Nhạc sĩ Nguyễn Đình San. Sinh ngày 3/3/1946. Quê: Thị xã Phú
Thọ, tỉnh Phú Thọ. Ông tốt nghiệp Khoa Văn Đại học Tổng hợp năm 1968., là
nhạc sĩ, nhà văn, tiến sĩ tâm lý học. Ông đã có gần chục Anbum âm nhạc được
công bố: "Nhớ Hạ Long" (Audio Hồ Gươm), "Chiều nắng"
(Dihavina)…Ngoài ra ông còn viết hàng chục đầu sách về các lĩnh vực văn học,
sân khấu, tâm lí học đã được xuất bản. Mặc dù là con người thành danh, sống
giữa Thủ đô nhưng tâm hồn ông như chính ông bộc bạch” quê ở trong tôi mãi mãi vẫn
là những ấn tượng đậm đà, không bao giờ có thể quên về một nơi thơ mộng, lãng mạn,
gợi nên những gì êm đềm, sâu lắng và thanh bình nhất.”Có lẽ vì vậy mà khi gặp
bài thơ “Làng tre”, trong tập thơ “Mắt cỏ” của Nguyễn Đình Minh, tập thơ đạt giải
nhì của Liên hiệp các Hội VH&NT Việt Nam 2013, ông đã viết về nó, viết như
tự thoại với mình trong hoài niệm quê xưa…
Làng tre
Nguyễn Đình Minh
Thoát nơi ồn ã phố phường
Nhà vây oi ngạt bụi đường kẹt xe
Vỡ òa bát ngát trời quê
Cánh có chớp thả bùa mê thảm vàng.
Nghiêng xiêu gậy chống thời gian
Đón con, ngoại đứng đầu làng ngóng trông
Đầy sân gió nội hương đồng
Thuyền mơ sương khói bến sông trước nhà.
Vó bè cất áng mây sa
Dế lang thang giữa mượt mà cỏ tơ
Cánh sen lần giở tuổi thơ
Mặt ao đựng bóng cả bờ tre xanh.
Ngoại cười ấm mái nhà gianh
Chè tươi ngọt nước chum sành ngày xưa
Miếng trầu têm đỏ nắng trưa
Chung chiêng kẽo kẹt võng đưa gió vờn.
Bồ rau chụm lửa ba hòn
Bánh chưng vuông bánh giầy tròn ở đây
Bao phen bão táp vần xoay
Đã từng có rất nhiều bài thơ viết về làng quê Việt Nam. Lại
cũng không ít sáng tác thơ, văn nói về cây tre mà có lẽ nổi tiếng nhất là tác
phẩm của nhà báo Thép Mới ra đời cách đây đã rất lâu. Vậy mà đọc bài thơ trên của
Nguyễn Đình Minh, tôi vẫn bị ám ảnh và cảm thấy rất mới mẻ, cứ như lần đầu tiên
được tiếp cận một bài thơ viết về nông thôn, về làng quê. Nông thôn Việt Nam
bây giờ đã khác xưa nhiều lắm. Tất cả hầu như đã được bê tông hóa đến 90%. Có lẽ
chỉ còn chút ít vùng miền nơi miền núi heo hút là còn nhà mái tranh, mái lá, tường
bằng tre, nứa hoặc đất. Còn thì hầu hết đã được xây bằng gạch, mái bằng hoặc lợp
ngói, tôn.
Nhưng quê ở trong tôi mãi mãi vẫn là những ấn tượng đậm đà,
không bao giờ có thể quên về một nơi thơ mộng, lãng mạn, gợi nên những gì êm đềm,
sâu lắng và thanh bình nhất. Vậy nên bắt gặp ngay khổ thơ đầu tiên của Nguyễn
Đình Minh, tôi đã vô cùng thú vị, thấy như nhà thơ nói hộ cảm xúc của mình. Cái
từ “thoát” quả thật là đắt với ai ở thành phố mà được về quê, nhất là bây giờ
chốn “ồn ã phố phường” đã ở vào tình trạng “Nhà vây oi ngạt bụi đường kẹt xe”.
Lại về với chốn đối ngược hẳn khi có “Cánh cò chớp thả bùa mê thảm vàng”. Chính
vì vậy mà hai chữ “vỡ òa” mới đắc địa khi gắn liền với câu “Vỡ òa bát ngát trời
quê”. Người ta vẫn hay nói “vỡ òa niềm vui” hoặc “cảm xúc vỡ òa”. Còn nhà thơ ở
đây lại nói như ta đã thấy. Hóa ra cái cuộc sống “oi ngạt” chốn thị thành kia
đã trở nên quá bức xúc nên khi về với “bát ngát trời quê” mới như vậy. Đây là
cách diễn tả đã đi được tới tận cùng cảm xúc. Tôi thích cách nói, cách phô diễn
của Nguyễn Đình Minh. Và đó cũng là phong cách riêng của anh trong hầu hết những
bài thơ anh đã cho ra đời. Từ ngữ anh dùng luôn thông tin được hết mọi biểu cảm.
Nói cách khác, khó có thể tìm được những chữ nghĩa khác có thể biểu đạt được
hơn những điều anh muốn chuyển tải đến người đọc.
Toàn bộ bài thơ là hàng loạt những chi tiết, hình ảnh gợi nên
một miền quê không cụ thể nhưng lại hiển hiện rất sinh động những gì quê kiểng,
truyền thống nhất. Nhưng lại rất hiện đại. Vừa quê với ý nghĩa xa xưa, lại vừa
hiện đại như là có luồng gió mới của thời buổi hiện tại thổi về. Những con thuyền,
vó bè, cánh sen, những chú dế, ao làng…là những cảnh vật muôn thuở của mọi làng
quê Việt Nam, không có gì mới. Nhưng lại được tác giả viết: “Thuyền mơ sương
khói”, “Vó bè cất áng mây sa”, “Cánh sen lần giở tuổi thơ” và “Mặt ao đựng bóng
cả bờ tre xanh” thì quả là những quan sát xuất thần. Ta cần lưu ý hai chữ “sa”
trong câu “Vó bè cất áng mây sa”, tác giả viết s, chứ không x. Có
nghĩa: mây sa xuống (rơi xuống) sông và chiếc vó cất lên. Chứ không phải là
đám mây ở xa (không gần). Một câu thơ quá cầu kỳ. Nhưng hình ảnh thì đã khiến
người đọc tha hồ mà hình dung, tưởng tượng.
Đó là tác giả tả cảnh quê. Đến khi tả tình ở đoạn cuối cùng,
nhà thơ cũng vẫn duy trì lối tìm hình ảnh thật “độc” để gây ấn tượng lạ lẫm cho
người đọc mà “miếng trầu têm đỏ nắng trưa” của “ngoại” là một quan sát, liên tưởng
thật thú vị. Tôi cứ bị ám ảnh mãi hai câu thơ cuối cùng khi đọc hết bài thơ:
“Bao phen bão táp vần xoay/Làng tre vẫn ở chân mây cuối trời”. Một cách nói vừa
lấp lửng lại vừa gợi mở. Đúng là thời gian trôi, thế gian biến đổi “vũng nên đồi”.
Nhất là thời buổi kinh tế thị trường hiện nay thì những “cơn bão” thời cuộc sẽ
không thể không tác động mạnh đến thôn quê. Nhưng “Làng tre vẫn ở chân mây cuối
trời” tức là những gì cố hữu nhất, truyền thống, thơ mộng và đẹp nhất, vùi tít
tận trong sâu thẳm mỗi con người chúng ta thì vẫn còn đó, không hề bị suy xuyển.
Phải chăng tác giả muốn nói điều đó? Hy vọng là như thế. Hy vọng thôi và sẽ
cùng phấn đấu để đạt được điều đó.
Thơ Nguyễn Đình Minh thuộc loại thơ có cảm xúc nhưng giàu trí
tuệ, thể hiện rõ tác giả có tri thức chứ không dễ dãi, làm thơ như một thói
quen như nhiều người sẵn sàng mỗi ngày có thể làm được vài bài. Có cảm giác tác
giả “Làng tre” rất khó tính với từng câu, chữ, hình ảnh, không dễ vừa ý với những
gì bằng phẳng, đơn giản, đơn điệu. Vậy nên phải đọc đi đọc lại nhiều lần mới có
thể thẩm thấu hết mọi ý tình anh gửi gắm trong mỗi câu, mỗi chữ. Như vậy là kén
người đọc. Nhưng thơ hiện đại cần như thế. Tuy nhiên, ta cũng dễ thấy thơ anh
như một mâm cỗ toàn những món ngon, đắt tiền. Nhưng lại quá nhiều. Giá mà anh
biết bớt đi để thay bằng một vài món khác bình dân, giản dị, gần gũi với người
đọc đại trà thì người ăn sẽ có thể thấy ngon miệng hơn và sẽ ăn được nhiều
hơn.
Nguyễn Đình San
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét