“Mùa xuân xanh”, “Mùa xuân chín”
Mùa xuân đi vào thi ca ở nước ta có rất nhiều và từ rất sớm.
Đến thời kỳ phong trào Thơ Mới (1932- 1945) lại càng có nhiều thơ xuân. Có ba
bài thơ xuân đều rất hay của ba nhà thơ nổi tiếng trên thi đàn thời bấy giờ được
lần lượt xuất hiện. Đó là “Mùa xuân xanh” của Nguyễn Bính (1937), “Mùa xuân
chín” của Hàn Mặc Tử (1942) và “Xuân rụng” của Xuân Diệu (1944).
Rất ngẫu nhiên mà thời gian xuất hiện, ngữ nghĩa của tên gọi
và ý tưởng nội dung của cả ba bài lại trùng hợp với quy luật thời gian, trùng
khớp với chu trình sinh học của vạn vật trong quy luật tự nhiên, từ xanh đến chínvà
cuối cùng là rụng!
Bài “Mùa xuân xanh”:
“Mùa xuân là cả một mùa xanh
Giời ở trên cao lá ở cành
Lúa ở đồng tôi và lúa ở
Đồng nàng và lúa ở đồng quanh
Cỏ nằm trên mộ đợi thanh minh
Tôi đợi người yêu đến tự tình
Khỏi lũy tre làng tôi nhận thấy
Bắt đầu là cái thắt lưng xanh”.
Bài thơ tràn trề ngờm ngợp một màu xanh ngút ngát mênh mang.
Từ màu xanh của “giời ở trên cao”, của “lá ở cành”, của “lúa ở đồng”,
của “cỏ nằm trên mộ”, của “lũy tre làng” đến cả… “cái thắt
lưng” trong trang phục xưa của cô thôn nữ trẻ. Tám câu thơ nhằm giới thiệu,
dọn đường cho buổi hẹn hò của hai người đang vào độ yêu đương. Mối tình mới mẻ ấy
dường như hãy còn nhiều bỡ ngỡ, run rẩy, e ấp một nỗi non tơ. Từ ý nghĩ đến tâm
hồn chưa hề vướng bợn gì phiền muộn, lo âu, tiếc nuối, buồn thương giữa những
ngày xuân trong veo, rạo rực như tác giả đã khái luận ở ngay câu mở đầu: “Mùa
xuân là cả một mùa xanh”!.
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý bóng xuân sang
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?”.
Ở đây đã bắt
gặp một thoáng vướng bận nỗi buồn thương nhớ tiếc, mặc dù trong cảnh sắc của một
mùa xuân có nắng ửng vàng, có giàn thiên lí đưa hương, có những cô gái trẻ
trung thơ ngây đang vô tư hát ngợi ngày xuân. Nỗi buồn vương bắt đầu từ trong cảm
khái bất chợt của “ khách xa”: “Ngày mai trong đám xuân xanh ấy/ Có kẻ
theo chồng bỏ cuộc chơi”! Từ ý nghĩ này đã kéo trường liên tưởng và dòng
hoài niệm của “khách xa” nhớ về một bóng hình dĩ vãng, một tình yêu
mơ thoảng không tròn đã ăn sâu, ám thị trong một góc khuất nào đó của ký ức với
tâm trạng tưởng như là bất chợt, bâng quơ “bâng khuâng sực nhớ”! “Bâng
khuâng sực nhớ” chỉ là một cách nói lấp liếm giấu che một cảm xúc thi ca
đã chín nẫu, chín muồi trong “lòng trí” của “khách xa” thôi! Nếu
cảm xúc và ý tưởng không “chín” thì không thể có hai câu thơ kết bài
đã làm lay động, ám ảnh không rời trong tâm trí người đọc: “Chị ấy năm nay
còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?”! Như vậy là có một nỗi chơi
vơi nhớ tiếc cái thời “mùa xuân xanh” đã qua rồi trong tâm tưởng.
Bài “Xuân rụng”:
“Sắc tàn hương nhạt, mùa xuân rụng
Những mặt hồng chia rẽ hết cười
Đỡ lấy đài xiêu, nưng lấy nhụy
Hồn ơi, phong cảnh cũng là người
Duyên mỏng bay theo đỡ sắc buồn
Cho mình hoa rụng cứ xinh luôn
Phút giây hóa bướm lìa cây dạo
Đến đất không nghe một tiếng hờn
Gió tuy nhiu nhíu chỉ đưa hơi
Sương dẫu chưa buông lệ ám trời
Nhưng bóng chiều mau sa nặng lắm
Mà hoa thì nhẹ cánh rơi… rơi…
Trên đồng lỏng lẻo khói giờ cơm
Ấy lúc sao êm hiện mấy chòm
Thần chết thướt tha nương bóng héo
Bắt đầu đi nhặt những hồn thơm”!
Ở đây, từ “xuân” với hàm nghĩa là mùa xuân trong
phân định thời tiết khí hậu của tự nhiên, của thiên nhiên chỉ xuất hiện mỗi một
lần duy nhất bằng cụm từ “mùa xuân rụng” ở câu thơ đầu tiên, còn lại
đều được dùng để ám chỉ cho thời gian, thời thanh xuân, xuân sắc của con người
và vạn vật. Nhân vật trữ tình của bài thơ này không phải là “tôi” như
trong “Mùa xuân xanh” cũng không phải “khách xa” như
trong “Mùa xuân chín” (nghĩa là con người cá nhân cá thể cụ thể đứng
làm chủ thể) mà là hoa - (có thể hiểu cách biểu trưng là hoa hồng) -“Những mặt
hồng…”, cũng có thể hiểu cách ước lệ là con người. Tác giả nhân cách hóa, phổ
tâm tư, ý nghĩ của mình vào, biến hoa có hồn, có tâm trạng: -“Hồn ơi, phong cảnh
cũng là người” như câu Kiều: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!”).
Những cánh hoa mới vừa tràn đầy hương sắc đấy (xuân còn xanh)
mà giờ đây đang nhạt sắc phai hương: “Những mặt hồng chia rẽ hết cười” (xuân
đã chín)! Biết duyên phận mình trong quy luật tự nhiên của muôn đời nên hoa cứ
rã rụng nhẹ nhàng lặng lẽ không một tiếc than oán thán: “Đến đất không
nghe một tiếng hờn”! Thương cảm cho thân phận hoa nên gió dẫu vốn dĩ ồn ào vồ vập
vô tình cũng đâm ra tế nhị không nỡ “mạnh tay” và sương cũng cám cảnh
cảm thông nên ngập ngừng chưa vội buông màn ảm đạm, sợ làm tăng thêm nỗi buồn
thương. Chỉ có dòng thời gian là mãi mãi vô tình, vô tâm, vô tư từ từ đi ngang
qua tất cả: “Chỉ bóng chiều mau sa nặng lắm”! Cái “bóng chiều” ấy
đổi gam màu thành “bóng héo” đã a-dua, toa rập cùng “thần chết” cứ
lạnh lùng “đi nhặt những hồn thơm”!
Cái quy luật sinh - diệt, có - không, còn - mất (“Thân như điện
ảnh hữu hoàn vô” - Vạn Hạnh Thiền sư) của muôn đời ấy vẫn cứ mãi muôn
đời làm cho “Tang thương đến cả hoa kia cỏ này” (Cung oán ngâm khúc)!
Vâng, những hồn thơm của nhan sắc, của tài năng, của tinh hoa, phẩm tiết… của
kiếp người phù sinh cuối cùng cũng sẽ hết thời xuân xanh mà chín nẫu, mà rụng
tan vào cõi vô ngã vô thường!
Từ “xuân xanh” đến “xuân chín” và… “xuân
rụng” chỉ là ba trạng huống thường hằng của cõi nhân sinh. Không hẹn mà
nên, ba nhà thơ tài danh cùng thế hệ đã thể hiện ba phạm trù tâm lý, ba diễn biến
sinh lý vào mỗi thời điểm và cùng đều hay đều đẹp. Ngày xuân ngồi nhớ thơ xuân
mà “góp nhặt dông dài” mong may ra “mua vui cũng được một vài trống
canh”.
Tạ Văn Sỹ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét