Thư gởi bạn xa xôi.
Đúng là lúc đầu, tập “tản văn” này mình lấy Tựa là “Một ngày
kia đến bờ” và post lên dohongngoc.com một vài đoạn… để bạn bè mình xem thử.
Không ngờ dù đã “rao trước” chỉ dành cho “người cao tuổi”, trên dưới 70 mới
nên đọc mà các bạn trẻ cũng đọc, rồi kêu bác đổi tựa đi, tựa này nghe đầy “hù dọa”,
bác nghĩ coi, con để cuốn sách này trong túi xách, đặt trên bàn, hay cầm trên
tay vào quán cà phê thì người ta dòm con… ra sao?
Vì thế mình đã đổi Tựa là: “Về thu xếp lại….” cũng là một ca
từ của Trịnh. Một bạn trẻ viết: Tựa này con nghe thân mật, gần gũi hơn, cũng nhắn
nhủ đó, nhưng nhẹ nhàng, không “hù dọa”…
Thiệt ra, lúc đầu khi viết, nghĩ viết để mình mình đọc, để tự
“nhắc nhở” mình: Gate, Gate, Paragate, Parasamgate… thôi.
Nhưng đúng là “Về thu xếp lại…” có vẻ nhẹ nhàng hơn, dù cuối
cùng thì “thu xếp lại” cũng là để “đến bờ” mà, phải không?
Thế rồi, Nhà xuất bản Tổng hợp Tp. HCM, nơi trước đây đã in
Gió heo may đã về, Những người trẻ… lạ lùng, Già ơi… chào bạn!… đã sẵn sàng để
in “Về thu xếp lại…”.
Gởi bạn cái bìa… coi trước cho vui.
Thân mến,
ĐỖ HỒNG NGỌC
Tranh thiền Lê Ký Thương
Gate, gate, pāragare, pārasaṃgate! Bodhi-Svāhā!
LỜI NGỎ
Người ta nói đúng. Mình đang ở tuổi nào thì đó là cái tuổi đẹp
nhất, không thể có tuổi nào đẹp hơn! Một người 40 mà cứ tiếc mãi tuổi 20 của
mình, một người 60 mà tiếc mãi tuổi 40 thì đến 75 họ sẽ tiếc mãi tuổi 60… thật
là đáng thương!
Tôi nay ở tuổi 80. Thực lòng… đang tiếc mãi tuổi 75! Thấy những
bạn trẻ… trên dưới bảy mươi mà “gato”! Mới vài năm thôi mà mọi thứ đảo ngược cả
rồi. Bây giờ có vẻ như tôi đang lùi dần về lại tuổi ấu thơ, tuổi chập chững, tuổi
nằm nôi…
Vòng đời rất công bằng. Chỉ còn cách tủm tỉm cười một mình mà
thôi!
Cái tuổi đẹp nhất của đời người theo tôi có lẽ ở vào lứa
65-75. Đó là lứa tuổi tuyệt vời nhất, sôi nổi nhất, hào hứng nhất… Tuổi vừa đủ
chín tới, có thể rửa tay gác kiếm, tuyệt tích giang hồ, “nợ tang bồng trang trắng
vỗ tay reo” (NCT), nhưng cũng là tuổi có thể lại vướng víu, đa đoan nhiều nỗi,
để một hôm ngậm ngùi ta là ai mà còn khi giấu lệ/ ta là ai mà còn trần gian thế?
(TCS)
Nhớ hồi ở tuổi 55, mới hườm hườm, tôi ngẫm ngợi, ngắm nghía
mình rồi lẩn thẩn viết Gió heo may đã về. Đến 60 thì viết Già ơi… chào bạn! như
một reo vui, đến 75 còn… ráng viết Già sao cho sướng?… để sẻ chia cùng bè bạn đồng
bệnh tương lân. Nhưng 80 thì thôi vậy.
Đã đến lúc phải “về thu xếp lại” rồi, bởi “chút nắng
vàng giờ đây cũng vội”… rồi đó thôi!
Khi viết “Gió heo may đã về”, tôi cảm xúc từ nhạc Trịnh, nên
đã mượn những ca từ của anh làm tiêu đề cho mỗi chương sách. Trong Lời bạt cho
cuốn sách này, Trịnh Công Sơn đã viết: “… Bạc đầu có phải đã chớm già không.
Theo tôi, bạn Đỗ Hồng Ngọc ạ, đó chỉ là thay đổi một màu tóc… Tôi nghĩ rằng,
không có già, không có trẻ, nói với một người trẻ, tôi già rồi em ạ là vô lễ”.
Thế rồi, đến một hôm kia, anh đã lại viết:
“Ôi phù du/
từng tuổi xuân đã già/
một ngày kia đến bờ/
Tôi nhớ mãi lần đến thăm anh ở phòng Săn sóc đặc biệt Bệnh viện
Chợ Rẫy năm đó, trông anh như một tàu lá chuối khô, dán sát giường bệnh, tôi bỗng
ngộ, những câu chữ anh viết trong ca khúc thì ra đã đến từ một cõi nào khác, xa
xôi, một “mặc khải”, một “phó chúc” nào đó, chớ không phải từ tấm thân tứ đại
ngũ uẩn mong manh này. Cho nên khi viết những dòng này, hôm nay, tôi lại nhớ
người bạn nhạc sĩ họ Trịnh và lại mượn những ca từ của anh như một đề dẫn…
Những dòng viết này góp nhặt từ những trang nhật kỳ rời, từ
những ghi chép lang thang không ngày tháng, rải rác nơi nọ nơi kia, chỉ để sẻ
chia cùng bè bạn thân thiết, những bè bạn cùng trang lứa, cùng tâm
trạng.
Rất riêng tư, và rất chủ quan…
Thân mến,
1. Cát bụi tuyệt vời…
Để một mai vươn hình hài lớn dậy?
Ôi, cát bụi tuyệt vời
Mặt trời soi một kiếp rong chơi…”
Cái hình ảnh lấy cát bụi vo thành môt cục rồi thổi vào đó một
hơi dài để vươn vai lớn dậy làm người thì thật là thú vị. Thú vị ở chỗ nghĩ cho
cùng, cái thân xác cát bụi kia một hôm trở về làm cát bụi thì đã là chuyện dĩ
nhiên, đương nhiên, tự nhiên, sao còn sanh sự tào lao chi cho mệt. Có điều để
cái “cát bụi tuyệt vời…” này trở thành “cát bụi mệt nhoài” thì lỗi tại ta. Ta
có thể làm cho cát bụi trở nên “thú vị” được lắm chứ! Cứ như người làm gốm sứ,
cát bụi mệt nhoài là bởi thứ cát bụi làm kiểu công nghiệp, hàng loạt, giống
nhau như đúc, dù cố vẽ vời chi đó trên gốm cũng vô ích. Cát bụi tuyệt vời là thứ
cát bụi rất riêng tư. Nó tùy màu đất. Nó tùy độ lửa. Tùy chất liệu điểm tô
không thể tính toán trước. Nó tạo ra vô vàn sự khác biệt. Như người họa sư chới
với, kinh ngạc khi nhặt từ lò nung ra một thứ phẩm vật trời cho, tươm bao sắc
màu pha trộn quái dị, chảy theo một dòng chảy không thể lường trước…
Phải, chính cái “phần hồn” kia - cái thức - đã được
lưu chuyển từ một kiếp nào xa đó, chằng chịt quấn quít với bao thứ duyên sinh,
từ không mà có, từ có mà không, vừa chân không vừa diệu hữu, đã khiến cát bụi tuyệt
vời kia một hôm trở nên cát bụi mệt nhoài nọ, với thất tình lục dục, hỉ nộ ái ố…
để rồi nhận ra “trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ/ chẳng biết nơi nao là chốn
quê nhà…”(TCS).
Nói không được. Bất khả thuyết. Không từ đâu đến/ chẳng đi về
đâu. Nó Như Lai. Khi cát bụi và hơi hướm kia không chịu nhau nữa, giận nhau,
cãi nhau, hục hặc, chí chóe, đòi tách nhau ra thì đủ thứ chuyện trên đời sẽ
sinh sôi. Cuối cùng thì đến một lúc, cát bụi trở về cát bụi, hơi hướm trờ về
hơi hướm… Rã ra. Tan ra. Không thương tiếc. Có một chu kỳ, có một nhịp điệu
chăng? Không biết.
Banki, thiền sư Nhật bản, tác giả Tâm bất sinh (bản dịch Ni
sư Trí Hải) nói ngay lúc sống người ta nên thuờng xuyên nghĩ về cái chết. Đúng
vậy, bởi vì cái sống không tách rời cái chết. Cũng như thở vào không thể tách rời
thở ra. Nó là một chu trình khép kín.
Có sinh ắt có tử, có tử ắt có sinh. Hơi vào có hơi ra và ngược
lại. Cho nên người đạt đạo họ tỉnh queo, nôm na là họ… giác ngộ. Họ chẳng cần
phải bối rối. Họ biết nó phải vậy. Như Thị.
Chu trình “khép kín” đó bắt đầu tăng tốc ở lứa 65-75 tuổi.
Tăng tốc khô héo, tăng tốc nhăn nheo. Sự tăng tốc của lứa tuổi này
cũng làm ta há hốc, muốn kêu lên kinh ngạc… như ở tuổi dậy thì, tuổi mới lớn.
Cái vòng đời nó diễn biến tuyệt vời đến vậy, liên tục đổi thay đến vậy thì có
gì đáng phàn nàn đâu! Nhiều bạn cùng lứa than với tôi sao thế này sao thế khác,
tôi thường chỉ nói “Ai biểu già chi?” rồi cười xòa với nhau mà không khỏi có
chút… ngậm ngùi.
Anh chàng Alexis Zorba nói: “Cũng phải chăm nom đến thân thể
nữa chứ, hãy thương nó một chút. Cho nó ăn với. Cho nó nghỉ với. Đó
là con lừa kéo xe của ta, nếu không cho nó ăn, nó nghỉ, nó sẽ bỏ rơi mình ngang
xương giữa đường cho mà coi” (Nikos Kazantzaki). Từ ngày biết thương “con lừa”
của mình hơn, tử tế với nó hơn, thì có vẻ tôi… cũng khác tôi xưa. Tôi biết cho
con lừa của mình ăn khi đói, không ép nó ăn lúc đang no, không cần phải cười cười
nói nói trong lúc ăn. Món gì khoái khẩu thì ăn, chay mặn gì cũng tốt. Cá khô, mắm
ruốc gì cũng được, miễn là đừng nhiều muối quá, đừng nhiều mỡ quá!
Mỗi người có đồng hồ sinh học của riêng mình. Không ai giống
ai. Như vân tay, như mống mắt vậy. Cho nên không cần bắt chước. Chỉ cần lắng
nghe mình. Phương pháp này, phương pháp nọ của người này người kia bày vẽ chẳng
qua cũng chỉ để tham khảo. Nắm lấy nguyên tắc chung thôi, rồi áp dụng vào hoàn
cảnh riêng cụ thể của mình, tính cách mình, sinh lý mình. Phương pháp nào có sự
ép buộc cứng ngắc thì phải cảnh giác!
Thời tôi học y khoa được học tế bào thần kinh không thể sinh
sản, mất là mất luôn, hư hỏng thì không thể tự sửa được, không như tế bào ở các
mô khác. Ngày nay người ta biết có khoảng 100 tỷ neuron thần kinh và 100 nghìn
tỷ kết nối giữa chúng, nhưng thật ra não bộ còn rất nhiều điều bí ẩn chưa thể
biết hết. Khoa học ngày nay tiến bộ, cho thấy tế bào thần kinh chẳng những rất
nhu nhuyến (plasticity), có khả năng tự thích nghi, tự điều chỉnh mà còn có thể
sinh sản tế bào mới (neurogenesis). Chúng có thể kết nối tự bên trong, hoán
chuyển vị trí… chứ không phải tập trung từng khu vực cứng ngắc như ngày xưa đã
tưởng. Khả năng thay đổi và thích nghi này của não không bị mất đi, tuy khi có
tuổi thì các khả năng nhận thức, ngôn ngữ, trí nhớ, suy luận cũng kém đi theo
tiến trình chung. Nghiên cứu gần đây cho thấy ở tuổi 80 não bộ vẫn còn tiếp tục
tạo nên những con đường mới nối kết bên trong nên vẫn phát triển được.
Bây giờ thời đại cái gì cũng “thông minh” đáng ngại. Không
lâu nữa, chắc con người sẽ có đủ “tam minh lục thông” chăng? Tam minh là Túc mạng
minh (biết rõ kiếp trước của mình), thiên nhãn minh (biết rõ… kiếp sau của
mình), lậu tận minh (dứt tất cả lậu hoặc); lục thông gồm thiên nhãn thông,
thiên nhĩ thông, tha tâm thông, thần túc thông,…
Từ ngày có trang web riêng mình (www.dohongngoc.com/web/) do
một bạn trẻ giúp cho, tôi bận bịu với nó nhiều hơn. Rồi nhờ nó mà tôi lần mò học
cách post bài, đưa hình ảnh, chỉnh sửa tùm lum… Nó giúp tôi như quên ngày
tháng, quên đi những buổi mai buổi chiều buổi trưa buổi tối… Nhưng
cũng nhờ nó, tôi mở rộng việc học hỏi, mở rộng giao lưu, thấy quả đất chỉ còn
là một hòn bi xanh trong lòng bàn tay… Và chiếc điện thoại thông minh cũng giúp
mình nhiều việc, dù thực tế nhiều lúc thấy nó thiệt là… ngu!
Mắt kém, đọc mỏi, tôi bắt đầu ít đọc báo, ít xem TV - ngày
trước, mỗi ngày ngốn chục tờ báo là thường! Nay chỉ đọc lướt qua cái tựa là
xong. Thời đại cần cái gì, gõ gõ vài cái có người đưa tới tận nhà! Hy vọng
không lâu nữa, họ gởi các thứ qua mạng, bấm nút in ba chiều, muốn gì cũng có…
Nghe nói người ta đã có thể “fax” một con người từ nơi này sang nơi khác… giúp
ta không phải đợi chờ lâu! Máy móc, kỹ thuật, phương tiện nghe nhìn ngày càng
chiếm ngụ trong ta, “thay mãi đời ta”…
2. Tôi chợt nhìn ra tôi
“Có nụ hồng ngày xưa rớt lại
Bên cạnh đời tôi đây
Có chút tình thoảng như gió vội…”
“Chợt” là vì bất ngờ. Nhưng không phải bất ngờ vì tôi thấy
tôi. Mà bất ngờ vì tôi chợt “nhìn ra” tôi. “Nhìn ra” khác với thấy. Nhìn ra là
“quán”. Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát Nhã chiếu kiến ngũ uẩn giai
không… Quán là thấy rõ (chiếu kiến). Tôi bấy giờ không còn là tôi bây giờ.
Tôi bấy giờ là tứ đại, là ngũ uẩn. Và nếu quán một cách sâu sắc hơn, có thể thảng
thốt kêu lên: “Bổn lai vô nhất vật”! (Lục tổ Huệ Năng).
Có lần Phật hỏi Duy-ma-cật: Ông quán Như Lai thế nào?
Duy-ma-cật đáp: Thì như quán pháp thân của Phật và của chính tôi thôi. Có gì
khác nhau đâu!
Nhìn thì có thể thấy khác. Bởi nhìn thì qua mắt, nhãn căn.
Quán thì không nhìn bằng mắt. Mà nhìn bằng cả năm thứ con mắt (ngũ nhãn) gồm nhục
nhãn (mắt thịt), thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn. Thú vị,
khi quán thì cả Như Lai, Phật và Tôi… đều là một, không khác. Đó là đã thấy
pháp thân, thật tướng vô tướng.
Tôi thường tự hỏi tôi khác gì tôi xưa. Xưa ở đây là trước cái
hồi tôi bị tai biến mạch máu não phải mổ sọ não cách đây cũng vài chục năm rồi.
Câu trả lời là khác. Khác quá đi chứ. Trước hết tôi bây giờ già hơn tôi xưa,
già thấy rõ, già tốc hành chớ không phải già lai rai như trước.
Nhiều hôm nhìn vào gương soi, tôi thấy mình như một quả táo để
lâu ngày, héo dần, teo tóp, nhăn nheo. Nhưng có cái gì đó như cứng cỏi hơn, tuy
quắt queo mà chỉ bay hơi nước, bay cái láng mượt, nuột nà của quả táo căng phồng,
ngây thơ, tràn đầy thuở nào. Bây giờ thì co cụm lại, co rúm lại, gom tụ lại vào
trong cái hột, cái lõi. Tôi thường tủm tỉm cười, cảm thấy khoái khi gặp môt người
bạn trẻ, nghĩa là nhỏ hơn tôi chừng mươi, mươi lăm tuổi, lâu ngày không gặp
nhìn tôi kinh ngạc, há hốc, như định kêu lên cái gì đó rồi thôi. Tôi hiểu và dĩ
nhiên tôi cũng nhìn người bạn, cũng định kêu lên một cái gì đó, nhưng rồi cũng
thôi. Thì ra cả tôi, cả người bạn trẻ đều cùng đã thay đổi, đã già đi mà không
hay! Và như Nguyên Sa nói, người ta chỉ có thể đo tuổi mình qua ánh mắt cố
nhân!
Tôi biết vòng đời của con người có ba giai đoạn đổi thay rất
nhanh. Đó là thai nhi trong bụng mẹ, tuổi dậy thì và tuổi già. Khi trứng thụ
tinh thì chỉ hình thành một tế bào, phải soi dưới kính hiển vi mới thấy; đến 3
tháng tuổi, thai nhi cũng mới bằng ngón tay út, vậy mà 6 tháng đã dài hơn ba
mươi lăm phân và nặng trên một ký; đến lúc chào đời thì đã dài hơn nửa thước, nặng
hơn ba ký rồi. Lớn nhanh như thổi!
Bé sinh ra lớn lên từng ngày, mỗi ngày mỗi khác, nhưng phải đến
tuổi dậy thì mới có sự tăng trưởng và phát triển đột ngột. Chừng vài ba tháng
không gặp, khi gặp lại cô bé mười ba, cậu trai mười bảy kia ta đã hết hồn, há hốc,
kinh ngạc. Nó không chỉ cao lớn mà còn trỗ mã, xinh đẹp, đầy đặn, căng tròn như
quả táo muốn tươm mật. Gái thì yểu điệu thục nữ, tóc mượt lưng ong. Trai thì vạm
vỡ, hiên ngang, râu hùm hàm én… Rồi đến cái tuổi gió heo may, dìu dịu, nhạt
nhòa nhưng vẫn là tuổi năng nổ, hoạt động mạnh mẽ và hiệu quả nhất để rồi chuyển
sang tuổi già, tạm coi là sau tuổi 65, một chu trình “khép kín” đã lại bắt đầu:
tăng tốc khô héo, tăng tốc nhăn nheo, tăng tốc ngược chiều đủ làm hết hồn, làm
há hốc, muốn kêu lên kinh ngạc…
Nó diễn biến tuyệt vời đến vậy, liên tục đổi thay đến vậy thì
có gì đáng phàn nàn đâu, có gì mà không thể tủm tỉm cười một mình đâu. Cho nên
nếu tôi có gì khác tôi xưa thì chính ở chỗ tôi có phần… khoái cái sự già nua
tăng tốc đó của mình, tôi hồi hộp dõi theo nó, tôi cảm thấy nó…hợp lý, nói
chung là… cũng dễ thương quá đó chớ!
Ở tuổi 70 chưa thấy già đâu. Thậm chí đến 72, 73 vẫn còn thấy
trẻ chán. Những năm tháng đó, khi đến những buổi giao lưu, trò chuyện (Talk) ở
đâu người ta cũng nói tôi trông trẻ quá, chừng 60 là cùng. Không phải an ủi
đâu. Tôi cũng… thấy vậy. Tóc vẫn đen nhánh, da căng mượt, trí tuệ sáng láng. Thấy
có lửa. Thấy thèm muốn. Rồi sau đó, bỗng dưng mọi thứ như trôi tuột, tứ đại đất
nước gió lửa gì gì đó coi bộ ai muốn về chỗ nấy, ngũ uẩn sắc thọ tưởng hành thức
gì gì đó coi bộ cũng không còn muốn bó trong một bó (uẩn) như xưa nữa mà xục xịch
lỏng lẻo dần ra, mỗi thứ cứ muốn tách ra riêng, trở về chốn cũ của nó. Thì ra
tôi chỉ là cái được cho “mượn tạm”, “xài đỡ” một thời gian.
Bỗng lầm lì. Hình như ngó vào bên trong nhiều hơn ngó ra bên
ngoài. Có vẻ như đang lắng nghe một cái gì đó. Cái mà Trịnh gọi là “tôi đang lắng
nghe… im lặng đời mình”, hay lắng nghe “lời mời đã dậy”… Các hormone
bắt đầu cạn dần, cạn dần. Mọi thứ đã “lập trình” đâu đó từ trước. Tùy mỗi người.
Không phải cứ muốn mà được. Điều quan trọng người ta phải chấp nhận mình là.
Nghe tin người nọ người kia tự nhiên mà quên hết, tự nhiên mà không nhớ mình là
ai, không nhớ ai là ai. Chụp ảnh não bộ thì thấy teo, teo ở một nơi nào đó, làm
mất trí nhớ dần. Thật đáng sợ và cũng đáng tức cười. Tự nhiên mà nhớ rồi tự
nhiên mà quên. Có người phải tu tập khó khăn lắm mới buông bỏ được, mới quên được,
có người tự nhiên mà quên tuốt tất cả mọi sự đời, chẳng cần phải tu! Hôm qua,
nghe tin người bạn cùng tuổi, cách đây 60 năm vào cùng trường cùng lớp với mình
tự dưng quên cả tên vợ con, quên cả đường đi quanh nhà. Anh vốn là một nhà toán
học, mà bây giờ không biết cả hai với hai là bốn. Một bạn khác, vốn là một nhà
quản lý có tiếng ở một bệnh viện lớn ngày xưa mà nay cũng không nhớ nổi tên
mình! Một người bạn hứa cùng đi chơi, giờ chót xin lỗi vì không mặc được quần
vì thấp khớp… Quên chìa khóa, quên mắt kiếng, quên điện thoại, quên
số nhà, không biết đường về… thì thường xuyên rồi. Con đường mòn của ký ức đã
trục trặc, vấy bẩn hay vì những nguyên nhân gì khác không biết. Quên
ngày tháng, quên nơi chốn. Nói điều gì xong quên ngay. Hỏi đi hỏi lại mãi. Ăn mặc
luộm thuộm. Thích đi lang thang. Rồi đến lúc không thể tự săn sóc cho mình được
nữa, phải hoàn toàn lệ thuộc. Nghĩa là người ta cứ từ từ trở lại tuổi nằm nôi,
từ biết đi biết chạy đến đứng chựng, biết bò biết lật rồi… Giận hờn, trách móc,
lo âu, trầm cảm, còn thêm nhiều thứ bệnh ập tới không thương tiếc. Rồi té ngã,
loét da, táo bón, tiêu tiểu không kiểm soát… Già ấy là lúc cạn, lúc teo, lúc
héo. Thích nghi không dễ. Biết để mà thương, mà chấp nhận mình.
Nhiều khi, sáng dậy, nhìn vào gương soi tôi lại thấy tức cười.
Tôi đó sao? Nhăn dần từng nét ngộ nghĩnh trên mắt trên da. Đôi khi muốn lấy viết
vẽ nguệch ngoặc gương mặt thay đổi từng ngày của mình, từng ngày nhưng rất
nhanh, thấy rõ chứ không như ngày xưa, nhiều năm mới nhận ra nét đổi thay. Tôi
tức cười nhìn mình. Nó nhìn tôi cũng cười. Ngộ nghỉnh. Cười mà ráng. Không ráng
thì nó trỉu nặng. Mấy tế bào của cơ mặt hình như sinh tật làm biếng, xệ xuống
cho khỏe.
Tôi thường tự hỏi, tôi bây giờ khác gì tôi xưa? Khác nhiều chứ.
Tôi tập xả hơi. Tôi tập xì hơi. Nhiều khi thử xả cho tận kiệt xem sao. Tôi thử
bịt mũi từng tế bào, coi nó ra sao? Tôi thử thả trôi nó coi nó ra sao. Tôi tách
thân xác ra khỏi thân hơi coi nó ra sao. Trần Nhân Tông nói có lý: thân thể y
như cái túi da. Là bác sĩ, tôi còn biết túi da đó đựng những gì nữa! Không chỉ
thấy là xương là thịt, là mỡ gì đó đâu, tôi còn thấy đến tận những chất liệu
Carbone (C), Hydrogen (H), Nitrogen (N), Oxygen (O) và chừng 60 món vô cơ khác
từ sắt đồng chì kẽm mangan, vôi vữa… các thứ câu kết ra sao, thay đổi ra sao,
hùng hục, huỳnh huỵch với những phản ứng hóa học ra sao.
Tôi ăn cũng khác mà ngủ cũng khác xưa. Bây giờ tôi thấy ngủ
cũng chỉ là cách cho cơ thể nghỉ ngơi, giảm tiêu hao năng lượng, cho tế bào não
sạc pin, phục hồi, tế bào cơ thư giản. Nếu có cách nào khác làm cho tế bào cơ
thư giản, hết co cơ, tế bào não hết sinh sự, kiếm chuyện, thì tôi cứ để cho
thân thể tự dàn xếp. Cơ thể tự biết cách thu xếp. Nó biết xì hơi, xả hơi. Thường
thì nhờ vậy, tôi ngủ lúc nào không hay. Kệ nó. Nó muốn thức dậy giờ nào thì cứ
cho nó dậy, ngủ tiếp thì ngủ. Mỗi ngày cũng mất 7-8 giờ cho chuyện ngủ nghỉ
này. Pin đủ, đầu óc sáng suốt, trí nhớ tốt, nhạy hơn hẳn. Trưa cũng cần sạc pin
chút xíu.
Lâu nay tôi hoang phí năng lượng vào những chuyện không
đâu, cho nên cơ thể căng cứng, rả rời, lúc nào phổi cũng phải bơm
hơi cho kịp, tế bào cũng phải quần quật hì hục sản xụất năng lượng. Bây giờ tôi
chủ trương thở vừa đủ xài. Xài ít thì thở ít. Bộ não có chút xíu, có 2% thể trọng
mà họat động cực kỳ mạnh mẽ, tiêu thụ đến 25% khối lượng Oxy đưa vào cơ thể. Nếu
có cách nào làm cho não nghỉ ngơi thì giảm được sự mệt nhọc. Còn khi có tranh
chấp, căng thẳng thì … cơ sẽ căng cứng, cứ y như những con thú rừng, sẵn sàng
tư thế chiến đấu hoặc bỏ chạy (stress). Toàn bộ cơ mà căng thẳng vậy,
nhu cầu năng lượng tăng gấp… 4 lần!
Ghi tiếp “Nhật ký rời”: Chỉ còn mấy ngày nữa, đã đầy tám chục
(tuổi ta). Phải nhanh chóng ghi lại vài điều kẻo quên.Thứ nhất, ở tuổi này tôi
thấy tay mình ngày càng run. Làm cái gì mà cẩn thận thì đổ vỡ. Làm cái gì không
tính trước thì được. Tùy cơ ứng biến thì tốt. Tay run đến nỗi viết cũng khó mà
vẽ chơi cũng khó. Tôi phải vẽ kiểu “tốc họa”, vẽ như chớp, theo một cảm xúc bất
chợt, không toan tính thì tốt. Ai bắt chước được cái run?
“Già khú” là giai đoạn một, thêm một bước nữa thì gọi là “già
khú… đế”. Khú, Từ điển tiếng Việt bảo là “để thâm lại và có mùi hôi”, thí dụ
dưa khú, tức là một thứ dưa để lâu quá, sắp hư. “Khú đế” là “vua” của khú đó
chăng?
Sai lầm lớn khi ta nghĩ rằng già sẽ đến từ từ. Cứ từ từ mà
thích nghi. Không đâu. Già nó xồng xộc trên trời rơi xuống, dưới đất vọt lên.
Không những xồng xộc nó còn gia tốc, tàn bạo như cơn sóng vỗ vào bờ đá, vội vã
để mau chóng nhập vào dòng nước cuồn cuộn đuổi theo sau. Nó mạnh mẽ và tàn nhẫn,
tung tóe, tan tác, lắng chìm, không một chút xót thương. Nó lãnh đạm bởi nhiệm
vụ nó phải thế. Nó thú vị bởi nó không phân biệt. Giàu nghèo sang hèn, da trắng
da đen… Còn ta, ta chần chờ, làm ngơ… Đi đâu mà vội… Không đâu! Một hôm già bỗng
chuyển hệ sang già…khú, rồi khú đế đột ngột làm đảo lộn mọi thứ tính toan. Bây
giờ tôi thấy mình lạc lõng, ở đâu cũng lạc lõng. Với lứa trẻ, mình lạc lõng đã
đành mà với lứa trung niên mình cũng bị… loại sớm. Bạn già cũng rơi rụng đâu mất
dần.
Một người bạn điêu khắc gia có tiếng nắn tôi cái tượng chân
dung. Anh không nói trước. Một hôm, kêu lên nhà café chơi. Tôi đến. Anh mang tượng
ra, bảo, ngồi yên chút cho anh retouch lại. Lúc đó mới biết. Tôi nhìn anh hý
hoáy gọt gọt giũa giũa… thấy ngộ, bèn cũng hý hoáy vẽ anh với bộ râu
đặc biệt. Anh không biết là tôi đang vẽ anh. Xong đâu đó, trao tặng anh. Anh ngạc
nhiên, vui lắm. Tượng sau đó tôi mang về giấu kỹ. Mười lăm năm trôi qua từ ngày
đó. Tình cờ nhìn lại tượng, tôi giật mình: râu tóc đã bạc phơ. Nhăn nhúm đã
tràn đầy!
3. Về thu xếp lại… ngày trong nếp ngày
“Về đây đứng ngồi
đường xa quá ngại
Bây giờ muốn ngủ lúc nào ngủ. Muốn dậy lúc nào dậy. Chỉ khi
nào có đi đâu xa mới phải để đồng hồ báo thức mà luôn dậy trước giờ, vói tay tắt
đồng hồ reo rồi… ngủ tiếp. Thức dậy nhìn đồng hồ coi thử mấy giờ rồi, nhớ hôm
nay sẽ có những việc gì phải làm. Có khi phải ghi trên giấy từ đêm trước. Bây
giờ “mỗi ngày tôi chọn một niềm vui… đường đến anh em, đường đến bạn bè” là đủ.
Nếu có đi dạy học, đi nói chuyện ở đâu đó thì phải đúng giờ giấc còn thì cứ
theo cái đồng hồ sinh học của mình. Xưa thức khuya dây sớm theo dõi trận đá
banh hay. Nay thôi. Ban tổ chức dành cho tôi một sân riêng, có mái che, máy lạnh.
Coi được bao lâu thì coi. Muốn thì cho ngưng trận đấu, sớm mai đấu tiếp. Đọc
tin tức các đài báo phần lớn cũng chỉ đọc cái tựa là biết đủ rồi. Thì giờ đâu
mà dài dòng văn tự. Nếu là một đề tài hay, cần thêm chi tiết thì đọc nhanh, kiểu
câu đầu câu cuối, dòng dọc dòng ngang là xong. Bài nào thấm thía lắm mới đọc từng
chữ. Dừng lại, nhâm nhi, ngẫm ngợi, rồi đọc tiếp. Cười khà một mình. Thích những
bài bình luận sâu sắc, châm biếm nhẹ nhàng. Mấy chục năm nay quen giờ giấc chính
xác, thấy ai trễ giờ thì bực mình do làm ở khoa cấp cứu bệnh viện nhiều năm, chậm
trễ một phút có thể chết người. Bây giờ phấn đấu đi trễ cho quen vì đi đúng giờ,
đến sớm làm cho người ta ngượng. Thăm hỏi một vài bạn đau ốm. Thư từ cho người
này người kia. Nay vắng người này mai vắng người khác. Đến một lúc, thấy vắng
cũng như có mặt. Không khác. Vài ba thư mời dự chỗ này chỗ khác. Thử chọn xem
nên đi đâu không? Đa số đành từ chối. Ăn uống khó khăn. Mặt mày khó ưa. Ăn nói
dễ ghét. Từ chối viết bài cho báo, xuất hiện trên truyền hình, trả lời phỏng vấn
này nọ vì biết mình đến lúc nên lánh mặt, nên đi chỗ khác chơi. “Biết đủ dầu
không chi cũng đủ/ Nên lui đã có dịp thời lui” (Ưng Bình). Thỉnh thoảng có bài
này bài kia viết sai , trích sai… cũng thôi kệ. Nhiều bài không phải của mình,
không phải mình viết, người ta cũng gắn tên mình là tác giả, thậm chí kèm cái
hình chân dung cho… chắc ăn. Lúc đầu bực mình, đính chánh nọ kia. Sau, thôi,
tùy hỷ. Tự dưng rồi người ta cũng biết. Kẻ cố tình làm sai chắc cũng thấy không
vui.
Vào phòng tắm nhìn vào gương soi để thấy cái “bổn lai diện mục”
của mình. Tức cười. Thấy nó ngày càng nhăn nhúm, da mồi tóc bạc tăng tốc, cứng
ngắc, rụng gần sạch. Mỉm một nụ cười… tươi trước gương. Nấu một bình
nước để pha trà, pha café. Có lúc quên cắm điện. Chờ hoài không thấy
nước sôi. À há. Vệ sinh các thứ xong thì… ngồi thiền. Con người vốn khổ vì làm
việc với cái đầu nhiều quá, đến nỗi ‘điên cái đầu”. Khôn hơn chút
thì làm việc với trái tim. Nhưng với trái tim cũng vẫn khổ, có khi còn khổ hơn.
Có nhà minh triết khuyên nên làm việc với cái… rún. Làm việc với cái rún nghĩa
là trở về với hơi thở. Đưa hơi xuống huyệt đan điền. Tôi nghĩ, rún thì đã tốt,
nhưng tốt hơn nữa là làm việc với… ruột già, xuống thấp hơn cái rún nữa càng tốt.
Ngồi thiền 30-40 phút là đủ. Lúc đầu chưa quen, còn đau chân
đau cẳng, sau quen dần. Thiền Anapanasati (quán niệm hơi thở) trong
kinh Tứ Niệm Xứ. Theo tôi, đó là một phương pháp thiền có cơ sở khoa học, sinh
lý học tốt nhất, không sợ “tẩu hỏa nhập ma”. Thiền tập là cách tập sống trong
cái chết. “Xả thiền” là giai đoạn tốt nhất để thể dục. Tỉnh rồi phải động chứ.
Nhịp điệu mà. Tập tất cả các cơ khớp và mỗi động tác có thể gắn với một tên gọi
tùy nghi. Này là từ bi. Này là hỷ xả. Này là tham, này là sân, là si, nghi, kiến,
mạn… Này là từ bi, này là trí tuệ, này là bình đẵng, là trực tâm. Học và hành
lai rai quấn quít nhau. Sau buổi ngồi thiền và tập thể dục kiểu đó, chừng một
tiếng, cơ thể như được sạc pin, sảng khoái hơn. Tắm xong thì tự làm cho mình một
ly café- yaourt. Sáng có gì ăn nấy, không ăn cũng được. Ngồi vào máy tính. Ngày
càng mất nhiều giờ cho máy tính. Điện thoại smartphone thì ngày càng ngu. Tin
mình đợi thì chẳng bao giờ đến. Người mình mong thì chẳng bao giờ gọi. Nhỏ mà
không học lớn mò sao ra. Máy tính cứ lò mò, ngày càng chậm chạp. Phải chi như
Tô Đông Pha có một nàng Vân, pha mực, rót trà, gõ cho mình cái meo, post cho
mình cái bài lên web… thì hay quá!
Là thầy thuốc nhưng tôi rất không ưa thuốc men. Kể cả cho bệnh
nhân. Người ta quảng cáo cho cố để bán thuốc. Hù dọa cho cố để bán thuốc. Lâu
lâu lại công bố thứ thuốc này thuốc kia phải thu hồi, phải cấm vì gây nhiều tác
hại hơn mang lại lợi ích.
Đối với bản thân mình, tôi nghĩ cần ăn uống vừa đủ, vận động
vừa đủ, thiền định, giữ tâm hồn thanh thản, an nhiên tự tại, không bị lệ thuộc
vào thầy (thầy thuốc, thầy tu, thấy bói, thầy phong thủy…), không bị lệ thuộc
vào thuốc, dù là thuốc đông tây nam bắc. Trừ trường hợp có bệnh lý thực sự cần
phải can thiệp thì phải tuân thủ. Khi phải mổ cấp cứu… thì đành mổ thôi. Nhưng
khi bạn bè đồng nghiệp thương tình cho cả một bụm thuốc để uống hàng ngày thì
tôi chọn một vài món, còn thì… liệng hết. Các thứ thuốc tương tác lẫn nhau, gây
nhiều rắc rối phiền hà. Thuốc nào cũng đầy phản ứng phụ (side effects). Tội gì
biến mình thành con chuột bạch thử hết thuốc này đến thuốc kia!
Ăn không chỉ là ăn. Tôi ăn uống đơn giản, mà con cháu lúc nào
cũng kêu khó. Bởi không ăn giống mọi người. Đòi cá khô, rau luộc, bún, nước mắm
me. Cá kho mặn thì đem đi chiên. Ăn chay không ra ăn chay. Ăn mặn không ra ăn mặn.
Không biết uống rượu. Không hút thuốc lá. Có dịp cùng bè bạn vào bữa tiệc tùng
luôn thấy lạc lõng. Mọi người nhìn mình cũng dè chừng. Mình cũng ngượng ngập.
Đã vậy, lúc nào cũng đòi… ớt. Cả một bàn tiệc thịnh soạn công phu của gia chủ,
có khi chỉ khen món ngon nhất là ớt! Vì thế, dần dần ai cũng tránh mà mình cũng
khỏe. Suy dinh dưỡng từ nhỏ. Tản cư, ở rừng ăn uống thiếu thốn đã quen. Khoai,
bắp, đậu, mè là món khoái khẩu. Lúc về thành thì cũng ở trong chùa.
Lúc 12 tuổi cân nặng 25kg. Sáng sáng đi học ăn một chén cháo muối. Trưa làm tô bún
nước mắm cay xè. Bánh căn bao bụng với nước cá mòi. Xôi là món tuyệt vời nhất
vì rẻ tiền mà no lâu. Suốt thời gian ở Saigon đi học, mỗi sáng đều xôi và xôi.
Khoái khẩu hơn nữa là cơm cháy, cá khô nướng.
Càng có tuổi, càng ăn đơn giản. Lại thêm bệnh Gout. Hải sản hết
dám ăn. Nhiều bạn tưởng tôi ăn chay trường. Không. Tôi không phân biệt chay mặn
gì đâu. Có gì ăn ấy. Nhưng không ăn thịt. Chỉ ăn cá, rau. Nhớ thời Phật đi khất
thực, cũng cho gì ăn nấy. Thức ăn nào với Phật cũng thành chay tịnh. Vì tâm đã chay.
Thấy sợ khi người ta “ăn chay” mà thức ăn có tên rất “mặn”.
Ăn không chỉ là ăn! Ăn làm ra hạnh phúc hay khổ đau. Ăn làm
ra người hiền hay kẻ ác. Ăn làm mau già hay làm chậm tiến trình lão hóa. Kẻ thù
ta cũng thường vây quanh ta trong bữa ăn bằng lời nói cử chỉ. Nhưng kẻ thù còn
đầu độc ta bằng những món ngon. Ngày càng có nhiều món ăn chế biến sẵn, thức ăn
nhanh… rất đáng ngại.
Thỉnh thoảng nên tự tay nấu ăn một bữa! Yan can cook, huống
chi ta? Bảo đảm bữa ăn đó là một bữa ăn ngon nhất! Đừng ngại. Thiên tài đầu bếp
thường là những lúc lỡ tay, chế ra một thứ thức ăn không giống ai, không theo một
thứ sách vở nào, công thức nào… Các vua đầu bếp đều là những người dám nghĩ dám
làm, dám sai mà không sửa.
Món ăn nào do tôi chế biến đều là món ăn… ngon cả! Kể cả “xà bần”
các thứ, tưởng như phải bỏ đi. Đó là những món ăn chưa có tên trong bất cứ thực
đơn nào của các khách sạn hạng đầu trên thế giới. Những món đó có tên chung là
món… trời ơi, vì ai cũng kêu lên như vậy, nhưng khi ăn thì quả thật là ngon! Các
thức ăn đều là thuốc, chẳng qua ta không để ý mà thôi! Thức ăn càng gần với
thiên nhiên thì càng tốt. Mỗi ngày tôi tự “khất thực” lấy phần mình, thường thì
ăn một mình dễ “chánh niệm” hơn.
Lâm ngữ Đường nói những sinh vật ăn rau cỏ luôn hiền lành như
trâu bò, dê, ngựa, nai, cừu… còn những sinh vật ăn thịt luôn hiếu sát như cọp,
beo, sư tử, cá sấu… Có một câu nói rất quen: Hãy nói cho tôi biết anh ăn gì,
tôi sẽ nói anh là ai. “You become what you eat”.!
Giả Bình Ao viết một bức thư cho bạn để từ chối đi ăn cỗ. Xin
trích một đoạn như sau: “… Muốn ăn cỗ thì ngồi với người quen sẽ ăn ngon, thích
thì ăn nhìều, không thích thì ăn ít, có thể nấc, có thể đánh rắm, có thể nói
đùa, chửi bậy… Ăn với người lạ mà làm thế đựơc ư? Người biết thì có thể thông cảm
mình lười nhác tản mạn đã quen, người không biết sẽ cho mình lếu láo không tôn
trọng họ…! Trên mâm cỗ, chúc rượu ai trước ai sau cũng không được lộn xộn,
không được sót người nào, mà mình đâu nhớ được vị nào làm lớn làm nhỏ… Mình lại
không hay cười mà trên mâm cỗ đương nhiên phải cười, cái cười ấy dễ trở thành
nhếch mép, cười ruồi, đâm ra tẻ nhạt bầu không khí… Mình ngần này tuổi đầu rồi,
tùy tiện ở ngoài đã quen, ở nhà càng quen, bảo mình khúm na khúm núm, ân cần
chiều chuộng như gái làm tiền thì khó mà học nổi trong chốc lát. Cho nên hãy
tha thứ cho mình, miễn cho mình nhé…!”. (Tản Văn, Giả Bình Ao, Vũ Công Hoan dịch)…
Phật dạy có 4 “nhóm” thức ăn khác gồm: Đoàn thực, Xúc thực,
Tư niệm thực, Thức thực… Thức ăn ta nói ở trên chỉ mới là đoàn thực. Đoàn thực
là thức ăn được vo lại thành nắm như nắm xôi, nắm cơm vắt, có thể có đủ bột, đạm,
dầu, rau… để nuôi thân. Khi ăn một nắm cơm như thế, ta thấy cả “ngũ uẩn” trong
đó. Lấy ngũ uẩn nuôi cái ngũ uẩn thân ta là vậy. Còn Xúc thực, Tư niệm thực, Thức
thực là những thức ăn của tâm hồn. Những loại này không cẩn thận thì nó quấy
ta, khó mà an lạc được. Chỉ cần bấm một cái nút, chúng đã sanh ào ạt…
Khi còn trẻ, ta thấy cái “ăn” là quan trọng, khi về già mới
biết cái “chuyện lớn” kia còn quan trọng hơn! Lâm Ngữ Đường bảo: “Hạnh phúc ư?
Rất đơn giản. Nó nằm ở ruột già! Ruột già mà điều hòa thì ta hạnh phúc, còn
không thì ta khổ sở. Chỉ có vậy thôi!” (Sống đẹp, bản dịch Nguyễn Hiến Lê).
Bón là một cực hình đối với người có tuổi. Khi bị bón, ta trở
nên cau có, quạu quọ, khó chịu… Chuyện kể ở một nhà kia, chuột nhiều vô kể và
phá phách quá lắm, chịu không nổi. Nuôi mèo, đặt bẫy chẳng ăn thua! Thế rồi có người
bày bắt lấy một con chuột to, khâu đít nó lại, rồi thả nó ra. Mới đầu chẳng có
chuyện gì xảy ra nhưng chỉ ba hôm sau, con chuột bị khâu đít bắt đầu cắn phá
lung tung. Chúng cứ lựa các con chuột… nhởn nhơ, vui vẻ… thấy ghét mà cắn, cắn
cho bõ ghét! Thế là từ đó không còn một con chuột nào dám lai vãng nữa!
Thần kinh chịu trách nhiệm chuyện lớn này là “thần kinh thẹn”.
Do đó, nếu cứ “thẹn” hoài thì sẽ thành bón kinh niên thôi. Khổ nỗi, thời đại
toàn cầu hóa bây giờ người ta toàn lo chuyện hội họp, thương thảo, tranh luận
căng thẳng, dễ “vượt qua” chuyện lớn lúc nào không hay!
Ta thấy ở những nơi văn minh, lịch sự - những tòa cao ốc lớn,
nhà hàng, khách sạn 5 sao - bao giờ hệ thống toilet cũng đặt ngay ở cửa ra vào,
sạch đẹp, thơm tho, có tiếng nhạc dìu dịu, êm nhẹ, đầy quyến rũ…
Tóm lại, chuyện không nhỏ. Nên mới gọi là “Đại”.
Còn tôi thì sao? Nói chung vẫn cứ nhăn nhó, quạu quọ và cau có…!
Càng già có vẻ càng cần ngủ nhiều như pin cũ cần sạc lâu hơn.
Lại cần phải sạc nhiều lần nên ngoài ngủ tối còn phải ngủ trưa, ngủ…
tùy hỷ nữa! Pin cũ lại dễ chai. Nên nhiều khi không dễ mà ngủ. Ngủ đầy đủ thấy
sảng khoái, thảnh thơi, trí nhớ tốt. Ngủ thiếu như hết pin, cà khịa. cà giựt. Tắm
nước ấm kích thích thần kinh, gây cảm giác dễ ngủ và bóng tối giúp tuyến tùng
tiết melatonine, kích thích tố giúp dễ ngủ. Một chỗ quen thuộc. Yên
tĩnh. Mặc thoáng mát. Ăn nhẹ dễ tiêu. Hồi nhỏ, tối tối ra giếng múc nước gàu mo
dội ào ào, nay thì thôi, đừng dại. Dỗ giấc ngủ tốt nhất là dõi theo hơi thở.
Hơi thở trung tính và sẵn có.
Khi nào buồn ngủ thì đi ngủ ngay. Không ráng. Ráng thì không
dễ dỗ lại. “Cơ tắc xan hề không tắc miên” (Trần Nhân Tông): đói đến thì ăn mệt
ngủ liền chắc là vậy. Tiếng mình hay. Buồn ngủ. Chưa buồn thì kệ nó, việc gì phải
ngủ. Cơ thể sẽ biết cách ngủ bù, việc gì mình phải lo cho nó! Vui
khó ngủ. Vui là kích thích, hào hứng, rộn rã, thở gấp, tim đập nhanh, huyết áp
căng. Buồn, mọi thứ xìu xuống, giảm kích thích, thở chậm lại, tim đập chậm và
huyết áp cũng giảm.
Có thể nói cơ thể ta gồm 2 phần, thân xác và thân hơi! “Nghệ
thuật” ngủ là làm sao tách “thân xác” ra khỏi “thân hơi”. Dỗ giấc ngủ dễ là
tách thân xác ra khỏi thân hơi. Tức là buông xả toàn bộ thân xác, rả nó ra, cho
nó xẹp xuống, hết căng, xì cho nó xẹp lép, tay chân trong tư thế không gò ép, dễ
chịu là được. Khi thân xác xẹp lép, lửng lờ như vậy rồi, thì chú ý “dõi theo”
thân hơi. Thân hơi nó trung tính, nó tự động, nó cóc cần thân xác hỗ trợ. Nó
phình xẹp theo ý nó, không cần phải điều khiển nó, không cần phải điều hòa gì cả.
Vậy là ta rơi vào… giấc ngủ lúc nào không hay.
Mấy năm nay tôi không còn trực tiếp khám bệnh, đã “rửa tay
gác kiếm”, chỉ thỉnh thoảng tư vấn hoặc tham vấn cho mấy cas đặc biệt. Chẳng
bao lâu nữa, tôi nghĩ mình cũng sẽ như người bắn cung thiện xạ nọ không còn biết
cây cung, mũi tên là cái chi chi! Ưu tiên bây giờ là đi đây đi đó theo lời mời
“nói chuyện sức khỏe” (health talk) cho bà con. Mỗi buổi đi nói chuyện như vậy,
với tôi, là một cơ hội để giao lưu và học hỏi. Ở trường cũng vậy. Từ bỏ làm chủ
nhiệm bộ môn. Dạy ít dần. Dạy, chủ yếu cũng kể chuyện “đời xưa” cho sinh viên
nghe, không dạy kiến thức, kỹ năng mà dạy về thái độ, về mối quan hệ thầy thuốc
bệnh nhân, về y nghiệp, y đức. Đó là cách tôi “chọn ưu tiên” và “tối ưu hóa” việc
của mình ở tuổi già này.
Thỉnh thoảng dạo cảnh chùa. Lang thang đây đó. Tán gẫu với bạn
bè ở các quán café vắng vẻ, nơi bờ ao, bờ hồ, dòng nước… để có chút thiên
nhiên…
Định làm gì trong ngày thì ghi ra đi, vì chút xíu sẽ quên. Do
vậy, mỗi góc, mỗi nơi trong nhà có xấp giấy nhỏ, có cây viết sẵn chờ đó.
Bây giờ tôi cũng trở thành chuyên gia dự báo thời tiết lúc
nào không hay. Một trận động đất ở Indo, ở Nhật, một cơn bão sắp ập vào
Philippines, vào Caribee tôi biết trước khi TV lên tiếng. Mới hôm nọ, đùng cái,
chóng mặt, xây xẩm, nôn mửa… tăng huyết áp. Không cần học hành y khoa nhiều ai
cũng biết đó là một cơn choáng, stroke, mức độ thế nào chưa biết. May mà chỉ là
một cơn thoáng thiếu máu não, do một số mạch máu li ti nào đó ở não đã bị nghẽn,
tắc. Từ đó sẽ dẫn dần dần tới tình trạng nặng hơn. Già có cái mốc.
Trước đó mấy ngày, già ngon. Qua cái mốc, eo sèo, suy sụp. Đứa cháu nội nói
“Ông Nội lì quá, kêu đi Bệnh viện không đi”. Một ngưòi không phải là thầy thuốc,
sẽ phải tìm ngay đến bác sĩ. Còn ta? Trăm chẩn đoán hiện ra trước mắt. Ngàn câu
hỏi đặt ra. Dù sao cũng phải đi khám tim mạch. Phải rà toàn bộ. Rồi phải khám
não nữa chứ. Chắc là một thứ microemboli rồi đó thôi. Tuổi này thì các cơ quan
“đầu não” bắt đầu sinh sự! Sắp hết thời hạn sử dụng rồi. Siêu âm tim. Điện tâm
đồ. Xquang tim phổi, xét nghiệm máu, sinh hóa… các thứ. Lâu nay cứ hẹn mãi, ngần
ngại mãi. Có thực sự cần thiết không. Bói ra ma quét nhà ra rác! Nhưng thôi, lần
này đành phải bói, phải quét thôi. Đến bác sĩ thế nào cũng tìm ra cho mình một
cái bệnh gì đó để lo âu và để sống khổ đau với nó. Họ sẽ bắt mình làm đủ thứ
xét nghiệm và dựa trên những con số này nọ để phán mình phải thế này phải thế
khác.
Nhưng bệnh cũng có cái hay của nó chứ. Nó làm cho ta nhớ lại
mình. Đã đành biết bệnh tật gắn vào mình từ trong trứng nước, thậm chí trước đó
nữa, ở nơi ông bà cha mẹ mình từ ngàn xưa qua các gen di truyền nhiều thế hệ,
nhưng cứ mỗi lần bệnh tật, với tôi, trở thành một cái giật mình. Mà cũng lạ, đường
đường là một người thầy thuốc, học hành đàng hoàng, ra trường hơn nửa thế kỷ,
nghề nghiệp chín chắn, nổi tiếng là người thầy thuốc “mát tay”, luôn quan tâm
chăm lo giúp đỡ cho người khác khi có ai nhờ đến, cả bệnh thân lẫn bệnh tâm, vậy
mà, với mình, tôi quên tôi tuốt. May thay, nhờ có bệnh nhắc. Mà không phải là bệnh
nhẹ. Bệnh nhẹ không đủ nhắc tôi đâu. Một chuyến té gục trong cầu tiêu mê man vì
xuất huyết tiêu hóa. Nhắc đó. Phá cửa, chở vào bệnh viện truyền máu. Một chuyến
nhức đầu nôn mửa, cườm mắt muốn nổ, từ cườm khô sang cườm ướt. Nhắc đó. Mổ cấp
cứu. Thiên hạ mổ mắt xong về. Tôi mổ sanh biến chứng. Các bạn giúp đỡ, lo lắng,
đo tới đo lui, mắt bị nhiễm trùng thứ phát, tưởng tiêu, nhưng còn dùng được
chút xíu. Thôi, kệ nó. Lần khác nữa, chuyến tai biến mạch máu não, đục sọ 2 lỗ,
dẫn lưu. Nhắc đó. Những ngày nằm viện, tỉnh lại, tôi viết bài thơ cám ơn: Cám
ơn cơn bệnh ngặt nghèo, quật ta kịp lúc!… Sức khỏe của người già chủ yếu đưa vấn
đề “tâm thần” lên hàng đầu: làm sao phát triển và duy trì được sự sảng khoái và
hoạt động chức năng tốt nhất về tâm thần (mental), rồi mới đến xã hội (social)
và thể chất (physical), bởi thể chất đã tới hồi rệu rã, yếu tố chính sẽ chỉ là
vấn đề tâm thần vậy.
Cái thiếu lớn nhất của người già là thiếu bạn. “trời cao đất
rộng, một mình tôi đi/ đời như vô tận, một mình tôi về… với tôi”. Từ ngày về
hưu, bạn bè rơi rụng dần. Rơi rụng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Lâu lâu, dòm lại
cái cuốn sổ danh mục ghi điện thoại (sau này ghi thẳng vào trong điện thoại) đã
thấy có nhiều địa chỉ chẳng biết làm sao liên lạc được nữa. Muốn xóa mà ngâp ngừng
rồi không nỡ.
Cảm ơn internet. Nhờ có internet mà nối kết được cả thế giới
vào trong lòng bàn tay. Cảm ơn cả những ký hiệu diễn cảm bằng những hình ảnh gì
đó là nụ cười là nước mắt là yêu thương là hờn giận…cả những từ lạ như hihi
haha huhu trên tin nhắn, trên email! Riết rồi không cần nói chẳng cần nghe, chỉ
xài mấy cái ký hiệu là đủ rồi vậy.
4. Con tinh yêu thương vô tình chợt gọi…
“Mây che trên đầu và nắng trên vai
Đôi chân ta đi sông còn ở lại
Con tinh yêu thương vô tình chợt gọi
Lại thấy trong ta hiện bóng con người…”
Đúng như Carl Rogers nói, càng già càng dễ xúc động. Già
không phải là khô khan cằn cỗi chi đâu! Tôi thấy mình càng già càng dễ xúc động.
Cảm xúc rất mạnh. Mít ướt. Cảm xúc không bị bào mòn đi hay cùn nhụt đi, chai lì
đi như vẫn tưởng.
Tôi chảy nước mắt dễ dàng trước một hoàn cảnh cảm động, ngay
cả trong phim ảnh mà tôi biết là diễn xuất. Coi đi coi lại một phim cũ, đến chỗ
cảm động đó tôi vẫn cứ không cầm được nước mắt. Nó tự động trào ra, ngoài sự kiểm
soát của tôi. Chuyện không có gì cũng khóc được. Cũng chừng đó chuyện mà tới đoạn
đó, biết là giả, là kịch, là phim mà nước mắt vẫn cứ chảy ra, cầm không được.
Có khi khóc nức nở. Nhiều khi không can đảm coi tiếp. Chờ qua cơn, nguôi dần mới
coi, rồi lại khóc. Cái gì làm mình trở nên “mít ướt” lạ lùng mà hồi nhỏ, lúc trẻ
không đến nỗi vậy?
Đọc chuyện anh em nhà họ Điền định chặt cái cây cổ thụ trong
vườn để chia nhau thì bất ngờ thấy cây đã chết, chuyện tình bạn của Lưu Bình
Dương Lễ… và những chuyện khác trong Quốc văn Giáo khoa thư cũng lại làm tôi
rơm rớm nước mắt. Có khi nghe một bài hát cũ, tôi thấy mình xúc động. Bài hát
có thể bạn trẻ gọi là nhạc sến. Sến chảy nước là vậy chăng? Có khi
nhớ đến một người bạn từ tuổi nào xa, tôi cũng thấy lòng mềm
nhũn. Mít ướt quá rồi đó. Tôi phải vội vàng nghĩ đến một
điều gì khác để đánh trống lãng, để lừa gạt mình. “Bất thủ ư tướng, như như bất
động” ư? Còn lâu!
Cái tính dễ xúc cảm như vậy là một thứ stress, thường xuyên,
liên tục, thật không hay cho sức khỏe. Nhưng biết làm sao được?
Có phải “con tinh yêu thương vô tình chợt gọi” rồi chăng? “Lại
thấy trong ta hình bóng con người” rồi chăng? Để rồi tự dằn vặt mình “Ta là ai
mà còn khi giấu lệ? Ta là ai mà còn trần gian thế?” chăng.
Nghĩa là không thể rời xa. Nghĩa là không thể “thôi chia ly từ
đây”. Cửa động đầu non đường lối cũ. Ngàn năm thơ thẩn ánh trăng chơi ư (Tản
Đà). Vì sao mà “yêu quá đời này” mặc cho “đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng”.
Thiệt ra chẳng “vô tình” đâu. Có tạo tác đó. Có nghiệp báo
đó. Chỉ có con tinh mới biết yêu thương đó mà. Con người thì mịt mù cát bụi.
Loay hoay với điên đảo mộng tưởng. Con tinh mới đứng bên ngoài. Nhìn rõ. Và yêu
thương. Những A-tu-la, những Ba-la-sat mới biết yêu thương.
Nghiên cứu cho thấy có vẻ như càng già người ta càng yêu nhiều
hơn, yêu vội hơn và càng yêu thì càng “sống khỏe sống vui” hơn! Khi “chút nắng
vàng giờ đây cũng vội” thì mới thấy còn có bao nhiêu thời gian để yêu thương và
được yêu thương? Dĩ nhiên, tình yêu bấy giờ có thể chỉ là một mối tình lãng mạn,
hoặc một mối tình “ngỡ đã quên đi/ bỗng về quá rộn ràng”… để rồi “như bờ xa nước
cạn/ đã chìm vào cơn mơ”. Tình yêu lãng mạn có ý nghĩa rất lớn ở người có tuổi.
Như “nuôi sống” họ bằng tình yêu. Hình như họ chỉ giữ được chút kích thích tố vừa
đủ để “lãng mạn” cho cuộc đời đẹp ra, đáng sống hơn, sức khỏe cũng tốt hơn vì
nó làm cho tim đập nhanh hơn, tuần hoàn não tốt hơn, trí tuệ minh mẫn hơn, hệ
thống miễn dịch hoạt động tốt hơn, ít bệnh vặt hơn và nếu có bệnh thì rất mau
lành! Thứ “romantic relationships” này là những “hỗ trợ xã hội” tuyệt
vời nhất, xúc chạm, thân mật, gần gũi càng già càng thấy cần hơn, nhất là khi
người ta cảm thấy cô đơn hay đau khổ vì một lý do nào đó cần chia sẻ. Người phối
ngẫu lúc đó cũng đã trở thành một người bạn thiết. Tuổi trẻ, tình yêu gần gũi với
tình dục, nhưng tuổi già, tình yêu trở nên đằm thắm, tình yêu của từ bi hỷ xả,
của bè bạn, cùng sến già nam và sến già nữ cho nhau! Một “hồng nhan tri kỷ” tuyệt
vời như nàng Vân của Tô Đông Pha? Để ông Tô riêng một thú thanh tao? Nguyễn tướng
công mà còn phải “gato” đến vậy! “Tao ở nhà tao tao nhớ mi/ Nhớ mi
nên phải bước chân đi/ Không đi mi bảo rằng không đến/ Đến thì mi hỏi đến làm
chi/ Làm chi tao có làm chi được/ Làm được tao làm đã lắm khi…” (NCT).
Không có cách nào khác. Phải “về thu thu xếp lại” thôi. Không
muốn cũng không được. Nó đã chuyển lượng thành chất rồi! Đã khác rồi, “cát bụi
tuyệt vời” đã chuyển thành “cát bụi mệt nhoài” rồi. Dĩ nhiên cốt lõi vẫn là cát
bụi. Cái nhánh nhóc tuyệt vời và mệt nhoài kia mới cần phải thu xếp. Mệt nhoài
mà tưởng tuyệt vời thì nguy to! Thu xếp lại là gom phân thân các nơi về một mối,
thành hạt cát sông Hằng, nơi có tám vạn bốn ngàn sông Hằng mà mỗi hạt cát là một
vũ trụ. Gom các phân thân lại, gom những món hóa thân ứng thân gì gì đó lại, ta
sẽ nhìn ra ta, để thấy cái không-ta. Không phải của ta, không phải là ta, và xa
thêm chút nữa, không phải là tự ngã của ta.
Không có tự ngã của ta nên ta mới thong dong và tự do tuyệt đối,
ta có thể hoán chuyển, bay nhảy luân hồi khắp nẻo tùy chọn lựa, khổ đau hay hạnh
phúc, thiên đường hay địa ngục, niềm vui hay nỗi buồn. Ta trách nhiệm với chính
mình. Không ai can thiệp vào được đâu! Cho nên mới bảo “Thiên thượng thiên hạ,
duy ngã độc tôn”. Cho nên mới bảo “Ta là đường đi, là lẽ thật, là sự sống…”. Chớ
còn ai vào đó nữa. Cái chân không mà thành diệu hữu, cũng chẳng vui sao? Không
phải của ta vì việc gì phải tham, phải tom góp, phải giữ “của”? Không phải là
ta thì việc gì phải sân hận, phải giận hờn, phải oán trách? Không phải là tự
ngã của ta thì việc gì phải lo âu, phải sợ hãi? Nó là nó thôi. Nó ở ngoài ta.
Nó đùa vui chút thôi mà ta phiền muộn, sợ hãi lo âu chẳng phải làm cho nó càng
khoái chí chọc ghẹo ta thêm ư? Khi biết ra ngôi nhà ta được kết tập bởi những cột
kèo, vôi vữa các thứ, Phật cười bảo thôi nhé, đừng hòng mà bày đặt nữa nhé. Ta
biết tỏng cả rồi. Từ đó, Ngài có nụ cười từ bi rất dễ thương.
Điều chỉnh mình theo dòng nước buông trôi về biển cả. Chuyện
sau đó có bốc hơi thành mây thành mưa, hẹn hò từ muôn kiếp trước không thì
không biết vì còn nghiệp còn duyên. Nó vậy đó. Nó trôi. Ta bềnh bồng trôi theo.
Nhưng bây giờ nó gia tốc, nó ào ạt, không lửng lơ như ngày xưa còn bé nữa! Ta
phải điều chỉnh thôi. Điều chỉnh để trôi cho nó êm xuôi thôi. Không cần quằn quại,
không cần khổ đau. Ở tuổi này như đã qua một con dốc, đường trơn tuột, không
còn cái hăm hở hì hục leo trèo nhảy nhót ganh đua, nhìn “thế sự” nhẹ hẫng đi và
không mấy quan tâm nữa. “Mặc ai hỏi mặc ai không hỏi tới/ Gẫm chuyện đời mà ngắm
kẻ trọc thanh” (NCT). Những người nhìn xa trông rộng, đã có thể chuẩn bị thu xếp
từ lâu để không bị ngỡ ngàng, đột ngột, sững sờ. Chẳng hạn người ta sẽ phải chọn
lựa ưu tiên. Gom không hết được phân thân tản mạn mệt mỏi thập
phương cùng lúc thì gom từ từ. Chọn thế mạnh, chọn thứ mình thuần thục nhất và
ưa thích nhất. Lực bất tòng tâm rồi. Sức khỏe đã cạn dần, đã hỏng hóc chỗ này
chỗ khác. Có thứ có sẵn phụ tùng thay thế được, có thứ chịu thua. Mắt đã có thể
mua thêm kính, đổi kính, thay thủy tinh thể nhân tạo, tai kém có thể mang trợ
thính, chân kém có thể kèm cái ba-toong! Nhưng những cục máu đông li ti từ những
xơ vữa trong động mạch làm tắc nghẽn rải rác mấy cái mao mạch ở não thì đành chịu.
Trí nhớ sẽ giảm dần, quên trước quên sau. Chuyện cần nhớ thì quên, chuyện cần
quên thì nhớ. Bước đi lửng thửng, lệt bệt như chân đã mọc dài ra, trong khi
lưng thì còm xuống cho gần với đất hơn chút, hơn chút nữa. Chọn cái
gì phù hợp nhất với tâm lý và thể chất mình. Những ưu tiên này rồi cũng phải
thay đổi theo thời gian, theo sức khỏe. Khi đã chọn ưu tiên rồi thì cố gắng
hoàn thiện với kỹ năng, kiến thức tốt nhất có thể, như vậy sẽ duy trì được niềm
vui, cái đó gọi là “tối ưu hóa”. Chẳng hạn không còn chơi được tennis nữa thì
chơi bóng bàn, chơi cờ tướng, đánh đàn, làm thơ… Và dĩ nhiên, luôn tìm kiếm một
sự “bù đắp” để những ngày tháng lặng trôi này không buồn tẻ. Như
chàng Tư mã Giang Châu ngày ngày vẫn nắn mấy trái bầu xanh trên giàn mà nghĩ tới
một nậm rượu ngon cùng bè bạn của Nguyễn Tuân ngày nào!.
5. Người đã đến và người sẽ về bên kia núi
“Từng câu nói là từng cánh buồm giong cuối trời.
Còn lại tiếng cười khóc giữa đời..”
Người ta đã đúc kết: “Năm năm/ Sáu tháng/ Bảy ngày”, nghĩa
là ở tuổi 50, nên có kế hoạch năm; đến tuổi 60 thì chỉ nên làm kế hoạch
tháng; còn đến 70 thì tốt nhất nên có kế hoạch… ngày! Cho nên “Mỗi ngày tôi chọn
một niềm vui! Chọn những bông hoa và những nụ cười!” (TCS) là phải quá! Vấn đề
là ở chỗ chọn lựa. Thiên đàng Địa ngục hai bên… Một cụ già trên trăm tuổi được
nhà báo hỏi bí quyết sống lâu, sống khỏe, ông nói có gì đâu, mỗi sáng, thức dậy,
tôi tự hỏi hôm nay mình nên ở thiên đàng hay địa ngục đây… rồi tôi chọn thiên
đàng.
Có những vùng khí hậu lạ. Một ngày mà có đủ cả bốn mùa: xuân
hạ thu đông! Còn muốn gì hơn? Ở cái tuổi này, không phải chỉ cần có kế hoạch
ngày mà nhiều khi còn phải có kế hoạch giờ! Sáng khác, trưa khác, chiều khác, tối
khác rồi. Làm được gì thì làm ngay. Lát sau mọi thứ sẽ khác. Cần có phương án
hai, phương án ba. Cẩm nang để sẵn trong các túi gấm, đến đâu giở ra đến đó!
Từ trứng và tinh trùng, ta hình thành một cái phôi phải nhìn
dưới kính hiển vi mới thấy. Rồi rất nhanh, trở thành một thai nhi loi ngoi
trong vũng nước ối, trong bụng mẹ. Không thở. Không ăn. Không ngủ. Dĩ nhiên có
đái và ỉa khi các bộ phận thải chất bả này hình thành và hoạt động. Thế rồi
chín tháng mười ngày ta bung ra ngoài cứ y như cánh hoa phải xòe nở đúng thời
đúng tiết vậy. Việc đầu tiên là… thở. Thở mà không xong thì tiêu đời! Bác sĩ sẽ
xịt alcool hoặc đét vào đít cho ta khóc thét lên. Khóc càng to càng tốt. Khóc
to có nghĩa là thở mạnh. Mệt mỏi rồi nhé! Từ đó đã phải lệ thuộc vào cái gì đó
bên ngoài. Rồi phải bú nữa trời ạ. Bú mẹ còn đỡ, cứ vùi đầu mà nút, chả cần ai
chỉ dạy! Nhưng nhiều khi phải níu lấy cái bình bú cứng ngắc, ai đó nhét vào miệng
vì không có sữa mẹ. Cứ thế mà chùn chụt để nuôi thân. Rồi biết lật, biết ngồi,
biết bò, biết đứng chựng, biết đi, biết chạy nhảy, leo trèo… Rồi biết nói năng,
suy nghĩ. Nhớ, tiếc, giận hờn, giành giựt, đấu đá, ghen tuông, ích kỷ, thất
tình lục dục đủ thứ không lúc nào ngưng. Và dĩ nhiên vẫn thở và vẫn ăn. Rồi nam
tu nữ nhũ. Rồi chọn lựa. Rồi giao cấu. Rồi đẻ ra một lô một lốc chẳng biết từ
đâu ra.
Đến một hôm, ta từ hùng hục chạy, ta… lững thững đi, rồi chập
chững đứng, vật vựa, nghiêng ngã, rồi ngồi một chỗ, mắt lờ đờ nhìn xa xôi, rồi
lòm còm, bò lê, bò lết… Từ chùn chụt, ngấu nghiến, ừng ực, dô dô 100%… ta bỏ ăn
bỏ uống, thấy cái gì cũng rệu rạo, nhóp nhép vì xệu xạo răng cỏ. Rồi thở cũng
cà giật, cà hước… Ta trở lại cái hồi thai nhi trong bụng mẹ, bây giờ là mẹ Như
Lai, một vòng khép kín. Thì ra, ta đã từ đó mà đến để rồi loay hoay một vòng về
lại chốn xưa. Cứ y như đàn cá hồi, cứ bốn năm lại “hồi” về chốn cũ, đẻ xong rồi
chết, sau khi đã làm xong nhiệm vụ truyền giống. Con thiêu thân thì nhào vào
ánh lửa. Con bọ ngựa thì giao cấu xong thì chết ngay trên bụng con cái, làm thức
ăn cho con… Con bọ hung hùng hục chui vào đống phân, giành giựt đấu đá để vo
tròn một cục phân mang về cho bọ hung cái nuôi con. Cá ếch nhái bò sát chim đều
vậy. Cây cỏ cũng vậy. Hoa nở chẳng những đẹp mà còn thơm, lôi kéo lũ bướm ong dập
dìu lui tới để mang phấn đi muôn phương.
Nhìn suốt cuộc hành trình đó, có cái gì tức cười, vừa tàn nhẫn
vừa thương tâm. Cái hiện hữu chỉ là thị hiện, trình hiện chút chơi vậy thôi. Nó
giả. Nó tạm. Vậy mà sao ta cứ tưởng thiệt mới đáng thương làm sao. Gieo rắc và
sinh sôi. Cứ vậy. Như Lai thọ lượng. Như Lai thần lực. Cứ vậy. Người tỏ ngộ tủm
tỉm cười, vui vẻ chui vào tháp báu, gặp Như Lai Đa Bảo của mình ngồi đó, tay bắt
mặt mừng. Schopenhauer nói cô con gái liếc mắt đưa tình, tìm kiếm chàng trai
râu hùm hàm én mày ngài, oai vũ là để trao thân vì chắc hẳn sẽ là giống tốt;
chàng trai thì tìm giai nhân chân dài, đáy thắt lưng ong, ngực nở, mông to để mắn
đẻ. Lấy vợ xem tông lấy chồng xem giống là vậy. Con người thông mình hiện đại
làm phiền Như Lai hết sức, vì chỉ muốn tìm vui mà quên nhiệm vụ thiêng liêng!
Đất (Nitrogen) nước (Hydrogen) gió (Oxygen) lửa (Carbon) cùng
62 nguyên tố đồng chì sắt kẽm được vo cục lại, nắn nót, thêm thắt, vẽ bày, hà
hơi tiếp sức rồi thảy vào Ta bà nhộn nhạo theo một cái duyên, cái nghiệp nào
đó. Mãi mới nhận ra “bổn lai vô nhất vật”. À há, nó là không, nó là chân không
diệu hữu. Nó bày trò, vờ vịt, vớ vẩn, giỡn chơi thôi. Không muốn ngộ rồi cũng
ngộ. Không muốn giác rồi cũng giác.
Sanh bệnh lão tử hay sanh lão bệnh tử thì cũng vậy. Lập trình
nó vậy rồi. Nhưng «tử» dễ nghe hơn «chết». Chết khó nghe và thấy sợ. Tại
sao sợ? Không biết. Tại vì không biết cho nên sợ. Nhưng lạ, cũng là chết mà có
nhiều từ khác nhau để gọi. Vua chết gọi là «băng hà». Sư chết gọi là «viên tịch». Phật chết gọi là nhập Niết bàn. Lính chết gọi là hy sinh… Dân chết có khi gọi
là «mất» là «qua đời» là «lìa trần» v.v…
Người ta sợ chết mà không sợ sanh. Vì sanh có biết đâu mà sợ.
Nhưng có phải tự nhiên mà sanh ra không? Nếu ba mẹ ta mà không “duyên” với nhau
thì có ta không? Nếu ông bà nội ông bà ngoại mà không “duyên” với nhau thì có
ta không? Vậy ta từ đâu ra? Có phải chỉ tinh cha huyết mẹ là đủ hay còn cần phải
có một điều kiện nào khác? Có cái gì khác đó chui vào, can thiệp vào để có ta
chứ? Cái đó gọi là “thức tái sanh” ư? Là “nghiệp” dẫn dắt ư? Chính điều nầy làm
ta thấy có trách nhiệm sống, vì sống cũng chỉ là một giai đoạn tạm thời của một
hiện tượng tạm thời. Ta có trách nhiệm hơn. Ta có tự do hơn. Để tự chọn lựa.
Một cặp thai song sanh sợ hãi khi sắp tới ngày sanh, muốn ở lại
trong thiên đàng lòng mẹ càng lâu càng tốt. Hai cái thai tranh cãi quyết liệt
không ai chịu ra đời trước, vì không biết chuyện gì chờ đón họ ngoài kia. Cuối
cùng dù dằn co thế nào thì cũng có một cái thai chui ra trước. Hóa ra… đời vui
quá! Người ta đón chào rôm rả. Thai kia thấy thế cũng vội vả ra theo. Rồi oa oa
chào đời. Rồi hít thở, rồi bú mớm. Rồi lớn như thổi, rồi yêu thương, rồi ganh tỵ,
hờn ghen, đấu đá, giành giật… rồi cuối cùng cả hai cùng một lần nữa lại bị kéo
ra… khỏi cuộc đời. Cũng lại quyết liệt tranh cãi không chịu, cũng lo lắng, sợ
hãi, đòi ở lại càng lâu càng tốt…
Một cái vòng luẩn quẩn. Sanh bệnh lão tử. Tử rồi lại sanh.
Quanh đi quẩn lại có chừng ấy. Một vòng tròn khép kín? Khép kín mà không y
chang? Mỗi lần tái sinh lại mỗi khác?
Đời sống sinh vật thay đổi từng sát na, không bao giờ đứng
yên một chỗ, lẽ nào tái sinh lại y chang như cũ? Có điều những nguyên liệu cứ hủy,
tan rã rồi lắp ráp lại nên một hình tướng mới. Cho nên mới bảo nó chỉ là “giả
tướng” tạm bợ vậy thôi. Thấy “như thật” là thấy cái thực tướng vô tướng đó. Thỉnh
thoảng ta gặp một ai đó thấy như đã quen từ lâu, như đã có hẹn hò từ muôn kiếp
trước… thì cũng đừng có ngạc nhiên!
Kinh A Hàm kể: Khi tuổi đức Phật đã lớn, một hôm Ngài đi khất
thực trong thành Xá Vệ trở về thọ trai xong, sau đó cảm thấy trong người hơi lạnh,
nên ra ngoài hương thất ngồi phơi nắng. Ngài vén y để lộ làn da lưng nhăn nheo.
Tôn giả A Nan từ xa thấy vậy, mới đến xoa lưng cho đức Phật, than: “Ôi! Da dẻ của
Thế Tôn không còn láng mịn như thuở xưa nữa, lưng đã hơi khòm rồi. Ôi! Còn đâu
những gì của thời trai tráng”. Phật bảo: “Đúng vậy A Nan! Cái già có sẵn trong
cái trẻ, cái chết nằm trong cái sống, thân của Ta rồi đây sẽ hoại diệt, một lúc
nào đó không tránh khỏi”.
Cho nên cái “Tri kiến” Phật, cái thấy biết của Phật là thấy
biết Như Lai. Nó vậy đó là nó vậy đó. Nó Như thị. Như Lai Đa Bảo từ trong tháp
báu tức mộ tối bước ra, tay bắt mặt mừng, ôm chầm lấy người anh em xa cách bấy
nay là Phật Thích Ca đó thôi. Rồi kẻ trước người sau, chúng ta đều cùng vào
tháp báu gặp Đa Bảo Như Lai của mình để chuyện trò thân mật, tay bắt mặt mừng!
Phật khuyên ai làm bạn với Thần chết thì Thần chết không… khó
dễ họ. Còn ai sợ hãi trốn chạy Thần chết thì Thần chết sẽ rượt theo. Nhưng bằng
cách nào làm bạn đây?
Nhiều con đường lắm. Thiền chẳng hạn, là một. Ở trong thiền,
trong một trạng thái an nhiên, không có ngã, là đã sống trong cái chết, làm
quen với cái chết.
Niệm nam mô A Di Đà Phật chẳng hạn. Nam mô là nhớ, nghĩ. A Di
Đà Phật là vị Phật ở Tây phương cực lạc để đón rước ta về chốn ấy, từ biệt chốn
“cực khổ” Ta bà này! Nhưng phải sao mới được tiếp dẫn chớ? Phải giới định huệ,
phải tín hạnh nguyện chớ. Cho nên một người đi đứng nằm ngồi đều nhớ, nghĩ A Di
Đà chính là một người đang làm quen với cái chết, luôn nhắc nhở mình sẽ chết,
đang chết hay nói cách khác, đang sống trong cái chết. Biết sắp chết, sẽ chết,
đang chết mà còn khổ được ư? Cũng vậy, một người mang thánh giá trên cổ là để
luôn nhắc nhở mình về cái chết của chính mình. Khi sắp gây gỗ, sắp đánh nhau, bỗng
dưng nhớ lại cây thánh giá đang mang, cũng như nhớ tới Phật A Di Đà đang đợi hẳn
là… thôi chứ! Và cái thôi chứ, thôi kệ đó đã làm hạ hỏa, đã giải stress rất hiệu
nghiệm. Tức khắc ta quay về. Tức khắc ta buông xả.
Milarepa nói: “Vì sợ chết tôi đi vào trong núi, liên tục trầm
tư về tính chất bất định của giờ chết. Bỗng bắt gặp thành trì bất tử vô tận của
tâm bản nhiên. Bây giờ tất cả nỗi sợ hãi đều tan biến, và trong sanh tử mở cái
thấy trí tuệ vô sanh”.
Trong cái vô niệm, vô sanh đó, không có chỗ cho thần chết bày
trò hù dọa. Bởi vì họ đã là bạn của nhau. Cái tâm bản nhiên đó không có chỗ cho
ai hù dọa ai. Nó trống vắng. Lặng lẽ Thanh tịnh. Nó bất sanh cho nên nó bất diệt.
Chẳng nhơ chẳng sạch. Chẳng thêm chẳng bớt.
Khi thấy được “ngũ uẩn giai không” thì người thợ làm nhà kia
bỏ đi. Rui kèo cột vẫn cứ là rui kèo cột, nhưng thôi, huề cả làng, chẳng ai còn
hù dọa được ai.
Ngài Đạt Lai Lạt Ma nói nếu ta luôn nghĩ tưởng về cái chết và
sự vô thường, thì sẽ bắt đầu làm cho cuộc đời có ý nghĩa. Sự tỉnh giác về cái
chết và lẽ vô thường có thể có những lợi lạc to lớn.
Nhiều người tránh đề cập cái chết. Vì vậy khi nó xảy tới thì
họ bị bất ngờ và hoàn toàn không sẵn sàng.
Không có sự khác biệt giữa cái chết của một vị vua, bỏ lại đằng
sau vương quốc của mình, và cái chết của một người ăn mày, bỏ lại cây gậy.
Rồi cùng mà mỉm cười. Nụ cười của Phật. Của Bayon. Của La
Joconde. Của ta.
6. Đôi khi thấy trên lá khô một dòng suối…
“Đôi khi bước qua phố xưa lòng tôi nhớ
Đôi khi thấy trăm vết thương rồi như đá ngây ngô…”
Simone de Beauvoir nói mẹ của bà đã ngoài chín chục, đã biết
trước sau gì cũng chết, nhưng khi bà chết thì ai nấy đều kinh ngạc, bất ngờ.
Simone de Beauvoir nói lạ, cái chết lúc nào cũng là một tai nạn, đều mang yếu tố
bất ngờ!
Ở xứ mình, có những gia đình hai ông bà ngoài 60 đã mua sẵn
hòm ván, xây sẵn kim tĩnh. Có người thỉnh thoảng còn vào nằm trong hòm ván đặt
sẵn trong nhà như một cách làm quen. Có cụ bà xây kim tĩnh hai ông bà ngay trước
cạnh cửa chính ngôi nhà của họ, khi ông mất, chôn một bên và còn một bên dành
cho bà. Có cả khung để hình sẵn. Họ coi cái chết là chuyện dĩ nhiên nên họ sống
rất hạnh phúc. Mỗi ngày sống đều có ý nghĩa!
Cho nên một trong những cách quán của thiền là quán xác chết
của chính mình, làm quen với nó. Chính Đức Phật cũng có một thời gian ra ngủ ở
bãi tha ma. Con người đang chết từng ngày, từng phút giây mà không nhận biết.
TCS nói: “dưới vành nôi là từng nấm mộ”. Sanh ra thì nằm nôi, chết thì lật úp
cái nôi xuống, thành nấm mộ, có thế thôi. Vậy nguyên tắc là làm quen với cái chết
ngay khi sống. Tập chết hằng ngày, ý thức cái chết hằng ngày của chính mình. Có
lẽ nhờ thế mà bớt hung hăng, bớt tham lam, sân hận, giành giựt, đấu đá! Hình ảnh
“nhập niết bàn” của Phật là một hình ảnh rất đẹp, thường được đúc tượng ở khắp
nơi. Tôi thấy trên một ngọn đồi ở cung điện hoàng gia Campuchia có một bức tượng
Phật ngồi thiền, trước mặt là một tượng Phật nằm, tức nhập Niết bàn. Ta cũng
nên chánh niệm như vậy. Cái đó gọi là “niệm tử”. Còn cư sĩ Duy Ma Cật thì bảo
“Tử ma” là một trong các “thị giả” thân thiết của ông, nghĩa là lúc nào cũng
bên cạnh ông, giúp đỡ ông mọi lúc mọi nơi, ân cần, chu đáo.
Thiên nhiên hẳn đã tính toán kỹ, làm giảm nhẹ nỗi đau khi có
một người già sắp chết. Người già đó phải rất… chướng, rất kỳ cục, để ai cũng
ghét, cũng muốn họ sớm “vắng” đi cho rảnh! Nếu là một cặp vợ chồng thì về già
thường hay gây gỗ, để chán nhau. Sẽ rất có ích khi một người chết trước đi thì
người còn lại đỡ buồn đau chăng?
Thiên nhiên cũng tử tế, sắp đặt cho về già thì mắt mờ tai
kém, đầu óc lú lẫn… Hạnh phúc sẽ đến từ từ với những hiệu ứng của những sự kiện
này. Bớt sắc sảo, bớt nghe những lời khó nghe, bớt thấy những điều không nên thấy
và nhờ lú lẫn mà biết quên lãng, trở nên dễ thương, buồn cười dưới mắt người trẻ.
Một người già mãi sáng suốt luôn làm cho người trẻ khó chịu.
Phật có một thời gian sống trong nghĩa địa, nghiền ngẫm về
cái chết, cho nên cái chết không xa lạ với Phật, không làm Phật sợ hãi. Phật dạy
quán bất tịnh, quán nghĩa địa để tập làm quen, cứ y như những người thầy thuốc
chăm sóc bệnh nhân thì không còn sợ bệnh, sợ máu me, đàm mủ… nhờ tiếp xúc bệnh
nhân hằng ngày. Tuyệt vời là các ông vua Việt Nam, ông nào cũng xây sẵn cho
mình một cái lăng… ngay khi mình còn sống. Vậy là vua đã làm quen với cái chết
từ lúc còn đầy uy quyền tối thượng trong tay. Đã vậy còn chiều chiều dẫn các
cung tần mỹ nữ ra lăng ngắm sen nở, xem ca kịch, như ở một xứ thần tiên. Chính ở
đó là lúc vượt qua bờ bên kia của bao nhiêu phiền luỵ. Tôi chắc mỗi lần ra
lăng… chơi, vị vua nào cũng thấy mình được giải thoát, sung sướng, an lạc, hạnh
phúc so với lúc ngồi trên ngai vàng, trị vì thiên hạ.
Các nhà tâm lý học ngày nay nhận định cái chết trong thế giới
hiện đại thường kéo dài sự đau khổ vô ích với kỹ thuật y khoa cầu kỳ tốn kém và
cách ly với gia đình người thân, cộng đồng, trong khi đa số bệnh nhân thích được
chết an bình tại nhà, trên giường mình xung quanh là những người thân. Dĩ nhiên
đây là kết quả nghiên cứu ở phương Tây còn bên ta, may mắn đa số vẫn còn được
chết ở nhà, thậm chí bệnh viện thường cho phép «hấp hối xin về» để tránh tỷ lệ
tử vong cao trong bệnh viện.
Chết là một tất yếu, không thể tránh được, không nên che đậy,
cấm kỵ. Sống thì không biết chắc, nhưng chết thì biết chắc. Tây Tạng có một cuốn
sánh nổi tiếng: Tử Thư. (Tạng thư sống chết, Ni sư Trí Hải dịch). Sách viết về
sự chết. Mỗi người nên nghiền ngẫm cuốn này từ lúc hãy còn trẻ thì tốt hơn.
Hình như thiên nhiên cũng có bày đặt một «kế hoạch» gì đó, khiến những người
quá già thường thay đổi tánh nết, «chướng» không chịu được, hành hạ con cháu
quá lắm, chắc có mục đích là làm sao cho khi mình chết thì con cháu… mừng, mình
giải thoát mà con cháu cũng được… giải thoát. Đặc biệt cái sống già quá cỡ sẽ
giúp con cháu sợ già, muốn chết sớm hơn, lúc hãy còn hiểu biết, còn hạnh phúc.
Họ sẽ nhận rõ điều Phật dạy: Chư hành vô thường/ Thị sinh diệt pháp/ Sinh diệt
diệt dĩ/ Tịch diệt vi lạc!
Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện khi bị lao phổi nặng ở Pháp, thời kỳ
chưa có thuốc chữa, đã phải cắt bỏ một lá phổi bên phải, rồi lại phải cắt thêm
một phần ba lá phổi trái sau 7 đợt mổ lồng ngực. Các bác sĩ lúc đó nói ông chỉ
có thể sống nhiều lắm là hai năm nữa thôi, thế mà bác sĩ Nguyễn Khắc Viện đã sống
thêm đến 50 năm, làm được bao nhiêu việc, cho đến 85 tuổi. Lúc gần giã từ cõi đời
ông viết di chúc yêu cầu các đồng nghiệp đừng làm hồi sức cấp cứu gì cả, cứ để
cho ông được chết tự nhiên! Nhiều nhà sư biết rõ ngày giờ của cái chết chính
mình, họ báo trước và thanh thản ngồi thiền, chuyển từ cảnh giới này sang một cảnh
giới khác. Vậy thì có cần phải can thiệp y tế không? Tùy trường hợp. Ở một người
trẻ, nhắm rằng có thể cứu sống được thì y tế sẽ cố gắng để cứu, “còn nước còn
tát”, nhưng với một người đã quá già, đã nhiều bệnh mạn tính từ lâu, biết không
thể cứu vãn gì mà vẫn làm những thao tác hồi sinh cấp cứu chỉ làm khổ đau thêm
thân xác họ. Những thủ thuật hồi sinh như thở máy, xoa bóp tim, chích
adrenaline vào tim… đều không mang lại lợi ích gì trừ làm cho gia đình bớt “khổ
đau”!
Ngày xưa người già thường chết ở nhà, xung quanh là người
thân, nhẹ nhàng coi như “sống gởi thác về”. Bây giờ nhiều người già chết cô đơn
ở bệnh viện nhờ kỹ thuật cao, dây nhợ đầy người, hô hấp nhân tạo đủ trò kéo dài
cái chết lâm sàng nhiều ngày có khi nhiều tháng, có trường hợp năm này qua năm
khác!
Sanh lão bệnh tử, hoặc sanh bệnh lão tử gì cũng được, nhưng
chắc chắn có “tử”! Phật nói ai làm quen, kết bạn với Thần Chết thì không thấy
mình chết. Thầy thuốc giỏi có thể thảo luận với bệnh nhân về ngày cuối cùng của
mình càng sớm thì bệnh nhân càng thanh thản. Không chỉ thầy thuốc, đây là lúc
có thể có những vị lo về tâm linh kề cận, hướng dẫn đâu đó đàng hoàng tử tế.
Người chết sẽ nhẹ nhàng yên tâm mà ra đi!
Một số lớn bác sĩ ngại, không tiện thảo luận chuyện này với bệnh
nhân giai đoạn cuối, nhất là các bệnh mạn tính, bệnh nan y không còn khả năng
điềutrị, hồi phục. Bàn bạc sớm sẽ có ích cho cả gia đình và cả người bệnh, người
già.
Có trường hợp cần điều trị giảm nhẹ (palliative care), giúp
người bệnh bớt đau đớn trong giai đoạn cuối. Có thể phải sử dụng thuốc chống
đau, thuốc ngủ…; đặc biệt hỗ trợ về cảm xúc tứ các chuyên viên tham
vấn tâm lý và hỗ trợ về tâm linh nếu có một tôn giáo nào đó, hoặc chọn lựa một
tôn giáo nào đó. Nguyên tắc là làm sao đảm bảo chất lượng cuộc sống
và nhân phẩm trong thời gian cuối cùng này.
Gần đây, do tuổi thọ ngày càng cao, nhiều nước có người già sống
trên 120 tuổi, cô độc, tàn phế, nhưng “khoa học” vẫn không để họ ra
đi yên ổn, ráng giữ lại và sử dụng máy móc chăm sóc như máy đút ăn, máy xoa
bóp… Họ sống không còn ý nghĩa, thậm chí không còn trí nhớ, chỉ còn cái tứ đại
mà không có ngũ uẩn, vậy mà vẫn cứ lây lất cái gọi là sống. Có trường hợp chết
trong nhà nhiều tháng hàng xóm mới hay như gần đây có mấy vụ xảy ra ở Nhật. Cho
nên, người già, để có một cái chết “tốt”, một cái chết đầy “chất lượng” (Có chất
lượng cuộc sống hẳn phải có chết lượng cuộc chết chứ phải không?) cần lên kế hoạch
cho cái chết đương nhiên sẽ gặp của mình càng sớm càng tốt. Các “chuyên gia” về
lãnh vực này khuyên: Ta nên nghĩ xem ta chết cách nào cho tốt? Ta muốn gì khi
chết? Ai sẽ thực hiện điều này? Phải chắc chắn người đó hiểu ý ta, làm theo ý
ta. Nếu bệnh nhiều, hỏi bác sĩ… còn sống được bao lâu để chuẩn bị? “Hộ tử” phải
được chuẩn bị tốt như “hộ sinh” chứ. Biết trước khoảng sống còn, khả năng chữa
trị. Giai đoạn cuối chỉ là giảm thiểu đau đớn, tránh những thứ điều
trị gây hại!
BS Collins nói phải bắt đầu bàn chuyện “hộ tử” ngay từ bây giờ
đi, dù bạn 25 hay 95.
Không có bạn thiết nào gần gũi luôn luôn gắn bó với ta như là
cái chết. Nó gắn với ta từ trong gene. Nó gắn với ta như một cặp song sanh
thai, không tách ra được. Nó cũng chẳng bao giờ hù dọa ta, chẳng bao giờ mè
nheo đòi hỏi gì ta. Thiệt ra nó gắn bó, thân cận, gần gũi, ấp ủ, âu yếm ta từng
phút từng giây. Lỗi không phải ở nó. Lỗi ở ta. Khi ta sanh ra thì nó mới theo
ta. Nếu ta không sanh ra thì không có nó theo. Nó không ở ngoài ta. Nó chẳng hề
đến với ta. Nó sẵn có trong ta. Vì có sanh nên có tử, có sống nên có chết. Tuy
tên gọi cái chết có khác nhau tùy văn hóa, nhưng tất cả cái chết đều giống nhau
y hệt. Cũng là ngưng thở, hết thở. Trả hơi thở về cho không khí, thứ hơi thở đã
mượn tạm xài từ hồi sanh ra. Chỉ mượn tạm mà không nhớ, không biết. Cũng
là tan rã. Cát bụi lại hoàn cát bụi. Tứ đại đất nước gió lửa lại hoàn đất nước
gió lửa. Cái gì cũng mượn tạm mà không nhớ không biết. Nên Phật dạy phải luôn
nhớ cái chết. Người anh em song sinh thai trong thai này luôn là bạn thiết,
cùng đắt díu nhau cùng chia sẻ lúc buồn lúc vui suốt cả cuộc đời giả tạm này.
Giả nó không thật, vì nó “hư vọng”. Tạm vì nó vô thường, thay đổi từng phút
giây, từng sát na.
Nhưng sống mà chỉ đợi chờ chết thì…? Thì càng vui sống chớ
sao. Sống mà biết mình sắp chết, mình sẽ chết thì càng phải sống có ý nghĩa, có
hạnh phúc. Những ai tưởng mình không bao giờ chết thì vất vả trăm chiều. Họ vất
vả vì lo giành dân chiếm đất, nhất thống giang hồ, muôn năm trường trị và đi
tìm thuốc trường sinh bất tử… Cuối cùng thì họ cũng ngủm!
Còn người biết mình sẽ chết thì sống hạnh phức trong từng
phút giây. Thậm chí họ tập chết từng ngày. Làm bạn với Thần chết. Bạn của Thần
chết thì Thần chết không nỡ làm phiền đâu. Họ đã chuẩn bị cả rồi. Khi nào «dưới
vực sâu lời mời đã dậy» thì vác ba lô lên đường thôi, ủa mà cũng chẳng cần
ba-lô nữa.
Giải thoát sanh tử không phải là không còn sanh tử nữa mà chỉ
là không còn phải sợ hãi cái sự chết đang đến dần nữa. Cái sanh dù gì thì cũng
đã lỡ rồi, lỡ sanh ra rồi, dù muốn hay không muốn, ta cũng lỡ… chào đời, lỡ
lang thang một kiếp nhân sinh rồi nên vấn đề còn lại là tử. Nhưng sanh ta không
sợ cớ sao tử lại sợ? Bởi vì ta ham sống. Ham sống sao cứ kêu than sống là khổ?
Khổ mà không muốn thoát là sao?
Có cách nào để người ta luôn nhớ đến cái chết để được sống hạnh
phúc hơn không?
Có đó. Cứ ngồi yên đó. Lắng nghe hơi thở của mình. Thở vào…
thở ra. Một hơi thở là một cuộc sống. Thở ra rồi thở vào. Lại một cuộc sống mới.
Thì ra…. sống và chết là một chu kỳ hình sin. Cái gọi là sống, cái gọi là chết.
Gọi vậy thôi chớ không phải vậy. Có thể đảo ngược lại. Nhìn kỹ thì thấy cái chết
mới là cái sống. Thở vào như sóng. Thở ra như nước. Sóng là nước. Nước là sóng.
Tùy duyên. Bày đặt vui thôi mà!
Không có hơi thở nào của hôm qua. Không có hơi thở của ngày
mai. Hơi thở chỉ có hôm nay. Ở đây và bây giờ. Cho nên biết thở là biết sống ở
đây và bây giờ.
7. Chìm dưới sương thu là một đóa thơm tho…
“Chìm khuất trong ta
Một lời nói vu vơ
Chìm dưới sương thu
Là một đóa thơm tho…”
Tôi ngờ rằng có một phần thưởng quý giá nào đó cho kiếp nhân
sinh, mà thiên nhiên đã mất công tạo ra, không thể nào có một mục đích duy nhất
là làm cho nó phải khổ đau từ lúc sanh đến lúc bệnh, lão và tử. Điều này hoàn
toàn vô lý. Bởi nếu vậy thì thiên nhiên đã không tạo ra vạn vật, nhất là sinh vật.
Thử nhìn xem, vạn vật luôn đẹp đẽ, sinh vật luôn đẹp đẽ muôn màu muôn sắc, Hai
con bọ ngựa yêu nhau, ve vãn nhau, giao hợp, xong con đực chết ngay và trở
thành thức ăn cho con cái. Con cái mang cái trứng đã thụ tinh, nuôi nấng và
sinh sản, xong cũng chết. Nếu chỉ làm cái việc giao hợp rồi chết như con bọ ngựa
hay những con ong đực, thì nhiệm vụ duy nhất của nó chỉ là làm vật trung gian,
truyền giống, khi hoàn thành nhiệm vụ thì không có lý do gì để tiếp tục tồn tại.
Vậy thì ít ra phải có chút tưởng thưởng gì cho cái vất vả của nó chứ? Có lẽ vì
thế mà thiên nhiên đã tặng cho nó chút khoái lạc trong lúc giao hợp. Nhưng sự
giao hợp là sự truyền trao chủng tử, còn chuyện “bố thí thân mạng” kia có ý
nghĩa gì không? Có được tưởng thưởng gì không?
Chẳng hạn, ăn là một hiện tựơng để tạo năng lượng duy trì sự
tồn sinh và phát triển cho đến lúc có thể “hoàn thành nhiệm vụ”, vậy mà thiên
nhiện còn phải tưởng thưởng một chút khoái cảm cho cái sự ăn. Nếu không, đâu có
sinh vật nào ăn làm chi cho mệt. Nó phải đổ mồ hôi sôi nước mắt để kiếm lấy cái
ăn, phải tranh giành vất vả để có cái ăn và phải trăm mưu ngàn kế để tìm cách
ăn… cho nhiều. Từ một con mối mù lòa, rào rào ăn cột gỗ, đến một con bọ hung,
hùng hục trong đống phân, tranh giành chí chóe để vo tròn được một cục phân to
gấp đôi gấp ba thân hình chúng, khuân đi, đào lỗ, chôn giấu, để dành cho con bọ
hung cái đang đẻ trứng có thức ăn dư trữ mà nuôi con. Các con thú - từ loại
hung dữ ăn thịt sống đến những con thú hiền lành ăn cỏ - thì mạnh được yếu
thua, con này làm mồi cho con khác. Có một điều ngộ nghĩnh duy nhất là con nào
cũng hết lòng hết sức vì con của mình, vì sự tồn vong của nòi giống mình. Cây cỏ
cũng vậy, cũng đưa những cái vòi bạch tuộc của nó ra mà hút lấy nhựa nguyên,
chuyển thành nhựa luyện nuôi lá nuôi hoa, rồi ra quả ra hạt, truyền giống. Lá cứ
rào rào rơi xuống làm phân cho lá khác vươn ra. Lá rơi có buồn
không? Chắc là không. Chuyện cây cỏ hút nước, hút phân chắc cũng phải
có cái gì sảng khoái, không, dại gì hút cho mệt. Con mối nhai gỗ rào rào chắc
phải có cái gì sảng khoái, không, nhai làm gì cho mệt. Rồi con bọ hung giànhh
nhau cục phân cũng phải có cái gì chứ… Con người cũng không khác. Các bữa ăn phải
đem lại sự sảng khoái con người mới chịu ăn, và từ chịu ăn mà chịu làm, chịu
giành giựt đấu đá, chém giết nhau… lúc nào cũng muốn muôn năm trường trị, nhất
thống giang hồ, trường sanh bất tử chứ. Cái ăn thì đã vậy, ngủ cũng phải có sự
sảng khoái để tích lũy năng lượng, phục hồi sức sống. Con nào cũng ngủ, cách
này cách khác. Có con treo ngược hai chân lên trời mà ngủ như giống dơi, có con
co một chân đứng một chân để ngủ như giống chim. Và sản sinh năng lượng thì phải
có thải bã. Con voi ăn cỏ hàng ngày thải hằng trăm ký phân chắc cũng phải khoái
mới thải. Con người cũng phải thải vậy.
Câu hỏi đặt ra là con người hay mọi sinh vật không sống mãi để hưởng thụ cái khoái đó của mình? Không, có lẽ còn có một cái khoái lớn, còn được giấu kỹ. Nói ra sợ người ta biết thì triệt tiêu mục đích tối thượng của sự sinh tồn. Đó là cái chết. Chết gần như là lẽ tất yếu sau khi đã sinh ra, đã sống, dù như con phù du ngắn ngủi hay như con voi, con rùa nhiều trăm năm. Vậy chết hẳn phải là một sự tưởng thưởng cho kẻ có công sinh tồn. Và như vậy nó phải là một sự sảng khoái lớn nhất. Không phải như một triết gia bảo chỉ có cái chết mới làm cho con người đựơc nghỉ ngơi. Nói thế chưa thấy sự sảng khoái? Sảng khoái ư? Môt sự xuất tinh lúc giao hợp là một sự sảng khoai, nói không được, mô tả không được. Sảng khoái của sự “mất” đi. Mất đi hằng tỷ tinh trùng, hằng tỷ sự sống. May ra, có một tinh trùng gặp trứng và thụ tinh, còn thì tự hủy diệt. Nó đi đâu? Kẻ phóng tinh đã đựơc một sự sảng khoái đền bù vất vả. Kẻ nhận tinh cũng vất vả không kém, và cũng sẽ đựơc đền bù cách nào đó chứ.
Câu hỏi đặt ra là con người hay mọi sinh vật không sống mãi để hưởng thụ cái khoái đó của mình? Không, có lẽ còn có một cái khoái lớn, còn được giấu kỹ. Nói ra sợ người ta biết thì triệt tiêu mục đích tối thượng của sự sinh tồn. Đó là cái chết. Chết gần như là lẽ tất yếu sau khi đã sinh ra, đã sống, dù như con phù du ngắn ngủi hay như con voi, con rùa nhiều trăm năm. Vậy chết hẳn phải là một sự tưởng thưởng cho kẻ có công sinh tồn. Và như vậy nó phải là một sự sảng khoái lớn nhất. Không phải như một triết gia bảo chỉ có cái chết mới làm cho con người đựơc nghỉ ngơi. Nói thế chưa thấy sự sảng khoái? Sảng khoái ư? Môt sự xuất tinh lúc giao hợp là một sự sảng khoai, nói không được, mô tả không được. Sảng khoái của sự “mất” đi. Mất đi hằng tỷ tinh trùng, hằng tỷ sự sống. May ra, có một tinh trùng gặp trứng và thụ tinh, còn thì tự hủy diệt. Nó đi đâu? Kẻ phóng tinh đã đựơc một sự sảng khoái đền bù vất vả. Kẻ nhận tinh cũng vất vả không kém, và cũng sẽ đựơc đền bù cách nào đó chứ.
Trước khi sinh ra thì con người ở đâu? Trong cõi mênh mông
đó, không thể biết. Cái phần dài nhất - trong trí tưởng của ta - là phần trước
và phần sau của cõi nhân sinh. Phần dài nhất đó phải có ý nghĩa gì chứ? Có thể
nó lại trở lại những thành tố riêng lẻ, chờ cấu trúc lại, như những miếng hình
rời chờ lắp ghép ra một cái hình thù khác, một sinh vật khác. Nhìn qua những
thành tố thì thấy nó rõ ràng không mất đi, không thêm lên. Và cả năng lượng nữa,
cũng được “bảo toàn”. Nó chỉ tich trữ lại, lắp ghép lại, như một đứa nhỏ chơi
trò puzzle với những lắp ghép tình cờ. Khi vật chất bị hủy diệt thì thời gian
và không gian cũng không còn. Thời gian và không gian là một cách nhìn tương đối
của sinh vật. Khi sinh vật không là sinh vật thì không còn thời gian và không
gian. Nghĩa là một hình thái bất sinh bất diệt, và dĩ nhiên bất cấu bất tịnh, bất
tăng bất giảm. Nó đựơc tái sử dụng một cái phù hợp vậy thôi. Vậy thì không phải
không có lý khi bảo cuộc sống sinh vật - và con người - là vô thường, vô lạc,
vô ngã, vô tịnh, thì hẳn phải có cái thường, lạc, ngã, tịnh, cái đó chính là niết
bàn rốt ráo, niết bàn vô dư, tức cái chết.
8. Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
“Vừa tàn mùa xuân rồi tàn mùa hạ
Một ngày đầu thu nghe chân ngựa về chốn xa…”
“Nhật nguyệt”, ấy là Minh. Minh để trừ Vô minh. Vô minh dẫn tới
hành rồi thức, danh sắc, lục nhập… con đường sinh sự đưa tới khổ đau, sanh tử.
Bởi còn vô minh thì còn ái, thủ, hữu, còn sanh, còn lão, tử. Tâm
kinh nói “Vô vô minh diệc vô vô minh tận”. Không có vô minh mà cũng chẳng bao
giờ hết vô minh!
Duy-ma-cật hỏi Bồ-tát Văn Thù:
“Những gì là hạt giống Như Lai?”
Văn Thù đáp: Có thân này là hạt giống Như Lai.
Vô minh với ái là hạt giống Như Lai.
Tham, sân, si là hạt giống Như Lai.
Bốn điên đảo, năm triền cái, tám tà pháp, chín não xứ, mười bất
thiện… đều là hạt giống Như Lai.
Rồi Văn Thù kết luận: Tất cả phiền não đều là hạt giống Như
Lai.
Thì ra vậy. Thì ra mọi thứ phiền não khổ đau của kiếp người đều
là hạt giống của Như Lai. Tham sân si là hạt giống Như Lai. Mà tấm thân tứ đại
ngũ uẩn này của ta cũng là hạt giống Như Lai. Đã là hạt giống thì nó phải mọc
tùm lum lên mới đúng điệu chớ phải không? Cho nên tham sân si cứ còn mãi, ngày
càng nhiều thêm, tranh giành đấu đá ngày càng mạnh mẽ thêm. Cái “Ngã” của ta
cũng vậy, cũng ngày càng mọc sum suê hơn, lúc nào cũng muốn muôn năm trường trị,
nhất thống giang hồ, trường sanh bất tử…! Đừng quên, Phật là Như Lai nhưng Như
Lai không phải Phật. Như Lai là Như Lai, không từ đâu đến, chẳng đi về đâu! (vô
sở tùng lai diệc vô sở khứ).
Muốn dứt phiền não thì tâm phải an. Làm sao để tâm an? Tìm
tâm đâu thấy? Chỉ có cách tiếp cận qua thân. Thân tâm nhất như
mà. Cho nên «giả bệnh» là cách tốt nhất của Duy-ma-cật.
Bởi bệnh thì rất bình đẳng. Mọi người đều bình đẳng trước… bệnh!
Khố rách áo ôm hay đại gia tỷ phú khi đau gan thì cũng như nhau thôi. Cũng vàng
da, cũng ói mửa, cũng nhức đầu đau bụng… Hoa hậu hay cô gái bán hoa khi đau ruột
thừa cũng giống nhau thôi. Cho nên Duy-ma-cật nói: “Thân này không thể tin cậy
được. Nó không phải của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta. Phải
thấy thân Phật, tức thấy Pháp thân.”
Phật hỏi Duy-ma-cật: Ông quán Như Lai thế nào? Tôi quán Như
Lai qua pháp thân cũng như quán Phật và tôi. Không có gì khác nhau cả.
Muốn thấy Pháp thân thì phải “quán”. Phải nhìn sâu vào bên
trong, nhìn xuyên qua bên kia, qua cái “giả tướng”, cái trình hiện bên ngoài
may ra mới thấy.
Còn “chúng sanh” lại là những ảo vật do nhà ảo thuật là ta tạo
ra. Ta tạo ra rồi ta hồng hộc chạy theo, bám lấy, giành giật, khổ đau, hạnh
phúc… Chẳng qua là những bóng hình trong gương, mặt trăng đáy nước, dấu chân
chim giữa hư không…
Khi thấy biết thực tướng là vô tướng, thì hòa nhập nhau có
chi ngăn ngại vì cùng bản chất, pháp tánh. Cái núi Tu-di to đùng kia mà đem đặt
vừa vào đầu hạt cải, nước bốn biển mênh mông nọ mà rót đầy lỗ chân lông thì có
chi là lạ? Bởi núi Tu-di cũng không mà đầu hạt cải cũng không. Nước bốn biển
cũng… không mà lỗ chân lông cũng không. Không đây không phải là
không có. Vẫn có chứ, nhưng không có “tự tánh riêng biệt”, thế thôi. Cho nên mới
gọi là “chân không”. Chân không mà diệu hữu, diệu hữu mà chân không.
Nghe nói tới Ma thì ai cũng sợ. Nhưng Duy-ma-cật Bồ-tát thì
“nuôi” rất nhiều ma để làm «thị giả» cho mình, luôn ở cạnh mình, “trợ lý” cho
mình.
“Ma phiền não” chẳng hạn nhắc nhở ta sẵn có bốn vạn tám ngàn
cách thoát ra sao chẳng thử một vài; “Ma ngũ uẩn” thì càng thân thiết, nhắc rằng
mấy thứ lăng nhăng nó quấy ta chỉ là những thứ kết hợp tạm bợ, lắp ghép lai rai
như trò chơi puzzle của trẻ con, phá ra lắp lại mấy hồi; “Ma trời” (thiên ma)
luôn cảnh giác ta đừng tưởng bỡ, đừng tưởng muốn «làm trời» gì thì làm nhé. Rớt
vào địa ngục như chơi. Lên voi xuống chó mấy hồi. Còn “Ma chết” (tử ma) lại là
bạn thiết gắn bó với ta từ thuở còn trong bụng mẹ…
Cái thấy của mắt cái nghe của tai chỉ là ‘giả tướng’. Còn cái
‘tướng thiệt’ ở đâu? Ở bên kia kìa. Vượt qua cái giả tướng mới thấy được. Phải ở
bên bờ kia mới thấy được. Ta chỉ bị gạt gẫm thôi. Và lâu nay ta sướng khổ với sự
gạt gẫm đó mà không biết.
“Kiến tánh” (thấy biết Tánh) là Giác ngộ. Dễ không? Còn lâu!
Nói chung thì vì cái tâm mình nó lờ mờ, nó tù mù, nó u tối nên sanh ra tham
lam. Gì cũng muốn. Bao nhiêu cũng không đủ. Lòng tham không đáy. Được voi đòi
tiên. Tham nên mờ mắt. À không phải. Mờ mắt mới tham. Nếu sáng mắt thấy rõ các
pháp “bất tăng bất giảm”, không thêm không bớt thì tham làm chi. Rồi
cũng vì cái tâm mình nó lờ mờ, nó tù mù, nó u tối nên sanh ra sân (giận). No mất
ngon. Giận mất khôn. Mà không biết chân lý dưới chân núi bên này thì không còn
là chân lý ở chân núi bên kia.
Nhiều khi, ta ngồi yên đây mà quên là trái đất đang bay vù vù
với tốc độ ba chục ngàn cây số một giây. Một ngày đêm đã bay được hơn 2 triệu
rưỡi cây số quanh mặt trời! Nhiều khi ta ngồi đây mà quên rằng cứ mỗi giây trôi
qua đã có hằng trăm triệu hồng cầu trong cơ thể mình hủy diệt đi để sinh ra
trăm triệu hồng cầu mới. Các chất liệu của hồng cầu hủy hoại đó chẳng mất đi
đâu, nó tích chứa vào lá lách (gọi là nghĩa địa của hồng cầu) để rồi được nối
ráp lại, tạo ra những hồng cầu mới, tươi mát hơn… Cái hệ tiêu hóa, ruột non ruột
già của ta dài cả 5m kia cứ mỗi tuần lễ lại thay đổi toàn bộ lớp tế bào niêm mạc.
Có hàng ngàn tỷ vi khuẩn đang sống trong đường ruột đó, mỗi loại hùng cứ một
phương, rất ít khi tranh chấp với nhau…
Khi tôi học y khoa, cách đây gần 60 năm, người ta khiêng ra
cho mỗi nhóm 8 sinh viên một chiếc giỏ cần xé (giỏ mây to) đựng xương người. Mỗi
sinh viên ôm lấy một cục xương đó, học thuộc từng đường gân sớ thịt… Có bạn còn
mượn một cái đầu lâu về đặt trên bàn học, mỗi ngày học thuộc từng chiếc lỗ trên
đó, có những dây thần kinh nào chạy qua, rồi học về bộ não, vùng nào chịu trách
nhiệm việc gì…! Môn cơ thể học dạy cho biết bộ xương người đã hình thành như thế
nào, các tế bào xương tạo xương và hủy xương ra sao… Sinh lý học dạy cho biết
cơ thể vận hành cách nào, làm sao có đủ nhiên liệu để xài cả đời người? Ấy là
nhờ oxyd hóa «đốt» những thứ thức ăn để tạo ra năng lượng ra sao.
Người giác ngộ hơn người khác ở chỗ trong lúc người khác đang
sống thì không ai chịu nghĩ tới cái chết, còn người giác ngộ thì coi cái chết
cái sống là một. Nói người giác ngộ là người đã “vượt thoát sinh tử” là vậy. Có
sinh ắt có tử, có tử ắt có sinh.
Luân hồi luôn đi với sanh tử. Luân hồi sanh tử. Nghe cứ rờn rợn.
Nhưng… không còn sanh tử, không còn luân hồi nữa, sống đời đời kiếp kiếp thì…
chán chết! Không luân hồi sanh tử nữa thì mọi thứ khựng lại. Trái đất chẳng buồn
quay. Chẳng còn xuân hạ thu đông. Chẳng sáng trưa chiều tối. Chẳng vô thường.
Chẳng đổi thay. Chán chết! Cho nên cứ phải luân cứ phải hồi, cứ phải sanh cứ phải
tử hoài hoài. Lòng vòng luẩn quẩn loanh quanh vậy mới công bằng, mới
phải điệu. Ba cõi sáu đường phải thênh thang rộng mở cho chúng sanh lũ lượt vào
ra mới phải điệu!
”Luân hồi sanh tử”, “nghiệp báo oan gia” các thứ… ở đâu mà
ra? Thì ở đâu nữa. Ở ngay trong ta thôi. Ôi, cát bụi tuyệt vời! Khi vẽ được bản
đồ hệ gene người, các nhà khoa học bật ngữa thấy tinh tinh, chuột bọ, cải ngồng,
cổ thụ… đều có những gène y như vậy với một tỷ lệ khác nhau nhiều ít. Tinh tinh
có đến 99% cấu trúc gen giống hệt bộ gen người, chuột bọ thì có đến 97,5% gen
người… Ai dám bảo hôm nào đó chẳng “luân” chẳng “hồi” một phen, cho tinh tinh
thành cải ngồng, cải ngồng thành chuột bọ…? Có cái nhìn xuyên suốt ngàn năm chắc
thấy biết, còn ta mắt trần (nhục nhãn) chưa thấy được đâu, đành lớ ngớ, loay
hoay.
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn
là tiến trình tâm trong mỗi sát-na. Từ sáng đến chiều, từ trưa đến tối ta đã…
lang thang sáu nẻo biết bao lần. Hết thiên, nhân lại đến atula rồi ngạ quỷ, súc
sanh, địa ngục, xà quần không ngưng nghỉ. Sáng bảnh mắt ra, tắm táp xong, người
sảng khoái, lâng lâng, quần là áo lượt có thua gì… tiên đâu, vậy mà tới trưa
nghe một cú điện thoại từ đâu đó bỗng đùng đùng nổi giận, đỏ mặt tía tai, bầm
gan tím ruột, lọt tõm vào địa ngục… Chỉ một thoáng thôi, đã từ thiên đàng rơi
xuống địa ngục, từ thiên nhân thành Atula, ngạ quỹ…
Biết rõ “cơ chế” bệnh sinh thì điều trị không khó. Có khi chỉ
cần chữa triệu chứng. Có khi phải điều trị căn nguyên để không còn tái phát.
Cái gì làm ta xà quần nổi trôi trong cõi luân hồi sanh tử? Cái gì có vẻ như mãi
cợt đùa không mệt mỏi với ta? Chính cái “Ta” đó. Nó đó. Nó tạo nghiệp. Nghiệp từ
thân, khẩu, ý mà nên. Cho nên chỉ có “ta” mới cứu được “ta” thôi! Cho nên phải
quay lại với mình, phải nương tựa chính mình, còn tìm kiếm đâu
xa? Khi nhận ra “không phải của ta/ không phải là ta/ không phải là
tự ngã của ta” thì có lẽ đã có một nụ cười thanh thản, an nhiên.
Phật có đến có đi. Có từ bi có hỷ xả. Có nói năng có im lặng.
Có thể dùng âm thanh dùng ánh sáng dùng chuông mõ, tiếng tụng niệm mà thấy Phật.
Nhưng Như Lai thì không. Không thể dùng âm thanh, ánh sáng mà thấy Như Lai.
Kinh nói Như Lai thọ lượng mà không nói Phật thọ lượng vì Phật thọ lượng chỉ có
hơn 80 năm! Kinh nói Như Lai thần lực mà không nói Phật thần lực vì Phật chẳng
ưa chuyện thần thông. Kinh nói vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như
Lai mà không nói vào nhà Phật, mặc áo Phật, ngồi tòa Phật… Cho nên, Phật là Như
Lai, mà Như Lai không phải Phật. Như Lai là Như Lai. Nó vậy đó.
9. Trời cao đất rộng một mình tôi đi…
“Đời như vô tận, một mình tôi về,
Một mình tôi về với tôi…”
Ở một nơi không có thời gian, không có không gian, không còn
ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả gì nữa cả, thì nơi đó chính là Chánh định
(Samadhi). Thiền là “kỹ thuật” để đạt tới chánh định.
Bí quyết thực hành căn bản nằm ở Tứ niệm xứ (Satipathana), bốn
lãnh vực quán niệm. Có rất nhiều phương pháp hướng dẫn cụ thể trong Tứ niệm xứ.
Nhưng tôi chỉ chọn một phương pháp đơn giản nhất nhưng cũng sâu sắc nhất, khoa
học, sinh lý học đúng đắn nhất, không sợ “tẩu hỏa nhập ma” lúc thực hành. Đó là
Anapanasati: Quán niệm hơi thở (Nhập tức xuất tức niệm/ An-ban thủ ý). Chỉ cần
niệm (nhớ, nghĩ) hơi thở vào hơi thở ra… đủ “thấy biết” kiếp người chỉ nằm
trong từng hơi thở đó. Người ta cứ sống chết mỗi phút giây như vậy mà chẳng biết.
Khi niệm, tức nhớ nghĩ đến cái thở, cái sống cái chết thì thấy… thì ra ai cũng
như mình, cũng hít thở như mình, rồi cũng… chết ngủm như mình. Tất cả các sinh
vật đều vậy. Từ đó mà có Từ, có Bi. Từ Khí đã chuyển thành Trí. Anapanasati là
đã đủ để thực hành (Ana: thở vào; Apana: thở ra; Sati: niệm), nhưng theo tôi cần
để ý đến một điểm quan trọng khác nữa. Đó là khoảng trống - một quãng lặng - ở
giữa lúc thở ra mà chưa thở vào. Nó thực sự là một quãng “chết” (không thở). Để
cho dễ nhớ trong thực hành, tôi đặt tên nó là “Pranasati” (Pra=trước; Ana=thở
vào; Sati=niệm). Trước thời thở vào có nghĩa là sau thời thở ra. Thở ra vĩnh viễn
mà không thở vào nữa chính là cái chết. Đặt niệm vào quãng lặng đó để “thấy biết”
(cảm nhận) một cái chết ngắn. Như là một sự “tập chết”. Trở về thời bào thai
trong bụng mẹ. Ở đây là mẹ Như Lai, “bào thai Như Lai”. Loài người có trí thông
minh vượt trội là nhờ vỏ não phát triển, với hàng trăm tỷ tế bào thần kinh,
hàng trăm nghìn tỷ tỷ các mối nối… dày đặc nhưng sự điều hành hô hấp của ta lại
không nằm ở vỏ não. Nó nằm ở hành tủy, dưới vỏ não. Các trung khu hô hấp nằm ở
đó, điều hành sự thở. Vì thế mà dù vỏ não không hoạt động (ngủ, hôn
mê…) thì sự thở (hô hấp) vẫn được duy trì. Khi tập trung (sati) vào
hơi thở là ta đã giải phóng cho vỏ não được nghỉ ngơi! “Tâm an” nhờ đó.
Thực ra ở giai đoạn thiền cao hơn, thì chẳng còn cần phải để
ý, đặt niệm vào hơi thở vào, hơi thở ra, hay quãng lặng gì nữa cả. Thở sẽ tự động
điều chỉnh theo nhu cầu năng lượng của hành giả. Nhu cầu năng lượng này rất thấp
nên nhiều khi ta thấy hành giả thở như “sợi chỉ”, gần như không cần thở nữa. Cảm
nhận lúc đó như tan vào hư không. Không còn ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả gì nữa.
“Quán niệm” hơi thở chính là “thiền quán” (vipassana). “Quán”
là không còn “dõi theo” hơi thở đơn thuần nữa (giai đoạn chánh niệm) mà đã có sự
phân tích, soi sáng (quán chiếu) dưới nhiều góc cạnh khác nhau để nhìn cho ra
những điều mà bình thường không “thấy biết”. Cái thấy biết bấy giờ đã vượt khỏi
cái trình hiện, cái giả tướng bên ngoài để nhìn được cái thực tướng bên trong,
bờ bên kia.
Vi, tiếp đầu ngữ có nghĩa là “một cách khác”, “một cách đặc
biệt”, còn passana là “thấy”, là “biết”. Vipassana là thấy biết một cách khác,
một cách đặc biệt!
Một chiếc lá vàng rơi, người thi sĩ có thể thấy cả mùa thu,
thấy con nai vàng ngơ ngác, thấy mùa thu không trở lại nhưng người có quán chiếu
lại thấy sự vô thường, vô ngã, sự bất sinh bất diệt…
Khi vào sâu trong định, hành giả sẽ không cảm nhận mình thở nữa.
Hơi thở nhẹ gần như ngưng. An tịnh. Hòa tan. Tan biến. Đó chính là quãng lặng ở
cuối thì thở ra - thường kéo dài, thong dong, nhẹ nhàng, yên tĩnh, vì không tốn
năng lượng. Như chim lượn bay, không phải vỗ cánh, như xe ngon trớn chạy ở số
không, không tốn nhiên liệu! Đó chính là giai đoạn “Prana”. Khi cơ thể đã chùng
xuống, thả lỏng toàn thân thì tiêu hao năng lượng đã giảm một cách đáng kể rồi
thì cũng sẽ bớt nhu cầu phải cung cấp các dưỡng chất qua thức ăn! Ăn ít mà vẫn
đáp ứng thì cơ thể đỡ vất vả, các tế bào đỡ hùng hục làm việc. Các nghiên cứu
trên sinh vật cho nhịn đói vừa phải thì thấy sống lâu hơn và trẻ hơn!
Ai có thể thở giùm ai? Ai có thể thiền giùm ai? Cho nên chỉ
có thể nương tựa vào chính mình thôi. “Duy ngã độc tôn” thôi vậy!
Thiền tập là đẩy cái “thân hơi” ra khỏi cái “thân xác”. Thân
xác là cát bụi, là tứ đại, đất nước gió lửa, là cái “sắc”, thô phù, còn “thân
hơi” là phần “thọ tưởng hành thức” trong cái gọi là “ngũ uẩn” của cái ta.
Có lần tôi viết:
“Lắng nghe hơi thở của mình
Mới hay hơi thở của nghìn năm xưa
Một hôm hơi thở tình cờ
Dính vào hạt bụi thành ra của mình
Của mình chẳng phải của mình
Thì ra hơi thở của nghìn năm sau”...
(ĐHN)
Nói tình cờ chớ chẳng phải tình cờ chi đâu, do duyên, do nghiệp
cả đó thôi. Nói cho cùng thì cái thân hơi - hơi thở - kia là của ngàn năm trước,
ngàn năm sau, chớ chẳng phải của ta, riêng ta gì đâu. Đừng tưởng bở! Nó đến nó
đi vô tình, ngạo nghễ. Nó Như lai. Không phân biệt.
Tôi ngờ rằng thiền là kết quả của một tình trạng “thiếu dưỡng
khí’ tế bào. Ở một mức độ vừa phải, sự thiếu dưỡng khí đó cho phép tế bào nghỉ
ngơi. Khi cơ thể không cần quá nhiều năng lượng dùng cho sự co cơ (tonus
musculaire), khi trí não (vỏ não) không còn tiêu tốn quá nhiều năng lượng cho
những chuyện không đâu, thì cơ thể không cần phải hấp thu nhiều Oxy nữa, thở sẽ
rất nhẹ, tối thiểu, chỉ để duy trì chuyển hóa cơ bản (métabolisme basal) lúc
này cũng đã giảm thiểu. Các tế bào toàn thân được “xả hơi’ không phải vất vả,
hùng hục làm việc. Mitochondrie (bộ máy sản xuất năng lượng trong từng tế bào)
cũng sẽ giảm hoạt động, nghỉ ngơi. Tình trạng đó có thể xem như cơ thể đang sống
trong trạng thái yếm khí, co cụm lại, thành một “bào tử” (spore) để tự bảo vệ,
sống dai, khó bị hủy bởi môi trường. Nhiều hành giả thích tu tập trên núi cao, ở
đó Oxy rất loãng, và họ thường không sợ lạnh, có khi họ ngồi thiền giữa tuyết
giá như ta từng biết.
Trạng thái “thiếu oxy” giống như bệnh nhân bị sốt rét
Plasmodium falciparum, vỡ hồng cầu hàng loạt. Tôi có kinh nghiệm sốt rét rừng
trong nhiều năm, ở vùng Bình Châu, Láng Găng, Bưng Riềng, Rừng khỉ… khi theo
cha tản cư về sống ở đó. Khi ông mất, tôi mới về thành phố. Những cơn sốt rét
nhức đầu, nóng dữ dội rồi run bần bật, toát mồ hôi lạnh ngắt… và sau đó thấy sảng
khoái, thân thể nhẹ nhàng, lâng lâng như đi trên mây do thiếu máu tán huyết
(!). Dĩ nhiên, đó là do không còn đủ lượng hồng cầu để chuyên chở oxy cho cơ thể.
Mỗi cơn sốt rét thường kéo dài cả tiếng đồng hồ, sau đó, cơ thể rả rời,
chóng mặt thường xuyên vì thiếu máu. Nhiều năm sau, coi như sống sót, lá lách
sưng to. Sau này, khi đã là bác sĩ, tôi khám bệnh cho mấy bé ở vùng sốt rét về
chỉ cần nghe người nhà nói bé bị “thư” một con rùa vào bụng thì đã biết là sốt
rét, lá lách sưng to, có ngằn, có cạnh, lớn độ 3, độ 4 có thể vượt qua rún, sờ
thấy như mu một con rùa đang bơi trong ổ bụng vậy.
Điều muốn nói ở đây là cái cảm giác “sảng khoái” lâng lâng,
bay bổng, sau cơn sốt rét như thế, do hồng cầu bị vỡ (tán huyết), do cơ thể thiếu
Oxy chẳng khác hành giả ngồi thiền, có thể gọi là “thiền duyệt” chăng?
Thiền sâu sẽ không còn vướng vào hơi thở vào (ana) thở ra
(apana) hay quãng lặng (prana) gì nữa. Lúc đầu có năng có sở. Năng là chủ thể
(hành giả), sở là đối tượng (hơi thở). Khi vào sâu trong định, chánh định
(samadhi), thì không cần để ý gì đến hơi thở nữa. Kệ nó. Nó biết phải làm gì.
Nghĩa la chẳng còn “năng” còn “sở” gì nữa, gọi là “năng sở song vong”. Chẳng
còn trâu chẳng còn người chăn gì nữa cả. Trâu cũng mất mà người chăn cũng mất.
“Tam-ma-địa”, phiên âm Samadhi là Chánh định trong Bát chánh
đạo. Nghe cứ rờn rợn như “đất của ba con ma” nào đó vậy. Nhưng hiểu
“đất của ba con ma” cũng hay chứ! Ma tham, ma sân và ma si. “Một ông
Phật hiện ra/ Ba con ma biến mất!” như một bài đồng dao trẻ con thường hát!
Nơi nào ông Phật hiện ra thì “ba con ma” tham sân si phải biến mất thôi! Hay
nói cách khác, nơi nào có “ba con ma” hiện ra thì lập tức có ông Phật xuất hiện.
Nếu chẳng có ba con ma Tham, Sân, Si thì Phật hiện ra làm gì cho mất công! Cho
nên muốn biết Phật ở đâu thì hãy tìm trong… tham sân si. Tham sân si càng lớn,
Phật càng to.
Mỗi tế bào là một sinh vật. Chúng cũng sanh trụ dị diệt. Tế
bào sinh vật có bộ phận tự sản xuất năng lượng để sử dụng cho mình. Oxy được
mao mạch mang đến tận nơi, thức ăn dưới dạng đường glucose mang đến tận nơi, và
mitochondrie lo sản xuất năng lượng. Hôm nào thiếu Oxy thì sẽ tìm cách xoay sở
để có năng lượng tối thiểu cần thiết dưới một dạng chuyển hóa khác. Một vài loại
vi khuẩn khi thiếu Oxy thì co cụm lại, gom tụ lại để tồn tại. Gọi là những “bào
tử” (spore). Chúng sống rất dai và bền vững ở môi trường thiếu Oxy đó. Thí dụ
loại vi khuẩn clostridium. Ta biết sự hô hấp thực sự xảy ra trên từng tế bào chớ
không phải ở phổi. Phổi chỉ là cái ống thụt… dùng để hút khí, bơm khí, nhờ máu
chuyển khí đến từng tế bào. Cho nên nói rằng trong Thiền, ta có thể đưa tâm ta,
ý chí ta đến từng tế bào để an ủi, khuyến khích, chữa trị khi cần không phải là
chuyện nhảm nhí.
Thú vị là thai nhi trong bụng mẹ không cần thở! Suốt chín
tháng mười ngày nằm đó, lớn nhanh như thổi mà không cần thở lấy chút nào! Chỉ
khi sanh ra khỏi bụng mẹ mới bắt đầu hơi thở đầu tiên bắng tiếng “khóc chào đời”
đầy thi vị.
Thai nhi cũng có phổi, nhưng là một cái phổi xẹp lép, để dành
đó, như người lính nhảy dù đeo trên lưng chiếc dù xếp gọn, sẵn sàng bung ra bọc
gió khi tung mình ra khỏi phi cơ. Tất cả nhu cầu năng lượng để hình thành và
phát triển của thai nhi được cung cấp từ bào thai của mẹ.
Vì sao Khí mà có thể trở thành Trí? Khí trong trường hợp này
chỉ là một phương tiện, là công cụ để đạt đến trạng thái Vô Ngã. Chánh tri kiến,
“thấy biết” ở đó. Cho nên Chánh định sẽ dẫn đến Chánh kiến. Từ đó sẽ có Chánh
tư duy, nghĩ đúng và làm đúng, sống đúng với… chánh pháp, tự tại, an vui.
Nhiều hành giả chưa vượt qua được cái ngưỡng để “thấy biết”
trọn vẹn các pháp. Vượt qua cái gì? Qua bờ bên kia. Paramita. Vực thẩm. Hố thẩm.
Đó là điểm không đòi hỏi tốn năng lượng, là điểm giao thoa giữa âm và dương, áp
suất trong hô hấp bằng không. “Thân nhẹ nhàng như mây”. Điều quan trọng, ý thức
vẫn sáng suốt, không phải là hôn mê, vô thức, mà hoàn toàn tỉnh giác, thấy mình
hòa vào vũ trụ, vũ trụ với mình như một. Thế, tôi có đạt tới điểm này chưa? Dạ
thưa, chưa!
Đó là điểm mà Quán Tự Tại Bồ-tát đã “chiếu kiến ngũ uẩn giai
không” (thấy rõ ngũ uẩn đều không có tự tánh riêng) nên đã “độ nhất thiết khổ
ách” (vượt tất cả mọi khổ đau ách nạn) vậy.
Chẳng ai có thể thở giùm ai được đâu. Chẳng ai có thể “thiền”
giùm ai được. Cho nên phải quay về nương tựa chính mình “một mình tôi đi, một
mình tôi về… với tôi” mà thôi.
Phải “duy ngã độc tôn” thôi!
10. Để lại trong cõi thiên thu hình dáng nụ cười…
“Bên trời xanh mãi
Những nụ mầm mới…”
Hỏi vậy chớ học Phật mấy năm qua thì đựơc gì? Được nhiều lắm
chứ. Thứ nhất là ăn được, ngủ được, tức ăn ngon, ngủ yên, làm việc, nghiên cứu
giảng dạy viết lách ít mệt mỏi, suy nghĩ tập trung tốt… Sau đó biết thưởng thức
cuộc sống hơn, bớt lo toan, bớt tính toán, bớt sợ hãi… Nhìn mọi sự thoáng hơn,
biết con người có đến năm mắt (ngũ nhãn), biết con người có đến sáu nẻo đường
(lục đạo) để mà chọn lựa tùy nghi. Biết những phương pháp thực hành, rèn luyện
thân tâm, như Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Lục độ ba-la-mật các thứ và thử nghiệm
trên chính bản thân mình rồi rút ra bài học thực tiễn, không lý thuyết viễn
vông. Nghiền ngẩm, thể nghiệm và sau đó chia sẻ cùng người khác. Đó là một cách
học tốt. Càng về sau tôi đọc các kinh sách thấy trơn tru, dễ dàng hơn, biết chỗ
đúng sai, biết chỗ bày đặt, thêm thắt, phiền não, mê tín dị đoan… Kinh sách
chân chính luôn có sự nối tiếp hay rộng mở một cách nhất quán, không phân biệt.
Thấy tám vạn bốn ngàn pháp môn tông phái gì đó chỉ là một. Đọc kinh sách thấy
thú vị như đọc truyện tình cảm, trinh thám, kiếm hiệp thuở xưa. Khi viết ra những
điều ngẫm ngợi, thể nghiệm, thì đó là một cách để học hỏi sâu hơn. Mỗi
khi bí thì lạ thay như được ai đó chỉ bày, qua một sự kiện, một bài viết, một gặp
gỡ ngẫu nhiên tình cờ nào đó làm tôi cũng chưng hửng.
Cái nền tảng kiến thức y học cũng giúp soi sáng nhiều điều,
và ngược lại học Phật đã giúp tăng cường hiệu quả cho y học nhờ tiếp cận toàn
diện, thân tâm, khổ đau, bệnh hoạn… Các “hạnh bồ-tát” không xa lạ với
tham vấn trong y học, tâm lý học. Những hình tượng Bồ-tát gần gũi biết bao! Nào
trung thực, chân thành, “ai thấy cũng vui, ai gặp cũng mừng” như Dược Vương;
nào tôn trọng, không phân biệt đồi xử, như Thường Bất Khinh; nào lắng nghe, thấu
cảm, ngàn mắt ngàn tay như Quán Thế Âm với nhành dương liễu, bình tịnh thủy… Rồi
nào “tam Thân tứ Trí” để rèn tập cho có diệu quan sát trí, nhất thiết chủng
trí, để nhìn thấy rõ Pháp thân với tâm bình đẳng. Rồi nào Từ nào Bi
nào Hỷ nào Xả… Nhìn rõ cái vô thường, khổ, không, vô ngã, duyên sinh, thực tướng
vô tướng… trong mọi sự vật, hiện tượng. Các pháp vận hành tự nó tròn đầy trong
cuộc sống. Điều quan trọng của học Phật là hành, là “văn tư tu”, là giới, định,
huệ. Có hành thì mới nên hạnh, có hạnh mới nên… duyên.
Tôi thấy mình đến với Phật giáo không chút ngại ngần, khó
khăn, mà như một sự trở về chốn thân quen. Tôi hiểu Phật vì sao phải dạy từng
bước với Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Thập nhị nhân duyên… các thứ, để rồi rốt cuộc
khẳng định “Ta chưa từng nói một lời nào, chưa từng dạy một điều chi. Mọi thứ đều
sẵn đó rồi!”. Vô trí diệc vô đắc (Tâm kinh). Tôi hiểu vì sao Phật tự xưng mình
là Như Lai, bởi chỉ có xưng là Như Lai thì mới không còn thấy có ngã, nhân,
chúng sanh, thọ giả gì nữa! Phật là Như Lai nhưng Như Lai không phải Phật. Như
Lai là Như Lai. Nhân vô ngã và pháp vô ngã như hai cánh của một con
chim hồng bay vút vào hư không. Từ đó, tôi chú ý những chuyện lặt vặt của Phật
như cách ăn, cách ở, cách đi lại, nói năng… nôm na là cách sống. Nhờ nền tảng y
học, tôi thấy vô thường, vô ngã, duyên sinh… không khó. Đừng tìm kiếm đâu xa
cho mất công. Cứ “nương tựa chính mình” là đủ. Những môn Cơ thể học, Tế bào học,
Sinh lý học, Di truyền học, Phôi thai học, Bệnh lý học… qua cái nhìn Phật học
cũng đủ để giúp tôi “thấy biết” (Tri kiến).
Tôi “đặc biệt” coi kỹ cách Phật dạy con… ruột của Ngài: La-hầu-la
ra sao. La-hầu-la là người con huyết thống, lúc Phật còn là Thái tử, quy y theo
Phật từ lúc 7 tuổi. Phật giao ngay cho ông “thầy dạy kèm” là Xá-lợi-phất, vị đệ
tử trí tuệ bậc nhất của Ngài. Ngài không giao cho Mục-kiền-liên, đệ tử bậc nhất
về thần thông vì sợ La-hầu-la mê thần thông, quên trí tuệ.
La-hầu-la được dạy thở trước hết, sau đó mới dạy cách nhìn đời:
“không phải của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta” để từ bỏ
tham sân si, đi vào Giới Định Huệ. Thở là cho thân và cách nhìn đời là cho tâm.
May thay, tôi đến với Phật không có thầy. Nếu có thầy thì đã phải suy nghĩ thực
hành theo thầy! Không có thầy nên tôi cứ nhởn nhơ như không. Chỉ cần nắm lấy
cái cốt lõi. Tuy vậy, tôi phục Duy-ma-cật, Huệ Năng, Tuệ trung Thượng
Sĩ, Trần Nhân Tông… Họ đúng là Bồ-tát, đem đạo vào đời, đem an lạc hạnh phúc đến
cho mọi người. Tôi học Phật thấy… không khó.
Tôi học Tâm kinh và thấy mình hiểu Bát Nhã (Prajna paramita) không khó. Không có tự tánh riêng biệt, Duyên sinh, Vô ngã, Thực tướng vô tướng… Cho nên núi Tu-di to đùng kia có thể cho vào đầu hạt cải, nước bốn biển mênh mông kia có thể cho vào một lổ chân lông, “bố thí thân mạng” mỗi ngày nhiều như cát sông Hằng… không khó hiểu. Prajna (Bát nhã) là cái thấy biết “như thật”, cái thấy biết hiện tiền, thấy tròn đầy sự vận hành của pháp, không có sự can thiệp của cái ta tích cóp, cái ta học tập, cái ta thành kiến. Pra là trước; Jna trí thức. Prajna là một “cái biết trước cái biết”. Cái biết Prajna (Bát Nhã) kia có thể dẫn thẳng tới… vô vi, trực tâm. Cho nên “tri kiến lập tri tức vô mình bổn”: cái biết khi đã hình thành (lập tri, thành kiến) là nguồn gốc của vô minh. Chẳng phải do vì “thành kiến” (lý tưởng nọ kia, triết lý này khác… anh sai tôi đúng) mà loài người vẫn cứ đánh nhau, giết nhau với những danh từ đao to búa lớn. Cho nên mới nói “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (đừng có trụ (dựa) vào đâu cả để mà sanh cái tâm)! Đừng có sinh sự, đừng có can thiệp vào cái “thanh tịnh bổn nhiên” vốn sẵn có kia!
Tôi học Tâm kinh và thấy mình hiểu Bát Nhã (Prajna paramita) không khó. Không có tự tánh riêng biệt, Duyên sinh, Vô ngã, Thực tướng vô tướng… Cho nên núi Tu-di to đùng kia có thể cho vào đầu hạt cải, nước bốn biển mênh mông kia có thể cho vào một lổ chân lông, “bố thí thân mạng” mỗi ngày nhiều như cát sông Hằng… không khó hiểu. Prajna (Bát nhã) là cái thấy biết “như thật”, cái thấy biết hiện tiền, thấy tròn đầy sự vận hành của pháp, không có sự can thiệp của cái ta tích cóp, cái ta học tập, cái ta thành kiến. Pra là trước; Jna trí thức. Prajna là một “cái biết trước cái biết”. Cái biết Prajna (Bát Nhã) kia có thể dẫn thẳng tới… vô vi, trực tâm. Cho nên “tri kiến lập tri tức vô mình bổn”: cái biết khi đã hình thành (lập tri, thành kiến) là nguồn gốc của vô minh. Chẳng phải do vì “thành kiến” (lý tưởng nọ kia, triết lý này khác… anh sai tôi đúng) mà loài người vẫn cứ đánh nhau, giết nhau với những danh từ đao to búa lớn. Cho nên mới nói “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (đừng có trụ (dựa) vào đâu cả để mà sanh cái tâm)! Đừng có sinh sự, đừng có can thiệp vào cái “thanh tịnh bổn nhiên” vốn sẵn có kia!
“Cái thấy chỉ là cái thấy/ cái nghe chỉ là cái nghe”… thiệt
ra chỉ muốn nhắc một điều: cái thấy nó vậy đó, do căn với trần tiếp xúc nhau.
Chấm hết. Tại cái “ta” (ngã) xen vào mà sinh sự. Cái “ta” luôn phê phán, nhìn
ngắm với những cặp kính màu khác nhau để rồi chí chóe, thượng cẳng tay hạ cẳng
chân. Khi cái thấy do “Ta” thấy. Nó sẽ khác với người khác thấy. Nó hay hơn, giỏi
hơn, tốt hơn người khác. Khi cái thấy trần trụi căn với trần, thì ai cũng như
ai. Hết chuyện. Vì thế, thật đơn giản khi tách cái “tâm’ ra, tức là tách cái “của
ta, là ta” ra thì nó trơ trụi, bình đẳng. Trần Nhân Tông nói “Đối cảnh vô tâm
mạc vấn thiền” là vậy.
Tuy nhiên, vẫn phải đi từng bước, thực hành từng bước. Không
cần phải phân biệt tông này phái nọ môn kia. Phải có thực hành mới “thấy” được
bên trong. Mới reo lên “Không ngờ…, Khong ngờ…!” được như Huệ Năng.
Thực ra, Phật chỉ dạy có 2 điều: Khổ và Diệt khổ. Nhận diện
được khổ để từ đó có phương pháp Diệt khổ tận gốc chẳng khác gì thầy thuốc chẩn
đoán đúng bệnh và điều trị đúng, đem lại an vui hạnh phúc cho con người. Kinh
sách nào, pháp môn nào dạy ta khiến ta… thêm khổ, thêm phiền não thì chắc chắn
không phải của Phật rồi!
Nỗi khổ lớn nhất của kiếp người là sợ. Sợ… chết. Ta từ đâu đến,
ta sẽ đi về đâu… là những câu hỏi không lời đáp từ ngàn xưa. Câu trả lời đơn giản
nhất có lẽ là ta đã từ bào thai mẹ mà đến và sẽ trở về… “bào thai Như Lai”. Quả
có một sự giấu nhẹm thú vị. Ta bỗng dưng mà có thì cũng sẽ bỗng dưng mà không.
Nhưng có và không lại là một. Thú vị ở đó. Xà quần chút chơi vậy thôi. Nó sẽ vận
hành theo pháp. Sanh trụ dị diệt. Sanh chẳng phải sanh mà diệt chẳng phải diệt.
Nên mới bảo “bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm” (Tâm
kinh). Hằng tỷ tinh trùng loi ngoi và một con duy nhất chui vào quả trứng. Có
tình cờ không? Có xếp đặt không? Stephen Hawking nói có. Có xếp đặt đó, nhưng
không có người xếp đặt. Vũ trụ còn 95% khoảng đen chưa khám phá. Nàng Hằng Nga
chỉ là cục đất, chú Cuội là cục đá. Đất với đá thì cũng như nhau. “Ngày sau sỏi
đá cũng cần có nhau” là vậy. Mỗi hạt cát là một vũ trụ. Cứ khám phá nữa đi. Bên
dưới hạ nguyên tử sẽ là những hạt và những sóng, rồi dưới nữa thì không có gì cả:
“Bổn lai vô nhất vật” (Huệ Năng). Không có gì cả mà có tất cả. Thú vị chứ. Đừng
nhìn đâu xa. Nhìn vào ta thôi. Nó vậy đó. Không phút giây nào tĩnh lặng, nhưng
hoàn toàn tĩnh lặng. Một thứ thanh tịnh bổn nhiên.
Vô thường dễ thấy mà vô ngã thì khó. Vì cái ngã đã được bồi đắp
xây dựng từ thuở còn trong bụng mẹ cho đến lúc vào đời, được nhào nặn trong một
môi trường ở bầu tròn ở ống dài, tích tụ, nhồi nhét đủ kiểu. Thoát ra thật khó.
Tham ái và chấp thủ dày đặc, như cái kén bọc kín nhiều lớp. Phủi bỏ không dễ.
Khi Stephen Hawking nói có sự “xếp đặt” nhưng không có người xếp đặt (có
designe, nhưng không có designer) thì ông đã thấy pháp. Mà thấy Pháp tức là thấy
Phật. Pháp nó tự vận hành. Không có người vận hành. Không có ta. Cho nên Phật dạy
cách khác đơn giản hơn: Cái thấy chỉ là cái thấy. Cái nghe chỉ là cái nghe. Chỉ
vậy. Khi có cái “ta” xen vào: Ta thấy, ta nghe… thì đã sinh sự. Có ta hay không
có ta thì pháp nó cũng cứ vận hành như vậy. Nhưng bằng cách nào để sống được
“cái thấy chỉ là cái thấy”? Vì ta không phải là gỗ đá, vô tri. Vấn đề chỉ ở chỗ
không dính mắc. Cô hoa hậu xinh đẹp thì thấy là xinh đẹp, nhưng dính vào thì
tiêu!
Tóm lại, tại vì có cái ta mà phát sanh phiền não, khổ đau.
Pháp vận hành theo pháp, chẳng vì ta. Chẳng vì ta mà hoa nở hoa tàn. Nếu không
can thiệp thì nó vậy là nó vậy. Sự phân biệt chính là can thiệp, dính mắc. Ta
là Tâm, là lòng muốn, lòng tham dẫn đến sân mà gốc thì từ si mà ra. Thuốc đã sẵn
có. Phật giáo nhìn cái chết là sự vận hành của pháp. Chết là sự chấm dứt tạm thời
của một hiện tượng tạm thời, cái sống. Cho nên chết không phải là hết. Cái sống,
một hiện tượng tạm thời và vận động không ngừng, vô thường thú vị, một bonus,
nên cái chết cũng là vô thường, một bonus khác.
Để lại cái gì? Thiên thu là bao lâu? Nào ngã nào nhân nào chúng
sanh nào thọ giả? Cái còn lại, ấy là nụ cười. Nụ cười không phải từ khóe miệng.
Không phải từ ánh mắt. Mà từ trăm ngàn tỷ tế bào, nhiều như cát sông Hằng, hàng
ngày vẫn bố thí. Nụ cười vừa an vui vừa từ bi. Thôi, đừng làm phiền
ta nữa nhé. Biết tỏng cả rồi. Hù dọa nhau chi. Khi đã tay bắt mặt mừng, chuyện
trò rôm rả cùng Đa Bảo trong tháp báu hôm nào nơi núi Thứu.
Khi hiểu thêm về Phật, tôi tự nhiên thấy gần gũi lạ thường.
Nhiều lúc tôi thấy mình cũng muốn nói: À, hóa ra là thế. Hèn chi mà không thể
nói ra được, không muốn nói ra cho ai biết, không dám nói ra cho ai biết. Rồi
cũng cảm nhận được là không phải chỉ một mình mình thấy, một mình mình biết mà
nhiều lắm, từ xưa đến nay vô số người đã thấy, đã biết và cũng không nói ra được,
chỉ có họ, khi gặp nhau mới trao đổi vài từ với nhau đã đủ thấy người kia và
mình đang ở đâu. “Văn tự” hình như rất hạn chế ở đây, rất dễ gây nhầm lẫn và
chính vì thế mà Phật phải dùng một cách nói gián tiếp hoặc dặn đi dặn lại nhiều
lần, nói vậy mà không phải vậy “tức phi thị danh” thôi nhé.
Khi chưa hiểu thì tất cả những điều này có vẻ bất thường, kỳ
cục, vô lý, khi hiểu được rồi thì thấy nó quá rõ ràng, chính xác, hoàn toàn hợp
lý. Nhờ đó, có thể thấy xuyên suốt những pháp này pháp no, tông này tông kia chẳng
qua cũng chỉ là một.
Không phải là lý thuyết suông, mà là sự thực nghiệm, thể nghiệm
ngay trên bản thân mình. Hãy đến và nếm thử. Mô tả không được! Xưa
nay chưa ai mô tả nổi một sự “cực khoái”. Nếm trải mới biết.
Nụ cười ấy là sự giác ngộ, giải thoát. Đã thấy biết Như Lai.
Đã sống cùng Như Lai. Đã là Như Lai. Ai đã thấy biết Như Lai, đã sống với Như
Lai, đã là Như Lai mà không cười như vậy?.
Saigon, Kỷ Hợi, tháng 2.2019
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét