Nhà thơ Xuân Diệu đã có một định nghĩa rất thú vị
và độc đáo về thơ và tình yêu: “Tình yêu và thơ là hai phạm trù mà trong đó cái
tuyệt vời thông minh kết hợp với cái tuyệt diệu ngây thơ, là hương đặc biệt của
một số tâm hồn thi sĩ và tình nhân” (1). Trong sự nghiệp cầm bút của mình, với
hơn 450 bài thơ tình để lại, Xuân Diệu đã minh chứng một điều: Tình yêu không
thể thiếu thơ và thơ không thể thiếu tình yêu. Với Xuân Diệu, tình yêu được coi
như một giá trị sống đích thực, tình yêu đáng được tôn thờ như một thứ “tôn
giáo” và thi sĩ đã tin vào tình yêu với một niềm tin thiêng liêng nhất… “Thiêng
liêng quá những chiều không dám nói…Ôi vô cùng trong một phút nhìn nhau” (Xuân
đầu). Chính niềm tin vào tình yêu với tất cả sự “ngoan đạo” của một “con
chiên” có trái tim yêu đến cuồng si, nồng nàn là cội nguồn khiến thơ tình Xuân
Diệu mang đậm sắc màu triết lý đặc biệt: Triết lý yêu. Và Triết
lý yêu là một trong những giá trị nhân văn độc đáo, sâu sắc nhất của thơ
tình Xuân Diệu.
Xưa nay tình yêu nam nữ vốn luôn hiện hữu với rất nhiều cung
bậc: Lãng mạn, mơ mộng, thiêng liêng, cao thượng, phàm tục, nhục thể, bi đát, đắm
đuối, si mê, lỗi lầm… như một nhận thức tất yếu về đời sống, thơ Xuân
Diệu cũng cắt nghĩa về tình yêu trên nhiều phương diện. Trước
hết, đối với thi sĩ yêu là nguồn sống: Làm sao sống được mà
không yêu/ Không nhớ, không thương một kẻ nào? (Bài ca tuổi nhỏ) .
Quả thật, cuộc sống đúng như thi sĩ quan niệm: “Đời
không ân ái đời vô vị/ Kiếp sống không yêu kiếp sống thừa”. Cuộc sống
thiếu tình yêu không phải là sống mà chỉ là sự tồn tại đơn điệu, vô nghĩa,
nhạt nhẽo. Không thể sống thiếu tình yêu vì con người sinh ra vốn là để sống và
yêu nói như Gớt: “chúng ta sinh ra trong tình yêu, lớn lên trong tình yêu và chết
đi trong tình yêu”. Tình yêu cho con người được trải nghiệm những cảm xúc
Người nhất: buồn, vui, thương, nhớ, đau khổ và hạnh phúc… Cuộc sống thiếu tình
yêu như mặt trời không có nắng, tình yêu tiếp thêm sinh lực cho con người,
tình yêu là nơi vực dậy tinh thần cho con người trên hành trình cuộc sống đầy
thử thách. Trong cái nhìn của người đang yêu vạn vật ánh lên những sắc màu tươi
vui, ánh sáng tràn ngập khắp cõi thế gian… Tình yêu khiến con người trở
nên cao thượng và nhân hậu, bao dung hơn. “Được yêu, một sự kiện quan trọng biết
bao! Yêu, càng trọng đại hơn nữa! Vì yêu, trái tim trở nên can đảm. Nó chỉ còn
toàn những gì thuần khiết, chỉ dựa vào những gì cao thượng và lớn lao” (Victor
Hugo).
Hơn ai hết Xuân Diệu thấu hiểu sâu sắc tình yêu cần thiết cho
cuộc sống con người đến nhường nào, con người chỉ có thể sống có ý nghĩa trong
sự gắn bó với tình yêu. Và có lẽ thế nên suốt cuộc đời mình, thi sĩ đã luôn
trong tâm thế đi tìm những cung bậc cảm xúc tình yêu, và thơ là nơi ông gửi gắm
bao cung bậc của con tim luôn tha thiết yêu đương đến si mê, cuồng nhiệt. Con
người ấy đã nhận kiếp trước ông đã yêu và kiếp này vẫn tiếp tục yêu, ngọn lửa
tình yêu dường như bất tận trong ông: Tôi đã yêu từ khi chưa có tuổi/ Lúc
chưa sinh vơ vẩn giữa luân hồi/ Tôi sẽ yêu khi đã hết tuổi rồi/ Không xương xóc
chỉ huyền hồ bóng dáng. (Đa tình)
Những người đã yêu, đang yêu và sẽ yêu mãi mãi không bao giờ
trả lời được trọn vẹn câu hỏi: tình yêu bắt đầu từ đâu? Và Xuân Diệu cũng vậy,
với một khát vọng truy tìm câu trả lời cho câu hỏi muôn thuở của nhân loại: Làm
sao cắt nghĩa được tình yêu? Thi sĩ đã đưa ra cách lý giải tưởng như rất vu vơ,
hồn nhiên ngây thơ nhưng lại đúng với quy luật tình cảm, tâm lý của con người: Có
khó gì đâu, một buổi chiều/ Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt/ Bằng mây nhè nhẹ,
gió hiu hiu (Vì sao)… Yêu giản dị chỉ là như vậy, yêu như hít thở khí
trời để sống, có duyên thì tình yêu tự đến, tình yêu nằm ngoài những toan tính,
sắp đặt… đối với Xuân Diệu khởi đầu cho một tình yêu đích thực là tiếng tơ lòng
rung động chân thành, đánh thức miền yêu nơi sâu thẳm nhất trong tâm hồn con
người. Trong thơ của ông người đọc có thể thấy rõ sự phát hiện tinh tế diễn biến
tâm lý của tâm hồn mới chớm yêu thương, và ông cho rằng khi yêu tâm hồn trở
nên dễ xúc động, tinh tế, lãng mạn đến vô cùng: Bâng khuâng chân tiếc dậm
lên vàng/ Tôi sợ đường trăng tiếng dậy vang/ Ngơ ngác hoa duyên còn núp lá/ Và
làm sai nhỡ nhịp trăng đang. (Trăng) Khí trời quanh tôi làm bằng tơ/
Khí trời quanh tôi làm bằng thơ (Nhị hồ)
Thi sĩ nâng niu những cảm xúc tình yêu vừa hé nở như nâng niu
những gì quý giá nhất nhưng mong manh, dễ vỡ, dễ tan. Thái độ sống tích cực ấy
của Xuân Diệu cho thấy ông không chỉ rất có ý thức gìn giữ tình yêu mà
còn tôn thờ tình yêu như một chân giá trị, một khát vọng mà cuộc đời hướng
tới. Ông trân quý tình yêu như trân quý cuộc sống của chính mình, và tình yêu đẹp
bao giờ cũng là mục đích để con người dấn thân và hy sinh mà không hề nuối tiếc.
Cho nên thi sĩ ví tình yêu như “viên ngọc thiêng liêng” và ông trân trọng tất cả
những gì liên quan đến tình yêu và liên quan đến người mình yêu: đôi bàn tay,
đôi mắt, làn môi hé nở, thân hình người yêu, và đến cả “dấu nằm”, cái nhìn, giọng
nói … Đọc thơ Xuân Diệu chúng ta có cảm giác xúc cảm yêu như một dòng
chảy khôn nguôi ám ảnh trong tâm thức thi sĩ. Trong sự luận giải đa dạng, phong
phú của Xuân Diệu về tình yêu chúng ta có thể hiểu: Tình yêu có sức mạnh
giúp con người sống vượt lên giới hạn của chính mình, giúp con người dám sống
và được sống là chính mình…
Vì quan niệm yêu là nguồn sống nên hầu hết các bài
thơ tình của Xuân Diệu như Hôn cái nhìn, Biển, Bóng đêm biếc, Bài thơ tuổi
nhỏ, Vì sao, Yêu… đều cho thấy những cảm xúc trong ông luôn được đẩy đến tận
cùng. Thi sĩ yêu cuộc sống đến cuống quýt “muốn ôm, muốn riết, muốn say…” (Vội
vàng), và bởi thế nên ông như đắm chìm trong cõi yêu đương nồng nàn, cháy bỏng.
Chính thi sĩ đã thừa nhận: Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá/ Chỉ biết yêu
thôi, chẳng hiểu gì (Vì sao?). Ở đây, có thể coi sự “khờ khạo, ngu ngơ” của
thi sĩ như một giá trị, một lối ứng xử văn hóa trong tình yêu. Nó chính là biểu
hiện của những gì thanh khiết, chân thành, trong sáng, vô tư, phi vụ lợi của
tình yêu đích thực. Sự thừa nhận “chỉ biết yêu thôi” đồng thời cũng cho chúng
ta thấy một minh triết yêu trong thơ tình Xuân Diệu: Yêu chính là phải biết
sống hết mình cho người mình yêu, yêu là sự dấn thân và tận hiến vì nhau và cho
nhau.
Quan niệm “tận hiến” trong tình yêu được thể hiện trong thơ
Xuân Diệu rất rõ ràng, không chung chung, trừu tượng. Đó là sự tận hiến cả về
tinh thần và thể xác. Khát vọng hướng tới hòa hợp về tinh thần của những
trái tim yêu được thể hiện qua rất nhiều bài thơ “để đời” của Xuân Diệu: Xa
cách, Thân em, Biển, Bài thơ tuổi nhỏ, Cảm xúc, Thanh niên, Vô biên, Dâng, Phải
nói…
Trong thi ca nhân loại đã có rất nhiều thi sĩ thừa nhận quy
luật tình yêu như một chân lý bất biến: Yêu là khát khao mong muốn phát hiện vẻ
đẹp trong sáng tiềm ẩn trong tâm hồn người mình yêu. Dường như những trái tim
đang yêu không bao giờ thỏa mãn khát vọng kiếm tìm những “hạt ngọc” ẩn giấu
trong tâm hồn người yêu và luôn muốn đi đến tận cùng sự khám phá, thấu hiểu những
điều bí ẩn trong tâm hồn người yêu. Tâm hồn mỗi người luôn là thế giới đầy bí ẩn,
là niềm say mê, cuốn hút khám phá đến vô cùng. Nhà thơ Ấn Độ R.Tagor từng viết:
Đôi mắt băn khoăn của em buồn
Đôi mắt em muốn nhìn vào tâm tưởng của anh
Như trăng kia muốn vào sâu biển cả… (Thơ tình số 28)
Xuân Diệu cũng cho chúng ta thấy một khát vọng về yêu như vậy:
Anh thèm muốn vô biên và tuyệt đích/ Em biết không? Anh tìm
kiếm em hoài…Yêu tha thiết thế vẫn còn chưa đủ/ Phải nói yêu, trăm bận đến ngàn
lần (Phải nói );
Em là em, anh vẫn cứ là anh/ Có thể nào qua Vạn lí trường
thành/ Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật (…) Ôi mắt người yêu, ôi vực thẳm!/
Ôi trời xa vừng trán của người yêu/ Ta thấy gì đâu sau sắc yêu kiều (Xa
cách).
Gần gũi là thế mà sao vẫn cách xa là vậy… cho nên suốt một
đời những trái tim biết yêu luôn luôn trong tâm thế hành trình kiếm tìm những
giá trị chân thực của tình yêu, và càng kiếm tìm càng như chẳng hiểu gì về thế
giới tâm hồn con người vốn vô cùng phong phú và phức tạp, quả đúng là “cuộc đời
anh ở bên em như chính đời em vậy/ nhưng chẳng bao giờ em hiểu được nó đâu”
(R.Tagor).
Đọc Xuân Diệu chúng ta thấy Nhà thơ thật tinh tế khi
phát hiện quy luật chi phối thế giới tinh thần vô cùng phong phú, phức tạp
của con người: Yêu là hạnh phúc vô biên và yêu cũng là đau khổ tột
cùng. Trong sự luận giải của thi sĩ, yêu là hạnh phúc bởi tình yêu mang lại
cho con người cảm xúc khác lạ, vừa dịu dàng, êm ái như sống trong cõi thần
tiên: Lòng anh rạo rực không duyên cớ/ Khi nắng chiều tơ giỡn với cành (Có
những bài thơ), Chỉ lặng chuồi theo dòng cảm xúc/ Như thuyền ngư phủ lạc
trong sương (Vì sao?), Chúng tôi lặng lẽ bước trong thơ/ Lạc giữa niềm
êm chẳng bến bờ (Trăng); Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên…con đường
nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu/ Lả lả cành hoang nắng trở chiều/ Buổi ấy lòng ta nghe ý
bạn/ Lần đầu rung động nỗi thương yêu (Thơ duyên)… vừa mạnh mẽ, xôn xao, dữ
dội: Giơ tay muốn ôm cả Trái đất/ Ghì trước trái tim, ghì trước ngực…Hãy đốt
đời ta trăm thứ lửa/ Cho bừng tia mắt đọ tia sao (Bài ca tuổi nhỏ) và trên
hết là hạnh phúc được là chính mình để “hồn giăng rộng khắp không gian” được “ngơ
ngẩn”, “nhung nhớ”, “bâng khuâng” (Dâng), được “bỡ ngỡ”, “xôn xao”, “rợn rợn”,
“hồi hộp”… (Xuân không mùa).
Yêu cũng là lĩnh vực tình cảm nhiều khi khiến con người đau
khổ tột cùng bởi không phải lúc nào mọi sự cũng đều chiều theo ý muốn của con
người. Khát vọng tình yêu là vô biên, tuyệt đích, nhưng hành trình hướng đến
khát vọng ấy lại luôn gặp phải rất nhiều giới hạn, rào cản. Xuân Diệu thấu hiểu
quy luật vận hành tự nhiên bất khả kháng “ Sông trôi núi lở âm thầm/ Đường đi
vũ trụ có cầm được đâu?” cho nên trong thơ của mình Xuân Diệu đã tìm cách cắt
nghĩa rất riêng, rất sâu sắc về nguyên nhân gây nên nỗi đau khổ của yêu:Yêu là
chết ở trong lòng một ít/ Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu? Cho rất nhiều,
song nhận chẳng bao nhiêu/ Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết (…). Họ
lạc lối giữa u sầu mù mịt/ Những người si theo dõi dấu chân yêu/ Và cảnh đời là
sa mạc vô liêu/ Và ái tình là sợi dây vấn vít/ Yêu, là chết ở trong lòng một ít (Yêu). Người
ta khổ vì thương không phải cách/ yêu sai duyên và mến chẳng nhằm người/ người
ta khổ vì xin không phải chỗ…(Dại khờ), Bao nhiêu sầu, ôi sầu biết bao
nhiêu/ Khi yêu tình, khi theo mãi tình yêu (Yêu mến). Tôi là một kẻ
điên cuồng/ Yêu những ái tình ngây dại/ Tôi cứ bắt lòng tôi đau đớn
mãi/ Đau vô duyên, đau không để làm gì. (Thở than). Suốt đời nuốt lệ
vào trong ngực/ Đem ái tình dâng kẻ phụ ta (Muộn màng). Tôi một mình
đối diện với tình không/ Để lắng nghe tiếng khóc mất trong lòng (Dối
trá)… Và trong việc luận giải nguyên nhân gây nên nỗi đau khổ của yêu,
Xuân Diệu cho rằng sự xa cách luôn là nguyên nhân thường trực nhất. Nó làm cho
lòng người luôn trong trạng thái bất ổn. Xa cách giày vò những trái tim yêu,
làm cho người đang yêu rơi vào cảm giác lo sợ bởi tình yêu vốn mong manh, dễ bất
ngờ tan vỡ “ tình yêu đến, tình yêu đi ai biết” (Giục giã), và con người
nhiều khi cũng rơi vào trạng thái không thể kiểm soát và không hiểu nổi chính bản
thân mình: “Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn/ Ai nói trước lòng anh không
phản trắc/ Mà lòng em, sao lại chắc trơ trơ? ” (Giục giã) …bởi mọi cái “vô
thường ” như thế nên xa cách làm cho nỗi nhớ thêm đầy và nhiều khi nỗi nhớ ấy
quặn thắt con tim yêu đến đớn đau: Anh nhớ em, em hỡi! Anh nhớ em! Không
gì buồn bằng những buổi chiều êm…Không gian xám tưởng sắp tan thành lệ (Tương
tư chiều)…
Trong tình yêu, đau khổ cũng là một “thú đau thương”, cho nên Ler montov từng nói: “Anh chỉ mang đến cho em toàn là đau khổ…Có lẽ vì vậy mà em yêu Anh. Bởi vì niềm vui thì dễ quên, còn đau khổ thì không bao giờ”. Victor Hugo lại nói: “Ai khổ vì yêu hãy yêu hơn nữa, chết vì yêu là sống trong tình yêu”. Còn với Xuân Diệu, biển yêu dẫu “đắng” nhưng con người chưa bao giờ “nguôi nỗi khát thèm”…thậm chí khát vọng ấy mãnh liệt ấy đến mức giục lòng người “yêu khi đã hết tuổi rồi”, “khi chết rồi, thì tôi sẽ yêu ma” (Đa tình)…và điều ấy phải chăng đồng nghĩa với thông điệp nhắn nhủ của thi sĩ tới bạn đọc muôn sau: cho dù hạnh phúc hay đau khổ con người vẫn luôn khát vọng yêu và được yêu, vẫn mơ ước về một tình yêu viên mãn, vĩnh hằng.Yêu là câu chuyện dài bất tận, không biên giới, bến bờ, yêu không bao giờ có tuổi… và chỉ có những trái tim biết yêu chân thành, biết trân trọng, nâng niu hạnh phúc và biết chấp nhận đau khổ mà tình yêu mang lại thì mới mong thấy được giá trị thật sự của tình yêu đối với đời sống của riêng mình.
Trong tình yêu, đau khổ cũng là một “thú đau thương”, cho nên Ler montov từng nói: “Anh chỉ mang đến cho em toàn là đau khổ…Có lẽ vì vậy mà em yêu Anh. Bởi vì niềm vui thì dễ quên, còn đau khổ thì không bao giờ”. Victor Hugo lại nói: “Ai khổ vì yêu hãy yêu hơn nữa, chết vì yêu là sống trong tình yêu”. Còn với Xuân Diệu, biển yêu dẫu “đắng” nhưng con người chưa bao giờ “nguôi nỗi khát thèm”…thậm chí khát vọng ấy mãnh liệt ấy đến mức giục lòng người “yêu khi đã hết tuổi rồi”, “khi chết rồi, thì tôi sẽ yêu ma” (Đa tình)…và điều ấy phải chăng đồng nghĩa với thông điệp nhắn nhủ của thi sĩ tới bạn đọc muôn sau: cho dù hạnh phúc hay đau khổ con người vẫn luôn khát vọng yêu và được yêu, vẫn mơ ước về một tình yêu viên mãn, vĩnh hằng.Yêu là câu chuyện dài bất tận, không biên giới, bến bờ, yêu không bao giờ có tuổi… và chỉ có những trái tim biết yêu chân thành, biết trân trọng, nâng niu hạnh phúc và biết chấp nhận đau khổ mà tình yêu mang lại thì mới mong thấy được giá trị thật sự của tình yêu đối với đời sống của riêng mình.
Tình yêu trong thơ Xuân Diệu là tình yêu của con người sống
giữa đời thường chứ không phải tình yêu đạo đức trong sách vở của
một “ông hoàng” nào đó. Đó là thứ tình yêu dám bộc lộ những khát vọng thành thực
đến cháy lòng. Do đó triết lý yêu trong thơ tình Xuân Diệu bên cạnh việc luận
giải vấn đề yêu là hướng đến sự hòa hợp tâm hồn thì còn khẳng định một chân giá
trị đầy tính nhân bản: yêu là khao khát được hòa hợp với thân xác người
mình yêu. Nhiều bài thơ, câu thơ của Xuân Diệu đã bộc lộ khát vọng trên một
cách say mê, đắm đuối:
Hãy sát đôi đầu! Hãy kề đôi ngực! Hãy trộn nhau đôi mái tóc
ngắn dài! Những cánh tay! hãy cuốn riết đôi vai! Hãy dâng cả tình yêu lên
sóng mắt! Hãy khăng khít những cặp môi gắn chặt (Xa cách). Chúng ta
đau, thôi em tới đây mà! Mơn man nào, em đừng khóc đôi ta/ Thế, riết thế, hãy
vòng tay chặt nữa/ Cho em hút những chút hồn đã rữa/ Cho em chuyền hơi độc rất
tê ngon (Sầu). Hãy tuôn âu yếm, lùa mơn trớn/ Sóng mắt, lời môi, nhiều
- thật nhiều (Vô biên). Em phải nói, phải nói, và phải nói/ Bằng
lời riêng nơi cuối mắt, đầu mày/ Bằng nét buồn bằng vẻ thẹn, chiều say/ Bằng đầu
ngả, bằng miệng cười, tay riết (Phải nói).
Xưa nay, trong ý thức của nhiều người, dục tính trở thành
vùng cấm địa không dám đụng tới, không dám nói tới, không dám nghĩ tới. Dục
tính trở thành một ẩn dấu hoàn toàn. Nhiều khi đám đông trong xã hội luôn
nói tới đạo đức, đề cao giá trị tinh thần thiêng liêng trên lý thuyết, ở những
nơi đó, lúc nào cũng thấy nhân danh Thượng đế đề cao giá trị tinh thần và dĩ
nhiên người ta cấm động đến những gì là vật chất, xác thịt bị coi là thấp hèn,
vô luân, tội lỗi. Trong một số xã hội, “đạo đức không bao giờ nói đến những việc
liên quan tới dục tính (…) trong ngôn ngữ hàng ngày người ta cố tránh không nói
tới hoặc khi cần phải nói chỉ nói một cách ám chỉ”(2). Dưới ánh sáng của tư duy
khoa học hiện đại, tiến bộ, ngày nay quan điểm phiến diện trên đã được hoàn thiện
thêm bởi những nhận thức mới. Thân xác con người cũng là một giá trị cao quý xứng
đáng được ca tụng, tôn vinh. Trong tình yêu, bên cạnh giá trị tinh thần, khát
khao hòa hợp về thân xác được coi như một niềm khoái cảm thiêng liêng và thể hiện
sự kết tinh cao độ của văn hóa ứng xử giữa con người với con người. Những người
biết yêu thật sự luôn là những người biết trân trọng vẻ đẹp thân thể của người
mình yêu thương, biết thưởng thức vẻ đẹp ấy trong một niềm đam mê, say đắm của
“nhục cảm lành mạnh” (F.Engels).
Và với Xuân Diệu, khoái cảm về thân xác mật thiết gắn bó với khoái cảm mà vẻ đẹp tâm hồn do người yêu mang lại và chỉ khi nào yêu và được yêu như thế con người mới được sống trọn vẹn trong hạnh phúc. Làm chủ thân phận Người, được tự do vui, buồn, đau khổ, yêu đương, được sống là chính mình trong từng sát na hiện hữu… đó là giá trị đích thực của mỗi con người với tư cách là một Nhân vị tồn sinh trên cõi đời đầy bất an và cũng lắm nghiệt ngã này.
Và với Xuân Diệu, khoái cảm về thân xác mật thiết gắn bó với khoái cảm mà vẻ đẹp tâm hồn do người yêu mang lại và chỉ khi nào yêu và được yêu như thế con người mới được sống trọn vẹn trong hạnh phúc. Làm chủ thân phận Người, được tự do vui, buồn, đau khổ, yêu đương, được sống là chính mình trong từng sát na hiện hữu… đó là giá trị đích thực của mỗi con người với tư cách là một Nhân vị tồn sinh trên cõi đời đầy bất an và cũng lắm nghiệt ngã này.
Và bởi coi sự hòa hợp với thân xác người yêu cũng là một
trong những yếu tố quan trọng để duy trì tình yêu, duy trì sinh lực sống nên
trong thơ tình Xuân Diệu người đọc thấy tràn ngập hình ảnh tôn vinh vẻ đẹp hình
thể của con người: Đôi môi, đôi mắt (Tương tư chiều), tóc liễu
buông xanh (Nụ cười xuân), miệng vàng, nhan sắc (Mời yêu), đường
vai, nét tay (Dấu nằm)…đối với thi sĩ vẻ đẹp hình thể của người yêu là “ngọc
ngà tinh anh” do đất trời ban tặng. Và có lẽ vì thế cho nên chỉ đến Xuân
Diệu trạng thái khát khao được hòa hợp cùng thân thể người yêu mới
được diễn tả một cách đầy táo bạo. Thi sĩ đã không hề ngần ngại diễn
tả những trạng thái yêu mạnh mẽ như muốn “ôm“, muốn “riết“, muốn
“say”, muốn “cắn“, muốn “ngoàm“, muốn “hút”... tất cả đều gợi cảm
giác nồng nàn, tha thiết, đê mê của tình yêu rất trần thế, rất con
người: Nên lúc môi ta kề miệng thắm/ Trời ơi, ta muốn uống hồn
em (Vô biên) Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi (Vội vàng) Em
vui đi răng nở ánh trăng rằm/ Anh hút nhụy của mỗi giờ tình tự (Giục
giã) Nghiêng đầu bên trái hãy kề nghe/ Những ngón tay thần sẽ
vuốt ve/ Cho điệu lòng anh thêm ấm dịu; Sờ xem ngực nóng khúc đê mê (Có
những bài thơ)… Vượt qua rào cản của những quan niệm ấu trĩ, lạc hậu về tình
yêu nam nữ coi sự va chạm, tiếp xúc về thể xác là điều “xấu xa, hổ thẹn”, những cảm
xúc nhục thể trong thơ Xuân Diệu rất chân thực, rất đời thường, gợi nhiều
suy ngẫm về giá trị hiện hữu của con người. Có lẽ chính vì vậy nên đây là một
trong những yếu tố quan trọng nhất khiến thơ tình Xuân Diệu thấm nhuần triết lý
nhân sinh sâu sắc và có sức sống bền lâu trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.
Trong Tình mai sau Xuân Diệu viết: Người thi
sĩ đã vào làng mây khói/ Không ở đâu, và ở khắp mọi nơi/ Như tiếng vọng trong
sương xa dắng dỏi/ Máu vu vơ theo giữa trái tim đời… Như vậy ngay từ lúc sinh
thời Xuân Diệu đã ý thức sâu sắc về ý nghĩa tồn sinh và bất tử của
người nghệ sĩ: điều duy nhất có giá trị trong cuộc đời chính là những dấu ấn
của tình yêu mà chúng ta đã để lại phía sau khi ra đi. Nhà thơ Xuân Diệu với
trái tim yêu nồng nàn, si mê, tha thiết nhất trong các thi sĩ Việt Nam đã đi
vào “làng mây khói” vĩnh hằng. Nhưng những câu thơ mang đậm triết lý yêu của
ông còn lưu lại “giữa trái tim đời” mãi mãi bởi: “Nhà thơ, ngay cả các nhà thơ
vĩ đại nhất cũng phải đồng thời là những nhà tư tưởng” (Bêlinxki). Triết
lý yêu trong thơ tình Xuân Diệu thể hiện một tầm tư tưởng lớn, nó khác lạ
và vượt lên những lối nghĩ suy tầm thường tưởng “cao đạo” mà giả dối, thiếu
thành thực mà người ta vẫn cứ “tụng ca” như những “giá trị đạo đức” nhưng đó là
những thứ đạo đức hoàn toàn xa lạ với bản chất Người.
Vì vậy, những bình diện của triết lý yêu trong thơ Xuân Diệu như đã trình bày ở trên, suy cho cùng đó chính là những tư tưởng mang tinh thần nhân bản, nhân văn sâu sắc nhất mà nhân loại luôn hướng đến. Và chính những bài thơ với triết lý yêu rất Người và rất Đời (chứ không phải là những bài thơ tụng ca nào khác) trong sự nghiệp thơ đã làm cho thơ Xuân Diệu trở thành thơ của một đời chứ không phải thơ của một thời ngắn ngủi dễ quên... Triết lý yêu trong thơ tình Xuân Diệu là một trong những giá trị quan trọng làm nên sự bất tử của thơ Xuân Diệu. Bạn đọc nhớ đến Xuân Diệu sau 100 năm hay 1000 năm hoặc lâu hơn nữa phải chăng, cũng bắt đầu từ những bài thơ tình thấm đẫm triết lý yêu mang vẻ đẹp nhân sinh cao cả và đầy khao khát trần thế - những bài thơ dạt dào, tha thiết, êm đềm và sâu lắng, ru lòng người mãi mãi khôn nguôi:
Vì vậy, những bình diện của triết lý yêu trong thơ Xuân Diệu như đã trình bày ở trên, suy cho cùng đó chính là những tư tưởng mang tinh thần nhân bản, nhân văn sâu sắc nhất mà nhân loại luôn hướng đến. Và chính những bài thơ với triết lý yêu rất Người và rất Đời (chứ không phải là những bài thơ tụng ca nào khác) trong sự nghiệp thơ đã làm cho thơ Xuân Diệu trở thành thơ của một đời chứ không phải thơ của một thời ngắn ngủi dễ quên... Triết lý yêu trong thơ tình Xuân Diệu là một trong những giá trị quan trọng làm nên sự bất tử của thơ Xuân Diệu. Bạn đọc nhớ đến Xuân Diệu sau 100 năm hay 1000 năm hoặc lâu hơn nữa phải chăng, cũng bắt đầu từ những bài thơ tình thấm đẫm triết lý yêu mang vẻ đẹp nhân sinh cao cả và đầy khao khát trần thế - những bài thơ dạt dào, tha thiết, êm đềm và sâu lắng, ru lòng người mãi mãi khôn nguôi:
…Anh xin làm sóng biếc/ Hôn mãi cát vàng em/ Hôn thật khẽ, thật
êm/ Hôn êm đềm mãi mãi/ Đã hôn rồi, hôn lại/ Cho đến mãi muôn đời/ Đến tan cả đất
trời/ Anh mới thôi dào dạt... /Cũng có khi ào ạt/ Như nghiến nát bờ em/ Là lúc
triều yêu mến/ Ngập bến của ngày đêm…(Biển)
(1) Xuân Diệu, Tác phẩm văn chương và lao động nghệ thuật
(Lưu Khánh Thơ giới thiệu và tuyển chọn), Nxb. Giáo dục, H. 1999, tr.11
(2) Nguyễn Văn Trung, Ca tụng thân xác, Nxb. Văn nghệ,
TP.HCM, 2006, tr. 73,74.
Cao Thị Hồng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét