Bài thơ Sau ba mươi năm viết cho các con mình, nhà văn Võ Hồng kể về
ba đứa con với những vần thơ giản dị, trong trẻo:
“Đứa út vừa lên baBiết mẹ qua tấm ảnh
Miệng chỉ quen gọi cha
Khi đói và khi lạnh
Chị lớn chín tuổi tròn
Đóng vai người mẹ nhỏ
Vội vã học điều khôn
Cửa nhà tập coi ngó
Thằng giữa khi vào lớp
Tên mình tưởng tên ai
Thầy hỏi không biết đáp
Nghe chim hơn nghe bài…”
Đến thăm ông một chiều mưa thu ở xứ trầm hương, mở cửa là một phụ nữ trên sáu
mươi, cô giới thiệu mình tên Đạm, là học trò xưa, sau này thành đồng nghiệp của
thầy Võ Hồng ở trường chuyên Lê Quý Đôn nổi tiếng của Nha Trang. Cô nói có chị
Hằng, con gái đầu của thầy mới ở Pháp về có thể tiếp chuyện. Đã trên bốn năm
nay thầy không viết gì nữa, nói cũng ít đi mà chỉ suy tư và chiêm nghiệm. Nhân
vật “Chị lớn chín tuổi tròn/ Đóng vai người mẹ nhỏ” kể lại câu chuyện của mình,
với những ký ức đau buồn nhưng kết thúc lại là một giấc mơ có hậu dành cho cha,
người đàn ông không chỉ thành danh trong nghiệp văn mà còn là một người cha hết
lòng vì con cái.
Ngồi trước tôi là một phụ nữ dáng cao, đứng tuổi, trông vẻ ngoài rất hiện đại
và năng động với đôi mắt tinh anh và nụ cười cởi mở. Trong số ba người con của
nhà văn Võ Hồng, chỉ có chị nối nghiệp văn, tuy hơi trễ bởi từ khi chị xa nhà để
vào Sài Gòn trọ học, cha đã âm thầm ngăn cản không cho chị viết văn, để thì giờ
học khoa học.
Chị bắt đầu câu chuyện bằng cái chết của hai người thân yêu nhất đã ám ảnh chị
từ tuổi nhỏ. Năm lên bốn, chị chứng kiến cái chết của Jô, em trai kề mình. “Jô
đẹp và hiền lành, giống má nhất, bị sốt nặng và qua đời lúc mới một tuổi rưỡi.
Tôi còn nhớ rất rõ hình ảnh em trong màu áo xanh dương, nằm trên bộ ván, đầu hướng
ra cửa sổ, nắng chiều bao trùm người em. Tối đó em sốt cao và mọi người nhốn
nháo. Rồi em chết. Tôi ra vườn hái hoa hoàng anh lặng lẽ đặt lên linh cữu của
em. Hình ảnh đó ghi khắc vào tâm hồn tôi như một cuộn phim câm, sẵn sàng hiện
ra mỗi khi nhớ lại quá khứ. Ba năm sau, mẹ tôi phát bệnh trong hai năm liền và
vĩnh viễn bỏ ba đứa con nhỏ mà đi.
Nay các con nên người
Mỗi đứa đi một ngả
Mình cha căn nhà xưa
Trông vừa quen vừa lạ
Không còn ngày gian khổ
Chỉ dư ngày tiêu điều
Vắng con như cây cỏ
Héo úa giữa quạnh hiu
(Trích Sau ba mươi năm - thơ Võ Hồng)
Mỗi đứa đi một ngả
Mình cha căn nhà xưa
Trông vừa quen vừa lạ
Không còn ngày gian khổ
Chỉ dư ngày tiêu điều
Vắng con như cây cỏ
Héo úa giữa quạnh hiu
(Trích Sau ba mươi năm - thơ Võ Hồng)
Mới chín tuổi đã mất hai người thân yêu nhất, tôi đau đớn thấy cuộc đời quá mỏng
manh và bấp bênh. Tôi không có tuổi thơ. Quanh tôi, mọi đứa trẻ khác đều có cha
và mẹ, chúng vững vàng như được đi trên hai chân. Tôi chỉ còn một mình cha nên
ông trở thành quý báu vô cùng. Tôi luôn sống trong phập phồng lo âu. Những lần
cha tôi về trễ, tôi thấp thỏm đợi chờ. Có những đêm ngủ nằm mơ thấy cha chết,
tôi giật mình kêu ba ơi trong nước mắt rồi yên tâm ngủ lại khi nghe tiếng ba trả
lời “sao giờ này mà chưa ngủ?” Cha tôi không tục huyền vì sợ chúng tôi khổ, một
hy sinh không thể nào đền đáp. Tôi rất biết ơn ông bởi càng lớn tôi càng hiểu nỗi
khó khăn của người đàn ông đơn chiếc...”
Thâm tình phụ tử
Chị lớn lên, có những điều không thể tâm sự cùng cha. Và cha cũng không thể đóng vai người mẹ nên ông loay hoay kiếm cách bù vào khoảng trống đó. Ông dặn chị giúp việc chỉ cho con ông nấu nướng. Ông dẫn con sang nhà nữ sĩ Tương Phố ở đường Trịnh Phong kế bên, nhờ bà dạy con mình cách ứng xử. Bà dạy chị từ dáng ngồi đến cách đi đứng, nói năng. Cha còn phái chị thay mình đến thăm những người bạn gái để “học cử chỉ dịu dàng”. Chị cười buồn: “Do hoàn cảnh, cả ba chúng tôi đều sống ở ngoại quốc nên ông càng cô độc”.
Khi đọc lại từng trang sách của cha, chị biết ông đã trải qua những ngày tháng cô đơn thế nào. Vợ mất sớm, con đi xa, đôi lúc ông chạnh lòng và thông cảm: “Trí nhớ chúng ta vốn rất bạc bẽo. Các con lớn lên, nên vai nên vế, mỗi người có bạn bè riêng tư, có mối lo lắng và vui vẻ riêng tư... nên các con dần dần quên nghĩ đến nhau. Mối đau khổ chung của ngày mất mẹ xóa nhòa dần đi...”
Vì thế hôm nay chị lại trở về, mong cầu điều duy nhất là được chăm sóc cha. Khi
làm việc, chị đem laptop xuống ngồi bên cạnh giường ông lúc ông ngủ, để lắng
nghe hơi thở, để nhìn sắc mặt mà đoán sức khỏe của cha vì theo chị, “sau này dù
có đánh đổi cả vũ trụ để lấy một giờ được lo lắng đỡ đần cha mình, cũng không
thể nào có được. Do đó tôi trân quý vô cùng những ngày tháng được ở bên cạnh
cha tôi. Ngoài tôi ra, cô Đạm là người thương ba nhất. Cô là bạn rất thân của
ba hơn hai mươi năm nay”.
Ngôi nhà nhỏ số 53 Hồng Bàng, Nha Trang bây giờ trở nên ấm áp và tràn đầy tình yêu thương. Nhà văn Võ Hồng giờ đây hẳn thấy yên bình khi ở bên ông không chỉ có một mà đến hai người phụ nữ ông yêu thương.
Thâm tình phụ tử
Chị lớn lên, có những điều không thể tâm sự cùng cha. Và cha cũng không thể đóng vai người mẹ nên ông loay hoay kiếm cách bù vào khoảng trống đó. Ông dặn chị giúp việc chỉ cho con ông nấu nướng. Ông dẫn con sang nhà nữ sĩ Tương Phố ở đường Trịnh Phong kế bên, nhờ bà dạy con mình cách ứng xử. Bà dạy chị từ dáng ngồi đến cách đi đứng, nói năng. Cha còn phái chị thay mình đến thăm những người bạn gái để “học cử chỉ dịu dàng”. Chị cười buồn: “Do hoàn cảnh, cả ba chúng tôi đều sống ở ngoại quốc nên ông càng cô độc”.
Khi đọc lại từng trang sách của cha, chị biết ông đã trải qua những ngày tháng cô đơn thế nào. Vợ mất sớm, con đi xa, đôi lúc ông chạnh lòng và thông cảm: “Trí nhớ chúng ta vốn rất bạc bẽo. Các con lớn lên, nên vai nên vế, mỗi người có bạn bè riêng tư, có mối lo lắng và vui vẻ riêng tư... nên các con dần dần quên nghĩ đến nhau. Mối đau khổ chung của ngày mất mẹ xóa nhòa dần đi...”
Ngôi nhà nhỏ số 53 Hồng Bàng, Nha Trang bây giờ trở nên ấm áp và tràn đầy tình yêu thương. Nhà văn Võ Hồng giờ đây hẳn thấy yên bình khi ở bên ông không chỉ có một mà đến hai người phụ nữ ông yêu thương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét