Hiện nay Âm lịch của Việt Nam tuy dựa vào lịch Trung Quốc
nhưng Giờ Phối hợp Quốc tế lại khác (UTC+7 thay vì UTC+8). Chúng ta thường gọi
là tháng 2, 3, 4 (Âm lịch)… giống như cách gọi tháng trong Dương lịch, nhưng
tháng đầu năm mới lại gọi là tháng Giêng chứ không phải tháng 1. Vì sao?
Theo Từ điển Taberd (1), Giêng có cấu tạo chữ Nôm gồm chữ
nguyệt 月+ chính 正; tháng Giêng
trong tiếng Latin là mensis primus (tr. 174); còn Hán ngữ gọi là Chính nguyệt 正月. Chữ chính này còn được đọc là chinh, có nghĩa là “đầu tiên,
thứ nhất”, trong khi đó nguyệt 月 là “tháng”. Như vậy, tháng Giêng
theo định nghĩa của Khang Hi tự điển là Nông lịch nhất niên đích đệ nhất cá
nguyệt 农历一年的第一个月, tức “tháng đầu tiên của năm Nông Lịch
(Âm lịch)”.
Xét về từ nguyên, chữ tượng hình nguyên thủy của chính 正 là bàn chân với một đường ngăn chặn nó phía trước, nghĩa gốc
là “hoàn tất” (complete); trong khi đó nghĩa gốc của nguyệt 月 vẫn là “mặt trăng” (moon). Về chữ nguyệt 月 thì không có gì phải bàn cãi, nhưng chữ chính 正 thì có nhiều chuyện cần xem xét. Có người cho rằng phải gọi
tháng Giêng là chinh nguyệt 正月 mới đúng và phán rằng học giả Đào
Duy Anh đã nhầm khi gọi tháng Giêng là Chính nguyệt (2). Thật ra, theo chúng tôi,
cách gọi chinh hay chính là tùy theo phiên thiết mà thôi.
Theo Đường vận, Vận hội và Chính vận, thiết âm của 正 là Chi thịnh (thình) thiết 之盛切. Nếu đọc
chi thịnh thiết thì chữ 正 sẽ được phiên là chính, nếu đọc là
chi thình thiết thì chữ 正 sẽ phiên là chinh. Do đó ta thấy hiện
nay cụm từ 正月 có hai cách đọc là chính nguyệt và
chinh nguyệt, chẳng có gì là nhầm lẫn cả. Một điểm cần lưu ý khác, Khang Hi tự
điển cho biết, chữ 正 đọc giống như chữ chính/chánh 政, như vậy, cách phiên thiết chuẩn nhất là chính chứ không phải
chinh, còn phiên là chánh là do người Nam bộ đọc trại.
Trong Hán ngữ còn có chữ nguyên 元 nghĩa là “mới,
đầu tiên”. Nguyên niên 元年 là “năm đầu (thứ nhất)”, nguyên nguyệt
元月 là “tháng Giêng”, còn nguyên nhật 元日 là “ngày mùng một”. Nhưng trên thực tế, tại Việt Nam, cụm từ
thường dùng để chỉ tháng Giêng là Chính nguyệt 正月 chứ không
phải là nguyên nguyệt 元月. Bằng chứng rõ nhất là cách cấu tạo
chữ giêng theo lối hội ý của chữ Nôm: nguyệt 月 (ý) + chính
正 (ý) – không dính dáng gì tới chữ nguyên 元 (3).
Nhưng chữ giêng từ đâu ra? Cách lý giải thuyết phục nhất
chính là từ sự biến đổi ngữ âm của tiếng Việt theo thời gian. Nhiều nhà nghiên
cứu công nhận rằng chữ giêng là biến âm của chữ chính/chinh 正 trong Hán ngữ. Trước hết, chúng ta xét về phụ âm đầu: c, k,
biến thành g, gh trong những cặp từ “căng – găng”, “cóp – góp”, “cài – gài”,
“còng – gòng”, “ké – ghé”, “kìm – ghìm”, “chăng – giăng”, “chằng – giằng”; còn
phần vần thì có sự biến đổi từ inh thành iêng như trong cái chinh thành cái
chiêng (chiêng - một loại nhạc cụ gõ, còn gọi là chinh trong những phương ngữ
ở Tây Nguyên)…
Chúng ta biết rằng tiếng Việt thuộc hệ ngôn ngữ Nam Á, nhánh
bắc trong ngữ chi Việt là Việt - Mường, điều này cho thấy tiếng Việt rất gần với
tiếng Mường. Từ chiêng trong tiếng Mường, ngoài nghĩa là cái chiêng, còn có
nghĩa là giêng (tháng). Khảng chiêng trong tiếng Mường có nghĩa là tháng Giêng
trong tiếng Việt. Thí dụ: khảng nì là khảng chiêng rồi, còn ói ngày nưa là tiểnh
thết (Tháng này là tháng giêng rồi, còn ít ngày nữa thôi là đến Tết) – trích Từ
điển Mường – Việt của Nguyễn Văn Khang, Nxb Văn hóa Dân tộc 2002, (tr.81). Như
vậy đã quá rõ ràng!.
Nhưng tại sao không gọi tháng Giêng là tháng 1 Âm lịch? Đây
là vấn đề khác, chúng tôi sẽ trình bày sau.
(1) Từ điển Taberd có tên chính thức là Nam Việt - Dương Hiệp
Tự vị (Hán ngữ: 南越洋合字彙; Latin: Dictionarium
Anamitico-Latinum), viết bằng chữ Nôm, chữ Quốc ngữ và Latin, xuất bản lần đầu
năm 1838 tại Serampore, Ấn Độ.
(2) Hán Việt Từ Điển Giản Yếu của Đào Duy Anh (Nxb Trường Thi 1957): Chính nguyệt 正月: Tháng giêng (tr.173).
(3) Trong chữ Nôm còn có 2 cách cấu tạo chữ giêng khác theo lối hài thanh: a. nguyệt 月 (ý) + trinh 貞 (âm); b. nguyệt 月 (ý) + chinh 征 (âm). Cả hai cách này cũng không cho thấy sự liên quan với chữ nguyên 元 trong nguyên nguyệt 元月.
(2) Hán Việt Từ Điển Giản Yếu của Đào Duy Anh (Nxb Trường Thi 1957): Chính nguyệt 正月: Tháng giêng (tr.173).
(3) Trong chữ Nôm còn có 2 cách cấu tạo chữ giêng khác theo lối hài thanh: a. nguyệt 月 (ý) + trinh 貞 (âm); b. nguyệt 月 (ý) + chinh 征 (âm). Cả hai cách này cũng không cho thấy sự liên quan với chữ nguyên 元 trong nguyên nguyệt 元月.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét