Lê Trúc Khanh, một lần mộng đến nghìn thu
LÊ TRÚC KHANH
Chân dung Lê Trúc Khanh
Ảnh tư liệu của tác giả
Tên thật: Lê Phước Nghiệp
Sinh ngày: 28 tháng 5 năm Kỷ Sửu (1949)
Quê quán: Làng Tân Thạch, huyện Trúc Giang, tỉnh Bến Tre. Đây
là một làng quê nhỏ hiền hòa nằm dọc song Tiền bốn mùa miên man sóng vỗ
Học tại các trương: tiểu học Tân Thạch (Bến
Tre). Trung học Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), trung học Phan Thanh Giản (Cần
Thơ). Tốt nghiệp ĐHSP Ban Việt Hán, sau đó ra trường dạy môn Văn tại các trường
trung học công lập, tư thục ở Cần Thơ từ năm 1970
Sáng lập viên thi văn đoàn Về Nguồn (năm 1964). Đây là một
nhóm văn nghệ tuổi học trò, phạm vi hoạt động chủ yếu trong phong trào báo chí
văn nghệ của các trường trung học thời bấy giờ.
Sáng lập và phụ trách Chương Trình Thi Văn Về Nguồn trên
Đài phát thanh Cần Thơ, theo tôn chỉ mở đầu buổi phát thanh bằng câu: Đây,
Về Nguồn, tiếng nói tha thiết của những người yêu mến quê hương. Tiếng thơ của
những người muốn tìm lại tự tình dân tộc”.
Chủ trương Cơ Sở Sản Xuất Ban Văn Nghệ Về Nguồn, hoạt động từ
năm 1967. cơ sở đã giới thiệu đến bạn đọc sáng tác thơ văn của cộng tác viển
trong và ngoài thi văn đoàn Về Nguồn dưới dạng tuyển tập hoặc tác phẩm cá nhân.
Tính đến năm 1974, cơ sở Về Nguồn đã phát hành được 18 ấn phẩm.
Chủ trương Tạp Chí Khơi Dòng. Đây là nguyệt san sinh hoạt văn
học miền Tây, số 1 phát hành mùa xuân Canh Tuất 1970 với chủ đề Mùa Xuân
Và Con Người. Tạp chí chỉ xuất bản được 5 số thì đình bản do điều kiện
kinh phí và hoàn cảnh chiến tranh loạn lạc thời bấy giờ đang ở vào cao điểm. Tạp
chí Khơi Dòng là nơi hội tụ của một lực lượng sáng tác đầy đủ và sung sức nhất
của miền Nam những năm 70 thế kỷ trước.
Cộng tác với hầu hết các nhật báo, tuần báo, tạp chí… ở miền
Nam như: Khai Phá, Tiếng Động, Ti Văn, Văn Học, Tiếng Chuông, Tia Sáng, Điện
Tín, Chính Luận, Miền Tây, Tiểu Thuyết Tuần San, Triều Sống Xanh, Tinh Hoa,
Sáng, Văn Nghệ Miền Tây, Khơi Dòng...
Đã in thơ chung với nhiều tác giả như Viết Cho Những Người
Còn Lại, gửi lại mùa đông và một tập thơ in riêng Quê Hương-Tình Yêu Và Nỗi
Nhớ Khôn Cùng.
In chung hơn 20 tác phẩm
Lê Trúc Khanh, một lần mộng đền nghìn thu
Trước 1975, khoảng từ năm 1966 trở đi, tôi thường xuyên
tốc hành từ Sài Gòn về miền Đông như: Biên Hòa, Long Khánh, Vũng Tàu... hoặc
xuôi ngược về nơi cố thổ miền Tây, bay nhảy suốt dặm đường Mỹ Tho, Sóc Trăng, Cần
Thơ, Sa Đéc, Châu Đốc... Chủ đích của mỗi cuộc du hành, đeo đẳng trên vai nghiệp
chướng văn nghệ. Ghế Biên Hòa chung ly cafe lạt với Nguyễn Tất Nhiên, về Sóc
Trăng với Trầm Mặc Nghệ Thế, Triều Uyên Phượng, hay loáng thoáng tạt ngang tệ
xá Hạc Thành Hoa ở Sa Đéc. Tất cả chỉ vì thoả tình hội ngộ với anh em, với những
văn nghệ sĩ chân tài trấn thủ tại nhiều vùng đất văn chương Nam Bộ. Lúc đi cũng
như lúc đến, tuổi trẻ chỉ quẩy nặng trên vai một túi sách phiêu lưu, như tia chớp
nhoang nhoáng quang quả trên bầu trời chợt mưa chợt nắng, vội vàng như một
đinh mệnh, không bắt buộc tư thân, nhưng cũng như một sứ mệnh phải thi hành. Gặp
bằng hữu văn nghệ như vừa bắt gặp một hạnh phúc cố cựu, trao đổi cho nhau vài
sáng tác mới tâm đắc, như một “sát na” giác ngộ. Giai đoạn này, như con ốc nhỏ
bò lui tới, đo chân lý đường dài, mỗi lần gặp gỡ là mỗi lần như được khắc ghi
vĩnh cửu trên bia đá. Tại Cần Thơ, miền Tây Đô của cuối Việt, anh tài hiển hiện
sinh động trên khắp màu sắc phong lưu, rực rỡ của nghệ thuật. Tôi liên tưởng những
phút giây mà Phù Sa Lộc và Trần Kiêu Bạt, tạt ngang nơi cư trú của
Trần Biên Thuỳ và Lâm Hảo Dũng trên đường liên tỉnh. Con đường dẫn tới tổ ấm lầy
lội, nghèo nàn như bản sắc quê hương, tôi đề nghị Trần Kiêu Bạt dẫn tới nhà Lê
Trúc Khanh ở đường Phan Thanh Giãn, để có dịp hàn quyên, tay bắt mặt mừng, với
một chàng trai học trò tài không đợi tuổi. Ngôi nhà của Lê Trúc Khanh nằm lẫn
khuất trong một con hẻm hẹp, giống như chàng thi nhân nhỏ nhắn, thanh lịch, lại
được bày biện thật ngăn nắp, khiến sự cảm tình và trân trọng với nhau càng thêm
sâu thẳm hơn. Lúc đó, thư sinh có lẽ khoảng 18 tuổi, nhưng đã là một thủ lĩnh của
bút nhóm Về Nguồn. Một thi văn đoàn với hơn 100 thành viên và cộng tác viên ở
khắp nơi, trải dài từ Quảng Trị đến Cà Mau. Họ đến với thơ, đến với nghệ thuật,
như một sự say mê thánh hóa, hy sinh tất cả thời gian, tiền tài, góp sức với mộ
tấm lòng chân thành.
Về Nguồn, là cái nôi lớn nhất điển hình của văn nghệ miền Nam thời đó, hoạt động nghệ thuật một cách chân chính, không vị lợi. Suốt lộ trinh 10 năm, đến tháng 4 năm 1975 ngưng nghỉ để hòa theo đất nước chào đón một trang sử mới, có công lao to lớn là điểm tựa ban đầu cho biết bao nhiêu văn nghệ sĩ thành danh. Có thể, trên văn đàn Việt Nam,tên tuổi những: Đặng Thư Cưu, Trần Kiêu Bạt, Lê Trúc Khanh, Huyền Vân Thanh, Nguyễn Huy Chương, Kiều Diễm Phượng, Trúc Linh Lan, Võ Minh Đường, Lý Thị Kim Xương, Hà Huy Thanh, Trầm Mặc Nghệ Thế, Lê Vũ Hùng, Phạm Hữu Quang, Vương Doãn Chi, Lưu Vân, Hà Thúc Sinh, Vũ Ngọc Đức, Lâm Hảo Dũng, Lâm Hảo Khôi, Nguyễn Bạch Dương, Nguyễn Cát Đông, Yên Bằng, Triệu Cung Tinh, Tô Nhược Châu, Phù Sa Lộc, Nguyễn Hoài Vọng....Vẫn không ít dịp xoay người chọn lựa những cánh hoa văn nghệ tươi thắm rực rỡ nhất, cắm vào bình hoa sang trọng Về Nguồn.
Về Nguồn, là cái nôi lớn nhất điển hình của văn nghệ miền Nam thời đó, hoạt động nghệ thuật một cách chân chính, không vị lợi. Suốt lộ trinh 10 năm, đến tháng 4 năm 1975 ngưng nghỉ để hòa theo đất nước chào đón một trang sử mới, có công lao to lớn là điểm tựa ban đầu cho biết bao nhiêu văn nghệ sĩ thành danh. Có thể, trên văn đàn Việt Nam,tên tuổi những: Đặng Thư Cưu, Trần Kiêu Bạt, Lê Trúc Khanh, Huyền Vân Thanh, Nguyễn Huy Chương, Kiều Diễm Phượng, Trúc Linh Lan, Võ Minh Đường, Lý Thị Kim Xương, Hà Huy Thanh, Trầm Mặc Nghệ Thế, Lê Vũ Hùng, Phạm Hữu Quang, Vương Doãn Chi, Lưu Vân, Hà Thúc Sinh, Vũ Ngọc Đức, Lâm Hảo Dũng, Lâm Hảo Khôi, Nguyễn Bạch Dương, Nguyễn Cát Đông, Yên Bằng, Triệu Cung Tinh, Tô Nhược Châu, Phù Sa Lộc, Nguyễn Hoài Vọng....Vẫn không ít dịp xoay người chọn lựa những cánh hoa văn nghệ tươi thắm rực rỡ nhất, cắm vào bình hoa sang trọng Về Nguồn.
Hoạt động cật lực của Lê Trúc Khanh, bằng sự hi sinh vô bờ bến,
khiến anh em văn nghệ khắp nơi, dù có hùng cứ ở những khuynh hướng nghệ thuật
nào, cũng phải nhìn lại và thán phục. Chương trình phát thanh của thi văn Về
Nguồn, mà cứ 22h30 mỗi giữa tuần “Tiếng nói tha thiết của những người yêu mến
quê hương. Tiếng thơ chân thành của những người muốn tìm lại tự tình dân tộc”,
vẫn xoáy cuộn vào tâm thức của những con tim rung cảm.Người ta cảm tình ngay với
chương trình Về Nguồn trên làn sóng vô tuyến, người ta càng yêu dấu tâm hồn của
các bằng hữu chủ trương. Song song, cơ sở xuất bản Về Nguồn và tạp chí Khơi
Dòng liên tay, nối chặt ý hướng hoạt hoá văn học nghệ thuật một cách nghề nghiệp
và bài bản, ấn hành được nhiều tác phẩm cho anh em, cũng như tạo được môi trường
tham khảo văn nghệ, phát huy tiếng nói sung sức nhất ở miền Tây Nam Bộ thời đó.
Khoảng giữa năm 1973, Lê Trúc Khanh về Sài Gòn công tác ngành
(Lê Trúc Khanh tốt nghiệp Đại học Sư phạm năm 21 tuổi, giảng dạy Văn ở Trung học
Đệ nhị cấp Cần Thơ), có ghé tạt qua thăm tôi. Vẫn hào sản, liếng thoắng và
tươi trẻ, Lê Trúc Khanh thố lộ với ý định thành lập một quán cafe Về Nguồn, để
anh em có dịp hội tụ hàng ngày trao đổi sáng tác và luận bàn quan điểm nghệ thuật,
tất cả chủ yếu cũng vì quá đam mê văn nghệ. Chí hướng hi sinh về nghệ thuật của
Lê Trúc Khanh quá lớn, quá trong sáng, khiến tôi cũng độn lòng hứa giúp Về Nguồn
một phen, với điều kiện sẽ bàn lại với anh em Tạp chí và Nhà xuất bản Khai Phá.
Về Châu Đốc, tôi vẫn thầm suy nghĩ cưu mang như thế nào, cho thuận đôi bề. Một
đêm trời sáng trăng, khoảng tháng 12/1973, nhà thơ Nguyễn Cát Đông lúc đó là Hiệu
trưởng Trường Trung học Nguyễn Hữu Cảnh Châu Đốc, bầu bạn cùng nhà văn Huỳnh Phan
(tác giả Câu Truyện Thầy Trò, một tác phẩm văn chương được đón nhận nhiệt liệt
thời đó), ghé trà dư tửu hậu với tôi, trước đầu chợ Châu Đốc. Tôi đem tâm ý của
Lê Trúc Khanh còn dằn vặt trong lòng, và xin ý kiến Nguyễn Cát Đông. Thảo luận
kế hoạch cho quán cafe Về Nguồn cũng khá gay go, vì chúng tôi không nắm bắt được
chủ trương kinh doanh như thế nào. Tuy nhiên, cái tâm Lê Trúc Khanh trải ra quá
lớn, nên không ai nghi ngờ gì ở sự hi sinh vì nghệ thuật của Khanh cả. Nhà thơ
Nguyễn Cát Đông, thảo ra một kế sách, tiền đề cho những cuộc sinh hoạt nghệ thuật
liên tục ở quán cafe Về Nguồn, bằng một buổi ra mắt đồ sộ với danh nghĩa Đem
Sinh Hoạt Văn Nghệ Về Nguồn, số 93 Tạ Thu Thâu Cần Thơ, vào ngày 19/01/1974 (nhằm
ngày 17 tháng chạp, Quý Sửu), tức những ngày cận tết Giáp Dần. Anh Nguyễn Cát
Đông và Lê Trúc Khanh sẽ lo tổ chức, thuyết trình, riêng tôi sẽ quy tụ trên
2000 đầu sách, tác phẩm của anh em văn nghệ trẻ khắp nước, trong một chương
trình Thi ca, Âm nhạc, triển lãm Hội hoạ, Nhiếp ảnh, Điêu khắc, Nghệ thuật Thêu
tay, Nghệ thuật Hoa vải… Lúc đó Hội hoạ và điêu khắc của hoạ sĩ Hoàng Thuỵ Kha,
Lê Triều Điển; Nhiếp ảnh Thái Văn Sơn; nghệ thuật thêu tay: Bích Đàn, Nghệ thuật
hoa vải của Nguyễn Thành Hải (NXB Nhị Khê). Âm nhạc trình diễn ngoài cộng tác
viên Về Nguồn, còn có sự hợp tác của gia đình nhà thơ Trần Kiêu Bạt, Nguyễn Huy
Chương…
Tâm huyết của nhà thơ Lê Trúc Khanh, đã nhuộm thắm cho miền cựu
địa Nam Bộ, một sự cảm thông sâu sắc tạo cho văn nghệ nhiều gạch nối liên tay
hình thành những ước mơ, mà một cá nhân khó lòng xây dựng được.
Những tâm thức về tình quê hương, tình yêu, về tuổi học trò
sao mà nhẹ nhàng và hiền dịu, tự dẫn dắt chúng ta qua một Lê Trúc Khanh nho
nhã, tài hoa, đầy ấp tấm lòng. Với những gì sự thật ghi lại bên trên, như một
nét son sắt đá cho tha nhân bất chợp khám phá ra một sự cương nghị hi sinh, quyết
đoán trong quá trình hoạt động văn nghệ như chém đá, của nhà thơ Lê Trúc Khanh.
Hiền dịu và lãng mạn có gì bằng “Một trăm đêm - Một nghìn
đêm/ là trăng động thoáng xa dìm bến mơ/ ừ - cho nhau hẹn thề/ có con chim nhỏ
gọi hè từ xưa/ chiều nay mưa - chiều mai mưa/ và anh thì cứ làm thơ trọn đời…”. Phải
chăng chàng thư sinh cứ như âm thầm đứng tan chảy dưới ánh trăng, bện lên người
không gian phiêu bồng, ảo dịu cho chính bản thân,với thệ nguyện làm thơ trọn đời,
cho trăng động thoáng, cho nhau hẹn thề… Phải chăng chính vì vậy, khiến chàng nhiều
lúc phải dấn thân, lấy nét bút mài dưới mưa chiều làm kiếm sắt, tạo dựng một
giang sơn nghệ thuật như kính vạn hoa, không phải cho riêng chính bản thân mà
cho tất cả cố nhân bằng hữu.
Nhưng thật ra, tâm huyết cần mẫn thương khó của nhà thơ bôn ba cũng không qua thời vận, nên tất cả những dự trù chất ngất như cửu trùng
đài, cũng nghiêng ngả bao phen. Chàng muốn rửa tay gác kiếm bỏ công hầu, như
khi Kiều Phong lìa ải nhạn có đong buồn trên ánh mắt Anh Châu? Được
không? Cái nghiệp chướng vẫn đa mang mà từ lúc khai sinh lớn lên chưa đầy
16 tuổi đã hứng thú làm thơ và đeo gông thủ lĩnh của một văn đàn. Lê Trúc
Khanh dù có dằn vặt trong tâm thức, dù có muốn cởi bỏ tương tinh tương khắc
trong nghiệp dĩ, cũng được bao giờ! Nhà thơ trong lành và hiền hậu năm xưa, vẫn
ngửa mặt lên trời mà than thở với thời tiết “phố bụi đường xa mà tóc rối/ chiều mây lục tỉnh còn ngang đầu/ ai xót dùm anh thời quá khứ/ một lần cho
mộng đến nghìn thu.”
Đi vào thơ, nhiều ngõ ngách lao đao xuyên thấm bộn bề, biết
bao lối tắt chông gai giăng mắc, chiêu dụ nhà thơ nhiều chiêu phẩm phĩnh phờ.
Nhiều lúc nếu không đủ nghị lực, như Khuất Nguyên cùng cực với mọi khoảnh khắc
của thời thế, phải đắm lòng rửa sạch bụi trần trên ta, giữa tết Đoan Ngọ nghìn
năm trước. Lịch sử cũng đã nhiều lần lập lại, thương ghét đa đoan khiến nhân
tài phải thu mình như cánh bướm giữa trận thu phong. Tài hoa như Nguyễn Tất
Nhiên, cũng phải buông thả sinh mệnh ở một phương trời xa thẳm, khiến động lòng
chim khách vu vơ.
Lê Trúc Khanh cũng có lúc chao đao trên sự thế “bạn bè
tan tác tan tác đời muôn nẽo/ anh lạc bầy bay đến dại khờ” Bẵng đi một thời
gian sau tập “Quê Hương tình yêu và nỗi nhớ khôn cùng” hình như nhà thơ
quê hương ta cũng chìm lắng đi trong sự thế. Cái năng nổ, bồng bột của hồng tâm
với văn nghệ, cũng chìm dần trong cuộc sống. Ngoài thời gian dạy học, dĩ nhiên
chàng nghiện hẳn tâm hồn cho giáo nghiệp, Lê Trúc Khanh không thấy xuất hiện
tác phẩm nào tư riêng. Với những tập thơ in chung, chắc cũng hơn 10 tuyển tập,
Lê Trúc Khanh không còn chủ động được một không gian huy hoàng cho riêng cá
nhân. Tôi biết bên trong thư phòng, nhà thơ cũng khao khát viết, tha thiết với
nghệ thuật, cũng sáng tác âm thầm, nhưng nếu suy mãn thần khí quyết liệt như
quá khứ, tôi mong ước Lê Trúc Khanh không được quyền buông xuôi. Nhớ lại bao
năm tháng trôi qua, ở Sài Gòn hòn ngọc viễn đông, hai tiền bối của thi ca đều nắm
giữ một Tao Đàn Đinh Hùng và một Mây Tần Kiên Giang, với một khí thế hùng cứ
riêng tư, nổi tiếng sáng chói một góc trời thơ. Thì ở một vùng sông nước hiền
hòa, có chương trình thơ êm đềm trung hậu, ngày tháng cứ vang lên tự tình dân
tộc, làm rung động bao tâm huyết của người làm văn nghệ trẻ. Khiêm tốn thay
chương trình thi ca này, không thua sút hai đàn anh, lại được điều hành bởi
người làm thơ nho nhã chưa đầy 20 tuổi với góp sức đồng tâm của cả 100 cộng tác
viên/ Lục Vân Tiên.
“Chim kêu gành đá gẫm thân thêm buồn” đứng trên đèo Hải
Vân sau ngày tháng tạm thời gác kiếm, trả lại cho cát bụi tất cả những ý nghĩ
hùng quan về thi ca, nghệ thuật, Lê Trúc Khanh nhiều lúc soi ngắm lại đoạn đường
xưa, cứ im lìm “gối lẻ giường đơn lạnh rất nhiều”. Nhà thơ không chịu
buông đao thành Phật, cứ đeo đẳng những hối tiếc trên đường trường vạn lý, mong
nhả hạt gieo rừng. Tôi có lúc cũng bơ phờ như vậy, sau một thời gian quầy quả với
cuộc sống, nợ văn chương như cứ nhẹ dần, nên rất cảm thông cho sự chịu đựng hiền
hậu của nhà thơ khả kính nầy. Thơ Lê Trúc Khanh nằm sâu lắng bên cát bụi, con
đò, đường cũ, hoàng hôn lấp quê nhà, phố bụi, sân trường, chiền chiện, lục
bình, bạn bè, lục tỉnh, đom đóm, bìm bịp, bèo nước… Tất cả tạo cho nét thơ anh
một bóng dáng cổ phong, man mác nhẹ nhàng như một hơi thở hắt hiu giữa trưa hè…
Bạn có lúc nào, nằm vắt võng giữa hai bụi tre làng, thấp thoáng bóng đình cổ
xưa với tượng thần nhà quê, một gốc đa già buông thõng chùm rễ mục giữa
làn truy phong?. Nhiều lúc, giữa tâm cảnh đó, động lòng xao xuyến, mà không giấc
mơ tuyệt diệu nào dàn trải được, cho long lanh ngữ điệu. Nhà thơ Kiên Giang,
trước 1975, có viết giới thiệu Lê Trúc Khanh trên trang 3 của tờ nhật báo, chiếm 1/4 trang,
trang trọng hết lời chúc tụng và giới thiệu nhà thơ trẻ như một thành công trên
Thơ, lẫn tài năng trong điều hành hoạt động văn nghệ.
Thời gian cứ lần lượt trôi đi, bao nhiêu ngày tháng cứ làm
tâm huyết hoá đá. Sự trở lại, mong ước như ngày cầm bút đủ thần khí như cầm
gươm xa xưa, có lẽ phải lụi tàn theo gió bụi. Tất cả chỉ là ảo ảnh, xóa nhòa trong bốn chiều không gian. Nếu không có Thơ, không tác phẩm nghệ thuật khác, để
chiêm nghiệm hồi sinh quá khứ, tạo phóng tương lai thì vũ trụ như một huyệt mộ,
tử sinh như một trò chơi, có cần gì để đến, có lạ gì phải đi. “Chút tình quê gởi
trong chiều tàn phai” mà Lê Trúc Khanh bộc bạch, chẳng khác nào gửi gắm cho tri
kỷ, tất cả tấm lòng chất phát, đầy cây trái phì nhiêu đồng bằng, cần trưng bày
trân trọng trên vùng cố thổ, cho yên lòng chút nắng hoàng hôn rụng xuống…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét