Nghiêu Minh. Cuộc phiêu hốt
tang bồng của kẻ lãng tử tài hoa
NGHIÊU MINH
Chân dung nhà thơ - nhạc sĩ Nghiêu Minh
Ảnh tư liệu tác giả
Tiểu sử văn học: NGHIÊU MINH
- Tên thật: Nguyễn Văn Minh
- Các bút hiệu khác: Đặng Thiên Gia Hộ,
Lê Cần Sơn, Mạnh Thần
- Sinh 1944
- Quê quán: Mười Tám Thôn Vườn Trầu (Hóc Môn), Gia Định
- Hiện cư ngụ: Maryland, Hoa Kỳ
Tác phẩm đã xuất bản:
- Khóc Trên Đường Đi, Hát Trên Đường Về (tập nhạc 1984)
- Trăng Mật (thơ 1992)
- Chợ Trăng (tập nhạc 2000)
- Dấu Xưa (thơ 2002)
- Mẹ Thường Hằng (thơ song ngữ, 2005)
- Thiền Trong Cõi Tục (thơ 2013)
CD và Video
- Mẹ Thường Hằng (thơ & nhạc, video)
- Em, Người Tình Nhân Tôi (thơ nhạc)
- Bởi Có Em Tôi Ở Lại Đây (nhạc)
- Mẹ, Em Và Nguồn Dấu Yêu (nhạc)
- Em, Người Tình Nhân Tôi (nhạc)
- Khúc Tình Ca Xanh (nhạc)
- Sao Em Biết Mùa Thu Không Trở Lại (nhạc)
- Ngõ Yêu (nhạc)
Ngoảnh lại chút quá khứ, thời gian trôi nồi lãng du của tuổi
trẻ, những khinh khoái tang bồng trong từng bước lăng ba vi bộ trên khu vườn đa
sắc nghệ thuật, thật tình tôi cũng không thể giải thích được vài sự thân quen
tri kỷ của bằng hữu văn nghệ thời xa xưa… Cái hay của bạn bè văn nghệ miền Nam,
nhiều lúc ngẫm nghĩ như những cuộc tương phùng của bức tranh vân cẩu, hợp lại một
cách tình cờ phù ảo, rồi tan đi như những áng mây tụ tán vô thường. Nhưng khác
với thế thường nặng nề nghiệp chướng, người dấn thân vào định kiếp văn chương lại
trồng đầy trong thế giới hóa sinh riêng mình, những búp sen đầy rẫy ân tình và
tài hoa, bất chợt nhặt được vô tình trên bước đường chợt bước qua. Cảm ngộ tài
năng của nhau, thường không cần quen mặt bắt tay, nhưng những câu thơ, âm ba lời
nhạc, những nét phiêu lưu thần khí trên những họa phẩm hay tác phẩm điêu khắc… đã
làm chấn động tâm thức giao cảm, rồi mặc nhiên như mối thân quen tiền kiếp vọng
về.
Gần nửa thế kỷ trước, hầu hết bóng dáng phiêu bồng của bằng hữu
ngất ngưởng trên không gian văn nghệ thời bấy giờ, đều căng đầy sức sống của lứa
tuổi đôi mươi. Khoảng tuổi thanh xuân tràn ngập hỏa khí, dương tính trong cuộc
đời cũng như sáng tác. Mỗi văn nghệ sĩ bộc phát tài hoa như những biến hóa đa dạng
trong khung trời sáng hóa, mỗi một tiểu vũ trụ đầy ấp thanh khí tiêu dao. Nhìn
quanh, phong thái văn nghệ miền Nam nở rộ trăm hoa hương sắc, mỗi tay bút như
đã vạch riêng cho mình và cho văn nghệ một tiểu vũ trụ sáng hóa kỳ diệu. Đến
nay, không khí lãng bạt xa xưa đã định hình không thể chối cải dược, về một lớp
người sáng tạo dòng văn chương Việt, đáng hãnh diện cùng văn chương nước ngoài.
Lớp văn nghệ sĩ đó, giờ trải cuộc đời lưu lạc hiện diện khắp cùng thế giới, trải
rộng tinh hoa sáng tạo rực rỡ khắp hành tinh nầy… Lớp tuổi Cung Tích Biền, Viên
Linh, Trần Tuấn Kiệt, Phan Bá Thùy Dương, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Tất Nhiên, Lâm
Chương, Trần Hoài Thư, Phạm Nhã Dự, Nguyễn Cát Đông, Trần Yên Thảo, Nguyễn Tôn
Nhan, Lâm Hảo Dũng, Hoài Ziang Duy, Nghiêu Minh… thật sự đóng góp rất nhiều trí
tuệ và hóa thân cùng cực trong văn nghệ bên cạnh cuộc sống đầy cuồng rối hôm
nay.
Thập niên 60-70 thế kỷ qua, nhìn lại như bèo trôi gió dạt vẫn
loáng thoáng trong trí nhớ nhiều hình ảnh kỳ diệu của bạn bè văn nghệ. Ngoài những
thâm tình đã có với bao la bằng hữu, tôi đến với Nghiêu Minh cũng bằng một sự
tình cờ như định nghiệp sắp đặt. Trưa một ngày cuối đông năm 1973, nhà thơ
Trăng Thệ Hải (Vũ Đình Trường) phiêu hốt qua tệ xá, trên tay khệ nệ một cặp táp
căng phòng, chắc có lẽ đầy rẫy tài liệu, giấy tờ gì đây. Trăng Thệ Hải thưởng
ngao du đây đó, thình thoảng tạt qua thư trang loáng thoáng vài thời khắc thăm
viếng nhau rồi lại tách bước biền biệt như cơn gió chợt thoảng. Trà nước đãi bạn
để kéo dài câu chuyện tham thảo cùng nhau như Trăng Thệ Hải đề nghị, tôi ngờ ngợ
chuyện văn chương, nên sẵn sàng trong thư giản. Trăng Thệ Hải với tên cúng cơm
thường gọi giữa anh em văn nghệ đồng song với nhau là Thành nhà báo, vì tài bay
nhảy kinh doanh, tổ chức xuất bản tạp san văn nghệ quảng cáo, hoặc những đêm
thơ trình diễn tại nhiều tụ điểm như Hầm Gió, Phấn Thông Vàng v.v...
Khệ nệ xấp xếp lên bàn giấy, một bên là bản thảo bài vở bạn bè văn nghệ thời vàng son, một bên là một xấp biên lai quảng cáo của các nhà tài trợ, Trăng Thệ Hải vào chuyện đang làm tờ báo xuân với tham gia nhiều tên tuổi như Phạm Nhã Dự, Hà Thúc Sinh, Lâm Chương, Nguyễn Lê La Sơn, Thụy Miên, Yên Bằng, Nghiêu Minh… Ngoài việc mời tôi cộng tác, Trăng Thệ Hài chuyển đọc các tác phẩm anh em có mặt trong tờ báo. Phần đông, ngoài bao dàn các tin thời sự, sớ táo quân, chuyện văn nghệ, ca sĩ thời thượng của tay bút Trăng Thệ Hải, tác phẩm bằng hữu góp mặt là những bài thơ tâm đắc, sở trường của các văn gia thi sĩ. Chính vậy, cầm bản thảo tò mò đọc, cái chú ý trước tiên trước mênh mông thơ phú, câu đối, tranh biếm họa… là một kịch truyện Mùa Xuân Hoa Giấy và một đoạn nhạc đệm cho bài kịch nói cùng tên Mùa Xuân Hoa Giấy, được giới thiệu rút từ bài Tóc Mây, trong tập Mười Thể Phách Cho Tình Yêu, của tác giả Nghiêu Minh. Thời mà những kịch thơ của Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng là những bóng mát cho cuộc trình diễn thơ nhạc sân khấu. Hay những vở kịch nói bác học kinh điển của Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng ít nhiều ghi lại trong tâm thức người đồng điệu. Dù vậy, cũng còn rất ít người tâm huyết thưởng ngoạn hình thể kịch sân khấu như vậy. Có lẽ, tôi cũng là một kẻ thưởng ngoạn lạc loài trên bước đường soi ngắm những khuynh hướng truyện kịch, nên tò mò nêu những điều chưa biết về nhà văn nhạc sĩ Nghiêu Minh. Trăng Thệ Hải chỉ cười nói, Nghiêu Minh là bạn thân mười tám thôn vườn trầu của Phạm Nhã Dự, hôm nào phiêu bạt về Bà Điểm chắc chắn sẽ tương ngộ, lo gì.
Khệ nệ xấp xếp lên bàn giấy, một bên là bản thảo bài vở bạn bè văn nghệ thời vàng son, một bên là một xấp biên lai quảng cáo của các nhà tài trợ, Trăng Thệ Hải vào chuyện đang làm tờ báo xuân với tham gia nhiều tên tuổi như Phạm Nhã Dự, Hà Thúc Sinh, Lâm Chương, Nguyễn Lê La Sơn, Thụy Miên, Yên Bằng, Nghiêu Minh… Ngoài việc mời tôi cộng tác, Trăng Thệ Hài chuyển đọc các tác phẩm anh em có mặt trong tờ báo. Phần đông, ngoài bao dàn các tin thời sự, sớ táo quân, chuyện văn nghệ, ca sĩ thời thượng của tay bút Trăng Thệ Hải, tác phẩm bằng hữu góp mặt là những bài thơ tâm đắc, sở trường của các văn gia thi sĩ. Chính vậy, cầm bản thảo tò mò đọc, cái chú ý trước tiên trước mênh mông thơ phú, câu đối, tranh biếm họa… là một kịch truyện Mùa Xuân Hoa Giấy và một đoạn nhạc đệm cho bài kịch nói cùng tên Mùa Xuân Hoa Giấy, được giới thiệu rút từ bài Tóc Mây, trong tập Mười Thể Phách Cho Tình Yêu, của tác giả Nghiêu Minh. Thời mà những kịch thơ của Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng là những bóng mát cho cuộc trình diễn thơ nhạc sân khấu. Hay những vở kịch nói bác học kinh điển của Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng ít nhiều ghi lại trong tâm thức người đồng điệu. Dù vậy, cũng còn rất ít người tâm huyết thưởng ngoạn hình thể kịch sân khấu như vậy. Có lẽ, tôi cũng là một kẻ thưởng ngoạn lạc loài trên bước đường soi ngắm những khuynh hướng truyện kịch, nên tò mò nêu những điều chưa biết về nhà văn nhạc sĩ Nghiêu Minh. Trăng Thệ Hải chỉ cười nói, Nghiêu Minh là bạn thân mười tám thôn vườn trầu của Phạm Nhã Dự, hôm nào phiêu bạt về Bà Điểm chắc chắn sẽ tương ngộ, lo gì.
Nói thì dễ như trở bàn tay, nhưng năm này tháng nọ trải dài
trên cuộc biến đổi tang thương của đất nước, sự tao ngộ lại là sự thách đố
không có đoạn kết, vì chân trời góc biển vẫn là rào cản hữu vi, tâm thức chưa
vượt qua được. Đoạn đường tri ngộ vẫn lạc loài trong vô thức, đến ngày Phạm Nhã
Dự, Nguyễn Lê La Sơn định cư tại Mỹ, tin bỗng bay về, anh em hội tụ nhắc nhở
tên nhau qua đường giây nói liên lục địa. Phạm Nhã Dự phấn khởi thông báo, “anh
em đông đủ cả trên bàn rượu tương phùng, ông nói với từng anh em nhé. Nghiêu
Minh, Lâm Chương, Nguyễn Lê La Sơn, Hà Thúc Sinh, Trần Kiêu Bạt, Phạm Nhã Dự”…. Đêm
hôm tương ngộ, bên nầy trời đại dương tôi đang ngồi đối ẩm với Dương Trữ La,
Nguyễn Tôn Nhan, Nguyễn Phan Thịnh…. dưới bóng cây lão mai trước sân Thư trang
Quang Hạnh. Anh em văn nghệ hai đầu nỗi nhớ tràn đầy, đối thoại như pháo xuân
nở rộ. Buổi kỳ ngộ bỗng nhiên lại là bước nối kết chặc chẽ, trong đó khoảng thời
gian dài tận giờ Nghiêu Minh thường xuyên gởi những tác phẩm tâm huyết về tặng
bằng hữu. Từng đĩa CD, từng ấn phẩm Thơ nhạc, là những hạnh ngộ đầy tương giao
và phiêu lãng của những kẻ làm văn nghệ, với tâm thông, hiền triết, trao nhau
như trao gươm báu và ấn tín.
Nghiêu Minh bước nhẹ hững như cơn gió lướt phù ảo trên dặm
trường. Chính vậy, sáng tác của Nghiêu Minh vẫn tràn đầy cái chân, trong sáng,
hành đạo như một tăng lữ trải rộng vô ưu chiếc bóng phù ảo trên suốt đoạn đường
nhập thể với thi ca, với âm nhạc, với hội họa…Bên cạnh nghệ sĩ, hình như cũng
có nhiều ành tượng thần vĩ của bạn bè luôn luôn sát cánh với Nghiêu Minh trên lộ
trình hóa thân nghệ thuật… Những bằng hữu thơ văn, hội họa, âm nhạc, điêu khắc…
như Hoài Ziang Duy, Phạm Nhã Dự, Kinh Dương Vương, Trương Thành Vân, Hà Thúc
Sinh, là những tinh quang lấp lánh bên nếp sống chân tình đầy tính đạo pháp và
nghệ sĩ.
Đến nay, Nghiêu Minh đang phiêu bồng trong vài mươi tác phẩm
khai hóa trong một chân tâm hạnh ngộ với tình mẹ, quê hương, tình yêu và chánh
pháp…Sự chân thật, giản dị trong tác phẩm bao giờ cũng là nét chánh, được phát
khởi từ một sự chân thật. Tác phẩm phát khởi trong yếu chỉ trực diện với tâm thức,
nên sự trong sáng là nét rực rỡ trong từng câu thơ, từng giai điệu âm nhạc. Hôm
ngồi nghe lại từng CD nhạc, đọc lại những thi phẩm của Nghiêu Minh, tôi chợt thấy
rõ nét hơn tài hoa hồn hậu của bạn hiền. Lúc nào cũng vậy, Nghiêu Minh luôn
khoác trên hình thể chiếc áo đầy đặn chân thành, thơ nhạc thể hiện rõ rệt chân
hướng mà hiền giả hướng tới suốt cuộc đời. Những chân chất phát tiết một cách tự
nhiên, không ràng buộc ngã chấp, dù anh đang nghiêng ngã trước những xúc cảm từng
phen lưu trú trong hồn. Thi phẩm Mẹ Thường Hằng, khiến tôi trào dâng nhiều cơn
uất nghẹn, như những sự liên tưởng kỳ diệu mà suốt một đời người, cái đạo vẫn
như vầng trăng không bao giờ khuyết, kinh thiên động địa vẫn âm thầm chiếu sáng
rực rỡ giữa vũ trụ ta bà. Lâm Hảo Dũng trong bài thơ Còn Không Ngày Về, đã làm
tôi nghẹn ngào những lần đọc lại:
Mẹ có mắt sầu cao chất ngất
Nên hồn con lạnh lẽo đến bao giờ
Nhà chắc dột bởi từ khi vắng mặt
Những thằng con đủ cánh để bay xa
Và dòng sông thương những hàng rơm mục
Những hàng cau buồn chết được lòng con
Thuở mẹ già biết cau còn kết trái
Biết con còn thấy mẹ lúc hoàng hôn
Như lũ sáo vu vơ ngoài dậu cũ
Mắt đăm chiêu ngày nắng mới chang chang
Mẹ vẫn cứ mồ hôi trên áo vá
Đắp vồng khoai liếp cải nghĩ mênh mang
Bom đạn chắc không còn ru mẹ ngủ
Và đàn em dăm đứa nhởn nhơ cười
Mắt có xa cho một lần thương nhớ
Hình bóng con vời vợi cuối chân trời.
Thi phẩm Mẹ Thường Hằng của nhà thơ nhạc sĩ Nghiêu Minh là một
thi tập trang trọng gói ghém 10 bài thơ dâng trọn vẹn cho Mẹ hiền trong đạo làm
người, khiến người đọc cảm thông “với tấm lòng chân chất, mộc mạc, những cảm
xúc bình dị của một người con nói về Mẹ (Hoài Ziang Duy/ Nghiêu Minh, Người
gieo hạt)”. Và nhà văn Trần Hoài Thư, xúc cảm qua một bài thơ, phát biểu: “Anh Nghiêu Minh. Thơ về má của anh làm tôi muốn rưng nước mắt đây. Người
má qua thơ anh giản dị quá, chung thủy quá, từ bi, từ lượng quá. Đâu cần phải
trăm suối nghìn sông hay biển Thái Bình chảy thành ân lượng. Đâu cần phải bông hồng
cài áo. Bởi những lá trầu xanh kia trải xanh thảm lòng người. Bởi mùi đất thở
kia đã thở quyện vào tình người.Bởi từng chiếc nấm tràm từ quê nhà gởi sang là
tình mẹ bất diệt để đứa con xa cố hương phải bồi hồi…” Thi phẩm Mẹ Thường
Hằng cũng đã bật lên những tán thán vô lượng về hình ảnh thái sơn suối nguồn vô
cùng vi diệu, trăm biển ngàn sông vẫn là sự so sánh hữu hình chật hẹp quanh tri
thức con người. Nghiêu Minh phụng hiến từ thi tập thành 7 ca khúc nhạc Mẹ Thường
Hằng: Mẹ Từ Bi Mẹ Như Đóa Sen Nghèo Mẹ Là Nguồn Ân Bao La Mẹ Cội Nguồn Mẹ Tôi
Và Giàn Hoa Thiên Lý Mẹ Về Chân Trời Thật Xa Rồi Mẹ Như Cánh Hạc Bay. 7 ca khúc
được kinh tụng qua tiếng hát các ca sĩ Hồng Ngọc, Nhất Sinh, Thùy Dương, Tam Ca
Hải Âu, Khắc Dũng, Bích Phượng. Quỳnh Lan… Quả thật, Nghiêu Minh đi vào nghệ thuật
bằng chất đạo, chất người… đầy vẻ tiêu dao phóng đạt của một sự trong xanh chân
thiện mỹ. Cảm ngộ tâm thức chân như của nhà thơ, trước những giá trị bất biến
uyên nguyên trời đất, người đọc có hạnh phúc mênh mang gì không khi chiêm ngưỡng
hồn thơ?:
Mùa xuân nào con sẽ về thăm má
(Như mỗi hoàng hôn chim về tổ xưa)
Mười tám năm tưởng đường dài hóa đá
Mừng má còn đây, con khóc như mưa!
Phút đầu tiên con đứng hoài trước cổng
Để nôn nao nghe nhịp chổi bình minh
Sương còn lạnh, má gom từng lá mận
Quanh lửa hồng, má thanh thoát lung linh
Nầy sân cát, hàng cau chim ríu rít
Như thấy con, người bạn cũ năm nào
Con gọi má… rồi, lời không thành tiếng
Hai má con cùng dòng lệ tuôn trào!…
Con đứng trước bàn thờ Ba khấn vái
Thương má gian nan may vá tảo tần
Ba mất, má chưa tròn ba mươi bảy
Giờ nhớ lại càng thương má vô ngần
Đường có dài, đại dương có rộng
Trong âm dương con thấy ba về
Hình ảnh má là chùm mây sống
Bay quanh con vẽ một trời quê
Nghiêu Minh bước đoạn đường dài phiêu lãng, nhưng gói hành
trang nghệ thuật của anh bao giờ cũng đượm đầy nét chánh khí. Chính sự chân thật
trong sáng tạo, nhiều khi tác phẩm có vẻ bình dị, đi xuôi vào lòng người đọc bằng
những nét chấm phá cổ phong. Từ hai thi tập vương vải nhiều tình khúc như Trăng
Mật (1992), Dấu Xưa (2002)… chuyện đời nhiều khi cũng là sự ráp nối từ nhiều đoạn
đường, tăng trưởng theo thiện duyên hay ác nghiệp, mà đúc kết theo nghiệp quả.
Nhà thơ nhạc sĩ Nghiêu Minh dàn trải tâm thiện trong tư tưởng, lối sống, và
trên hành trình văn học… Phải chăng là bước phiêu du sáng hóa tạo cho riêng cho
mình một khuynh hướng ước lệ trong nghệ thuật. Tôi từng biết Nghiêu Minh có nhiều
phen ngã bóng phiêu hốt trong những cơn khát vọng tìm tòi cái chân trong sáng tạo.
Đuổi bóng khi bình minh, theo bóng giữa ngọ, và nhặt bóng khi hoàng hôn rụng xuống,
Nghiêu Minh đóng vai hành giả cất bước dong ruỗi với kinh phúc âm trên vai, chợt
ẩn chợt hiện tìm phục sinh trên đoạn đường núi Sọ… Quang quả hành trình bất chợt
trong kiếp phù sinh, mọi ảnh tượng và lời rao giảng, cũng chỉ là đoạn đường ước
lệ, sự tăng trưởng trong tình yêu hóa giải chưa hết tâm khúc vô thường. Chàng
nghệ sĩ lại quầy quã đáo bỉ ngạn, áo vàng bình bát tìm bờ, sự vượt thoát qua
cơn mê nghệ thuật bằng những cơn thiền ngộ trong bất kỳ cõi hiện thực nào vừa
bước qua. Nghiêu Minh trong Thiền Minh Sát là một hình ảnh dễ thương, gần gũi,
bình dân… dù anh chỉ Thiền ngộ riêng cho mình (nguyên thủy). Phải chăng phương
cách mới cho thêm một quan niệm nghệ thuật, là cách khơi dựng thiện quả, thế tục
bớt đi một nghiệp chướng...
Cuộc phiêu hốt tang bồng trong khung trời nghệ thuật, của một
tài hoa lãng tử nầy vẫn còn phiêu bạt hành trình trong cuộc sáng hóa nghệ thuật
vô lượng vậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét