Bến đò xuân đầu trại - Bài thơ
Nguyễn Trãi (1380-1442) là anh hùng dân tộc, Danh nhân văn
hóa thế giới. Ông chính là một thiên tài nhiều mặt, một nhân cách vĩ đại. Nước
ta khoảng mấy trăm năm mới có một người toàn bích như thế. Chỉ nói riêng về
thơ, Nguyễn Trãi hoàn toàn xứng đáng là đại thi hào số một của nước ta trong thời
kỳ Trung đại. Thơ văn Nguyễn Trãi bị tiêu hủy sau vụ án oan thảm khốc dưới thời
Hậu Lê. Nhiều thế hệ người đời sau vẫn chưa thể sưu tầm được đầy đủ. Về thơ Nôm
Nguyễn Trãi, hiện thấy khoảng 254 bài. Nhà thơ Xuân Diệu từng mượn một câu Kiều
để đánh giá về thơ Nôm Nguyễn Trãi: “Thì treo giải nhất chi nhường cho ai”! Thơ
chữ Hán của Nguyễn Trãi cũng mới chỉ sưu tầm khảo cứu được hơn trăm bài. Nguyễn
Trãi có biệt tài miêu tả thiên nhiên. Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi rất gần
gũi, mang hơi thở và hồn vía dân tộc Việt. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc
một trong nhiều bài thơ chữ Hán đặc sắc của Nguyễn Trãi.
TRẠI ĐẦU XUÂN ĐỘ
Độ đầu xuân thảo lục như yên,
Xuân vũ thiêm lai thuỷ phách thiên.
Dã kính hoang lương hành khách thiểu,
Cô châu trấn nhật các sa miên.
Xuân vũ thiêm lai thuỷ phách thiên.
Dã kính hoang lương hành khách thiểu,
Cô châu trấn nhật các sa miên.
Dịch nghĩa:
BẾN ĐÒ XUÂN ĐẦU TRẠI
Cỏ xuân ở đầu bến đò xanh như khói,
Lại thêm có mưa xuân nước vỗ vào nền trời.
Đường ngoài nội vắng teo ít người đi lại,
Chiếc thuyền đơn côi suốt ngày gối đầu lên bãi cát say ngủ.
Lại thêm có mưa xuân nước vỗ vào nền trời.
Đường ngoài nội vắng teo ít người đi lại,
Chiếc thuyền đơn côi suốt ngày gối đầu lên bãi cát say ngủ.
Bản dịch của Ngô Linh Ngọc:
Cỏ xuân đầu bến xanh như khói,
Thêm đợt mưa xuân nước vỗ trời.
Đồng nội vắng teo hành khách ít,
Thuyền đơn gác bãi suốt ngày ngơi.
Thêm đợt mưa xuân nước vỗ trời.
Đồng nội vắng teo hành khách ít,
Thuyền đơn gác bãi suốt ngày ngơi.
Bản dịch của Vũ Bình Lục:
Mưa xuân nước vỗ lưng trời,
Cỏ xuân như khói xanh phơi bến đò.
Vắng teo đường nội quanh co,
Bãi sông gác mũi, con đò ngủ say.
Cỏ xuân như khói xanh phơi bến đò.
Vắng teo đường nội quanh co,
Bãi sông gác mũi, con đò ngủ say.
Là thơ tả cảnh, nhưng cảnh nào mà chẳng đeo tình. Trong thơ
có họa (thi trung hữu họa). Đọc thơ mà thấy cảnh hiện lên như tranh vẽ. Đây
cũng là cảnh xuân, nhưng là cảnh xuân ở tầm nhìn xa rộng, khác với Mộ xuân tức
sự. Câu đầu tả bãi cỏ bến sông trong mưa xuân: Độ đầu xuân thảo lục như yên (Đầu
bến cỏ xuân xanh biếc như khói). Câu sau tả mưa xuân, nước vỗ ngang trời (xuân
vũ thiêm lai thủy phách thiên). Chúng tôi dịch thơ đã chuyển câu 2 lên câu 1,
cũng không phương hại gì đến kết cấu và nội dung bài thơ tứ tuyệt rất hay này!.
Hai chi tiết lấy làm chất liệu cho bức tranh thơ xuân, là cỏ
xuân và mưa xuân. Trong thơ Thôi Hiệu đời Đường, bài Hoàng hạc lâu, cũng có
hình ảnh bãi cỏ xanh, bãi xa anh vũ xanh đầy cỏ non. Không ít thi nhân đã đưa
bãi cỏ xanh vào trong thơ. Nhưng với Nguyễn Trãi thì hơi khác. Bãi cỏ xuân đầu
bến đò của Tiên sinh Ức Trai có màu xanh biếc như yên kia! Nghĩa là một màu
xanh đã trộn lẫn vào sương khói, rất mơ hồ huyễn hoặc, rất gợi. Một màu xanh
không hề đứng yên, mà dường như bất định, nó mờ mờ xanh như sương khói, uyển
chuyển trong sương khói, như mây, rất ảo. Tiên sinh hơn người thường ở chỗ ấy.
Phải nhìn cảnh, cảm nhận về màu sắc bằng con mắt xanh, rất tinh tế, mới thấy được
cái màu cỏ xuân lung linh xanh, lơ mơ xanh trong sương khói kỳ ảo như vậy!
Lại còn thêm mưa xuân nữa. Mưa xuân làm bãi cỏ xanh thêm, thế
cũng thường tình. Nhưng nhìn mưa xuân, mà thấy như nước vỗ ngang trời, vỗ vào
trời (thủy phách thiên), thì lại là một ý thơ, một hình ảnh thơ rất mới.
Thủy phách thiên, nước vỗ lưng trời, thì dường như nước đã là chủ thể, chủ động mà vỗ vào trời, ngang lưng chừng trời, làm nên cái uyển chuyển miên man của vũ trụ. Một hình ảnh thơ độc đáo, làm bức tranh thơ, bức tranh mùa xuân nơi bến sông sinh động hẳn lên, mơn mởn tươi non!...
Thủy phách thiên, nước vỗ lưng trời, thì dường như nước đã là chủ thể, chủ động mà vỗ vào trời, ngang lưng chừng trời, làm nên cái uyển chuyển miên man của vũ trụ. Một hình ảnh thơ độc đáo, làm bức tranh thơ, bức tranh mùa xuân nơi bến sông sinh động hẳn lên, mơn mởn tươi non!...
Câu 3: Dã kính hoang lương hành khách thiểu. Đường ngoài nội
vắng teo, ít người đi lại, đúng hơn là đò vắng khách, nên đường ngoài nội ít
người đi. Tả cảnh thực, không có gì đặc biệt. Đó chỉ là vài nét chấm phá thêm,
chỉ có giá trị tạo thêm cảm giác về không gian yên tĩnh, hoang lương và rộng
rãi. Nhưng câu 4 lại là câu thần: Cô châu trấn nhật các sa miên. “Cô châu”, hoặc
“cô chu”, tức con thuyền đơn côi, cô đơn, gối đầu lên bãi cát mà say ngủ suốt
ngày…
Tả cảnh xuân ở một bến đò, một buổi vắng người qua lại (hành
khách thiểu), nên chi con đò không khách (cô chu) như thể một chiếc thuyền côi,
cô đơn, chả biết làm gì, nên phải gác đầu lên bãi cát mà ngủ, mơ màng say ngủ
suốt ngày. Tả cảnh thực một bến sông quê nào đó, mà như ta đã thấy ở đâu đó ở
vùng châu thổ sông Hồng, tác giả từng qua lại, rất quen. Vẫn những thi liệu gần
gũi như cỏ xuân, mưa xuân, con đò gác bãi… nhưng vào thơ Nguyễn Trãi thì dường
như nó được phả hồn, làm bức tranh xuân cho dù có vẻ như rất tĩnh, hoang lương,
nhưng lại đang chuyển động ngầm trong một không gian dạt dào xuân sắc. Còn cái
tình yêu quê hương của thi sĩ thì gửi gắm ở trong cảnh, trong cái man mác hoang
lương của hồn quê thăm thẳm!.
Vũ Bình Lục
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét