩn cư đơn độc của mình bằng việc bơi qua sông và quát
vào mình câu hỏi, "Có Thượng đế không?" theo một cách dường như anh
ta đang chĩa súng vào ông ấy. Cho nên ông ấy nói, "Đợi một chút và thảnh
thơi đi. Và trước hết cho ta biết anh là ai và anh đem cái gì tới đây. Vấn đề
là gì?" Và ngay lập tức Vivekananda thả tay nắm cổ áo ông ấy ra, rời khỏi
căn phòng và nhảy tùm xuống nước. Khi maharshi hô lên với anh ta, "Nghe
đây, anh thanh niên," Vivekananda hô lại, "Lưỡng lự của ông đã nói mọi
điều rồi, và bây giờ tôi đi đây."
Lưỡng lự thực sự đã nói mọi điều. Devendranath lưỡng lự nhiều
tới mức ông ấy trì hoãn câu hỏi thực "Có Thượng đế hay không". Về sau
ông ấy thú nhận rằng ông ấy đã thực sự bối rối bởi vì trước đây chưa bao giờ
ông ấy phải đương đầu với câu hỏi này theo cách thức kì cục thế. Trong các cuộc
họp công cộng và trong đền chùa và đền hồi giáo mọi người đã hỏi ông ấy các câu
hỏi về Thượng đế và tôn giáo và ông ấy đã giải thích cho họ Veda, Upanishad và
Gita đã nói gì về điều đó. Cho nên tự nhiên ông ấy phải bước lùi lại trước cách
thức hỏi của Vivekananda. Về sau ông ấy thú nhận rằng ông ấy đã thực sự trong
tình huống lúng túng, ông ấy không thể nghĩ nổi cái gì khi người thanh niên này
đã bắn câu hỏi này vào ông ấy. Và ông ấy cũng nói rằng, "Khi người thanh
niên này đã đi rồi, lần đầu tiên tôi biết lưỡng lự của tôi là tôi đã không có
câu trả lời."
Cho nên hỏi câu phải hỏi của bạn, nhưng chỉ khi bạn được chuẩn
bị cho nó. Tới tôi khi các bạn sẵn sàng hỏi câu hỏi và nhận câu trả lời. Bởi vì
vấn đề sẽ không dừng lại với một mình câu trả lời cho câu hỏi. Sau khi Ramakrishna
đã trả lời cho ông ấy, Vivekananda không còn là điều ông ấy vẫn là trước khi
nêu ra câu hỏi này. Ông ấy đã đi tới lúc đầu là Narendranath và sau câu trả lời
của Ramakrishna ông ấy đã biến thành Vivekananda. Hỏi bạn điều cần thiết, nhưng
thế thì bạn sẽ phải được chuẩn bị cho thay đổi triệt để thế, thay đổi của toàn
thể cuộc đời bạn. Và bạn có thể có câu trả lời. Nhưng nhớ lấy, Narendranath đã
không trở về nhà là Narendranath, bởi vì khi Ramakrishna nói, "Có Thượng đế,
và ta thấy ông ấy còn rõ ràng hơn ta thấy ông; vì có lúc ta có thể nói rằng ông
là không thực, nhưng ta không thể nói như vậy đối với Thượng đế,"
Vivekananda đã không nói, "Vâng thưa thầy, câu trả lời của thầy là tốt, và
tôi đang định trích dẫn thầy trong bài báo trả lời của tôi." Ông ấy đơn giản
không thể về nhà như ông ấy đã từng là; câu trả lời đó đã kết liễu ông ấy như
ông ấy đã từng là; Narendranath đã bị kết thúc.
Các bạn có thể có câu trả lời; tôi sẽ không có khó khăn gì với
bất kì điều gì trong việc trao cho bạn câu trả lời. Nhưng chính bạn mới là người
thực sự khó khăn. Cho nên hãy tới khi bạn cảm thấy đam mê thế về nó. Và điều đó
sẽ là hay nếu bạn tới theo cách kì cục, trong đêm khuya thanh vắng và túm lấy cổ
áo tôi. Nhưng nhớ lấy, vào lúc bạn túm lấy cổ áo tôi, bạn sẽ bị sa vào lưới của
tôi, và thế thì bạn không thể chạy thoát được. Đó không phải là thảo luận học
thuật nơi vấn đề kết thúc với hỏi và trả lời. Điều đó không là gì cả. Đó là vấn
đề của sống và chết; bạn sẽ phải đánh cược chính bản thân cuộc sống của mình.
Một bạn khác hỏi: khi chúng tôi gieo hạt mầm, phải mất thời
gian cho nó mọc lên. Còn thầy nói con người là hạt mầm, hạt mầm của tính thượng
đế, và rằng con người có thể mọc lên trong tính thượng đế ngay chính khoảnh khắc
này, ngay lập tức. Xin thầy giải thích điều dường như mâu thuẫn này?
Chắc chắn là tôi nói điều đó đấy. Khi chúng ta gieo hạt mầm,
nó cần thời gian để mọc lên. Nhưng thực sự nó không cần thời gian để mọc, nó cần
thời gian chỉ để làm tan rã và tan biến như hạt mầm. Việc mọc xảy ra trong khoảnh
khắc; hạt mầm bùng nổ thành việc mọc cây. Nhưng cần thời gian, tất nhiên, cho hạt
mầm để tan rã và tan biến như hạt mầm. Cho nên tôi không nói rằng các bạn không
thể cần thời gian để làm tan biến như một bản ngã, mà tôi nói rằng Thượng đế
không bao giờ cần thời gian cả, ngài tới trong khoảnh khắc. Chẳng hạn, nếu
chúng ta đun sôi nước, phải mất thời gian để đạt tới điểm sôi, để được sôi lên ở
một trăm độ. Nhưng một khi nước chạm tới điểm sôi, nó biến thành hơi nước chẳng
mất thời gian nào. Đó là cú nhảy; ngay khi nước đạt tới điểm sôi, nó lấy cú nhảy;
nó biến mất là nước, trở thành hơi. Không phải là nước sẽ biến thành hơi dần dần,
từng mẩu một; không, nó biến thành hơi trong một cú, trong một cú nhảy. Tất
nhiên, nước cần thời gian để đạt tới điểm sôi. Nó vẫn là nước cho tới khi nó chạm
tới điểm không quay lại - một trăm độ. Cho dù tại chín mươi chín độ, nó vẫn còn
dưới dạng nước.
Thượng đế là sự bùng nổ - bước nhảy. Ngài là điểm bùng phát.
Chừng nào bạn còn chưa đạt tới điểm đó, bạn vẫn còn là một con người, cho dù nỗ
lực của bạn, giống như nước, đã đạt tới chín mươi chín độ. Khi bạn đạt tới điểm
sôi, bạn sẽ biến thành Thượng đế. Nơi bạn kết thúc, Thượng đế bắt đầu.
Cho nên tôi nói, nó có thể xảy ra vào chính khoảnh khắc này.
Tôi ngụ ý gì bởi khoảnh khắc này? Nó ngụ ý rằng nếu chúng ta đã được chuẩn bị để
đi tới điểm sôi, thì điều đó có thể xảy ra trong khoảnh khắc. Chẳng phải đã lâu
rồi chúng ta đều trong vạc dầu đó sao? Hết kiếp nọ tới kiếp kia chúng ta đã cố
gắng để được đun nóng lên theo cách thức thiêng liêng, và chúng ta đã không đạt
tới một trăm độ. Bạn cần thêm bao nhiêu thời gian nữa? Bạn chưa lấy đủ thời
gian sao? Không, chúng ta đã dùng đủ thời gian rồi; nhưng chúng ta không biết
nghệ thuật đun nóng và đạt tới điểm sôi. Ngay cả khi chúng ta đạt tới chín mươi
chín độ, chúng ta lập tức quay lại và bắt đầu nguội đi, bởi vì chúng ta sợ một
trăm độ. Tôi đã để ý điều đó trong việc thiền bao nhiêu người trong các bạn
quay lại sau khi đạt tới chín mươi chín độ.
Điều đáng ngạc nhiên là làm sao những điều tầm thường lặt vặt
làm bạn quay lại. Dường như bạn đã định quay lại rồi. Điều đó cũng giống như một
người lên tàu hoả để đi Bombay, và thấy hai người đang to tiếng nói chuyện với
nhau và người đó từ bỏ cuộc hành trình của mình và trở về nhà lấy cớ là cuộc
nói chuyện to quá của hai người kia đã làm nhiễu loạn anh ta và anh ta không đến
được Bombay. Hiển nhiên là người này không muốn tới Bombay, vì nhiễu loạn như vậy
là không thể tránh khỏi trong cuộc hành trình kiểu như thế này. Nếu người ta phải
tới Bombay người đó cứ đi mặc cho những nhiễu loạn tí ti như vậy; người đó
không bao giờ từ bỏ cuộc hành trình của mình. Thay vì thế những nhiễu loạn trên
đường khích lệ người đó đi nhanh hơn để cho người đó không phải nghe những chuyện
tán gẫu vô ích.
Nhưng người ta từ bỏ thiền bởi những lí do rất tầm thường.
Người ta từ bỏ bởi vì ai đó kéo họ lại một chút, hoặc chạm vào người họ hoặc ai
đó ngã ra đất và bắt đầu khóc. Dường như người đó muốn từ bỏ và do vậy chờ đợi
bất kì cái cớ nào để hạ thấp nhiệt tình của mình. Thậm chí một tiếng hét nhỏ
cũng trở thành cái cớ lớn cho người đó dừng không thiền thêm nữa. Tiếng hét có
liên quan gì tới bạn? Và người đó không biết mình đang bị mất gì, mình đang phải
trả giá gì cho những cái cớ lặt vặt đó. Và người đó cũng không biết mình đang
nói gì.
Một thời gian ngắn trước đây một người bạn đã gặp tôi trên đường
và nói, "Xin thầy yêu cầu những người này ở đây đừng bị kích động nhiều
quá, yêu cầu họ chơi nó với âm điệu thấp hơn, bằng không tình huống bùng nổ có
thể được tạo ra. Hai người đang thiền bỗng nhiên thành trần truồng." Anh
ta nói điều đó khá đáng yêu: rằng người nào đó bực mình bởi vì hai người đã lột
quần áo của họ ra, và do vậy tôi nên kìm họ lại.
Mọi người đều trần truồng bên trong quần áo của mình và không
ai bực mình về điều đó cả. Bên trong quần áo tất cả chúng ta đều trần truồng và
không ai bị quấy rầy cả. Nhưng mọi người đều bị quấy rầy bởi hai người cởi quần
áo của họ ra trong khi thiền. Đó là điều nực cười thế. Có thể hiểu được nếu ai
đó đã cởi quần áo của bạn ra và bạn tức giận. Nhưng sao bạn tức giận về ai đó cởi
quần áo riêng của họ ra? Tức giận là được nếu ai đó đã cướp quần áo của bạn, mặc
dầu điều đó nữa cũng là vô nghĩa. Jesus đã nói, "Nếu ai đó lấy đi của ông
chiếc áo choàng, cho người đó cái áo sơ mi nữa. Có thể, người đó không thể lấy
nữa được bởi vì xấu hổ." Việc phản đối của người đó là được biện minh nếu
ai đó đã vứt bỏ áo choàng của mình. Nhưng sao người đó làm mất trí của mình nếu
ai đó cởi áo choàng của riêng mình ra? Dường như là người đó chỉ đợi cơ hội ai
đó cởi áo choàng của mình ra và người đó làm dịu đi nỗ lực của mình và đổ mọi
oán trách lên người kia.
Điều đáng ngạc nhiên là làm sao ai đó định ở trần mà quấy rối
việc thiền của bạn được, chừng nào bạn còn chưa quan sát chặt chẽ người đó làm
như vậy. Bạn có thiền không hay làm cái gì vậy? Trong thực tế, bạn phải không
biết ai cởi quần áo của người đó và điều đang xảy ra xung quanh bạn. Bạn phải
làm việc thiền của mình và vẫn còn giới hạn vào bản thân mình. Hay bạn phải
quan tâm tới điều người khác làm? Bạn là thợ giặt hay thợ may mà bạn quan tâm
nhiều thế tới quần áo của người khác vậy? Lo lắng của bạn là không có cơ sở và
vô nghĩa.
Và người cởi quần áo của mình... nghĩ về điều đó. Bạn sẽ biết
điều đó nếu bạn được yêu cầu tụt quần áo của bạn ra. Thế thì bạn sẽ biết rằng
người ta có những lí do lớn lao để cởi quần áo mình ra; cái gì đó phải đã xảy
ra cho người đó để làm như vậy. Có lẽ bạn sẽ không làm điều đó cho dù người ta
cho bạn một trăm nghìn ru pi tiền thưởng. Và người này đã cởi quần áo của mình
mà chẳng được cúng tặng như vậy, và bạn bực mình một cách không cần thiết. Một
lí do mạnh mẽ nào đó phải đã nảy sinh, nhắc nhở người đó làm như vậy. Chúng ta
vẫn còn chưa biết cách nhìn và hiểu cuộc sống với sự thông cảm và chăm nom.
Khi Mahavira cởi bỏ quần áo của mình lần đầu tiên, ông ấy bị
nhận gạch và đá. Còn bây giờ ông ấy được tôn thờ. Và những người tôn thờ ông ấy
đang bán quần áo khắp mọi nơi. Các tín đồ của Mahavira tất cả đều là nhà buôn
quần áo. Điều này thật lạ thế. Và chính những người này đã ném đá vào ông ấy.
Và để chuộc lỗi về điều đó họ bây giờ bán quần áo để cho không ai bị hướng theo
việc ở trần. Các nhà buôn quần áo đều là tín đồ của Mahavira còn bản thân ông ấy
thì sống trần. Khi ông ấy cởi bỏ quần áo của mình, ông ấy đã bị đuổi ra khỏi hết
làng nọ tới làng kia. Không một làng nào cho ông ấy trú ngụ. Bất kì nơi đâu ông
ấy tới, ông ấy đều bị đuổi đi bởi vì ông ấy trần truồng. Và bây giờ ông ấy được
yêu mến và tôn thờ - ông ấy, người đã bị từ chối cho trú ngụ - không chỉ trong
một làng hay nhà trọ, ông ấy còn không được phép có chỗ trú ngụ ngay cả ở vùng
đất hoả táng bên ngoài làng và là nơi xác chết được đem thiêu. Chó hoang được
thả ra đuổi ông ấy để cho ông ấy không tới gần làng. Cái gì có đó gây rắc rối
cho mọi người? Chẳng có gì ngoại trừ rằng Mahavira đã vứt bỏ quần áo của mình.
Điều đáng ngạc nhiên là đơn thuần vứt bỏ quần áo về phần một
người ... Lí do có thể là gì? Nỗi sợ đằng sau điều đó là gì? Nỗi sợ là thực sự
khủng khiếp. Chúng ta trần trụi bên trong, chúng ta hoàn toàn bị thoái hoá và
nghèo nàn trong bản thể mình tới mức như cảnh tượng về khu chợ trơ trụi - trơ
trụi được gắn chặt với nghèo nàn và nghèo khó - nhắc nhở chúng ta về thoái hoá
và nghèo nàn bên trong của riêng chúng ta. Không có lí do nào khác hơn điều
này.
Và nhớ lấy, tính trần truồng là một điều và tính trần trụi là
một điều hoàn toàn khác. Nhìn vào Mahavira không ai có thể nói rằng ông ấy trần
truồng cả, ông ấy trông đẹp thế. Và chừng nào còn có liên quan tới chúng ta thì
chúng ta trông trần truồng và xấu xí ngay cả trong những bộ áo quần đẹp nhất của
mình.
Bạn đã quan sát cẩn thận những người cởi quần áo của họ trong
khi thiền chưa? Bạn không dám, mặc dầu bạn phải đã lén nhìn vào họ lúc này lúc
khác, bằng không thì bạn đã không tức giận về điều đó và nghĩ về tình huống
bùng nổ nảy sinh từ nó. Cùng người bạn đó đã viết cho tôi rằng đàn bà đặc biệt
bị quấy rối bởi sự việc này. Điều đó nghĩa là gì? Họ ở đây chỉ để quan sát nếu
ai đó cởi quần áo mình ra sao? Họ ở đây để thiền; thay vì họ lén nhìn người
khác. Họ đã từ bỏ việc nhớ tới mình, họ đã dừng việc quan sát bản thân mình
thay vì vậy họ làm bận rộn mình với việc nhìn xoi mói và rình mò vào những người
trần trụi. Thế thì tình huống này nhất định mang tính bùng nổ. Ai yêu cầu bạn để
mắt tới họ? Bạn có mắt của mình được bịt kín. Làm sao điều đó thành vấn đề nếu
ai đó ở trần? Khi có liên quan tới người ở trần, người đó đã không quan sát bạn
chút nào. Nếu một người cởi trần mà tới tôi và phàn nàn rằng sự hiện diện của
đàn bà rất gây ngượng nghịu cho người đó, thì điều đó còn thể hiểu được. Điều
kì lạ là đàn bà thấy họ trong trạng thái bùng nổ bởi vì anh ấy. Tâm trí bạn chắc
lấy làm vui sướng nếu chỉ bạn mới nhìn anh ta một cách cẩn thận. Thế thì được
nhiều thứ; tâm trí bạn sẽ cảm thấy sung sướng và nhẹ gánh. Điều đó sẽ tạo ra
khác biệt lớn cho bạn. Nhưng dường như là chúng ta quyết tâm tránh xa tất cả những
cái thực sự có lợi. Và có lẽ chúng ta khao khát chuốc lấy thảm hoạ. Và không có
kết thúc cho niềm tin và quan niệm điên khùng của chúng ta.
Một thời điểm tới trong quá trình thiền, và nó tới theo cách
không cưỡng lại được với một số người, khi họ phải cởi quần áo mình ra. Và họ cởi
quần áo ra với việc cho phép của tôi. Cho nên nếu bạn muốn bùng nổ, tốt hơn cả
bạn nổ vào tôi. Mọi người để trần thân thể mình ở đây đều đã có phép của tôi.
Tôi đã đồng ý với hành động của họ. Họ tới tôi và nói rằng trong quá trình thiền
họ cảm thấy rằng nếu họ không cởi quần áo ra thì cái gì đó bên trong họ sẽ bị
chặn lại. Và tôi đã yêu cầu họ cứ tiến lên mà không cần quần áo. Và đó là điều
phải liên quan tới họ, chứ không tới bạn. Cho nên tại sao bạn lo nghĩ về điều
đó? Và nếu bất kì ai nhiếc móc họ về điều này, người đó đã làm một việc rất
sai. Bạn không có quyền làm như vậy.
Bạn nên hiểu rằng sẽ tới một khoảnh khắc của hồn nhiên khi
nhiều điều trở thành cản trở cho tâm trí hồn nhiên. Quần áo bao gồm một trong
những ức chế mạnh nhất của con người; chúng tạo nên điều sâu nhất trong những
điều kiêng kị. Chúng biểu thị cho một trong những thói quen cổ nhất và hằn sâu
nhất của con người. Và một khoảnh khắc tới trong cuộc sống xã hội của chúng ta
khi những quần áo chúng ta trở thành biểu tượng cho toàn thể nền văn minh của
chúng ta. Nhưng điều đúng tương đương là một khoảnh khắc tới với một số người,
không phải cho tất cả mọi người, khi họ cảm thấy như trọng lượng không cần thiết
của tâm trí.
Phật mặc quần áo trong cả đời mình, và Jesus cũng vậy. Nhưng
Mahavira đã vứt bỏ chúng. Và đã xảy ra việc một người đàn bà dám làm như vậy,
như Mahavira, mặc dầu đàn bà vào thời của Mahavira đã không thể dám thế.
Mahavira có một số rất lớn các đệ tử nữ, họ còn đông hơn các đệ tử nam. Trong số
các đệ tử của ông ấy chỉ có mười nghìn đàn ông và có tới bốn mươi nghìn đàn bà.
Nhưng không một đệ tử nữ nào của ông ấy có thể thu được dũng cảm để cởi bỏ quần
áo. Đó là lí do tại sao Mahavira đã phải nói rằng những người đàn bà đó phải được
sinh ra lần nữa, bởi vì chừng nào họ còn chưa lấy hoá thân thành nam giới thì họ
không thể đạt tới được moksha hay giải thoát. Bởi vì người còn sợ việc cởi bỏ
quần áo sẽ rất sợ cởi bỏ thân thể. Do đó Mahavira phải đặt ra một luật rằng tự
do là không thể có được qua hoá thân nữ giới; đàn bà phải lấy hoá thân nam giới
cho ý định này. Không có lí do nào khác cho luật này.
Nhưng cũng đã có những người đàn bà bạo dạn nữa: một người
như vậy là Lalla ở Kashmir. Nếu Mahavira mà gặp Lalla thì ông ấy sẽ không đặt
ra nguyên tắc như vậy. Lalla ở Kashmir đích xác giống hệt Mahavira; nếu bạn hỏi
một người Kashmiri về bà ấy thì người đó sẽ nói, "Chúng tôi ở Kashmir chỉ
biết hai cái tên: Allah và Lalla; chỉ hai cái tên thôi." Lalla đã sống trần,
và toàn thể Kashmir ngưỡng mộ và yêu mến bà ấy. Trong sự trần trụi của bà ấy mọi
người lần đầu tiên thấy cái đẹp và sự hồn nhiên mà đơn giản phi thường. Bà ấy
toả ra sự hồn nhiên và niềm vui sướng của trẻ thơ. Nếu Mahavira gặp bà ấy, thì
ông ấy đã cứu được vết nhơ dính vào ông ấy. Có vết nhơ trên Mahavira, và đó là ở
chỗ ông ấy nói tự do là không thể được qua hoá thân nữ giới. Nhưng Mahavira
không chịu trách nhiệm về điều đó, thực sự những người đàn bà quanh ông ấy mới
đáng nhận sự trách móc. Thấy họ ông ấy nói, "Làm sao đàn bà có thể vứt bỏ
được gắn bó của họ với thân thể nếu gắn bó của họ với quần áo còn mạnh thế? Níu
bám của họ vào quần áo bên ngoài mạnh đến mức không thể trông đợi họ gạt bỏ níu
bám của mình vào quần áo bên trong, chính là thân thể."
Tôi không yêu cầu các bạn cởi quần áo của mình, nhưng nếu ai
đó làm điều đó thì chẳng có lí do gì để cấm người đó bất kì cái gì. Nếu thậm
chí trong một trại thiền chúng ta không thể cho phép tự do này - rằng người ta
có thể tự do tới mức độ này, nếu người đó quyết chí, thế thì sẽ không thể nào
tìm ra tự do này ở bất kì đâu khác trên thế giới này. Và trại thiền được ngụ ý
dành cho người tìm kiếm, không cho khán giả. Tại đây chừng nào người ta không
chen vào đường của người khác, người đó được quyền theo tự do tuyệt đối của
mình. Nếu ai đó xâm phạm vào tự do của bạn, rắc rối bắt đầu, và bạn có lí do để
phàn nàn. Nếu ai đó bắt đầu ở trần và đánh vào bạn, nếu người đó làm bạn bị
thương, có mọi lí do để kìm người đó lại. Nhưng chừng nào người đó đang làm điều
gì đó với bản thân mình, làm việc riêng của mình, bạn không là ai để mà can thiệp
vào chuyện của người đó và bạn không có quyền đưa ra bất kì phản đối nào.
Điều chúng ta coi là nhiễu loạn đối với thiền là rất buồn cười.
Nếu ai đó ở trần, việc thiền của nhiều người khác bị làm hỏng. Điều không tốt
là cứ cố giữ việc thiền què quặt, việc thiền yếu đuối và nhu nhược như thế này.
Giá trị của nó là gì? Điều này, rằng nếu người ta không cởi quần áo của mình
thì bạn đã làm được nó rồi. Nhưng điều đó là không thể được. Không, bạn phải gạt
bỏ những vấn đề nhỏ mọn đó đi, những vấn đề quá mức nhỏ mọn. Sadhana, hay việc
theo đuổi tâm linh, là vấn đề của lòng dũng cảm lớn lao. Tại đây chúng ta phải
tự mình cởi bỏ hết tầng nọ đến tầng kia, như chúng ta bóc hành. Theo nghĩa sâu
sắc nhất của nó sadhana là việc đương đầu với sự trần trụi bên trong nhất của
người ta. Không nhất thiết phải cởi bỏ quần áo, nhưng với một số người, đôi khi
tình huống có thể nảy sinh khi sẽ cần phải làm như vậy. Và nhớ rằng bạn không thể
nghĩ về tình huống này từ bên ngoài được; mà bạn cũng không có quyền để phán
xét liệu nó đúng hay không đúng, cũng không bàn tán về nó. Bạn là ai để làm như
vậy? Làm sao bạn chen vào việc này? Và làm sao bạn có thể biết về nó được? Bạn
có cho rằng những người đuổi Mahavira ra khỏi làng họ là những người độc ác
không? Không, họ cũng văn minh và văn hoá như bạn vậy và, giống bạn, họ nghĩ rằng
vì ông ấy ở trần nên ông ấy không có chỗ trong họ.
Nhưng chính điều không may là ở chỗ mọi lần chúng ta đều lặp
lại cùng sai lầm. Người bạn gặp tôi trên phố đã nói bằng tình yêu và sự thông cảm
rằng tôi nên kìm những người này lại đừng để cởi trần ra, bằng không thì việc
tham dự vào việc thiền của chúng ta ở Bombay sẽ sụp đổ nhanh chóng. Thì cứ để
cho nó sụp đổ đi; cứ để cho không một ai tới cả! Không có nhu cầu chút nào để
những người sai tới thiền. Với tôi sẽ chẳng có khác biệt gì nếu chỉ một người đến.
Cũng người bạn đó nói rằng đàn bà sẽ tránh xa hoàn toàn; không người nào trong
số họ sẽ dự trại nữa. Thì cứ để họ tránh xa ra. Ai bảo họ đến trại này? Đấy là
để cho họ quyết định, và quyết định cho chính họ. Và nếu họ chọn tham dự, thì họ
có thể làm như vậy theo điều kiện của tôi. Trại này không thể được tổ chức theo
điều khoản của họ. Và ngày tôi sẽ tổ chức trại theo điều khoản của bạn, sẽ là tốt
nếu các bạn không tham dự nó chút nào. Thế thì tôi sẽ không dùng bất kì cái gì
cho bạn cả.
Trại thiền sẽ được cai quản theo điều khoản của tôi. Tôi
không tới vì các bạn, mà tôi cũng không thể hướng tôi theo ước muốn của các bạn.
Các bạn không thể chỉ đạo và ra lệnh cho tôi được. Các guru, các bậc thầy, những
người không còn nữa, trở nên được nhiều người ưa chuộng sau khi họ đã chết và
đã qua đời bởi chính lí do là các bạn có thể thao túng và quản lí họ tuỳ ý bạn,
họ không thể làm được điều gì cả. Nhưng nếu bậc thầy còn sống, thầy nhất định
là khó khăn cho bạn. Đó là lí do tại sao một Mahavira sống bị đánh và một
Mahavira chết được tôn thờ trên khắp thế giới. Bậc thầy sống chuyên gây rắc rối
phiền hà, bởi vì bạn không thể chặn thầy được, bạn không thể kiểm soát được thầy.
Trong mắt tôi không có lí do nào khác cho việc tới của bạn có
tính hợp thức nào ngoại trừ một lí do. Và người tới và người không tới đều
không quan trọng gì với tôi cả. Tôi muốn rằng bất kì ai tới cũng đều phải tới với
hiểu biết đầy đủ tại sao người đó tới và để làm gì.
Một bạn hỏi: xin thầy giải thích đầy đủ sahaja yoga - vô nỗ lực,
tự nhiên và yoga tự phát - nghĩa là gì?
Sahaja yoga là môn yoga khó nhất, bởi vì chẳng có gì khó hơn
việc là sahaja - vô nỗ lực, tự nhiên và tự phát. Ý nghĩa của sahaja là gì?
Sahaja nghĩa là: để cho bất kì cái gì xảy ra cứ xảy ra, đừng kháng cự lại nó.
Bây giờ một người đã trở nên trần trụi; điều này có thể là tự nhiên và dễ dàng
cho người đó để là vậy. Nhưng trong thực tế nó đã trở thành khó thế. Mang tính
sahaja nghĩa là tuôn chảy như không khí và nước, và không cho phép trí năng
chen vào giữa đường của bất kì cái gì đang xảy ra.
Ngay khi trí năng chen vào đường, ngay khi nó can thiệp vào,
chúng ta dừng là sahaja, tự nhiên, và bắt đầu là asahaja, phi tự nhiên. Ngay
khi chúng ta quyết định cái gì phải là và cái gì không phải là, thì chúng ta lập
tức bắt đầu phi tự nhiên. Và chúng ta trở thành tự nhiên khi chúng ta chấp nhận
cái xảy ra, cái đang đó.
Cho nên điều đầu tiên cần hiểu là ở chỗ sahaja yoga là yoga
khó nhất. Đừng nghĩ rằng nó rất dễ dàng như thuật ngữ này gợi ý. Có quan niệm
sai rằng sahaja yoga là cách thức dễ dàng của sadhana hay kỉ luật tâm linh. Mọi
người trích dẫn Kabir: "Sadho, sahaj samadhi bhali; Hỡi người tìm kiếm, cực
lạc tự nhiên là điều tốt nhất." Tất nhiên, nó là điều tốt nhất, nhưng nó
cũng là điều rất khó. Bởi vì không cái gì khó hơn đối với con người là tự
nhiên. Con người đã trở thành phi tự nhiên, con người đã du hành đi xa khỏi việc
là tự nhiên đến mức bây giờ thật dễ dàng cho con người phi tự nhiên và rất khó
để là tự nhiên.
Nhưng thế thì chúng ta phải hiểu đôi điều trong hoàn cảnh
này, bởi vì điều tôi đang dạy chính là bản thân sahaja yoga.
Áp đặt học thuyết và giáo điều lên cuộc sống là làm suy đồi
cuộc sống. Nhưng tất cả chúng ta đều làm điều đó; tất cả chúng ta đều áp đặt
các học thuyết và lí tưởng lên bản thân mình. Ai đó bạo hành và người đó đang cố
gắng là bất bạo hành. Ai đó giận dữ và người đó đang cố an bình. Ai đó độc ác
và người đó đang cố tốt bụng. Kẻ trộm đang cố làm người hào phóng, và kẻ ác cố
thánh thiện. Đây là cách tất cả chúng ta đang là; chúng ta bao giờ cũng cố gắng
áp đặt cái gì đó lên cái chúng ta đang là. Nhưng kết quả là gì?
Chúng ta không chỉ thất bại khi chúng ta không thành công
theo nỗ lực này, chúng ta thất bại cả khi chúng ta thành công nữa. Bởi vì dù kẻ
trộm có cố gắng đến đâu, người đó cũng không thể hào phóng được; người đó tất
nhiên có thể đem cho từ thiện và người đó có có ảo tưởng về việc hào phóng;
nhưng tâm trí của kẻ trộm bao giờ cũng tìm ra cách để trộm thông qua từ thiện.
Tôi đã nghe nói rằng hiền nhân Eknath có lần đi hành hương.
Khi ông ấy sắp sửa rời khỏi làng mình thì một tên trộm ở chỗ ông ấy bày tỏ ước
muốn đi cùng ông ấy trong cuộc hành hương này. Anh ta nói từ khi anh ta phạm tội,
anh ta đã rất mong muốn gột sạch tội lỗi của mình bằng việc đầm mình vào sông Hằng
linh thiêng. Eknath nói, "Tôi không phản đối việc đi cùng của ông với tôi,
vì tất cả những người đi với tôi đều là kẻ trộm thuộc đủ mọi loại, nhưng có khó
khăn đấy. Những kẻ trộm khác này nói rằng tôi không nên đem ông đi cùng vì họ sợ
ông sẽ đánh cắp các thứ của họ và gây cho họ rắc rối. Cho nên ông có thể đi
cùng với một điều kiện kiên quyết là ông sẽ không say mê ăn cắp trong khi đi
hành hương." Anh ta nói, "Tôi xin thề, tôi sẽ không ăn cắp trong cuộc
hành hương - từ đầu tới cuối."
Khi cuộc hành trình bắt đầu tên trộm gia nhập nhóm người hành
hương của Eknath, cũng toàn là trộm cắp cả. Họ đều là trộm cắp thuộc các loại
khác nhau. Tất cả mọi tên trộm đều không thuộc cùng một loại. Một loại trộm làm
việc như các quan toà và các loại trộm khác hoạt động theo cách khác. Đủ mọi loại
trộm, kể cả tên trộm này, đều đi hành hương.
Khi cuộc hành trình bắt đầu, tên trộm nghèo cảm thấy rất
không thoải mái. Thói quen trộm cắp cũ của anh ta và lời hứa của anh ta với
Eknath đã đẩy anh ta vào rắc rối. Anh ta trải qua ngày, nhưng đêm thật khó
khăn. Khi những người hành hương khác ngủ rồi, anh ta cảm thấy bứt rứt, bởi vì
đây là giờ làm việc của anh ta. Bằng cách nào đó anh ta cũng trải qua được một
hay hai ngày nhưng đến ngày thứ ba anh ta tự nói với mình, "Mình sợ cuộc
hành hương này sẽ kết liễu mình mất, vì nó kéo dài hàng tháng trời. Làm sao
mình chịu được lâu thế? Và nguy hiểm lớn nhất là ở chỗ mình có thể quên mất nghề
của mình nếu mình không ăn cắp nhiều tháng ròng. Nếu vậy, mình sẽ làm gì khi
mình về nhà? Cuộc hành hương rồi sẽ kết thúc; nó không thể kéo dài cả đời được."
Thế là rắc rối bắt đầu với đêm thứ ba. Đó là một loại rắc rối
tôn giáo và có trật tự. Anh ta ăn cắp, nhưng theo một phong cách hoàn toàn mới
và khác biệt. Anh ta lấy từ túi của người hành hương này và để chúng vào túi của
người khác; anh ta chẳng lấy gì cho mình cả.
Sáng hôm sau mọi người hành hương đều tức giận. Từng người
trong họ đều bị mất cái gì đó mà sau đó lại được tìm thấy trong túi của ai đó
khác. Có năm mươi cho tới một trăm người hành hương - con số khá lớn - và thật
khó định vị mọi thứ. Mọi người đều phân vân, họ không thể biết tất cả điều đó
là cái gì. Đồ không biến mất, nhưng chúng tất cả đều đã đổi chỗ. Thế rồi điều
đó làm loé lên ý nghĩ cho Eknath rằng điều đó có thể là việc làm của cùng một kẻ
trộm, người đã trở thành người hành hương. Thế là ông ấy thức vào đêm. Sau nửa
đêm ông ấy thấy cũng tên trộm đó rời khỏi giường và bỏ các thứ từ túi này sang
túi khác. Eknath tới giữ anh ta lại và hỏi, "Này, anh làm gì vậy?"
Người này nói, "Tôi biết tôi đang có lời thề rằng tôi sẽ không ăn cắp, và
tôi giữ lời thề của mình. Tôi không ăn cắp đồ vật, tôi chỉ thay đổi chỗ của
chúng. Tôi không lấy cái gì cho mình cả; tôi chỉ bỏ nó từ túi này ra và đặt nó
vào túi khác. Và điều này chắc chắn không thuộc vào lời cam kết của tôi với
ông."
Eknath hay nói về sau rằng dù tên trộm có thể cố gắng thay đổi
bằng cách nào, điều đó cũng chẳng khác biệt.
Tất cả những điều phi tự nhiên của cuộc sống chúng ta đều là
điều này - rằng chúng ta bao giờ cũng cố gắng để khác với cái chúng ta đang thực
là. Không, sahaja yoga sẽ nói, đừng cố gắng khác hơn điều bạn đang là; biết điều
bạn đang là và sống nó. Nếu bạn là kẻ trộm biết rằng bạn là kẻ trộm và sống cuộc
sống của kẻ trộm một cách đầy đủ. Điều này rất gian nan, bởi vì ngay cả kẻ trộm
cũng cảm thấy được hài lòng khi nghĩ rằng mình đang cố gắng gạt bỏ việc trộm cắp.
Người đó không gạt bỏ bản thân mình thực sự khỏi điều đó, nhưng người đó
cảm thấy được nhẹ nhõm để nghĩ rằng mặc dầu mình là kẻ trộm hôm nay mình sẽ
thôi là kẻ trộm ngày mai. Ngay cả bản ngã của kẻ trộm cũng nhận được sự hài lòng
từ ý nghĩ rằng mặc dầu người đó bị ép buộc bởi hoàn cảnh mà phải trộm cắp, một
ngày nào đó sẽ sớm đến khi người đó sẽ là một người nhân đức, và không là kẻ trộm.
Cho nên trong hi vọng vào ngày mai người đó thoải mái ăn trộm hôm nay.
Sahaja yoga nói rằng nếu bạn là kẻ trộm thế thì biết rằng bạn
là kẻ trộm đi và cứ trộm cắp một cách có hiểu biết về điều đó, nhưng không với
hi vọng rằng ngày mai bạn sẽ thôi là kẻ trộm. Và nếu chúng ta biết đúng điều
chúng ta đang thực là, nếu chúng ta chấp nhận bản thân mình như chúng ta đang
là và thực tế sống với nó, thế thì cuộc cách mạng có thể xảy ra ngay hôm nay. Nếu
kẻ trộm nhận biết đầy đủ rằng mình là kẻ trộm thì người đó không thể vẫn còn là
kẻ trộm lâu được. Trong thực tế, chính cách thức của người đó để tiếp tục là kẻ
trộm là ở chỗ người đó nói rằng mình không thực là kẻ trộm, và trong những hoàn
cảnh tốt hơn trong tương lai người đó sẽ không là kẻ trộm nữa. Ý tưởng hay lí
tưởng này làm cho anh ta vẫn thoải mái là trộm; anh ta ăn trộm và vậy mà vẫn
còn không phải là kẻ trộm. Người khác nói rằng anh ta không bạo hành, chính là
hoàn cảnh đã buộc anh ta phải bạo hành. Ai đó khác nói rằng anh ta mất bình
tĩnh bởi vì người khác xúc phạm anh ta, bằng không anh ta không phải là người
giận dữ; anh ta bị buộc thành giận dữ. Anh ta thậm chí xin tha thứ; anh ta nói,
"Xin tha thứ cho tôi, anh trai ơi, tôi cũng ngạc nhiên làm sao tôi đã dùng
những lời lẽ thế để chống lại anh. Tôi không thực là người ngạo mạn đâu."
Do vậy lòng tự hào của anh ta, bản ngã anh ta được khôi phục lại. Trong thực tế,
tất cả mọi ăn năn đều là cách để khôi phục bản ngã. Người giận dữ này cứu lấy bản
ngã mình bằng việc cầu xin tha thứ.
Sahaja yoga nói: Biết rằng bạn là điều bạn đang là, và đừng cố
gắng đi xa khỏi nó cho dù một li; đừng cố gắng khác với nó theo cách thức nhỏ
nhặt nhất. Và khoảnh khắc bạn trở nên nhận biết hoàn toàn về tội lỗi của nó, nỗi
đau của nó, nỗi khổ của nó, nỗi cơ cực của nó, ngọn lửa địa ngục của nó, bạn sẽ
lập tức nhảy ra khỏi nó và bạn sẽ được tự do với nó không cần thời gian nào; bạn
sẽ phải thoát ra ngoài nó một cách toàn bộ.
Nếu kẻ trộm biết bản thân mình một cách đầy đủ là kẻ trộm và
không nuôi dưỡng trong tâm trí mình cho dù một ý nghĩ nhỏ nhặt nhất rằng mình sẽ
thôi là kẻ trộm; nếu người đó biết rằng mình là kẻ trộm hôm nay và người đó sẽ
là kẻ trộm vĩ đại hơn ngày mai, bởi vì trong hai mươi bốn giờ thói quen của người
đó sẽ được làm mạnh thêm; nếu người đó chấp thuận định mệnh của mình là kẻ trộm
một cách hoàn toàn và với hiểu biết đầy đủ, bạn có cho rằng người đó có thể vẫn
còn là kẻ trộm cho dù lấy một khoảnh khắc không? Nhận biết này rằng mình là kẻ
trộm sẽ chìm vào trong tim người đó giống như viên đạn và nó sẽ đơn giản là
không thể được cho người đó để sống với hoàn cảnh này cho dù một khoảnh khắc.
Trong chính khoảnh khắc đó cách mạng sẽ xảy ra, chuyển hoá sẽ xảy ra.
Nhưng chúng ta rất láu lỉnh, và chúng ta có những phương cách
láu lỉnh riêng của mình. Chúng ta là kẻ trộm và chúng ta mơ trở thành người
nhân đức, và đây là cách những giấc mơ này giúp chúng ta vẫn còn là kẻ trộm
liên miên. Thực tế các giấc mơ của chúng ta vận hành giống như cái giảm xóc có
đó giữa hai giá chuyển hướng của ô tô ray để hấp thu những cú xóc của chuyển động.
Cái giảm xóc hấp thu xóc và hành khách được bảo vệ khỏi bị thương. Giấc mơ của
chúng ta cũng giống như cái giảm xóc trong xe mô tô. Khi chiếc xe chạy trên đường
gập ghềnh, nó hấp thu những cú xóc và quí ông trong xe được cứu khỏi bị đau và
không thoải mái. Tương tự các học thuyết và nguyên tắc làm việc như tầng đệm và
hấp thu xóc trong cuộc sống của chúng ta. Tôi là kẻ trộm và tôi giữ ý tưởng về
không ăn cắp. Tôi bạo hành và tôi có bất bạo hành làm khẩu hiệu của mình; tôi
nói bất bạo hành là điều cao nhất của tôn giáo. Lí tưởng này là tầng đệm của
tôi, nó giúp tôi vẫn còn bạo hành. Bởi vì bất kì khi nào tôi phải đương đầu với
sự kiện về bạo hành của mình, tôi sẽ tự nói với mình, "Bạo hành gì? Mình
là người tin vào bất bạo hành; bất bạo hành là tôn giáo cao nhất cho mình. Nếu
thỉnh thoảng mình đi lệch khỏi nó, đấy là vì mình yếu đuối; nhưng mình định đạt
tới lí tưởng của mình ngày mai hay ngày kia. Và cho dù mình không làm được
trong kiếp này, mình sẽ làm nó trong kiếp sau. Nhưng bất bạo hành vẫn còn là
ngôi sao dẫn đường của mình."
Có thể chứ, tôi mang lá cờ bất bạo hành trên khắp thế giới,
và liên tục bạo hành bên trong. Lá cờ này là sự trợ giúp cho bạo hành của tôi.
Dù bất kì đâu bạn bắt gặp một người có dán nhãn bất bạo hành
là cao nhất, biết điều chắc chắn rằng người bạo hành đang ở quanh đâu đó. Không
thể có lí do nào khác cho dấu hiệu hay lá cờ bất bạo hành; nó bao giờ cũng tới
cùng người bạo hành. Bất bạo hành là cái mộc để che giấu bạo hành và duy trì
nó. Con người có đủ mọi loại phương cách, và chỉ các phương cách, nhiều tới mức
con người đánh mất bản thân mình trong đám đông của mình.
Mang tính sahaja, là tự nhiên nghĩa là: cái đang hiện hữu, cứ
hiện hữu: bây giờ không có cách nào để bước ra khỏi nó; mình phải sống nó; và
mình sẽ sống nó, là nó.
Nhưng việc hiện hữu này và sống với cái đang đó, đau đớn tới
mức điều đó gần như không thể được. Bạn có biết bạn sẽ làm gì nếu bạn bị ném xuống
địa ngục không? Bạn sẽ thấy với ngạc nhiên của mình rằng chỉ với giúp đỡ của giấc
mơ của mình, bạn mới có thể sống được trong địa ngục. Bạn sẽ nhắm mắt lại và
chôn vùi bản thân mình trong mơ và mơ. Bạn đã nhịn ăn một ngày chưa? Thế thì bạn
biết mình đã trải qua giấc mơ ngày của mình về thức ăn và chỉ thức ăn thế nào.
Mơ về thức ăn giúp cho bạn vượt qua việc nhịn ăn của mình. Nếu bạn dừng mơ bạn
sẽ phải kết thúc việc nhịn ăn của mình ngay lập tức. Nhưng giấc mơ rằng bạn
đang ăn ngon vào sáng hôm sau giữ cho bạn trải qua việc nhịn ăn.
Tôi nhớ tới một giáo sư là đồng nghiệp của tôi ở đại học.
Chúng tôi đã cùng làm việc một thời gian dài. Cùng làm việc với anh ta một thời
gian dài tôi để ý rằng thỉnh thoảng anh ta bỗng nhiên bắt đầu nói về đồ ngọt.
Tôi phân vân khi thấy rằng anh ta nói về đồ ngọt chỉ thỉnh thoảng thôi, và thế
rồi tôi quan sát anh ta cẩn thận và thấy ra rằng cứ vào thứ bảy là anh ta say
mê nói về đồ ngọt.
Một thứ bảy, khi anh ta tới đại học, tôi bảo anh ta rằng tôi
chắc chắn anh ta sẽ nói về đồ ngọt cả ngày hôm đó. Anh ta giật mình và nói,
"Sao anh nói vậy?" Thế rồi tôi bảo anh ta, "Trong hai tháng qua
tôi đã ghi lại về anh điều nói lên rằng mọi thứ bảy anh đều đem đồ ngọt vào các
cuộc nói chuyện. Có phải là anh nhịn ăn vào thứ bảy không?" Vị giáo sư này
giật mình và anh ta buột mồm nói ra, "Nhưng ai bảo anh về điều đó?"
Rồi tôi bảo anh ta, "Không cần biết ai nói với tôi về điều
đó; đấy là phát hiện riêng của tôi."
Anh ta nói, "Đúng là tôi đã nhịn ăn hôm thứ bảy, nhưng
làm sao anh có thể biết được điều đó?" Để giải thích điều đó tôi nói,
"Tôi nghĩ rằng một người khoẻ mạnh bình thường, người ăn và uống tốt thì sẽ
không nói về thức ăn như cách anh vẫn làm vào thứ bảy. Và tôi biết rằng anh ăn
tốt, và vậy mà cứ vào thứ bảy anh luôn luôn nói về những đồ ăn ngon theo cớ này
cớ khác." "Anh đã nắm được nó đúng đấy," anh ta thừa nhận.
"Vào thứ bảy tôi chỉ toàn nghĩ về thức ăn; thực sự tôi vẫn lập kế hoạch cả
ngày tôi sẽ ăn gì ngày hôm sau. Đây là cách tôi vượt qua ngày nhịn ăn của mình.
Vào thứ bảy tôi nhịn ăn."
Thế rồi tôi gợi ý rằng anh ta nên nhịn ăn ngày nào đó mà
không nghĩ tới thức ăn, anh ta nên chỉ nhịn thôi. Và anh ta nói, "Điều này
thì không thể được; thế thì việc nhịn sẽ phải bị từ bỏ mất. Chính nhờ sự giúp đỡ
của những ý nghĩ này về thức ăn mà tôi mới có khả năng vượt qua thời gian nhịn.
Hi vọng vào ngày mai làm cho tôi trải qua việc nhịn ăn hôm nay; bằng không thì
điều đó là không thể được."
Người bạo hành liên tục mang tính bạo hành trong hi vọng rằng
mình sẽ không bạo hành một ngày nào đó. Người giận dữ liên tục giận dữ với hi vọng
rằng mình sẽ là người tốt bụng và từ bi trong tương lai. Kẻ trộm liên tục là kẻ
trộm với hi vọng rằng mình sẽ hào phóng về sau. Tội phạm vẫn còn là tội phạm với
hi vọng rằng người đó sẽ đức hạnh ngày hôm sau. Những hi vọng này là rất phi
tôn giáo. Được kết thúc với chúng đi. Cái đang hiện hữu, cứ hiện hữu. Biết điều
này cái đang hiện hữu và sống với nó. Cái đang hiện hữu là một sự kiện; sống với
sự kiện đó. Sống với tính sự kiện của cuộc sống của bạn.
Nhưng sống với sự kiện là điều rất gian truân, vất vả và đau
đớn. Sẽ rất đau cho tâm trí khi nghĩ rằng mình không phải là người tốt. Cho nên
người có dục đọc những cuốn sách về brahmacharya, vô dục; đó là cách người đó
chịu đựng dâm dục của mình. Người đó đang bị thiêu đốt bởi những ham muốn dục,
và người đó đọc sách về vô dục và tin rằng mình là người tìm kiếm vô dục. Cuốn
sách này về brahmacharya giúp người đó tiếp tục dâm dục. Người đó nói rằng chỉ
hôm nay người đó say mê trong dục, từ ngày mai người đó sẽ cương quyết theo lời
thề của mình về vô dục. Cho nên điều đó không xấu, người đó hợp lí hoá.
Có lần tôi ngẫu nhiên làm khách trong một gia đình. Ông già
trong gia đình đó bảo tôi rằng ông ấy đã ba lần được điểm đạo vào brahmacharya
bởi một sư nào đó. Tôi ngạc nhiên khi nghe điều đó, và tôi nói với ông ấy,
"Người ta lấy lời thề vô dục một lần là đủ rồi. Làm sao ông phải lấy những
ba lần cơ chứ?" Ông ấy hỏi tôi với cảm giác không thoải mái, "Ông định
nói gì? Tôi đã nói cho vài người bạn về điều đó và họ tất cả đều khen ngợi tôi
vì làm điều đó những ba lần. Không ai đã hỏi về hành động của tôi ngoại trừ
ông." Tôi nói, "Lời thề vô dục chỉ có thể được lấy một lần thôi. Làm
sao mà ông đã phải lấy nó những ba lần?" Ông ấy nói rằng bởi vì ông ấy đã
không giữ được lời thề của mình, nên ông ấy đã phải lấy nó hai lần và lần thứ
ba nữa. Và khi tôi hỏi, "Thế lần thứ tư thì sao?" ông ấy nói, "Đến
lần đó tôi đã không còn dũng cảm nữa; tôi đã mất tự tin rồi."
Vào lúc ông già này bị kết thúc với lời thề của mình ông ấy
đã tới độ tuổi sáu mươi. Ông ấy mang dâm dục của mình với sự giúp đỡ của lời thề
về brahmacharya.
Chúng ta là những người rất kì lạ. Đây là asahaja yoga, yoga
phi tự nhiên, mà chúng ta thực hành. Chúng ta đều có dâm dục và chúng ta đọc
các sách về brahmacharya. Sách về brahmacharya có tác dụng như tầng đệm trong mối
quan hệ với dâm dục của chúng ta. Đọc nó, chúng ta tự nhủ mình ở chỗ riêng tư,
"Ai nói mình dâm dục? Vì mình đọc sách về vô dục, chính là lí tưởng của
mình, mình thực sự là người vô dục chứ. Nếu mình mê say chút ít trong dục hiện
tại, thì đấy là vì yếu đuối của mình, bởi vì nghiệp quá khứ của mình hay có thể
bởi vì thời điểm đúng còn chưa tới. Nhưng nó sẽ sớm trôi qua thôi." Đây là
cách dục và vô dục đi đôi với nhau; vô dục phục vụ như cái hấp thu xóc và lái dục
theo sự thoải mái cứ tiếp diễn mãi.
Đây là trạng thái rất phi tự nhiên của mọi thứ. Để quay về với
trạng thái tự nhiên bạn sẽ phải loại bỏ cùng lúc tầng đệm và cái hấp thu xóc. Nếu
có ổ gà trên đường, bạn phải biết chúng. Lái xe mà không có bộ giảm xóc hay bộ
hấp thu xóc mà xem. Thế thì chính ổ gà đầu tiên sẽ giết chết bạn, sẽ va mạnh
vào xương bạn, và bạn sẽ ra khỏi xe ngay và nói lời tạm biệt nó. Thế thì bạn sẽ
không lái cái xe đó lần nữa. Bỏ nhíp xe đi và rồi lái nó xem. Chính việc va vào
tảng đá cuội sẽ đánh ngã bạn và bạn sẽ bái biệt ngay chiếc xe. Và bạn sẽ không
dùng chiếc xe đó lần thứ hai nữa. Nhưng bộ hấp thu xóc lắp ở dưới đáy xe không
để cho bạn phải chịu khổ sở như vậy.
Sahaja yoga nghĩa là: cái đang hiện hữu, cứ hiện hữu; cứ là
nó. Đừng cố gắng phi tự nhiên. Biết cái đang đấy, chấp nhận nó và sống với nó.
Thế thì cuộc cách mạng là chắc chắn. Người chấp nhận cái đang đó và sống nó thì
nhất định sẽ thay đổi. Thế thì không có cách nào để trải qua sáu mươi năm trong
dục và dâm dục mặc cho lời thề vô dục. Lời thề là cách thức của dâm dục. Nếu
tôi đã xúc phạm bạn trong cơn giận của mình và tôi không xin lỗi về điều đó,
ngược lại tôi cứ tới bạn và nói rằng đấy là cách tôi đang là, tôi là loại người
sai trái, người dễ dàng nổi giận..."Tôi có thể làm điều đó lần nữa đấy,
cho nên sao tôi phải xin lỗi? Và bạn nên biết rõ điều đó nếu bạn muốn tiếp tục
là bạn tôi "... Bạn có cho rằng tình bạn của tôi sẽ sống không? Tất cả bạn
bè tôi sẽ rời bỏ đi, tất cả mọi mối quan hệ của tôi sẽ gặp khó khăn và tôi sẽ bị
bỏ lại sống một mình với giận dữ của mình. Thế thì giận dữ sẽ là bạn duy nhất của
tôi; không ai sẽ ở quanh tôi để chịu đựng cơn giận của tôi. Thế thì tôi sẽ phải
sống một mình và toàn bộ với cơn giận dữ của tôi. Tôi sẽ có thể sống được với
nó không? Không, tôi sẽ nhảy ra khỏi nó, bằng việc nói "Nó điên khùng làm
sao!"
Nhưng chúng ta có những phương cách riêng của mình. Chồng cãi
nhau với vợ vào buổi sáng và gọi vợ là con mụ lẳng lơ và xông về văn phòng của
mình. Anh ta trở về vào buổi chiều với kem và bộ áo quần sari lụa để phỉnh phờ
cô ấy. Và vợ nghĩ rằng anh ta vẫn là người chồng đáng yêu cũ. Chồng, qua ăn
năn, khôi phục lại mối quan hệ của mình với vợ, anh ta trở lại nơi chiếc cà vạt
đã bị vứt đi. Và với kem và bộ quần áo sari lụa trong tay cô ấy, người đàn bà lần
nữa lại trở thành người vợ cũ tốt bụng. Nhưng câu chuyện này sẽ lặp lại bản
thân nó vào buổi tối theo cách nó đã xảy ra vào buổi sáng. Và vào buổi tối chồng
sẽ lại quì xuống và van xin tha thứ của vợ. Và sáng hôm sau sẽ lại không khác.
Cùng câu chuyện này lặp lại hết ngày nọ tới ngày kia, hết tháng nọ sang tháng
kia, hết năm nọ sang năm kia. Do vậy nó chạy qua cả đời.
Cả chồng lẫn vợ đều không được chuẩn bị để biết sự thật của họ,
chân lí của họ. Họ không được chuẩn bị để đối diện với thực tại, sự không thành
thực và lừa dối có trong cuộc sống thường ngày của họ. Không xem xét tới điều
đó trong một khoảnh khắc họ liên tục lừa dối lẫn nhau. Và giống như đôi này, tất
cả chúng ta đều liên tục lừa dối lẫn nhau trong cả đời mình. Và điều còn tồi tệ
hơn, chúng ta không chỉ lừa dối người khác mà chúng ta còn tự lừa dối mình.
Sahaja yoga nghĩa là: không tự lừa dối mình. Biết và chấp nhận
bản thân mình đích xác như bạn đang đấy và như cách bạn đang là mà không có bất
kì dè dặt nào. Nếu bạn làm như vậy, chuyển hoá sẽ xảy ra ngay lập tức. Chuyển
hoá xảy ra đồng thời với hiểu biết và chấp nhận. Thế thì bạn sẽ không phải chờ
đợi nó. Người ta có đợi đến mai không nếu nhà người đó cháy và người đó biết điều
đó? Người đó sẽ thoát ngay ra khỏi nhà mình trong một phần giây. Cái ngày chúng
ta hoàn toàn thấy cuộc sống của mình như nó đang đó - và nó là ngôi nhà đang
cháy - thì khoảnh khắc của chuyển hoá tới. Nhưng chúng ta có cách thức lừa dối
riêng của mình. Ngôi nhà đang cháy và chúng ta đã trang hoàng phần bên trong nó
bằng hoa. Tay chúng ta trong xiềng xích và chúng ta mạ chiếc xiềng này bằng
vàng, và do vậy khi chúng ta thấy sự lộng lẫy của vàng chúng ta không thấy xiềng
xích. Chúng ta đầy những ốm yếu và vết thương, nhưng chúng ta đã che đậy các vết
thương của mình bằng băng mầu, và chúng ta thấy mầu sắc chứ không thấy vết
thương đằng sau chúng.
Lừa dối này sâu sắc và bao la tới mức chúng ta dành cả đời
mình cho nó và khoảnh khắc của chuyển hoá không tới. Chúng ta cứ trì hoãn khoảnh
khắc đó. Cái chết tới, nhưng không khoảnh khắc nào bị trì hoãn cả. Chúng ta chết,
nhưng chúng ta không thay đổi; chúng ta đơn giản không có khả năng thay đổi.
Thay đổi, chuyển hoá có thể xảy ra bất kì khoảnh khắc nào một
cách thực sự. Sahaja yoga nói: sống với cái đang đấy, và bạn sẽ được biến đổi.
Bạn không phải làm nỗ lực thay đổi; chân lí thay đổi. Jesus nói, "Chân lí
giải thoát." Nhưng chúng ta không biết chân lí. Chúng ta sống trong dối
trá, chúng ta sống trong cái không thực; nhưng chúng ta trang hoàng cho cái
không thực của mình trước khi chúng ta sống với chúng. Và cái không thực trói
buộc, trong khi chân lí giải thoát. Ngay cả chân lí đau đớn nhất cũng còn tốt
hơn dối trá dễ chịu nhất. Cái không thực dễ chịu mới thực sự nguy hiểm. Nó sẽ
trói buộc bạn; nó sẽ là tù túng của bạn. Và ngay cả chân lí đau đớn cũng là giải
thoát, ngay cả cái đau của nó cũng là giải thoát. Cho nên sống với chân lí đau
đớn, và đừng nuôi dưỡng dối trá dù chúng có thể dễ chịu thế nào. Đây là toàn bộ
sahaja yoga.
Đây là toàn bộ sahaja yoga. Và thế rồi tới samadhi, cực lạc
hay thức tỉnh, hay bất kì cái gì bạn gọi nó. Bạn sẽ không phải tìm kiếm samadhi
đâu; nó sẽ tới theo cách riêng của nó.
Khóc khi bạn muốn khóc, và cười khi bạn muốn cười, và biết rằng
nó đang xảy ra.
Tôi nghe nói rằng ở Nhật Bản một bậc thầy chết và hàng nghìn
người tụ tập để dự đám tang của ông ấy; ông ấy nổi tiếng thế. Nhưng ông ấy có một
đệ tử còn nổi tiếng hơn ông ấy. Và khi mọi người tới họ thấy rằng đệ tử nổi tiếng
này của ông ấy đang ngồi ngoài trời và khóc cay đắng. Họ nói với ông ta,
"Chúng tôi lấy làm kinh ngạc khi thấy ông khóc, bởi vì chúng tôi nghĩ rằng
ông là một trong những người chứng ngộ. Sao ông phải khóc?" Đệ tử này nói,
"Các ông ngu lắm, tôi không định thôi khóc vì các ông nói tôi chứng ngộ
đâu. Việc khóc là điều hoàn toàn khác. Giữ chứng ngộ của các ông cho chính mình
đi; tôi không cần nó đâu." Thế rồi khách nói, "Nhưng mọi người sẽ nói
gì? Nếu ông không thể chấm dứt việc khóc được thế thì đi vào bên trong đi; đừng
khóc chỗ công khai thế này. Bằng không điều đó sẽ làm phát sinh tai tiếng.
Chúng tôi tin rằng ông đã đạt tới trạng thái cân bằng hoàn hảo, trạng thái của
tri thức tối thượng. Chúng tôi tin rằng ông là một trong những người trí huệ nhất,
và rằng chẳng cái gì có thể ảnh hưởng được tới ông - cả hạnh phúc lẫn nỗi buồn."
Thế rồi đệ tử này nói, "Các ông hiểu điều đó sai tuốt.
Chính là trước khi chứng ngộ thì rất ít điều ảnh hưởng được tới tôi, bởi vì nhạy
cảm của tôi còn mờ nhạt và tôi không thể bị tấn công được và khó đương đầu. Bây
giờ mọi thứ đều ảnh hưởng tới tôi từ đầu nọ tới đầu kia, cho nên tôi sẽ khóc từ
tậm tim mình. Tôi chẳng bận tâm về điều các ông nói, về chứng ngộ của các ông.
Vứt nó ra ngoài cửa sổ đi."
Nhưng như những người sùng kính vẫn làm, họ tiếp tục thuyết
phục ông ấy và nói, "Ông nên nghĩ tới hổ thẹn mà điều đó sẽ gây ra. Cho
nên cho dù ông phải khóc, thì khóc một cách riêng tư, bí mật; bằng không những
tin đồn ác ý sẽ lan khắp nước." Một trong những người sùng kính thách thức,
"Ông bao giờ cũng nói rằng linh hồn là bất tử, thế thì tại sao ông khóc
than?"
Thế rồi hiền nhân này nói, "Ai khóc cho linh hồn? Tôi
đang khóc cho thân thể của thầy tôi; tôi không khóc cho linh hồn, cái còn mãi
và vĩnh hằng. Thân thể nữa, cái bị mất đi khỏi thầy tôi thật xinh đẹp và, và
bây giờ nó sẽ không còn trở lại với đất nữa. Ngôi đền trong đó linh hồn của thầy
tôi cư ngụ cũng không kém phần đáng yêu, và nó sẽ không xảy ra lần thứ hai. Tôi
đang khóc cho thân thể đó." Và khi người sùng kính này thách thức, "Vậy
là ông khóc cho thân thể!" thì đệ tử chính này nói, "Ông có định áp đặt
điều kiện cho việc khóc không đấy? Ông sẽ không cho phép tôi khóc sao?"
Chỉ một tâm trí đúng đắn, một tâm trí đích thực, một tâm trí
sống trong chân lí, mới có thể là tâm trí tự do. Tâm trí đúng đắn là tâm trí
đích thực, nghĩa là khóc khi bạn muốn khóc và cười khi bạn muốn cười. Nếu bạn
phải giận dữ thì hoàn toàn đích thực trong giận dữ của bạn đi. Nếu bạn giận dữ
thì trở thành bản thân việc giận dữ để cho bạn và tất cả mọi người quanh bạn biết
giận dữ là gì. Giận dữ đó sẽ là việc giải thoát; nó sẽ giải phóng bạn thình
lình. Thay vì giận dữ trong một lúc, từng tí một theo cách hờ hững, giận dữ một
lần cho dứt khoát, để cho nó thiêu cháy bạn và thiêu cháy những người khác
quanh bạn và bạn biết nó tất cả là gì. Thông thường cơn giận của chúng ta hờ hững
thế, nhạt nhẽo thế, không đích thực đến độ chúng ta không biết cơn giận đích thực
và thực sự là gì. Chúng ta giận dữ một phần và một phần không giận dữ; chúng ta
giận dữ theo từng mảnh; và đó là điều làm cho nó không đích thực. Hành trình cuộc
sống của chúng ta là ở mức chúng ta bước lên rồi lại bước lùi; cho nên chúng ta
đi bây giờ ở đây, chúng ta vẫn còn tĩnh tại và trì trệ. Thực sự không có hành
trình; chúng ta chỉ trì trệ và sống vô vị.
Sahaja yoga nói: bất kì cái gì có đó trong cuộc sống, chấp nhận
nó, biết nó và sống nó. Từ chấp nhận này, từ việc biết và sống này sẽ tới điều
chúng ta gọi là chuyển hoá hay biến đổi. Và chuyển hoá này sẽ đưa bạn đạt tới
Thượng đế.
Điều tôi gọi là thiền, và điều chúng ta có ở đây, là quá
trình của sahaja yoga. Tại đây các bạn chấp nhận tất cả mọi điều xảy ra cho
mình, các bạn buông bỏ bản thân mình hoàn toàn và chấp nhận tất cả mọi điều xảy
ra theo cách riêng của nó. Bằng không thì sẽ không thể nghĩ được rằng những người
có giáo dục và có văn hoá, những người giàu có và sành điệu cứ khóc lóc và gào
thét, nhảy nhót lung tung và nhảy múa điên dại như người rồ. Đây không phải là
điều bình thường. Đây là cái gì đó phi thường và vô giá nữa. Đó là lí do tại
sao khán giả bị hoang mang và người đó không hiểu tất cả những cái đó là gì.
Người đó cảm thấy bị sửng sốt và thế rồi người đó cười vào tất cả mọi thứ.
Nhưng người đó không nhận biết rằng nếu người đó mà tham gia với các bạn, người
đó cũng trải qua cùng những kinh nghiệm kì quái đó. Hay có thể tiếng cười của
người đó chỉ là biện pháp bảo vệ, người đó cười chỉ để tự bảo vệ mình, người đó
muốn nói qua tiếng cười của mình rằng người đó sẽ không làm điều các bạn đang
làm đâu; điều đó không dành cho người đó. Đó là điều người đó nghĩ, nhưng tiếng
cười của người đó về phần nó lại nói điều gì đó khác. Nó nói rằng theo một cách
nào đó người đó nữa cũng có điều gì đó cần làm với nó. Tiếng cười của người đó
nói rằng theo một cách nào đó người đó thực sự có liên quan với nó. Sự buồn cười
của người đó chỉ ra rằng nếu như người đó mà tham gia vào điều đang xảy ra ở
đây thì người đó sẽ làm cùng những điều này. Người đó nữa cũng đã ngăn cản và
kìm nén bản thân mình; người đó nữa đã đè nén nước mắt và tiếng cười của mình,
điệu vũ của mình và cực lạc của mình.
Bertrand Russell nói trong những ngày cuối đời của ông ấy rằng
nền văn minh đã cướp đi của con người vài điều quí giá và nhảy múa là một trong
chúng. Ông ấy nói rằng ông ấy không thể nghĩ được việc đứng giữa quảng trường
Trafalgar và nhảy múa, mặc dầu chúng ta vẫn tuyên bố rằng chúng ta là người tự
do và rằng chúng ta có nhiều tự do hơn tổ tiên mình đã từng có. Ông ấy cũng
quan sát rằng một mặt con người đã bô bô rằng thế giới đã đi vào kỉ nguyên tự
do và tự quyết và mặt khác con người không được tự do nhảy múa ở bãi chợ, và nếu
con người làm như vậy thì cảnh sát giao thông lập tức sẽ bắt người đó với tội
danh cản trở giao thông. Và hơn nữa người đó sẽ bị coi là ca bệnh tâm thần.
Bertrand Russell cũng nhớ lại rằng bất kì khi nào ông ấy tới thăm những bộ lạc
nguyên thuỷ nhảy múa một cách phóng túng dưới trời sao thì ông ấy đau đớn nhận
ra rằng con người văn minh đã thực sự đánh mất điều có giá trị đó.
Cái được của nền văn minh là nhỏ còn cái mất của nó thì lớn
vô cùng. Con người văn minh đã đánh mất tính tự nhiên và đơn giản của mình, con
người đã đánh mất chính bản tính mình. Và, còn hơn thế, con người là nạn nhân của
đủ mọi loại hư hỏng.
Thiền là cách làm cho bạn thành tự nhiên và đơn giản, khôi phục
bạn trở lại với tự nhiên của mình một lần nữa.
Điều cuối cùng tôi muốn nói là ở chỗ điều đã xảy ra ở đây
trong ba ngày này có ý nghĩ lớn lao. Một số bạn đã có kinh nghiệm duy nhất và số
khác đã có thoáng nhìn về chúng, trong khi vài người khác đã làm nhiều nỗ lực,
nhưng không thể có được nó, mặc dầu chắc chắn họ đã có tiến bộ nào đó. Nhưng mọi
người đã làm chút ít điều tốt ngoại trừ vài người có ảo tưởng rằng họ là các
nhà trí thức và người trong thực tế có ít thông minh và nhiều tri thức sách vở
hơn. Ngoại trừ vài người này, mọi người đã tham dự vào thiền, và mặc cho nhiều
khó khăn một loại năng lượng đặc biệt đã được tạo ra ở đây và nhiều điều đã xảy
ra có ý nghĩa.
Nhưng đây chỉ mới là bắt đầu.
Nếu bạn dành một trong hai mươi bốn giờ hàng ngày của bạn cho
việc thiền này, một cánh cửa có thể mở ra cho cuộc sống của bạn. Đóng bản thân
bạn vào trong một căn phòng trong trọn một giờ và bảo với mọi người trong gia
đình bạn đừng lo nghĩ về điều có thể xảy ra trong một giờ đó. Thế rồi cởi quần
áo ra và hoàn toàn trần trụi và làm việc thiền trong tư thế đứng. Trải chiếc
chiếu lên sàn nhà để cho bạn không bị thương trong trường hợp bạn ngã ra. Đứng
dậy và thiền, nhưng trước khi làm điều đó, thông báo với các thành viên gia
đình bạn rằng nhiều điều có thể xảy ra bên trong phòng này - bạn có thể la hét,
bất kì điều gì cũng có thể xảy ra - nhưng họ không nên quấy rối bạn. Và tiến
hành thực nghiệm này hàng ngày trong trọn một giờ cho tới khi chúng ta gặp lại
nhau tại trại tiếp. Nếu các bạn đã tham gia vào trại này ở đây mà tiếp tục thực
hành này tại chỗ của mình, tôi sẽ bàn đến một trại tách biệt cho họ, nơi tiến bộ
lớn sẽ là điều có thể.
Có khả năng lớn lao; khả năng thực tế là vô tận. Nhưng bạn sẽ
phải làm vài nỗ lực... Nếu bạn tiến lên một bước, Thượng đế sẽ tiến một trăm bước
tới bạn. Ngài bao giờ cũng sẵn sàng tới với bạn. Nhưng nếu bạn không tiến bước
nào, thế thì chẳng có cách nào để giúp bạn cả. Cho nên đem việc thiền này về
nhà và tiếp tục thực hành nó đều đặn và nhiệt tình.
Tôi biết nhiều điều sẽ ngăn cản các bạn. Con bạn sẽ nói,
"Có chuyện gì xảy ra với bố thế? Bố chưa bao giờ như thế này cả; bố bao giờ
cũng bạo dạn và nghiêm chỉnh. Và bây giờ bố đang nhảy múa và nhảy nhót và la
hét. Bất kì khi nào chúng con làm huyên náo trong nhà, bố luôn luôn giao việc
cho chúng con. Tất cả điều này là gì vậy?" Trẻ con chắc chắn sẽ cười bạn.
Bạn nên yêu cầu chúng ta tha thứ vì bạn đã cố gắng kiểm soát chúng trong quá khứ,
thừa nhận sai lầm của bạn một cách cởi mở và bảo chúng cứ chơi đùa và nhảy múa
một cách tự do để giữ cho thiên hướng tự nhiên của chúng sống động cho việc nhảy
múa và chơi đùa. Điều đó sẽ là ích lợi lớn cho chúng trong tương lai. Chúng ta
áp đặt tuổi già lên con trẻ quá sớm. Cho nên bảo gia đình bạn đừng tò mò và tọc
mạch về điều bạn làm trong căn phòng này trong một giờ, và đừng biện minh với bạn
về lí do này. Nếu một khi bạn làm điều đó thành rõ ràng, sẽ không có rắc rối
trong tương lai. Trong vài ngày họ sẽ quen với chuyện của bạn, họ sẽ để cho bạn
với chính bạn.
Và thế rồi bạn sẽ thấy rằng thiền có hiệu quả của nó không chỉ
lên bạn mà lên cả gia đình.
Nếu có thể, dành một căn phòng tách biệt cho thiền, và dùng
nó chỉ riêng cho thiền. Đừng dùng căn phòng đó cho bất kì ý định nào khác. Nó
có thể là một căn phòng nhỏ, nhưng giữ cho nó được khoá lại. Nếu bất kì thành
viên nào của gia đình bạn muốn tham gia cùng bạn, cho phép họ với điều kiện là
họ thiền cùng bạn và không làm điều gì khác. Chuyện khác đi nếu không có sẵn một
căn phòng tách biệt, nhưng phòng tách biệt cho thiền sẽ có nhiều ưu thế. Nếu nó
được dùng chỉ riêng cho thiền, nó sẽ được nạp năng lượng thiền. Và khi bạn vào
nó bạn sẽ thấy rằng nó không phải là chỗ bình thường.
Chúng ta phát ra năng lượng của mình vào mọi lúc khắp xung
quanh chúng ta; chúng ta gửi ra các tia của năng lượng tinh thần khắp xung
quanh chúng ta. Và không gian bao quanh chúng ta, ngay cả bên trong căn phòng,
cũng hấp thu năng lượng này. Đó là lí do tại sao vài nơi vẫn còn là linh thiêng
trong hàng nghìn năm. Nếu một người như Mahavira, Phật hay Krishna ngồi ở một
chỗ đặc biệt, chỗ đó nhận rung động phi thường của ông ấy, tác động siêu phàm của
ông ấy, cái có thể kéo dài hàng nghìn năm. Từ chỗ như vậy việc người ta đi vào
trong thế giới khác, thế giới tâm linh, trở nên dễ hơn nhiều.
Mọi người thực hành tốt - và tôi có tiêu chuẩn riêng để phán
xét người thực hành tốt và đó là ở chỗ người đó có ngôi đền trong nhà mình, bằng
không thì người đó là người cùng khổ - phải có ngôi đền trong một phần ngôi nhà
của người đó. Ít nhất một phòng trong mọi ngôi nhà nên được dành riêng và được
dùng làm ngôi đền, như cánh cửa sang thế giới khác. Đừng dùng căn phòng đó cho
bất kì cái gì khác. Vào nó một cách im lặng và dùng nó cho thiền. Các thành
viên khác của gia đình dần dần sẽ bắt đầu quan tâm tới thiền, bởi vì thế thì những
thay đổi mà nó sẽ tạo cho bạn cũng sẽ bắt đầu biểu lộ ra.
Bây giờ mọi người đã bắt đầu đi tới vài người ở đây, những
người đã kinh nghiệm những thay đổi trong chính họ, những thay đổi rất có ý
nghĩa, và họ hỏi những người này, "Cái gì đã xảy ra cho anh thế?" Vài
người này đến lượt họ tới tôi để hỏi làm sao họ có thể trả lời những người tọc
mạch này. Cùng cách mà con bạn, bố mẹ bạn và những người khác sẽ hỏi bạn; họ sẽ
trở nên quan tâm thế tới thiền. Và nếu bạn kiên nhẫn đủ lâu với sadhana của
mình, thế thì một ngày sẽ không xa nữa khi biến cố trọng đại nhất trong các biến
cố sẽ xảy ra trong cuộc sống của bạn - vì điều đó chúng ta phải trải qua vô hạn
kiếp sống và điều chúng ta có thể bỏ lỡ trong vô hạn kiếp sống.
Vài năm sắp tới sẽ là những năm rất có ý nghĩa trong lịch sử
nhân loại. Bây giờ một nhúm người sẽ chẳng có ích gì trong vấn đề tâm linh. Chừng
nào tính tâm linh hùng vĩ còn chưa được sinh ra, chừng nào phong trào tâm linh
hùng vĩ và đông đảo còn chưa quét qua trái đất này, chưa tạo ra tác động của nó
lên hàng triệu con người, thì sẽ không thể nào cứu được thế giới này khỏi bãi lầy
của chủ nghĩa duy vật. Đó sẽ là khoảnh khắc rất rất trọng yếu trong cuộc sống
con người; năm mươi năm sắp tới sẽ manh tính định mệnh và quyết định. Hoặc tôn
giáo sẽ sống, hoặc phi tôn giáo hoàn toàn, tất cả mọi cái chống lại tôn giáo, sẽ
sống. Năm mươi năm này cũng sẽ quyết định về Phật, Mahavira, Krishna, Jesus,
Mohammed, Rama và phần còn lại của họ. Tất cả những ngôi sao sáng này sẽ ở một
bên cán cân trong khi bên cán cân kia sẽ là đám đông các chính khách điên
khùng, các nhà duy vật và những người dốt nát khác nhất quyết lừa dối mình và
những người khác nữa. Họ đông về số lượng, trong khi chỉ một nhúm người ở phía
bên chỉ trích. Và trong thời gian năm mươi năm một quyết định sẽ được đưa ra.
Cuộc đấu tranh đã diễn ra từ thời thượng cổ đã đạt tới khoảnh
khắc quyết định của nó. Và nhìn vào tình huống như nó có được trong hiện tại,
không có mấy hi vọng. Nhưng tôi không thất vọng bởi vì với tôi dường như là có
thể tìm được cách thức đơn giản và tự nhiên rất sớm sủa mà sẽ tạo ra cuộc cách
mạng trong cuộc sống của hàng triệu người về mặt tâm linh.
Vài cá nhân có thể chẳng ích gì trong thời hiện tại. Ngày xưa
nếu chỉ một người trở nên chứng ngộ cũng đã đủ rồi. Bây giờ điều này không có
tác dụng. Theo góc nhìn của việc bùng nổ dân số lớn vô cùng đang xảy ra trên thế
giới này, vài cá nhân không thể làm được việc. Bây giờ cái gì đó hữu hình có thể
có chỉ nếu, tương xứng với dân số khổng lồ, hàng trăm nghìn người bị ảnh hưởng
và tham gia vào tâm linh. Và điều đó là có thể như tôi thấy nó đây. Nếu vài người
tạo nên hạt nhân và bắt đầu làm việc, thế thì Ấn Độ có thể đóng vai trò có ý
nghĩa trong khoảnh khắc tranh đấu đó. Đất nước này đã từng nghèo khó và khổ,
thoái hoá và nô lệ, bị lạc lối và bị dẫn sai đường, vậy mà mảnh đất này vẫn có
những kho báu được gìn giữ tốt với nó. Suốt hàng thế kỉ những người như vậy đã
bước đi trên mảnh đất này mà ánh sáng của họ, hương thơm của họ, khao khát của
họ đã để lại những rung động trong không trung, đã để lại dấu ấn của họ lên mọi
nhành cỏ ở đây. Con người tất nhiên đã đi sai, nhưng cát bụi của đất nước này vẫn
còn nhớ tới bước chân của Phật bước đi trên nó. Con người của đất nước này đã
đi sai, nhưng cây cối vẫn còn ấp ủ kí ức rằng Mahavira đã có thời đứng dưới
bóng chúng. Con người thực sự đã đi sai, nhưng biển cả bao quanh đất nước này vẫn
biết một giọng nói khác biệt mà chúng đã nghe trong quá khứ. Con người không
nghi ngờ gì nữa đã đi lạc lối, nhưng bầu trời của đất nước này vẫn tràn đầy hi
vọng. Mọi thứ vẫn ở đó, chỉ con người phải trở về nhà.
Về sau, tôi đã thường cầu nguyện với hi vọng rằng sự bùng nổ
tập thể trong các kiếp sống của hàng triệu người có thể là điều có khả năng. Và
bạn có thể giúp ích rất nhiều trong nỗ lực này. Sự bùng nổ như vậy trong cuộc sống
riêng của bạn sẽ có giá trị mênh mông không chỉ cho bạn, mà cho toàn thể nhân
loại. Với hi vọng này và lời cầu nguyện rằng bạn sẽ không chỉ thắp lên ngọn đèn
riêng của bạn, mà ngọn đèn của bạn sẽ giúp cho những ngọn đèn chưa thắp khác được
thắp lên, tôi công bố lời chào tạm biệt các bạn.
Tôi biết ơn các bạn đã nghe tôi trong an bình và với tình yêu
thế, và tôi cúi lạy Thượng đế đang ngồi bên trong từng người các bạn. Xin chấp
nhận lời chào của tôi.
Chương 9. Kundalini, Shaktipat và ân huệ
Người hỏi: Việc thở và việc hỏi câu hỏi "Tôi là
ai?" cần mãnh liệt thế nào, khi có liên quan tới quá trình thức tỉnh của
kundalini và sự xuyên thấu của nó vào các trung tâm khác hay các luân xa của
thân thể?
Có mối quan hệ, và mối quan hệ sâu sắc tại đó, giữa hai quá
trình này. Trong thực tế, chính hơi thở nối linh hồn với thân thể; hơi thở tạo
nên cây cầu giữa cả hai. Đó là lí do tại sao với việc dừng lại của hơi thở thì
cuộc sống dừng hiện hữu. Cuộc sống cứ tiếp diễn cho dù não bị hỏng. Người ta có
thể tồn tại ngay cả khi mắt hay các chi khác của thân thể bị cắt rời. Nhưng nếu
hơi thở dừng lại, cuộc sống sẽ đi tới chấm dứt ngay lập tức. Việc thở thực sự nối
thân thể với linh hồn.
Và chính tại chỗ tiếp nối của linh hồn và thân thể này, tại
điểm gặp gỡ của chúng, là nơi năng lượng được biết là kundalini thường trú.
Kundalini, hay bất kì cái tên nào bạn đặt cho nó, đều là cùng năng lượng, và nó
nằm tại chỗ tiếp nối của thân thể và linh hồn.
Do đó năng lượng này có hai dạng. Khi năng lượng này tuôn chảy
tới thân thể, nó trở thành dục; và khi nó tuôn chảy tới linh hồn, nó trở thành
kundalini hay bất kì cái gì bạn gọi nó. Và năng lượng này đi xuống khi di chuyển
vào thân thể và nó đi lên khi đi vào linh hồn. Cho nên trong khi kundalini là
năng lượng đi lên, thì dục là năng lượng đi xuống. Nhưng chỗ của kundalini, chỗ
của vị trí của nó, bị gõ vào và bị chuyển động bởi việc thở, thở sâu và nhanh.
Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng bạn không thể giữ được hơi thở
mình lặng lẽ khi làm tình. Làm tình đem tới thay đổi ngay lập tức trong chuyển
động của hơi thở. Ngay khi người ta bị kích động dục, hơi thở dồn dập lên ngay.
Bởi vì chừng nào việc thở còn chưa đập vào trung tâm này, thì năng lượng dục
không thể chuyển động được nếu không bị đập vào và bị kích thích bởi việc thở,
giao hợp dục là không thể được. Theo cùng cách này, samadhi hay cực lạc là
không thể được chừng nào kundalini này còn chưa bị đập và bị kích thích bởi việc
thở.
Samadhi là đỉnh, điểm cao nhất của năng lượng đi lên, và dục
hành động như điểm thấp nhất, điểm thấp nhất của năng lượng đi xuống. Nhưng việc
thở làm việc tương đương theo cả hai hướng.
Thử điều đó đi. Nếu tâm trí bạn đầy dục, thảnh thơi việc thở
của bạn, làm chậm dần nhịp của nó. Hay nếu tâm trí đang trong nắm bắt của giận
dữ hay bất kì ham muốn dục nào, làm chậm nhịp thở, thảnh thơi nó, và bạn sẽ thấy
dục, giận dữ, hay bất kì cái gì, đều rời bỏ bạn. Chúng đơn giản không thể kéo
dài được, bởi vì năng lượng duy trì chúng tới qua việc thở. Không được kích
thích bằng việc thở, năng lượng này không thể làm việc được. Do đó không ai có
thể giận dữ nếu người đó giữ việc thở của mình chậm, vững chắc và được thảnh
thơi. Và điều đó sẽ là phép màu, không gì ngoài phép màu tuyệt đối, nếu người
ta có thể giận dữ trong khi thở theo cách rất chậm và thảnh thơi. Điều đó là
không thể được. Giận dữ biến mất ngay khi việc thở được làm chậm lại và thảnh
thơi. Mà người ta cũng không thể bị kích động dục trong trạng thái thở chậm và
thảnh thơi. Ham muốn dục biến mất với việc làm chậm hơi thở. Cho nên làm chậm lại
và thảnh thơi việc thở của bạn khi tâm trí đầy dục hay giận dữ hay bất kì ham
muốn nào khác.
Và khi tâm trí bạn bị khao khát, thèm muốn về thiền chiếm giữ,
hãy tăng tốc nhịp thở của bạn và gõ vào kundalini bằng thở sâu. Bởi vì với khao
khát này bên trong và việc gõ vào thở, năng lượng chắc chắn bắt đầu cuộc hành
trình thiền.
Thở sâu có tác động sâu sắc lên kundalini. Pranayama, khoa học
về việc thở yoga, không phải đã được phát hiện ra một cách không cần thiết. Qua
những thực nghiệm lâu dài và điều tra và qua việc kéo dài những kinh nghiệm người
ta biết rằng rất nhiều điều có thể được thực hiện với sự giúp đỡ của việc thở
và việc gõ vào kundalini. Thực sự nhiều điều có thể được thực hiện qua thở sâu
và nhanh. Và việc gõ càng mạnh và nhanh, càng làm cho chuyển động của năng lượng
nhanh. Và chừng nào còn có liên quan tới người bình thường chúng ta, những người
có kundalini còn ngủ trong vô số kiếp, nhu cầu về việc gõ mạnh, gõ bằng tất cả
mọi sức mạnh của chúng ta còn lớn hơn nhiều.
Việc thở đập vào kundalini, trung tâm cơ bản của năng lượng.
Và khi kinh nghiệm của bạn sâu sắc hơn bạn sẽ thấy rõ ràng ngay cả khi nhắm mắt
đích xác chỗ mà việc thở đập vào. Cho nên điều thường xảy ra là với việc gõ mạnh
qua thở sâu người ta bị khuấy động về dục. Điều đó xảy ra thường xuyên thế bởi
vì thân thể bạn chỉ quen với kinh nghiệm này, kinh nghiệm về dục qua thở sâu.
Cho nên theo thói quen thân thể bắt đầu đi theo hướng quen thuộc của dục bất kì
khi nào bạn thở sâu và nhanh. Và đó là lí do tại sao nhiều người tìm kiếm - cả
đàn ông lẫn đàn bà - đều có cảm giác rằng thở sâu kích thích ngay vào trung tâm
dục của mình.
Nhiều người đã có kinh nghiệm tương tự với sự hiện diện của
Gurdjieff, và điều đó cũng là tự nhiên. Nhiều đàn bà nghĩ rằng ngay khi họ tới
ông ấy, thì trung tâm dục của họ bị đụng vào và bị kích thích. Điều này là tự
nhiên. Nhưng bởi vì điều đó mà Gurdjieff đã bị hiểu lầm nhiều và bị phỉ báng; mặc
dầu ông ấy không có lỗi chút nào. Điều đáng trách không nằm ở nhà ông ấy. Sự kiện
là ở chỗ các rung động xung quanh người có kundalini được thức dậy, mạnh tới mức
họ bắt đầu ảnh hưởng tới kundalini của bạn ngay khi bạn lại gần người đó. Và vì
kundalini riêng của bạn ngủ gần trung tâm dục, nên những rung động của người đã
thức tỉnh đập vào bạn tại trung tâm dục của bạn. Đó là cách nó đã xảy ra tại lần
tiếp xúc đầu tiên.
Việc thở sâu và nhanh nhất định có tác động sâu sắc lên
kundalini. Và tất cả các trung tâm, điều bạn gọi là các luân xa, thì không là
gì ngoài những chỗ dừng cho kundalini trên cuộc hành trình của nó. Đây là những
trung tâm mà kundalini sẽ đi qua. Thông thường có nhiều trung tâm như thế và có
những ước lượng khác nhau về chúng. Nhưng nói một cách đại thể, bẩy trung tâm
quan trọng nhất nơi kundalini, khi đi lên và xuống, rất có thể dừng lại và nghỉ
một chốc. Và nó sẽ có tác động của nó khi nó tiếp xúc với những chỗ này. Và những
tác động đầu tiên của nó sẽ được cảm nhận ở trung tâm là trung tâm hoạt động
nhiều nhất của bạn. Chẳng hạn, nếu một người thường xuyên làm việc bằng bộ não,
thì với việc thở sâu đầu người đó sẽ trở nên rất nặng. Nó sẽ là như vậy bởi vì
trung tâm não người đó ngẫu nhiên là trung tâm hoạt động nhất của người đó. Tác
động đầu tiên của việc thở sẽ được cảm thấy trên đầu người đó, trung tâm hoạt động
của người đó, và nó sẽ trở thành nặng. Và nếu người đó dâm dục, thì trung tâm dục
của người đó sẽ bị kích thích ngay lúc đầu tiên. Tương tự một người đàn ông
đang yêu sẽ thấy tình yêu của mình được kích thích, được nâng cao và tuôn chảy.
Và nếu một người xúc động, xúc động của người đó sẽ được tăng thêm.
Cho nên trung tâm hoạt động nhất sẽ bị đập vào và bị kích
thích trước hết bởi việc thở sâu và nhanh. Nhưng chẳng mấy chốc nó bắt đầu ảnh
hưởng tới các trung tâm khác nữa. Và tương ứng với thay đổi này, biến đổi về
nhân cách cũng bắt đầu đồng thời. Bạn sẽ bắt đầu biết rằng bạn đang thay đổi; bạn
không là cùng người bạn đã là cho tới bây giờ.
Chúng ta không biết rằng có rất nhiều khả năng bên trong từng
người chúng ta. Chúng ta quen thuộc chỉ với trung tâm của mình, cái hoạt động
và ngủ và là nơi chúng ta tồn tại. Cho nên khi trung tâm khác mở ra thì dường
như là nhân cách cũ của chúng ta mất đi và con người mới đã xuất hiện vào chỗ của
nó. Hay dường như là chúng ta bây giờ không là cùng người như chúng ta trước
đây. Điều đó tựa thế này: tôi nhận biết chỉ một căn phòng trong ngôi nhà nơi
tôi sống, và tôi mang dấu ấn của căn phòng này trong tâm trí tôi. Rồi bỗng
nhiên một hôm một cánh cửa mở ra và căn phòng khác xuất hiện trước tôi. Thế rồi
toàn thể bản đồ tâm trí tôi về ngôi nhà sẽ trải qua thay đổi. Bây giờ ngôi nhà
mà tôi đã nghĩ là của tôi sẽ là ngôi nhà rất khác, và tôi sẽ cần thu xếp lại nó
một lần nữa.
Cho nên các trung tâm khác sẽ bị đập vào và được kích hoạt,
các chiều hướng mới của cuộc sống của bạn sẽ bắt đầu bộc lộ và tự biểu hiện
chúng. Và khi tất cả những trung tâm này sẽ được kích hoạt cùng nhau - tức là
khi năng lượng sẽ tuôn chảy đều qua tất cả chúng - lần đầu tiên chúng ta sống một
cuộc sống toàn thể; chúng ta sẽ sống một cách toàn bộ.
Thông thường không ai sống một cách toàn thể, toàn bộ cả; tất
cả chúng ta đều sống cuộc sống manh mún. Tất cả các trung tâm phía trên của
chúng ta vẫn còn không được động tới. Cho nên thở sâu sẽ đập vào và kích hoạt tất
cả chúng.
Và câu hỏi "Tôi là ai?" làm cùng điều đó; nhưng nó
gõ búa vào các trung tâm này từ hướng khác. Cho nên cố gắng hiểu nó đi, như bây
giờ các bạn hiểu chức năng của việc thở sâu và nhanh. Làm sao việc tụng
"Tôi là ai?" có tác động lên kundalini?
Các bạn không biết tại sao khi các bạn nhắm mắt và hình dung
ra bức tranh đàn bà trần truồng, thì trung tâm dục của các bạn lập tức bị kích
động. Các bạn mới chỉ hình dung thôi và vậy mà trung tâm dục của các bạn đã bị
khuấy động rồi. Tại sao?
Trong thực tế, mọi trung tâm đều có tưởng tượng riêng của nó,
và nếu bạn tưởng tượng điều gì đó gần với nó, thì trung tâm có liên quan này sẽ
bị kích động ngay. Cho nên ngay khi các bạn nghĩ và tưởng tượng về dục, trung
tâm dục của các bạn bắt đầu làm việc; các bạn bị kích động về dục.
Và các bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng trong vấn đề này người
đàn bà thực trần truồng có thể không gây kích động và có hiệu quả như ý nghĩ về
cô ấy. Lí do là ở chỗ ý nghĩ về đàn bà trần truồng sẽ đưa bạn vào tưởng tượng của
mình mà nó sẽ bắt đầu đập vào trung tâm dục ngay lập tức và mạnh mẽ. Nhưng người
đàn bà thực trần truồng không thể đưa bạn vào tưởng tượng được, vì cô ấy ở ngay
trước bạn, cô ấy gần gũi thế. Cho nên cô ấy sẽ ảnh hưởng tới bạn chỉ tới mức độ
như một vật gần cạnh có thể tác động. Trong khi người đàn bà thực đập vào bạn từ
phía trước, thì người đàn bà tưởng tượng sẽ đập vào bạn từ bên trong. Và cú
đánh từ phía trước không thể mạnh và sâu như cú đánh từ bên trong. Do đó, có
nhiều đàn ông tỏ ra bất lực trước đàn bà thực nhưng rất có khả năng giao hợp
trong tưởng tượng; không có chỗ hết cho tiềm năng tưởng tượng của họ. Bởi vì cuộc
công kích của tưởng tượng chạm tới trung tâm của bạn từ bên trong, trong khi cuộc
công kích từ phía trước của người đàn bà thực không thể chạm được vào bạn từ
bên trong; nó chạm trực tiếp vào bạn từ bên ngoài. Và bởi vì đàn ông sống trong
tâm trí của mình, cho nên người đó có thể làm việc trên những trung tâm này hiệu
quả hơn qua tâm trí.
Cho nên khi bạn hỏi, "Tôi là ai?" thì bạn đang nêu
ra việc hỏi, bạn đang đưa ra câu hỏi về mặt tâm trí. Câu hỏi này sẽ chạm vào
trung tâm nào? Nó nhất định chạm vào trung tâm nào đó. Khi bạn hỏi câu hỏi này,
khi bạn truy vấn mình là ai, khi bạn tràn đầy với khao khát này để biết, khi mọi
thớ thịt của bạn hỏi, "Tôi là ai?" bạn đang đi vào bên trong; và chắc
chắn trung tâm nào đó bên trong bạn sẽ bị đập vào và được nó kích hoạt.
Nhưng bởi vì "Tôi là ai?" là câu hỏi các bạn chưa
bao giờ hỏi cả, nên nó sẽ không đánh vào bất kì trung tâm nào bạn đã biết và
đang kích hoạt. Đây là câu hỏi các bạn chưa bao giờ tự hỏi bản thân mình, đây
là việc truy vấn các bạn chưa bao giờ tiến hành. Các bạn chưa bao giờ được rót
đầy với khao khát để biết mình là ai. Các bạn vẫn thường hỏi, "Anh ấy là
ai? Cô ấy là ai?" và những câu hỏi như thế này; nhưng các bạn chưa bao giờ
hỏi "Tôi là ai?" "Tôi là ai?" đã là một câu hỏi chưa được hỏi
lâu thế. Và do đó nó sẽ đánh vào một trung tâm hoàn toàn chưa được biết tới mà
bạn chưa hề chạm tới. Và trung tâm chưa biết đó, mà câu hỏi này "Tôi là
ai?" định đập vào, là rất cơ bản - bởi vì bản thân câu hỏi này là rất cơ bản.
"Tôi là ai?" là câu hỏi rất nền tảng và là câu hỏi
rất mang tính tồn tại. "Tôi là ai?" là câu hỏi bao gồm tính toàn bộ của
sự tồn tại của chúng ta trong tất cả mọi chiều sâu và chiều cao của nó. Câu hỏi
này sẽ đem tôi tới nơi đã ở trước khi tôi được sinh ra, đằng sau mọi kiếp sống
quá khứ của tôi. Câu hỏi này có thể đem tôi tới nơi tôi đã ở lúc bắt đầu sơ
khai. Tính sâu sắc của câu hỏi này là vô hạn. Và chính cuộc hành trình của nó
cũng sâu sắc như vậy. Do đó, câu hỏi này sẽ lập tức đánh vào trung tâm cơ sở,
trung tâm sâu nhất - kundalini.
Thở sâu đánh vào trung tâm này về mặt thể chất, còn câu hỏi
"Tôi là ai?" làm cùng công việc đó về mặt tinh thần, về mặt tâm lí.
Câu hỏi này gõ búa vào kundalini bằng năm lượng tinh thần còn thở sâu gõ búa
vào nó bằng năng lượng thân thể. Và nếu cả hai chiếc búa đều gõ đủ mạnh...
Thông thường chỉ có hai cách để gõ búa vào trung tâm này - một cách qua việc thở
và cách kia qua việc hỏi "Tôi là ai?" Cũng có những cách khác nữa,
nhưng chúng có chút ít phức tạp.
Người khác cũng có thể có ích trong vấn đề này. Nếu bạn làm
nó trong sự hiện diện của tôi thì hiệu quả sẽ nhanh hơn và lớn hơn, bởi vì thế
thì sẽ có việc gõ búa từ hướng thứ ba mà bạn chẳng có ý tưởng gì cả. Đó là hướng
tinh tú với việc gõ búa còn tinh tế hơn việc gõ về tinh thần và thể chất. Khi
các bạn thở mãnh liệt, nó gõ búa vào trung tâm này theo mặt thể chất. Khi các bạn
hỏi "Tôi là ai?" nó làm cùng việc đó về mặt tinh thần. Và khi các bạn
làm nó trong sự hiện diện của người khác mà qua người đó thể tinh tú của bạn bị
gõ búa vào, cuộc hành trình thứ ba bắt đầu. Cho nên nếu năm mươi người thiền ở
đây cùng nhau, nó sẽ mãnh liệt hơn nhiều nếu chỉ một người thiền. Bởi vì khao
khát của năm mươi người tổ hợp với những rung động của việc thở mãnh liệt của họ,
bầu không khí tinh tú sẽ tràn ngập căn phòng này, và một loại sóng ánh sáng điện
mới sẽ bắt đầu luân chuyển khắp xung quanh, điều sẽ đập vào bạn từ hướng khác.
Nhưng thông thường các bạn chỉ có hai cách trực tiếp - một là
thể chất và cách kia là tinh thần. Cho nên "Tôi là ai?" sẽ đập mạnh
hơn; nó sẽ đập mạnh hơn thở sâu. Nhưng chúng ta bắt đầu với việc thở, bởi vì đó
là từ thân thể và dễ dàng thực hiện. Việc hỏi "Tôi là ai?" có chút ít
khó khăn hơn, vì nó là từ tâm trí. Chúng ta bắt đầu với thân thể và khi thân thể
bắt đầu rung động đầy đủ, nó chuẩn bị cho tâm trí để hỏi câu hỏi "Tôi là
ai?" Tình huống đúng cần có cho việc hỏi này. Sẽ chẳng có gì tốt nếu hỏi
mà không có chuẩn bị trước, "Tôi là ai?" vào bất kì lúc nào và mọi
lúc.
Trong thực tế, mọi câu hỏi đều cần một tình huống đúng để nó
có thể được hỏi. Chẳng hạn, khi thân thể bạn bắt đầu rung và lắc, một câu hỏi tự
động nảy sinh và bạn tự hỏi mình, "Tất cả điều này là gì vậy? Làm sao tôi
đang làm thế này?" Và thế rồi bạn biết rằng bạn đang không làm gì cả, bạn
không giơ chân mình lên mà cũng không quay đầu và nhảy múa; ấy vậy mà điệu vũ vẫn
đang xảy ra. Và nếu tất cả điều này xảy ra mà không có nỗ lực của bạn, thì sự đồng
nhất của bạn với thân thể bắt đầu chùng ra. Thế thì một câu hỏi mới nảy sinh
trước bạn, bạn muốn biết mình là ai. Câu hỏi mới này là ở chỗ nếu thân thể
không phải là việc làm của bạn, thế thì ai khác làm nó, và bạn là ai. Bây giờ sự
phân li, một lỗ hổng được tạo ra giữa bạn và thân thể bạn.
Đây là tình huống đúng, khi mà qua lỗ hổng này câu hỏi
"Tôi là ai?" có thể chìm vào sâu trong bạn. Nó chính xác là cơ hội
này khi việc hỏi câu hỏi này trở thành cần thiết. Thực sự mọi câu hỏi đều có thời
điểm đúng, mùa vụ đúng riêng của nó. Và điều rất quan trọng là tìm ra đúng mùa
vụ cho câu hỏi này "Tôi là ai?" Đấy không phải là câu hỏi để được hỏi
theo cách ứng khẩu; nó không thể được hỏi vào bất kì thời điểm nào mà không có
sự chuẩn bị. Nếu, khi ngồi ở đây, các bạn hỏi một cách tình cờ "Tôi là
ai?" nó sẽ mất tăm mất tích trong không trung; nó sẽ không đạt tới đâu cả.
Một lỗ hổng, một lối mở trong bạn là cần thiết để từ đó câu hỏi này có thể thấm
sâu vào bạn. Lối mở là điều phải có.
Với việc gõ búa liên tục vào hai điều này - thở sâu và
"Tôi là ai?" - kundalini sẽ thức dậy. Và với việc thức dậy của nó, những
kinh nghiệm phi thường sẽ bắt đầu xảy ra; bởi vì tất cả mọi kinh nghiệm của tất
cả các kiếp sống quá khứ của bạn đều được liên kết với kundalini - theo cách
chúng được lắng đọng ở đó. Các kinh nghiệm của bạn về vô hạn kiếp sống, kể cả
các kiếp sống là cây, là cá, là chim, những kinh nghiệm mà bạn đã trải qua
trong toàn thể quá trình tiến hoá của bạn đều nằm trải trên con đường hành
trình của bạn. Và quyền năng rắn này được biết như là kundalini đã hấp thu tất
cả chúng. Do đó nhiều loại điều có thể xảy ra và bạn có thể đồng nhất bản thân
mình với những kinh nghiệm này. Bất kì loại sự việc nào, những sự việc không thể
nghĩ nổi, cũng đều có thể xảy ra. Bạn không có ý tưởng nào về nhiều kinh nghiệm
tinh tế được liên kết với kundalini.
Chẳng hạn, có một cây đang đứng trong vườn, và một cơn gió mạnh
và mưa to vừa mới quét qua khu vườn. Cách thức mà cây này đã kinh nghiệm và biết
về gió và mưa là đặc biệt của riêng nó; chúng ta không biết mà bất kì ai khác
cũng chẳng biết điều đó. Cách thức cây này đã biết về cơn mưa đó, chúng ta
không bao giờ có thể biết được nó. Làm sao chúng ta có thể biết được nó? Điều
đó là không thể được. Cho dù chúng ta có đứng gần cây đó, chúng ta vẫn không thể
kinh nghiệm được điều đó theo cách cây này kinh nghiệm điều đó. Chúng ta có thể
biết điều đó duy nhất theo cách chúng ta có khả năng biết điều đó.
Nhưng ở một giai đoạn nào đó trong quá trình cuộc hành trình
cuộc đời của chúng ta, bạn phải đã từng là cây nữa. Bây giờ nếu kundalini, khi
bạn đang thở và hỏi "Tôi là ai?" mà đạt tới chỗ kinh nghiệm của bạn
như cây đã được lắng đọng lại, bạn bỗng nhiên đi tới biết điều đích xác như cây
này đã biết khi trời mưa. Bạn sẽ thực sự biết rằng trời mưa. Và thế thì bạn sẽ
hoảng sợ, rất kinh hoàng, và bạn sẽ tự hỏi tất cả điều này là gì. Và chỉ thế
thì bạn mới hiểu tại sao đôi khi bạn cảm thấy thích đại dương và đôi khi bạn
thích gió, và bạn sẽ trải qua cùng những kinh nghiệm này như đại dương và gió
đã trải qua. Và kết quả của điều đó là khả năng thẩm mĩ của bạn và nhiều khả
năng khác, mà bạn chẳng có ý tưởng gì về chúng là bất kì cái gì, sẽ bắt đầu tự
chúng hiển lộ ra.
Có một bức tranh của Van Gogh trong đó cây, một cây cao lắm,
vươn thẳng lên trời. Cây này mọc cao tới mức nó đã bỏ xa các ngôi sao, kể cả mặt
trời và mặt trăng, bỏ xa đằng sau nó, thấp hơn nó nhiều. Các vì sao, mặt trời
và mặt trăng, tất cả chúng đều có vẻ như những vật tí hon mờ nhạt dưới gốc cây
này, ở gần trái đất, trong khi cây đơn độc này vươn cao hơn và cao hơn vào vô hạn.
Ai đó nói với Van Gogh, "Ông điên mà đi vẽ cây như thế. Cây có bao giờ mọc
được cao đến mức mà sao nằm ở dưới nó không?" Van Gogh nói, "Có lẽ
ông chưa bao giờ biết cây; ông chưa bao giờ thấy bên trong của cây. Nhưng tôi
biết cây này từ bên trong nó; tôi biết nó theo chiều sâu. Nó là nhỏ bé vụn vặt
nếu nó không thể vượt ra ngoài mặt trăng và mặt trời và các vì sao trên trời,
nhưng tất cả đều là một, chắc chắn mọi cây dài đều làm như vậy. Chẳng liên quan
gì việc cây không thể vượt qua được chúng; tất cả đều như nhau điều đó là khát
khao của nó, thèm muốn cái mênh mông. Điều đó đúng, tôi thậm chí không thể nghĩ
được về nó. Chính giới hạn của nó là cây không thể mọc cao đến đó, nhưng tôi biết
cách thức tâm linh của nó, bản thể của nó bao giờ cũng tung cánh lên ngày một
cao hơn và đạt tới những miền trời cao nhất."
Van Gogh thường nói, "Cây là khao khát của đất để đạt tới
trời. Cây là ham muốn thực sự của đất; qua nó đất đang trải rộng bàn tay của nó
để chạm vào trời."
Qua kundalini chúng ta sẽ biết mưa theo cách cây biết nó,
ngay cả chúng ta sẽ biết nó một cách rõ ràng như cây biết. Nhưng tất nhiên,
chúng ta đã từng là cây và nhiều điều khác nữa. Và vì vậy bất kì cái gì cũng có
thể xảy ra trong thiền. Ngoài điều này, chúng ta sẽ bắt đầu có những thoáng
nhìn về tiềm năng tương lai của mình. Chúng ta sẽ không chỉ biết rằng chúng ta
đã từng hiện hữu trong quá khứ, chúng ta cũng sẽ đi tới biết rằng điều chúng ta
có thể là trong tương lai.
Và sau khi chúng ta đã đi vào con đường của kundalini, sau
khi chúng ta đã tham gia vào cuộc hành hương của nó, thì lịch sử của chúng ta
như lịch sử của một cá nhân đi tới chỗ chấm dứt, và lịch sử của tâm thức, tâm
thức toàn thể bắt đầu. Aurobindo hay nói dưới dạng này, và điều đó là khó, việc
này không thể rất rõ ràng. Thế thì đấy không phải là lịch sử của một cá nhân, đấy
là lịch sử của bản thân tâm thức. Thế thì bạn không một mình, bạn được gắn với
tất cả cái vô hạn đã xảy ra trong quá khứ và cũng với tất cả cái vô hạn sẽ xảy
ra trong tương lai. Thế thì toàn thể cái vô hạn sẽ ở trong bạn. Nó giống như hạt
mầm nguyên thuỷ đã tự hiển lộ bản thân mình, cái liên tục không dùng thể hiện bản
thân nó, và dường như không có kết thúc cho nó. Và khi bạn sẽ thấy cái vô giới
hạn của mình mở rộng, mở rộng không có bắt đầu và không có kết thúc, mở rộng với
cái vô hạn đằng sau nó và cái vô hạn đằng trước nó, thế thì trạng thái của bạn
sẽ khác hẳn, thế thì mọi thứ về bạn sẽ trải qua thay đổi bể dâu.
Và toàn thể mọi điều đã trải qua đều nằm ẩn trong kundalini.
Thế thì nhiều màu sắc mới sẽ xuất hiện trước bạn mà bạn chưa
bao giờ thấy trước đây. Trong thực tế, các bạn sẽ thấy không có nhiều màu sắc mấy
ở bên ngoài như có ở bên trong bạn, khi bạn đi tới kinh nghiệm này. Bởi vì
trong quá trình của cuộc hành trình vô hạn của cuộc sống các bạn đã biết những
màu sắc này từ mọi thời gian và theo những cách thức hoàn toàn khác. Chiếc diều
lang thang trên trời thấy màu sắc theo một cách, và chúng ta ở đây trên mặt đất
thấy cùng màu đó theo cách hoàn toàn khác. Nếu các bạn đi vào lùm cây các bạn sẽ
thấy chỉ một màu, màu lục. Nhưng nếu một hoạ sĩ đi vào cùng lùm cây đó, ông ấy
sẽ thấy cả nghìn lẻ một màu. Màu lục không chỉ là một màu; có cả nghìn sắc thái
cho nó. Và thậm chí không có hai sắc thái nào là như nhau; mỗi sắc thái đều duy
nhất; nó có tính cá nhân riêng của mình. Với chúng ta màu lục đơn giản là màu lục;
tại đó vấn đề chấm dứt. Chúng ta có khái niệm rộng và thô và tổng quát hoá về
màu lục; chẳng có gì nhiều hơn cho nó. Nhưng thực tại của nó hoàn toàn khác với
điều chúng ta biết. Màu lục không phải là một màu; thực tế nó là cả nghìn màu.
Và mọi màu đều có cả nghìn màu bên trong nó. Cho nên khi bạn đi vào bên trong bản
thân mình, bạn sẽ trải qua hàng nghìn kinh nghiệm rất đẹp, tinh tế và hiếm hoi.
Trong vấn đề cảm nhận giác quan, con người là sinh linh yếu
đuối và nghèo nàn; con vật và chim chóc còn cao cấp hơn con người nhiều. Giác
quan của con vật và chim chóc rất mạnh; nhạy cảm của chúng đơn giản là sâu sắc
- cả về chiều cao và chiều sâu. Điều chúng thiếu là ở chỗ chúng không thể biết
một cách có ý thức và nghĩ về điều đó. Nhưng nhạy cảm của chúng, tỉnh táo của
chúng, kinh nghiệm của chúng dù sao cũng rất sâu sắc và sâu lắng.
Có loài chim, loài chim rất thông thường ở Nhật Bản. Chim này
rời làng chỗ nó ở hai mươi tư giờ trước khi động đất làm rung chuyển làng này.
Khi chim đó không còn được thấy ở đâu nữa trong làng, cư dân của làng lập tức
biết rằng động đất nhất định xuất hiện trong vòng hai mươi tư giờ. Ngay cả với
các thiết bị khoa học hiện đại mà chúng ta có, chúng ta cũng không thể dự đoán
được trận động đất sắp xảy đến trước hơn sáu giờ, và thậm chí có thế thì cũng
không tin cậy được như vậy. Nhưng dự đoán do loài chim này thực hiện đúng một
trăm phần trăm; nhạy cảm của chúng cao và sắc bén và không thể sai được đến thế.
Và những con chim này là bình thường và có nhiều đến mức khi chúng biến mất, cả
làng đều biết rằng động đất đang sắp xảy ra rồi. Điều đó nghĩa là ngay cả những
rung động cực kì tinh tế của trận động đất sắp xảy ra cũng được loài chim này cảm
nhận, và chúng rời bỏ làng đó.
Nếu bao giờ trong quá khứ lâu dài của mình bạn đã từng là
loài chim này, bạn sẽ cảm thấy những rung động như vậy trong quá trình thực
hành kundalini của mình, điều bạn chưa bao giờ cảm thấy. Nhưng trong thực tế bạn
đã kinh nghiệm chúng trước rồi, nhưng bạn không nhớ chúng. Chẳng cái gì xảy ra
trong quá trình thức dậy của kundalini mà đã không từng xảy ra trước đây trong
các kiếp sống quá khứ của bạn. Cho nên bạn sẽ thấy những màu mà bạn chưa bao giờ
thấy. Bạn sẽ nghe thấy âm thanh bạn chưa bao giờ nghe thấy. Kabir gọi nó là
naad, hay âm thanh tinh tế.
Kabir nói, "Nhảy múa đi, sư, nước cam lồ đang mưa xuống."
Và sư này hỏi, "Trời mưa ở đâu?" Bây giờ cơn mưa nước cam lồ này của
Kabir không xảy ra ở bên ngoài; nó là kinh nghiệm bên trong. Kabir cũng nói,
"Nghe đây, sư, âm thanh naad của chiếc trống lớn." Và sư này muốn biết
nó là gì. Họ không nghe thấy bất kì âm thanh nào, mặc dầu những lời kêu gọi lặp
lại của Kabir với họ để nghe nó. Các bạn nữa, cũng có thể nghe thấy những âm
thanh đó mà Kabir đã nghe thấy. Các bạn cũng có thể kinh nghiệm những trạng
thái khẩu vị mà bạn chưa bao giờ kinh nghiệm trước đây.
Cho nên một thế giới bao la các cảm giác và kinh nghiệm tinh
tế được móc nối với kundalini. Tất cả các cảm giác và kinh nghiệm của nó sẽ trở
nên sống động và thức dậy và đương đầu với bạn từ mọi hướng. Đó là lí do tại
sao, trong tình huống như vậy, người ta thường trông như người điên. Bởi vì khi
chúng ta ngồi yên tĩnh, người đó bỗng nhiên bộc phát cười to vì người đó đi tới
thấy cái gì đó mà chúng ta không thấy. Và người đó có thể bỗng nhiên bắt đầu la
hét vào lúc chúng ta tất cả đều cười, bởi vì điều gì đó có thể đã xảy ra cho
người đó mà không xảy ra cho chúng ta.
Cho nên thông thường chỉ có hai cách gõ búa lên kundalini. Và
cách thứ ba là cách phi thường - cách của shaktipat, hay việc truyền năng lượng.
Đây là cách tinh tú, và nó cần một trung gian, một phương tiện. Bạn có thể đạt
tới sự mãnh liệt trong thiền chỉ nếu người khác giúp bạn. Người khác không phải
làm gì cả; chỉ sự hiện diện của người đó là đủ. Người đó trở thành phương tiện,
tác nhân xúc tác.
Năng lượng vô hạn thấm đẫm khắp thế giới. Vấn đề chỉ là rút
nó ra. Bây giờ chúng ta gắn một cọc sắt vào nóc nhà để cho khi sét đánh vào nhà
thì nó truyền qua cọc này và chìm vào lòng đất, và ngôi nhà vẫn không bị tổn hại
gì. Sét có thể đánh vào nhà ngay cả khi thiếu cọc sắt, nhưng thế thì nó sẽ phá
huỷ cả ngôi nhà. Nhưng cọc sắt là khám phá mới đây, còn sét đã có đó từ thời
thượng cổ. Việc truyền dẫn sét đã có đó từ lâu rồi, nhưng chúng ta gần đây mới
nghĩ tới cái cọc này.
Con người được bao quanh mọi phía bởi năng lượng vô hạn, điều
có thể được dùng cho sự phát triển tâm linh của người đó. Năng lượng vô hạn có
đó và tất cả nó có thể được dùng cho việc nâng cao tâm linh của con người. Tuy
nhiên để làm điều này, một trung gian, một phương tiện là cần phải có. Bạn có
thể là trung gian riêng của mình, nhưng ban đầu điều đó có thể nguy hiểm.
Shaktipat, bụi phóng xạ của năng lượng, có thể mạnh tới mức bạn có thể không chịu
đựng được nó. Có khả năng là những giác quan tinh tế nào đó của thân thể bạn bị
tắc lại hay chúng bị phá hỏng. Mọi năng lượng đều có chừng mực, có điện thế phải
ở vào đúng tỉ lệ với khả năng của bạn để chịu đựng được nó. Việc thông qua người
khác làm trung gian có tác dụng như một công cụ điều chỉnh năng lượng trong mối
quan hệ của nó với khả năng chịu đựng của bạn.
Để hành động như một phương tiện cho shaktipat điều bản chất
là năng lượng thiêng liêng đã giáng lên người khác. Chỉ thế thì người đó mới có
thể trù tính và đảm đương được shaktipat theo khả năng của bạn. Và người đó
không cần phải làm gì cả đối với vấn đề này; đơn thuần sự hiện diện của người
đó làm mọi điều cần thiết. Sự hiện diện là tất cả những gì cần thiết. Sự hiện
diện của người đó hành động như tác nhân xúc tác; bản thân người trung gian
không làm gì cả. Cho nên nếu ai đó công bố rằng mình có thể làm điều gì đó, người
đó hoàn toàn sai. Không ai có thể làm được shaktipat, nhưng sự hiện diện của ai
đó có thể làm xúc tác cho điều đó, làm cho nó xảy ra.
Bây giờ tôi nghĩ rằng khi người tìm kiếm đạt tới chiều sâu
nào đó trong thiền, shaktipat sẽ bắt đầu xảy ra ở đây với toàn lực. Không có
khó khăn gì về điều đó cả; không khó chút nào. Không ai cần phải làm gì cả; điều
đó sẽ xảy ra theo cách riêng của nó. Bạn bỗng nhiên sẽ thấy rằng một loại năng
lượng hoàn toàn khác đã đi vào bạn từ bên ngoài; nó không tới từ bên trong bạn.
Bất kì khi nào bạn kinh nghiệm việc dâng lên của kundalini, thì dường như nó
dâng lên từ bên trong bạn; còn bất kì khi nào bạn kinh nghiệm shaktipat, thì nó
sẽ dường như tới từ bên ngoài, từ bên trên. Nó sẽ là như vậy. Nó sẽ được cảm thấy
rõ ràng như người ta cảm thấy nước rơi xuống mình từ trên cao và nước dâng lên
với người đó từ bên dưới.
Kinh nghiệm về kundalini cũng tựa như việc chìm ngập, dường
như bạn đang đứng trong lòng sông và mức nước dâng lên từ bên dưới và bạn đang
bị chìm ngập trong nó. Kinh nghiệm về kundalini bao giờ cũng giống thế này -
bao giờ cũng giống thế này - kinh nghiệm về việc bị chìm ngập trong dòng sông.
Bạn sẽ cảm thấy rằng cái gì đó từ chiều sâu nào đó đang dâng lên và bạn đang bị
nhận chìm vào trong nó, chìm ngập vào trong nó. Nhưng kinh nghiệm về shaktipat
hoàn toàn khác; nó giống như mưa rơi từ trên trời, rơi từ trên xuống. Đó là điều
Kabir nói tới khi ông ấy nói, ''Hỡi các sư, nước cam lồ đang mưa xuống,'' và
các sư của ông ấy hỏi chỗ nào. Nó rơi từ bên trên và làm bạn ướt sũng.
Bây giờ nếu cả hai quá trình này xảy ra cùng nhau, nó sẽ tăng
cường ngay tiến bộ của bạn. Thế rồi, đồng thời mưa sẽ rơi từ bên trên và nước
sông dâng lên từ bên dưới. Thế thì các biến cố mưa rơi và dòng sông đang làm lụt
xảy ra đồng thời, và bạn bị nhấn chìm, bạn bị phá huỷ từ cả hai đầu. Cả hai quá
trình này có thể xảy ra cùng nhau; không có khó khăn nào hàm chứa trong đó.
Người hỏi: tác dụng của shaktipat chóng hết hay nó kéo dài?
Và một biến cố shaktipat có đủ để đưa chúng ta tới đích của cuộc hành trình hay
người ta còn cần nhiều hơn thế?
Sự kiện là ở chỗ hiệu quả kéo dài bắt nguồn từ kundalini của
riêng bạn; shaktipat chỉ là sự trợ giúp. Shaktipat không bao giờ có thể tạo nên
được cơ sở của bạn; nó không bao giờ trở thành cấu trúc cơ bản của bạn được. Điều
xảy ra bên trong bạn còn quan trọng hơn; nó là cơ bản, là nền tảng. Đó mới là của
cải thực của bạn. Một mình điều đó mới là của cải cơ bản của bạn. Shaktipat sẽ
không thêm của cải cho bạn, nhưng chắc chắn nó sẽ làm tăng khả năng phát triển.
Khác biệt này nên được hiểu đúng. Với shaktipat của cải của bạn sẽ không tăng
lên nhiều lần, nhưng cái được gọi là tỉ lệ tăng trưởng, tỉ lệ mở rộng của nó chắc
chắn sẽ được tăng lên cùng shaktipat.
Cho nên shaktipat không phải là của cải riêng của bạn. Nó giống
như thế này: bạn chạy và tôi đuổi theo bạn với khẩu súng trong tay. Bây giờ khẩu
súng của tôi không định làm tăng thêm sức chạy của bạn, nhưng chắc chắn nó sẽ
làm cho bạn chạy nhanh hơn. Chính bạn mới là người chạy trong mọi biến cố;
chính năng lượng của bạn mới dồn vào việc chạy. Nhưng bởi vì khẩu súng này bạn
sẽ đưa vào dùng ngay cả đến năng lượng vẫn nằm đó chưa được dùng trong bạn. Khẩu
súng không cung cấp cho bạn thêm năng lượng nào; nó cũng không làm mất cho dù một
giọt năng lượng riêng của bạn trong trò chơi này. Nếu bạn xem xét khẩu súng về
sau, bạn sẽ thấy nó vẫn hệt như trước đây; nó không mất gì cả. Nhưng tác động của
khẩu súng sẽ làm cho bạn chạy nhanh hơn, mãnh liệt hơn và tốc độ chạy cao hơn.
Nơi bạn đã đi dạo giải trí trước đây, bây giờ bạn chạy và chạy và chạy nhanh.
Cho nên shaktipat không thêm của cải năng lượng của bạn,
nhưng chắc chắn nó làm tăng khả năng trưởng thành và mở rộng.
Shaktipat có tác động tựa như tia chớp. Tia chớp không chiếu
sáng con đường của bạn, nó không phục vụ bạn như cây đèn trong tay bạn; nó chỉ
cho bạn một chớp lóe, một thoáng nhìn về con đường phía trước và những thứ bao
quanh nó. Nhưng thoáng nhìn này rất quí giá; bây giờ chân bạn vững chãi, bây giờ
ý chí bạn mạnh mẽ, bây giờ quyết tâm của bạn để đạt tới định mệnh của mình được
tôi cứng. Bạn đã thấy con đường và bạn biết nó có đó và bạn biết rằng bạn không
vẩn vơ vô mục đích. Một tia chớp lóe và bạn có được một thoáng nhìn về con đường
bạn phải đi qua, và về ngôi đền là định mệnh của cuộc hành trình của bạn. Và
ngay khi ánh sáng mất đi và bạn bị nhận chìm vào trong bóng tối đen ngòm; nhưng
bây giờ bạn là con người khác, mặc dầu bạn đang đứng ở cùng chỗ bạn đã ở trước
khi tia chớp xảy ra. Bây giờ bạn tự tin, và bạn biết bạn định tiến lên trước.
Bây giờ bạn biết con đường có đó và ngôi đền, mặc dầu vô hình, đã trong tầm
tay. Bây giờ bạn cảm thấy được đảm bảo. Bây giờ bạn tin tưởng và tin cậy, điều
củng cố cho ý chí và quyết tâm của bạn.
Cho nên hiệu quả của shaktipat là gián tiếp, và do đó bạn cần
nó nhiều lần. Một lần là không đủ; tia chớp thứ hai sẽ làm lợi cho bạn nhiều
hơn, và tia chớp thứ ba còn nhiều hơn nữa. Điều bạn có thể đã bỏ lỡ lần thứ nhất
sẽ được thấy ở tia chớp thứ hai và thứ ba. Ít nhất chúng sẽ làm mạnh thêm cho
tin tưởng của bạn; chúng sẽ làm tăng cường ý chí của bạn.
Cho nên bạn không thể đạt tới được mục đích tối thượng của
mình qua shaktipat; chính bạn là người phải bước đi trên con đường của mình tới
định mệnh.
Thậm chí bạn có thể đạt tới mà không cần shaktipat, nhưng thế
thì sẽ mất nhiều thời gian hơn; bạn sẽ đạt tới về sau. Vì thiếu tia chớp của
shaktipat bạn sẽ kém tự tin hơn và bạn sẽ cần nhiều dũng cảm và sức mạnh hơn.
Hoài nghi và sợ hãi thỉnh thoảng sẽ túm lấy bạn; bạn sẽ không chắc chắn về con
đường của mình và định mệnh của nó. Tất cả mọi điều này sẽ xảy ra; dù sao thì bạn
cũng sẽ đạt tới mục đích của mình.
Nhưng shaktipat quả thực là sự giúp đỡ. Tôi muốn rằng, nếu
các bạn làm tiến bộ nào đó, thì shaktipat xảy ra cho một nhóm đông người, thay
vì cho một hay hai cá nhân vào mỗi lúc. Sao giới hạn điều đó vào một hay hai cá
nhân? Nó có thể xảy ra một cách tập thể cho mười nghìn người đứng cùng nhau;
không có khó khăn gì trong vấn đề này. Bởi vì thời gian tốn như nhau dù điều đó
được thực hiện cho một người hay mười nghìn người. Điều đó không tạo ra khác biệt
về bất kì cái gì.
Người hỏi: trong trường hợp việc tiếp xúc với người trung gian không được duy
trì, liệu tác động của shaktipat có bị hao mòn đi không?
Tác động này nhất định là suy giảm đi chứ. Trong thực tế, mọi
tác động đều mòn mỏi đi dần dần. Bản thân tác động có nghĩa là nó đã bị một tác
nhân bên ngoài gây ra, và do vậy nó sẽ giảm dần đi. Nhưng năng lượng phát sinh
từ bên trong bạn thì ở lại, bởi vì nó là của riêng bạn. Năng lượng tới từ bên
ngoài nhất định giảm thiểu đi và biến mất. Nhưng điều tới từ bên trong bạn
không giảm thiểu đi; nó sẽ còn lại. Cũng năng lượng đó ở lại sẽ dâng lên dưới
tác động của shaktipat. Vốn cơ bản của bạn không hao mòn đi, nhưng hiệu quả của
nó thì có.
Người hỏi: Sẽ không có nguy hiểm rằng vốn năng lượng cơ bản của
chúng ta sẽ hao mòn đi cho dù chúng ta vẫn chơi với bạn xấu? Vậy chúng ta sẽ
không bị sa ngã từ chỗ cao của mình chứ?
Không có cách nào để sa ngã hay đi xuống. Điều này thực sự cần
được hiểu rõ ràng. Rất thú vị mà biết rằng không có cách nào để đi xuống hay
lùi lại. Bạn có thể được giúp đỡ để đi lên cao hơn từ chỗ bạn đã đạt tới, cho
dù việc đi lên của bạn từ đó có thể vẫn bị cản trở; nhưng không có cách nào để
kéo bạn xuống từ chỗ đó. Có lí do cho điều đó. Trong quá trình đi lên của bạn,
việc dâng lên của bạn, bạn đã thay đổi, và bạn đã trưởng thành, và ngay cả một
li của trưởng thành người đó cũng không thể xoá bỏ hay đảo ngược lại được. Rút
lui hay thoái ngược là điều không thể được trong cuộc sống.
Điều đó giống thế này: Chúng ta có thể giúp cho đứa trẻ được
lên lớp từ lớp một lên lớp hai; thầy kèm có thể tham gia vào việc giúp cho nó
trong vấn đề này. Nhưng bạn không thể tìm được thầy kèm nào có thể làm cho đứa
trẻ quên đi điều nó đã học ở lớp một. Tuy nhiên có khả năng là sau khi lên lớp
hai thì nó rơi vào một nhóm các bạn ngu và trong biến cố đó nó bị cản trở cứ ở
lại lớp mãi. Nhưng không bao giờ có khả năng là bạn ngu sẽ làm cho nó phải trở
lại lớp một. Điều đó không phải là như vậy sao? Cũng có khả năng là nó bị giữ lại
ở lớp hai suốt cả đời, có khả năng là nó không bao giờ được phép lên lớp ba,
nhưng không thể có khả năng đưa nó xuống lớp một. Nó sẽ bị mắc kẹt; có thế
thôi.
Trong cuộc sống tâm linh không có quay lại; đấy bao giờ cũng
là vấn đề tiến lên hay mắc kẹt. Và việc mắc kẹt này là điều bạn gọi là sa ngã
hay thoái lui. Nhưng thoái lui thực sự không xảy ra; điều tồi nhất xảy ra trong
tâm linh là trì trệ.
Người hỏi: có khác biệt gì giữa shaktipat và ân huệ không?
Khác biệt là lớn lao, thực sự lớn. Trong thực tế, có khác biệt
lớn lao giữa shaktipat và ân huệ.
Shaktipat là một loại kĩ thuật có thể được lập kế hoạch và quản
lí. Shaktipat phải được lập kế hoạch và thao tác. Nó không thể được mang tới
vào bất kì lúc nào và ở bất kì đâu. Các bạn có hiểu điều tôi ngụ ý không? Để
shaktipat xảy ra, rất cần là người tìm kiếm phải ở vào trạng thái đúng để cảm
nhận nó và cần người trung gian cũng phải là người trung gian đúng. Và khi cả
hai điều kiện này được đáp ứng và chúng đồng bộ, thì shaktipat xảy ra. Đây là vấn
đề kĩ thuật.
Ân huệ tới không có mời chào, nó tới từ bóng tối. Bạn không
thể mời nó được, bạn không thể có nó theo mệnh lệnh được. Nó không thể được lập
kế hoạch, mà cũng không thể bị thao túng và quản lí. Nó là biến cố xảy ra rất
thỉnh thoảng, và xảy ra theo cách riêng của nó.
Khác biệt giữa shaktipat và ân huệ là kiểu như khác biệt giữa
điện trong nhà bạn và chớp trên bầu trời. Bạn nhấn nút ở đây và ở kia sáng lên
ngay lập tức; nhưng chớp của trời hoàn toàn khác. Chớp xảy ra theo cách riêng của
nó, bạn không thể có nó theo mệnh lệnh được, mặc dầu về cơ bản đó là cùng một
năng lượng vận hành trong cả điện và chớp. Trong khi điện nhà bạn được điều khiển
về mặt công nghệ - nó được kiểm soát bằng công cụ và kĩ thuật - chúng ta không
điều khiển được chớp. Ân huệ giống như chớp của trời. Nó xảy ra vào khoảnh khắc
bất ngờ và hiếm hoi. Và nếu người tìm kiếm ở đúng trạng thái cảm nhận vào khoảnh
khắc đó, thì ân huệ có thể xảy ra cho người đó. Và thế thì chắc chắn nó không
phải là shaktipat. Mặc dầu về cơ bản nó là cùng một năng lượng như shaktipat, vậy
mà nó vẫn là ân huệ - rất khác với shaktipat.
Có khác biệt nữa - rằng không cần người trung gian để nhận ân
huệ; ân huệ sẽ giáng xuống bạn theo cách trực tiếp. Nó không cần người trung
gian để đạt tới bạn; nó sẽ tới thẳng bạn. Và ân huệ bao giờ cũng là việc xảy ra
bất thần. Và nó là hiếm hoi, nó không xảy ra thường xuyên. Và nó không thể được
lập kế hoạch và thao tác như shaktipat. Tôi có thể nói rằng nếu các bạn tới
ngày hôm sau vào thời điểm cố định sau khi làm việc chuẩn bị nào đó, thì
shaktipat sẽ xảy ra. Nhưng tất cả những điều này là không liên quan trong trường
hợp của ân huệ. Nó có thể xảy ra, nó có thể không xảy ra. Nó không ở trong tay
chúng ta; nó không thể bị điều khiển, bị thao tác.
Ngoài khác biệt này, ân huệ là một với shaktipat.
Người hỏi: làm sao shaktipat có thể được lập kế hoạch nếu nó xảy ra chỉ trong
trạng thái vô ngã?
Việc lập kế hoạch có thể được thực hiện trong trạng thái vô
ngã; bản ngã chẳng liên quan gì tới việc lập kế hoạch cả. Việc lập kế hoạch vô
ngã là tuyệt đối có thể được. Bản ngã là điều khác; nó là điều hoàn toàn khác.
Chẳng hạn, chúng ta lập kế hoạch rằng với sự chuẩn bị nào đó chúng ta sẽ ngồi
chờ shaktipat ngày mai vào lúc năm giờ sáng. Trong việc lập kế hoạch này người
tìm kiếm không bị yêu cầu phải vô ngã, nhưng người trung gian thì phải vô ngã.
Vô ngã không phải là trạng thái nhất thời mà bây giờ bạn vô
ngã và bây giờ bạn không vô ngã. Nếu bạn vô ngã, bạn hiện hữu; nếu bạn không vô
ngã, bạn không hiện hữu. Nếu tôi vô ngã, tôi hiện hữu; nếu tôi không vô ngã,
tôi không hiện hữu. Không phải là mai vào lúc năm giờ tôi sẽ trong trạng thái
vô ngã. Điều đó là kì cục.
Làm sao nó có thể thế được? Không có cách nào để như vậy được.
Nếu tôi vô ngã ngay bây giờ, chỉ thế thì tôi mới vô ngã ngày mai vào lúc năm giờ.
Và tôi sẽ là như vậy, bất kể liệu tôi có lập kế hoạch hay không lập kế hoạch,
liệu tôi có xuất hiện hay không xuất hiện, liệu tôi có thức hay ngủ vào khoảnh
khắc đó. Nếu tôi vô ngã, tôi là nó. Nếu tôi không vô ngã, tôi không là nó.
Vô ngã không phải là vấn đề về mức độ như nhiệt độ thân thể,
mặc dầu chúng ta vẫn thường nghĩ về mọi thứ dưới dạng mức độ. Tất cả mọi việc
suy nghĩ của chúng ta đều giống thế này. Nếu nhiệt độ thân thể ai đó là chín
mươi tám độ Fahrenheit (36 độ Celcius), chúng ta nói rằng người đó là bình thường.
Nhưng nếu nhiệt độ của anh ta lên tới chín mươi chín độ (37 độ Celcius) chúng
ta nói là anh ta bị sốt, anh ta đang tăng nhiệt độ. Chín mươi tám độ cũng là sốt,
nhưng chúng ta gọi nó là sốt thường. Tại bậc thứ chín mươi chín nó trở thành bất
thường; trở lại chín mươi tám nó là bình thường. Chín mươi tám độ cũng là sốt
nhưng bởi vì mọi người đều có nhiệt độ như vậy, cho nên nó được gọi là bình thường.
Một sai lệch nhẹ từ những trường hợp thông thường gây ra rắc rối.
Thông thường điều đó cũng hệt như với bản ngã của chúng ta;
nó là cơn sốt của chúng ta. Nếu ai đó có bản ngã theo cùng mức độ như tất cả mọi
người khác có, chúng ta nói rằng người đó là con người bình thường, người tốt.
Hơi lệch khỏi chín mươi tám độ thông thường - nếu người đó chạm tới chín mươi
chín độ của bản ngã, chúng ta nói ngay người đó là kẻ ích kỉ, người đó cao ngạo.
Và trong trường hợp ai đó tụt xuống chín mươi bảy độ, chúng ta gọi người đó là
người tuyệt đối khiêm nhường, một mahatma trọn vẹn, một linh hồn rất vĩ đại.
Bản ngã và không bản ngã là những điều khác nhau hoàn toàn;
chúng là những trạng thái khác nhau. Chúng không liên quan tới mức độ, với số
lượng. Chúng không giống như trạng thái của sốt và không sốt; chúng không được
đo bằng chín mươi tám và chín mươi chín độ. Trong thực tế, chỉ trong quan hệ với
người chết chúng ta mới có thể nói rằng người đó không sốt. Chừng nào còn có
nhiệt thân thể, dù là bình thường hay bất thường, đó vẫn là sốt. Đó vẫn là sốt
với khác biệt là chín mươi tám độ là bình thường và chín mươi chín độ là bất
thường. Và nhiệt bất thường gây rắc rối về thể chất cho chúng ta; chúng ta kinh
nghiệm bệnh tật bởi điều đó.
Thế rồi có một góc độ khác cho bản ngã. Nếu bản ngã của ai đó
đụng chạm tới bản ngã chúng ta, chúng ta coi người đó là kẻ bản ngã. Còn nếu bản
ngã của ai đó làm thoải mái cho bản ngã chúng ta, tâng bốc và xoa dịu bản ngã
chúng ta, chúng ta nói người đó là người vô ngã. Nhưng cái gì là phương tiện,
là tiêu chuẩn để biết điều đó? Nếu một người tới tôi theo cách ngạo mạn muốn
làm cho tôi cảm thấy tầm quan trọng của người đó, chúng ta sẽ gọi người đó là kẻ
bản ngã. Nhưng nếu cùng người đó tới và chạm chân tôi, chúng ta sẽ nói người đó
khiêm tốn thế, tốt thế. Tiêu chuẩn nào có đó để kiểm thử điều đó? Chúng ta chỉ
có một cách kiểm thử về bản ngã: với chúng ta bản ngã là điều quấy rối bản ngã
riêng của chúng ta. Nếu ai đó làm tổn thương bản ngã chúng ta, người đó là kẻ bản
ngã, còn nếu người đó tâng bốc bản ngã chúng ta, người đó là thánh nhân, là người
khiêm tốn. Nhưng bao giờ đấy cũng là bản ngã chúng ta được lấy làm phương tiện.
Chính bằng bản ngã riêng của mình mà chúng ta phán xét người khác là kẻ bản ngã
hay không.
Đó là lí do tại sao chúng ta không biết trạng thái thực của
vô ngã. Làm sao chúng ta có thể biết nó được? Chúng ta biết cách đo bản ngã
theo mức độ, liệu nó nhiều hay ít. Nhưng nơi không có các mức độ, chúng ta tự
thấy mình đâm ra khó khăn để biết điều đó, để biết cái vô ngã.
Nhưng trong vấn đề shaktipat người trung gian phải là vô ngã.
Vô ngã không phải là từ đúng, cho nên tôi sẽ nói rằng chỉ người không bản ngã mới
nên là người trung gian. Và tâm niệm trong đầu rằng người như vậy là người nhận
ân huệ, rằng ân huệ đang mưa rào lên người đó cả hai mươi bốn tiếng một ngày.
Người đó sẽ đảm đương điều đó rằng bạn nữa cũng có nếm trải về nó, nhưng chừng
nào có liên quan tới người đó, thì nước cam lồ của ân huệ mưa lên người đó hết
ngày nọ tới ngày kia. Đó là cách người đó có thể thấy điều rằng khi bạn cởi mở
trong một hay hai khoảnh khắc, vài giọt cam lồ đó đi vào bạn qua lối mở đó.
Người hỏi: Liệu tác động của ân huệ trực tiếp lên người nhận nó
có kéo dài mãi không? Và nó có thể đưa người ta tới việc đạt tới điều tối thượng
không?
Ân huệ trực tiếp chỉ được nhận khi đạt tới điều tối thượng và
không trước đó. Chỉ khi bản ngã của bạn tan biến thì ân huệ mới giáng lên bạn.
Bản ngã là rào chắn duy nhất trên con đường đạt tới. Và việc đạt tới là trạng
thái tối thượng mà sau đó không cái gì còn lại để được đạt tới nữa.
Người hỏi: sadhana là kỉ luật của kundalini hay nó là tâm
linh?
Nó chính là tâm linh... Các bạn biết rằng việc ăn là vật lí,
nhưng nếu các bạn không ăn, linh hồn chẳng mấy chốc sẽ rời khỏi thân thể bạn.
Cho nên mặc dầu thức ăn đi vào thân thể, vậy mà vẫn cần thân thể phải ở vào một
trạng thái đặc biệt để cho linh hồn ở lại trong nó. Theo cùng cách này mặc dầu
kundalini là tâm linh vẫn cần kundalini là một trạng thái đặc biệt để cho bạn
có thể đạt tới linh hồn. Nếu kundalini không phải là một trạng thái đặc biệt, nếu
nó khác với điều nó đáng phải là vậy đối với bạn, thế thì không thể nào đạt tới
linh hồn được. Cho nên mặc dầu kundalini là tâm linh, nó phục vụ như bàn đạp để
đi tới tâm linh. Bản thân nó không phải là tâm linh, và nếu ai đó nói vậy thì
người đó sai. Nếu ai đó nói rằng việc ăn là tâm linh, người đó sai. Việc ăn là
vật lí, nhưng nó phục vụ làm cơ sở cho tâm linh.
Thở là vật chất, và ý nghĩ nữa cũng là vật chất; mọi thứ đều
là vật chất. Thở và ý nghĩ thực sự là vật chất. Nhưng dạng vi tế nhất của chúng
được gọi là tâm linh. Linh hồn là dạng vi tế nhất của vật chất. Nhưng tất cả
chúng - hơi thở và tâm trí và tâm linh - đều phục vụ làm cơ sở cho người tìm kiếm
lấy bước nhảy vào tâm linh. Chúng phục vụ như bàn nhảy để nhảy vào điều thiêng
liêng. Điều đó giống như một người muốn đắm chìm vào trong dòng sông, và để làm
điều đó người đó trước hết phải đứng trên ván nhún dựng thẳng trên bờ sông. Ván
nhún không phải là dòng sông. Bây giờ ai đó có thể biện minh rằng vì ván nhún
không phải là dòng sông thì tại sao người đó, người muốn đắm chìm vào dòng
sông, phải đứng trên nó? Sao người đó không thể đứng ngay trong sông? Nhưng
không ai có thể đứng trong sông với dự định để chìm vào trong nó. Trước hết người
ta phải lấy chỗ đứng của mình ở trên bờ, và thế rồi người đó có thể nhảy vào
trong dòng sông. Và ván nhún là tuyệt đối khác với dòng sông mà người ta chìm
vào. Ván nhún không phải là dòng sông.
Cho nên chính là qua thân thể, qua tâm trí mà bạn có thể lấy
bước nhảy vào tâm linh, linh hồn. Và tâm linh được đạt tới chỉ khi việc nhảy
này đã được thực hiện. Hiện giờ các bạn phải chuẩn bị cho nó từ nơi các bạn
đang hiện hữu tại khoảnh khắc này. Cho nên thân thể và tâm trí là bàn nhảy. Tuy
nhiên, khi việc nhảy được thực hiện các bạn sẽ đạt tới tâm linh.
Người hỏi: Trong giáo huấn trước đây về thiền thầy bao giờ cũng yêu cầu chúng
tôi phải thảnh thơi, tĩnh lặng và nhận biết. Còn bây giờ trong quá trình thở và
hỏi mãnh liệt 'Tôi là ai?" Thầy hô hào chúng tôi đem tất cả mọi nỗ lực của
mình vào trong nó. Nhưng người tìm kiếm đã thực hành kĩ thuật thiền trước đây
thấy rất khó để đưa vào nỗ lực thường xuyên được duy trì. Vậy kĩ thuật nào
trong hai kĩ thuật này là tốt cho người đó?
Không có vấn đề tốt và xấu ở đây. Tôi hiểu vấn đề của bạn; đấy
không phải là vấn đề tốt và xấu. Bạn chỉ phải tìm ra kĩ thuật nào cho bạn nhiều
an bình hơn và thêm đà cho việc thiền của bạn. Điều đó không thể là như nhau với
mọi người; họ sẽ kinh nghiệm điều đó một cách khác biệt. Có những người đạt tới
thảnh thơi chỉ sau khi tự họ đã chạy trên đất. Và có những người khác có thể đi
vào trong thảnh thơi ngay lập tức; nhưng có vài người ở ngay giữa. Hơi khó để
đi thẳng vào im lặng; chỉ một nhúm người mới có thể làm được như vậy. Với đa số
mọi người đều cần trải qua nhiều việc ráng sức và căng thẳng trước khi họ có thể
thảnh thơi. Nhưng mục đích trong cả hai trường hợp này là như nhau - mục đích
cuối cùng là như nhau. Nó là thảnh thơi.
Người hỏi: khi giải thích về việc thở sâu và nhanh thầy nói rằng
nó là một kĩ thuật cho việc biến đổi qua các cực đoan - rằng chúng tôi phải trải
qua điểm cực đoan của căng thẳng để cho trạng thái thảnh thơi tuyệt đối cuối
cùng được đạt tới. Nếu quả là như vậy, chúng tôi có nên coi nó là sadhana hay kỉ
luật của căng thẳng không?
Nó là sadhana của căng thẳng. Nó hoàn toàn là kỉ luật của
căng thẳng. Trong thực tế, mọi kỉ luật năng lượng đều là kỉ luật của căng thẳng.
Bản thân năng lượng có nghĩa là căng thẳng. Chính là qua căng thẳng mà năng lượng
đi vào hiện hữu. Chúng ta thành công trong việc tạo ra một khối lượng năng lượng
lớn vô cùng từ nguyên tử, vì chúng ta chẻ nó thành hai và đặt các thành tố vi tế
của nó vào trạng thái căng thẳng. Cho nên toàn thể kỉ luật của năng lượng là kỉ
luật của căng thẳng. Nếu chúng ta hiểu nó đúng, thì bản thân căng thẳng là năng
lượng.
Người hỏi: thầy nói về hai hệ thống sadhana - tích cực và
tiêu cực. Sadhana kundalini là gì - tích cực hay tiêu cực?
Nó là tích cực, hoàn toàn tích cực.
Người hỏi: sao Phật không nói về kundalini và các trung tâm
hay luân xa nó đi qua?
Điều này nên là phần cuối của cuộc thảo luận tối nay của
chúng ta.
Trong thực tế, tất cả những điều Phật đã nói đều không được
ghi lại, đó là khó khăn lớn nhất thành vấn đề. Nhiều điều từ giáo huấn của Phật
đã không được ghi lại một cách có chủ tâm. Và thế rồi các giáo huấn của ông ấy
đã được ghi lại năm trăm năm sau khi cái chết của Phật. Chúng đã không được ghi
lại vào thời ông ấy sống. Trong năm trăm năm, các bhikkhus khất sĩ, các đệ tử của
Phật, những người gìn giữ giáo huấn của ông ấy, đã từ chối cô đọng chúng lại
thành việc viết.
Thế rồi đến một thời khi những người trông coi tri thức Phật
giáo bản thân họ bắt đầu biến mất khỏi trái đất. Và do vậy một sangha lớn, một
cuộc hội họp các Phật tử, đã được triệu tập, cuộc họp đã quyết định ghi lại các
giáo huấn của Phật lần đầu tiên, bởi vì có nguy cơ thất lạc chúng hoàn toàn sau
khi người cuối cùng trong các khất sĩ đang gìn giữ chúng không còn nữa.
Chừng nào mà các giáo huấn của Phật vẫn còn có thể được gìn
giữ bằng lời qua kí ức, thì các đệ tử của ông ấy vẫn cứ ngoan cố từ chối đưa
chúng vào việc viết ra. Cùng điều này đã xảy ra cho giáo huấn của Jesus và
Mahavira. Và điều đó cần phải làm như vậy.
Có rất nhiều lí do tại sao giáo huấn của Phật và những người
như ông ấy đã không được ghi lại. Thứ nhất, những người này đã thuyết giảng qua
lời từ miệng, cho nên chính những lời nói ra của họ hàm chứa giáo huấn của họ.
Trong số những lời này nhiều điều khác nhau đã được nói cho các loại người tìm
kiếm khác nhau. Và tất cả chúng không nhất thiết có ích cho người mới bắt đầu kỉ
luật tâm linh. Chúng có thể có hại cho họ.
Điều khá thường xảy ra là khi các giáo huấn được ngụ ý dành
cho những người tìm kiếm bậc cao được truyền cho những người kém hơn họ thì
chúng chỉ làm cho vị thế của họ không vững chắc là người học, vì thế thì họ bị
tác động bởi ý tưởng lao vào giai đoạn nâng cao và bỏ qua phần bài tập riêng của
mình. Cũng có khó khăn khác đối với vấn đề này. Nhiều điều được dạy cho người mới
bắt đầu trở thành không chỉ thừa mà thậm chí còn sai đối với người tìm kiếm cao
cấp. Cho nên nếu người mới bắt đầu mà biết mọi điều được dạy cho người học cao
cấp quá sớm, họ sẽ không làm bài tập riêng của mình một cách nghiêm chỉnh và thực
sự. Và trong biến cố đó họ sẽ bị mắc kẹt; họ không thể tiến thêm được nữa. Do
đó điều rất cần thiết cho các giáo huấn này là phải đúng cho họ ngay ở giai đoạn
riêng của họ. Chỉ thế thì họ mới học đúng và có tiến bộ trong kỉ luật tâm linh.
Khi một đứa trẻ học bảng chữ cái, nó được dạy phải nói
"G thuộc vào God (Thượng đế)." Bây giờ thực sự không có nghĩa gì mà
nói như vậy; "G" có thể thuộc vào goblin (yêu tinh) nữa. Và không có
mối quan hệ nào giữa Thượng đế và yêu tinh cả; chúng không thuộc vào cùng phường
hội. Trong thực tế, "G" không có bất kì mối nối nào với Thượng đế hay
yêu tinh cả. Nhưng nói điều đó cho trẻ con cũng là điều nguy hiểm khi chúng học
bảng chữ cái. Nếu bố nó bảo nó, "Con ngu lắm, "G" chẳng có liên
quan gì với Thượng đế cả; "G" có thể thuộc về cả nghìn lẻ một thứ nữa;
nó không chỉ thuộc vào mỗi Thượng đế", thế thì đứa con sẽ chẳng bao giờ học
được chữ cái "G". Do đó điều cần thiết là với hiện tại chỉ nên nói
cho nó rằng "G" thuộc vào "God" (Thượng đế). Gạt sang bên cả
nghìn lẻ một thứ khác có liên quan với nó đi. Chỉ cần thế là đủ nếu nó học
"G" trong mối liên hệ với Thượng đế. Về sau nó cũng sẽ học cả nghìn lẻ
một thứ khác; và thế rồi nó tự mình sẽ biết rằng "G" không chỉ dành
riêng được nối với Thượng đế. Ngay khi được nối với Thượng đế, nó được nối với
nhiều từ khác. Và thế thì Thượng đế sẽ bị bỏ qua và nó sẽ biết "G" một
cách độc lập.
Cho nên trong kỉ luật tâm linh có hàng nghìn điều thuộc vào
hàng nghìn mức. Và thế rồi có vài điều rất cá nhân và bí mật và bí truyền. Thiền
mà tôi đang dạy cho các bạn bây giờ là điều có thể được nói ở chỗ công cộng;
nhưng có những điều tôi không thể thảo luận được trong nhóm lớn; tôi sẽ không
nói. Tôi sẽ nói về chúng chỉ với những cá nhân được chọn lựa, những người xứng
đáng.
Cho nên mặc dầu Phật đã nói nhiều, tất cả những điều đó đã
không được ghi lại. Theo cùng cách này, không phải mọi điều tôi sẽ nói sẽ được
ghi lại. Tất cả chúng không thể được qui về việc viết. Đầu tiên tôi sẽ chỉ nói
rằng nhiều điều công khai có thể được ghi lại mà không có nguy cơ nào. Ở chỗ
công khai tôi sẽ chỉ nói vậy thôi. Và điều cần được xem xét và bảo tồn như những
giáo huấn bí mật sẽ không bao giờ được tiết lộ ra cho công luận. Tôi sẽ truyền
chúng cho những cá nhân xứng đáng người sẽ ghi nhớ chúng trong kí ức của mình.
Người hỏi: điều đó có ngụ ý rằng vấn đề kundalini và những
luân xa khác nên được coi như bí mật và không được ghi lại chút nào không?
Không, có nhiều điều khác được bao hàm trong nó. Không có khó
khăn gì trong việc ghi lại điều tôi đã nói ở đây trong những ngày này về vấn đề
kundalini và luân xa. Không có khó khăn về bất cứ điều gì. Khó khăn của tôi là ở
chỗ có lỗ hổng hai nghìn năm trăm năm giữa Phật và thời đại chúng ta, và điều
đó đã tạo nên khác biệt lớn; qua thời kì này tâm thức con người đã phát triển.
Tôi bây giờ nghĩ có nhiều điều mà Phật cho là nên được giấu kín thì bây giờ rất
có thể đưa ra công khai. Hai mươi nhăm thế kỉ đã tạo nên khác biệt cơ bản. Cho
nên tôi nói rằng rất nhiều điều Phật đã coi là bí mật bây giờ có thể được dạy
công khai. Tương tự nhiều điều mà tôi coi là bí mật có thể được để lộ ra hai
nghìn năm trăm năm sau tôi, với điều kiện là tâm thức con người tiến hoá theo
cách nó phải thế.
Các bạn có hiểu điều tôi đang nói không? Ngay cả nếu Phật có
quay lại, ông ấy cũng sẽ tiết lộ nhiều điều ông ấy đã giữ lại vào thời của
mình.
Phật đã làm một điều có tính hiểu biết và quan trọng lớn lao.
Ông ấy đã quyết định với mười một câu hỏi rằng không ai được phép hỏi ông ấy. Bởi
vì nếu bất kì câu hỏi nào trong chúng mà được hỏi ông ấy, ông ấy sẽ phải trả lời
chúng theo cách này nọ. Và trong khi đưa ra câu trả lời sai cho chúng là điều
không đúng, thì thực sự là sai khi đưa ra câu trả lời đúng. Cho nên ông ấy đã
quyết định với mười một câu hỏi rằng chúng bị cấm, bởi vì chúng là không thể giải
thích được. Trước khi Phật vào một thị trấn, đều có công bố công khai rằng
không ai được nêu ra mười một câu hỏi đó cho Phật, vì ông ấy sẽ không trả lời
chúng. Cho nên công bố này nói đừng ai làm cho Phật lúng túng.
Và có lí do chính đáng cho Phật để từ chối trả lời chúng. Sẽ
có hại nếu ông ấy trả lời chúng, và nếu ông ấy từ chối trả lời chúng, ông ấy sẽ
cảm thấy mặc cảm rằng ông ấy đã kìm hãm chân lí. Cho nên cách tốt nhất là chúng
không nên được nêu ra chút nào.
Cho nên mọi làng đều được thông báo bằng tiếng trống rằng khi
Phật tới thăm họ, phải không được đặt ra mười một câu hỏi này cho ông ấy, bởi
vì điều đó sẽ gây lúng túng cho ông ấy. Những câu hỏi này đã được xem như
avyakhya, câu hỏi không thể giải thích được. Và chúng thực sự đã không được nêu
ra; người ta chưa bao giờ đặt chúng ra cho Phật.
Và bất kì khi nào người đối lập với ông ấy cứ khăng khăng nêu
nó ra, Phật sẽ nói với người đó, "Đợi chút thời gian nữa, và đồng thời làm
vài sadhana. Và khi ông xứng đáng cho điều đó, ta sẽ trả lời câu hỏi của ông."
Nhưng ông ấy chẳng bao giờ thực sự trả lời cả. Và đây là điều
những người chỉ trích và đối lập ông ấy thường hay dùng để chống lại ông ấy.
Người Jainas và người Hindus cho là Phật đã không trả lời những câu hỏi này chỉ
bởi vì ông ấy không biết câu trả lời. Họ cũng nói rằng vì kinh sách riêng của họ
đã trả lời cho từng câu hỏi đó, nên dường như là Phật thiếu tri thức. Nhưng những
người chỉ trích ông ấy đã quên mất rằng với Phật việc lặp lại câu trả lời của
kinh sách thì quá dễ dàng nếu ông ấy muốn trả lời chúng.
Sự thực là ở chỗ câu trả lời đúng không được viết ra ngay
trong kinh sách; chúng thực sự không có khả năng.
Cho nên câu hỏi này không nảy sinh tại sao Phật đã không nói
về kundalini và các luân xa.
Chương 10. Thiền không lời cầu nguyện có tương lai lớn
Người hỏi: Thầy nói tại trại thiền Nargol tổ chức gần đây, rằng
sadhana hay kỉ luật về kundalini là cách chuẩn bị thân thể. Xin thầy giải thích
điều đó?
Trước hết, thân thể và linh hồn trong chính chiều sâu của
chúng là không tách rời; khác biệt giữa chúng là rất bề mặt. Khi toàn thể chân
lí của nó được biết tới, chúng ta không còn thấy thân thể và linh hồn như hai
thực thể tách biệt; chúng ta thực sự thấy chúng là một và như nhau. Trong thực
tế, thân thể là phần của linh hồn có thể được lĩnh hội qua các giác quan, còn
linh hồn là phần của thân thể ở bên ngoài lĩnh hội của các giác quan. Cho nên
linh hồn là đầu vô hình của thân thể, còn thân thể là đầu hữu hình của linh hồn.
Nhưng điều này được biết tới chỉ khi người ta đi tới việc
kinh nghiệm tối thượng về chân lí.
Điều kì cục là nói chung chúng ta tất cả đều tin rằng thân thể
và linh hồn là một và cùng một thứ. Nhưng tin chung này là ảo tưởng, bởi vì
chúng ta thực sự không biết linh hồn là gì. Thay vì thế chúng ta lấy thân thể
thế cho linh hồn. Nhưng ngay cả ảo tưởng và niềm tin phổ biến này cũng đều xuất
phát từ cùng một chân lí cơ sở - đằng sau nó có cùng tri thức về sự thống nhất
này; ở nơi sâu kín vô hình nào đó của bản thể mình chúng ta có biết rằng thân
thể và linh hồn là một.
Tuy nhiên, tri thức về tính một này làm nảy sinh ra hai loại
lỗi lầm. Một mặt có những người duy tâm, người nói rằng chỉ có linh hồn và
không có thân thể; và mặt khác, có những người duy vật như Charvaka và
Epicurus, người tuyên bố rằng chỉ có thân thể và không có linh hồn. Hai quan niệm
sai lầm này, mâu thuẫn lẫn nhau, đều phát sinh từ cùng một hiện thực sâu sắc là
thân thể và linh hồn là không tách rời.
Và như những người duy vật, mọi người thường - người chúng ta
nói là dốt nát - đều cho rằng mình chỉ là thân thể.
Nhưng khi cuộc hành trình nội tâm bắt đầu, niềm tin rằng thân
thể và linh hồn là một sẽ bị tan nát, và người ta sẽ đi tới biết ra rằng chúng
là tách biệt. Bởi vì ngay khi người ta biết rằng có linh hồn, người đó cũng biết
rằng thân thể là tách rời và linh hồn cũng tách rời.
Nhưng điều này xảy ra trong giai đoạn trung gian của cuộc
hành trình. Khi bạn đi sâu hơn và sâu hơn nữa, khi bạn đạt tới kinh nghiệm tối
thượng, bạn sẽ biết rằng chúng không tách rời. Chúng thực sự là một và như
nhau; chúng là các dạng khác nhau của cùng một thực tại.
Điều đó giống như tôi là một người với hai tay - tay phải và
tay trái. Nếu ai đó quan sát hai tay tôi từ bên ngoài và nói rằng chúng là một
và như nhau, thì người đó sai, bởi vì chúng là hai tay rõ ràng tách rời lẫn
nhau. Lại gần tôi hơn người đó sẽ biết rằng tay trái tôi là hoàn toàn tách rời
với tay phải. Có thể, tay trái tôi bị đau còn tay phải tôi không đau. Có thể
tay phải bị đứt rời còn tay trái thì vẫn tốt. Cho nên hai tay này hiển nhiên
không là một và không như nhau. Nhưng nếu ai đó đi vào lãnh thổ của tôi người
đó sẽ thấy rằng tôi là một người và cả hai tay đều là của tôi. Khi tay trái bị
gẫy thì chính tôi là người bị đau; và khi tay phải bị gẫy, lại chính tôi là người
chịu đựng. Và theo cùng cách này khi tay trái giơ lên, thì chính tôi là người
giơ nó lên, còn khi tay phải được giơ lên, lại chính là tôi đang giơ nó lên.
Cho nên trong kinh nghiệm tối thượng thân thể và linh hồn là
không tách rời; chúng là hai mặt, như hai tay tôi, của cùng một chân lí. Tôi đem
ra tương tự này để cho bạn hiểu sự việc được rõ.
Thế thì cuộc hành trình có thể được bắt đầu từ bất kì điểm
nào trong hai điểm này - hoặc là từ thân thể hoặc là từ linh hồn. Nếu ai đó bắt
đầu nó với thân thể và cứ đi ngày một sâu hơn vào trong nó, người đó chung cuộc
sẽ đạt tới linh hồn. Điều đó cũng giống như ai đó cầm tay phải của tôi và đưa
lên; người đó sớm hay muộn sẽ đạt tới tay trái tôi. Tương tự ai đó có thể bắt đầu
trực tiếp bằng linh hồn và cuối cùng đạt tới thân thể.
Tuy nhiên rất khó bắt đầu bằng linh hồn. Nó khó bởi vì linh hồn
không được chúng ta biết tới. Vì chúng ta gần như tồn tại ở bình diện vật lí,
cuộc hành trình của chúng ta chỉ có thể bắt đầu với thân thể. Tuy nhiên có những
kĩ thuật trực tiếp bắt đầu với linh hồn; nhưng nói chung chúng có ích chỉ cho rất
ít người. Một trong hàng triệu người mới có thể dùng những kĩ thuật bắt đầu với
linh hồn. Tuyệt đại đa số mọi người sẽ phải bắt đầu với thân thể. Cuộc hành
trình của người ta chỉ có thể bắt đầu tại nơi họ đang ở.
Và để bắt đầu cuộc hành trình với thân thể thì kundalini bao
hàm công việc chuẩn bị. Kundalini là chỗ cơ bản của những kinh nghiệm sâu sắc
nhất về thân thể.
Trong thực tế, thân thể không chỉ là điều chúng ta biết nó
đang là vậy, hay các nhà sinh lí học biết; nó còn nhiều hơn thế nhiều. Chẳng hạn,
cái quạt đang bật đây. Nếu chúng ta tháo chiếc quạt xuống và dỡ nó ra thành từng
phần để khảo cứu nó, chúng ta sẽ không bắt gặp điện ở đâu cả. Và có thể, trên
cơ sở của việc khảo cứu này một người rất thông minh nói rằng không có những thứ
như điện trong máy móc của quạt. Người đó sẽ không bao giờ thấy nó ở bất kì phần
nào của chính chiếc quạt. Vậy mà sự kiện là ở chỗ khi quạt chuyển động, nó được
điện làm cho quay. Và chiếc quạt sẽ dừng chuyển động vào khoảnh khắc dòng điện
dừng không tới nó nữa. Các nhà sinh lí học nghiên cứu thân thể bằng việc giải
phẫu nó và họ không tìm thấy kundalini ở đâu cả. Họ sẽ không bao giờ tìm thấy
được nó. Vậy mà toàn thể thân thể được điều khiển bằng năng lượng điện chính là
kundalini, tựa như quạt chạy bằng điện. Năng lượng điện này của kundalini không
thể được biết qua những phân tích được thực hiện từ bên ngoài, bởi vì trong quá
trình phân tích năng lượng tan rã và biến mất. Nó chỉ có thể được biết tới qua
việc kinh nghiệm bên trong về nó.
Có hai cách để biết thân thể. Các bạn có thể biết nó từ bên
ngoài như nhà sinh lí học làm bằng việc giải phẫu nó - đây là một cách; và cách
kia là biết nó từ bên trong nó. Người đi sâu vào bên trong nó và sống ở đó thì
biết nó từ bên trong.
Người ta bắt đầu biết thân thể mình từ bên trong... Và nhớ lấy,
chúng ta biết thân thể mình từ bên ngoài. Ngay cả thân thể riêng của mình chúng
ta cũng biết tới chỉ từ bên ngoài. Nếu tôi biết tay trái tôi, tôi biết nó qua mắt
đã thực sự thấy chúng. Cho nên tri thức của tôi về tay trái tôi thực sự là tri
thức của nhà sinh lí học. Nhưng nếu tôi nhắm mắt lại và cảm thấy tay trái tôi,
việc cảm bên trong này về nó sẽ là của riêng tôi. Cho nên nếu ai đó đi tới biết
thân thể mình từ bên trong, người đó sẽ sớm đạt tới kunda, kho chứa, chính là cội
nguồn của tất cả năng lượng thân thể của chúng ta. Năng lượng nằm ngủ tại kunda
này, tại bể này, được gọi là kundalini. Và thế thì người đó sẽ biết cho chính
mình rằng mọi thứ bắt nguồn từ đó và toả khắp toàn bộ thân thể. Nó cũng giống
như ngọn đèn cháy lên và chiếu sáng cả căn phòng. Nếu bạn thám hiểm vào cội nguồn
của ánh sáng đang tràn ngập toàn bộ căn phòng, bạn sẽ đi tới chiếc đèn này và
thấy rằng tất cả mọi tia sáng đều phát ra từ ngọn lửa này. Thế thì bạn sẽ biết
rằng mặc dầu các tia sáng đã đạt tới những góc phòng ở xa, vậy mà chiếc đèn vẫn
còn là cội nguồn của chúng.
Ở đây chúng ta quan tâm tới việc tìm kiếm điểm đặc biệt đó mà
từ đó sinh lực phát ra và tràn ngập toàn thể thân thể chúng ta. Sinh lực phải
có một trung tâm; không năng lượng nào có thể hiện hữu mà không có cội nguồn. Mặc
dầu mặt trời ở xa chúng ta một trăm triệu dặm, vậy mà chúng ta vẫn có những tia
sáng của nó chiếu tới mình; chúng ta có thể nói rằng phải có một trung tâm, một
cội nguồn từ đó chúng phát ra và tràn ngập trái đất. Trong thực tế, không năng
lượng nào có thể hiện hữu mà không có trung tâm; nếu có năng lượng, nó phải có
trung tâm. Làm sao có thể có vòng tròn, đường tròn, mà không có trung tâm? Nơi
có đường tròn chắc chắn cũng có trung tâm nữa.
Điều thân thể bạn là chùm năng lượng là hiển nhiên; điều đó
không cần chứng minh. Nó là đống năng lượng dâng lên và hạ xuống, di chuyển và
dừng lại và đi vào giấc ngủ. Và không phải là năng lượng của nó bao giờ cũng vận
hành một cách đều đặn; đôi khi nó tích cực và mạnh mẽ và vào lúc khác nó lại
vào trạng thái lờ phờ, suy nhược và trì trệ. Khi bạn giận dữ bạn ném mạnh hòn
đá lớn vào ai đó, hòn đá mà bạn khó có thể di chuyển được trong trạng thái bình
thường. Khi bạn đang rất hoảng sợ bạn chạy với tốc độ mà vận động viên chạy phải
thèm muốn trong các cuộc đua Olympic. Cho nên năng lượng của bạn không phải bao
giờ cũng trong cùng trạng thái; nó thăng giáng theo hoàn cảnh bên trong và xung
quanh bạn.
Do đó hiển nhiên là bạn có một loại kho dự trữ, một nguồn, từ
đó năng lượng đi vào trong hành động hay không đi vào hành động. Nó đi vào
trong hành động bất kì khi nào cần thiết; bằng không thì nó nằm ngủ tại nguồn.
Từ nguồn này bạn rút ra năng lượng trong cả hai hoàn cảnh bình thường hay bất
thường - trong nhu cầu hàng ngày của bạn và cả trong những trường hợp khẩn cấp
của bạn. Vậy mà kho dự trữ này chẳng bao giờ trống rỗng, nó bao giờ cũng đầy; bạn
không thể làm cạn kiệt nó được. Nó không bao giờ hết.
Điều thú vị là biết rằng chúng ta chẳng bao giờ dùng hết kho
năng lượng lớn này của mình. Những người đã thám hiểm lĩnh vực này đều nói rằng
ngay cả những người phi thường nhất, những người nổi tiếng là các thiên tài,
cũng không dùng quá mười lăm phần trăm năng lượng của mình. Ngay cả những vĩ
nhân của lịch sử - những người làm nên lịch sử - cũng không vượt quá giới hạn
mười lăm phần trăm này. Và khi có liên quan tới người thường, người đó đi qua
toàn bộ cuộc đời mình chỉ với hai tới hai phẩy năm phần trăm của nó; chín mươi
tám phần trăm năng lượng của người đó không được dùng tới.
Cho nên về mặt tiềm năng, theo quan điểm về năng lượng mầm mống,
không có khác biệt giữa người phi thường và người bình thường. Khác biệt là
dùng và không dùng năng lượng. Năng lượng mà người thiên tài đã đưa vào sử dụng
cũng hệt như người rất bình thường có mà không dùng nó. Người thường là người
không bao giờ tập trung năng lượng của mình vào hành động; người đó không bao
giờ huy động nó, đem nó ra đương đầu với thách thức. Người đó thoả mãn với cái
nhỏ bé mình có trên bề mặt, điều người đó nghĩ là cái tối đa của mình. Người đó
làm với cái tối thiểu của mình và bỏ lại tiềm năng bao la không được động tới.
Và đó là lí do tại sao trong khoảnh khắc của khủng hoảng, thậm chí người bình
thường nhất cũng thể hiện sức mạnh và khả năng phi thường. Cho nên chỉ trong
khoảnh khắc khủng khoảng chúng ta mới đi tới biết tiềm năng bên trong của mình
là gì.
Có một trung tâm trong từng người chúng ta nơi toàn thể năng
lượng này cư ngụ - ẩn kín và ngủ. Người ta phải nói rằng nó nằm đó dưới dạng hạt
mầm – đóng kín và tiềm tàng; nhưng nó có thể trở thành biểu lộ. Và nó được gọi
là kunda, cái bể, hay kho dự trữ.
Từ "kunda" rất có ý nghĩa; nó có nhiều nghĩa. Một
nghĩa là ở chỗ nó là cái bể tĩnh lặng và thanh bình không gợn sóng. Nếu cho dù
một gợn sóng có đó thôi, điều đó sẽ có nghĩa là năng lượng này trở nên tích cực.
Kunda nghĩa là nội dung của nó, năng lượng của nó, không có chuyển động nào; nó
hoàn toàn thụ động, bình thản và nghỉ ngơi. Và nghĩa khác là ở chỗ mặc dầu nó
thụ động và ngủ, bất kì khoảng khắc nào nó cũng đều có thể trở thành tỉnh táo,
tích cực và chuyển động. Nó không phải là cái bể khô và chết; nó tràn đầy ăm ắp.
Và bất kì khoảnh khắc nào nó cũng đều có thể trở thành tích cực, năng động; mặc
dầu ngay bây giờ nó ở trong trạng thái thụ động, đang ngủ.
Điều đó có thể là lí do tại sao chúng ta không biết cái gì
đang ngủ bên trong mình. Chúng ta chỉ có thể biết khi nó trở nên thức dậy và
tích cực, chỉ phần tích cực của năng lượng này đi vào ý thức của các bạn, còn
phần thụ động của nó vẫn nằm ngủ trong vô thức của các bạn. Đó là lí do tại sao
ngay cả những người vĩ đại nhất, chừng nào họ còn chưa đạt tới tính vĩ đại, vẫn
còn không nhận biết về năng lượng này. Mahavira, Phật, Krishna và Jesus, không
ai trong số họ đã nhận biết về tiềm năng của mình khi họ chưa hiện thực hoá nó,
khi họ chưa đạt tới chiều cao của tính vĩ đại của họ.
Đó là lí do tại sao khi biến cố về việc thức tỉnh xảy ra một
cách vô nỗ lực, người thức tỉnh đi tới tin rằng đó là món quà của ân huệ từ điều
không biết. Họ tự hỏi làm sao và khi nào món quà này tới họ. Và do vậy họ cảm
thấy rằng nó tới từ bất kì ai ở gần họ nhất. Nếu thầy là người gần gũi nhất, họ
sẽ nói nó là món quà từ thầy.
Còn nếu đối tượng gần gũi nhất là một thần tượng về Thượng đế,
và không phải là thầy, họ sẽ qui tất cả mọi công lao cho chính thần tượng đó. Bất
kì cái gì đi ngay trước biến cố này - một Phật, hay Thượng đế trên trời - sẽ được
lấy làm cội nguồn. Nhưng sự kiện là ở chỗ nó bao giờ cũng tới từ chính cội nguồn
bên trong riêng của họ. Nhưng bởi vì không nhận biết quá khứ của mình mà họ qui
cho tác nhân bên ngoài nào đó như thầy hay Thượng đế, điều xảy ra gần nhất với
biến cố đó.
Tôi tình cờ hôm vừa rồi mới đọc một câu chuyện. Hai nông dân
lên tàu hoả lần đầu tiên. Họ là cư dân của một làng vùng núi non và họ được sinh
ra vào cùng ngày. Cho nên khi ngày sinh của họ tới, mọi người trong làng nghĩ tới
việc cho họ món quà sinh nhật nào đó. Và khi đường ray tàu hoả vừa mới được dẫn
tới phần quê của họ, thì không thể có món quà nào tốt hơn là một chuyến đi tàu
hoả cho họ. Cho nên các nông dân này nhận được hai vé tàu hoả từ làng mình, và
bắt đầu đi du lịch lần đầu tiên bằng tàu hoả.
Vì đó là kinh nghiệm hoàn toàn mới đối với họ, họ kích động
và tò mò về mọi điều xảy ra trên đường của mình. Một người bán nước ngọt ngẫu
nhiên đi ngang qua và họ quyết định mua một chai nước ngọt và nếm thử nó. Họ đã
quyết định cùng uống chai nước ngọt và nếu họ thấy ngon, thì họ sẽ mua cho mình
chai nữa.
Mua xong chai nước, một người trong số họ bắt đầu uống phần của
mình. Khi anh ta uống được nửa chừng thì tàu hoả đi vào đường hầm. Vào lúc này
anh bạn anh ta trở nên lo âu về phần nước của mình và anh ta bảo người kia đừng
có uống hết. Bạn anh ta nói, "Vì Thượng đế, xin anh đừng chạm vào nó; nó
là chất độc đấy! Tôi đã bị nó làm cho mù đây này!"
Khi tàu hoả đi vào đường hầm, trời trở nên tối mò khắp xung
quanh và người nông dân này nghĩ rằng nước uống đã làm cho anh ta bị mù. Cho
nên biến cố gần nhất - việc uống - đã được coi là nguyên nhân cho sự mù. Điều
đó là tự nhiên. Cái gì đi ngay trước một biến cố đều được lấy làm nguyên nhân
cho nó.
Tương tự vậy, chúng ta không biết nguồn gốc thực của năng lượng
của mình. Và chừng nào còn chưa được thức tỉnh, thì không có cách nào để biết
được nó. Và chúng ta không nhận biết liệu nó có thể sẵn có cho chúng ta không,
và bằng cách nào nó có thể có sẵn được.
Phần thức tỉnh của năng lượng ngủ này, kunda, được gọi là
kundalini. Bản thân kunda là vô ý thức, nó ngủ; nhưng kundalini là ý thức và thức
tỉnh. Chỉ phần của năng lượng này thức dậy và đi ra khỏi kunda mới được biết là
kundalini. Kundalini không phải là toàn thể nó; đấy chỉ là con sóng nảy sinh ra
từ bể này.
Cho nên cuộc hành trình này là việc thám hiểm hai phần.
Kundalini, năng lượng thức tỉnh, đưa bạn tới những cái mới có cội nguồn rất lớn
ẩn bên trong bạn với những khả năng mênh mông. Một tia sáng mặt trời mở ra khả
năng cho vô hạn tia sáng tới trong sự thức dậy của nó. Cho nên một phần nằm ở
việc thức tỉnh kundalini điều sẽ làm cho bạn nhận biết hoàn toàn về quyền năng
của thân thể bạn. Và qua việc thức tỉnh của năng lượng này các bạn sẽ đi tới những
trung tâm đó, những cánh cửa đó của thân thể bạn, từ đó việc đi sang đầu vô
hình của thân thể, điều chúng ta gọi là linh hồn, trở thành dễ dàng.
Cần phải hiểu điều này một cách rõ ràng và đầy đủ, bởi vì bất
kì điều gì chúng ta làm, thực sự đấy chính là năng lượng của chúng ta làm nó
thông qua lối mở hay trung tâm nào đó. Chẳng hạn, tai chúng ta là một lối mở
như vậy, qua đó chúng ta nghe được. Nếu tai bạn bị bệnh, bạn sẽ không có khả
năng nghe thấy gì, bởi vì năng lượng này sẽ bị chặn lại không tới được tai, và
nó sẽ quay ngược trở về nguồn của nó. Và dần dần năng lượng này sẽ dừng đi vào
tai, bởi vì nó chỉ di chuyển tới nơi nó có cơ hội trở thành tích cực. Cho nên
năng lượng này sẽ không còn chuyển tới tai nữa.
Mâu thuẫn có thể xảy ra nữa. Nếu một người bị điếc và người
đó rất muốn nghe từ ngón tay của mình, thì có thể là ngón tay người đó sẽ bắt đầu
nghe thấy. Có những người hiện diện trên trái đất này nghe qua các cơ quan thân
thể không là tai. Và có những người nhìn thấy được qua các cơ quan khác mắt. Thực
sự đó là cái gì mà bạn gọi là mắt?
Nó không là gì ngoài một phần của da bạn, với khác biệt này -
rằng từ thời xa xưa con người đã dùng phần đặc biệt này của da của mình cho ý định
nhìn. Chắc phải là ngẫu nhiên mà con người đầu tiên đã dùng phần đó của thân thể
mình cho ý định này; người ta cũng có thể đã dùng bất kì phần nào khác cho việc
đó. Các sinh linh khác thực sự dùng các phần khác và hệ quả là mắt chúng xuất
hiện ở các phần khác nhau của thân thể chúng. Có con vật và chim chóc và sâu bọ
đã phát triển hai bộ mắt - một bộ là mắt thực và bộ kia là mắt giả. Khi chúng
nhìn bằng mắt thực của mình, chúng dùng mắt giả để lừa kẻ thù. Trong trường hợp
kẻ thù làm thương tổn mắt chúng, mắt thật của chúng được cứu. Một con ruồi rất
bình thường trong nhà bạn có một nghìn con mắt; một con mắt của nó thực sự là
tuyển tập của một nghìn mắt. Đó là lí do tại sao khả năng thấy của ruồi khổng lồ
và đáng ngạc nhiên. Một số cá thấy được cả đuôi của chúng, bởi vì chúng sợ kẻ
thù đánh chúng từ đằng sau.
Nếu chúng ta làm một khảo cứu về mắt của tất cả các sinh linh
trên thế giới, chúng ta sẽ biết rằng không nhất thiết là mắt phải ở nơi chúng
hiện đang ở. Tương tự, không có nghĩa đặc biệt nào trong việc có tai của chúng
ta theo cách chúng hiện hữu. Chúng thực sự có thể ở bất kì chỗ nào. Vị trí của
mắt và tai người là kết quả của việc lặp lại vô số lần các hành động thấy và
nghe từ cùng một chỗ. Và hệ quả là kí ức của chúng đã được khắc hoạ và cố định
sâu sắc nhất vào tâm thức chúng ta. Cho nên chúng được lặp lại một cách máy móc
và dễ dàng.
Ngay cả một trong nhiều giác quan chúng ta có mà mất đi,
chúng ta sẽ mất phần đó của thế giới vẫn được làm có sẵn cho chúng ta qua nó. Nếu
chúng ta mất mắt, thế giới của ánh sáng sẽ bị mất đối với chúng ta; chúng ta sẽ
dừng kinh nghiệm ánh sáng. Thế thì chúng ta sẽ không biết ánh sáng cho dù chúng
ta có tai và tay và các giác quan khác tốt.
Cho nên khi kundalini bắt đầu thức dậy và dâng lên, nó sẽ gõ
vào những cánh cửa mới của thân thể bạn, không phải thông thường chút nào. Qua
những giác quan phi thường này - sau khi chúng được kích thích bởi năng lượng của
kundalini - bạn bắt đầu biết những điều mà bạn không thể biết được qua các giác
quan thông thường. Nói một cách đúng đắn, kundalini bắt đầu điểm và đánh thức
các giác quan bên trong của bạn. Ngay cả bây giờ cũng là qua năng lượng này của
kundalini mà mắt và tai và các giác quan bình thường khác của bạn hoạt động.
Nhưng đây là các cơ quan ngoài cần một khối lượng năng lượng kundalini rất nhỏ
để làm việc. Tăng thêm chút ít về khối lượng này, và bạn sẽ có năng lượng phụ
dùng để kích hoạt các trung tâm khác nữa.
Chẳng hạn, nếu chúng ta rót một ít nước lên sàn ở đây, nó sẽ
tạo thành một kênh chảy nhỏ, để lại một vệt đằng sau nó để nhiều nước hơn chảy
theo. Nhưng nếu khối lượng nước đổ ra tăng lên thật lớn, nó sẽ phá ra thành nhiều
kênh mới, bởi vì kênh cũ không thể một mình nó chứa đựng được tất cả nước.
Theo nghĩa vật lí sâu sắc hơn, thức tỉnh của kundalini nghĩa
là bạn có nhiều năng lượng trong mình tới mức các kênh cũ của bạn không có khả
năng chứa nó, và do vậy nó tìm kiếm không cưỡng lại được những đại lộ mới và cửa
mới. Kết quả là nhiều giác quan mới và tinh tế bên trong bạn sẽ trở nên thức dậy
và hoạt động. Những trung tâm ngoại cảm này sẽ làm cho các bạn thành có khả
năng ngoại cảm và thấu thị; các bạn sẽ bắt đầu thấy và nghe được những điều ở
bên ngoài tầm của mắt và tai bình thường của mình. Các bạn sẽ kinh nghiệm những
điều nào đó mà các giác quan thông thường của bạn chẳng có liên quan chút nào.
Các giác quan mới này sẽ trở thành tích cực bên trong bạn. Và kết quả sâu lắng
nhất của việc tăng cường các giác quan mới này sẽ là ở chỗ các bạn sẽ bắt đầu
biết tới thế giới vô hình nằm ẩn kín trong thân thể mình, vốn là phần tinh tế
nhất và không thể nhận thấy được của thân thể bạn, và là điều chúng ta gọi là
atman hay linh hồn. Cho nên với việc thức tỉnh của kundalini các khả năng cho
trưởng thành của bạn sẽ được nâng cao lên rất nhiều.
Nhưng công việc phải bắt đầu với thân thể.
Có cách khác nữa mà tôi đã loại ra ngoài từ trước tới nay.
Tôi đã giải thích cho tới nay cho các bạn điều nói chúng cần phải được làm để đánh
thức kundalini; nhưng kundalini không phải là toàn thể kunda hay bể. Còn có
cách khác mà tôi có thể phải nói với các bạn một cách tách biệt. Rất ít người
trên thế giới đã lấy con đường này. Đấy không phải là con đường thức tỉnh
kundalini chúng ta đã quen thuộc, mà là được hội nhập vào trong chính kunda. Điều
đó không giống như việc đánh thức một phần nhỏ của năng lượng này và dùng nó
cho sự phát triển; đó là vấn đề hội nhập toàn thể tâm thức chúng ta vào trong
kunda hay bể năng lượng nguyên thuỷ. Trong biến cố đó sẽ không có kinh nghiệm
ngoại cảm nào cả, và ngay cả kinh nghiệm về linh hồn cũng bị mất đi hoàn toàn.
Trong biến cố đó, người ta sẽ đương đầu trực tiếp và kinh nghiệm Thượng đế, điều
tối cao.
Qua việc đánh thức kundalini, kinh nghiệm đầu tiên tới trên
con đường của bạn là về linh hồn. Với nó, các bạn nhận ra rằng linh hồn mình là
tách biệt với linh hồn của những người khác. Những người đã đạt tới bằng việc
thức tỉnh kundalini thường tin vào sự tồn tại của nhiều linh hồn. Họ nói rằng
có nhiều linh hồn như có bấy nhiêu người đang sống trên trái đất, rằng mọi người
đều có linh hồn tách biệt. Nhưng những người đã hội nhập bản thân mình trực tiếp
vào trong kunda nói rằng không có linh hồn, chỉ có Thượng đế; không có gì ngoài
Thượng đế. Họ nói chỉ có một, không có nhiều. Bởi vì bằng việc nhận chìm bản
thân mình vào trong kunda, bạn không chỉ hội nhập với kunda riêng của mình, mà
còn hội nhập với kunda của tất cả, kunda tập thể, kunda vũ trụ. Kunda là một.
Không phải kunda của tôi và kunda của bạn và kunda của anh ấy là những thực thể
tách biệt; nó là một và như nhau.
Đó là lí do tại sao năng lượng của kunda mênh mông và vô hạn.
Bạn có rút ra từ nó bao nhiêu năng lượng cũng chẳng thành vấn đề, bạn không thể
làm giảm nội dung của nó cho dù chỉ là một giọt; nó cứ còn đầy tràn và toàn thể.
Bạn có thể rút ra bất kì lượng năng lượng nào cho việc chi dùng của mình, điều
đó chẳng tạo ra khác biệt gì trong nội dung của nó; nó bao giờ cũng đầy và
không hề cạn. Nhưng cái chúng ta rút ra từ nó chúng ta có khuynh hướng gọi là của
riêng mình. Điều đó cũng giống như lấy nước từ đại dương và cất nó vào bình nhỏ
tách biệt của chúng ta. Và chúng ta nghĩ rằng nội dung của bình chứa của chúng
ta là khác với bình chứa của người khác. Nhưng nếu ai đó hội nhập bản thân mình
với toàn thể biển cả, người đó sẽ nói rằng biển là một, rằng nước trong các
bình khác nhau đều là một phần của cùng một biển, và nó sẽ trở lại cội nguồn của
nó lần nữa. Bạn không thể giữ nó tách rời khỏi biển lâu được. Chẳng mấy chốc nước
trong bình sẽ bay hơi trong nhiệt của mặt trời, thế rồi biến thành mây, và trở
lại biển dưới dạng mưa. Thực sự nó đã không bị tách rời khỏi cội nguồn của nó,
nó không thể thế được.
Những người tìm kiếm làm việc qua đánh thức kundalini đều có
kinh nghiệm ngoại cảm, vốn là những kinh nghiệm thực sự phi thường và duy nhất.
Chúng thực sự là phiêu diêu. Và những người này đi tới nhận ra linh hồn chỉ là
một phần của Thượng đế, hay điều tối cao. Do vậy họ cố gắng nhận ra cái toàn thể
qua bộ phận của nó. Điều đó giống như những người khác nhau chạm tới đại dương
mênh mông từ những bến bờ khác nhau và xa cách của nó. Tôi có thể chạm tới cùng
đại dương từ bờ này; các bạn nữa, có thể chạm tới từ bờ khác xa bờ của tôi hàng
triệu dặm. Nhưng làm sao tôi có thể tin được rằng bạn đã đạt tới cùng biển cả
như tôi đã đạt tới? Tôi đang chạm tới một bờ của nó mà tôi nghĩ là của tôi - một
đại dương tách biệt - còn bạn đang chạm tới một bờ khác mà bạn nghĩ là của bạn
- một đại dương tách biệt. Điều đó cũng giống như tôi coi Ấn Độ dương là của
tôi, bạn coi Đại Tây dương là của bạn, và người thứ ba coi Thái Bình dương là của
người đó.
Nhưng trong thực tế tất cả mọi đại dương đều được thống nhất
và là một. Đó thực sự là một đại dương toàn cầu bao la. Nhưng khó mà biết được
nó chừng nào chúng ta còn tiếp cận tới nó một cách manh mún; thế thì chúng ta sẽ
không biết một đại dương bao la. Thay vì thế, chúng ta sẽ chia rẽ và phân ranh
giới nó theo cái nhìn giới hạn của mình về nó. Không chỉ đại dương đâu, chúng
ta sẽ phân chia cả bờ nữa.
Cho nên kinh nghiệm về linh hồn cũng tựa như việc chạm vào đại
dương từ một góc đặc biệt của nó. Và điều này có thể tới bằng việc đánh thức chỉ
một chút ít năng lượng bao la này. Do đó việc trở thành cần thiết cho người tìm
kiếm đã đạt tới trên con đường này là phải được chuẩn bị để làm mất linh hồn nữa,
để siêu việt lên trên nó và vượt ra ngoài. Bằng không thì cuộc hành trình này sẽ
bị cản trở, bởi vì nó vẫn chưa đầy đủ. Nhận ra linh hồn không phải là cái toàn
thể của nó; người đó sẽ phải làm mất cả linh hồn nữa, và lấy cú nhảy vào trong
kunda. Nhưng thế thì điều đó trở thành dễ dàng; nó dễ dàng hơn.
Nhiều lần đường dài chứng tỏ là đường dễ dàng hơn, còn đường
tắt hoá ra khó nhất. Và có lí do cho điều đó, và toàn lí do chính đáng cả. Đường
dài bao giờ cũng là con đường dễ dàng hơn. Bây giờ, nếu tôi phải tới gần bản
thân mình hơn thì tôi sẽ phải làm như vậy qua trung gian của người khác. Nếu
tôi muốn thấy hình ảnh riêng của mình thì sẽ cần phải có sự giúp đỡ của tấm
gương. Dường như đấy là con đường dài và ngoằn ngoèo không cần thiết, vì hình ảnh
của tôi đi vào trong gương và thế rồi trở lại tôi dưới dạng phản xạ của nó, cho
nên tôi có thể thấy khuôn mặt riêng của mình. "Sao đi đường vòng dài thế?"
người ta có thể hỏi. Nhưng không có cách khác hơn thế này.
Mặc dầu khuôn mặt của tôi là gần tôi nhất, vậy mà với cùng lí
do này việc nhìn trực tiếp vào nó là điều khó nhất.
Cho nên trong khi con đường của thức tỉnh một phần của năng
lượng kundalini chắc chắn tạo ra con đường dài, điều đó gần như không tránh khỏi.
Đó là cách toàn thể thế giới các giác quan bên trong mở ra và chúng ta đạt tới
cái ta, hay linh hồn. Và từ đó bước nhảy lượng tử trở thành điều cần phải có.
Thực sự chính con đường vòng dài này làm cho bước nhảy lượng tử được trơn tru
và dễ dàng. Bởi vì chính sau đó mà phúc lạc của việc tự hiểu ra - điều tới qua
việc biết về chính mình - bắt đầu mời chào và thôi thúc người ta phấn đấu cho
cái cao nhất của phúc lạc.
Chắc chắn có phúc lạc trong việc biết và hiểu bản thân mình,
nhưng phúc lạc của việc làm mất bản thân mình là cao nhất. Nó là phúc lạc tối
cao. Sau khi bạn đã biết tới bản thân mình, chỉ còn lại một loại đau: đó là đau
của cái ta, đau của việc biết rằng bạn hiện hữu. Với việc đạt tới cái ta thì
tri thức về tất cả mọi nỗi đau sẽ biến mất, nhưng một nỗi đau sẽ vẫn còn theo
đuổi bạn; và đó là nỗi đau của việc hiện hữu. Bây giờ bạn sẽ tự hỏi mình:
"Sao lại thế này, sự hiện hữu của mình?" Bây giờ bạn biết rằng hiện hữu
cũng là không cần thiết và đau đớn. Và thế rồi bạn sẽ lấy bước nhảy từ hiện hữu
vào vô hiện hữu. Một ngày nào đó bạn sẽ nói: "Bởi vì tôi đã biết hiện hữu
nên tôi muốn biết cả vô hiện hữu nữa. Bởi vì tôi đã biết ánh sáng, tôi muốn biết
cả bóng tối nữa."
Dù ánh sáng có bao la thế nào, nó vẫn có giới hạn của nó;
nhưng bóng tối là vô giới hạn. Hiện hữu chắc chắn có ý nghĩa lớn lao, vậy mà nó
vẫn bị giới hạn; vô hiện hữu là vô hạn vô cùng.
Mọi người không hiểu Phật bởi chính lí do này. Khi ai đó hỏi
ông ấy, "Tôi sẽ vẫn sống ở đó trong moksha hay tự do chứ?" ông ấy
nói, "Không, ông sẽ không sống sót đâu; chính ông mới thực sự được tự do
khỏi bản thân mình." Thế rồi người đó hỏi thêm, "Cứ giả dụ là trong
moksha mọi thứ khác đều sẽ ra đi - ham muốn, đau khổ và tội lỗi sẽ ra đi; nhưng
thế còn hiện hữu của tôi thì sao? Tôi sẽ không sống trong dạng nguyên thuỷ của
mình chứ?" Với điều này Phật nói, "Làm sao ông có thể sống được? Sau
khi các ham muốn, đau đớn và tội lỗi đã biến mất, một đau đớn sẽ vẫn còn lại -
đau của sự hiện hữu. Thế thì chính sự hiện hữu của ông sẽ bắt đầu làm đau
ông."
Điều thú vị là biết rằng sau khi dừng các ham muốn lại, chính
sự hiện hữu của bạn bắt đầu làm phiền bạn, làm đau bạn. Chừng nào bạn còn ham
muốn, hiện hữu dường như không gây ra cảm giác khó chịu nào, vì bạn giữ cho sự
hiện hữu của mình bị bận rộn với cái gì đó này khác. Nếu các bạn theo đuổi tiền
bạc, sự hiện hữu của bạn bị bận rộn với việc làm tiền. Và nếu bạn muốn uy tín
và danh vọng, sự hiện hữu của bạn bị bận rộn với việc kiếm uy tín và danh vọng
cho bạn. Nhưng bạn sẽ làm gì với sự hiện hữu của mình khi ham muốn của bạn về
tiền đã từ bỏ bạn, khi bạn sẽ dừng ao ước địa vị và tiếng tăm, khi ngay cả ham
muốn dục cũng mất đi, và bạn sẽ bị bỏ lại chẳng có cái gì để làm, khi bản thân
việc làm sẽ dừng lại? Thế thì lúc đó sự hiện hữu của bạn sẽ bắt đầu chì chiết bạn
trực tiếp. Thế thì sự hiện hữu sẽ quấy rối bạn và bạn sẽ đi tới cảm nhận rằng bạn
không cần nó. Chính vì tình huống này mà Phật nói, "Không, sẽ không có gì
còn lại cả. Sau việc tắt của ngọn đèn, ngọn lửa đi đâu?"
Mãi cho tới thời ông ấy chết mọi người vẫn liên tục hỏi Phật,
"Điều gì xảy ra cho tathagata sau cái chết của ông ấy? Điều gì sẽ xảy ra
sau khi thầy sẽ chết?" Và Phật bao giờ cũng nói, "Cái gì có đó để xảy
ra sau khi ta không còn nữa? Chẳng cái gì còn lại cả; giống như ngọn đèn tàn lụi
đi, mọi thứ sẽ tàn lụi đi. Các ông đừng bao giờ hỏi điều gì xảy ra cho ngọn lửa
sau khi ngọn đèn tàn lụi đi. Khi ngọn lửa mất rồi, thì nó mất rồi."
Cho nên việc đạt tới linh hồn chỉ là một giai đoạn trong việc
chuẩn bị để làm mất đi linh hồn. Chúng ta thu được nó chỉ để làm mất nó lúc
chung cuộc. Nhưng điều đó còn dễ dàng hơn nữa. Bởi vì nếu bạn hỏi trực tiếp một
người mà ham muốn của người này vẫn còn sống động trong việc tự chìm mình vào
trong kunda, làm mất bản thân mình hoàn toàn, thì người đó không thể làm được
như vậy; người đó sẽ nói điều đó là không thể được. Người đó sẽ nói rằng vì người
đó có nhiều điều quan trọng cần làm, người đó không thể đảm đương được việc làm
mất bản thân mình.
Tại sao chúng ta sợ làm mất bản thân mình thế? Chúng ta sợ bởi
vì bao giờ cũng có nhiều điều cần được làm đến mức nếu chúng ta làm mất bản
thân mình, mọi sự sẽ vẫn còn không được làm, không đầy đủ. Chẳng hạn, tôi phải
xây cho mình ngôi nhà mà vẫn chưa xong, và tôi nghĩ tôi sẽ sẵn sàng làm mất bản
thân mình sau khi hoàn thành cái nhà này. Và đến lúc ngôi nhà này được hoàn
thành, một số dự án và công việc chưa hoàn thành khác sẽ bộc lộ chúng ra. Ham
muốn làm thực sự là ham muốn hoàn thành cái gì đó, và đó là điều thúc giục
chúng ta làm tiếp. Do đó chừng nào mà ham muốn của người ta còn có đó, thì
không thể nào đánh mất linh hồn của người ta được, mặc dầu việc đánh mất linh hồn
người ta là cách trực tiếp tạo ra con đường ngắn nhất. Làm sao người đó, người
có ham muốn còn nguyên vẹn có thể đánh mất được linh hồn của mình? Tất nhiên, nếu
ham muốn của người đó biến mất, người đó có thể sẵn sàng đánh mất linh hồn nữa;
bởi vì bây giờ người đó sẽ không ích gì cho linh hồn.
Chẳng hạn, nếu bạn yêu cầu ai đó có khổ sở vẫn đang tiếp diễn
bỏ phúc lạc của mình đi, người đó sẽ nói bạn đơn giản điên. Nhưng nếu khổ của
người đó bỏ người đó và người đó được bỏ lại với phúc lạc một mình, thế thì người
đó có thể chuẩn bị cho mình để từ bỏ cả phúc lạc nữa. Với ham muốn mất đi, người
đó sẽ làm gì với phúc lạc? Và biến cố lớn lao xảy ra chỉ khi người ta sẵn sàng
từ bỏ cả phúc lạc nữa. Bất kì ai cũng đều sẵn sàng từ bỏ nỗi buồn; nhưng một thời
điểm sẽ tới trong các kiếp sống của chúng ta khi chúng ta được chẩn bị để sẵn
lòng từ bỏ bản thân phúc lạc nữa. Và đó là điều đưa tới sự tan biến của người
ta và thống nhất với sự hiện hữu tối cao.
Điều này có thể xảy ra trực tiếp nữa; người ta có thể đi vào
kunda trong một thoáng lướt nhanh. Tuy nhiên rất khó để tự chuẩn bị cho điều đó
ngay một lúc; việc chuẩn bị dần dần do đó là con đường dễ dàng hơn.
Khi việc ham muốn biến mất, khi tâm trí dừng lại, khi việc
làm đi tới chấm dứt, khi tất cả mọi đồ dùng sân khấu của bạn mà bạn đã sống với
chúng rơi rụng đi, thế thì đến cuối chỉ bạn còn lại không có cơ sở gì, không có
hỗ trợ gì. Chỉ thế thì bạn mới tự nói với mình, "Bây giờ chẳng ích gì mà cứu
lấy cái ta này; bây giờ mình có thể buông bỏ cả nó nữa." Thế thì bạn tự nhấn
chìm mình vào trong kunda và hội nhập với nó. Việc hội nhập này với kunda được
gọi là niết bàn, hay tự do.
Nếu người nào đó muốn nhảy trực tiếp vào trong kunda, thì kundalini
không tới trên con đường của người đó. Đó là lí do tại sao một số con đường tâm
linh không nói về kundalini; bởi vì điều đó là không cần thiết. Những người được
dạy hội nhập trực tiếp vào kunda cho rằng không cần thiết phải nói tới kĩ thuật
đánh thức kundalini. Nhưng kinh nghiệm của riêng tôi nói rằng những con đường
trực tiếp không thể có tác dụng. Chúng có thể có tác dụng cho một hay hai cá
nhân hiếm hoi, nhưng điều đó chẳng thành vấn đề gì mấy. Một bông hoa không tạo
ra mùa xuân. Do đó, người ta phải trải qua con đường dài hơn.
Nhiều lần người ta phải gõ vào cửa của nhiều nhà khác để về tới
nhà riêng của mình. Chỉ để về tới ngôi nhà riêng của mình, bạn có thể trước hết
phải đi qua nhà của những người khác. Để biết khuôn mặt riêng của mình bạn có
thể trước hết phải biết nhiều khuôn mặt khác. Và trước khi bạn đi tới yêu mến bản
thân mình bạn phải yêu nhiều người khác. Yêu bản thân mình dường như đơn giản
thế. Khó khăn gì có đó trong việc yêu bản thân mình? Ai ngăn cản bạn trong việc
yêu bản thân mình? Quyền duy nhất là bạn phải về thẳng nhà. Nhưng thực tế điều
đó không xảy ra theo cách đó. Trong thực tế, rất khó tìm ra ngôi nhà riêng của
người ta trước khi người ta đã tới thăm nhiều nhà của những người khác. Và chừng
nào người ta còn chưa cầu xin tình yêu của người khác và chưa trao tình yêu của
riêng mình cho họ, người ta còn chưa đi tới biết rằng câu hỏi thực là việc yêu
mến bản mình.
Về kundalini tôi nói rằng nó là sự chuẩn bị của thân thể; nó
thực sự là việc chuẩn bị để đi vào vô thân thể, để đi vào tâm linh, linh hồn.
Và bạn không thể đi vào linh hồn với khối lượng năng lượng hiện đang sẵn có cho
bạn, bởi vì nó chỉ đủ đưa bạn qua những việc vặt hàng ngày của cuộc sống. Trong
thực tế nó còn không đủ cho cả điều này nữa; nó đạm bạc tới mức đến cuối ngày bạn
cảm thấy gần như kiệt sức. Năng lượng sẵn có không đủ ngay cả cho nhu cầu hàng
ngày của chúng ta; việc cung cấp của nó nghèo nàn thế. Cho nên với năng lượng đạm
bạc này bạn không thể đạt tới linh hồn được; vấn đề này đơn giản không nảy
sinh.
Chính bởi lí do này mà khái niệm về sannyas mới đi vào hiện hữu.
Nó đi vào hiện hữu với quan điểm để bảo tồn năng lượng của bạn bằng việc giải
phóng chúng ta khỏi các hoạt động gia đình, bởi vì chúng ta có khối lượng năng
lượng rất hạn chế trong tay. Năng lượng này phải được chuyển kênh sang hướng
khác nào đó; nó phải được dùng cho ý định cao hơn nào đó. Cho nên những người
tìm kiếm đã hô hào đóng các cửa hàng và trốn khỏi bãi chợ, trốn khỏi thế giới.
Với tôi, thái độ này là sai lầm. Năng lượng ít ỏi mà chúng ta
chi dùng trong cuộc sống hàng ngày của mình không đáng tiết kiệm, bởi vì chúng
ta sẽ phải chi dùng nhiều năng lượng trong việc tiết kiệm nó. Ngay cả để tiết
kiệm năng lượng, người ta cũng phải chi dùng năng lượng. Nhiều lần, bạn không
dùng nhiều năng lượng để diễn đạt giận dữ như bạn làm trong việc kìm nén nó.
Đôi khi bạn phải dùng nhiều năng lượng để tránh đánh nhau hơn là bạn đã dùng
trong chính việc đánh nhau. Cho nên tôi không coi nó là cách đúng; nó là cách
thức của kẻ keo kiệt.
Đây là tính chất sannyas sao? Đó là cách thức của những người
keo kiệt - tiết kiệm chút ít từ điều chúng ta có, mà bản thân nó quá nghèo nàn.
Cách tiếp cận keo kiệt này chẳng ích lợi gì. Thay vì tiết kiệm chút ít năng lượng
tại đây và chút ít tại kia, chúng ta nên đánh thức nhiều năng lượng đang ngủ -
cái tràn đầy, cái vô hạn.
Tại sao tiết kiệm năng lượng? Đánh thức nó ngày một nhiều hơn
đi. Nếu bạn phải dùng nhiều năng lượng hơn, rút nó từ bản thân kho dự trữ, cái
vô giới hạn. Bạn có nhiều đến mức bạn không thể dùng được tất cả nó cho dù bạn
muốn dùng; cho nên sao bận tâm tới việc tiết kiệm nó?
Bây giờ một người sợ rằng nếu người đó yêu vợ mình thì người
đó không thể yêu được Thượng đế; bởi vì người đó nghĩ rằng chút ít năng lượng
mà người đó có sẽ bị dùng hết trong việc yêu vợ mình. Cho nên người đó quyết định
tiết kiệm nó bằng việc chạy xa vợ mình. Nhưng để tiết kiệm năng lượng người đó
sẽ phải tranh đấu với bản thân mình, điều này làm tốn năng lượng của người đó.
Bên cạnh đó, bạn có thể đạt tới Thượng đế bằng chút ít năng lượng mà bạn dùng để
yêu vợ mình được không? Nó hiếm tới mức nó thực sự không thể đưa bạn ngay cả tới
với vợ bạn, cứ gạt riêng mình Thượng đế ra. Nó không bao giờ có thể đưa bạn tới
Thượng đế được.
Tôi muốn nói rằng điều đó là cực kì điên khùng về phần bạn -
nghĩ tới việc xây cây cầu giữa bạn và cái vô hạn bằng khối lượng năng lượng nhỏ
mọn chẳng đủ để bắc cầu cho bạn tới với người yêu của mình. Bạn cũng nhận biết
về tính không thích hợp hoàn toàn của nó ngay cả trong các quan hệ nhỏ mọn của
mình. Thời gian qua đi và nó làm phai dần bạn, ngay cả trong nỗ lực của bạn để
đạt tới trái tim người yêu của mình.
Cho nên vấn đề không phải là tiết kiệm năng lượng; vấn đề là
đánh thức năng lượng lớn đang nằm ngủ bên trong bạn. Và năng lượng này là vô hạn
không tính nổi, nó đơn giản không bao giờ cạn kiệt. Và một khi nó bắt đầu thức
tỉnh, nó càng thức tỉnh thì càng có khả năng thức tỉnh nó thêm nữa; nó cứ mở ra
mãi. Một khi đã được bắt đầu, dòng suối năng lượng này bao la và vô tận đến mức
bạn không bao giờ vét cạn được nó. Nói cách khác, không bao giờ có một khoảnh
khắc trong đời bạn mà bạn có thể nói rằng bây giờ không còn gì nữa để được đánh
thức.
Khả năng của việc đánh thức là vô hạn; bạn có thể rút ra khối
lượng năng lượng bất kì từ kho dự trữ vô hạn này. Và bạn càng rút từ nó ra nhiều
thì bạn càng trở nên mạnh mẽ hơn để đánh thức ngày một nhiều hơn năng lượng lớn
lao này. Và khi bạn đã có dư thừa về năng lượng bên trong này trong quyền sử dụng
của mình, chỉ thế thì bạn mới có thể dùng nó trong cuộc truy tìm cái không biết.
Và cũng chỉ thế thì bạn mới có thể mạo hiểm bước đi trên con đường không biết
và chưa hề được vẽ bản đồ. Các bạn có hiểu điều tôi đang nói không?
Có một loại giàu có khác trong thế giới bên ngoài nữa. Một
người đã tích luỹ của cải dư thừa và bây giờ người đó nghĩ tới việc làm một
chuyến đi lên mặt trăng. Đi lên mặt trăng là vô nghĩa; chẳng có gì để thu được
cả. Nhưng chẳng có gì sai về điều đó; bởi vì chẳng có gì để mất cả. Người đó có
nhiều đến mức người đó có thể dễ dàng đảm đương được việc đó.
Chừng nào bạn không có thừa thãi của cải - bạn chỉ có đủ cho
việc sử dụng hàng ngày của mình hay thậm chí còn thiếu - bạn sẽ giữ cái nhìn
nghiêm ngặt vào việc chi tiêu của mình; bạn sẽ nghĩ hai lần trước khi tiêu ngay
cả một đồng xu. Và do đó bạn sẽ không bao giờ bước ra khỏi thế giới đã biết. Đi
vào trong điều không biết bạn cần năng lượng thừa thãi, dư thừa năng lượng. Và
kundalini sẽ rót đầy bạn bằng sự thừa thãi đó. Thế thì bạn có nhiều tới mức vấn
đề nảy sinh là làm sao dùng được nó và dùng ở đâu.
Và nhớ lấy, khi bạn có năng lượng thừa thãi, bạn bỗng nhiên thấy
rằng tất cả các kênh năng lượng cũ đều hoàn toàn bị tắc nghẹt; vì chúng bây giờ
không có khả năng nhận nhiều thế, chúng không được dự định cho điều đó. Cũng giống
như đại dương đã rơi vào trong một dòng sông nhỏ, quét sạch dòng sông này khỏi
sự tồn tại ngay tức khắc. Dòng sông sẽ không bao giờ biết chỗ nó đã bị biến mất
và biến mất như thế nào. Các kênh cũ của giận dữ của bạn, của dục của bạn và phần
còn lại của nó bỗng nhiên sẽ bị tắc nghẹt và biến mất. Cái ngày trận lụt năng
lượng sẽ dâng lên, nó sẽ nghiền nát và phá huỷ tất cả những cầu tàu và bến bờ
cũ của nó. Bạn bỗng nhiên sẽ thấy rằng cái gì đó hoàn toàn mới và khác biệt đã
đi vào sự hiện hữu. Và bạn sẽ tự hỏi điều gì đã xảy ra cho tất cả những việc tiết
kiệm nhỏ bé của mình và sự keo kiệt của mình và việc sống bủn xỉn của mình. Những
nỗ lực yếu ớt của bạn - như thực hành vô dục và kìm nén giận dữ và làm cái này
cái nọ - sẽ biến mất vào trong thinh không, bởi vì các kênh và dòng sông cũ đã
biến mất và toàn thể đại dương đã xuất hiện trong khung cảnh từ bây giờ ở đây.
Và khi bạn không còn cách nào khác để dùng năng lượng mênh
mông này, bạn bỗng nhiên thấy rằng năng lượng này đã lập ra cuộc hành trình
hoàn toàn khác. Bởi vì cuộc hành trình này phải tiếp diễn không ngừng mãi; nó
không bao giờ có thể đi tới chỗ dừng được. Năng lượng sẽ cứ chuyển động; nó
không thể dừng được. Cuộc hành hương này kéo dãi vĩnh viễn.
Vấn đề chỉ là đánh thức năng lượng này một lần thôi. Thế rồi
những cách sống cũ của bạn trở thành vô nghĩa, và nhiều điều không biết và những
cánh cửa không quen thuộc, vẫn đóng im ỉm qua nhiều thời đại, bắt đầu nhường đường
cho năng lượng đang xô tới này. Và bắt đầu có việc bạn kinh nghiệm ngoại cảm.
Và ngay khi những cánh cửa ngoại cảm mở ra bạn bắt đầu nhận biết về phần vô
thân thể của thân thể, điều có thể được gọi là linh hồn hay tâm linh.
Cho nên kundalini là việc chuẩn bị của thân thể để đi vào vô
thân thể, linh hồn. Chính theo nghĩa này mà tôi đã nói như vậy ở Nargol.
Người hỏi: khi nói về việc đi lên và đi xuống của năng lượng kundalini, thầy
nói rằng việc đi lên của nó ở trước việc đi xuống. Liệu việc đi xuống của nó có
hệt như việc đi xuống hay hội nhập vào kunda hay nó là cái gì đó khác? Xin thầy
giải thích hiện tượng đi lên và đi xuống.
Thực tế, việc hội nhập vào kunda không phải là đi xuống không
phải là đi lên; nó không thuộc vào loại nào cả. Vấn đề không phải là lên và xuống;
đấy chỉ là vấn đề biến mất, vấn đề dừng hiện hữu. Khi một giọt nước rơi vào
trong đại dương, nó không lên hay xuống, nó chỉ biến mất vào trong đại dương. Tất
nhiên, khi giọt nước khô đi trong nhiệt mặt trời, nó chắc chắn bay lên trời dưới
dạng hơi nước. Và khi nó tiếp xúc với khí lạnh, hơi nước biến thành mây; nó xuống
đất dưới dạng mưa. Nhưng cuộc hành trình của nó tới biển thì không lên không xuống;
nó đơn giản hội nhập, biến mất, chết đi trong đại dương.
Cho nên câu hỏi về lên và xuống nảy sinh theo một nghĩa rất
khác biệt. Chính theo nghĩa này mà nhiều lần năng lượng chúng ta dâng lên phải
được đưa trở về kunda, về bể. Chúng ta dâng năng lượng lên và đồng thời chúng
ta trả nó về cội nguồn, lặp đi lặp lại. Và cần phải làm như vậy bởi nhiều
nguyên nhân. Một nguyên nhân lớn là ở chỗ thường khối lượng năng lượng được
đánh thức lại nhiều hơn điều chúng ta có thể chịu đựng được, và do vậy nó phải
được gửi trả lại cội nguồn của nó; bằng không thì nó có thể tỏ ra nguy hiểm.
Năng lượng nào đó, nếu nó nhiều hơn điều chúng ta có thể nhận...
Khả năng của chúng ta mang được một thứ nào đó là có giới hạn; ngay cả khả năng
của chúng ta để mang hạnh phúc cũng bị giới hạn. Cả khả năng của chúng ta chịu
đau đớn và quyền lực cũng bị giới hạn. Và nếu cú sốc của hạnh phúc hay đau đớn
hay quyền lực xô tới mà nhiều hơn khả năng chúng ta có thể nhận, thế thì các cơ
quan thần kinh của chúng ta có thể bị đánh thủng. Và điều này sẽ rất có hại. Đó
là lí do tại sao nhiều lần năng lượng quá nhiều đã phải trả lại về cội nguồn của
chúng. Nhưng điều đó tuỳ thuộc vào các kĩ thuật. Điều đó không nhất thiết trong
trường hợp kĩ thuật mà tôi đang nói tới. Có những kĩ thuật đánh thức năng lượng
ngay lập tức và bất thần; chúng được gọi là các kĩ thuật của đốn ngộ. Và bao giờ
cũng có nguy hiểm cố hữu trong việc thực hành những kĩ thuật như vậy, bởi vì việc
năng lượng xô tới có thể thành quá nhiều đến mức bạn không chịu nổi; bạn có thể
không được chuẩn bị cho điều đó. Điện thế của nó có thể cao tới mức ngọn đèn của
bạn có thể bị tắt ngóm, hay cầu chì của bạn có thể đứt, hay quạt của bạn có thể
bị cháy, hay xe của bạn có thể bốc cháy. Nhưng kĩ thuật mà tôi cho các bạn ở
đây không bị nguy hiểm này; ban đầu nó tạo ra tiềm năng trong bạn và thế rồi
đánh thức năng lượng của bạn.
Cố gắng hiểu điều đó theo cách này. Nếu một chiếc đập lớn bục
ra, nó sẽ gây ra rất nhiều hư hỏng. Nhưng nước của cũng cái đập ấy có thể được
chuyển kênh theo cách có điều tiết và tuân theo nhu cầu của người dùng.
Một biến cố duy nhất xảy ra trong cuộc đời của Krishnamurti.
Trong thời vị thành niên của mình, ông ấy đã bị một số người đặc biệt thuộc vào
thông thiên học buộc phải trải qua toàn bộ kỉ luật kundalini. Một số thực nghiệm
đã được thực hiện trên ông ấy, nhưng ông ấy bây giờ không còn kí ức rõ ràng về
chúng. Ông ấy không nhận biết về điều ông ấy đã phải trải qua. Ông ấy chỉ trở
nên nhận biết khi đại dương của chứng ngộ đã đi vào kênh chính là ông ấy. Đó là
lí do tại sao ông ấy không có tri thức về pha chuẩn bị cho cuộc sống tâm linh của
mình.
Và do vậy ông ấy không chấp nhận rằng bất kì việc chuẩn bị
nào cũng là cần thiết cho chứng ngộ. Nhưng sự kiện là ở chỗ ông ấy đã được chuẩn
bị cho điều này theo cách lớn lao, điều chưa bao giờ xảy ra trên trái đất này
trước ông ấy. Thực tế cũng có một số người đã làm công việc chuẩn bị, nhưng họ
đã tự mình làm nó. Tại đây lần đầu tiên những người khác đã làm việc này cho
Krishnamurti. Họ thực sự đã làm việc trên ông ấy.
Người hỏi: Người khác có thể thực sự làm điều đó được không?
Một cách tuyệt đối, những người khác có thể làm được điều đó,
bởi vì theo nghĩa sâu sắc nhất thì người khác không phải là người khác. Những
người với chúng ta có vẻ như là người khác thì lại không phải vậy. Cho nên người
khác đã làm những chuẩn bị này, và họ đã làm như vậy vì một nguyên nhân vĩ đại,
để hiện thực hoá một biến cố lớn lao. Nhưng biến cố này đã không thể được hiện
thực hoá; thực nghiệm này bị tịt.
Biến cố mà các nhà thông thiên học đã chuẩn bị là việc đến,
việc đi vào của một linh hồn vĩ đại, vì điều đó mà Krishnamurti đã được chọn lựa
làm phương tiện. Krishnamurti chỉ bị sử dụng như phương tiện, và ông ấy đã được
chuẩn bị cho ý định này. Với ý định này các kênh tâm linh đã được đào bới ra và
năng lượng đã được đánh thức qua trung gian của Krishnamurti. Nhưng điều này chỉ
mới là phần sơ bộ của công việc. Chừng nào còn có liên quan tới Krishnamurti,
ông ấy không phải là mục đích của dự án, ông ấy chỉ được dùng như phương tiện.
Đó là vấn đề tạo ra chỗ trong ông ấy để một linh hồn khác nào đó tới và thường
trú. Nhưng điều đó không thể thành công được; nó đã thất bại.
Dự án này thất bại bởi vì khi sự việc tới, Krishnamurti đã từ
chối là phương tiện; ông ấy đã từ chối đóng vai trò trung gian cho ai đó khác.
Người ta sợ rằng ông ấy sẽ làm như vậy. Nỗi sợ như vậy bao giờ cũng có đó, và
đó là lí do tại sao những thực nghiệm như vậy chưa bao giờ được thực hiện trong
quá khứ. Nỗi sợ này là thực; bởi vì khi một người đi tới trạng thái mà người đó
có thể là chỗ chấm dứt cho bản thân mình, thì sao người đó phải đồng ý là
phương tiện cho ai đó khác? Krishnamurti đã từ chối vào giờ cuối cùng.
Điều đó cũng giống như thế này: tôi đưa bạn chiếc chìa khoá
ngôi nhà tôi để cho bạn có thể chuẩn bị nó cho một người khách được dự định tới
đây vào ngày mai. Nhưng sau khi tôi trao tay cho bạn chiếc chìa khoá và rời khỏi
nhà, bạn trở thành người chủ. Bạn rất có thể từ chối đón người khách vào ngôi
nhà này với lời tự biện bạch rằng bạn là chủ của nó, chiếc chìa khoá đang ở
cùng bạn. Chiếc chìa khoá này được ai đó khác làm ra, và ai đó khác đã xây dựng
ngôi nhà này nữa. Và mặc dầu bạn có chìa khoá, bạn vẫn không có tri thức về
cách làm khoá hay cách ngôi nhà đã được xây dựng. Nhưng vì bạn sở hữu chiếc
khoá và bạn biết cách mở ngôi nhà, nên vấn đề chấm dứt ở đó.
Điều như vậy đã xảy ra. Một số người có thể được chuẩn bị, và
một số người khác tới đã được chuẩn bị từ các kiếp trước của họ. Nhưng đây
không phải là vấn đề bình thường. Thông thường, mọi người đều phải
tự chuẩn bị cho chính mình. Và điều duy nhất đúng là việc chuẩn bị phải tới trước
và việc xảy ra chứng ngộ tới sau đó. Nhiều nước hơn phải chảy vào trong kênh chỉ
khi khả năng tiếp nhận của nó tăng lên.
Phải hết sức chăm chú rằng năng lượng này được đánh thức chỉ
theo tỉ lệ với khả năng tiếp nhận của bạn, không bao giờ nhiều hơn thế. Có những
kĩ thuật đưa tới việc xả ra năng lượng quá mức. Đó là cách nhiều người đã bị
phát điên và tẩu hoả nhập ma. Và chính bởi vì những thực hành như vậy mà mọi
người trở nên rất sợ tôn giáo.
Cho nên chúng ta có thể có hai cách đánh thức năng lượng và
không có mấy khó khăn về nó.
Tôi định kể cho các bạn một kinh nghiệm gần đây của Mĩ - từ
việc quản lí nguồn cấp điện của họ - làm sao nhiều lúc các kế hoạch của chúng
ta cứ bị thất bại. Tình huống như vậy có thể nảy sinh ngay cả trong phạm vi nội
bộ cuộc sống chúng ta. Ở Mĩ họ có 80 cơ quan được tổ chức ra để phân phối điện
sao cho nếu điện dư thừa ở thị trấn đặc biệt nào đó - nếu vào đêm đặc biệt nào
đó thị trấn này dùng ít điện hơn hạn ngạch đã được phân bổ - thì lượng điện thừa
này được tự động truyền sang thị trấn khác nơi đang cần. Điều đó ngụ ý rằng
ngay cả một lượng năng lượng điện nhỏ cũng không được phép còn đó không được
dùng tới tại bất kì chỗ nào; nó ngay lập tức được truyền sang chỗ khác cần dùng
nó.
Chẳng hạn, một nhà máy làm việc mãi tới tối hôm qua đã đóng cửa
ngày hôm nay do chuyện bất ổn lao động, và nó sẽ không dùng năng lượng đã được
cấp cho nó. Rồi có thị trấn khác nơi một nhà máy có thể đang nằm chơi nhàn rỗi
vì thiếu năng lượng. Cho nên họ đã tổ chức nó theo cách điện bên trong vùng này
thường được chuyển tiếp từ chỗ này sang chỗ khác, để cho không có dư thừa ở chỗ
này và khan hiếm ở chỗ khác.
Nhưng việc đã xảy ra như vậy vài năm trước đây - và nó đã xảy
ra vì hệ thống tự động truyền năng lượng này - rằng trong mười tới mười hai giờ
nước Mĩ chìm ngập trong bóng tối, và một loại hỗn loạn chế ngự khắp nơi. Khi điều
đó xảy ra, đã có hỏng nguồn điện ở thị trấn nào đó và kết quả là chân không đã
được tạo ra ở đó. Bây giờ toàn thể năng lượng quá mức trong mạng của vùng đó tự
động xô trở lại vùng đó - với lực mạnh tới mức tất cả mọi cầu chì trong thị trấn
đó đều bị nổ tung và hậu quả là toàn thể hệ thống được liên nối lẫn nhau của
vùng đó bị gián đoạn và mất tổ chức. Toàn thể tổ chức cung cấp điện sụp đổ, và
bỗng nhiên trong hai mươi bốn giờ nước Mĩ trở về trạng thái đã tồn tại hai
nghìn năm trước đây. Có việc tắt đèn khắp mọi nơi, và tất cả cuộc sống xã hội
đi tới chỗ dừng lại.
Chỉ từ đó họ mới nhận ra lần đầu tiên rằng tất cả mọi nỗ lực
của họ nhằm vào tính hiệu quả và tạo dòng chảy đều có thể bật lại vào họ và chứng
tỏ là thảm hoạ. Việc này đáng không bao giờ xảy ra nếu từng thị trấn có hệ thống
tách bạch riêng của mình về nguồn cấp điện. Việc này có thể không bao giờ xảy
ra ở Ấn Độ, rằng điện của toàn quốc bị mất ngay một lúc. Nó chỉ có thể xảy ra ở
Mĩ, nơi ngay cả nguồn cấp điện cũng được tổ chức một cách toàn thể và tập trung
và nơi mà mạch điện chảy tràn đầy mọi lúc. Cho nên bao giờ cũng có nguy hiểm.
Có một hệ thống như mạch điện bên trong con người
nữa. Và nếu dòng điện ở bên trong bạn chảy về bạn với số lượng lớn hơn mức bạn
có thể tiếp nhận, sẽ có thể nguy hiểm. Và có những kĩ thuật mà với chúng bạn có
thể làm tăng luồng điện bên trong của mình. Chẳng hạn, bạn đang ngồi với năm
mươi người khác trong phòng này. Với sự giúp đỡ của kĩ thuật nào đó bạn có thể,
nếu bạn muốn, làm cho năng lượng của tất cả năm mươi người này chảy về bạn - một
người. Trong biến cố đó tất cả năm mươi người này, bị rút cạn năng lượng của họ,
sẽ trở thành vô ý thức, trong khi bạn sẽ trở thành cây cột trụ năng lượng, bạn
sẽ bùng nổ bởi năng lượng. Nhưng điều này có thể tỏ ra là nguy hiểm cho bạn nữa.
Có thể là năng lượng được xả ra thành quá nhiều bạn không kham nổi. Và điều
trái ngược lại cũng có thể xảy ra. Qua cùng con đường, dòng năng lượng của bạn
có thể được hướng chảy sang người khác, rút dần toàn thể năng lượng của bạn. Tất
cả những thực nghiệm như vậy đều đã được tiến hành trong quá khứ.
Cho nên có những phương pháp mà với chúng người ta có thể trả
lại năng lượng dư thừa về cội nguồn trong trường hợp quá nhiều năng lượng chảy
về các trung tâm cao hơn vào một lúc, trong trường hợp có thừa năng lượng.
Nhưng điều này không nhất thiết có trong trường hợp các kĩ thuật tôi đang trao
cho các bạn ở đây. Điều này hoàn toàn không cần thiết, bởi vì năng lượng sẽ được
xả ra trong trường hợp này chỉ tỉ lệ với khả năng nhận nó của bạn. Chúng ta sẽ
tạo ra không gian trước hết và thế rồi thả năng lượng lấp đầy không gian này.
Cho nên các bạn sẽ không bao giờ cần trả lại bất kì năng lượng thặng dư nào.
Tình huống như vậy sẽ không phát sinh ra. Tất nhiên, một ngày nào đó chính bản
thân bạn sẽ trở về cội nguồn; nhưng đấy là vấn đề khác. Khi biết mọi điều bạn sẽ
lấy cú nhảy và hội nhập với kunda. Nhưng điều đó là việc hoàn toàn khác.
Những từ này, lên và xuống, đã được dùng với nghĩa khác nữa.
Nghĩa mà trong đó Shri Aurobindo dùng chúng rất khác.
Chúng ta có thể nghĩ tới năng lượng thiêng liêng theo hai
cách: hoặc chúng ta nghĩ về nó như cái gì đó nằm trên chúng ta, trên đỉnh, trên
trời, hay như cái gì đó nằm dưới, tại đáy, trong chiều sâu vực thẳm. Chúng ta
nghĩ dưới dạng điểm cao nhất hay điểm thấp nhất. Nhưng chừng nào có liên quan tới
cấp độ vũ trụ, thì thuật ngữ trên và dưới, đỉnh và đáy, là vô nghĩa; chúng
không có liên quan về bất kì cái gì. Chúng chỉ là các khái niệm tư duy của
chúng ta; chúng chỉ đại diện cho cách nghĩ của chúng ta. Chúng ta lấy trần căn
phòng này là trên chúng ta, nhưng nó không phải vậy. Nếu chúng ta khoan đất
ngay tại chỗ này bằng máy khoan và cứ khoan tới, một ngày nào đó nó sẽ kết thúc
ở Mĩ. Và nếu ai đó quan sát từ đó thì người đó sẽ thấy cái trần này ở dưới
chúng ta - dưới đầu chúng ta, không ở trên chúng. Chúng ta sẽ xuất hiện với người
đó như một bầy người đang làm shirshasana - đứng trên đầu mình. Nhưng cái trần
này vẫn còn như cũ. Điều đó tuỳ thuộc vào cách thức và từ đâu chúng ta thấy nó.
Cùng cách này các khái niệm của chúng ta về đông và tây đều
là giả. Đông là gì và Tây là gì? Nếu bạn cứ đi mãi về phương đông thì bạn sẽ tới
phương tây. Và nếu bạn cứ đi mãi theo phương tây bạn sẽ tới phương đông. Tại
sao gọi nó là phương tây nếu bước đi theo hướng này bạn tới phương đông? Điều
đó là vô nghĩa. Mọi khái niệm như vậy đều tương đối, và do vậy nó là không thực.
Nó chỉ là một giả thiết tiện dụng, một khái niệm tưởng tượng; nó có ích và vậy
mà giả. Bạn có thể nói phương đông ở đâu và nó bắt đầu từ đâu không? Nó bắt đầu
ở Calcutta, Rangoon hay Tokyo? Phương tây bắt đầu và kết thúc ở đâu? Chúng thực
sự bắt đầu bây giờ ở đây và kết thúc bây giờ ở đây. Chúng chỉ là các khái niệm
tiện dụng, qua đó chúng ta phân chia trái đất ra theo thuận tiện của mình.
Theo cùng cách này trên và dưới, đỉnh và đáy, là các khái niệm
tiện dụng. Trong khi đông và tây là các khái niệm chiều ngang, trên và dưới là
các khái niệm chiều đứng. Dù sao chúng cũng chỉ là những khái niệm. Thực tế chẳng
có gì như ở trên và ở dưới cả; bởi vì vũ trụ không có mái và không có sàn. Nó
bao la và vô giới hạn thế. Cho nên mọi việc nói về ở trên và ở dưới, lên và xuống,
đều vô nghĩa.
Nhưng khái niệm tiện dụng này về trên và dưới đã xâm lấn vào
tư duy tôn giáo của chúng ta nữa. Cho nên một số người kinh nghiệm Thượng đế là
cái gì đó tới từ trên cao; và thế rồi đó là trường hợp của năng lượng giáng xuống
họ. Một số người kinh nghiệm Thượng đế như cái gì đó nảy sinh từ bên dưới, từ
mái nhà; trong trường hợp đó năng lượng dâng lên với họ, nhưng thực tế phân
chia này không có nghĩa. Nơi chúng ta đặt Thượng đế - trên hay dưới - là vấn đề
khuynh hướng và thích hợp. Nhưng nếu chúng ta phải chọn lựa trong thu xếp dịch
chuyển này, tôi ưa thích khái niệm về lên hơn khái niệm về xuống.
Khái niệm về đi lên của năng lượng sẽ ích lợi cho bạn hơn so
với khái niệm đi xuống, và có lí do cho điều đó. Bởi vì nếu bạn lấy khái niệm
đi lên, bạn sẽ phải nâng năng lượng lên, bạn sẽ phải làm việc vì nó. Và trong
trường hợp bạn chọn khái niệm kia, việc đi xuống của năng lượng, bạn sẽ bị bỏ lại
chẳng có gì ngoài lời cầu nguyện, bạn sẽ không làm gì ngoài cầu nguyện. Nếu đấy
là vấn đề của năng lượng đi xuống, thì bạn chỉ có thể khoanh tay và cầu nguyện.
Do đó, hai loại tôn giáo đã tiến hoá trên toàn thế giới - một
loại dựa trên thiền còn loại kia dựa trên lời cầu nguyện. Các tôn giáo giao phó
cho lời cầu nguyện là những tôn giáo kinh nghiệm Thượng đế ở trên, trên bầu trời.
Ngài ở trên bầu trời trong sáng còn chúng ta không thể làm được việc đem ngài
xuống chỗ chúng ta. Nếu chúng ta muốn tìm thấy ngài, chúng ta sẽ phải dâng lên
ngày một cao hơn. Và nếu chúng ta cố gắng làm như vậy, bản thân chúng ta có thể
trở thành Thượng đế. Nhưng chúng ta không thể đi lên được; chúng phải vẫn ở nơi
chúng ta đang ở. Và do vậy tất cả những gì chúng ta có thể làm được là gọi ngài
trong lời cầu nguyện: "Hỡi Thượng đế, xin ngài giáng xuống chúng con! Xuống
với chúng con đi."
Mặt khác, có những tôn giáo tin rằng chúng ta phải dâng cái
gì đó lên từ bên trong chúng ta, rằng có cái gì đó đang ngủ ở gốc rễ chúng ta,
và nó có thể được nâng lên chỉ nếu chúng ta làm điều gì đó theo hướng này. Những
tôn giáo đó quay lưng lại với cầu nguyện và chọn lấy thiền. Chúng trở thành tôn
giáo của thiền. Cho nên khái niệm về trên và dưới đã tạo ra tất cả khác biệt giữa
cầu nguyện và thiền. Tôn giáo của cầu nguyện tin vào Thượng đế ở cao bên trên
còn tôn giáo của thiền nghĩ rằng ngài cư trú ở gốc rễ, từ nơi đó ngài phải được
nâng lên.
Và nhớ rằng dần dần, tôn giáo của lời cầu nguyện đã làm mất dần
nền tảng và chết đi. Không có tương lai cho chúng; chúng không có tương lai về
bất kì cái gì. Còn tôn giáo của thiền phát triển hàng ngày về tiềm năng, và họ
có tương lai vô cùng trước họ.
Tôi muốn các bạn hiểu rằng con đường của cuộc hành trình của
chúng ta đi lên từ phía dưới, từ đây.
Khái niệm này có một số nghĩa khác nữa. Tuy nhiên khái niệm này
là tương đối. Do đó, không thành vấn đề gì với tôi nếu các bạn tin vào Thượng đế
ở trên trời kia. Tôi sẽ không gặp khó khăn nào về điều đó. Nhưng tôi biết rằng
các bạn chắc chắn sẽ đối diện với khó khan trong việc thực hiện điều đó. Tôi đã
nói một chút trước đây rằng nếu chúng ta cứ đi về phương đông mãi thì chúng ta
chung cuộc sẽ tới phương tây; nhưng điều này không có nghĩa là chúng ta phải đi
về phương đông nếu chúng ta phải đi về phương tây; chúng ta chỉ nên đi về
phương tây. Mặc dầu khái niệm đông tây là vô nghĩa, vậy mà chúng ta bắt đầu đi
về phương tây nếu chúng ta phải đi về phương tây. Điều này cũng đúng; rằng nếu
chúng ta cứ đi về phương đông mãi chúng ta chung cuộc sẽ tới phương tây. Nhưng
thế thì cuộc hành trình sẽ quá dài không cần thiết. Bạn có hiểu điều tôi muốn
nói không?
Sẽ có nhiều khác biệt giữa người sùng kính và thiền nhân. Thượng
đế của người sùng kính ở mãi trên trời, và do vậy người đó sẽ cầu nguyện và chờ
đợi với tay khoanh lại. Còn Thượng đế của thiền nhân thì ẩn kín bên dưới trong
gốc rễ của người đó và do vậy người đó sẽ chuẩn bị sẵn sàng hành động và nỗ lực
để đánh thức ngài.
Có những cách diễn giải khác chúng ta cần nhớ trong đầu. Khi
chúng ta tin Thượng đế ở dưới thấp, tại gốc rễ, sự hiện diện của ngài được cảm
thấy ở mọi nơi, ngay cả trong điều chúng ta gọi là bản năng và xúc động cơ sở
hơn của mình. Thế thì không có gì trong tâm trí chúng ta còn lại là cơ sở và thấp
cả, bởi vì nếu bản thân Thượng đế sống ở vùng thấp, ngài hiện diện ngay cả
trong điều chúng ta gọi là vùng thấp nhất của cuộc sống chúng ta. Và ngài có thể
được đánh thức ngay cả ở đó. Nếu dục là vùng đó, thì Thượng đế sẽ ở đấy nữa, và
ngài có thể được đánh thức và được đạt tới từ cả đầu đó nữa. Nói cách khác,
không thể có chỗ nào mà không tìm được ngài. Ngài sẽ được tìm thấy ngay cả ở chỗ
thấp nhất của địa ngục, nếu như có chỗ đó.
Nhưng nếu chúng ta tin rằng Thượng đế ở đâu đó trên tầng trời,
thì việc kết án bắt đầu ngay lập tức; thế thì bất kì cái gì đứng bên dưới đều bị
kết án, bởi vì Thượng đế không có ở đó. Và thế thì một cách vô ý thức cảm giác
về tự ti nắm bắt lấy người tin tưởng. Và hậu quả của nó - hậu quả tâm lí của việc
tự kết án và mặc cảm - đơn giản là thảm hoạ.
Và nếu bạn muốn đứng trên đôi chân vững chắc và mạnh mẽ, điều
cần thiết là năng lượng phải tới từ bên dưới, vì điều đó sẽ thêm phần làm mạnh
cho đôi chân bạn. Nếu năng lượng tới từ bên trên, nó sẽ chỉ chạm tới đầu bạn.
Nhưng vấn đề là ở chỗ năng lượng, để có hiệu quả, phải đạt tới chính gốc rễ.
Và năng lượng tới từ bên trên bao giờ cũng dường như xa lạ và
ngoại lai. Đó là lí do mà những người đạt tới qua lời cầu nguyện không bao giờ
tin rằng Thượng đế và chúng ta là một. Người Hồi giáo bao giờ cũng kiên quyết
phản đối bất kì ai nói rằng mình là Thượng đế. Họ nghĩ rằng Thượng đế và con
người không thể là một và như nhau được, bởi vì Thượng đế ở tít trên trời còn
con người lại ở đây trên đất này, ở dưới đáy. Do đó họ chặt đầu Mansoor và giết
chết Sarmad. Với họ không có báng bổ nào lớn hơn điều này, rằng bất kì ai cũng
nói rằng mình là Thượng đế. Bởi vì trong khi Thượng đế là cao nhất, con người
cùng lắm cũng chỉ như loài sâu bọ bò trên đất. Làm sao con người thấp bé có thể
đồng nhất mình với điều cao nhất được?
Lí do cho niềm tin này là ở chỗ chúng ta coi Thượng đế là ở
tít cao còn bản thân chúng ta là những sinh linh thấp bé, chúng ta nhất định là
hai thực thể tách biệt. Bởi chính lí do này mà người Sufis chưa bao giờ chấp nhận
được đạo Hồi - tôn giáo của những người Hồi giáo - bởi vì người Sufis công bố rằng
họ và Thượng đế là một.
Chúng ta có thể là một với Thượng đế chỉ nếu Thượng đế đi từ
chỗ thấp, bởi vì chúng ta ở chỗ thấp. Chỉ nếu Thượng đế tới từ đất và không từ
trời thì ngài mới là có thể và chúng ta hợp nhất vào trong một sự hiện hữu.
Ngay khi chúng ta đưa Thượng đế lên ngai vàng trên trời, cuộc
sống trần tục của chúng ta bị kết án; nó trở thành tội lỗi. Và thế thì được
sinh vào trong thế giới này được xem như kết quả của tội lỗi của chúng ta. Còn
khi chúng ta đặt Thượng đế tại gốc rễ, cuộc sống trên đất này trở thành phúc lạc,
phúc lành. Thế thì nó chấm dứt việc là kết quả của tội lỗi của chúng ta và biến
thành món quà của Thượng đế và từ bi của ngài. Và thế rồi sự hiện diện của ánh
sáng của ngài sẽ được cảm thấy ngay cả ở chỗ tối nhất của mọi vật. Và thế rồi,
Thượng đế sẽ hiện diện trong bản thể bên trong nhất của ngay cả người tồi tệ nhất,
ngay cả người độc ác nhất.
Do đó tôi ưa thích là các bạn tin Thượng đế là lực đi lên; mặc
dầu thực tế không có khác biệt giữa hai khái niệm này về lực đi lên và đi xuống.
Không có khác biệt về bất kì điều gì đối với người biết. Người đó sẽ nói rằng cả
hai ý tưởng này đều vô dụng. Nhưng nếu chúng ta không biết và muốn đi trên cuộc
hành trình tâm linh, tốt hơn cả là chúng ta chọn con đường làm cho cuộc hành
trình được dễ dàng hơn. Cho nên tôi muốn người tìm kiếm hiểu rằng năng lượng sẽ
nảy sinh từ đáy và cứ theo cuộc hành trình đi lên.
Do đó, những người chọn cuộc hành trình đi lên đều chấp nhận
lửa như biểu tượng của Thượng đế, bởi vì lửa bao giờ cũng bốc lên. Lửa trong ngọn
đèn, ngọn lửa của nó, thường xuyên đi lên, bốc lên. Đó là lí do tại sao ở chỗ
thầm kín sâu nhất của tâm trí mình chúng ta đã chấp nhận lửa như biểu tượng của
Thượng đế - bởi một lẽ đơn giản là bất luận điều bạn làm, lửa bao giờ cũng lên
thẳng, và khi nó lên thẳng chẳng mấy chốc nó biến mất vào trong hư không. Ngọn
lửa của đám lửa thấy được trong một chốc và thế rồi tự nó mất đi trong thinh
không. Tương tự người tìm kiếm sẽ dâng lên, sẽ thấy được trong một chốc và thế
rồi người đó sẽ mất đi bản thân mình trong cái không thấy được.
Do đó tôi nhấn mạnh vào việc đi lên của năng lượng và không
nhấn mạnh vào việc đi xuống của nó.
Người hỏi: Thầy nói tại trại Nargol rằng chúng ta phải làm kiệt quệ thân thể
qua việc thở mãnh liệt và sâu và thường xuyên hỏi câu hỏi "Tôi là
ai?" để cho chúng ta đi vào thiền sâu. Nhưng làm sao làm kiệt quệ và nảy
sinh việc thiếu năng lượng dẫn tới thiền thực sự cần năng lượng dư thừa?
"Làm kiệt quệ" không có nghĩa là sẽ thiếu năng lượng
nào. Khi tôi nói các bạn phải làm cho bản thân mình kiệt quệ, điều tôi ngụ ý bởi
từ "bản thân mình" là gì? Tại đây "bản thân mình" nghĩa là
các giác quan của bạn mà qua đó năng lượng của bạn chảy vào quá trình đều đặn mọi
ngày. Với "bản thân mình" tôi ngụ ý thân thể bạn; tôi ngụ ý bạn như bạn
ngay bây giờ. Tôi không nói về bạn thực sự là gì; tại khoảnh khắc này tôi quan
tâm tới bạn là gì.
Cho nên khi các bạn tự làm kiệt quệ mình, hai điều xảy ra
cùng nhau. Khi các bạn làm kiệt quệ mình, tất cả các thực hành giác quan của bạn
làm kiệt quệ thân-tâm bạn, các cơ quan cảm giác của bạn, mặt khác nó cứ nện búa
vào kundalini của bạn. Cho nên từ một đầu các bạn bị kiệt quệ và từ đầu bên kia
năng lượng ngủ của các bạn bắt đầu thức dậy.
Cả hai quá trình này là đồng thời. Một mặt các bạn bị mệt đi
và mặt khác năng lượng của bạn được đánh thức dậy. Đồng thời, các bạn không ở
vào vị trí dùng năng lượng của mình thêm nữa. Mắt bạn mệt tới mức chúng không
thể nhìn được; tâm trí các bạn mệt tới mức nó không thể nghĩ được, cho dù nó muốn
nghĩ. Chân bạn từ chối chuyển động, chúng hoàn toàn suy kiệt.
Trong tình huống này, nếu các bạn muốn di chuyển, các bạn sẽ
phải di chuyển không có chân, còn nếu các bạn muốn nhìn, các bạn sẽ phải nhìn
không có mắt, bởi vì chúng đã kiệt quệ rồi. Cho nên khi các cơ quan của bạn bị
làm việc quá mức, nó từ chối làm việc. Nhưng đồng thời năng lượng nào đó đã được
đánh thức và nó muốn làm điều gì đó một cách cấp thiết. Bây giờ năng lượng này
lập tức sẽ gõ vào những cánh cửa không bị mệt của bạn, và sẵn sàng nhận lấy nó
và làm việc với nó. Những lối mở này bao giờ cũng sẵn sàng nhưng đã bị phủ nhận
mọi cơ hội để làm việc. Bạn mạnh đến mức bạn có thể dùng tất cả năng lượng của
mình. Bây giờ bạn mệt mỏi, và năng lượng mới và tươi mát có đấy cho hành động.
Nhưng các cơ quan cũ của bạn như mắt và tai sẽ từ chối nhận nó. Cho nên khi tai
và mắt của bạn từ chối, năng lượng mới đó sẽ làm gì?
Trong tình huống này các bạn sẽ bắt đầu nhìn từ chiều nào đó
rất khác, đó sẽ là một phần mới của bản thể bạn. Trung tâm nhìn tâm linh của bạn
sẽ bắt đầu làm việc, và bạn sẽ thấy những điều mà bạn chưa bao giờ thấy trước
đây. Và các bạn sẽ thấy từ một không gian mà các bạn chưa bao giờ quen thuộc
trong quá khứ. Không gian đó chưa bao giờ được cho cơ hội để vận hành; bây giờ
có cơ hội cho nó, lần đầu tiên.
Chính bởi lí do này mà tôi đã nhấn mạnh vào việc làm cho bạn
kiệt sức. Một mặt, thân thể bạn phải bị làm cho thật mệt, tâm trí bạn phải bị
làm cho thật mệt, tất cả mọi điều bạn có là bị mệt lử, để cho điều bạn thực sự
là và điều bạn không nhận biết đó có thể trở nên tích cực. Khi năng lượng tươi
mát được khuấy động lên, nó đòi hỏi làm việc, và bản thể bạn sẽ phải cung cấp
nó cho công việc. Thực tế năng lượng này sẽ tự nó tìm ra công việc. Cho nên
trong biến cố về tai bạn bị kiệt quệ, năng lượng được đánh thức mới sẽ nghe thấy
cái được gọi là naad, hay âm thanh bên trong. Trong biến cố mắt bạn bị mệt mỏi,
năng lượng mới sẽ thấy ánh sáng, ánh sáng bên trong. Để nghe âm thanh bên trong
và thấy ánh sáng bên trong, tai và mắt vật lí của bạn không được cần tới. Nó sẽ
ngửi thấy mùi hương ở bên ngoài tầm với của mũi thường của bạn. Vậy, các giác
quan rất tinh tế, điều bạn gọi là siêu giác quan, sẽ trở thành sống động và hoạt
động.
Mỗi một trong các giác quan của chúng ta đều được nối với một
siêu giác quan tương ứng. Có tai nghe ra bên ngoài và có tai khác nghe bên
trong bạn. Nhưng tai bên trong chẳng bao giờ được cho cơ hội nào để vận hành cả.
Bởi vì tai bên ngoài của bạn bị làm việc quá sức và nó từ chối làm việc thêm nữa,
mà năng lượng mới tụ tập gần tai đang trơ ì của bạn, nó sẽ phải làm gì? Nó sẽ
kích hoạt tai kia của bạn, tai bên trong, chưa bao giờ được dùng trong quá khứ.
Cho nên bạn sẽ nghe thấy và nhìn thấy những điều mà nếu bạn nói cho bạn bè mình
về chúng thì họ sẽ nói, "Anh mất trí rồi. Điều đó là không thể được. Anh
đang bị ảo tưởng; anh đang mơ đấy."
Nhưng bạn sẽ nghe thấy âm thanh đó còn rõ hơn bạn nghe nhạc của
veena của mình, đàn luýt của mình. Đàn luýt bên trong sẽ được nghe thấy rõ ràng
và to tới mức bạn không bao giờ có thể nghĩ rằng nó có thể không thực, giả tạo.
Bạn sẽ nói rằng nếu đây mà là giả, thì đàn veena bên ngoài hoàn toàn là giả.
Để cho những cánh cửa mới tới sự tồn tại của bạn mở ra, điều
cần thiết là ban đầu phải làm mệt mỏi các giác quan của bạn. Một khi những cánh
cửa đó được mở ra, sẽ không có vấn đề gì. Thế thì bạn có thể so sánh, và nói rằng
nếu bạn phải nhìn, thì nhìn vào bên trong còn tốt hơn nhiều, nhiều phúc lạc thế.
Cái bên ngoài là vô nghĩa nếu so với cái bên trong. Nhưng ngay bây giờ bạn
không có cách nào để so sánh cả, bạn không có chọn lựa nào về bất kì cái gì. Nếu
bạn muốn nhìn, chỉ có mỗi cảnh bên ngoài để nhìn. Một khi mắt bên trong của bạn
bắt đầu thấy, bạn có chọn lựa rõ ràng; bạn có thể chọn giữa cái bên trong và
cái bên ngoài. Và thế thì bạn bao giờ cũng sẽ chọn cái bên trong bất kì khi nào
bạn cảm thấy thích nhìn. Và bạn sẽ không bỏ lỡ nó; cái bên ngoài sẽ trở thành
vô nghĩa.
Có một câu chuyện trong cuộc sống của Rabiya.
Một buổi chiều tà mặt trời đang lặn và bà ấy đang ngồi bên
trong lều của mình. Một thầy tu khổ hạnh fakir có tên là Hassan tới thăm bà ấy.
Đó là lúc mặt trời lặn và buổi chiều tà đơn giản đang làm cho người ta say mê.
Thế là Hassan gọi bà ấy, "Rabiya ơi, bà đang làm gì đó bên trong lều? Chiều
tà đẹp thế, và mặt trời lặn huy hoàng tôi chưa bao giờ thấy trước đây. Buổi chiều
rực rỡ như thế có thể không thấy được lần nữa đâu. Bà ra khỏi lều và ngắm nó
đi."
Trả lời lại, Rabiya nói, "Ôi ông khờ ơi, ông còn tiếp tục
ngắm mặt trời bên ngoài được bao lâu nữa? Tôi bảo ông quay vào trong đi, bởi vì
ở đây tôi đang ngắm người tạo ra mặt trời. Và tôi đang chứng kiến những mặt trời
như vậy ở đây vẫn còn chưa được tạo ra và sẽ được tạo ra trong tương lai chưa
thấy được. Cho nên tốt hơn cả là ông đi vào đi."
Nhưng Hassan không thể đoán được điều Rabiya muốn bảo ông ấy.
Người đàn bà này thực sự hiếm hoi. Rabiya là một trong số rất ít phụ nữ có ý
nghĩa trong toàn bộ lịch sử loài người. Nhưng Hassan không hiểu được bà ấy; ông
ấy cứ khẩn khoản mãi rằng Rabiya nên bước ra khỏi lều và ngắm nhìn mặt trời lặn
mà bà ấy đang bỏ lỡ. Còn Rabiya cảnh báo ông ấy mãi đừng bị lạc trong quyến rũ
của mặt trời bên ngoài và do vậy bỏ lỡ cái đẹp thực sự của cái bên trong.
Đối thoại này giữa Rabiya và Hassan xảy ra ở hai bình diện
khác nhau đồng thời. Hai loại giác quan khác nhau cùng tham gia vào trong đó. Nếu
bạn không nhận biết về các giác quan bên trong, thế thì thế giới bên ngoài là mọi
thứ cho bạn.
Và đó cũng chính là ý nghĩa mà tôi nói rằng sẽ là tốt nếu các
giác quan bên ngoài bị kiệt quệ.
Người hỏi: vậy trong việc thiền này, việc làm kiệt quệ không
có nghĩa là thiếu năng lượng.
Không một chút nào. Nó có nghĩa là đánh thức năng lượng -
năng lượng đang ngủ bên trong từng người các bạn. Và toàn bộ công việc được ngụ
ý để đánh thức nó. Đúng là các giác quan bị mệt mỏi; nhưng các giác quan nào
không chứa năng lượng, chúng đơn thuần là những cánh cửa để năng lượng đi qua
đó. Và bạn không là cánh cửa; bạn là cái gì đó khác. Bạn đơn thuần đi qua những
cánh cửa này. Và chính những cánh cửa này bị mệt mỏi và yêu cầu bạn không đi
qua chúng nữa, bởi vì chúng bị làm việc quá sức và cạn kiệt rồi. Mắt bạn từ chối
bị sử dụng. Và các giác quan khác cũng nói như vậy.
Cho nên khởi đầu quá trình làm mệt mỏi các giác quan này là rất
có ích.
Người hỏi: nếu đó là trường hợp của việc đánh thức năng lượng, thế thì việc thiền
này nên đem tới tươi mát thay vì mệt mỏi. Nhưng thông thường nó đem chỉ mỗi mệt
mỏi. Tại sao vậy?
Nó sẽ chỉ như vậy vào lúc bắt đầu. Nhưng dần dần bạn sẽ cảm
thấy tươi mát và sảng khoái. Tươi mát và sảng khoái này tới mức bạn chẳng bao
giờ biết trước đây. Nhưng lúc ban đầu, để cho chắc, bạn sẽ cảm thấy mệt. Nó là
vậy bởi vì bạn đã đồng nhất mình với những giác quan này. Bạn nghĩ chúng là
chính bản thân mình. Cho nên khi các giác quan này mệt, bạn nói rằng bạn mệt. Sự
đồng nhất này với các giác quan phải ra đi.
Chẳng hạn, bạn đang cưỡi ngựa và con ngựa bị mệt. Bây giờ nếu
bạn bị đồng nhất với ngựa thì bạn sẽ nói rằng bạn mệt, bạn mệt chết đi. Chúng
ta thấy mệt với tất cả những gì chúng ta đồng nhất với. Nếu bạn đồng nhất bản
thân mình với ngựa, bạn sẽ mệt khi ngựa mệt. Cái ngày bạn biết rằng bạn không
là ngựa, tươi mát sẽ tới thăm bạn theo cách rất khác. Và thế thì bạn sẽ biết rằng
đó chính là các giác quan mệt chứ không phải là bạn.
Ngược lại, khi các giác quan mệt và từ chối làm việc, nhiều
năng lượng, cái đã từng bị phung phí một cách vô ích trước đây, nay được tiết
kiệm và gìn giữ trong kho năng lượng bên trong bạn. Thế thì bạn sẽ biết cái được
gọi là bảo tồn năng lượng, và nó sẽ ngày càng biến thành kho tàng vô giá của bạn.
Và vì năng lượng này không đi ra, nên nó thấm vào mọi thớ thịt, mọi lỗ chân
lông của con người bạn. Năng lượng này là bạn, và khi bạn hiểu nó thì bạn sẽ biết
khác biệt.
Cho nên dần dần, sau thiền, bạn sẽ kinh nghiệm tươi mát vô
cùng. Nói rằng bạn sẽ cảm thấy tươi mát cũng là sai, thay vì thế bạn sẽ trở
thành bản thân sự tươi mát. Không phải là bạn sẽ cảm thấy tươi mát, bạn sẽ là
tươi mát này. Nhưng điều này sẽ xảy ra chỉ khi đồng nhất của bạn thay đổi. Ngay
bây giờ bạn đang cưỡi ngựa, và cả cuộc đời mình bạn đã đồng nhất mình với ngựa.
Sẽ phải mất thời gian để biết rằng bạn không là ngựa mà là người cưỡi. Và sẽ dễ
hiểu hơn cho bạn nếu ngựa kiệt sức tới mức phải bỏ nó đi. Thế thì bạn sẽ phải
bước bộ, và bước bộ trên đôi chân riêng của bạn. Và khi bạn bước đi, bạn sẽ biết
rằng bạn là tách rời với ngựa.
Nhưng cưỡi trên lưng ngựa một thời gian lâu bạn đã quên mất rằng
bạn có thể bước bộ. Cho nên cũng tốt là con ngựa bị kiệt sức.
Chương 11. Thuật giả kim của việc thở hỗn loạn
Người hỏi: một nhà huyền môn người Nga, George Gurdjieff đã
viết bản kí sự về cuộc phiêu lưu tâm linh của ông ấy được biết như những cuộc gặp
gỡ với những người xuất sắc. Trong cuốn sách này ông ấy nói rằng ông ấy rất bị ấn
tượng bởi cuộc thảo luận với một tu sĩ Sufi về pranayam và asanas yoga. Tu sĩ
này đã cảnh báo ông ấy đừng làm mọi loại luyện tập thở, bởi vì bất kì thay đổi
nào trong hệ thống thở tự nhiên cũng sẽ đem tới những mất trật tự trong cuộc sống
với kết quả thảm hoạ. Thầy nói gì về điều đó?
Có chân lí nào đó trong điều ông ấy nói về pranayam và những
bài tập thở khác. Trong thực tế, không có lời nói dối nào mà không chứa một mẩu
chân lí; điều đó không thể khác được. Mọi dối trá đều có chút ít chân lí trong
nó. Và chính yếu tố chân lí nhỏ bé này gây ấn tượng cho người ta. Nhưng cùng với
nó, lời dối trá đi tiếp và tìm ra sự tín nhiệm; bằng không người ta sẽ không biết
về điều đó.
Bây giờ đúng là chúng ta không thể can thiệp và cản trở những
con đường tự nhiên của cuộc sống mình; bằng không sẽ có rắc rối. Sẽ là tốt nếu
chúng ta không cản trở vận hành tự nhiên của thân thể mình; chúng ta không nên
can thiệp vào cách chúng ta thở, cách chúng ta bước, đứng hay ngồi. Bởi vì ngay
khi chúng ta đặt ra những cản trở trên con đường của chúng, thì thay đổi bắt đầu
xảy ra.
Nhớ rằng bất kì loại mất nào cũng đều có nghĩa thay đổi, và
việc được cũng có nghĩa thay đổi. Cả mất lẫn được đều là những thay đổi. Cho
nên nếu bạn muốn vẫn còn như bạn đang thế, thì đúng là bạn đừng nên can thiệp
vào việc thở của mình. Nhưng nếu bạn có chỗ nào đó để đi, nếu bạn muốn đem tới
thay đổi, biến đổi trong cuộc sống của mình, thế thì bạn sẽ phải nhận lấy nguy
cơ. Nguy cơ là nếu bạn đem tới thay đổi trong hình mẫu thở của mình, nó sẽ làm
thay đổi toàn thể phong cách sống của bạn. Nếu bạn được thoả mãn với việc là bạn
như hiện thời, nếu bạn cho rằng như bạn hiện tại thế là được, bạn không cần làm
gì cả. Nhưng nếu bạn cảm thấy rằng như bạn hiện tại là không đủ, thế thì bạn sẽ
phải tạo ra thay đổi.
Và thế thì thay đổi trong việc thở của chúng ta trở thành
quan trọng với chúng ta, quan trọng nhất. Và ngay khi các bạn tạo ra khác biệt
trong cách thở của mình, nhiều điều trong các bạn sẽ bắt đầu gắn lại với nhau.
Bây giờ, sau hàng nghìn kinh nghiệm, người ta phát hiện ra cái gì là cái sẽ bị
bỏ đi khỏi bạn và cái gì là cái sẽ được gắn lại và được thêm vào cho bạn. Chính
bây giờ là tốt khi vấn đề được giải quyết - một khoa học thực sự.
Vài điều cần được biết đối với tất cả chúng ta từ những kinh
nghiệm hàng ngày của mình. Chẳng hạn, khi bạn giận dữ, việc thở của bạn trải
qua thay đổi; nó không còn như cũ nữa. Và việc thở thay đổi ngay cả khi bạn cảm
thấy yên tĩnh và im lặng; nó sẽ không là cái nó vẫn thường là vậy. Và nếu bạn
biết cách thở trong trạng thái im lặng, thế thì bạn có thể tạo ra trạng thái đó
bằng việc điều chỉnh việc thở của mình theo cách tương ứng với im lặng.
Cả tâm trí và việc thở đều được liên nối với nhau.
Khi tâm trí bị khuấy động về dục, hình mẫu của việc thở lập tức
trải qua thay đổi. Cho nên trong trạng thái khuấy động dục bạn không cho phép
hình mẫu thở của mình thay đổi, dâm dục sẽ biến mất ngay. Ham muốn dục sẽ dừng
lại; nó không thể kéo dài lâu được. Để bất kì cái gì xảy ra, mọi thứ trong bộ
máy thân thể đều cần ở vào một trạng thái đặc biệt liên kết với mọi thứ khác.
Cho nên nếu bạn bắt đầu thở chậm khi một con sóng giận dữ mạnh tấn công bạn, giận
dữ sẽ bay hơi; bởi vì nó sẽ thấy không có chỗ trong việc thở chậm để ở lại như
nó vẫn thế.
Do đó kỉ luật của việc thở có ý nghĩa lớn lao. Thay đổi trong
việc thở ảnh hưởng tới thay đổi tương ứng trong tâm trí bạn. Và không có nguy
hiểm gì được bao gồm khi nó đã được thiết lập - và được thiết lập rất khoa học
- cách tâm trí cư xử trong những trạng thái thở khác nhau. Có nguy hiểm tất
nhiên trong những giai đoạn khởi đầu của thực nghiệm này. Trong thực tế, nguy
hiểm có đó ngay cả bây giờ trong giai đoạn thực nghiệm của mọi cuộc tìm kiếm
phiêu lưu mới trong Cuộc sống. Nhưng khi thực nghiệm này thành công nó biến
thành qui luật khoa học. Chẳng hạn, không thể làm cho một người giận dữ được nếu
người đó giữ việc thở vững chắc và bình thản của mình. Cả hai việc thở giận dữ
và bình thản không thể đi đôi với nhau được. Điều ngược lại cũng là có thể. Nếu
bạn bắt đầu thở theo cách bạn thở trong giận dữ, bạn sẽ thấy ngay việc phát
sinh cơn giận trong tâm trí mình.
Pranayam, hay kỉ luật của việc thở, đã khám phá ra nhiều
phương pháp để làm biến đổi tâm trí bạn.
Cũng tốt để hiểu khác biệt giữa điều chúng ta gọi là thở nhân
tạo và điều chúng ta gọi là thở tự nhiên. Điều các bạn biết như thở tự nhiên
không phải là cái tự nhiên đó. Nếu các bạn hiểu nó đúng, các bạn sẽ biết rằng
nó tất cả đều là thở nhân tạo mà các bạn đã trở nên quen thuộc. Bởi vì các bạn
đã từng thở theo cách này trong thời gian rất dài, ngay từ thời thơ ấu của
mình, nên các bạn đã trở nên quen với nó. Nó đã trở thành thói quen của bạn - bản
tính thứ hai. Thực sự bạn không biết việc thở tự nhiên là gì.
Các bạn thở theo cách này ban ngày, và ban đêm các bạn thở
theo cách hoàn toàn khác. Việc thở ban ngày của các bạn là nhân tạo. Ban đêm
trong khi ngủ, thở tự nhiên chiếm lĩnh - quá trình này, cái vẫn vận hành trong
giấc ngủ của bạn, là tự nhiên hơn thở ban ngày của bạn.
Chúng ta đã lâm vào một thói quen thở nào đó trong giờ làm việc,
cái không tự nhiên, và có lí do cho nó. Nếu bạn có chút ít tỉnh táo về cách thở
của mình khi bạn trong đám đông và khi bạn một mình, bạn sẽ thấy rằng chúng
hoàn toàn khác lẫn nhau. Các bạn cũng thấy rằng cách thở của các bạn thay đổi
ngay khi bạn một mình sau khi đã rời bỏ đám đông.
Bạn thở theo một cách thức nào đó trong khi bạn đang ở cùng
đám đông, và bạn thở hoàn toàn khác khi một mình. Bị bao quanh bởi đám đông,
tâm trí bạn căng thẳng và hơi thở bạn ngắn và nông; nó không đi sâu. Nhưng khi
bạn ngồi một mình và thảnh thơi, việc thở của bạn trở lại sâu. Và khi bạn lên
giường ban đêm, nó trở thành hoàn toàn sâu trong giấc ngủ của bạn. Bạn chưa bao
giờ thở sâu thế lúc ban ngày; khi thức dậy, bạn chưa bao giờ thở tự nhiên và
sâu đến mức nó to và bạn nghe thấy nó.
Điều được biết là việc thở tự nhiên của chúng ta không phải
là tự nhiên; nó chỉ là việc thở được huấn luyện và nhân tạo. Nó bị nắn theo
hình mẫu đến mức nó đã biến thành thói quen.
Trẻ con thở theo cách hoàn toàn khác. Đưa một đứa trẻ vào giấc
ngủ và rồi quan sát nó; nó thở bằng bụng, và khi nó thở chính bụng của nó dâng
lên và hạ xuống. Nhưng người lớn thở bằng ngực của mình, và do vậy chính ngực của
họ chuyển động lên và xuống cùng việc thở. Trẻ con thở bằng bụng một cách tự
nhiên. Và nếu bạn bắt đầu thở theo cách trẻ con thở, tâm trí bạn sẽ dần đi vào
trong cùng trạng thái như của đứa trẻ đó; tâm trí bạn sẽ hồn nhiên như tâm trí
đứa trẻ. Hay ngược lại, nếu bạn trở nên hồn nhiên như đứa trẻ hồn nhiên, bạn sẽ
bắt đầu thở bằng bụng của mình.
Đó là lí do tại sao tượng Phật được làm ở Nhật Bản và Trung
Quốc hoàn toàn khác với tượng được làm ở Ấn Độ. Ở Ấn Độ, hình ảnh của Phật có bụng
nhỏ và ngực lớn. Điều đó hoàn toàn khác ở Nhật Bản và Trung Quốc; tất cả hình ảnh
của ông ấy ở những nước này đều có bụng lớn và ngực nhỏ. Với chúng ta, tượng Phật
của Nhật Bản và Trung Quốc trông có vẻ kì dị; chúng ta có thể cho rằng chúng
méo mó và xấu xí. Nhưng trong thực tế, đó là điều phải; bởi vì khi một người của
im lặng như Phật thở, thì người đó thở bằng bụng mình - cách thở tự nhiên.
Một người hồn nhiên như Phật không thể thở bằng ngực được, điều
phi tự nhiên và nhân tạo. Và khi người ta thở bằng bụng, bụng nhất định phải to
và phình ra. Cho nên bụng lớn của tượng Phật là mang tính biểu tượng. Thực tế
nó có thể không to đến vậy, nhưng nó phải được miêu tả theo cách nó đã được
miêu tả. Và lí do là ở chỗ một người như Phật thở bằng bụng, và ông ấy hồn
nhiên như trẻ con.
Khi chúng ta hiểu điều này, chúng ta có thể tiến thêm các bước
nữa tới việc thở tự nhiên. Như nó đấy, việc thở của chúng ta là phi tự nhiên,
nhân tạo. Tu sĩ Sufi kia là sai khi bảo các bạn đừng thở kiểu nhân tạo. Trong
thực tế, việc thở của chúng ta đã đủ nhân tạo, đủ phi tự nhiên rồi. Nhưng khi
việc hiểu của chúng ta về nó được sâu sắc hơn, chúng ta sẽ thở tăng dần tính tự
nhiên. Và khi việc thở của chúng ta hoàn toàn tự nhiên, khả năng lớn nhất của
cuộc sống chúng ta sẽ bắt đầu hiện thực hoá và hiển lộ bản thân nó từ bên
trong.
Cũng tốt mà biết rằng việc thực hành thở nhân tạo bất thần là
có ích lợi.
Tại đây, một điều nên được hiểu cho rõ ràng: rằng chỗ mà có
được thì cũng có cả mất nữa. Người quản lí cửa hàng được lợi nhuận và bị tổn thất
nữa theo cùng một mức độ. Và người khác đánh bạc cũng là người được và là người
mất theo cùng mức độ. Tỉ lệ được và mất bao giờ cũng như nhau. Cho nên tu sĩ
Sufi này đang nói rằng điều nguy hiểm là can thiệp vào việc thở của người ta.
Nhưng điều đó chỉ là chân lí một nửa. Nó có đầy các khả năng nữa. Nó là việc
đánh bạc.
Cho nên nếu đôi khi chúng ta thở chút ít theo cách thức hoàn
toàn phi tự nhiên - phi tự nhiên theo nghĩa chúng ta chưa bao giờ thở theo cách
này - chúng ta sẽ bắt đầu nhận biết về những trạng thái rất mới, những tình huống
mới bên trong mình. Đây là những tình huống trong đó chúng ta có thể phát
điên, và chúng ta cũng có thể được giải thoát trong những tình huống như vậy.
Chúng ta có thể điên và chúng ta cũng có thể trở nên tự do trong những tình huống
như vậy. Cả hai khả năng đều có đó. Và vì nó có đó nên chúng ta những người tạo
ra những tình huống này trong mình, chúng ta có thể kiểm soát rất tốt và hoàn
tác lại chúng khi chúng ta nghĩ nó là cần thiết. Cho nên không có nguy hiểm.
Nguy hiểm là có thể chỉ nếu chúng ta không thể hoàn tác lại được chúng. Nhưng bởi
vì chúng ta đã đem chúng vào sự hiện hữu, chúng ta có thể chấm dứt chúng ngay
khi chúng ta muốn.
Những tình huống như vậy là trong tay bạn, bởi vì mọi khoảnh
khắc bạn đều biết bạn đang chuyển đi đâu, liệu bạn có đang di chuyển tới phúc lạc
hay bạn đang di chuyển tới khổ, liệu bạn đang di chuyển tới an bình hay tới
nguy hiểm. Tại mọi bước bạn đều biết rõ ràng điều gì đang xảy ra. Cho nên không
có nguy hiểm về bất cứ cái gì.
Và nếu hình mẫu của việc thở bị thay đổi rất bất thần và mạnh
mẽ, thế thì toàn thể trạng thái bên trong của bạn trải qua thay đổi hoàn toàn.
Chúng ta không bao giờ có thể biết, theo cách thở quen thuộc của mình, rằng
chúng ta tách rời khỏi thân thể. Thói quen đã trở thành ăn sâu trong chúng ta
đã bắc cầu qua hai điều này; nó có tác dụng như chiếc cầu bắc giữa thân thể và
tâm trí, và chúng ta đã trở nên quen thuộc với việc là một của chúng.
Điều đó cũng giống như bạn về nhà mọi ngày, và mọi ngày khi bạn
về tới nhà bạn tự động quay xe và thấy mình đứng trên hành lang. Bạn không phải
nghĩ về nó - chẳng bao giờ. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu một tối khi bạn quay xe
sang trái như bạn vẫn thường làm mọi ngày, chiếc xe quay sang phải, và con đường
quen thuộc của bạn biến mất, và thay vào đó là một con đường hoàn toàn khác xuất
hiện trong tầm nhìn? Bạn bỗng nhiên đâm ra phân vân và hoang mang và thấy mình ở
trong trạng thái tâm trí rất kì lạ và không thể tin nổi. Lần đầu tiên bạn sẽ trở
nên hoàn toàn nhận biết.
Sự kì lạ của một việc lập tức làm rung chuyển bạn ra khỏi lối
mòn của vô thức; nó đặt dấu chấm hết cho giấc ngủ tâm lí của bạn. Vô thức của bạn
có thể chẳng bao giờ chấm dứt trong một thế giới được tổ chức và ổn định tốt,
và nơi mà mọi thứ cứ tự lặp lại nó một cách máy móc mọi ngày. Vô thức của bạn cứ
diễn ra khi điều gì đó bất ngờ, kì lạ và đáng ngạc nhiên xảy ra, và xảy ra một
cách bất thần.
Chẳng hạn, tôi đang nói với các bạn ở đây. Điều này sẽ không
đem bạn ra khỏi trạng thái vô ý thức. Nhưng nếu bỗng nhiên cái bàn này bắt đầu
nói, thì không người nào có thể vẫn còn vô ý thức ở đây được. Bạn sẽ không thể
vẫn còn vô ý thức được nếu cái bàn này bắt đầu nói. Ngay cả một nghìn lời của
tôi cũng không đủ; bạn sẽ nghe chúng một cách vô ý thức. Nhưng một lời từ cái
bàn này và tất cả các bạn sẽ đạt tới trạng thái nhận biết mà các bạn chưa bao
giờ biết trước đây. Tại sao? Bởi vì nó kì lạ, nó kì quái, nó ra ngoài con đường.
Chính cái kì lạ này làm đảo lộn trạng thái bên trong của bạn và phá vỡ những
hình mẫu hành vi đã được thiết lập.
Cho nên khi các kinh nghiệm về việc thở đẩy bạn vào một tình
huống rất kì lạ, thế thì những khả năng mới của sự phát triển tâm linh mở ra
trước bạn; bạn đạt tới nhận biết, và thế rồi bạn thực sự thấy điều gì đó.
Và nếu ai đó có thể phát điên một cách có ý thức, điều đó sẽ
là kinh nghiệm lớn; không kinh nghiệm nào khác có thể lớn hơn thế này. Nhưng
người đó phải điên và vậy mà vẫn còn nhận biết. Trong thiền động tôi phát minh
ra, một không gian như vậy có thể được tạo ra, nơi bạn vẫn còn tràn đầy nhận biết
bên trong, và bạn cứ phát điên hoàn toàn bên ngoài. Bạn phát điên đến mức nếu
ai đó khác mà ở vào chỗ bạn thì bạn sẽ không ngần ngại gọi người đó là điên.
Cho nên bạn rất có thể gọi bản thân mình là điên. Nhưng đồng thời bạn nhận biết
và quan sát rằng mình đang múa may và quay tròn. Cho nên cả hai điều xảy ra đồng
thời: nhận biết của bạn và phát điên của bạn.
Nhưng vì bạn nhận biết, làm sao bạn có thể thực sự phát điên
được? Vậy mà điều đang xảy ra cho bạn hệt như với người điên. Chính trong tình
huống như vậy mà một cảm giác về sự kì lạ hoàn toàn tràn ngập bạn, và bạn tách
bản thân mình khỏi thân thể. Không phải là bạn làm điều đó, sự tách bạch xảy ra
theo cách riêng của nó. Bạn bỗng nhiên thấy rằng tất cả mọi mối nối, tất cả mọi
trao đổi giữa bạn và thân thể đã gãy ra, rằng tất cả mọi cây cầu đã gãy, và mọi
điều chỉnh đã sụp đổ. Bạn thấy rằng mọi thứ liên quan đã trở thành không liên
quan; sự thích hợp hàng ngày của mọi thứ tất cả đều bị mất đi. Mọi thứ đang xảy
ra theo cách riêng của chúng. Tay bạn đang di chuyển mà không có ý muốn của bạn
để di chuyển chúng. Mắt bạn trào nước mắt mà không có việc muốn khóc của bạn. Bạn
muốn dừng tiếng cười, nhưng nó cứ tiếp tục mặc bạn.
Việc tạo ra khoảnh khắc của sự kì lạ như vậy là rất quan trọng
cho nhận biết. Và chúng được tạo ra nhanh chóng thông qua việc thở hơn là thông
qua bất kì cái gì khác. Nơi các kĩ thuật khác cần tới hàng năm, việc thở sẽ làm
điều đó trong mười phút. Điều này là vì việc thở được gắn sâu sắc với bản thể
chúng ta đến mức ngay cả một cú chạm khẽ vào nó cũng làm vang động toàn bộ bản
thể chúng ta.
Chúng ta đã có những kĩ thuật rất có giá trị về việc thở,
nhưng tôi không đánh giá cao pranayam hay bất kì cách thở có phương pháp nào. Bởi
vì ngay khi bạn hệ thống hoá việc thở, nó mất đi khả năng tạo ra tình huống của
sự kì lạ cho bạn. Khi một người thực hành việc thở theo phương pháp - hít vào bằng
lỗ mũi này, giữ nó lại một chốc và thế rồi thở nó ra bằng lỗ mũi kia - điều đó
trở thành mang tính phương pháp, nó trở thành một phần của thói quen người đó.
Và nó là việc thở theo thói quen, nó là việc thở có huấn luyện mà đến lượt nó,
lại bắc cầu cho bạn với thân thể.
Việc thở mà tôi dạy đây tuyệt đối là không phương pháp; nó
không có qui tắc nào; nó là ngớ ngẩn. Nó không phải là vấn đề thở ra, thở vào
và giữ lại hơi thở theo cách thức có phương pháp. Nó là cách tạo ra cảm giác kì
lạ trong bạn - để đặt bạn ra ngoài cơ cấu, đặt bạn vào trong sự lẫn lộn và hỗn
loạn hoàn toàn đến mức bạn không thể đưa nó lại về trật tự. Nếu bạn tạo ra một
trật tự trong cái mất trật tự này, tâm trí bạn - cái tinh ranh thế - sẽ chẳng mấy
chốc chấp nhận nó và tự điều chỉnh mình theo nó. Việc thở theo bất kì cách thức
có phương pháp nào cũng sẽ biến thành hệ thống. Nhưng nó sẽ mất đi tất cả mọi
điều kì lạ về nó.
Điều tôi muốn là ở chỗ một khoảnh khắc phải tới khi tất cả mọi
gốc rễ của bạn, tất cả mọi liên kết của bạn bị bẻ gãy trong một nhát quét. Một
ngày phải tới khi bạn bỗng nhiên thấy rằng bạn không có gốc rễ, không danh
tính, không liên kết với bất kì cái gì; rằng bạn không có cha mẹ, không anh chị
em, rằng bạn thậm chí không có thân thể cho mình. Tôi muốn các bạn hiện hữu
trong trạng thái ngớ ngẩn đó nơi người ta dường như mất trí.
Nhớ rằng nếu các bạn đi vào trong trạng thái vô nhận biết và
không có nỗ lực của mình, các bạn sẽ thực sự phát điên. Nhưng nếu các bạn đạt tới
nó qua nỗ lực của mình với nhận biết, các bạn không thể phát điên được. Bởi vì
thế thì nó sẽ trong tay các bạn, và các bạn có thể theo dõi nó từ bất kì khoảnh
khắc nào.
Theo cách nhìn của tôi, nếu một người bị chứng rối loạn tinh
thần mà được khuyên tập thiền động, có mọi khả năng khôi phục được sự lành mạnh
và mạnh khoẻ cho người đó. Bởi vì một khi người đó thấy rằng mất trí là điều bản
thân người đó tạo ra, người đó cũng sẽ biết cách mình có thể chữa nó. Trong quá
khứ, mất trí đã tự nó nắm bắt người đó; người đó không nắm nó trong tay. Việc
thiền này sẽ chỉ ra cho người đó cách người đó có thể nắm trong tay việc tạo ra
nó và thế rồi gạt bỏ nó. Tất nhiên, kĩ thuật này có rủi ro của nó - nhưng rủi
ro này xứng đáng nhận lấy; nó tràn đầy các khả năng. Cho nên một người có thể
được chữa khỏi chứng mất trí thông qua thiền động. Nó có thể được dùng để trị
liệu các ốm yếu tinh thần một cách có kết quả.
Với người bình thường khi tập cách thiền này, có thể nói có bảo
đảm rằng người đó sẽ không bao giờ thành con mồi cho mất trí - bởi vì bây giờ
người đó tự mình biết mất trí được tạo ra như thế nào. Cho nên người đó rất có
thể tắt đi điều người đó đã bật lên. Bây giờ sẽ không thể nào làm người đó
thành điên được, bởi vì bây giờ người đó bao giờ cũng sẽ còn là người chủ riêng
của mình. Bây giờ người đó biết bí mật của mất trí và lành mạnh.
Việc thở mà tôi đang nói tới đây là không theo nhịp điệu và
không phương pháp. Các bạn không thể lặp lại nó ngày hôm nay theo cách các bạn
đã làm nó ngày hôm qua, bởi vì nó không có bất kì phương pháp nào. Không chỉ bạn
không thể lặp lại việc trình diễn của mình ngày hôm qua - thậm chí hôm nay bạn
cũng không thể chấm dứt nó theo cách bạn sẽ bắt đầu. Nó sẽ là điều nó sẽ là.
Và ý định duy nhất của nó là để thấy rằng những ước định của
tâm trí bạn, những thói quen của nó, những hình mẫu đã thiết lập của nó đều
bị chùng ra. Ông tu sĩ Sufi kia là phải khi nói rằng những chi tiết cần thiết của
cấu trúc thể chất và tinh thần của bạn sẽ bị chùng ra; thực tế chúng phải bị
làm chùng ra. Tại khoảnh khắc này, cấu trúc này - với những ước định của nó, những
hình mẫu và thói quen đã được thiết lập - vẫn còn chặt tới mức bởi vì nó, việc
tách linh hồn ra khỏi thân thể là không thể được. Chỉ khi nó hoàn toàn bị làm
chùng lại bạn mới biết rằng có cái gì đó còn hơn nữa bên trong bạn, cái được nối
với thân thể và đã không bị tách ra.
Nhưng kể từ khi việc làm chùng này xảy ra qua việc thở, chính
là qua một loại thở đặc biệt mà nó trở thành chặt lại; các bạn không phải làm
gì để thắt chặt nó. Không cần phải làm cái gì đó để điều chỉnh nó; tự nó điều
chỉnh rồi. Tất nhiên, nếu việc thở làm phát sinh ra một loại mất trí nào đó bên
trong bạn mà lọt ra ngoài sự kiểm soát của bạn - nếu nó trở thành sự ám ảnh và
liên tục cho phần còn lại của ngày - thế thì nó thực sự sẽ là điều xấu.
Nhưng nếu ai đó làm nó chỉ trong một giờ và thế rồi bỏ nó, thế
thì mọi thứ rơi trở lại vị trí riêng của nó. Sau đó chỉ kí ức về kinh nghiệm
này là còn lại với bạn. Bạn sẽ nhớ cách bạn đã trở thành tách rời khỏi thân thể,
và cách bạn đã được nối liền với nó theo cách thức có trật tự. Nhưng bây giờ bạn
biết, thậm chí sau khi được nối với thân thể, rằng bạn là tách biệt. Bạn biết rằng
bạn là tách biệt mặc cho việc thống nhất trở lại với thân thể sau khi việc thiền
đã hết.
Do đó, cách thở này là không thể thiếu được; chúng ta không
thể thực hành mà thiếu nó.
Cho nên ông tu sĩ Sufi kia là phải khi nói rằng việc can thiệp
vào việc thở là nguy hiểm. Nó có nguy hiểm của nó, quả vậy. Nhưng nếu chúng ta
đang tìm kiếm một cuộc sống dư thừa, thì chúng ta phải được chuẩn bị để đối diện
với nguy hiểm lớn như mục đích của chúng ta. Nhưng có nguy hiểm và có nguy hiểm.
Có nguy hiểm bất chợt đương đầu với chúng ta theo cách riêng của nó, và chúng
ta không thể thoát khỏi nó được. Và có nguy hiểm chúng ta mời tới và tạo ra, và
điều đó chúng ta có thể thu được vào bất kì lúc nào chúng ta muốn.
Chẳng hạn, trong quá trình thiền này các bạn trải qua đủ mọi
loại chuyển động và hành động. Ai đó la hét, ai đó khác đang nhảy múa và ca
hát. Nhưng nếu họ được yêu cầu dừng mọi thứ lại, họ có thể làm như vậy ngay lập
tức. Họ sẽ dừng lại, bởi vì mọi thứ đều là việc làm riêng của họ - đây là một
điều. Và điều đó hoàn toàn khác nếu những việc như khóc lóc và nhảy múa xảy ra
cho bạn một cách không cố ý, không có sự hợp tác của bạn. Một người điên đang
nhảy múa trên đường; việc nhảy múa của người đó là bị cưỡng bách. Người đó
không biết điều gì về việc đó cả, cho nên người đó không thể làm gì để dừng lại
việc đó.
Hiểu biết của tôi là ở chỗ chẳng chóng thì chầy, việc thiền
này mà tôi đang trao cho các bạn sẽ là cách trị liệu có ý nghĩa lớn, và điều tất
yếu là nó sẽ trở thành một cách điều trị bệnh tinh thần và phục hồi sức khoẻ
cho họ. Và nếu có thể, mọi đứa trẻ đến trường cũng trải qua việc thiền này, thì
nó sẽ được cứu khỏi bị mất trí trong cả đời mình. Nó sẽ không bao giờ phát
điên; nó sẽ được miễn nhiễm khỏi bệnh này, bởi vì thế thì nó sẽ là người chủ
riêng của mình, người chủ của tâm trí thân thể mình.
Ông tu sĩ Sufi này, mà với ông ấy Gurdjieff đã có cuộc thảo
luận về việc thở, là một lữ khách trên một con đường khác. Ông ấy chưa bao giờ
thực hành việc thở, và ông ấy đã kinh nghiệm tình huống của sự kì lạ qua cách
khác nào đó. Và đây là rắc rối - rắc rối là ở chỗ người biết này về một con đường
mất thời gian trong việc gọi các con đường khác là sai. Nhưng một điều là đúng
hay sai đều trong hoàn cảnh của một con đường đặc biệt. Điều là sai với con đường
này có thể hoàn toàn đúng cho con đường khác.
Chẳng hạn, có cái chốt trong bánh của chiếc xe bò kéo. Bây giờ
một người với chiếc xe máy có thể nói rằng chiếc chốt này hoàn toàn vô dụng. Nó
có thể vô dụng trong hoàn cảnh của chiếc xe máy, nhưng nó hữu dụng cho chiếc xe
bò như bất kì phần nào của chiếc xe có thể hữu dụng cho chiếc xe bò này. Cho
nên chẳng có gì sai hay đúng tuyệt đối cả; mọi thứ đều tương đối.
Nhưng sai lầm này bao giờ cũng được lặp lại. Ông tu sĩ Sufi
này đã đạt tới thông qua con đường khác, con đường có những kĩ thuật khác. Người
Sufi nói chung làm trong giấc ngủ của mình, và không làm theo việc thở. Với ông
ấy, việc thức đêm có ý nghĩa lớn lao. Ông ấy sẽ giữ cho mình thức hàng tháng;
và một tình huống kì lạ có thể nảy sinh từ việc thức lâu dài và thường xuyên,
như nó nảy sinh từ việc thở nhanh và mạnh. Nếu bạn có thể đi và không ngủ cả
tháng tròn thì bạn sẽ đi vào cùng một trạng thái của điên khùng, tới qua việc
thở sâu và hỗn loạn.
Bởi vì ngủ là hiện tượng rất tự nhiên - nó cũng tự nhiên như
thở vậy - nên người Sufi làm việc công kích trực diện vào giấc ngủ, và do vậy
trải qua những kinh nghiệm rất kì lạ và kì quái.
Nhưng thức đêm có nguy hiểm riêng của nó, và chúng còn lớn
hơn những nguy hiểm cố hữu trong thở hỗn loạn. Đây là quá trình dài và kéo dài:
bạn phải giữ cho mình thức hàng tháng trời - thức đêm một hay hai ngày là vô dụng.
Và nếu điều gì đó đi sai sau khi bạn giữ thức đêm trong hai tháng, cái sai đó
không thể chữa lại trong một hay hai giây. Nhưng cái sai nảy sinh sau mười phút
thở có thể chữa lại trong một giây. Nếu bạn đi vào giấc ngủ sau hai tháng thức
thường xuyên, bạn không thể bù lại mất mát trong hai mươi bốn giờ. Có thể, bạn
sẽ thậm chí không có khả năng ngủ sau hai tháng thức đêm.
Con đường của người Sufi còn nguy hiểm hơn, mặc dầu thức đêm
là rất hữu dụng. Người tìm kiếm cứ thức hết đêm nọ tới đêm kia và chờ đợi một
cách kiên nhẫn. Ông tu sĩ Sufi này, người đã gặp Gurdjieff, đã đi theo con đường
này.
Người Sufi cũng dùng nhảy múa làm phương cách. Nhảy múa cũng
có thể là phương tiện để đem tới việc tách thân thể và linh hồn, nhưng nhảy múa
phải là điều không được học và thực hành và chuẩn bị. Nếu bạn nhảy múa theo
cách đã được thực hành, nó sẽ không có tác dụng. Như tôi đã nói, rằng việc thở
theo cách của pranayam không thể đem tới tách rời thân thể và linh hồn - bởi vì
pranayam là phương pháp luận - một cách tương tự, nếu ai đó lặp lại điệu vũ đã
được chuẩn bị, người đó chẳng mấy chốc sẽ đồng nhất bản thân mình với thân thể.
Nhưng nếu tôi bảo một người trong các bạn ở đây, người không biết nhảy múa rằng
người đó nên nhảy múa, và người đó bỗng nhiên bắt đầu nhảy múa và nhảy nhót,
người đó có thể làm được điều đó. Đây là điều kì lạ đến mức bạn không thể đồng
nhất bản thân mình với nó được, bạn không thể biết rằng bạn đang nhảy múa.
Cho nên có hai phương pháp mà người Sufis dùng: thức đêm và
nhảy múa. Một số phương pháp khác cũng đã được sử dụng. Chẳng hạn, người Sufis
dùng len làm áo quần của họ. Họ mặc quần áo len trong khí hậu nóng bức điển
hình của sa mạc - đó là cách họ chống lại thân thể. Ai đó nhịn ăn cũng là chống
lại thân thể. Ai đó ngồi với một chân đặt lên đinh nhọn, và người khác ngủ trên
giường gai. Tất cả những điều này đềy là những phương cách để tạo ra tình huống
tâm lí kì lạ nơi sự tách biệt có thể xảy ra.
Tuy nhiên điều tự nhiên là người hành hương của một con đường
đặc biệt không thể nghĩ được rằng cùng tình huống này có thể được tạo ra bởi
các phương cách khác nữa. Ông tu sĩ của Gurdjieff chẳng biết gì về pranayam. Và
ông ấy sẽ tự làm hại mình nếu ông ấy thực hành điều gì đó giống nó; nó sẽ thực
sự gây hại cho ông ấy. Trong trường hợp của ông ấy, cái hại có thể là đau khổ.
Điều đó cũng giống như dùng bánh xe bò kéo thế vào cho xe máy - điều đó sẽ là
nguy hiểm. Bây giờ nếu một người thức đêm mà thực hành pranayam, người đó nhất
định phát điên ngay lập tức, tẩu hoả nhập ma. Người đó sẽ đi ra ngoài tâm trí
mình ngay trong đêm. Và có những lí do chính đáng cho điều đó.
Con người của bạn không thể chịu đựng được tác động tổ hợp của
hai bài tập - thức đêm và pranayam. Đó là lí do tại sao người Jaina đã không
dùng pranayam, bởi vì họ đã tạo ra cái kì lạ đó qua việc nhịn ăn. Nếu họ tổ hợp
việc nhịn ăn với pranayam, họ sẽ trong rắc rối sâu sắc - nguy hiểm này thực sự
là lớn. Pranayam không hữu dụng theo bất kì cái gì đối với người Jaina; sư
Jaina sẽ nói rằng nó tất cả đều vô dụng. Nhưng ông ấy không biết rằng bằng việc
phủ nhận pranayam ông ấy chỉ muốn nói rằng nó không có chỗ trong loại kỉ luật
tâm linh của ông ấy. Nhịn ăn làm cho ông ấy điều pranayam làm cho người khác.
Chính bởi lí do này mà người Jaina đã không quan tâm tới
asanas của yoga và phần còn lại của nó, bởi vì chúng có thể gây hại trầm trọng
cho người đang trải qua việc nhịn ăn dài ngày. Những người tới với asanas yoga
đều cần thức ăn rất nhẹ và béo như sữa, bơ và ghee, đem lại thoả mãn sâu sắc.
Việc nhịn ăn đi ngược lại điều đó.
Nhịn ăn làm cho bạn khô đi và cằn cỗi từ bên trong. Nhịn ăn
kích thích cơn đói của bạn, và nó sẽ làm hỏng việc thực hiện asanas trong trạng
thái đói cồn cào. Ngọn lửa của cơn đói có thể dâng lên não bạn và bạn có thể
phát điên. Cho nên sư Jaina sẽ bảo bạn rằng yogasanas chẳng có gì bản chất về
chúng cả, chúng vô giá trị.
Nhưng với con đường dùng chúng, các asanas yoga này có giá trị
mênh mông. Được thực hiện với đúng loại đồ ăn kiêng, chúng có thể có tác dụng
đáng ngạc nhiên. Điều cần thiết là thân thể ở trong trạng thái mềm mại và uyển
chuyển, dường như nó được tra dầu mỡ tốt - do đó mới có tầm quan trọng của thức
ăn nhẹ và béo - bởi vì từng xương và gân và thần kinh đều sẽ phải trải qua thao
tác và biến đổi lớn lao. Thân thể sẽ vỡ ra nếu nó không đủ mềm mại và uyển chuyển.
Nó phải linh hoạt và uyển chuyển vượt trội.
Bây giờ những asanas yoga này không là gì ngoài những tư thế
hay cử chỉ thân thể kì lạ mà chúng ta thường không chấp nhận. Và chúng ta chẳng
có ý tưởng gì về cách tất cả các tư thế thân thể chúng được nối mật thiết với
tâm trí chúng ta.
Khi một người lo âu và lo nghĩ, người đó bắt đầu gãi đầu. Người
ta có thể hỏi tại sao người đó gãi đầu - cái gì có đó có liên quan tới lo âu của
người đó? Nhưng nếu bạn ngăn cản người đó không cho làm như vậy, bạn sẽ thấy rằng
người đó không thể lo nghĩ được. Để ở trong trạng thái lo nghĩ, người đó sẽ bắt
buộc phải đưa tay lên đầu. Và nếu bạn kìm người đó không cho làm như vậy, người
đó sẽ thấy khó mà lo nghĩ được. Mọi lo âu đều có những liên kết thể chất cần
thiết nào đó với nó; điều cần thiết là các cơ của tay bạn phải ở vào một tư thế
đặc biệt trong mối quan hệ với thần kinh của bạn. Lo âu của người đó có thể được
kích hoạt chỉ khi thân thể người đó lấy tư thế được yêu cầu.
Tất cả các asanas yoga và ấn mudras đều tuân theo những hình
mẫu của các trạng thái khác nhau của tâm trí chúng ta. Và chúng là kết quả của
vô số thực nghiệm và kinh nghiệm.
Như tôi đã nói với các bạn sáng nay, asanas và mudras, tư thế
và điệu bộ thân thể, tự chúng được tạo nên trong quá trình thiền mà các bạn
đang làm ở đây. Sau hàng nghìn thực nghiệm người ta đã tìm ra loại mudra (ấn)
nào được hình thành trong trạng thái đặc biệt của tâm trí. Thế rồi quá trình
ngược lại cũng có thể được soạn thảo ra, theo đó bạn có thể đạt tới một trạng
thái đặc biệt của tâm trí bằng việc thực hiện ấn tương ứng với nó.
Chẳng hạn, Phật ngồi theo một cách đặc biệt; và nếu bạn có thể
ngồi theo cách đó, sẽ dễ dàng hơn cho bạn đạt tới trạng thái tâm trí mà Phật
có, bởi vì mọi trạng thái của tâm trí đều có gắn với một tư thế tương ứng của
thân thể. Nếu bạn có thể bước đi như Phật bước, nếu bạn có thể ngồi như Phật ngồi,
nếu bạn có thể thở như Phật thở, sẽ dễ dàng hơn cho bạn để đạt tới trạng thái
tâm trí của ông ấy. Hay đảo lại, nếu bạn có thể đạt tới trạng thái tâm trí của
Phật, bạn sẽ thấy sự tương tự rất lớn giữa cách thức của bạn và cách thức của
Phật trong bước đi và ngồi.
Cả hai điều này đi song song với nhau.
Bây giờ những người như Gurdjieff - người theo một nghĩa nào
đó là người đã bật gốc rễ - không thể biết điều đó được, bởi vì họ đã không có
truyền thống nào đằng sau mình, quay lại hàng nghìn năm. Hơn nữa, Gurdjieff
trong quá trình đi lang thang của mình đã gặp gần hai chục tá các nhà huyền môn
thuộc vào các trường phái khác nhau. Và chính từ những nguồn đa dạng như vậy mà
ông ấy đã thu thập được nhận biết của mình. Nhận biết của ông ấy bao gồm một số
phần thuộc vào một số công cụ tâm linh - mỗi một trong chúng đều hoàn toàn khác
nhau.
Những phần này là đúng ở chỗ riêng của chúng, nhưng khi tất cả
chúng đều được trộn lộn xộn với nhau thì chúng tạo ra một sự sắp xếp rất kì lạ.
Đó là lí do tại sao đôi khi một kĩ thuật của Gurdjieff có tác dụng trên ai đó,
nhưng nó chẳng bao giờ có tác dụng đầy đủ cho bất kì ai. Do đó, không một người
nào trong những người đã làm việc với Gurdjieff có thể đạt tới sự hoàn thành đầy
đủ. Điều đó đơn giản là không thể được, bởi vì khi ai đó bắt đầu làm việc với
Gurdjieff và cái gì đó bật ra, người đó trở nên quan tâm tới công việc này và
đi vào con đường, cái là một mớ pha trộn các con đường đa dạng. Cho nên, chẳng
mấy chốc các kĩ thuật khác bắt đầu vận hành lên người đó theo cách thức đảo ngược
lại. Điều này là vậy bởi vì Gurdjieff không có hệ thống kỉ luật tâm linh đầy đủ.
Người ta phải nói rằng đó là đa hệ, và đồng thời không đầy đủ. Nhiều mối nối cần
thiết đang bị thiếu, ngay cả trong dây chuyền này của một đa hệ thống.
Phần lớn thông tin của Gurdjieff đã được thu thập từ người
Sufi. Ông ấy không có tri thức về yoga Tây Tạng, và khi có liên quan tới hatha
yoga, thì điều đó là không thích hợp. Bên cạnh đó, tất cả mọi thông tin của ông
ấy về hatha yoga đều tới từ những địch thủ của kỉ luật này, nó tới từ các tu sĩ
Sufi. Gurdjieff không phải là người tinh thông về hatha yoga. Tất cả mọi tri thức
của ông ấy về yoga hay kundalini đều được suy ra từ các nguồn thù địch, hay từ
những người đã là lữ khách của những con đường đối lập.
Cho nên điều Gurdjieff nói về cơ sở của thông tin này là
không nhất quán theo nhiều cách. Chẳng hạn, cái nhìn của ông ấy về kundalini
hoàn toàn ngớ ngẩn. Ông ấy không biết gì về nó cả. Ông ấy cứ gọi nó là "bộ
đệm kunda." Bộ đệm này không phải là thuật ngữ khéo chọn. Ông ấy ngụ ý nói
rằng chính bởi vì kundalini mà bạn không đạt tới tri thức; nó có tác dụng như bộ
đệm, như rào chắn giữa bạn và điều tối thượng. Cho nên cần phải siêu việt lên
trên nó bằng việc phá huỷ nó. Theo Gurdjieff không cần phải đánh thức kundalini
chút nào. Bây giờ ông ấy không biết mình đang nói gì.
Tất nhiên có bộ đệm giống như những thứ trong cá tính chúng
ta, và chính bởi vì chúng mà chúng ta có thể chịu nhiều loại sốc trong cuộc sống.
Nhưng kundalini không phải là bộ đệm. Kundalini là bản thân cú sốc, nhưng
Gurdjieff không có tri thức gì về nó cả. Nó là cú sốc lớn nhất có thể có. Khi
kundalini dâng lên, nó đi tới bạn như cú sốc mạnh mẽ nhất. Tất nhiên, có những
bộ đệm trong hệ thống của bạn, nhưng chúng là điều khác; chúng có tác dụng như
bộ hấp thu sốc. Và điều cần thiết là những bộ đệm này bị phá huỷ đi. Nhưng
Gurdjieff coi bản thân kundalini là bộ đệm, bởi vì ông ấy chẳng biết gì về nó cả.
Trong thực tế, ông ấy không có kinh nghiệm về kundalini, bởi vì ông ấy đã không
có cơ hội biết nó từ những người tinh thông kundalini yoga. Đó là lí do tại sao
nhiều lần những điều không thích hợp xảy ra.
Những người như Gurdjieff và Krishnamurti đã là nạn nhân của
những sự không thích hợp như vậy. Sự không thích hợp là ở chỗ họ đã không thể
có tri thức có hệ thống về những bí mật nằm đằng sau các thuật ngữ và năng lượng
như kundalini. Trong thực tế, tri thức như vậy là rất khó thu được. Nó đơn giản
không có thể có trong một kiếp sống. Nó xảy ra chỉ trong trường hợp một số hiếm
hoi các cá nhân, những người học và trưởng thành giữa hàng tá trường phái trong
quá trình hàng tá kiếp sống; bằng không thì điều đó là không thể được. Nếu ai
đó trưởng thành giữa hàng tá trường phái - điều hiển nhiên phải mất hàng tá kiếp
sống - chỉ thế thì mới có khả năng là trong kiếp sống cuối cùng của mình người đó
sẽ tìm thấy sự tổng hợp giữa những kỉ luật tâm linh đa dạng. Bằng không thì
không thể tìm ra được sự tổng hợp.
Điều thông thường là ở chỗ một người đạt tới chỗ cao nhất
thông qua một trường phái, và thế rồi người đó không cần lấy việc sinh thành
khác nữa. Mục đích của người đó được đạt tới, cuộc sống của người đó được hoàn
thành. Do đó sự tổng hợp không xảy ra. Về sau, tôi đã nghĩ rằng sự tổng hợp giữa
các kỉ luật tâm linh đa dạng của toàn thế giới là điều có thể, và đó là cái gì
đó đáng làm. Tất cả các kỉ luật đều phải được tiếp cận tới từ các đầu khác nhau
và thế rồi được gắn lại. Mọi nơi điều tối thượng xảy ra đều như nhau; chỉ
phương pháp là khác.
Bây giờ một Thiền sư ném người tìm kiếm qua cửa sổ. Điều này
chỉ tạo ra một không gian của điều kì lạ trong người tìm kiếm chứ không gì
khác. Nhưng Thiền sư sẽ nói rằng không có nhu cầu về pranayam và rằng bhastrika
này là pranayam - thấp dưới như việc thở - là vô dụng. Có lí do cho ông ấy nói
như vậy. Người ta có thể hỏi rằng liệu bhastrika không thể làm được điều đó
sao. Làm sao việc ném một người qua cửa sổ có thể có tác dụng được? Nếu bạn đi
và bảo Phật hay Mahavira rằng ai đó đạt tới hiểu biết sau khi bị ném qua cửa sổ,
các ông ấy sẽ nói bạn điên. Mọi ngày mọi người vẫn ngã xuống từ mái nhà hay từ
ngọn cây và chẳng người nào trong số họ đạt tới hiểu biết cả.
Nhưng ngã là một điều và bị ném ra là điều hoàn toàn khác.
Ngã từ mái nhà cũng giống như ai đó phát điên; nhưng khi vài người nâng thân thể
một người lên và ném người đó ra khỏi cửa sổ, và người đó biết rằng mình bị ném
ra, thế thì người đó sẽ nhanh chóng trải qua kinh nghiệm về sự kì lạ về toàn bộ
vấn đề. Người đó mọi lúc đều nhận biết và tự hỏi về toàn bộ tình huống khi người
đó bị ném ra, và khi người đó ngã ra trên đất. Và đó là khoảnh khắc mà người đó
trở nên tách rời khỏi thân thể.
Một Thiền sư khác lấy cây thiền trượng của mình và đánh vào đầu
người tìm kiếm. Điều này cũng kì lạ. Người tìm kiếm này đã đi tới ông ấy để làm
an bình tâm trí, còn thầy đánh người đó bằng chiếc thiền trượng của mình. Điều
này bỗng nhiên tạo ra một khoảnh khắc của sự kì lạ cho người tìm kiếm. Nhưng nó
sẽ không như vậy ở Ấn Độ. Nếu bạn đánh ai đó ở đây, người đó sẽ đánh lại bạn;
người đó sẽ sẵn sàng cho việc đánh lại. Điều đó sẽ chỉ xảy ra ở Nhật Bản, bởi
vì thực tế này đã tìm thấy chỗ cho mình ở nước đó. Mọi người đều nhận biết rằng
các Thiền sư có thể làm điều gì đó vĩ đại qua việc đánh người tìm kiếm.
Nếu bạn đi tới một thánh nhân và lập tức khi thấy bạn ông ấy
bắt đầu xúc phạm mẹ và chị bạn bằng lời thô tục, ông ấy sẽ thành công tạo ra một
tình huống hoàn toàn kì lạ cho bạn. Bạn tới ông ấy trong tin rằng ông ấy là người
biết chân lí, và ông ấy ném lời thô tục vào bạn! Tương phản làm sao! Nhưng điều
này là được chỉ nếu bạn có nhận biết nào đó về nó; bằng không bạn sẽ gặp khó
khăn. Bạn có thể cho rằng mình đã tới lầm người và bạn sẽ không tới gặp ông ấy
nữa.
Nhưng trong một số trường phái, ngay cả quở trách và lời chửi
rủa đã được dùng để tạo ra sự kì lạ. Có một fakir ở một làng nhỏ tên là
Saikheda ở gần Gadarwara. Các bạn có thể chẳng bao giờ biết ông ấy sẽ đón nhận
bạn thế nào khi bạn tới ông ấy. Ông ấy có thể dùng lời thô tục với bạn, và ông ấy
có thể làm bất cứ cái gì kì quái và điên khùng. Có thể ông ấy sẽ đứng dậy trong
sự hiện diện của khách thăm của mình và bắt đầu đái. Bạn sẽ hoàn toàn bị sốc.
Điều đó tạo ra cái được gọi là không gian của điều kì lạ trong bạn.
Ngoài điều đó, ông ấy thậm chí còn định đánh bạn về mặt thể
chất. Và trong cố gắng đánh bạn, ông ấy có thể rượt đuổi bạn hàng dặm đường.
Nhưng những người hiểu ông ấy được lợi nhiều chỉ bằng việc tới thăm ông ấy. Những
người không hiểu, họ xua đuổi ông ấy như người điên. Mà ông ấy chẳng liên quan
gì tới những người không hiểu ông ấy. Nhưng ông ấy chắc chắn có ích cho những
người muốn hiểu ông ấy. Bây giờ người mà ông ấy đuổi theo hàng dặm đường chắc
chắn thấy mình ở trong một không gian rất kì lạ. Cứ thử nghĩ tới tình huống
này: một người bị ông ấy rượt và cả nghìn người đang quan sát cảnh tượng đó. Chắc
chắn một bầu không khí kì lạ được tạo ra.
Điều này có thể được làm bằng nhiều trường phái, kĩ thuật và
hệ thống khác. Nhưng khó khăn là ở chỗ mọi trường phái như vậy không nhận biết
rằng các trường phái khác đang làm cùng điều đó theo cách riêng của họ.
Vậy mà có khó khăn khác trong vấn đề này. Cho dù ai đó biết, như
tôi biết, rằng cùng kết quả có thể được đạt tới bằng các kĩ thuật khác nào đó,
thì người đó sẽ không nói ra điều đó. Khi tôi đang giải thích một hệ thống đặc
biệt, tôi phải trình bày nó là cao nhất; bằng không thì sẽ không có hiệu quả.
Cho dù tôi biết rằng điều này có thể được đạt tới bằng các phương pháp khác nào
đó, tôi sẽ không nói như vậy khi tôi đang nói về một hệ thống đặc biệt. Thế thì
tôi sẽ nói rằng điều này có thể được đạt tới chỉ qua hệ thống này thôi và không
qua cái gì khác. Và có lí do cho việc làm như vậy. Bạn không thông minh tới mức
bạn có thể hiểu nó trong đúng cảnh quan của nó. Nếu tôi nói rằng tất cả các trường
phái đều có thể làm được điều đó, các bạn sẽ bị lẫn lộn. Các bạn sẽ kết luận rằng
chẳng trường phái nào có thể làm được điều đó thực. Bên cạnh đó, tất cả các trường
phái này mâu thuẫn nhau đến mức bạn sẽ bắt đầu tự hỏi làm sao nó có thể thế được.
Lẫn lộn của bạn thậm chí sẽ còn bị lẫn lộn hơn.
Đó là lí do tại sao nhiều lần người trí huệ, những người biết,
phải nói theo ngôn ngữ của người dốt nát. Họ phải quả quyết rằng "Đây là
con đường duy nhất, không có đường nào ngoài con đường này." Bởi lí do này
tôi tự thấy mình gặp khó khăn lớn, vì tôi biết rõ rằng điều đó có thể được đạt
tới.
Chương 12. Kundalini sẽ biến đổi bạn
Người hỏi: Thầy đã nói hôm qua rằng kunda của chúng ta hay bể
năng lượng là không tách rời và khác biệt lẫn nhau; chúng thực sự là một kunda
vũ trụ. Nhưng khi có liên quan tới người tìm kiếm thì năng lượng của người đó sẽ
dâng lên từ kunda của riêng người đó chứ không từ kunda của người khác. Vậy nên
kunda có thực là một không? Xin Thầy giải thích.
Nó giống thế này: Bạn có một cái giếng trong nhà mình và tôi
có cái giếng khác trong nhà tôi. Hiển nhiên, hai cái giếng này dường như tách rời
lẫn nhau. Nhưng dòng nước ngầm mà hai cái giếng này lấy nước ra là một. Và dòng
nước ngầm này, đến lượt nó, được nối với đại dương ở xa.
Nếu bạn đi theo luồng nước là nguồn cho nước giếng của bạn, bạn
sẽ không chỉ bắt gặp chiếc giếng của tôi và tất cả giếng khác, bạn chung cuộc sẽ
bắt gặp bản thân đại dương vĩ đại. Theo cùng cách này, trong hoàn cảnh của
kundalini cá nhân có đó chỉ ở lúc đầu của cuộc hành trình - vì cuộc hành trình
này đi tới việc chấm dứt cá nhân nữa, đi tới sự chấm dứt của người đó. Thế thì
chỉ có cái tất cả, cái toàn thể, cái tuyệt đối, cái một, hay bất kì cái gì bạn
gọi nó.
Cho nên tại điểm bắt đầu của cuộc hành trình này bạn là tách
biệt và tôi là tách biệt, nhưng đến đích, điểm tối thượng, thì không có bạn
không có tôi. Chúng ta chỉ là những mảnh mẩu hay bộ phận vẫn có đó ở đích của
cuộc hành trình.
Cho nên khi kundalini tự biểu lộ bản thân nó trong bạn, ban đầu
nó sẽ dường như thuộc về bạn - cá nhân. Nó sẽ là của bạn. Một cách tự nhiên, bạn
sẽ thấy bản thân mình đứng bên bờ giếng của mình. Nhưng khi kundalini đi lên và
bành trướng, dần dần bạn sẽ thấy rằng giếng của mình được nối với tất cả các giếng
khác nữa. Và kinh nghiệm này càng được làm sâu sắc hơn thì cái giếng cá nhân của
bạn sẽ càng biến mất đi, và tại chỗ của nó đại dương sẽ đi vào hiện hữu. Và
chính trong kinh nghiệm tối thượng này mà bạn sẽ có khả năng nói rằng kunda này
thuộc về tất cả.
Chính theo nghĩa này mà tôi nói rằng kunda là một và phổ dụng;
nó là bể năng lượng vũ trụ.
Đó là cách tất cả chúng ta, như chúng ta hiện thế, dường như
là các cá nhân tách biệt. Hiểu điều đó theo cách khác. Nếu một chiếc lá trên
cây bỗng nhiên trở nên có ý thức và nhận biết, thế thì chiếc lá bên cạnh sẽ dường
như là lá khác. Làm sao nó có thể biết cái lá treo ở cành khác của cây đó là
chính nó? Cứ gạt sang bên chiếc lá trên cành khác đi; nó không thể nghĩ về lá
khác trên cành của nó là chính nó. Có thể chiếc lá này ở xa nó hơn chút ít; thậm
chí lá bên phải nó cũng dường như là lá khác. Nó sẽ là như vậy bởi vì tâm thức
của chiếc lá này là cá nhân.
Nhưng nếu chiếc lá này đi vào trong lãnh thổ riêng của nó, nó
sẽ sớm thấy rằng chiếc lá bên cạnh đang treo trên cùng một thân cây, cũng thân
cây của nó, và rằng chúng cả hai đều nhận được nhựa sống từ cùng cội nguồn. Nếu
chiếc lá này đi sâu hơn nó sẽ biết rằng không chỉ thân cây riêng của nó, ngay cả
thây cây bên cạnh cũng là một phần của cùng một cây và chính sinh lực của chúng
là một và như nhau. Và nếu nó đạt tới chính gốc rễ của cây thì nó sẽ biết rằng
tất cả các cành của nó và tất cả lá của nó đều, giống như bản thân nó, là một
phần của một và cùng một cây đó.
Và nếu chiếc lá này tiếp tục cuộc hành trình của nó và đi vào
trung tâm của bản thân đất - đất mà từ đó cây bên cạnh đã mọc lên - thế thì nó
sẽ nhận biết rằng cùng với cây riêng của nó, tất cả các cây khác đều là con của
cùng một mẹ - mẹ đất. Và trong trường hợp này cuộc phiêu lưu của chiếc lá còn
đi xa hơn, đến cùng nó sẽ khám phá ra rằng chung cuộc toàn thể vũ trụ không là
gì ngoài sự mở rộng riêng của nó, sự phân nhánh riêng của nó. Cho nên chiếc lá
tí hon này chỉ là một đầu của sự tồn tại mênh mông này.
Một chiếc lá là một cá nhân tách biệt khi nó trở thành ý thức
như một phần, và nó sẽ dừng là cá nhân khi nó trở thành ý thức như cái toàn thể.
Việc kinh nghiệm đầu tiên của bạn về đánh thức kundalini sẽ
là kinh nghiệm về atman, hay linh hồn; và việc kinh nghiệm tối thượng của nó sẽ
là kinh nghiệm về paramatman, hay bản thân Thượng đế. Và nếu bạn dừng lại với
chính việc đánh thức đầu tiên và không thăm dò thêm nữa, và nếu bạn dựng hàng
rào quanh chiếc giếng nhận biết của bạn, bạn sẽ trì trệ như atman, như linh hồn.
Đó là cách một số tôn giáo bị mắc kẹt với linh hồn - họ không vượt ra ngoài nó.
Nhưng atman hay linh hồn không phải là kinh nghiệm tối thượng; các tôn giáo này
chỉ bao quát một nửa cuộc hành trình. Nếu bạn đi xa thêm, linh hồn cũng sẽ biến
mất và thế thì chỉ Thượng đế hay cái toàn thể sẽ còn lại.
Và như tôi đã nói trước đây, nếu các bạn phiêu lưu xa thêm
chút ít, ngay cả Thượng đế cũng sẽ biến mất và cái sẽ còn lại cuối cùng sẽ là
niết bàn hay cái trống rỗng. Hay, chúng ta có thể nói rằng cái không sẽ còn lại.
Cho nên những người phiêu lưu lấy một bước ra ngoài Thượng đế đạt tới niết bàn.
Chính họ nói về cái hư không tối thượng hay cái trống rỗng tuyệt đối. Họ nói rằng
chẳng cái gì còn lại ở đó; chung cuộc không có gì cả, hay có bản thân cái
không.
Chân lí là ở chỗ khi các bạn nhận ra tất cả, thì các bạn cũng
nhận ra cái không hay tính không đồng thời. Cái tuyệt đối là cái không nữa.
Chúng ta tiếp cận nó theo cách khác. Cái không và cái toàn thể,
cái không và cái tất cả, cái trống rỗng và cái tuyệt đối là hai cái tên của
cùng một điều. Chúng là đổi lẫn cho nhau được; chúng ngụ ý cùng một điều. Cái
không cũng là cái toàn thể. Cái trống rỗng cũng là cái toàn thể. Cái không cũng
là mọi thứ.
Bạn đã bao giờ thấy một nửa trống rỗng hay một nửa cái không
chưa? Bạn không thể chia cái không ra làm hai nửa được. Bạn không thể chẻ cái
không ra được; nó sẽ không còn là cái không nữa nếu bạn thành công. Bạn có thể
chia hai cho hai; bạn cũng có thể chia một ra làm hai. Nhưng bạn không thể chia
cái không ra được; đó là điều không thể được. Bạn thậm chí không thể vẽ cái
không hay hư không lên một mẩu giấy. Dấu hiệu số không được vẽ trên giấy là biểu
tượng. Ngay khi bạn vẽ nó ra, nó không còn là hư không, bởi vì bạn vẽ vòng tròn
nó, giới hạn nó bằng đường nào đó. Nếu bạn hỏi Euclid, ông ấy sẽ nói rằng cái
không là cái không có chiều dài không có chiều rộng. Không thành vấn đề chuyện
bạn vẽ nó nhỏ đến đâu, ngay cả điểm nhỏ nhất có thể được cũng vẫn sẽ có chút ít
chiều dài và chiều rộng. Cho nên dấu hiệu số không được vẽ trên giấy chỉ là biểu
tượng, nó không thực. Nếu nó có chiều dài và chiều rộng, nó không thể là số
không.
Do đó Upanishads có thể nói rằng nếu bạn khấu trừ hư không từ
hư không, thì hư không vẫn còn lại - điều này có nghĩa là bạn không thể trừ được
cái gì từ nó. Đến cuối bạn sẽ thấy rằng bạn không thể lấy được cái gì từ cái trống
rỗng cả. Tất cả mọi nỗ lực của bạn để đánh cắp từ nó sẽ đều vô hiệu. Bạn không
thể loại bỏ được nó mà cũng không thể lẩn trốn cùng nó. Nó là không thể thu lại
được; nó là không thể di chuyển được; nó bao giờ cũng theo cách tuyệt đối.
Điều đúng trong hoàn cảnh cái không hay hư không cũng đúng
trong hoàn cảnh của cái toàn thể hay cái tuyệt đối. Trong thực tế, bạn không thể
quan niệm nổi về cái toàn thể ngoại trừ bằng cách thức của cái trống rỗng. Cái
toàn thể ngụ ý rằng không cái gì có thể được thêm vào nó, và cái không hay cái
trống rỗng ngụ ý rằng không cái gì có thể được khấu trừ từ nó. Không có cách
nào đi xa hơn từ cái tuyệt đối, và không có khả năng nhúng chìm sâu hơn vào cái
hư không sâu nhất.
Bạn không thể phân chia hoặc cái toàn thể hoặc cái hư không
thành bộ phận; chúng là không phân chia được.
Và cái toàn thể không thể bị giới hạn, bởi vì bất kì cái gì bị
giới hạn thì không thể là cái toàn thể được. Bị giới hạn có nghĩa là cái gì đó
vẫn còn ở ngoài biên giới, và do đó nó không thể có tính toàn thể. Thế thì nó
còn kém hơn cái toàn thể. Nếu biên giới của nhà bạn bắt đầu tại chỗ biên giới của
nhà tôi chấm dứt, điều đó có nghĩa là nhà tôi không phải là cái toàn thể; nếu
nó là cái toàn thể thì nó phải bao gồm cả nhà bạn nữa. Cho nên không thể có giới
hạn cho cái toàn thể; nó là vô giới hạn. Ai có thể giới hạn nó được? Cần có một
hàng xóm, một cơ quan bên ngoài để làm như vậy. Nhưng cái không là ở bên ngoài
cái toàn thể. Cái toàn thể là một mình; nó không có hàng xóm bất kì loại gì.
Nhớ lấy, bao giờ cũng cần hai để tạo ra biên giới giữa chúng;
hai tạo ra biên giới. Có biên giới nơi tôi chấm dứt và ai đó khác bắt đầu. Nếu
không ai khác bắt đầu, nếu chỉ tôi có đó, thế thì tôi sẽ không chấm dứt; tôi
không thể bị giới hạn. Cho nên cả cái toàn thể cũng không có giới hạn. Ai có đó
để giới hạn nó? Theo cùng cách này thì cái hư không, cái trống rỗng, cũng có thể
không có giới hạn, không biên giới; bởi vì nếu nó có thể bị giới hạn, nó là cái
gì đó - thế thì nó không thể là cái không được. Chỉ cái gì đó mới có thể bị giới
hạn.
Cho nên nếu bạn hiểu điều đó đúng thì bạn sẽ biết rằng cái hư
không và cái toàn thể là hai cách để nói về cùng một điều. Và người hành hương
tôn giáo có thể theo cả hai con đường: hoặc bạn trở thành cái toàn thể hoặc bạn
trở thành cái không. Cả hai cách đều đưa bạn tới định mệnh của mình, là định mệnh
của tất cả.
Người đi theo con đường của cái toàn thể, người đang trong
tình yêu với cái toàn thể, cái tích cực, người đó sẽ nói: "Tôi là brahman,
tôi là cái tuyệt đối." Người đó sẽ nói rằng mình là Thượng đế, người đó là
tất cả mọi điều đang có đấy. Người đó sẽ nói rằng không có gì ở ngoài mình, và
rằng không có "ngài". Người đó bao gồm tất cả các "ngài"
bên trong người đó. Nếu điều đó là có thể cho bạn để là vô hạn như vậy, thì bạn
đã đạt tới điều cao nhất.
Nhưng trong tính toán cuối cùng, ngay cả cái "tôi"
này cũng phải ra đi, bởi vì nếu không có "ngài", thì làm sao bạn có
thể nói "Tôi đây; tôi là brahman sao"? "Tôi" có thể có
nghĩa chỉ nếu trong hoàn cảnh của "ngài"; không có "ngài",
"tôi" đơn giản không liên quan.
Và khi bạn là cái tuyệt đối, thì chẳng có nghĩa mấy mà nói,
"tôi là cái tuyệt đối", bởi vì phát biểu này thừa nhận sự tồn tại của
cả hai - brahman và bạn. Và chung cuộc với việc ra đi của "tôi", ngay
cả brahman hay điều tuyệt đối sẽ trở thành vô nghĩa. Người ta sẽ phải trở thành
không nói được nên lời; người đó sẽ hoàn toàn im lặng.
Theo cách này bạn triệt tiêu bản thân mình hoàn toàn đến mức
bạn nói, "tôi không hiện hữu." Trong trường hợp này bạn nói,
"tôi là brahman," hay "tôi là tất cả," và trong trường hợp
khác bạn nói "tôi là cái không; mọi thứ đều là trống rỗng tuyệt đối."
Con đường này cũng sẽ đưa bạn tới cùng định mệnh tối thượng. Và khi bạn đã tới
đó bạn sẽ không thể nói ngay cả điều này - rằng bạn không hiện hữu. Nói
"Tôi không hiện hữu" cần sự hiện diện của cái "tôi". Cho
nên ngay cả điều này cũng sẽ biến mất.
Bạn thậm chí không thể nói được rằng mọi thứ là trống rỗng, tất
cả đều hư không. Nói rằng tất cả đều hư không, thì cần cả hai "tất cả"
và "trống rỗng" đều có trong sự tồn tại. Thế thì quá trình duy nhất mở
ra cho bạn là ở chỗ bạn trở thành không nói được, bạn trở thành im lặng. Bạn bắt
đầu từ đâu - dù là từ cái toàn thể hay từ cái hư không, cái không - điều đó sẽ
đem bạn tới im lặng tối cao nơi bạn sẽ chẳng có gì để nói cả.
Do đó, chỗ người ta bắt đầu cuộc hành trình của mình không phải
là vấn đề chính. Cái cần được xem xét là đích tới, nơi người ta cuối cùng đạt tới.
Nơi người ta chung cuộc đạt tới là vấn đề cơ bản.
Định mệnh chung cuộc này có thể được biết tới và nhận ra. Và
nếu người ta đã đạt tới nó, thế thì bất kì con đường nào người đó đã theo cũng
đều là đường phải. Không con đường nào là phải và không con đường nào là trái
theo nghĩa tuyệt đối. Bất kì cái gì đưa bạn tới đích của mình đều là đường phải.
Và đích là một và cùng một.
Nhưng bất kì khi nào bạn bắt đầu bạn bao giờ cũng bắt đầu bằng
"tôi". Kinh nghiệm trước đây bao giờ cũng sẽ là manh tính định hướng
"tôi", bởi vì đó là tình huống cho sẵn của chúng ta; đó là chỗ chúng
ta hiện hữu và nguồn gốc chúng ta bắt đầu. Dù chúng ta đánh thức kundalini hay
chúng ta đi vào trong thiền hay chúng ta đi vào im lặng, kinh nghiệm khởi đầu
phải là mang tính cá nhân, nó phải là hướng vào "tôi". Bất kì cái gì
sẽ xảy ra ở giai đoạn khởi đầu sẽ xảy ra cho chúng ta như các cá nhân, bởi vì
chúng ta là những cá nhân ở lúc bắt đầu cuộc hành trình. Nhưng khi chúng ta đi
sâu thêm, cá nhân sẽ biến mất dần. Kinh nghiệm càng sâu sắc, sự ăn mòn tính cá
nhân, bản ngã sẽ càng lớn.
Nhưng nếu chúng ta đi lạc khỏi cuộc hành trình bên trong và vẩn
vơ lung tung, thế thì cá nhân sẽ tồn tại và cứ phát triển lên mãi.
Chẳng hạn, một người đang đứng trên bờ giếng. Nếu người đó đi
vào trong giếng và cứ đi ngày một sâu hơn và sâu hơn, người đó một ngày nào đó
đạt tới đại dương. Chung cuộc người đó sẽ biết rằng không có những điều như vậy,
như cái giếng. Cái giếng thực sự là gì? Nó chỉ là một lỗ hổng; nó là lỗ hổng
trong đất để qua nó người ta lọt vào đại dương; nó là lối mở nhỏ vào đại dương
lớn.
Ý nghĩa của giếng là gì? Nó là lối mở nhỏ, lối đi qua đó bạn
đi tới tiếp xúc với biển. Bạn sai nếu bạn nghĩ về giếng dưới dạng nước; nước
trong giếng là bản thân đại dương; nó tới từ đại dương. Giếng chỉ là trung gian
qua đó bạn thấy biển. Và khi lối mở này được làm rộng ra, tầm nhìn về biển sẽ
được mở rộng theo cùng chừng mực.
Nhưng nếu bạn đi ra khỏi giếng và lạc lối từ nó dần dần, bạn
sẽ mất đi cái nhìn về nước nữa. Thế thì bạn sẽ thấy trơ trụi bờ giếng và miệng
giếng; bạn sẽ chẳng bao giờ có khả năng tìm ra bất kì liên kết nào giữa giếng
và đại dương. Và thế thì bạn sẽ từ chối tin rằng chúng là một và như nhau.
Trong khi cuộc hành trình nội tâm sẽ đưa bạn tới sự thống nhất
và cái một, cuộc hành trình ngoại diên sẽ làm điều ngược lại; nó sẽ đem bạn tới
phân chia và đa dạng. Nó sẽ đem bạn tới cái nhiều.
Nhưng sự kiện còn lại là vào lúc bắt đầu của tất cả mọi kinh
nghiệm có chiếc giếng, cá nhân, và đến cuối cùng có đại dương, cái vô cá nhân
hay Thượng đế.
Chính theo nghĩa này mà tôi nói rằng kunda của năng lượng là
một, vũ trụ, phổ quát. Nếu bạn chìm sâu, kunda sẽ dừng là của bạn; thế thì sẽ
có duy nhất kunda vũ trụ. Thế thì trong thực tế, chẳng cái gì sẽ là của bạn cả.
Nó là vậy trong chính bản chất của mọi điều.
Người hỏi: Thầy nói rằng tất cả cái gọi là giếng cá nhân đều là một và chúng đã
được nối với đại dương vốn là trống rỗng. Nếu vậy, nhu cầu gì có đó để phải qua
sadhana hay kỉ luật tâm linh để là một với cái trống rỗng hay cái hư không?
Bạn hỏi câu hỏi này bởi vì bạn nghĩ cái trống rỗng là không
có gì cả. Và tại sao ai đó phải làm cái gì chỉ để đạt được cái không? Người ta
phải làm cái gì đó nếu có cái gì đó cần đạt tới. Bạn đánh đồng trống rỗng với
không có gì. Thế thì sadhana hay nỗ lực trở thành không cần thiết cho bạn. Với
bạn, nỗ lực là xứng đáng tiến hành nếu bạn phải trở thành cái gì đó. Sao cố gắng
vì cái không có gì?
Nhưng bạn không biết rằng cái trống rỗng có nghĩa là cái toàn
thể. Bạn không biết rằng cái hư không là tất cả mọi thứ có đó. Nó không ngụ ý
không có gì; nó ngụ ý cái tuyệt đối. Nhưng ngay bây giờ bạn không thể hiểu nổi
làm sao cái trống rỗng có thể là cái toàn thể, cái tuyệt đối. Giếng có thể cũng
nói, "Nếu tôi phải đi ra đại dương chỉ để biết rằng tôi không là gì cả, thế
thì sao tôi phải đi?" Giếng là phải khi nói vậy. Và nó là phải khi từ chối
đi ra biển nếu điều đó ngụ ý rằng chung cuộc cái giếng không tồn tại.
Nhưng với thực tại hay chân lí điều đó không tạo ra khác biệt
gì nếu bạn không đi. Sự kiện là ở chỗ bạn không có. Dù bạn có đi ra đại dương
hay bạn không đi, điều đó không làm thay đổi được thực tại. Thực tại là bạn
không phải là cái giếng; bạn là bản thân đại dương. Bạn có thể chọn vẫn còn là
cái giếng nhưng sự kiện là ở chỗ bạn không hiện hữu; điều dối trá là bạn hiện hữu.
Và điều dối trá này sẽ tiếp tục làm đau bạn, ám ảnh bạn. Nó sẽ tiếp tục làm cho
cuộc sống của bạn bất hạnh và khổ. Và nó sẽ giữ bạn trong xiềng xích, trong tù
túng. Trong dối trá này không có khả năng nào cho bất kì niềm vui và phúc lạc
nào.
Đúng là cái giếng khi đạt tới biển thì sẽ biến mất, nhưng
cùng với nó mọi khổ sở của nó, mọi lo âu của nó cũng sẽ biến mất. Bởi vì tất cả
mọi khổ sở và lo âu đều gắn chặt không rời với việc nó là cái giếng, là cá
nhân, là bản ngã. Với người khác dường như là cái giếng đã mất bản thân nó bởi
việc đi vào đại dương; nó không trở thành cái gì đó. Nhưng cái giếng sẽ không
nghĩ vậy đâu. Cái giếng sẽ nói, "Ai nói rằng tôi bị mất đi? Tôi đã trở
thành bản thân đại dương đấy chứ." Chính là cái giếng hàng xóm, cái còn
chưa tới thăm biển cả, chính nó mới nói, "Anh định đi đâu vậy đồ ngốc? Sao
anh đi tới nơi anh sẽ thôi hiện hữu?" Nhưng biển đang đó sẽ nói, "Ai
nói điều đó nghĩa là không có gì? Đúng là tôi sẽ chết đi như cái giếng, nhưng
tôi sẽ được sinh ra như bản thân đại dương."
Chọn lựa bao giờ cũng là liệu bạn muốn còn là cái giếng hay bạn
muốn trở thành đại dương. Chọn lựa này là giữa cái nhỏ mọn và cái mênh mông, giữa
bộ phận và toàn thể, giữa tù túng và tự do. Nhưng đó là vấn đề kinh nghiệm; đó
không phải là triết lí chút nào. Và nếu cái giếng sợ chết đi, nó sẽ phải phục vụ
cho mọi mối quan hệ với đại dương. Bởi vì chừng nào nó còn có quan hệ với đại
dương, nó bao giờ cũng phải đối diện với nguy hiểm của việc biết rằng nó là
chính đại dương.
Thế thì cái giếng sẽ phải phá vỡ mối ràng buộc ngay cả với tất
cả dòng nước ngầm và dòng suối, bởi vì chung cuộc chúng đi ra cùng đại dương.
Cái giếng sẽ phải nhắm mắt lại với mọi phía và từ chối nhìn vào bên trong, để
cho nó không phải biết về sự vô hiện hữu riêng của mình và sự hiện hữu của đại
dương. Thế thì nó bao giờ cũng nhìn ra ngoài và không bao giờ nhìn vào bên
trong. Thế thì nó sẽ muốn dòng suối là nhỏ nhất có thể được; nó thậm chí còn muốn
chúng khô đi và chết đi. Nhưng thế thì trong cuộc hành trình dài bản thân cái
giếng sẽ chết, mặc dầu nó sẽ làm mọi điều để tự cứu mình. Trong chính nỗ lực để
tự cứu mình nó sẽ bỏ mạng.
Jesus đã nói, "Người tự cứu mình sẽ chết, còn riêng người
sẽ được cứu là người chết đi một cách tự nguyện."
Cho nên câu hỏi luôn luôn nảy sinh trong tâm trí chúng ta,
"Sao tôi phải đi tới chỗ tôi sẽ chết và biến mất? Sao phải đi tới đó, nếu
cái chết là chắc chắn?" Nhưng nếu cái chết này là điều chắc chắn, thì nó
chính là điều đang đó. Và làm sao trên trái đất này bạn sẽ cứu được bản thân
mình qua nỗ lực gìn giữ cái ta như vậy? Nếu đúng là bạn sẽ chết khi đi vào đại
dương, thì làm sao bạn sẽ cứu được bản thân mình như cái giếng, và được bao
lâu? Nếu, theo quan điểm của bạn, việc trở thành đại dương khổng lồ có nghĩa là
chết đi, làm sao bạn sẽ sống sót như cái giếng nhỏ tí xíu và được bao lâu? Chẳng
mấy chốc thành giếng sẽ vỡ vụn; chẳng mấy chốc nước của nó sẽ bay hơi, và chẳng
mấy chốc nó sẽ bị che phủ bởi bụi và bẩn. Khi bạn không tồn tại như đại dương
bao la, làm sao bạn sẽ tồn tại như cái giếng tí xíu được? Và được bao lâu?
Đây là cách nỗi sợ chết nảy sinh. Đây là nỗi sợ đeo đuổi cái
giếng. Cái giếng không muốn đi ra biển vì sợ bị tiêu diệt. Do đó nó giữ một khoảng
cách với biển và tiếp tục là giếng. Nhưng cho dù thế thì nỗi sợ chết vẫn cứ nắm
bắt nó, bởi vì ngay khi nó làm mình xa lánh với biển, thì cái chết kéo tới gần
hơn và gần hơn nữa. Được nối với đại dương thì còn có hi vọng và cuộc sống cho
cái giếng; cuộc sống của cái giếng không thoát được việc nối với đại dương. Xa
lánh khỏi đại dương cái chết của nó là chắc chắn.
Đó là lí do tại sao chúng ta tất cả đều sợ chết; chúng ta sợ
rằng chúng ta phải chết và biến mất. Nhưng không có việc thoát khỏi cái chết;
điều đó là chắc chắn. Và chỉ có hai cách chết. Một là cách bạn lấy bước nhảy
vào đại dương và chết. Loại chết này rất phúc lạc, bởi vì bạn sẽ không thực chết,
bạn sẽ trở thành bản thân đại dương. Và loại chết khác xảy ra khi bạn cứ ương
ngạnh bám lấy cái giếng, và đằng nào cũng chết. Thế thì bạn trì trệ và mục nát
và chết với nước mắt lưng tròng.
Tâm trí chúng ta tham lam; nó bao giờ cũng theo đuổi cái lợi
nào đó, lợi nhuận nào đó, thành đạt nào đó. Nó cứ hỏi, "Tôi sẽ được gì nếu
tôi đi ra đại dương? Tôi sẽ đạt được gì nếu tôi tìm kiếm samadhi hay niết bàn
hay cái trống rỗng?" Chúng ta bao giờ cũng hỏi chúng ta sẽ thành đạt được
gì, và chúng ta không bao giờ hỏi - mà là điều người ta nên hỏi - "Làm sao
chúng ta đánh mất bản thân mình trong loài chuột này để được lợi và thành đạt?"
Trên bề mặt của nó, chúng ta đã đạt được mọi thứ: chúng ta đã đạt được của cải,
quyền lực, danh vọng, mọi thứ. Và trong chính việc theo đuổi này chúng ta đã
đánh mất bản thân mình; chúng ta đã hoàn toàn đánh mất mình. Chúng ta bây giờ
có mọi thứ - ngoại trừ mỗi bản thân mình.
Nếu các bạn hỏi tôi dưới dạng thành đạt, tôi sẽ nói: nếu các
bạn được chuẩn bị để mất thì các bạn sẽ đạt tới bản thân mình. Và các bạn sẽ
làm mất bản thân mình và mất hoàn toàn nếu các bạn không được chuẩn bị để mất,
nếu các bạn cố gắng cứu. Đây là nghịch lí; rằng trong nỗ lực của các bạn để cứu,
các bạn sẽ cứu được mọi thứ trừ bản thân mình. Các bạn sẽ cứu được mọi thứ và
các bạn sẽ làm mất linh hồn mình, điều mới thực là các bạn.
Người hỏi: Thầy nói rằng tỉ lệ của ô xi và các bô nic thay đổi qua thở sâu. Xin
thầy giải thích làm sao điều này có liên hệ với việc đánh thức kundalini?
Có nhiều liên hệ giữa chúng. Một, chúng ta mang bên trong
mình tiềm năng của cả sống và chết. Trong khi ô xi của hơi thở biểu thị cho tiềm
năng sống của chúng ta, thì các bô nic biểu thị cho tiềm năng chết. Khi ô xi của
bạn dần giảm đi và biến mất và bạn bị bỏ lại với một mình các bô nic, bạn sẽ biến
thành cái xác. Điều đó cũng giống như chúng ta đốt một mẩu gỗ - nó cháy chừng
nào ô xi còn sẵn đấy. Có ngọn lửa, có cuộc sống trong miếng gỗ chừng nào ô xi
còn có sẵn cho nó. Nhưng ngay khi ô xi của nó bị tiêu dùng, nó chết. Nó bị thu
lại thành tro, thành than, cũng là các bon. Các bon bị bỏ lại sau không là gì
ngoài lửa chết.
Cả hai yếu tố này đều vận hành bên trong chúng ta. Nếu chúng
ta có nhiều các bô nic, chúng ta sẽ trượt vào trạng thái hôn mê. Đó là lí do tại
sao dễ ngủ trong đêm hơn ban ngày, bởi vì trong đêm khối lượng các bô nic tăng
lên trong khi lượng ô xi giảm xuống. Đó là cách chúng ta đi ngủ dễ dàng thế
trong đêm và không dễ dàng đến thế lúc ban ngày. Ban ngày khối lượng ô xi trong
không khí tăng lên bởi vì mặt trời, và mọi thứ thức dậy và hoạt động. Và với mặt
trời lặn, tỉ lệ ô xi trong không khí giảm xuống đáng kể.
Đó là cách bóng tối và đêm đã trở thành biểu tượng cho hôn mê
và quán tính. Và mặt trời - là biểu tượng cho ánh sáng và cuộc sống và năng lượng,
bởi vì nó đem tới cuộc sống cùng nó. Ban đêm mọi thứ trở thành lờ phờ: hoa khép
cánh của chúng lại, lá co lại, và tất cả cuộc sống đi ngủ. Theo một nghĩa nào
đó toàn thể trái đất trong đêm trượt vào một loại cái chết tạm thời. Và với việc
đến của buổi sáng khác, hoa nở ra, cây bắt đầu lay động, lá trở nên sống động,
cuộc sống được thức dậy, chim tung cánh bay và cả trái đất trở thành ngày hội.
Cái chết tạm thời của thời gian đêm biến mất và cuộc sống trở lại với trái đất.
Cùng điều đó xảy ra bên trong bạn. Khi lượng ô xi trong bạn
tăng lên, năng lượng tiềm tàng của bạn bắt đầu thức dậy. Với mọi loại năng lượng
tiềm tàng để đánh thức dậy, ô xi là cái cần phải có. Chúng ta có thể giữ cho
người hấp hối còn sống thêm chút ít bằng sự hỗ trợ của ô xi. Người đó sẽ chết
ngay nếu ống ô xi bị dứt ra khỏi ngực. Nhưng với ô xi người đó có thể được giữ
cho sống thêm vài ngày, vài tháng, thậm chí vài năm, bởi vì sinh lực đã bị yếu
hoàn toàn của người đó được làm sống lại bởi ô xi. Chúng ta giữ bản thân cái chết
không tới bằng sự giúp đỡ của ô xi.
Ngày nay hàng nghìn người trên khắp châu Âu và Mĩ đang được
giữ cho sống bằng ô xi được bơm vào họ từ bên ngoài. Họ đáng ra thì đã chết từ
lâu rồi nhưng nhờ có các bình khí nén ô xi mà vẫn sống. Bây giờ việc cho phép
người mắc bệnh nan y chết đã là một trong những vấn đề quan trọng ở các nước
phương Tây. Việc cho phép người bệnh chết có nghĩa là con người phải có quyền
được chết khi người đó phải chết. Với sự giúp đỡ của ô xi, những thiết bị hiện
đại, các bác sĩ có thể giữ cho ai đó sống thật lâu- mặc dầu người đó chết là điều
tốt. Cho nên cho phép người bệnh được chết đã trở thành vấn đề lớn. Vấn đề của
các bác sĩ là ở chỗ nếu bác sĩ cho phép người đó chết thì bác sĩ sẽ bị mọi người
nói là phạm tội giết người. Đó sẽ là một loại giết người. Cho nên bác sĩ sẽ giữ
cho một người già tám mươi tuổi tàn tật vẫn sống nhờ ô xi. Nếu bác sĩ không làm
như vậy thì bác sĩ sẽ bị buộc tội giết người, cho nên bác sĩ sẽ giữ cho năng lượng
tàn tạ này sống bằng việc thêm ống ô xi vào ngực.
Các bài tập thở như pranayam, bhastrika và điều tôi gọi là việc
thở nhanh và mãnh liệt để làm gì? Bạn thở trong hơi thở cuộc sống nhiều tới mức
tiềm năng của năng lượng tiềm tàng của bạn được tăng cường và nó bắt đầu thức tỉnh.
Đồng thời, với việc thở sâu và nhanh hình mẫu quán tính ăn sâu hay giấc ngủ bị
phá vỡ.
Các bạn sẽ ngạc nhiên khi nghe câu chuyện tôi sắp kể cho các
bạn.
Quãng bốn năm trước một sư Phật giáo tới tôi từ Ceylon. Ông ấy
đã đi mà không ngủ trong ba năm. Ông ấy được cho đủ mọi loại thuốc chữa trị,
nhưng chẳng có tác dụng. Thuốc không thể có tác dụng bởi vì khất sĩ này đã thực
hành anapanasati yoga - một loại kỉ luật thở đặc biệt đã thành mốt trong các Phật
tử. Nó bao gồm việc quan sát việc thở sâu của người ta hết ngày nọ tới ngày
kia. Bây giờ người này, người đã dạy cho ông ta anapanasati yoga không biết rằng
nếu người ta quan sát hơi thở sâu của mình trong hai mươi bốn giờ một ngày, thì
người đó sẽ mất giấc ngủ của mình hoàn toàn. Thế thì sẽ không thể nào làm cho
người đó ngủ được.
Để làm cho vấn đề tồi tệ hơn, khất sĩ này đã được cho thuốc
ngủ trong khi ông ta thực hành anapanasati. Điều đó tạo ra xung đột lớn trong
thân thể ông ấy và ông ấy thực sự thành đống lộn xộn. Trong khi thuốc đang cố gắng
đưa giấc ngủ vào ông ta, việc quan sát thường xuyên hơi thở lại giữ cho ông ta
thức. Kết quả là một loại bế tắc, khủng hoảng đã được tạo ra trong thân thể ông
ta, như sẽ xảy ra trong ô tô nếu ga và phanh được nhấn đồng thời. Hiển nhiên là
khất sĩ này trong khổ sở khủng khiếp.
Ai đó kể cho ông ta về tôi và do vậy ông ta tới. Ngay khi tôi
thấy ông ấy tôi biết rằng ông ta bị mắc giữ trong một loại điên khùng, ông ta
đã tự đẩy mình vào một tình thế không thể được. Tôi yêu cầu ông ta dừng
anapanasati yoga ngay lập tức. Nhưng ông ta muốn biết anapanasati có liên quan
gì tới việc mất ngủ của ông ta. Ông ta chẳng ý tưởng gì rằng nhận biết thường
xuyên về thở sâu đã làm tăng khối lượng ô xi của ông ta nhiều tới mức giấc ngủ
của ông ta đã tan biến. Tôi cũng bảo ông ta rằng nếu ông ta không thể từ bỏ được
anapanasati, thì ông ta phải dừng uống thuốc an thần và đi mà không ngủ. Nếu
ông ta còn tiếp tục anapanasati, thì ông ấy có thể dễ dàng thực hiện mà không
ngủ; điều đó sẽ không làm hại gì chút nào cho ông ấy.
Khi khất sĩ này dừng anapanasati chỉ trong tám ngày, giấc ngủ
của ông ta trở lại với ông ta, và ông ta không dùng thuốc an thần nào.
Bất kì việc tăng các bô nic nào cũng không tránh khỏi việc
tăng giấc ngủ của chúng ta. Và mọi thứ tạo ra các bon trong thân thể chúng ta đều
gửi năng lượng đã ngủ của chúng ta vào giấc ngủ sâu hơn, nó làm sâu sắc hơn vô
thức của chúng ta. Đó là lí do tại sao, khi dân số của thế giới tăng lên, việc
chia sẻ ô xi của mọi người giảm xuống theo cùng mức đó. Và điều đó bổ sung cho
vô thức của chúng ta - vốn đã quá nhiều. Một thời điểm có thể tới sớm khi khả
năng đánh thức của chúng ta sẽ ở vào mức tối thiểu.
Bạn cảm thấy tươi mát vào buổi sáng. Bạn cảm thấy tươi mát
khi bạn đi vào rừng hay tới thăm bãi biển. Và bạn trở nên lờ phờ và đờ đẫn khi
bạn ở bãi chợ, khi bạn trong đám đông. Tại sao? Đó là vì có nhiều các bô nic và
thiếu ô xi. Đúng là ô xi đang được tạo ra vào mọi lúc, nhưng khi đám đông tiêu
thụ nhiều ô xi hơn, điều đó đưa tới việc khan hiếm ô xi ở bãi chợ. Đi vào chỗ
đông người - rạp chiếu phim hay đền chùa - và chẳng mấy chốc bạn sẽ lọt vào
vòng bắt giữ của lờ phờ và vô nhạy cảm. Còn đi lên núi hay ra vườn, hay ra
sông, và bạn sẽ cảm thấy tỉnh táo và sống động và hạnh phúc.
Có ý định lớn trong việc tăng lượng ô xi của bạn. Nó làm thay
đổi sự cân bằng bên trong của bạn; nó làm cho bạn thức tỉnh và nhận biết hơn,
ít buồn ngủ và vô ý thức hơn. Và nếu khối lượng ô xi tăng lên nhanh chóng và đột
ngột và bất ngờ, nó sẽ tạo ra thay đổi căn bản trong cân bằng bên trong của bạn.
Nó sẽ giống như một phía của chiếc cân lên cao và phía bên kia chúi xuống chạm
đất. Và nếu thay đổi này được đưa tới trong một cú, bạn sẽ kinh nghiệm nó rất
nhanh và đột ngột. Thay đổi dần dần và chậm chạp bạn khó cảm thấy được.
Đó là lí do tại sao tôi liên tục nhấn mạnh vào việc thở nhanh
và mạnh để cho bạn đem tới thay đổi mau lẹ đến mức bạn chuyển từ giai đoạn này
sang giai đoạn khác chỉ trong mười phút, và cũng quan sát bản thân quá trình
thay đổi. Chỉ khi sự việc thay đổi mau lẹ và đột ngột nó mới có thể được quan
sát một cách rõ ràng như vậy.
Chẳng hạn, mỗi người trong chúng ta đều chuyển từ thời thơ ấu
sang thời thanh niên và từ tuổi thanh niên sang tuổi già, nhưng quá trình này
chậm chạp và dần dần tới mức chúng ta chẳng bao giờ biết đích xác khi nào chúng
ta trở thành thanh niên, khi nào chúng ta trở thành người già. Nếu ai đó hỏi
đích xác ngày tháng khi nào tôi trở thành già, tôi không thể nói được. Người
già bị lẫn lộn, người đó không hiểu rằng mình bây giờ già rồi, bởi vì giữa tuổi
thanh xuân và tuổi già của người đó không có lỗ hổng nào cả. Tương tự, đứa trẻ
không biết rằng nó đã đến tuổi; nó tiếp tục cư xử như đứa trẻ. Trong khi nó
trông như người lớn đối với người khác, thì bản thân nó vẫn còn không nhận biết
về sự kiện này. Trong khi bố mẹ nó trông đợi nó nhận lấy trách nhiệm của nó
trong gia đình, thì nó vẫn coi mình là đứa bé.
Vấn đề là vậy bởi vì việc chuyển đổi từ giai đoạn này sang
giai đoạn khác không xảy ra một cách thình lình; nó rất im lặng và chậm chạp.
Theo cùng cách này người già tiếp tục cư xử cứ dường như người đó là thanh
niên; người đó không nhận biết rằng thay đổi đã xảy ra trong đời mình. Và làm
sao người đó có thể biết được?
Chuyển đổi bất thần và đột ngột là cần có để người ta biết
nó. Nếu có một ngày và giờ cố định cho việc chuyển đổi này xảy ra, sẽ không có
chỗ cho lẫn lộn. Và thế thì sẽ không cần phải nhắc nhở người đã lớn hay người
già về trạng thái đúng của người đó.
Trong thiền tôi nhắm vào thay đổi đột ngột và mạnh mẽ tới mức
bạn biết rõ ràng sự khác biệt giữa tâm thức ngủ của bạn và thành phần thức tỉnh
tương ứng của nó. Nó phải đi tới như một bước nhảy, bất thình lình, để cho bạn
biết rõ rằng biến đổi đã xảy ra. Việc biết này là có giá trị; nó sẽ giúp bạn rất
nhiều. Bởi lí do này tôi ủng hộ những kĩ thuật đem lại biến đổi đột ngột và bất
thần. Nếu nó cần thời gian dài, bạn sẽ chẳng bao giờ biết nó. Và dốt nát này có
nguy hiểm của nó. Nguy hiểm là ở chỗ nếu bạn không biết điều gì đã xảy ra, nó sẽ
không làm sâu sắc cho hiểu biết của bạn như nó đáng làm.
Điều thường xảy ra là ai đó đi tới kinh nghiệm tâm linh nào
đó một cách vô nhận biết và vô nỗ lực, và thay đổi lại chậm và im lặng tới mức
người đó không biết nó tất cả là cái gì. Thế thì người đó cố gắng diễn giải nó
theo cách thức cũ của mình - mà hầu hết là sai - bởi vì toàn cảnh cần thiết để
hiểu nó bị thiếu. Nhiều lần điều xảy ra là bạn ở rất gần một kinh nghiệm tâm
linh mà bạn bỏ qua nó, bởi vì bạn diễn giải nó theo cách thả neo cũ của mình. Tất
cả mọi điều này xảy ra chỉ bởi vì thay đổi xảy ra từ từ và chậm chạp thế.
Tôi biết về một người dễ dàng nâng một con hà mã lên bằng hai
tay. Hà mã là con vật to lớn và nặng đáng kể. Nông trại súc vật của anh ta có
nhiều trâu trong đó. Người này bắt đầu nâng con hà mã con và tiếp tục nâng nó
hàng ngày trong một thời gian dài. Do đó khi con hà mã này lớn lên, dần dần khả
năng của người đó để nâng nó lên cũng tăng lên theo cùng nhịp. Và bây giờ người
đó có thể nâng bất kì con hà mã lớn nào - điều đơn giản có vẻ như phép màu! Bản
thân người này không nghĩ điều đó là phép màu, bởi vì người đó đã thu được khả
năng này dần dần qua một thời gian dài. Nhưng tất cả mọi người khác đều coi đó
là phép màu thực, bởi vì họ có toàn cảnh để nhìn nó. Họ biết bản thân họ không
thể làm được điều người này làm rất dễ dàng.
Chính bởi lí do này mà tôi dạy các bạn cách thiền động và mạnh
mẽ này.
Và ô xi có ý nghĩa lớn. Nó là thứ cực kì quí giá. Bạn càng
rót đầy thân thể mình bằng ô xi, việc chuyển đổi của bạn từ thân thể sang linh
hồn càng nhanh. Nếu bạn hiểu điều đó đúng, bạn sẽ biết rằng thân thể mình là đầu
chết của bạn; thân thể là phần của bạn biểu lộ ra nó bởi vì nó là chết. Phần
này của bạn, đang chết, đã bị làm cứng lại và do đó nó là thấy được. Còn linh hồn
là phần khác của bạn vẫn tiếp tục mang tính hay thay đổi và tinh tế, loãng và
nhẹ lâng lâng; nó không thể được giữ chắc. Một lượng ô xi đủ, điều đem lại việc
thức tỉnh và cuộc sống cho bạn, sẽ tạo ra một khoảng cách rõ rệt giữa thân thể
bạn và linh hồn. Thế thì bạn sẽ biết rõ ràng chúng là hoàn toàn khác lẫn nhau,
mặc dầu chúng là hai phần của cùng một bản thể - bạn.
Do đó, việc thở đóng vai trò lớn trong việc đánh thức
kundalini.
Kundalini là năng lượng ngủ của bạn. Bạn không thể đánh thức
được nó với sự giúp đỡ của các bô níc. Thay vì thế, các bon sẽ làm giấc ngủ của
nó sâu hơn. Ô xi là sự trợ giúp lớn lao trong việc đánh thức kundalini. Đây là
lí do mà chúng ta bao giờ cũng coi thiền sáng có tầm quan trọng lớn lao thế. Lí
do là thế này: rằng vào buổi sáng thậm chí hơi thở nhỏ cũng mang một khối lượng
lớn ô xi cùng nó. Trái đất thường ở vào trạng thái phi thường và rất duy nhất
trong vòng trọn một giờ sau khi mặt trời mọc, và lấy ưu thế của tình huống này,
buổi sáng đã được chọn là thời gian tốt nhất cho thiền trên khắp thế giới.
Bạn càng gõ búa mạnh vào kundalini bằng việc thở nhanh và
mãnh liệt, nó sẽ càng nhanh chóng thức dậy. Nhưng khó khăn là ở chỗ chúng ta
không thấy rõ ràng nó vận hành thế nào, và do đó ý nghĩa của thở sâu bị mất đi
với chúng ta. Chẳng hạn, chiếc đèn đang cháy. Chúng ta thấy dầu trong bình bằng
đất, chúng ta thấy bấc và diêm thắp sáng nó. Chúng ta cũng thấy ngọn lửa và ánh
sáng nảy sinh từ nó. Nhưng chúng ta không thấy điều thực: ô xi vốn là phần sống
còn của toàn bộ hoạt động. Thực sự chính ô xi mới đốt cháy và trở thành ánh
sáng. Dầu, bấc, diêm đều không quan trọng đến thế. Dầu, bấc và diêm là phần thấy
được của chiếc đèn, chúng tạo thành thân của đèn. Nhưng phần không thấy được, ô
xi, cái tạo ra linh hồn của chiếc đèn và cái thực sự đốt cháy, là không thấy được.
Tôi đã nghe nói rằng một buổi tối một gia đình đi tới thăm
nhà bạn, để lại nhà một đứa bé trông coi nhà. Có một ngôi đền nhỏ trong ngôi
nhà đó và một chiếc đèn đang cháy trước bức tượng thượng đế nào đó. Đứa trẻ đã
được yêu cầu đặc biệt trông nom cho ngọn đèn đó không tắt. Trong lúc đó, một
cơn gió mạnh bắt đầu quét qua, và đứa trẻ đâm ra lo lắng về chiếc đèn. Thế là
nó đem cái bát thủy tinh tới và che cho đèn bằng chiếc bát này. Mặc dầu đèn được
bảo vệ kĩ, vậy là ngọn lửa tắt ngay lập tức. Có lẽ chiếc đèn có thể đã tồn tại
được với cơn gió, nhưng nó không thể tồn tại được khi thiếu ô xi; nó chết trong
một giây.
Ô xi, cái thực sự là lực sống còn, là không thấy được. Điều
chúng ta gọi là cuộc sống là quá trình ô xi hoá; nó cũng giống như việc đốt
cháy ngọn đèn. Nói theo thuật ngữ khoa học, cuộc sống là ô xi đang cháy. Dù nó
là trong con người hay trong cây cối hay trong ngọn đèn hay trong bản thân mặt
trời, bất kì chỗ nào có việc ô xi hoá thì đều có cuộc sống. Cho nên càng ô xi
hoá nhiều, thì ngọn lửa cuộc sống của bạn càng sáng hơn. Và kundalini là ngọn lửa
của cuộc sống này. Ô xi hoá làm cao thêm việc bốc lửa và luồng kundalini. Cho
nên ô xi là rất có hiệu quả với kundalini.
Người hỏi: nhiều nhà yoga dùng hang núi rất thiếu ô xi. Làm
sao hang động có ích trong việc đạt tới samadhi hay thống nhất với cái tuyệt đối?
Thực tế nhiều điều cần có trước khi ai đó có thể đi vào trong
hang để thực hành yoga. Nếu những yêu cầu này không được đáp ứng, nhà yoga
trong hang sẽ không bao giờ đạt tới được samadhi; người đó thay vì thế sẽ trải
qua việc tăng thêm vô ý thức. Điều người đó sẽ lấy thay cho samadhi sẽ không là
gì ngoài giấc ngủ và vô ý thức sâu hơn. Một mình người đó có thể dùng cái hang
có nhiều ô xi cho bản thân mình trong việc thực hành dư thừa pranayam tới mức
cái hang đó không thành vấn đề gì với người đó.
Nếu một người đã trải qua pranayam về chiều sâu, nếu mọi giọt
máu của người đó, mọi thớ thịt của thân thể người đó đã được cấp đủ ô xi, người
đó có thể chôn vùi mình dưới đất trong tám ngày và bước ra khỏi đó vẫn còn sống.
Lí do là đơn giản thế này: người đó có đủ ô xi dự trữ để kéo dài cuộc sống người
đó trong tám ngày. Thông thường, chúng ta không có ô xi dư thừa nào theo mình;
chúng ta ít khi quản lí điều đó. Nếu bạn đi và nằm dưới đất bên cạnh nhà yoga
mà không có thực hành thích hợp về pranayam, bạn sẽ chết vào ngày thứ tám khi
nhà yoga bước ra còn sống. Nhà yoga có dự trữ lượng ô xi cần để giữ cho người
ta sống trong tám ngày chôn vùi dưới đất. Người như vậy sẽ dùng khéo cái hang
cho việc thiền và sẽ được lợi nhiều. Vì người đó không có vấn đề gì với ô xi,
nên người đó sẽ thu hoạch được ích lợi khác mà chỉ hang động mới đem lại cho
nhà yoga.
Cái hang hữu dụng bởi vì nó cung cấp nhiều loại bảo vệ cho
người tìm kiếm. Nó không chỉ bảo vệ người đó khỏi sự ồn ào và hối hả của thế giới
bên ngoài; nó cũng bảo vệ người đó khỏi những rung động đa dạng gây thương tổn
nhà yoga. Cái hang thuộc một loại đá đặc biệt có nhiều ý nghĩa. Đá đặc biệt,
như đá cẩm thạch, ngăn cản nhiều rung động không cho đưa vào trong hang. Đó là
lí do tại sao đá cẩm thạch được dùng rộng rãi trong việc xây dựng đền chùa. Bởi
vì đá cẩm thạch mà những rung động nào đó bị giữ lại không vào trong đền chùa.
Cho nên đá cẩm thạch không chỉ được dùng với mục đích trang
trí đâu - như người ta vẫn hiểu chung chung như vậy - nó thực sự có ý nghĩa tâm
linh lớn đã được khám phá ra qua thực nghiệm lâu dài. Có những đá hấp thu những
loại rung động đặc biệt nào đó, do vậy ngăn cản chúng khỏi đi vào đền chùa. Một
số đá khác làm lệch hay đẩy lùi những rung động này. Và có những đá hấp dẫn các
rung động có ích cho kỉ luật tâm linh. Trong quá khứ, hang động với những hình
dạng và kích cỡ đặc biệt đã được khắc chạm, bởi vì thiết kế của hang cũng quan
trọng cho sadhana.
Nhưng chúng ta chẳng có ý tưởng gì, bởi vì toàn bộ khoa học của
nó đã bị thất lạc. Khi chúng ta làm ra chiếc xe ô tô, chúng ta làm ra nó với
thiết kế riêng. Điều này được thực hiện với một mắt dành cho tốc độ của xe. Chiếc
xe phải được thiết kế sao cho nó xé không khí và không tranh đấu với không khí.
Nếu chiếc xe phẳng ở phía trước, tốc độ của nó sẽ bị gò ép. Phía trước phải làm
sao để nó cắt qua không khí, không bị cản lại như mũi tên. Và bởi vì chiếc xe cắt
qua không khí với tốc độ cao, nên không khí xô vào chỗ chân không được tạo ra đằng
sau xe, bổ sung thêm cho tốc độ.
Bạn phải đã thấy chiếc cầu bắc qua sông Hằng tại Allahabad;
nó được xây dựng có khó khăn lớn. Dòng chảy của sông mạnh tới mức nó quét đi mọi
cột trụ của chiếc cầu mà các kĩ sư đã thăm dò với nỗ lực lớn để xây dựng. Hết cột
nọ tới cột kia phải được xây dựng và xây lại. Nhưng người xây dựng gặp phải một
khó khăn đặc biệt với một cột trụ đặc biệt; gần như không thể xây được nó. Khi
tất cả các cột khác đã sẵn sàng, cái cột này vẫn tiếp tục thách đố công nghệ hiện
đại. Thế rồi các kĩ sư động tới một kế hoạch khéo léo: Họ thiết kế cây cột trụ
này theo hình dáng chiếc giầy và nó trụ lại dòng nước mạnh mẽ. Nếu bạn quan sát
chiếc giầy của mình bạn sẽ thấy hình dáng của nó giúp cho bạn trong việc bước
đi; nó cắt qua thông khí. Cho nên cột trụ kiểu chiếc giầy có thể hấp thu được
chấn động của dòng chảy xô tới của sông Hằng.
Đó là lí do tại sao hang động có hình dáng và kích cỡ đặc biệt
và loại đá đặc biệt trong chúng.
Người tìm kiếm có thể phóng rung động của mình tới một giới hạn
nào đó của không gian của mình, và qua thực nghiệm người đó sẽ tự biết mình cần
bao nhiêu không gian để an toàn cho việc thực hiện sadhana của mình. Chẳng hạn,
nếu người đó đi tới biết rằng mình có thể rót đầy một diện tích sáu mươi tư
phít vuông (gần 6 mét vuông) bằng rung động riêng của mình, thì không gian đó sẽ
được xem như an toàn cho người đó. Thế thì người đó sẽ coi cái hang của mình phải
có số lỗ ít nhất - có lẽ là một sẽ đủ. Và một cửa này phải có hình dạng và kích
cỡ riêng của nó; nó phải bảo toàn rung động của người tìm kiếm và đồng thời giữ
các rung động không mong muốn khác không cho vào hang.
Nếu một số người tìm kiếm đã dùng một hang đặc biệt cho
sadhana này, cái hang đó thu được ý nghĩa phi thường, và người tìm kiếm mới có
thể rất được lợi bởi nó. Do đó một số hang đã được dùng trong nhiều năm không
gián đoạn.
Khi lần đầu tiên hang ở Ajanta được khai quật, chúng tất cả đều
đầy bùn. Và điều đó đã được thực hiện với một ý định, mặc dầu mọi người chịu
trách nhiệm cho công việc khai quật đã chẳng có ý tưởng gì về nó. Họ ngạc nhiên
thấy rằng mọi hang đều đã được chất đầy và bít kín cẩn thận bằng bùn nhão.
Chúng trông hệt như các tảng đá núi, nơi cây cỏ mọc tự do. Điều trở thành cần
thiết là lấp đầy các hang đó bằng bùn nhão, bởi vì thời điểm đã tới khi người
tìm kiếm trở nên hiếm hoi, và tính hữu dụng của chúng phải được bảo tồn cho thời
tương lai khi những người tìm kiếm mới có sẵn, những người sẽ cần tới chúng.
Các hang ở Ajanta chưa bao giờ được ngụ ý dành cho khách du lịch
và người tham quan những người hiện tại đang dùng chúng. Chúng không dành cho
khách thăm quan; khách thăm thực tế đã phá huỷ mọi thứ quí giá về chúng. Bây giờ
chúng không có giá trị tâm linh.
Mặc dầu hang thiếu ô xi, nó có ưu thế khác cho người tìm kiếm.
Và sadhana hay kỉ luật tâm linh là việc phức hợp; có nhiều khía cạnh của nó.
Cái hang là tốt cho người tìm kiếm cao cấp. Và người tìm kiếm không phải bị hạn
chế ở trong hang hết ngày nọ tới ngày kia; người đó thỉnh thoảng còn đi ra
ngoài. Một phần của sadhana của người đó được thực hiện bên ngoài hang, nếu điều
đó là cần thiết phải làm như vậy. Người đó dùng cả hai - không gian bên trong
và bên ngoài hang.
Các đền chùa và đền thời Hồi giáo đã được thiết kế và xây dựng
theo chính ý định này; chúng được ngụ ý bảo tồn những loại rung động và năng lượng
đặc biệt, điều có ích cho sự phát triển của người tìm kiếm.
Thỉnh thoảng các bạn thấy, khi tới thăm một chỗ, rằng ý nghĩ
của các bạn bỗng nhiên thay đổi, mặc dầu các bạn không biết rằng chỗ đặc biệt
này có dúng tay vào đó. Các bạn cho rằng sự thay đổi đã xuất hiện bởi chính nó.
Nhiều lần các bạn thấy rằng khi tới thăm một người đặc biệt, các bạn thành người
khác - khác với điều các bạn đã là. Các bạn thấy rằng một khía cạnh khác của cá
tính bạn đã bước ra phía trước. Thế rồi các bạn cho rằng đấy chỉ là việc thay đổi
tâm trạng. Nhưng vấn đề không đơn giản thế.
Nhiều nghiên cứu đã được tiến hành theo hướng này. Chẳng hạn,
có các kim tự tháp ở Ai Cập. Các điều tra chuyên sâu đã được thực hiện để tìm
ra kim tự tháp là gì, tại sao chúng được làm ra và để làm gì. Ý định của việc
xây dựng những kim tự tháp khổng lồ như vậy là gì trong vùng đất hoang khô cằn,
trong sa mạc? Bao nhiêu tiền đã được chi ra cho việc xây dựng của họ? Bao nhiêu
năng lượng con người đã đổ vào để làm ra chúng? Nếu các cấu trúc khổng lồ như vậy
mà chỉ được ngụ ý để chôn vùi người chết, như chúng dường như vậy, thế thì đấy
là lãng phí khinh suất về tiền bạc và năng lượng con người.
Chân lí là ở chỗ các kim tự tháp này đã được xây dựng đặc biệt
cho những ý định tâm linh; chúng là chỗ mà sadhana tâm linh có thể được tiến
hành với sự thoải mái và ưu thế lớn lao. Và nó được dành cho các ý định tâm
linh mà các thi thể chết của những người đặc biệt được gìn giữ trong chúng.
Ở Tây Tạng, thi thể chết của các bồ tát vĩ đại, những linh hồn
cao cấp, một số trong chúng có hàng nghìn tuổi - đã được gìn giữ trong những
hang rất sâu và bí mật. Thân thể mà Phật đã có không phải là thân thể thường.
Ngay cả thân thể vật lí, với nó linh hồn vĩ đại của Phật đã được liên kết với
trong tám mươi năm, cũng không phải là vật bình thường. Nó quí giá và vĩ đại vô
cùng. Thân thể này đã hấp thu và đồng hoá những rung động hiếm hoi của Phật
trong tám mươi năm. Khó mà nói liệu một hiện tượng như thế có xảy ra trên trái
đất này lần nữa không.
Sau khi bị đóng đinh thân thể chết của Jesus đã được giữ
trong hang. Nó được dự định đem đi chôn vào ngày hôm sau, nhưng người ta không
tìm thấy nó nữa. Điều đó tiếp tục là bí ẩn cho người Ki tô giáo làm sao thân thể
chết của ông ấy biến mất, và điều gì đã xảy ra cho nó. Có câu chuyện về sự phục
sinh của ông ấy nói rằng các đệ tử của ông ấy đã thấy Jesus vài ngày sau việc
đóng đinh. Nhưng câu hỏi vẫn còn lại: điều gì đã xảy ra cho Jesus sau khi ông ấy
được phục sinh và khi nào ông ấy chết lần nữa?
Nhưng chính điều bí ẩn là chẳng có gì được biết về Jesus sau
việc phục sinh cả. Người Ki tô giáo không có giải thích bất kì điều gì về Jesus
được phục sinh. Sự kiện là ở chỗ thân thể chết của Jesus quí giá tới mức nó lập
tức phải bị bỏ khỏi hang để đặt vào chỗ nó có thể được gìn giữ an toàn trong thời
gian dài. Và thông tin này phải được canh giữ bí mật để giữ an toàn cho thân thể
chết. Một người như Jesus thực sự hiếm hoi trong cả lịch sử.
Cho nên các kim tự tháp này của Ai Cập - kể cả cấu trúc của
chúng, sân của chúng, các tính năng đặc biệt của chúng - đều có nghĩa và ý
nghĩa cao.
(Tại đây trong câu trả lời cho câu hỏi không nghe được Osho
nói rằng đó là vấn đề khác và Thầy sẽ thảo luận nó riêng ra.)
Người hỏi: khi chúng tôi vào thiền sâu, thân thể trở thành trơ ì và việc thở yếu,
điều có thể gây ra thiếu ô xi trong thân thể. Xin thầy giải thích hiện tượng
này trong hoàn cảnh của thiền và samadhi - như cực lạc.
Thực tế, khi việc thở đã đạt tới mạnh mẽ đầy đủ của nó và một
lỗ hổng được tạo ra giữa bạn và thân thể bạn, khi việc ngủ của bạn và phần thức
dường như tách biệt lẫn nhau, thế thì các bạn sẽ bắt đầu đi tới phần thức tỉnh
của mình. Tại giai đoạn này thân thể thôi không cần ô xi thêm nữa. Bây giờ điều
tốt là thân thể đi vào giấc ngủ, là nó trở thành trơ ì, cũng như chết. Bây giờ
sinh lực của bạn không hướng tới thân thể nữa, thay vì thế nó bắt đầu chuyển tới
linh hồn.
Chính thân thể mới cần ô xi, linh hồn không có nhu cầu thực về
ô xi. Bạn có theo được tôi nói không? Thân thể cần ô xi; và khi sinh lực của bạn
chuyển tới linh hồn, thân thể cần lượng ô xi tối thiểu - chỉ đủ để giữ cho nó sống.
Nó không cần quá mức tối thiểu, và điều đó sẽ cản trở tiến bộ của bạn nếu thân
thể nhận được nhiều ô xi tại giai đoạn này.
Do đó điều đáng phải làm là thở chậm lại và trở nên nhẹ và yếu.
Việc thở là hữu dụng để đánh thức năng lượng, và một khi năng lượng này thức dậy,
việc thở dừng tính hữu ích đó. Bây giờ thân thể bạn có thể tồn tại với việc thở
tối thiểu. Và do vậy sẽ có một khoảnh khắc nó sẽ đi tới dừng hoàn toàn. Nó phải
dừng lại.
Trong thực tế, khi bạn đạt tới điểm cân bằng đúng, điều chúng
ta gọi là samadhi, việc thở sẽ dừng lại. Nhưng chúng ta không có ý tưởng gì về
việc dừng thở này nghĩa là gì. Nếu bạn muốn biết điều đó ngay bây giờ bạn có thể
dừng việc thở lại, nhưng điều đó sẽ là vô nghĩa. Các bạn không thể biết được nó
bằng kinh nghiệm qua việc cố ý dừng nó. Điều này sẽ không là cùng kinh nghiệm
mà bạn có trong thiền sâu.
Chúng ta đều quen thuộc với hai cách thở: thở vào và thở ra.
Nhưng một khoảnh khắc tới, và nó tới tại đỉnh cao của thiền, khi việc thở dừng
lại nửa chừng giữa hít vào và thở ra. Khi khoảnh khắc như vậy tới các bạn sẽ cảm
thấy rằng việc thở của mình đã dừng và rằng bạn sắp chết. Chắc chắn những khoảnh
khắc này sẽ tới.
Khi các bạn đi sâu hơn vào thiền, việc thở của các bạn trở
thành ngày một chậm hơn; dường như việc thở đã loãng ra. Đấy là vì các bạn
không cần ô xi nữa tại chiều sâu của thiền. Ô xi là cần tại giai đoạn khởi đầu
của nó. Điều đó cũng giống như tôi vặn chiếc chìa khoá trong ổ khoá để mở cửa.
Tôi có cần tiếp tục vặn chìa ngay cả sau khi nó đã làm xong việc của nó không?
Bây giờ chiếc chìa là vô dụng. Nó treo trong ổ khoá và tôi ở bên trong phòng. Bạn
có thể hỏi tại sao tôi không dùng chìa khoá khi tôi ở trong phòng. Không, chìa
khoá đã phục vụ cho ý định của nó; nó chỉ có nghĩa cho việc đi vào phòng.
Chừng nào mà kundalini còn chưa thức dậy, các bạn sẽ phải
dùng chìa khoá của việc thở với tất cả sức mạnh của bạn. Nhưng ngay khi nó được
đánh thức, việc thở trở thành không cần thiết. Bây giờ, khi bạn đang trong cuộc
hành trình nội tâm, thân thể bạn sẽ yêu cầu rất ít ô xi. Và thế thì bạn không
phải dùng ý chí của mình để dừng việc thở; nó sẽ chậm dần lại tới chỗ dừng, và
một khoảnh khắc sẽ tới khi mọi thứ sẽ dường như đã đi tới sự dừng lại. Trong thực
tế, đây là khoảnh khắc đó - khi việc thở dừng lại nửa chừng giữa hít vào và thở
ra - khi bạn ở vào trạng thái của cân bằng hoàn toàn, khi bạn ở trong cực lạc
hay samadhi. Trong chính khoảnh khắc này bạn biết sự tồn tại - không phải cuộc
sống.
Hiểu khác biệt này giữa việc biết cuộc sống và việc biết sự tồn
tại đi. Trong samadhi bạn biết sự tồn tại - không phải cuộc sống. Tri thức của
bạn về cuộc sống được nối với việc thở của bạn, bởi vì cuộc sống là ô xi, nó là
một phần của hơi thở. Trong samadhi bạn biết sự tồn tại nơi việc thở hoàn toàn
không cần thiết. Sự tồn tại là mênh mông. Sự tồn tại này bao gồm mọi thứ - nó
bao gồm hiện hữu của bạn, và núi non và các vì sao và toàn thể không gian.
Không có chuyển động bất kì cái gì; mọi thứ đều tĩnh tại và nghỉ ngơi trong sự
tồn tại. Thậm chí không một gợn sóng nảy sinh trong biển cả bình yên, thanh thản
và tĩnh lặng. Trong khoảnh khắc đó tất cả mọi rung động của việc thở của bạn sẽ
đi tới chỗ dừng; bản thân hơi thở sẽ dừng lại, bởi vì hơi thở không thể đi vào
trong tĩnh lặng này, cái trống rỗng này. Để một mình hơi thở, ngay cả cuộc sống
cũng không thể đi vào không gian này. Không bao giờ.
Cõi bên kia là ở bên ngoài cuộc sống nữa.
Nhớ lấy, rằng cái ở bên ngoài cái chết cũng ở bên ngoài cuộc
sống nữa. Do đó chúng ta không thể nói rằng Thượng đế đang sống; sẽ là ngớ ngẩn
mà nói như vậy. Vì ngài không phải là chủ thể cho cái chết, sẽ là vô nghĩa mà gọi
ngài sống. Sống là tương đối với chết; cái này không thể tồn tại mà không có
cái kia. Thượng đế không có cuộc sống; ngài có sự tồn tại - thay vì cuộc sống,
ngài là bản thân sự tồn tại. Tất nhiên, chúng ta những sinh linh sống đều đang
sống, chúng ta có cuộc sống. Khi chúng ta đi ra từ sự tồn tại, chúng ta có cuộc
sống. Và nó là cái chết của chúng ta khi chúng ta trở lại sự tồn tại một lần nữa.
Chẳng hạn, nó là cuộc sống khi con sóng phát sinh trong đại
dương. Trước khi con sóng phát sinh chỉ có đại dương, không có sóng. Cuộc sống
bắt đầu khi con sóng phát sinh; chính việc tới của con sóng đi vào hiện hữu,
vào cuộc sống. Và khi con sóng biến mất, chính đó là cái chết của con sóng này.
Việc dâng lên của nó là cuộc sống của nó; việc rơi xuống của nó là cái chết của
nó. Nhưng sự tồn tại của biển là không có sóng. Đại dương có đó cho dù sóng
không phát sinh, và nó sẽ có đó khi sóng đã chết. Và kinh nghiệm về sự tồn tại
đó, sự như nhau đó, sự tĩnh lặng đó, là samadhi hay cực lạc.
Cho nên samadhi không phải là việc kinh nghiệm về cuộc sống;
samadhi là việc kinh nghiệm sự tồn tại. Samadhi là mang tính tồn tại; hơi thở
không cần cho nó. Với samadhi hơi thở không có nghĩa. Cả hơi thở lẫn vô hơi thở
đều chẳng có nghĩa gì với samadhi. Nơi mọi thứ đi tới chỗ dừng đều có samadhi.
Do đó điều cần thiết là khi người tìm kiếm đi vào các trạng
thái sâu của thiền thì phải rất thận trọng và cẩn thận để giữ cho người đó sống.
Nhiều người được yêu cầu giúp cho người đó qua giờ phút gay cấn, bằng không người
đó có thể biến mất, người đó có thể bị mất hút trong cái bao la được biết là
samadhi. Nếu chăm sóc đúng không được thực hiện, người đó có thể không trở lại
từ chỗ tạm trú của mình vào sự tồn tại. Ramakrishna thường đạt tới trạng thái
này. Trong nhiều ngày ông ấy hay ở trong samadhi, được hấp thu vào sự tồn tại,
và việc trở về cuộc sống trở thành khó khăn cho ông ấy.
Ramakrishna là một hiền nhân rất đáng kính trọng, ông ấy biết
rộng và có được sự kính trọng lớn lao. Nhưng chúng ta không biết điều gì về người
đã cứu Ramakrishna cho thế giới. Một trong những người cháu của ông ấy sống
cùng ông ấy; chính anh ta là người luôn luôn cứu ông ấy khi ông ấy trượt vào trạng
thái như vậy. Anh ta thức đêm cùng ông ấy. Bất kì khi nào Ramakrishna đi vào
samadhi, người cháu này của ông ấy làm việc cần mẫn để giữ cho ông ấy sống; anh
ta nuôi ăn bắt buộc cho ông ấy bằng sữa và nước và các đồ ăn khác. Bất kì khi
nào việc thở của ông ấy bị dừng, anh ta xoa bóp cho ông ấy để phục hồi việc thở.
Anh ta đã làm mọi thứ để cứu ông ấy cho thế giới.
Toàn thế giới đi tới biết về Ramakrishna qua Vivekananda,
nhưng không ai biết người đã cứu ông ấy cho thế giới. Anh ta đã làm việc tận tuỵ,
anh ta đã dùng mọi thứ để phục vụ cho Ramakrishna, người có thể chết bất kì lúc
nào. Kinh nghiệm về samadhi phúc lạc vô cùng đến mức việc trở về từ nó trở
thành gần như không thể được. Trong khoảnh khắc đó có mọi khả năng mất hút
không thể thay đổi được.
Có điểm không quay lại, và nó gần với samadhi thế. Các trường
phái và tu viện và đạo tràng đi vào hiện hữu để dành cho chính ý định này: chỉ
để cứu những người tìm kiếm khỏi trượt vào điểm không quay lại. Các sannyasins
đã không xây dựng các trường phái và đạo tràng thì đã không kinh nghiệm samadhi
sâu. Các sannyasins lang thang - được biết như parivrajakas - người cứ di chuyển
từ chỗ này sang chỗ kia, đã bị thất vọng về kinh nghiệm tâm linh cao nhất này.
Để làm như vậy thì một nhóm, một trường phái là cần phải có.
Để đi sâu vào samadhi và, hơn nữa, để cứu những người tìm kiếm
khỏi cái chết, cần nhiều người biết về việc này. Các parivrajakas, để thoát khỏi
sự gắn bó, đã làm ra qui tắc rằng họ sẽ không ở một chỗ trong một thời gian
lâu. Nhưng người trở thành nạn nhân của sự gắn bó qua một thời gian dài có thể
trở thành như vậy ngay cả trong thời gian ngắn. Sự khác biệt sẽ là ở mức độ - sự
gắn bó của người đó sẽ là sự gắn bó nhỏ. Nó có thể là sự khác biệt giữa sự gắn
bó lâu ba tháng và sự gắn bó lâu ba ngày. Sự khác biệt sẽ là ở mức độ. Trường
phái parivrajakas nhất định đánh mất yoga và Samadhi trong thời gian dài, bởi
vì nhóm và công xã là cần để cứu họ.
Đó là một điều để đi vào samadhi - một cá nhân có thể làm điều
đó - nhưng vấn đề đem người đó trở lại là rất khác biệt. Không có khó khăn cho
tới giai đoạn thiền, nhưng khoảnh khắc của samadhi đòi hỏi sự thận trọng và
chăm nom lớn lao. Nó là khoảnh khắc mà sự việc trở thành khẩn thiết là bảo vệ
người tìm kiếm khỏi trượt vào trong vùng không trở lại. Người đó phải được cứu
để cho người đó đem lại cho chúng ta tin tức về cõi bên kia. Và người đó một
mình có thể đem tin tức đó, người đã hé nhìn vào trong nó qua samadhi, người có
thoáng nhìn về nó.
Bất kì điều gì chúng ta biết về nó đều tới chúng ta từ một
nhúm người đã trở về từ cõi bên kia đó. Nhưng với họ chúng ta hoàn toàn trong
bóng tối về nó. Các bạn không thể biết được nó qua suy nghĩ hay đồn đoán; không
có cách nào cho nó cả. Nó chỉ có thể được tiếp xúc trực tiếp và được kinh nghiệm.
Và rất thường là người đã tiếp xúc với cõi bên kia thấy khó quay trở về từ đó.
Người đó có thể bị mất mãi mãi; đó là điểm không quay lại. Đó là điểm từ đó người
ta nhảy vào trong hư không vô tận của không gian, nơi mọi con đường đều chấm dứt,
nơi tất cả mọi cây cầu đều gẫy.
Đó là lúc mà sự chăm sóc lớn lao được cần tới, khi công việc
lớn lao phải được làm. Về sau tôi thường có quan điểm rằng khi tôi đã chuẩn bị
cho các bạn về samadhi, các trường phái hay công xã sẽ rất là cần thiết. Nhóm,
và không phải cá nhân, sẽ là quan trọng cho bạn - nhóm sẽ chăm nom cho những
người sẽ đi vào samadhi; bằng không thì họ sẽ bị mất mãi mãi. Nhóm, trường phái
và công xã sẽ để mắt tới điều đó rằng người tìm kiếm được giúp đỡ để quay về từ
trạng thái đó, và rằng tri thức đó về kinh nghiệm tối cao này được gìn giữ cho
chúng ta. Bằng không thì có mọi nguy hiểm về việc bị mất của nó.
Người hỏi: trạng thái của việc thở là gì trong điều chúng ta
gọi là sahaj samadhi hay cực lạc tự nhiên?
Nó trở thành rất nhịp điệu, rất hài hoà, nó trở thành âm nhạc;
và có nhiều điều khác cho nó. Người mà hai mươi bốn giờ trong sahaj samadhi, có
tâm trí không vẩn vơ, người tĩnh lặng và yên tĩnh, người được đặt vào trong sự
tồn tại, người là một với nó, việc thở của người đó lấy nhịp điệu riêng của nó.
Và khi người đó không làm việc - không ăn, không nói không bước đi - thế thì việc
thở trở thành phúc lạc quá mức cho người đó. Thế thì chỉ việc hiện hữu, chỉ việc
thở cũng đem lại cho người đó vui sướng và phúc lạc đến mức không cái gì khác
có thể đem lại. Việc thở của người đó là rất nhịp điệu và hài hoà; nó biến
thành âm thanh vô âm, âm thanh của tiếng vỗ tay của một bàn tay.
Việc nếm trải kinh nghiệm siêu phàm đó có thể có được qua việc
thở theo cách đặc biệt. Đó là lí do tại sao kỉ luật của việc thở - của các nhà
yoga và những người khác - đã được phát triển trong quá khứ. Chẳng hạn, nếu một
người làm việc thở của mình thành nhịp điệu và hài hoà như việc thở của người
trong sahaj samadhi, người đó sẽ biết yên tĩnh và an bình là gì. Pranayam và
các kĩ thuật thở khác đã được phát triển qua việc quan sát cách thở và tác động
của nó trong sự gần gũi với một số người đã vào trong samadhi. Và chúng là rất
có ích.
Việc thở trong trạng thái samadhi được thu về mức tối thiểu của
nó, bởi vì trong samadhi cuộc sống không có ý nghĩa như sự tồn tại, hay như sự
hiện hữu đang đấy. Với người trong samadhi một chiều hướng hoàn toàn mới đã mở
ra, điều thuộc về sự tồn tại và nơi việc thở và những thứ như nó là không cần
thiết. Bây giờ người đó đã vào liên miên trong chiều hướng đó, người đó tồn tại
trong chiều hướng đó. Người đó bây giờ dùng thân thể mình chỉ khi người đó phải
có quan hệ với chúng ta; bằng không người đó không dùng thân thể mình. Chính chỉ
để liên hệ với chúng ta mà người đó ăn, ngủ, tắm, mặc quần áo và làm các việc
khác mà thân thể cần. Đây chỉ là cách thức của người đó để liên hệ với chúng
ta.
Ngoại trừ để liên hệ với chúng ta người đó không cần thân thể
mình và việc thở và phần còn lại của nó. Trong bản thân họ thân thể và các chức
năng của nó không có nghĩa đối với người đó. Và việc thở của người đó trở thành
tối thiểu; người đó thở chỉ đủ để tạo ra sinh lực giữ cho người đó trong thân
thể. Do đó người đó có thể dễ dàng sống ở chỗ với rất ít ô xi.
Có những đền chùa và hang động cổ gần như chẳng có cửa và cửa
sổ nào; chúng không có cửa thông gió chút nào. Chúng trông lỗi thời thế đối với
thời hiện đại này, chúng hoàn toàn phản vệ sinh, khoa học về sức khoẻ. Tất cả
những đền chùa và hang động cổ đại này vẫn còn tồn tại, đều không có lối vào xứng
với cái tên.
Có những hang động không bố trí thông gió; người ta tự hỏi
làm sao luồng khí có thể đi vào chúng được. Điều này là vậy bởi vì những người
sống trong chúng đã không cần nhiều không khí. Trong thực tế, họ đã không muốn
nhiều không khí đi vào nơi tôn nghiêm của họ, bởi vì rung động của thế giới bên
ngoài do khí đem tới có thể phá huỷ các rung động tinh tú của hang, điều cần được
bảo vệ và gìn giữ. Chính với quan điểm để bảo vệ và gìn giữ kho năng lượng tinh
tú mà các đền chùa và hang động của thời xưa đã không có gì như hệ thống thông
gió cả.
Điều này là không thể được cho ngày nay. Để làm cho nó thành
có thể, sẽ cần xây dựng một loạt dài kỉ luật về thở. Để làm cho điều đó thành
có thể chúng ta sẽ cần đàn ông và đàn bà đã đạt tới samadhi.
Người hỏi: làm sao kĩ thuật phật giáo về anapanasati - quan
sát thường xuyên hơi thở của người ta - ảnh hưởng tới trạng thái của ô xi trong
thân thể chúng ta?
Anapanasati có tác động lớn tới ô xi thân thể chúng ta. Đây
là câu hỏi hay cần được hiểu đúng. Mọi hoạt động của cuộc sống, mọi chức năng của
thân thể chúng ta đều được làm nhanh lên khi chúng ta chú ý tới nó. Phần lớn
các chức năng thân thể là tự trị; bạn không phải chú ý tới chúng, nhưng khi bạn
chú ý thì chúng bị ảnh hưởng.
Chẳng hạn, khi bác sĩ đặt ngón tay lên mạch của bạn, xung mạch
của bạn đập không còn như cũ, nó lập tức nhanh hơn một chút; nó nhiều hơn là nó
đã vậy trước đây. Nó là vậy bởi vì nó đã nhận được sự chú ý, sự chú ý của hai
người - của bác sĩ và của bạn. Và nó sẽ nhanh chóng thêm nhiều nếu bác sĩ ngẫu
nhiên là người khác giới, vì bây giờ nó sẽ nhận được nhiều chú ý hơn. Bạn có thể
thử điều đó như thế này: tự kiểm tra mạch đập của bạn trước, và rồi quan sát
trong mười phút nó đập thế nào và rồi kiểm tra nó lần nữa. Bạn sẽ thấy rằng mạch
của bạn đã thay đổi, nó đã nhanh lên. Chú ý có tác dụng như tác nhân xúc tác để
làm nhanh mạch đập của bạn, hay cũng vấn đề đó với bất kì chức năng nào của
thân thể.
Kĩ thuật anapanasati cực kì có giá trị. Nó là cách quan sát
việc thở riêng của bạn. Bạn không phải làm gì về nó cả; bạn không phải can thiệp
vào việc thở của mình hay thở theo bất kì cách đặc biệt nào. Bạn chỉ phải quan
sát nó như nó đang đấy. Nhưng điều cũng đúng là ngay khi bạn bắt đầu quan sát
nó, thì việc thở của bạn trở thành nhanh hơn chút ít. Điều đó là không tránh khỏi.
Với quan sát của bạn, cách bạn thở sẽ thay đổi, và nó sẽ nhanh hơn trước đây.
Việc thay đổi này và bản thân việc quan sát chỉ ra kết quả.
Nhưng mục tiêu chính của anapanasati không phải là đem bất kì
thay đổi nào vào hình mẫu thở của bạn; mục tiêu chính là chỉ quan sát hơi thở của
bạn như nó vậy. Bởi vì khi bạn quan sát việc thở của mình, và quan sát nó thường
xuyên, dần dần bạn bắt đầu tách bản thân mình ra khỏi nó; xuất hiện một lỗ hổng
giữa bạn và việc thở của bạn. Bởi vì khi ai đó quan sát cái gì đó, lập tức người
quan sát trở thành tách rời với cái được quan sát.
Trong thực tế, người quan sát không thể là một với cái được
quan sát. Khoảnh khắc bạn biến cái gì đó thành cái được quan sát, bạn tự tách
mình khỏi đối tượng quan sát của mình - bạn trở thành khác với nó. Vì bạn đã
làm hơi thở của mình thành cái được quan sát, và bạn đã quan sát cách nó làm việc,
nên bạn trở thành xa khỏi nó trong chính quá trình quan sát này. Và thế rồi một
ngày nào đó bạn sẽ thấy rằng trong khi việc thở diễn ra bạn ở khoảng cách xa
đáng kể với nó.
Anapanasati yoga đem tới sự tách biệt của bạn với thân thể; bạn
thực sự kinh nghiệm nó.
Bạn có thể thử anapanasati theo nhiều cách. Nếu bạn quan sát
cách bạn bước - nếu bạn chỉ quan sát cách chân phải giơ lên và chuyển động, và
thế rồi chân trái giơ lên và chuyển động - nếu bạn chỉ quan sát chuyển động của
chân mình, bạn sẽ thấy trong thời gian hai tuần rằng bạn hoàn toàn tách khỏi
chân mình. Bạn sẽ thấy rõ ràng chân mình là cái được quan sát và bạn vẫn còn là
người quan sát. Chân riêng của bạn sẽ dường như vận hành một cách máy móc. Một
người như vậy có thể nói rằng khi bước người đó không bước, khi nói người đó
không nói, khi ăn người đó không ăn, khi ngủ người đó không ngủ. Và người đó là
phải.
Nhưng rất khó để hiểu một người như vậy, người đã trở thành
người quan sát trên núi. Nếu người đó là nhân chứng cho việc bước của mình, nếu
người đó thực sự không bước trong khi bước, thì duy nhất người đó thực sự thấy
điều đó như vậy; sẽ khó cho người khác ngay cả để hiểu điều đó. Nếu người đó là
nhân chứng cho việc nói của mình, người đó sẽ không nói trong khi nói, người đó
sẽ vẫn còn là nhân chứng một mình.
Anapanasati là kĩ thuật có ý nghĩa; nó làm cho bạn thành nhân
chứng, linh hồn chứng kiến, nhưng nó khác với kundalini.
Người hỏi: có thể rằng qua việc thở sâu và mạnh mẽ một lượng
ô xi quá mức đi vào phổi của người tìm kiếm gây hại lớn cho người đó. Thầy nói
gì?
Thực tế, không người nào dùng phổi mình đầy đủ trong khi thở.
Đại thể có sáu nghìn bao khí trong phổi người ta, trong số đó khó có được nghìn
rưởi hay hai nghìn bao đầy ô xi nếu người đó ngẫu nhiên rất mạnh khoẻ và người
đó thở bình thường. Phần các túi khí còn đầy các bô nic, vốn là cái tên khác
cho rác bẩn. Do đó khó mà tìm ra một người lấy nhiều ô xi hơn mức cần thiết.
Người lấy được khối lượng ô xi cần thiết cũng là hiếm. Phần lớn phổi chúng ta vẫn
còn không được sử dụng tới.
Thực sự là điều lớn lao nếu bạn có thể rót đầy toàn thể phổi
của mình bằng ô xi; điều đó sẽ dẫn tới sự mở rộng lớn lao tâm thức bạn. Cuộc sống
bạn mở rộng thế nào có thể biết được từ khối lượng ô xi bạn mang trong phổi
mình. Càng nhiều ô xi, càng nhiều cuộc sống. Và nếu bạn có thể rót đầy toàn bộ
phổi mình bằng ô xi, bạn sẽ ở cực đỉnh của cuộc sống.
Chính ô xi tạo ra sự khác biệt giữa người mạnh khoẻ và người ốm
yếu. Người ốm yếu là người lấy vào rất ít ô xi qua việc thở. Đó là lí do tại
sao một số người ốm phải được cấp cho ô xi qua phương tiện nhân tạo. Họ sẽ chết
nếu họ bị bỏ lại với chính họ. Mạnh khoẻ và ốm yếu có thể được đo bằng việc lấy
vào ô xi. Đó là cách việc chạy làm cho bạn mạnh khoẻ, bởi vì việc chạy đem tới
cho bạn nhiều ô xi. Mọi bài tập thể chất đều có ích bởi chính lí do này. Bất kì
hoạt động nào thêm cho kho ô xi của bạn đều có ích cho mạnh khoẻ của bạn. Và điều
làm cạn kiệt nguồn dự trữ ô xi của bạn là làm hại tới sự mạnh khoẻ của bạn; nó
sẽ gây ra ốm bệnh.
Nhưng sự kiện còn lại là bạn chưa bao giờ thở tới đầy khả
năng phổi của bạn; bạn chưa bao giờ lấy vào nhiều ô xi như bạn có thể lấy vào.
Cho nên vấn đề lấy nhiều hơn điều cần thiết đơn giản không nảy sinh. Bạn không
thể lấy nhiều hơn cái mà phổi có thể chứa; bạn không thể lấy nhiều hơn việc làm
đầy của nó. Đó là việc khó làm thế.
Người hỏi: cùng với ô xi chúng ta lấy vào các khí khác như ni
tơ và hidro với việc thở của mình. Tất cả những khí này có ích cho thiền không?
Những khí này tuyệt đối có ích cho thiền. Bất kì cái gì có đó
trong không khí - không chỉ là ô xi mà nhiều thứ khác - đều có ích cho cuộc sống.
Chính bởi vì chúng mà các bạn sống. Không có cuộc sống trên một hành tinh hay
hành tinh vệ tinh nơi những khí này không sẵn có theo đúng tỉ lệ. Chính chúng
làm cho cuộc sống thành có thể. Do đó bạn không cần lo nghĩ về điểm này.
Và bạn thở càng mãnh liệt và mạnh mẽ, thì bạn sẽ càng được lợi.
Trong trạng thái thở sâu và nhanh chỉ ô xi mới có thể đi vào hệ thống của bạn với
số lượng tối đa; mọi thứ khác sẽ bị bỏ ra. Và ngay cả những khí khác này cũng
là chất có ích của cuộc sống; chúng không có hại.
Người hỏi: làm sao thân thể bắt đầu cảm thấy nhẹ sau khi thở
sâu và nhanh?
Đúng là thân thể sẽ cảm thấy nhẹ sau việc thiền này. Nó sẽ là
như vậy bởi vì ý thức của chúng ta về thân thể là ý thức về sự nặng. Điều chúng
ta gọi là sự nặng thì không là gì nhiều hơn nhận biết của chúng ta về thân thể.
Thân thể vẫn nặng với người ốm cho dù người đó chỉ có da và mạch. Nhưng người mạnh
khoẻ, cho dù người ấy cân nặng, vẫn mang thân thể mình rất nhẹ nhàng. Cho nên
thực sự là thân-tâm của chúng ta là cái cảm thấy như đè nặng lên chúng ta.
Và chúng ta trở nên ý thức tới thân thể mình chỉ khi nó đau,
khi nó ốm. Chúng ta trở nên có ý thức về chân mình khi chúng đau. Chúng ta trở
nên nhận biết về đầu mình khi nó đau. Nếu không có cái đau thân thể, chúng ta sẽ
chẳng bao giờ nhận biết về thân thể mình. Ý thức này là cách đo đau khổ của
chúng ta.
Chúng ta định nghĩa người mạnh khoẻ là người cảm thấy dường
như mình vô thân thể. Người không cảm thấy rằng mình là thân thể, người có cảm
giác vô thân thể, thực sự là người mạnh khoẻ. Và nếu người đó bị đồng nhất với
một phần đặc biệt của thân thể mình thì có thể nói rằng phần này của thân thể
người đó bị ốm.
Khi khối lượng ô xi tăng lên và khi kundalini thức dậy, bạn sẽ
bắt đầu có những kinh nghiệm không phải là thân thể; chúng thuộc về linh hồn
hay atman. Và theo số lượng các kinh nghiệm tinh tế này bạn sẽ đồng thời cảm thấy
nhẹ nhõm, một loại phi trọng lượng phi thường. Nhiều người sẽ cảm thấy dường
như họ đang bay. Không phải là họ thực sự bay - biến cố bay thực xảy ra chỉ một
lần trong khoảng thời gian dài. Nhưng bởi vì cảm giác vô trọng lượng, nên bạn cảm
thấy rằng mình đang bay. Nếu bạn mở mắt và nhìn, bạn sẽ thấy rằng bạn đang ngồi
trên đất. Nhưng sao có cảm giác bay bổng này?
Sự kiện là ở chỗ tâm trí chúng ta, ở chiều sâu bên trong nhất
của nó, không biết tới ngôn ngữ nào như chúng ta biết. Nó chỉ biết ngôn ngữ
hình ảnh, tượng trưng. Cho nên khi bạn kinh nghiệm vô trọng lượng, vô trọng lượng
hoàn toàn, thì tâm trí bạn diễn đạt nó theo ngôn ngữ của hình ảnh. Nó không nói
ra lời rằng đó là vô trọng lượng, nó vẽ hình ảnh điều đó như hành động bay, nó
cảm thấy việc bay.
Tâm trí sâu của chúng ta, tâm trí vô thức của chúng ta không
nghĩ theo lời, nó nghĩ theo hình ảnh, theo biểu tượng. Đó là lí do tại sao các
giấc mơ của chúng ta trong đêm chỉ có hình ảnh và hầu như không có lời nào. Tâm
trí mơ phải biến đổi mọi thứ - kể cả kinh nghiệm và ý nghĩ - thành hình ảnh. Bởi
lí do này khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng chúng ta thấy khó hiểu giấc mơ
riêng của mình. Ngôn ngữ chúng ta biết và dùng trong giờ thức là hoàn toàn khác
với ngôn ngữ hình ảnh của giấc mơ. Hai ngôn ngữ này hoàn toàn xa lạ với nhau,
và do đó những nhà diễn giải lớn kiểu như bác học, nhà tâm lí và nhà phân tâm
được cần tới để diễn giải chúng cho chúng ta. Chúng ta chẳng thể làm được
gì với chúng.
Bây giờ ai đó đang tham vọng. Làm sao người đó diễn đạt tham
vọng của mình khi người đó mơ? Người đó sẽ biến thành con chim tung cánh trên
trời cao. Thế rồi người đó sẽ ở trên đỉnh của mọi thứ, bỏ toàn thế giới lại sau
mình. Tham vọng trong mơ lấy hình dạng của chuyến bay - người ta mơ rằng người
ta đang bay và bay. Tất cả những người tham vọng đều có giấc mơ về việc bay.
Nhưng từ tham vọng sẽ không bao giờ tìm được chỗ trong giấc mơ. Cho nên sau khi
tỉnh dậy vào buổi sáng người này tự hỏi tại sao mình đã bay trong giấc mơ của
mình.
Chính tham vọng của người đó đã biến thành con chim bay trong
mơ.
Cùng cách này khi chúng ta đi vào chiều sâu của thiền, việc
vô trọng lượng được cảm thấy như bay. Vô trọng lượng thực sự có thể được làm
thành hình ảnh chỉ như việc bay, không có cách khác.
Và thỉnh thoảng thân thể thực tế bay trong trạng thái cực kì
vô trọng lượng.
Người hỏi: nó tạo ra nhiều nhiệt nữa.
Điều đó nữa cũng là có thể. Nó là có thể bởi vì toàn thể bộ
máy bên trong của bạn trải qua thay đổi. Tất cả mọi mối nối của bạn với thân thể
bắt đầu bị chùng ra, và những mối nối mới bắt đầu hình thành vào chỗ của chúng.
Những cây cầu cũ bị gẫy và cây cầu mới được lập ra. Những cánh cửa cũ đóng lại
và những cánh cửa mới mở ra. Cho nên toàn thể ngôi nhà đều bị thay đổi. Đó là
lí do tại sao bạn cho rằng nhiều điều bên trong bạn đang vỡ ra, và thế rồi bạn
cảm thấy hoảng sợ. Điều đó là tự nhiên, bởi vì toàn thể hệ thống trải qua trạng
thái xáo trộn và mất trật tự. Nó xảy ra vào lúc chuyển đổi.
Người hỏi: nhiều lúc trong thiền dường như là cái gì đó bên
trong đã nổ ra, và kinh nghiệm này thật đáng sợ.
Điều đó là có thể, điều đó tuyệt đối là có thể.
Người hỏi: người ta phải không được hoảng sợ chứ?
Sợ hãi là không cần thiết, mặc dầu điều tự nhiên là bạn cảm
thấy sợ.
Khi một trật tự mới nảy sinh ra từ sự hỗn loạn này, nó sẽ
hoàn toàn khác với trật tự cũ, nó sẽ là duy nhất vô song. Thế thì bạn sẽ quên rằng
cái gì đó như trật tự cũ đã từng tồn tại. Và ngay cả khi bạn nhớ tới nó bạn sẽ
tự hỏi làm sao trên trái đất này bạn có thể chịu đựng được nó.
Và điều này là có thể.
Người hỏi: Có cần làm nỗ lực để thở sâu và hỏi "Tôi là
ai?" không ngay cả sau khi shaktipat hay việc truyền năng lượng đã xảy ra,
hay chúng sẽ xảy ra một cách tự nhiên và theo cách riêng của chúng?
Khi việc thở và hỏi trở thành tự nhiên, câu hỏi này không nảy
sinh. Thế thì bản thân câu hỏi này sẽ dường như là phi tự nhiên. Vấn đề chấm dứt
với mọi thứ mang tính tự nhiên. Nhưng nhiều lần, nhiều thứ trước khi nó xảy ra,
tâm trí sẽ thuyết phục bạn tin rằng nó đã xảy ra và rằng bây giờ chẳng ích gì
mà tiếp tục nỗ lực này. Chừng nào mà tâm trí còn tiếp tục thuyết phục bạn, bạn
không nên thảnh thơi, bạn không nên từ bỏ nỗ lực này. Cho tới lúc đó bạn vẫn phải
tiếp tục với việc hỏi, "Tôi là ai?" bởi vì tâm trí vẫn có đó, nó vẫn
sống sót. Chính tâm trí đang biện luận với bạn và cố gắng thuyết phục bạn.
Tuy nhiên một ngày sẽ tới khi bạn sẽ thấy rằng không cần phải
làm gì nữa. Thế thì bạn sẽ không có khả năng làm việc gì cho dù bạn muốn làm, bởi
vì bạn có thể hỏi "Tôi là ai?" lâu chừng nào bạn còn chưa biết mình
là ai. Cái ngày bạn đi tới biết mình là ai, câu hỏi này sẽ không nảy sinh nữa.
Thế thì sẽ rất ngớ ngẩn mà đi hỏi nó, bởi vì bạn biết.
Chừng nào tôi còn chưa biết cửa ở đâu, tôi sẽ đưa ra vài câu
hỏi nồng nhiệt về nó, nhưng một khi tôi đi tới biết, câu hỏi này sẽ tự nó loại
bỏ đi. Thế thì tôi sẽ không hỏi liệu tôi có nên hỏi câu hỏi này hay không. Nó
là không cần thiết, nó là vô nghĩa. Chúng ta hỏi chừng nào chúng ta không biết
một điều; ngay khi chúng ta biết nó, vấn đề chấm dứt. Ngay khi bạn nhận ra mình
là ai, thế giới các câu hỏi đi đến chấm dứt. Và khi bạn đã lấy bước nhảy vào
cõi bên kia, thế thì chẳng cái gì còn lại để được làm nữa. Thế thì bất kì cái
gì bạn làm, nó đều là thiền. Bạn bước đi và đó là thiền. Bạn ngồi và đó là thiền.
Thế thì im lặng của bạn là thiền, và việc nói của bạn cũng là thiền. Cho dù bạn
đánh nhau, đó cũng là thiền. Điều bạn làm không khác biệt.
Người hỏi: dưới tác động của shaktipat hay việc truyền năng
lượng, thở sâu xảy ra theo cách riêng của nó. Nhưng nhiều lúc thân thể thảnh
thơi và việc thở chậm lại. Người ta có nên tiếp tục nỗ lực trong những khoảnh
như vậy không?
Cũng là tốt nếu bạn làm như vậy. Vấn đề không phải là liệu việc
thở có tiếp tục hay làm chậm lại. Không thành vấn đề gì mấy nếu việc
thở đi tới điểm dừng lại. Câu hỏi là liệu bạn đã đưa đủ nỗ lực vào hay không.
Điều có ý nghĩa là nỗ lực của bạn, không phải là kết quả của nỗ lực của bạn. Vấn
đề là ở chỗ bạn phải làm hết sức mình, ở chỗ bạn phải đánh cược tất cả mọi thứ
của mình.
Tâm trí rất tinh ranh trong việc tìm ra lối thoát. Nó làm mọi
thứ để tự bảo vệ mình. Nó nói, "Bởi vì chẳng cái gì xảy ra cả, nên đây là
lúc mình từ bỏ nỗ lực." Tâm trí rất điêu luyện đến mức trong cả ngày nó có
thể gợi ý hàng trăm cách trốn chạy và hàng trăm cớ và cách hợp lí hoá. Nó có thể
đi tới cả tràng dài kể cho bạn rằng bạn sẽ chết ngạt, bạn sẽ chết nếu bạn theo
đuổi nỗ lực của mình thêm nữa.
Chớ nghe lời tâm trí. Bảo tâm trí của bạn, "Chết ngạt và
chết đi chính là phúc lạc đấy." Đó là vấn đề khác nếu việc thở dừng lại
theo cách riêng của nó, nhưng về phần mình bạn phải tiếp tục phấn đấu. Bạn
không nên giữ lại cái gì từ phía mình. Đừng giữ lại cho dù một chút ít, bởi vì
đôi khi ngay cả cái chút ít đó cũng có thể mang tính quyết định và định mệnh.
Chẳng ai biết cái gì sẽ là cọng rơm cuối cùng thêm vào trên
lưng con lạc đà. Chính cọng rơm cuối cùng đó làm cho con lạc đà quị xuống. Cứ
giả dụ rằng bạn đã đặt một tải trọng lớn lên lưng lạc đà, nhưng thế vẫn chưa đủ
để làm cho nó quị xuống. Có thể cọng rơm cuối cùng vẫn còn thiếu, cái sẽ quyết
định vấn đề, bởi vì đó bao giờ cũng là cọng rơm cuối cùng sẽ quyết định. Không
phải là cọng rơm đầu tiên, mà cọng rơm cuối cùng mới chứng tỏ là định mệnh. Có
thể bạn đã chất nặng lên con lạc đà bằng 99.99 pao cỏ khô, và điều đó vẫn không
làm cho con lạc đà quị xuống. Nó vẫn đợi cọng cỏ cuối cùng - .001 pao.
Cố gắng hiểu điều đó theo cách này. Bạn đang cố gắng phá cái
khoá móc bằng chiếc búa. Bạn đã nện chín mươi chín nhát búa và chiếc khoá vẫn
chưa chịu vỡ ra. Và bây giờ, bị mệt rồi, bạn đánh cú thứ một trăm rất nhẹ.
Nhưng khoá vỡ ra với cú đánh nhẹ này. Cho nên đôi khi những điều rất nhỏ chứng
tỏ là nhân tố quyết định; đôi khi chỉ một cọng rơm cũng trở thành quyết định. Để
cho mọi người đừng nói là bạn đã làm mọi thứ, ấy vậy mà chệch mục tiêu mỗi một
li. Dù bạn có bị chệch một li hay một dặm, nó vẫn là như nhau. Nếu bạn bỏ lỡ
nó, bạn bỏ lỡ nó toàn bộ.
Điều như vậy đã xảy ra chỉ mới gần đây. Một người bạn đã thiền
như tất cả các bạn đây, trong ba ngày ở trại tại Amritsar. Anh ta là người có
giáo dục, một bác sĩ. Anh ta đã thiền và thiền, mà chẳng cái gì xảy ra cả. Và
thế rồi ngày cuối cùng tới. Tôi không biết gì về điều anh ta đã làm hay không
làm. Trong thực tế, tôi chẳng biết gì về anh ta cả. Vào ngày cuối cùng, trong
khi giải thích về kĩ thuật, tôi nói rằng nước biến thành hơi chỉ khi nó đạt tới
nhiệt độ một trăm độ. Nếu người ta dừng đun sôi tại chín mươi chín độ thì người
đó đừng phàn nàn rằng chỉ vì muốn thêm một độ mà nước từ chối biến thành hơi.
Cho dù bạn có cho nó lên 99.9 độ, nó vẫn cứ tiếp tục là nước. Cho dù một mẩu tí
xíu nhiệt bị thiếu nó vẫn từ chối thay đổi. Chỉ khi nó vượt qua vạch một trăm độ
nó mới biến thành hơi. Và không có cách khác. Qui tắc là qui tắc.
Anh ta tới tôi vào buổi tối hôm đó. Và anh ta nói rằng điều
tôi đã nói trong hoàn cảnh của nước biến thành hơi có tác dụng lắm với anh ta.
Trước đây anh ta đã coi rằng nếu nỗ lực của anh ta còn yếu, cái lợi anh ta thu
được từ thiền cũng yếu thế, nhưng dẫu sao thì vẫn có lợi. Khi anh ta nghe tôi,
anh ta nghĩ rằng anh ta đã lầm. Để nước biến thành hơi, việc đạt đúng một trăm
độ là điều phải có. Không phải là một lượng nhiệt độ nhỏ sẽ làm nước biến thành
hơi theo cách nhỏ. Nước sẽ không thay đổi chút nào trước khi nhiệt của nó đạt tới
một trăm độ; nó phải đi qua toàn bộ con đường. Và do vậy sáng hôm nay anh ta đã
đem tất cả nỗ lực của mình vào thiền, và anh ta ngạc nhiên thấy rằng cái gì đó
đã xảy ra. Điều anh ta đã làm trong ba ngày trước là vô ích. Anh ta đã chẳng
thu được gì ngoài mệt mỏi vào lúc cuối. Hôm nay anh ta không mệt chút nào, và
điều đáng chú ý nhất là ở chỗ anh thực sự đã làm được nó.
Do đó bao giờ cũng là cọng rơm cuối cùng tạo ra sự khác biệt
giữa những người làm nó và những người không làm nó.
Có một điều nữa cần phải ghi nhớ trong đầu. Trong khi thiền,
quan sát người ở phía bạn đang làm hết sức, bạn cho rằng ngay cả người đó cũng chẳng
làm ra tiến bộ nào, nói gì tới một mình bạn. Bạn sai khi nghĩ như vậy. Có khác
biệt giữa một trăm độ và một trăm độ. Một trăm độ của bạn không hệt như một
trăm độ của người khác. Có thể người khác có nhiều năng lượng dự trữ hơn bạn
có, và người đó không dùng hết tất cả nó, mặc dầu người đó làm tốt hơn bạn. Điều
đó giống thế này: Một người có năm trăm ru pi trong túi, và từ số đó người đó đặt
cược ba trăm ru pi vào đám đánh cá. Còn bạn chỉ có năm ru pi trong túi và từ đó
bạn lấy ra bốn đồng đánh cá. Tại đây bạn đánh cược nhiều hơn người đó; bạn vượt
trội hơn người đó.
Vấn đề không phải là bạn hay người khác đã chi ra bao nhiêu
tiền, vấn đề là tỉ số giữa cái bạn có và cái bạn đưa vào đánh bạc. Tỉ số đó mới
là vấn đề. Bạn sẽ thắng nếu bạn đánh cá tất cả năm đồng ru pi của mình. Còn người
kia sẽ thua cho dù người đó đánh cá bốn trăm chín mươi chín đồng ru pi. Để thắng
người đó sẽ phải đặt cược tất cả năm trăm đồng của mình.
Điều mang tính quan trọng tối thượng là ở chỗ bạn sẽ đánh cược
toàn bộ bản thân mình, ở chỗ bạn sẽ không để lại cho dù một li năng lượng và nỗ
lực. Đừng bao giờ cho rằng bạn đã làm đủ cho hiện tại, và rằng bạn sẽ cố gắng lần
sau. Khoảnh khắc bạn nghĩ vậy, bạn sẽ bắt đầu thoái lui, lùi lại sau.
Và điều thường xảy ra là những ý nghĩ như vậy bắt đầu tấn
công bạn ngay khi giờ quyết định tới, nơi bạn sắp làm được nó. Chính tại điểm
giao thời này mà tâm trí bạn bắt đầu hoảng sợ rằng bạn sẽ biến mất vào cái
không. Đó là khoảnh khắc của nguy hiểm nhất cho bạn như bản ngã, và đó cũng là
khoảnh khắc mang hậu quả lớn nhất, mang tính hoàn thành lớn nhất cho bạn như
linh hồn. Và chính trong khoảnh khắc này tâm trí bạn sẽ yêu cầu bạn từ bỏ, với
lời bào chữa rằng bạn đã làm đủ rồi, nước đã được đun nóng quá nhiều rồi, bất
kì khoảnh khắc nào nó cũng có thể biến thành hơi.
Khi tâm trí bạn cảm thấy nguy hiểm sắp xảy đến và hoảng sợ,
biết rằng đó là khoảnh khắc quyết định và quí giá nhất của thiền - khoảnh khắc
của hoàn thành. Chừng nào mà không có nguy hiểm, tâm trí sẽ yêu cầu bạn tiến
hành, nhưng ngay khi bạn tới gần nguy hiểm - chính là điểm sôi - tâm trí bạn sẽ
yêu cầu bạn dừng lại ngay lập tức. Tâm trí sẽ nói bạn đã làm hết mức mình rồi,
bây giờ không còn năng lượng để tiến hành thêm nữa.
Nhận biết về tâm trí mình khi khoảnh khắc quyết định này tới.
Nó đích xác là khoảnh khắc khi bạn đã mang tất cả năng lượng của mình vào hành
động. Nếu bạn bỏ lỡ khoảnh khắc đó bạn có thể bỏ lỡ trong nhiều năm. Đôi khi phải
mất nhiều năm để đạt tới nhiệt độ chín mươi chín độ. Và đôi khi bạn bỏ lỡ nó gần
lúc bạn đã chạm tới vạch một trăm độ. Và bạn bỏ lỡ nó vì những điều rất vụn vặt.
Cho nên đừng giữ lại mình; bằng không bạn sẽ lỡ.
Người hỏi: điều gì xảy ra nếu mạch máu bị hỏng bởi bị quá
căng mạch?
Thì cứ để cho chúng bị hỏng đi. Bạn sẽ làm gì bằng việc cứu
chúng? Hôm nay hay ngày mai chúng sẽ bị phá huỷ. Và bạn định làm gì sau khi cứu
chúng?
Người hỏi: sau rốt, chúng tôi không muốn chết trong trạng
thái dốt nát.
Nếu bạn lo nghĩ về mạch máu của mình, biết chắc rằng bạn sắp
chết trong trạng thái dốt nát. Bạn sẽ làm gì sau khi bạn đã cứu mạch máu của
mình? Khó khăn của chúng ta là ở chỗ chúng ta bao giờ cũng lo nghĩ về những điều
không quan trọng cho chúng ta.
Người hỏi: trong thực tế, chúng ta chỉ có chút ít; làm sao
chúng ta có thể đảm đương được việc mất nó?
Tôi tự hỏi liệu bạn có ngay cả cái chút ít đáng cứu ấy không.
Nếu bạn thực sự có, bạn sẽ không sợ bị mất nó. Bạn thậm chí không có ngần ấy. Bạn
giống như người trần trụi mà sợ mất quần áo của mình. Nỗi sợ này cho người trần
trụi sự thoả mãn giả tạo rằng mình sở hữu cái gì đó. Người đó nhận được sự hài
lòng từ ảo tưởng rằng mình có quần áo, người đó không bị trần trụi. Nếu người
đó có quần áo thực, người đó đã không sợ mất chúng. Sau rốt chúng chỉ là quần
áo thôi; cái gì xảy ra nếu chúng bị mất? Gạt bỏ nỗi sợ như vậy đi.
Tôi không ngụ ý nói rằng mạch máu các bạn sẽ thực tế không bị
hỏng. Và nếu chúng sẽ bị hỏng thì nó sẽ là vậy bởi vì nỗi sợ của chúng ta chứ
không phải bởi vì thiền. Nỗi sợ chắc chắn sẽ phá huỷ chúng; chính thực nỗi sợ
làm hỏng mạch máu bạn và nhiều thứ khác. Nhưng chúng ta không sợ theo lí do đó;
chúng ta không sợ nỗi sợ của mình.
Nếu bạn sợ, nếu bạn lo âu, nếu bạn căng thẳng, mạch máu của bạn
cùng với nhiều thứ khác sẽ bị hỏng bởi chính lí do này. Nhưng chúng ta không sợ
bởi điều đó. Chúng ta sợ thiền, điều không làm hỏng cái gì cả. Ngược lại, nó sẽ
sửa lại mọi hư hỏng đã xảy ra cho bạn.
Nhưng chúng ta níu bám lấy nỗi sợ của mình, và chúng ta trú ẩn
vào trong chúng. Và chúng ta cứ nói: Điều gì xảy ra nếu cái này hay cái nọ xảy
ra? Cho nên chúng ta làm mọi thứ để chạy trốn khỏi thiền. Nếu nó là vậy, tôi sẽ
nói: Sao ra đi tất cả thế? Nỗi sợ này, sự ngần ngại này, sự xung khắc này là
nguy hiểm. Thế thì đừng lại gần nó, kết thúc nó đi cho rồi.
Nhưng chúng ta vừa yêu vừa ghét; chúng ta muốn làm cả hai.
Chúng ta muốn thiền và đồng thời chúng ta muốn chạy trốn khỏi nó. Và thế thì
xung khắc này thực sự phá huỷ chúng ta. Thế thì chúng ta là trong đống lộn xộn
không cần thiết. Hàng nghìn người trong đống lộn xộn không cần thiết; họ muốn
tìm thấy Thượng đế và đồng thời họ sợ để cho ngài đương đầu với họ bất kì ngày
nào. Tâm trí kép này, tâm trí chia chẻ này mới là vấn đề. Tất cả mọi khó khăn của
chúng ta đều ở chỗ một phần tâm trí chúng ta muốn làm một việc và phần khác
không muốn làm nó. Hoài nghi và xung đột đã trở thành chính hơi thở của chúng
ta. Chẳng bao giờ xảy ra rằng điều chúng ta muốn làm, chúng ta muốn một cách
tuyệt đối. Cái ngày nó sẽ là như vậy, không cái gì sẽ tới trên con đường của bạn.
Ngày đó cuộc sống của bạn sẽ thu được tính năng động mà bạn chưa bao giờ biết.
Nhưng chúng ta đều trong tình trạng kì cục; chúng ta tiến lên
một bước rồi lập tức lùi lại bước khác. Chúng ta đặt một viên gạch vào đúng chỗ
của nó để xây ngôi nhà và khoảnh khắc tiếp chúng ta bỏ nó đi. Do vậy chúng ta
có cả hai - niềm vui của việc xây nhà và nỗi buồn của việc không làm xong nó.
Suốt cả ngày chúng ta xây nên bức tường và khi đêm tới chúng ta kéo đổ nó xuống
bằng chính đôi tay mình. Và thế rồi chúng ta than vãn làm sao xây nhà khó thế.
Chúng ta nên cố gắng hiểu cấu trúc mù quáng kép này của tâm
trí mình. Và cách duy nhất các bạn có thể hiểu được nó là thế này: được chuẩn bị
cho điều các bạn nghĩ là xấu nhất. Điều xấu nhất tưởng tượng này là ở chỗ các mạch
máu của bạn sẽ bị hỏng. Thì cứ để cho chúng hỏng đi. Các bạn sẽ làm gì nếu bạn
cứu vãn chúng, chẳng hạn, trong ba mươi hay bốn mươi năm? Các bạn sẽ là thư kí
trong văn phòng nào đó trong ba mươi năm này. Các bạn sẽ ăn, ngủ và sinh sản ra
con cái. Những đứa con này, đến lượt chúng, sẽ trưởng thành và trở thành chồng
và vợ, thế này thế nọ, như bạn thôi. Và khi bạn chết, bạn sẽ bỏ lại chúng đằng
sau để lo lắng về mạch máu của chúng bị hỏng. Bạn còn làm gì khác được nào?
Nếu chúng ta biết rằng cuộc sống mà chúng ta đang cố gắng cứu
vãn chẳng có gì trong nó đáng để cứu vãn, chỉ thế thì chúng ta mới dám đặt cược
tất cả mọi thứ của mình; bằng không thì đó là điều không thể được. Chúng ta phải
rất rõ ràng trong đầu mình rằng điều chúng ta cố gắng hăng hái thế để cứu vớt
chẳng đáng giá công sức. Chúng ta cũng biết rằng chẳng cái gì được cứu vớt mặc
cho tất cả mọi điều chúng ta làm để cứu vớt nó. Và nếu chúng ta hiểu điều đó một
cách rõ ràng, thế thì không có vấn đề về bất kì điều gì, ngay cả việc mạch máu
bị hỏng.
Mạch máu sẽ không thực sự bị hỏng. Điều đó chưa bao giờ xảy
ra trong quá khứ cả. Đó sẽ là sự kiện phi thường nếu bạn làm cho nó xảy ra. Các
bạn sẽ lập kỉ lục mới đó.
Osho
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét