Tôi vẫn thường cố thuyết phục Phương viết hồi ký, bởi tôi biết
những thông tin ông đang nắm giữ có ý nghĩa thật quý giá với lịch sử Việt Nam.
Nhưng tôi thất bại. Khi tôi hỏi vì sao ông luôn dè dặt không viết, ông thường lảng
tránh; và khi tôi tự hình dung ra một số những lý do rồi hỏi lại ông, ông thường
đơn giản chỉ gật đầu đồng tình, nói rằng đấy cũng là một phần của nguyên nhân.
Nhà thơ Việt Phương và nhóm VATLY,
mùa xuân năm 2016. Ảnh: Phạm Ngọc Điệp.
Tôi được làm quen với Việt Phương khoảng mười năm trước qua sự giới thiệu của
Hoàng Tụy. Nhóm nghiên cứu nhỏ của chúng tôi, khi ấy nằm trong Viện KH&KT Hạt
nhân, mời hai người họ đến chơi. Trong hai tiếng đồng hồ, chúng tôi được nghe họ
kể lại nhiều câu chuyện, những ký ức trải dài kể từ thời kỳ Việt Nam vừa độc lập;
chúng tôi cũng chia sẻ với họ về những trăn trở và hi vọng của mình. Với tôi,
quả là một đặc ân khi được gặp Việt Phương, một nhân chứng từng sống cùng thời
với Hồ Chí Minh, từng gần gũi với Phạm Văn Đồng trong nửa thế kỷ. Tôi háo hức
nghe ông nói về những cảm nhận của mình khi nhìn lại những năm tháng cũ. Sự
đáng kính toát lên từ con người ông có thể đã khiến chúng tôi giữ khoảng cách với
nhau; nhưng trái lại, chúng tôi ngay lập tức trở thành những người bạn thân. Lý
do chính, theo tôi nghĩ, phải chăng bởi ông yêu quý tiếng Pháp còn tôi thì yêu
thích thơ ca.
Không lâu sau lần gặp ấy, Hoàng Tụy, Việt Phương và tôi, hình thành thói quen
thỉnh thoảng cùng nhau ăn trưa. Tôi đi xe đạp đến nhà Tụy, để xe lại đó, và
cùng nhau đi taxi qua đón Phương tại nhà ông, rồi đến một nhà hàng nào đó, mỗi
lần lại một nơi khác. Tôi trẻ hơn, hay nói cách khác là ít già hơn hai ông mười
tuổi, và luôn lắng nghe chăm chú từng từ họ nói. Chúng tôi giống nhau một cách
kỳ lạ trong cách nhìn về thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng, cụ thể như: về
chủ nghĩa nhân văn và lòng yêu nước, những quan điểm phê phán trên tinh thần
xây dựng, thái độ kiên quyết hướng tới sự tiến bộ và nhìn vào khía cạnh tích cực
thay vì chỉ than phiền về những mặt trái. Tôi không nhớ có khi nào chúng tôi từng
bất đồng, tuy nhiên, Tụy thường có xu hướng đấu tranh và bức xúc trước những điều
bất công và bất cập, còn Phương thì ôn hòa hơn; ông cân đối giữa những điều tốt
với những điều không tốt, và kết luận rằng tựu trung lại cái tốt vẫn nhiều hơn.
Đó là thái độ của một nhà thông thái luôn giữ một khoảng cách bình đạm trước những
biến động trước mắt.
Có vài lần, tôi nghe ông trích dẫn thơ của Aragon, bài Que la vie en vaut la
peine (Đời thật đáng sống), như cách thể hiện niềm tin vào cuộc sống. Tôi cảm
thấy bài thơ này phản ánh thật chân thực cách nhìn của ông, vì vậy tôi xin dẫn
lại hai khổ thơ – trong hoàn cảnh cụ thể hiện tại [khi ông đã mất], chúng có ý
nghĩa thật đặc biệt:
C’est une chose au fond, que je ne puis comprendre
Cette peur de mourir que les gens ont en eux
Comme si ce n’était pas assez merveilleux
Que le ciel un moment nous ait paru si tendre.
Cette peur de mourir que les gens ont en eux
Comme si ce n’était pas assez merveilleux
Que le ciel un moment nous ait paru si tendre.
Oui je sais cela peut sembler court un moment
Nous sommes ainsi faits que la joie et la peine
Fuient comme un vin menteur de la coupe trop pleine
Et la mer à nos soifs n’est qu’un commencement.
Nous sommes ainsi faits que la joie et la peine
Fuient comme un vin menteur de la coupe trop pleine
Et la mer à nos soifs n’est qu’un commencement.
Thật nghĩ mãi tôi không sao hiểu được
Nỗi sợ chết mỗi người ôm giữa ngực
Làm như là đời chưa đủ diệu kì
Mà trời xanh một buổi ánh lưu ly
Toả êm dịu trên lòng ta náo nức
Nỗi sợ chết mỗi người ôm giữa ngực
Làm như là đời chưa đủ diệu kì
Mà trời xanh một buổi ánh lưu ly
Toả êm dịu trên lòng ta náo nức
Vâng tôi biết mọi điều dường ngắn ngủi
Người là vậy mừng vui cùng sầu tủi
Trôi lướt qua như bọt rượu trào ly
Nỗi khát thèm biển rộng có nguôi chi
Người là vậy mừng vui cùng sầu tủi
Trôi lướt qua như bọt rượu trào ly
Nỗi khát thèm biển rộng có nguôi chi
(Bản dịch của Huy Cận)
Tôi vẫn thường cố thuyết phục Phương viết hồi ký, bởi tôi biết những thông tin ông đang nắm giữ có ý nghĩa thật quý giá với lịch sử Việt Nam. Nhưng tôi thất bại. Khi tôi hỏi vì sao ông luôn dè dặt không viết, ông thường lảng tránh; và khi tôi tự hình dung ra một số những lý do rồi hỏi lại ông, ông thường đơn giản chỉ gật đầu đồng tình, nói rằng đấy cũng là một phần của nguyên nhân.
Tôi đã đến độ tuổi thường phải chứng kiến các bạn bè ra đi, người này nối tiếp người kia, biết đâu ngày mai có thể cũng sẽ đến lượt tôi. Một độ tuổi mà trong tâm tưởng quá khứ chiếm nhiều không gian hơn tương lai, và cứ mỗi cái chết của ai đó lại khiến không gian ấy mất đi một mảnh, một trải nghiệm thật tàn nhẫn. Nay Phương không còn ở bên chúng ta, một mảnh ký ức của Việt Nam cũng tan biến đi. Đối với chúng tôi, những người bạn yêu quý ông, điều đó thật buồn thương.
Tôi vẫn thường cố thuyết phục Phương viết hồi ký, bởi tôi biết những thông tin ông đang nắm giữ có ý nghĩa thật quý giá với lịch sử Việt Nam. Nhưng tôi thất bại. Khi tôi hỏi vì sao ông luôn dè dặt không viết, ông thường lảng tránh; và khi tôi tự hình dung ra một số những lý do rồi hỏi lại ông, ông thường đơn giản chỉ gật đầu đồng tình, nói rằng đấy cũng là một phần của nguyên nhân.
Tôi đã đến độ tuổi thường phải chứng kiến các bạn bè ra đi, người này nối tiếp người kia, biết đâu ngày mai có thể cũng sẽ đến lượt tôi. Một độ tuổi mà trong tâm tưởng quá khứ chiếm nhiều không gian hơn tương lai, và cứ mỗi cái chết của ai đó lại khiến không gian ấy mất đi một mảnh, một trải nghiệm thật tàn nhẫn. Nay Phương không còn ở bên chúng ta, một mảnh ký ức của Việt Nam cũng tan biến đi. Đối với chúng tôi, những người bạn yêu quý ông, điều đó thật buồn thương.
Pierre Darriulat
Thanh Xuân dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét