Lại
Nguyên Ân và Alec Holcombe -
Con tim và lý trí của thi sĩ Xuân Diệu:
giai đoạn 1954 - 1958 (P.1)
Con tim và lý trí của thi sĩ Xuân Diệu:
giai đoạn 1954 - 1958 (P.1)
Trong giai đoạn 1954-1958, Đảng Lao động Việt Nam, sau nhiều
đợt giằng co tiến thoái, đã áp đặt được sự kiểm soát trên tất cả các lĩnh vực của
hoạt động thông tin văn hóa và học thức của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đối
với nhiều nhà trí thức cách mạng, tình trạng mất tự chủ về chuyên môn là một điều
thất vọng đến bất ngờ. Họ từng nghĩ rằng những cống hiến trong kháng chiến chống
Pháp (Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất - 1946-1954) và kết quả thắng lợi của
cuộc kháng chiến là đủ chứng minh cho sự trung thành của mình với cách mạng. Họ
cảm thấy như vậy là đương nhiên sẽ có thêm không gian riêng trong lĩnh vực
chuyên môn, vốn nằm trong tầm kiểm soát chặt chẽ của đảng suốt tám năm kháng
chiến.[1] Nhưng giới
lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam lại nghĩ khác. Giai đoạn bốn năm sau khi chiến
tranh kết thúc là thời gian giải quyết những khác biệt về quan điểm nói trên, đồng
thời đặt ra những quy định thiết yếu cho đời sống trí thức của nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, đa phần vẫn còn được bảo lưu cho đến tận hôm nay. Chính ở
giai đoạn ngắn ngủi này, tầng lớp trí thức của chế độ đã chứng kiến những đổi
thay bất ngờ, những lật lọng khó đoán, và không ít người trong số họ đã tự mình
trải nghiệm những xử lý khiến số phận họ hoàn toàn thay đổi.
Câu chuyện về những người trong hàng ngũ trí thức đã phản
kháng quyết liệt nhất trước sự áp đặt và kiểm soát của giới lãnh đạo đảng - gồm
những nhà văn, nhà thơ, họa sĩ và học giả gắn liền với phong trào Nhân văn -
Giai phẩm - là một trong những lĩnh vực được để ý nhiều nhất trong lịch sử Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa.[2] Phong
trào được đặt tên theo hai ấn phẩm do các nhà trí thức cách mạng bất mãn xuất bản
vào năm 1956 - báo Nhân văn và các tuyển tập mang tên Giai phẩm,
đã thu hút được sự chú ý của giới học giả trong nhiều thập kỷ chủ yếu vì nó được
đánh giá là một trong những khoảng mở hiếm hoi để tìm hiểu về mức độ đắc nhân
tâm của chủ nghĩa cộng sản ở miền Bắc Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu thấy bất
ngờ về mức độ đa dạng và thẳng thắn của những ý kiến và yêu cầu của năm mươi bảy
nhà trí thức từng tham gia trực tiếp vào Nhân văn - Giai phẩm đã bày tỏ với chế
độ Mác xít Lê nin nít và đã thu hút được sự đồng tình của số đông quần chúng.[3]. Gộp chung những đề tài
nghiên cứu hiện có về phong trào này, ta sẽ có được một bộ chân dung rất phong
phú về những nhân vật trụ cột. Điều này được thực hiện một phần là nhờ những học
giả phương Tây đã phỏng vấn được những thành viên của Nhân văn - Giai phẩm đang
còn sống, sau khi các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam thi hành chính sách Đổi mới
vào năm 1986.[4]. Một yếu tố
khác nữa là, cùng với thời gian, các học giả nghiên cứu về phong trào đã cân bằng
trở lại, thoát khỏi ảnh hưởng của chính trị cực đoan thời Chiến tranh Lạnh,
cũng như tư tưởng lạc quan tếu thời Đổi mới gần đây.
Tuy vậy, chân dung những trí thức nồng cốt, những người đã trợ
giúp lãnh đạo đảng đàn áp, thanh lọc và trừng phạt những thành phần tham gia
Nhân văn - Giai phẩm vẫn gần như giữ nguyên hình dạng đơn sắc, đơn tuyến và thậm
xưng theo kiểu biếm họa so với những nghiên cứu của thời kỳ trước. Trong thực tế,
nhiều nhà trí thức nòng cốt này tiếp tục có một sự nghiệp gây ảnh hưởng lớn
trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thậm chí sau khi nhà nước này được hóa
thân thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.[5] Thực ra, dấu ấn của
những người này trên đời sống trí thức của Việt Nam còn sâu đậm hơn rất nhiều
so với những nhân vật cải cách kém may mắn của phong trào Nhân văn – Giai phẩm.
Bài luận này là một cố gắng giải quyết sự thiếu hụt thông tin nói trên, và chuyển
hướng tiêu điểm của sự chú ý từ những ngôi sao của phong trào Nhân văn – Giai
phẩm sang một trong những người bảo vệ quan điểm chính thống của đảng, đó là nhà
thơ nổi tiếng, người đã cải hóa thành nhà thơ cách mạng theo chủ nghĩa Mác-Lê
nin từ một quá khứ từng là thi sĩ lãng mạn vĩ đại, Xuân Diệu (1916-1985). Bản
chất mối quan hệ của nhà thơ với Đảng Lao động Việt Nam là gì, và vì sao ông lại
quyết định đả kích trực diện những nhà trí thức đã lên tiếng yêu cầu lãnh
đạo đảng thực thi cải cách vào cuối năm 1956?
Vào những năm cuối thập niên 1950 và đầu 1960, học giả Sài
Gòn Hoàng Văn Chí, một người gốc Bắc di cư và cựu thành viên của Việt Minh, lập
luận rằng Xuân Diệu chỉ đơn thuần là một công chức làm việc cho Đảng Lao động
Việt Nam như ông đã từng làm (nhân viên hải quan) cho Pháp thời thuộc địa.[6] Chịu ảnh hưởng của tác phẩm Giai cấp mới:
Phân tích về Thế giới Cộng sản của Milovan Djilas xuất bản năm 1957, Hoàng
Văn Chí cho rằng những trí thức nòng cốt như Xuân Diệu không phải là những tín
đồ thật sự của chủ nghĩa Mác-Lê mà chỉ là những kẻ cơ hội chủ nghĩa có tham vọng
chính trị, đàn áp Nhân văn – Giai phẩm để bảo vệ quyền lợi giai cấp của mình.
Theo cách diễn giải này, Nhân văn – Giai phẩm là một phong trào yêu nước gồm những
nhà trí thức đủ mọi tầng lớp đấu tranh chống lại sự “áp bức trí thức” mà giới
tinh hoa văn hóa được chế độ sủng ái đang áp đặt lên họ. Hoàng Văn Chí nhìn nhận
giới tinh hoa văn hóa này như một “giai cấp mới”, chung một bản chất ích kỷ và
là những tay sai tận tụy của lãnh đạo đảng.[7]
Năm 1990, một học giả người Pháp, cựu đảng viên cộng sản tên
là Georges Boudarel, người đã từng tham gia Việt Minh trong cuộc Chiến tranh
Đông dương lần thứ nhất và sống tại Hà Nội từ năm 1954 đến tận năm 1964, xuất bản
cuốn sách mở đầu cho dòng nghiên cứu về các trí thức đối kháng của Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa nhan đề Trăm Hoa Vẫn Nở Giữa Đêm Việt Nam: Chủ nghĩa Cộng sản
và Bất đồng Chính kiến, 1954-1964 (Cent fleurs ecloses dán la nuit du
Vietnam: communism et dissidence 1954-1964). Nếu như lập luận của Hoàng Văn Chí
gần giống với của Djilas trong Giai cấp mới, thì tác phẩm của Boudarel có
thể được coi như phiên bản Việt Nam của tác phẩm Cuộc Cách mạng bị phản bội của
Leon Trotsky.[8] Học
giả người Pháp này cho rằng các trí thức của phong trào Nhân văn – Giai phẩm
chia sẻ sự tương đồng quan điểm ở chỗ cùng ghét cay ghét đắng một quan chức Văn
nghệ kiểu Stalin: Tố Hữu, cùng phản đối chủ nghĩa Mao-ít, và cùng mong muốn chế
độ mà họ đang phục vụ thực hiện những cam kết chính trị mang tính nhân văn (nhất
là tự do ngôn luận).[9] Tuy
nhiên, những vấn đề cốt lõi này, cũng như những điểm tương đồng khác như sự bất
bình vì chứng kiến sự suy đồi văn hóa chính trị đang diễn ra xung quanh, và
lòng căm ghét thường trực đối với chế độ Sài Gòn được Mỹ bảo trợ đã không đưa họ
đến một sự thống nhất về một chương trình chính trị chung.[10] Về động cơ của Xuân
Diệu khi tham gia đàn áp Nhân văn – Giai phẩm, Boudarel chỉ nêu ra một lý do là
nhà thơ “thân cận với giới lãnh đạo đảng”.[11]
Ba năm sau, vào năm 1993, nhà lịch sử văn hóa Neil Jameison
cũng đưa ra quan điểm riêng về vấn đề này, và lập luận trong cuốn sách Tìm
hiểu Việt Nam rằng Xuân Diệu cũng như những trí thức cực tả khác của Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa có động cơ là niềm tin trung kiên vào chủ nghĩa Mác-Lê:
“Có lẽ Xuân Diệu là người nhiệt tình nhất trong số các nhà
văn, nhà thơ tham gia Kháng chiến. Ông không còn bấu víu lấy cuộc đời bằng những
móng tay và đối mặt với biên giới băng giá của chủ nghĩa hư vô nữa. Dưới ảnh hưởng
của người bạn thân Huy Cận, Xuân Diệu đã trở thành một cảm tình viên nhiệt
thành và được kết nạp Đảng vào năm 1947.[12] Sự nổi tiếng và tài
thơ của ông là một đóng góp giá trị đối với Việt Minh. Để bù lại cho thành phần
gia đình tư sản và quá khứ là thi sĩ lãng mạn nhất, Âu hóa nhất và riêng tư nhất
trong văn giới Việt Nam, Xuân Diệu trở thành người cực đoan nhất trong giới văn
nghệ cộng sản mới. Ông là người ca ngợi “Bác Hồ” và “Đảng” nhiệt tình hơn ai hết:
Mỗi lần tranh đấu gay go
Chúng con lại được Bác Hồ tới thăm
Nghe lời Bác dạy khuyên răn
Chúng con ước muốn theo chân của người…
Chúng con thề nguyện một lời
Quyết tâm thành khẩn lột người từ đây.
Chúng con lại được Bác Hồ tới thăm
Nghe lời Bác dạy khuyên răn
Chúng con ước muốn theo chân của người…
Chúng con thề nguyện một lời
Quyết tâm thành khẩn lột người từ đây.
Qua cụm từ “lột người từ đây”, Xuân Diệu muốn thể hiện chính
xác, không thừa, không thiếu, sự tái sinh dưới một diện mạo mới. Đây là sự thể
hiện nguyện ước được “tái sinh” dưới chủ nghĩa cộng sản… Đây là lời thỉnh cầu
được thay đổi bản ngã tương tự như việc cải đạo, một trải nghiệm tôn giáo, một
sự lột xác hoàn toàn. Cả Lưu Trọng Lư và Xuân Diệu đã tìm được ý nghĩa mới và mục
đích mới của cuộc đời, cùng thay đổi cá tính cũ của mình.[13]
Trong phần sau của cuốn sách, Jamieson lập luận rằng đối với
Xuân Diệu cũng như các nhà thơ cách mạng khác, “kỷ luật của đảng cộng với tư
cách thành viên trong một nhóm xã hội khép kín, có tính tổ chức cao đã khiến họ
trút bỏ được gánh nặng của chủ nghĩa cá nhân và cho họ một diện mạo mới đắc ý
hơn.”[14] Chính vì lý
do đó, Jamieson cho rằng quyết định của Xuân Diệu tham gia ném đá Nhân văn –
Giai phẩm xuất phát từ lòng tin cuồng nhiệt vào lý tưởng chung theo thuyết giáo
của Đảng Lao động Việt Nam. Trong số các nghiên cứu về Xuân Diệu, ý kiến của
Jamieson gần nhất với quan điểm chính thống, hiện vẫn được phổ biến ở trong nước
khi đánh giá về nhà thơ.
Nghiên cứu mới nhất về Nhân văn – Giai phẩm của Kim Ninh (2002)
và Heinz Schutte (2003) cũng có vẻ đồng điệu với quan điểm của Jamieson, coi
Xuân Diệu như một tín đồ thực thụ của chủ nghĩa Mác-Lê trong khi các thành viên
của Nhân văn – Giai phẩm có tính cách phức tạp, xuất phát từ sự đa dạng về cá
tính, nghề nghiệp và lập trường chính trị. Schutte, trong bài nghiên cứu quan
trọng về Nhân văn – Giai phẩm dưới lăng kính của Đại Sứ quán Đông Đức tại Hà Nội,
đã viết như sau:
“Những đại diện của (phong trào) Thơ mới của những năm đầu thập
kỷ 40 như Huy Cận (sinh năm 1920) và Xuân Diệu (1916-1985) – bị mất cảm hứng
lãng mạn, phải chịu đựng sự đau khổ khi phải rời bỏ chủ nghĩa cá nhân, đã được
Đảng, Việt Minh và cách mạng tái sinh, nên đã hòa nhập hoàn toàn vào tập thể
cách mạng. Nhưng không phải trí thức Việt Nam nào cũng vậy. [Những thành viên
phong trào Nhân văn – Giai phẩm như] (n)hà thơ Hoàng Cầm (sinh 1922), Trần Dần
(1924-1927), và Lê Đạt (sinh 1929) và các học giả như Phan Khôi (1887-1960),
Đào Duy Anh (1904-1988) và Trần Đức Thảo (1917-1993) chưa từng biến mình thành
“những cái máy chỉ biết phục tùng” của đảng, được nhồi sọ, và tiếp thu một chiều,
không phản biện với những khẩu hiệu thích hợp.”[15]
Như vậy, theo Schutte, Xuân Diệu đã “hòa nhập hoàn toàn” vào phong
trào cách mạng, để trở thành (chúng ta có thể suy luận) một “cái máy chỉ biết
phục tùng của đảng”, không phản biện suy tư về tư tưởng Mác-Lê của Đảng Lao động
Việt Nam.
Chúng tôi cố gắng nêu ra qua bài luận này rằng Xuân Diệu, khi
được nghiên cứu với phương pháp từng chỉ được dành riêng cho các thành viên của
Nhân văn – Giai phẩm, sẽ không còn là hình ảnh một chiều, đơn tuyến như giới học
giả thường mô tả ông. Thực chất, ông cũng có nhiều điểm giống với các thành
viên của phong trào Nhân văn – Giai phẩm mà ông từng giúp đảng đàn áp. Trước hết,
cũng như các tác giả nổi tiếng nhất của Nhân văn – Giai phẩm như Trần Dần, Lê Đạt
và Hoàng Cầm, ông cũng gặp rắc rối với giới lãnh đạo đảng về các vấn đề liên
quan đến đời sống tình cảm của mình.[16] Tuy nhiên, trong
trường hợp của Xuân Diệu, vấn đề không phải là thành phần giai cấp của người bạn
tình mình chọn, mà ở chỗ ông có nhiều bạn tình, tất cả đều là đàn
ông. Điểm thứ hai, và cũng là một trong những điều trớ trêu đáng ghi nhớ nhất của
giai đoạn này, Xuân Diệu chính là người, với vai trò thư ký toàn soạn của ấn phẩm
văn hóa quan trọng nhất của đảng, báo Văn nghệ, đã xuất bản những bài viết
đầu tiên của Hoàng Cầm và Lê Đạt trong nỗ lực xoay chuyển nền văn chương của Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa.[17] Vào
tháng Năm năm 1955, những nhà văn trẻ có can đảm phê bình ngay cả nhân vật quyền
lực nhất trong văn giới, Tố Hữu, có thể đã coi Xuân Diệu như một đồng minh. Điểm
thứ ba là, đối với phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa luôn gây
tranh cãi, Xuân Diệu công khai ca ngợi dòng văn học này và lớn tiếng chê bai những
tác phẩm lãng mạn cũ của mình, những sáng tác đã làm cho ông trở nên nổi tiếng.
Nhưng chỉ cần nghiên cứu sơ qua về những sáng tác cách mạng của Xuân Diệu, ta
cũng có thể nhận thấy những động thái cố gắng khai thác lại những đề tài và tiểu
tiết từ các tác phẩm lãng mạn của ông. Trên thực tế, ta có thể thấy Xuân Diệu
lưỡng lự không kém gì những thành viên của Nhân văn – Giai phẩm khi cân nhắc
giá trị nghệ thuật của các tác phẩm trước và sau cách mạng.
Để đánh giá lại quan điểm chung đã được đa số tán thành, coi
Xuân Diệu như một kẻ cuồng tín về tư tưởng cách mạng, có thể xem những lời bàn
khá căng thẳng về sự nghiệp cách mạng của Xuân Diệu xuất hiện trong các tờ báo
nhà nước và tư nhân hồi năm 1956, qua đó ta thấy nhiều đồng nghiệp đương thời
đánh giá những lập ngôn lạc quan của nhà thơ, tuyên ngôn rằng mình đã chuyển
hóa hoàn toàn từ chủ nghĩa lãng mạn cá nhân sang chủ nghĩa tập thể Mác-Lê, là
thiếu thuyết phục. Một nhà trí thức phê bình Xuân Diệu có “bệnh khoái cảm” –
khoái cảm bệnh hoạn khi tả về bạo lực chiến tranh trong thơ cách mạng, ngầm ám
chỉ rằng cảm hứng sáng tác của Xuân Diệu không phải bắt nguồn từ lý tưởng cách
mạng của chế độ.[18] Ba
nhà trí thức khác viết bài bật mí những thông tin tai tiếng về âm mưu lũng đoạn
tổ chức đảng từ hậu trường để mưu lợi riêng của nhà thơ, có ý chê Xuân Diệu là
một cán bộ thoái hóa, vẫn giữ nguyên thói ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa như mọi người
vẫn đánh giá trước khi nhà thơ tham gia cách mạng.[19] Vì sao sự nghiệp
cách mạng của Xuân Diệu lại gây nhiều tranh cãi đến vậy trong giới trí thức Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, và rốt cuộc, thái độ thực của nhà thơ đối với hệ tư tưởng
của chế độ là như thế nào?
Giai đoạn tiền cách mạng của Xuân Diệu
Một yếu tố quan trọng quyết định vị thế tương quan giữa cá
nhân Xuân Diệu và Đảng Lao động Việt Nam là sự nghiệp sáng tác trước cách mạng
của nhà thơ. Sinh năm 1916, ông sống với mẹ đẻ (là vợ hai của cha ông) suốt những
năm tháng thơ ấu ngay tại làng quê của bà gần kề thành phố cảng Quy Nhơn. Năm
ông mười một tuổi, cha ông (lúc đó đang dạy học) và mẹ kế quyết định đã đến lúc
cậu bé Xuân Diệu phải xa người mẹ đẻ, đến sống chung với họ tại thành phố Quy
Nhơn để bắt đầu theo học ở một trường tiểu học gần nhà. Sau đó, ông học tiếp
lên các cấp cao hơn và giành được văn bằng của hai trường thuộc địa danh tiếng
nhất, là trường Lyceé du Protectorat (thường gọi là trường Bưởi) và
trường Quốc học Huế.[20] Năm
ông 19 tuổi, tức là vào năm 1936, Xuân Diệu bắt đầu có thơ đăng trên các tờ báo
có liên quan mật thiết với nhóm Tự lực Văn đoàn và Phong trào Thơ mới – cả hai
đều chịu nhiều ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn Pháp và chủ nghĩa cá nhân Tây
Âu. Sự nghiệp của ông lên nhanh, và chẳng mấy chốc Xuân Diệu trở thành một
trong những tác giả quan trọng (nếu không muốn nói là quan trọng nhất) của
Phong trào Thơ mới. Tiếng tăm của Xuân Diệu cũng nổi nhanh như sức lan tỏa của
Thơ mới trong công chúng. Năm 1942, nhà phê bình văn học giai đoạn tiền chiến nổi
tiếng Hoài Thanh đã tả về nhà thơ trẻ Xuân Diệu trong tác phẩm có nhiều ảnh hưởng
của mình về các nhà thơ hiện đại Việt Nam, Thi nhân Việt Nam: 1932-1941 như
sau:
“Bây giờ khó mà nói dược cái ngạc nhiên của làng thơ Việt Nam
hồi Xuân Diệu đến. Người đã tới giữa chúng ta một y phục tối tân và chúng ta đã
rụt rè không muốn làm thân với con người có hình thức phương xa ấy. Nhưng rồi
ta cũng quen dần, vì ta thấy người cùng ta tình đồng hương vẫn nặng.
Ngày một ngày hai cơ hồ ta không còn để ý đến những lối dùng
chữ đặt câu quá Tây của Xuân Diệu, ta quên cả những ý tứ người đã mượn trong
thơ Pháp. Cái dáng dấp yêu kiều, cái cốt cách phong nhã của điệu thơ, một cái
gì rất Việt Nam, đã quyến rũ ta.”[21]
Hai tập thơ đầu tay của Xuân Diệu, Thơ thơ (1938)
và Gửi hương cho gió(1945) được người đương thời cho là kiệt tác. Các nhà
phê bình nhận thấy trong thơ ông có cảm nhận sâu sắc về tính phù du của thời
gian và sự mong manh của cuộc sống, và cả hai điều này đều làm gia tăng lòng
khát khao tuổi trẻ, mùa xuân và tình yêu toát ra từ những câu thơ của Xuân Diệu.[22] Danh tiếng của Xuân
Diệu khiến ông trở thành một đối tượng vô giá đối với các lãnh đạo cộng sản, những
người sau này sẽ thường xuyên yêu cầu ông trấn an dư luận về chính sách văn
hóa.
Ở Việt Nam, các nhà phê bình văn chương đã phong Xuân Diệu là
ông hoàng thơ tình, và trong những năm gần đây, họ còn bắt đầu công khai thừa
nhận rằng các bài thơ tình của ông được lấy cảm hứng chủ yếu từ các mối tình đồng
tính của nhà thơ.[23] Ngoại
trừ bài báo của Nguyễn Quốc Vinh về biến thái trong văn chương Việt Nam thời
thuộc địa, cho tới nay các học giả phương Tây thường tránh đề cập trực tiếp về
xu hướng luyến ái đồng tính của Xuân Diệu.[24] Hiển nhiên là họ
không muốn khai thác khía cạnh đời tư này của nhà thơ, nhưng mặt khác lại muốn
thể hiện là mình có biết về điều đó, nhất là với các độc giả có kiến thức, nên
các nhà nghiên cứu thường chọn cách giải quyết vấn đề như Kim Ninh đã áp dụng
trong cuốn sách xuất bản năm 2002 về Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của mình, Một
thế giới đã hoán cải. Bà viết, “Xuân Diệu, một ngôi sao sáng trong Phong trào
Thơ mới, có thể dẫn Verlain và Rimbeau một cách thoải mái, cảm thấy gần gũi với
những nhà thơ Pháp hiện đại này không kém gì các nhà thơ trẻ cùng thời ở
Paris”.[25]. Những người
quen thuộc với văn thơ lãng mạn Việt Nam có thể nhận ra ngay lập tức rằng tác
giả đang muốn liên hệ đến một bài thơ của Xuân Diệu trong đó đồng tính luyến ái
được thể hiện trực tiếp nhất, bài “Tình trai”, ca ngợi mối tình cháy bỏng giữa
hai nhà thơ thuộc trường phái Biểu tượng của Pháp, Paul Verlain và Arthur
Rimbaud:
Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine,
Hai chàng thi sĩ choáng hơi men,
Say thơ xa lạ, mê tình bạn,
Khinh rẽ khuôn mòn, bỏ lối quen.
Những bước song song xéo dặm trường
Đôi hồn tươi đậm ngát hoa hương,
Họ đi, tay yếu trong tay mạnh,
Nghe hát ân tình giữa gió sương.
Kể chi chuyện trước với ngày sau;
Quên ngó môi son với áo màu;
Thây kệ thiên đường và địa ngục!
Không hề mặc cả, họ yêu nhau.
Khi các lãnh đạo đảng kết nạp Xuân Diệu vào tổ chức công khai
Việt Minh, họ đã tiếp nhận một thanh niên đầy tài năng và sức thu hút, đồng thời
có lẽ cũng là nhân vật nổi tiếng có biểu hiện đồng tính lộ nhất ở Việt Nam tính
đến thời điểm đó. Dù so ra vẫn là quá kín đáo theo tiêu chuẩn hiện tại, những
bài thơ tiền chiến của Xuân Diệu có hàm chứa đề tài đồng tính, và rõ ràng là xu
hướng đồng tính luyến ái của Xuân Diệu không những là một nguồn cảm hứng quan
trọng đối với thơ ông, mà còn là một phần bản ngã của nhà thơ. Nhưng đương
nhiên Đảng Lao động Việt Nam không hề khuyến khích tự do luyến ái, đừng nói tới
chuyện luyến ái đồng tính. Để hai bên có thể hợp tác với nhau được, cần phải có
một số điều nhân nhượng.
Giai đoạn mới tham gia cách mạng
Thời điểm đầu tiên Xuân Diệu va chạm với chủ nghĩa cộng sản
có thể tính vào tháng Sáu năm 1942, khi tổng thư ký Đảng Cộng sản Đông Dương,
Trường Chinh sáng tác bài thơ “Là thi sĩ” đề tặng tất cả các nhà thơ Việt Nam,
có những dòng như sau:
Nếu “thi sĩ là ru với gió,
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”…
Nếu thi sĩ nghĩa là đem gấm vóc
Phủ lên trên xã hội đã điêu tàn,
Véo von ca cho át tiếng kêu than
Của nhân loại cần lao đang giãy giụa
Thì bạn hỡi, một nhà thơ như rứa
Được sáng tác trong lòng thành phố Hà Nội đang bị Nhật tạm
chiếm, bài thơ của Trường Chinh kêu gọi các Văn nghệ sĩ, bất kể theo hệ tư tưởng
hay trường phái nào, hãy trút bỏ những mối quan tâm cá nhân và tiếp nhận sự
nghiệp cách mạng của dân tộc. Đúng ra, Trường Chinh đã dẫn hai câu đầu tiên từ
bài thơ “Cảm xúc” của Xuân Diệu viết năm 1938 để làm lời mở đầu cho bài “Là thi
sĩ” của mình, dường như chính nhà thơ lãng mạn nổi tiếng đã tạo cảm hứng chủ đạo
cho sáng tác của ông tổng bí thư.[27] Hai năm sau, vào
năm 1944, Xuân Diệu bắt đầu mang văn tài của mình ra phục vụ cho Việt Minh – tổ
chức công khai của Đảng Cộng sản Đông dương.[28] Đối với nhà thơ,
cũng như một số trí thức khác đã nổi tiếng từ thời trước cách mạng, điều đó có
nghĩa là làm việc trong Hội Văn hóa Cứu quốc và tờ báo văn hóa cách mạng Tiên
Phong, được xuất bản ở Hà Nội trong thời kỳ Việt Minh nắm chính quyền, từ năm
1945 đến 1946. Với uy tín khá cao của Xuân Diệu, vừa là thi sĩ lãng mạn vừa có
kinh nghiệm làm việc với tờ báo được coi là hàng đầu trong giai đoạn tiền cách
mạng của nhóm Tự lực Văn đoàn, tờ Ngày Nay, việc ông được chọn làm thư ký
tòa soạn (tên gọi cũ cho vị trí tổng biên tập) không làm ai ngạc nhiên. Tới cuối
năm 1945, ông còn được chọn lựa để ra tranh cử vị trí đại biểu tỉnh Hải Dương
trong kỳ bầu cử sắp tới của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (tổ chức vào ngày 6 tháng
Giêng năm 1946). Đương nhiên, ông – cũng như những ứng cử viên được đảng chọn
khác, đã đắc cử trong kỳ bầu cử tại tỉnh và trở thành thành viên Quốc hội mới của
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[29] Vào
tháng Năm năm đó, Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng mời Xuân Diệu và một vài đại biểu
Quốc hội khác cùng đi trong đoàn ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tới
Fontainebleau để hội đàm với Pháp.
Khi những đoàn quân và xe tăng Pháp trở lại Hà Nội vào cuối
năm 1946 để tái thiết chế độ thực dân ở Đông Dương, các thành viên Việt Minh
đang làm việc ở thành phố phải tản cư ra vùng nông thôn. Đa số cán bộ Việt Minh
tản ra ba hướng Bắc, Tây và Nam của đồng bằng sông Hồng để tránh hướng tấn công
của Pháp từ Hải Phòng vào phía Đông Hà Nội. Đợt tiến công sau đó của quân Pháp
cắt ngang Hà Nội, tiến về hướng Tây đã khiến Xuân Diệu và các trí thức khác (một
số cùng đi với cả gia đình) phải liên tục di chuyển trong sáu tháng đầu của cuộc
chiến. Tới giữa năm 1947, cuối cùng Xuân Diệu và văn hữu đã tìm được nơi sơ tán
ở một ngôi làng nhỏ có tên là Gia Điền ở cực bắc tỉnh Phú Thọ. Ẩn giữa những
dãy đồi có nhiều cây cối rậm rạp, làng Gia Điền là nơi trú ẩn lý tưởng và không
bao lâu sau được chọn làm trụ sở cơ quan văn học kháng chiến.[30]
Tháng Ba năm 1948, Xuân Diệu cùng với các nhà văn khác ở Gia
Điền bắt đầu xuất bản tạp chí văn hóa mới lấy tên là Văn nghệ. Thực chất tạp
chí này chỉ là sự tiếp nối, cộng với sự thể hiện tư tưởng Mác-Lê công khai hơn
so với tờ Tiên Phong đang xuất bản ở Hà Nội trước khi Pháp quay lại.
Bốn tháng sau, tức là tháng Bảy năm 1948, Xuân Diệu cùng với vài chục nhà trí
thức cách mạng khác tham dự hai hội nghị quan trọng tổ chức tại Phú Thọ. Hội
nghị thứ nhất là Hội nghị Văn hóa Toàn quốc lần thứ hai (từ ngày 16 đến ngày 20
tháng Bảy năm 1948), với việc thành lập Hội Văn hóa Việt Nam, nhưng sự kiện nổi
tiếng nhất phải là bài diễn văn tại hội nghị này của Trường Chinh với nhan đề
“Chủ nghĩa Mác và vấn đề Văn hóa Việt Nam”. Trong suốt bốn thập niên sau đó,
lãnh đạo đảng luôn đề cao tác dụng của bài diễn văn như một định hướng lý thuyết
cho tất cả những người làm văn hóa. Ngày 23 tháng Bảy năm 1948, ba ngày sau khi
kết thúc Đại hội Văn hóa Toàn quốc lần II, một hội nghị nhỏ hơn – Hội nghị Văn
nghệ Toàn quốc, được tổ chức, dẫn đến sự ra đời của Hội Văn nghệ Việt Nam. Nhà
thơ trẻ Xuân Diệu, lúc đó mới 32 tuổi, chắc rất hài lòng khi được chọn vào cơ
quan điều hành quyền lực nhất của Hội, giữ ghế thành viên Ban thường vụ chỉ gồm
năm người.[31]
Năm sau, tức là năm 1949, lãnh đạo đảng quyết định dời trụ sở
cơ quan văn hóa về huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên ngay gần an toàn khu của
Trung ương Đảng đang đóng tại Định Hóa. Huyện Đại Từ – chỉ cách chỗ ở của các
nhà lãnh đạo như Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp vài
cây số về phía Nam, là nơi Xuân Diệu sinh sống trong suốt 5 năm cuối của cuộc
kháng chiến. Ngày 5 tháng Mười một năm 1949, Hồ Chí Minh ký văn bản thông báo rằng
tình hình mới – nhất là thắng lợi của Đảng Cộng sản Trung Quốc – cho phép thành
lập một đơn vị hành chính mới, trải rộng từ các tỉnh phía Bắc Hà Nội lên tới
biên giới Trung Quốc. Vùng này sẽ được gọi là “Liên khu Việt Bắc”. Với trụ sở
trung ương đảng đóng tại Thái Nguyên, đảm bảo đường kết nối với Trung Quốc –
nguồn tiếp liệu chiến tranh chủ yếu của Việt Minh, Việt Bắc thực sự là đầu não
của cuộc kháng chiến.[32]
Xuân Diệu được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam năm 1949,
khi ảnh hưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với cuộc kháng chiến của Việt
Minh đang tăng cao.[33] Mối
quan hệ này, cộng với sự kiện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Liên Xô và Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa chính thức công nhận về ngoại giao có vẻ đã khiến Hồ Chí
Minh và các lãnh đạo cao nhất của Đảng Lao động Việt Nam mạnh dạn hơn và công
khai thừa nhận tư tưởng Mác-Lê là nền tảng của đường lối lãnh đạo cách mạng. Kết
quả của sự chuyển hướng này là việc áp dụng biện pháp chỉnh huấn của Liên Xô và
Mao, một kỹ thuật cải tạo tư tưởng sử dụng “phê bình và tự phê bình” để chuẩn bị
tinh thần cho cán bộ chính trị và chiến sĩ trước những nhiệm vụ cách mạng khó
khăn.
Chính trong hai tối chỉnh huấn vào năm 1952, Xuân Diệu đã phải
trả giá cho thói lang chạ đồng tính của mình và mất chiếc ghế ủy viên Ban Thường
vụ Hội Văn nghệ. Nhà văn cách mạng Tô Hoài, một người tình của Xuân Diệu trong
nhiều năm, hồi tưởng lại những buổi tối đó như sau:
“Xuân Diệu chỉ ngồi khóc. Chẳng biết Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng,
Trọng Hứa, Nguyễn Văn Mãi, cả lão Hiến, thằng Nghiêm Bình, những thằng Đại, thằng
Đắc, Tô Sang và mấy thằng nữa, có ai ngủ với Xuân Diệu không, tất nhiên không
ai nói ra. Tôi cũng câm như hến. Lúc rồ lên, trong đêm tối quyết rũ, mình cũng
điên kia mà, chứ có phải một mình Xuân Diệu đâu. Không nói cụ thể việc ấy,
nhưng ai cũng to tiếng, to tiếng gay gắt, nghiêm trang phê phán “tư tưởng tư sản,
tư tưởng tư sản xấu xa phải chừa đi.” Xuân Diệu nức nở nói đấy là tình
trai của tôi… tình trai…” rồi nghẹn lời, nước mắt ứa ra, không hứa hẹn sửa chữa
gì cả.”[34]
Theo Tô Hoài, sau khi Xuân Diệu bị truất ghế ủy viên Ban Thường
vụ Hội Văn nghệ, “bỗng dưng, Xuân Diệu thành một người có thì giờ chỉ chuyên đi
và viết.[35]
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7 tháng Năm năm 1954, tiếp
theo là Hiệp định Geneva được ký kết hai tháng sau đó, chính xác là ngày 21
tháng Bảy năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc. Đối với Xuân Diệu và
các văn nghệ sĩ Việt minh khác, cùng với hầu hết các nhà lãnh đạo cách mạng ở
Liên khu Việt Bắc, đã đến lúc rời chiến khu để trở về Hà Nội trong vai người
chiến thắng – nhưng phải xuất bản nốt số cuối của tờ Văn nghệ đã.
Trong số tháng Mười này, Xuân Diệu đăng một lá thư gửi tất cả những nhà văn đã
quyết định ở lại Hà Nội trong thời gian Pháp tạm chiếm. Lá thư thể hiện phong
cách bút chiến đại ngôn lên gân mà Xuân Diệu thường sử dụng (phong cách này rõ
ràng đã góp phần tạo cho Xuân Diệu được tiếng là người có lập trường tư tưởng vững
vàng):
“Có những người vì hoàn cảnh nào đó mà làm cho địch, tiếng
hát đã bán cho đài phát thanh địch, mà tâm hồn chảy máu không thôi. Muốn vùi đầu
quên thân trong son phấn trăng hoa rượu tiệc, mà khuya về, tiếng nói của lương
tâm, tiếng nói của văn nghệ chân chính không để cho mình nhắm mắt. Ta có phải
là ta nữa không? Sao cổ họng, ngòi bút, tài năng của ta lại làm đồ dùng cho chiến
tranh và xâm lược? Những người đau khổ ấy vẫn là bạn, vì tâm hồn văn nghệ vẫn sống
dưới đáy lòng.”[36]
Dù văn nghệ sĩ Việt Nam bị chia cách bởi chiến tranh, và
trong nhiều trường hợp, bởi quan điểm chính trị trái ngược, nhưng tình cảm đồng
nghiệp giữa họ với nhau, có vẻ vẫn được duy trì, tuy có bị phai mòn. Nói cách
khác, những người đã từng làm việc cho Pháp hay chỉ đơn thuần đã không làm gì để
ủng hộ Việt Minh trong cuộc chiến cũng có thể tìm được cuộc sống mới dưới chế độ
cộng sản. Tuy nhiên, đi cùng với vòng nguyệt quế mừng chiến thắng là những yêu
cầu và điều kiện, mà Xuân Diệu đã giải thích với giọng thuyết giảng hùng biện đặc
trưng:
“Văn nghệ đã căm thù quyết liệt cái thòng lọng đế quốc hung
tàn. Quyết không một nét vẽ, một câu thơ, một bài văn, một tiếng đàn, một giọng
hát, một màn kịch, một điệu múa nào cho địch! Quyết không bao giờ đem bông hoa
sáng tạo vứt xuống bùn nhơ! Quyết không để cho cái tinh anh của con người mập mờ
với xâm lăng và ngu tối! Mà trái lại, từ đây hơn bao giờ hết rạch ròi ranh giới,
vạch rõ trắng đen giữa tà và chính, giữa giả và chân, giữa địch và TA! Đó là vấn
đề sống chết của những con người văn nghệ.”[37]
Để ghi nhận những cống hiến của Xuân Diệu với cách mạng trong
tám năm kháng chiến, lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam đã cấp cho ông và người bạn
suốt đời của ông, Huy Cận, một nhà thơ nổi tiếng đồng thời là quan chức văn hóa
cao cấp của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa một căn biệt thự Pháp rộng rãi trên phố Cột
Cờ (nay là đường Điện Biên Phủ). Bất động sản cao cấp này có thể được coi như một
tín hiệu của giới lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam rằng mọi nhu cầu vật chất của
Xuân Diệu sẽ được quan tâm thỏa đáng nếuông tiếp tục phục vụ sự nghiệp của
họ một cách trung thành. Về nhu cầu tình cảm và sinh lý của nhà thơ, lãnh đạo đảng
cũng cố gắng tạo điều kiện. Dù có quan điểm khắt khe và bảo thủ về hôn nhân và
tình dục, họ cũng sẵn lòng làm ngơ cho trường hợp của Xuân Diệu, cho phép ông
được sống chung một nhà với Huy Cận. Nhưng có lẽ đáng ghi nhận hơn là việc cả
hai nhà thơ đều sống chung nhà với bà Ngô Xuân Như, người em gái cùng cha khác
mẹ với Xuân Diệu và là vợ của Huy Cận. Cuộc hôn nhân của họ cho ra đời một người
con trai vào năm 1957 và chỉ kéo dài thêm vài năm sau đó, rồi hai người chia
tay. Huy Cận tái hôn năm 1964 và có thêm ba người con.[38]
Khi cuộc kháng chiến chống Pháp sắp kết thúc, Xuân Diệu cũng
đã thu xếp cho mẹ đẻ mình, lúc này đã già yếu, từ Quy Nhơn ra Hà Nội để tiện
chăm sóc. Em trai nhà thơ, ông Ngô Xuân Huy, quyết định ở lại miền Nam, nơi ông
hưởng một cuộc sống lặng lẽ với nghề viết văn độc lập dưới bút danh Tịnh Hà
không mấy nổi tiếng.[39]
Trong kế hoạch tiếp quản Hà Nội, lãnh đạo đảng quyết định
chuyển đổi tờ Văn nghệ từ một nguyệt san có phần thô sơ về hình thức phát
hành ở chiến khu, thành một tờ bán nguyệt san quy mô hơn – có thể sánh với các ấn
bản văn hóa, trí thức của Hà Nội thời Pháp tạm chiếm. Một thay đổi nữa là ban
điều hành tờ báo. Sau bốn năm để trống chức vụ thư ký toàn soạn chính thức của
tờ báo, các lãnh đạo văn hóa của chế độ mới quyết định phục hồi vị trí này.
Tương tự như trường hợp của tạp chí cách mạng xuất bản tại Hà Nội trước đây, tờ Tiên
Phong (1945-1946), chức vụ này rơi vào tay Xuân Diệu. Có thể họ đã tính
toán rằng, những nhà trí thức không theo cách mạng, nhiều người trong số đó
đang cân nhắc xem có nên di cư vào Nam không, sẽ thấy yên tâm hơn khi tên tuổi
nhà thơ lãng mạn nổi tiếng xuất hiện trên bìa ấn phẩm văn hóa quan trọng nhất của
chế độ mới. (Trên thực tế, tên Xuân Diệu được in với cỡ chữ to gấp đôi tên các
thành viên khác trong ban biên tập). Dù với lý do gì đi nữa, việc được bổ nhiệm
vào vị trí thư ký tòa soạn tờ Văn nghệ vào thời điểm bản lề hẳn có tác dụng
như một thông điệp bảo đảm với nhà thơ rằng, dù gặp rắc rối vì quan hệ đồng
tính luyến ái hai năm trước đó, tài năng và uy tín của ông trong lĩnh vực văn
hóa vẫn được đánh giá cao trong chế độ mới mà nhà thơ đang phụng sự.
Chú thích:
Chú thích:
[1] Đảng
Cộng sản Đông Dương (1931-1945) là tiền thân của Đảng Lao động Việt Nam
(1951-1975) và Đảng Cộng sản Việt Nam (1976-nay).
[2] Mạc
Đình, Tâm trạng của giới Văn nghệ ở miền Bắc (Sài gòn, 1956 – không rõ tên nhà
xuất bản); P.J Honey “The Revolt of the Intellectuals in North Vietnam” (Cuộc nổi
dậy của các trí thức miền Bắc), The World Today13, No.6 (June 1957):
250-260; Hoa Mai, biên tập, The “Nhân Văn” Affair [Vụ Nhân Văn] (Sài
Gòn: The Vietnam Chapter of the Asian People’s Anti-Communist League, 1958);
Hoàng Văn Chí, The New Class in North Vietnam[Giai cấp mới ở miền Bắc Việt
Nam] (Sài Gòn: Công Dân, 1958); Trăm hoa đua
nở trên đất Bắc (Sài Gòn: Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn hóa, 1959); Như
Phong “Intellectuals, Writers, and Artists,” (Trí thức, Văn sĩ và Nghệ
sĩ) China Quarterly, no.9 (Jan-March 1962): 47-69; Hoàng Văn Chí, From
Colonialism to Communism [Từ thực dân đến
cộng sản] (London, Pall Mall Press, 1964; Hirohide Kurihara, “Changes in
the Literary Policy of the Vietnamese Workers Party, 1956-1958” (Những thay đổi
trong chính sách văn học của Đảng Lao động Việt Nam, 1956-1958) trong Indochina
in the 1940s and 1950s, eds. Takashi Shiraishi and Motoo Furata (Ithaca, NY:
Sotheast Asia Program Cornell University, 1992), (Nguyên bản tiếng Nhật của bài
luận của Kurihara được đăng trên Journal of Asian and African Studies, 1988);
Georges Boudarel, Cent fleurs ecloses dans la nuit du Vietnam: Communism
et dissidence 1954-1956 [Trăm hoa vẫn nở trong đêm Việt Nam: Chủ nghĩa cộng
sản và bất đồng chính kiến 1954-1956] (Paris: Editions Jacques Bertoin, 1991);
Georges Boudarel “Intellectual Dissidence in the 1950s: The Nhan van-Giai pham
Affair” [Trí thức bất đồng chính kiến trong thập niên 1950: Vụ Nhân văn-Giai phẩm],
Phi Linh Baneth lược dịch từ tiếng Pháp, Vietnam Forum 13 (1990):
154-174; Kim Ninh, A World Transformed: The Politics of Culture in
Revolutionary Vietnam [Một thế giới đã hoán cải: Chính trị hóa văn hóa và
cách mạng Việt Nam] (Ann Arbor: University of Michigan Press, 2002), chương 4
(Trí thức bất đồng chính kiến: Thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm); Nguyễn Ngọc Tuấn,
“Socialist Realism in Vietnamese Literature: An Analysis of the Relationship
between Literature and Politics” [Phương pháp Hiện thực xã hội chủ nghĩa trong
Văn học Việt Nam: Phân tích mối quan hệ giữa Văn học và Chính trị] (luận án tiến
sĩ, Trường Đại Học Victoria, 2004) chương 6 (Vụ Nhân Văn Giai Phẩm: Khủng hoảng
giữa thời bình); Shawn McHale, “Vietnamese Maxism, Dissent, and the Politics of
Postcolonial Memory: Tran Duc Thao, 1946-2003” (Chủ nghĩa Mác, Bất đồng chính
kiến và Chính trị của Ký ức hậu thuộc địa ở Việt Nam: Trần Đức Thảo,
1946-2003), Journal of Asian Studies 61, no.1 (Feb, 2002): 7-31;
Heinz Schutte, “Hundred Flowers in Vietnam, 1955-1957” (Trăm Hoa trên đất Việt,
1955-1957), bài trình bày tại hội thảo thường niên Hội Nghiên cứu Châu Á, New
York, 28/3/2003; Nguyễn Võ Thu Hương, The Ironies of Freedom: Sex, Culture
and Neoliberal Governance in Vietnam [Nghịch lý của tự do: Tình dục, văn
hóa và cách quản lý tân tự do ở Việt Nam] (Seattle: University of Washington
Press, 2008), chương 7 (Từ tinh thần bất phục đến người đàn bà quỳ).
[3] Boudarel,
“Intellectual Dissidence”, 172.
[4] Bà
Thụy Khuê, trí thức người Pháp gốc Việt đáng được ghi nhận đặc biệt vì đã thực
hiện rất nhiều cuộc phỏng vấn với các nhân vật Nhân văn – Giai phẩm trong
chương trình Văn học Nghệ thuật của đài RFI.
[5] Xuân
Diệu, Huy Cận, Đặng Thai Mai, Nguyễn Đình Thi, Như Phong, Nguyễn Công Hoan,
Hoài Thanh, Tú Mỡ, Hồng Chương, và những người khác.
[6] Hoàng
Văn Chí, Trăm Hoa, 148.
[7] Mạc
Đình, Trăm Hoa, 12-13. Hoàng Văn Chí, From Colonialism to Communism,
230-231.
[8] Tất
nhiên là sự so sánh này cũng có chỗ khập khiễng. Vào năm 1990, khi Boudarel viết
cuốn sách này, ông đã có thành kiến với chủ nghĩa cộng sản trong khi Trotsky
vào năm 1936 viết ở góc độ một tín đồ chân thực.
[9] Về
thái độ cùng căm ghét Tố Hữu, xem Boudarel, Cent fleurs, 245. Về thái độ
thù nghịch chủ nghĩa Mao-ít và sự mong muốn chế độ thực hiện những cam kết đã hứa,
xem Boudarel “Intellectual Dissidence in the 1950s”, lần lượt ở các trang 154
và 164.
[10] Boudarel, Cent
fleurs, 245.
[11] Boudarel,
“Intellectual Dissidence in the 1950s”, 164-165. Trong Cent fleurs tác
giả viết: “Xuân Diệu, cùng với người bạn chí thiết Huy Cận, có quan hệ rất tốt
với Tố Hữu và những người phụ trách văn hóa của đảng – chỉ trích một người là động
đến tất cả những người khác (trong bọn họ)”: 235.
[12] Hồ
sơ về Xuân Diệu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III ghi ông gia nhập đảng năm
1949.
[13] Neil
Jamieson, Understanding Vietnam (Berkeley and Los Angeles: University
of California Press, 1993), 208-209.
[14] Sđd.,
269.
[16] Cả
Trần Dần và Hoàng Cầm đều yêu những người phụ nữ Hà Nội mà theo quan điểm của đảng
là xuất thân từ giai cấp bóc lột. Xem Kim Ninh, A World Transformed,
123-133. Chuyện tình của Lê Đạt được ít người biết đến hơn. Khi tham gia cải
cách ruộng đất năm 1953, ông cưới một phụ nữ thuộc tầng lớp bần nông, rồi chẳng
bao lâu sau bỏ bà để lấy một nữ diễn viên trẻ, việc này ảnh hưởng rất lớn đến
uy tín chính trị của ông.
[17] Trong
tiếng Việt, văn nghệ là từ được ghép từ hai từ “văn học” và “nghệ thuật”. Nhưng
cụm từ “văn nghệ” cũng có thể được hiểu theo nghĩa “văn hóa” – ví dụ như sáng tạo
(hoặc quản lý) văn hóa/văn nghệ.
[18] Huy
Phương, “Phát biểu về tập thơ Ngôi sao của Xuân Diệu”, Văn nghệ,
số 126, 21-28/6/1956.
[19] Phan
Khôi, “Phê bình lãnh đạo văn nghệ”, Giai phẩm Mùa thu tập 1, tháng 8/1956;
Trần Công, “Chống bè phái trong văn nghệ”, Nhân Văn, sối 1, 20/9/1956;
Nguyễn Bính, “Về giải thưởng văn học 1954-1955”, Trăm Hoa, số 1, tháng
10/1956.
[20] Dưới
chính quyền Trần Trọng Kim năm 1945, tên Trường Bưởi Hà nội chính thức được đổi
thành Trường Chu Văn An, và được giữ nguyên đến nay. Trường Quốc học Huế đã qua
vài lần đổi tên. Khi người Pháp thành lập trường vào năm 1896, tên chính thức của
trường là École primaire superieur, nhưng người Việt thường gọi là Trường Quốc
học. Năm 1936, trường đổi tên thành Trường Trung học Khải Định. Năm 1955, lại đổi
thành Trường Trung học Ngô Đình Diệm. Năm 1957, trường được trả lại tên cũ Quốc
học, và được giữ nguyên đến nay. Như rất nhiều người đã biết, nhiều nhân vật
chính trị quan trọng đã học qua hai trường này. Điểm qua danh sách cựu học sinh
trường Bưởi có Nguyễn Cao Kỳ, Phạm Văn Đồng, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Mạnh Tường,
Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Cơ Thạch, Trần Đức
Thảo, Dương Trung Quốc, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đình Thi, Đặng Thùy Trâm, Hoàng Ngọc
Phách, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Khắc Viện, và nhiều người khác. Ở trường Quốc học
Huế, có Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Tố Hữu, Đặng
Thai Mai, Lưu Trọng Lư, Huy Cận và Xuân Diệu. Chính trường Quốc học Huế là nơi
Xuân Diệu gặp người tình suốt đời Huy Cận.
[21] Hoài
Thanh và Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam: 1932-1941 (Hà Nội: NXB Văn Học,
2005. Theo lời nhà xuất bản, đây là bản in lại nguyên tác do NXB Nguyễn Đức
Phiên in năm 1942).
[22] Xuân
Diệu, Thơ thơ và Gửi hương cho gió (Hà Nội, NXB Hội Nhà
văn, 1995). Những ý kiến phê bình thơ Xuân Diệu có thể đọc được từ: Thanh
Lãng, 13 năm tranh luận văn học, 1932-1945 (TP HCM: Hội nghiên cứu giảng
dạy văn học TP HCM, 1995).
[23] Đọc
các bài viết, ví dụ như của Hà Minh Đức, Xuân Diệu: Ông hoàng của thơ tình
yêu (Hà Nội: NXB Giáo dục, 2004).
[24] Nguyễn
Quốc Vinh, “Deviant Bodies and Dynamics of Displacement of Homoerotic Desire in
Vietnamese Literature from and about the French Colonial Period (1858-1954)”
[Biến thái hình thể và những mâu thuẫn xung quanh chủ đề khát khao tình dục đồng
tính trong và sau giai đoạn Pháp thuộc, 1858-1954], Hợp Lưu số 42,
tháng 8-9, 41-53. Trong luận án tiến sĩ đang viết, Richard Trần dành một chương
để bàn về tình yêu đồng giới của Xuân Diệu trong những năm tiền cách mạng.
[25] Kim
Ninh, A World Transformed, 59.
[26] Sóng
Hồng (Trường Chinh), Thơ (Hà Nội: Văn Học, 1966) 25-28.
[27] Một
bài trên báo Công an Nhân dân ngày 7/2/2007 nhan đề “‘Là thi sĩ’ của
Sóng Hồng phê phán ‘Cảm xúc’ của Xuân Diệu?” cho rằng Trường Chinh viết bài thơ
ban đầu là để vận động một thư ký doanh trại lính Pháp rất yêu thơ tham gia
cách mạng.
[28] Từ
điển Văn học (Hà Nội: NXB Khoa Học Xã Hội, 1984), 604.
[29] Sau
khi giành chính quyền tháng Tám năm 1945, Đảng Cộng sản Đông Dương dành ra mấy
tháng sau đó để truy tầm và xử tử vài ngàn người bị coi là phần tử chính trị
nguy hiểm (nhất là đảng viên các đảng đối lập). Vì vậy, khó có thể tưởng tượng
được rằng lãnh đạo Đảng Cộng sản Đông Dương nghiêm túc thực hiện “dân chủ đại
diện” trong cuộc tổng tuyển cử tháng Giêng năm 1946. Không rõ Xuân Diệu, gốc
Quy Nhơn quê Hà Tĩnh, có liên hệ cụ thể gì với tỉnh Hải Dương.
[30] “Đỗ
Ngọc Dũng, “Kỷ Niệm 60 Năm Thành Lập Hội Văn nghệ Việt Nam:
25/7/1948-25/7/2008, 16/7/2008”. http://dodungart.vnweblogs.com/post/3574/80401 (truy
cập ngày 5/5/2010)
[31] Sđd.
Xuân Diệu phụ trách “tổ chức kiểm tra”. Trong bốn người còn lại, Nguyễn Tuân là
Tổng thư ký, Tố Hữu Phó Tổng thư ký, Võ Đức Diên phụ trách kinh tế và Ngô Quang
Chân làm quản trị.
[32] “Nghị
quyết Hội Nghị Thống Nhất Hai Khu 1 và Khu 10: 5/11/49, Văn Kiện Đảng Toàn
Tập (Hà Nội: Chính trị Quốc Gia, 2001), 10:427.Cần phân biệt “Việt Bắc”
khác với “miền Bắc”, là khái niệm rộng hơn, dùng để chỉ 1 trong 3 kỳ thời Pháp
thuộc, và sau Hiệp định Geneva 1954, chỉ một nửa đất nước tính từ phía bắc vĩ
tuyến 17.
[33] Tịnh
Hà, Xuân Diệu: Con người và Tác phẩm (Hà Nội: Văn Học, 1987), 11.
[34] Tô
Hoài, Cát bụi chân ai (Hà Nội: Hội Nhà Văn, 1992), 198.
[35] Sđd,
199.
[36] Xuân
Diệu, “Thư gửi các bạn văn nghệ ở Hà Nội”, Văn nghệ, số 56, tháng 10/1954.
[37] Sđd.
[38] Sau
đó, Huy Cận lấy người vợ thứ hai, và cũng là cuối cùng, bà Trần Lệ Thu, giảng
viên tiếng Nga, Đại học Ngoại ngữ vào năm 1964, khi bà 28 tuổi. Họ có với nhau
ba người con.
[39] Sau
năm 1975, hai anh em được đoàn tụ và cùng cộng tác trong một số dự án văn học.
Cuộc tranh luận về tập thơ Việt Bắc
Trong chín tháng giữ vai trò cầm lái tờ Văn nghệ, từ
ngày mồng 1 tháng Mười một năm 1954 đến ngày mồng 4 tháng Tám năm 1955, Xuân Diệu
trải qua một giai đoạn có thể coi là ly kỳ nhất trong cuộc đời tham gia cách mạng
của ông. Với chức vụ thư ký tòa soạn, Xuân Diệu cầm trịch cuộc tranh luận văn học
quan trọng về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu, người đã được lãnh đạo đảng
chọn để đứng đầu mặt trận văn hóa. Cách Xuân Diệu xử lý cuộc tranh luận có vẻ
đã làm lãnh đạo đảng không hài lòng, và có thể chính điều đó đã dẫn đến quyết định
phải thay người khác vào vị trí thư ký tòa soạn báo Văn nghệ.
Trong hai tháng đầu tiên, Xuân Diệu đã để cho cuộc tranh luận
diễn ra như một sự kiện tranh luận văn học thực sự, cho in một số bài phê
bình Việt Bắckhá nặng cùng với những bài khen ngợi.[1] Nhưng dưới quan điểm
“văn học không thể tách rời chính trị” của chế độ, tranh luận công khai về thơ
của Tố Hữu cũng có nghĩa là tranh luận về quan điểm chính trị của ông ta. Và
đương nhiên, phe phê phán chẳng bao lâu sau bắt đầu đặt câu hỏi về lập trường của
Tố Hữu theo hệ tư tưởng Mác-Lê, ngầm ý chất vấn quyết định của lãnh đạo khi
giao trọng trách cho Tố Hữu ở vị trí quyền lực nhất trong lĩnh vực văn hóa. Nguyên
nhân vì sao lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam để cho cuộc tranh luận kéo dài đến
thế vẫn là điều chưa được giải đáp. Một cách giải thích khả dĩ là cuộc tranh luận
diễn ra trong thời điểm còn nhiều căng thẳng đối với giới lãnh đạo chế độ mới,
khiến họ e ngại nếu can thiệp không khéo sẽ làm bất bình số đông trí thức cách
mạng, những người coi việc tranh luận chuyên môn là một phần bình thường của đời
sống trí thức.
Trong thời gian đó, nạn đói xảy ra ở hầu khắp các vùng nông
thôn miền Bắc. Lúc đó đang là tháng Tư, một tháng trước vụ chiêm. Ngay cả trong
những năm được mùa, người nông dân Bắc Việt vẫn thường thiếu ăn vào thời điểm
này. Ba văn bản liên tiếp của Bộ Chính trị kêu gọi cứu đói trên toàn miền Bắc
(vào các ngày mồng 9, 16 và 29 tháng Tư năm 1955) cho thấy tình hình căng thẳng
đến mức nào.[2] Một vấn
đề lớn nữa thu hút sự quan tâm của giới lãnh đạo vào thời điểm này là cuộc di
cư lớn của người dân miền Bắc vào Nam. Hiệp định Geneva đã ấn định khung thời
gian ba trăm ngày tự do đi lại giữa hai miền Nam – Bắc từ tháng Bảy năm 1954 đến
tận tháng Năm năm 1955. Đối với các nhà lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, những
người tự gọi chế độ của mình là “dân chủ nhân dân”, việc gần một triệu người miền
Bắc di cư vào Nam được coi là một thất bại lớn về thể diện. Đoạn văn dưới đây,
trích từ Chỉ thị 07 của Bộ Chính trị ban hành ngày 16 tháng Hai năm 1955 cho thấy
phần nào mối quan ngại của lãnh đạo đảng về vấn đề di cư và tác động của nó đối
với hình ảnh quốc tế của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa:
“Chọn một vài địa điểm điển hình để tổ chức cho đồng bào đi
(khu chọn rồi đề nghị với Trung ương). Nếu mờ cả Ủy Ban quốc tế đến để chứng kiến
việc đó. Những nơi này phải là nơi có cơ sở quần chúng của ta, khi tổ chức cho
quần chúng đi thì chỉ có số ít xin đi, như thế mới có lợi cho ta. Khi làm việc
này phải chuẩn bị chu đáo, giải quyết thật nhanh.
Phải có kế hoạch trấn áp phản động, tăng cường canh gác, kiểm
soát, đề phòng địch lợi dụng dịp này thúc đẩy quần chúng tập trung, gây khó
khăn cho ta.”[3]
Tố Hữu, tác giả của tập thơ Việt Bắc, lúc đó mới ba mươi
lăm tuổi, là một người gốc Huế gia nhập Đảng Cộng sản Đông dương từ năm 1938 và
thăng tiến rất nhanh qua các cấp ủy. Khi tập thơ được xuất bản, ông ta đang được
cân nhắc vào vị trí ủy viên Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, một việc sẽ
xảy ra trong năm 1955.[4] Một
biểu hiện nhỏ cho thấy lãnh đạo đảng đánh giá tập thơ Việt Bắc cao đến
thế nào là quyết định trích ngân sách hẹp hòi để cho in tập thơ với số lượng
hai mươi nghìn bản, một con số ấn bản lớn chưa từng có.[5] Về nội dung, Việt
Bắc là sự thể hiện bằng thơ quan điểm của Mao về “chiến tranh nhân dân”.[6] Tố Hữu tả toàn thể
dân tộc Việt Nam đều cống hiến trọn vẹn tâm hồn và lý trí cho công tác đấu
tranh cách mạng: từ người nông dân đi phá đường cho đến người lính pháo binh
công tập đồn Pháp, từ người phụ nữ tải đạn ra chiến trường đến em nhỏ làm giao
liên cho du kích Việt Minh. Ông ta nồng nhiệt ca ngợi Hồ Chí Minh, Stalin, Mao
và Đảng Lao động Việt Nam. Việt Bắc còn bao gồm các bài dịch từ dân
ca Nam Tư và một số bài thơ nước ngoài khác – hai bài của nhà thơ Liên Xô
Konstantin Simonov, một của nhà thơ cộng sản Pháp Louis Aragon, và một của nhà
thơ cộng sản Mỹ Ethel Rosenberg, đã bị tử hình với tội danh gián điệp vào năm
1953.
Bài báo đầu tiên giới thiệu tập thơ của Tố Hữu với công chúng
do một cán bộ chính trị xuất thân từ tỉnh Nghệ An tên là Xuân Trường viết được
đăng trên số Tết (ngày 24 tháng Giêng năm 1955) của tờ báo chính thống của đảng
–Nhân dân.[7] Bài báo
được viết theo dàn bài tiêu chuẩn của một văn kiện báo cáo đảng: giới thiệu, ưu
điểm, khuyết điểm và kết luận. Trong suốt cả bài gồm hai mươi chín đoạn văn, chỉ
có hai đoạn bàn về khuyết điểm của tập thơ Việt Bắc. Hai đoạn đó chủ yếu vạch
ra rằng Tố Hữu cần phải “cụ thể” hơn khi tả “người nông dân tham gia cách mạng”
và “đảng Tiên Phong của dân tộc”. Xuân Trường viết “chúng ta rất tiếc rằng Tố Hữu
chưa nói lên hộ lòng biết ơn, sức tin tưởng của hàng chục triệu con người đảng
viên và quần chúng đối với Đảng tiên phong của giai cấp công nhân.”[8]
Ba tuần sau, vào ngày 15 tháng Hai năm 1955, Xuân Diệu cho
đăng trên Văn nghệ phần đầu của bài nhận xét dài của chính ông về tập
thơ của Tố Hữu. Cũng như bài viết của Xuân Trường, ông giữ đúng cấu trúc tiêu
chuẩn của một bản báo cáo chính trị. Trong bài viết gồm bảy mươi đoạn văn, Xuân
Diệu dành sáu mươi đoạn để ca ngợi ưu điểm của tập thơ:
“Từ 1932 đến 1945, trong khi các nhà thơ khác đắm chìm trong
phong trào “thơ mới” mơ mộng, than khóc, u sầu, Tố Hữu đã đi tiên phong, hát những
bài ca tranh đấu.”…
Con đường ngót 20 năm nay Tố Hữu đã đi là một con đường vinh
quang, kỳ diệu. Chỗ kỳ diệu lớn lao là nhà thi sĩ làm cách mạng, và nhà cách mạng
làm thơ, và thơ rất thành công…
Cách mạng càng ngày càng thắng lợi, càng to lớn, đồng thời
cũng đưa tài thơ của Tố Hữu nở dần đến chỗ tròn đầy, lộng lẫy. Đó là sự tương
quan mật thiết giữa hành động và văn chương, và Tố Hữu là điển hình đẹp nhất.”[9]
Trong phần đầu của đoạn trích nêu trên, Xuân Diệu dường như
đang xưng tội về quá khứ của chính mình khi tham gia Thơ mới. Phải chăng mười
năm dưới sự dẫn dắt của đảng đã chuyển hóa hoàn toàn nhà thơ lãng mạn nổi tiếng
Xuân Diệu? Có vẻ là như vậy, cho đến khi chúng ta đọc đoạn thứ mười của bài với
những dòng Xuân Diệu viết về nhược điểm của tập thơ. Tại đó, nhà thơ nhẹ nhàng
chỉ ra rằng tập thơ Việt Bắc “nặng về tình cảm xã hội mà gần như bỏ
qua tình cảm cá nhân”. Trong một khổ khác, ông viết, “Con người cán bộ trong Tố
Hữu bao trùm con người thường”. Ở đây, những lời phê bình của Xuân Diệu dường
như có hàm ý đề cao tính chủ quan – cho phép con người ta có thể thay đổi bản
chất để phù hợp với hoàn cảnh. Không một bài viết nào khác về Việt Bắc đưa
ra một ý kiến tương tự như thế. Từ đó, người đọc có thể suy diễn một cách hợp
lý rằng, theo Xuân Diệu, tính chủ quan của con người rất phức tạp, không thể
đánh giá theo một yếu tố chung nào hết – như giai cấp chẳng hạn. Trong phần sau
của bài viết, Xuân Diệu bổ sung thêm rằng thơ Tố Hữu “nặng về tình cảm xã hội,
tình cảm tập thể ” mà “hầu như không nói đến những tình cảm của cá nhân”.[10] Không rõ Xuân Diệu
có ý thức được điều này không, nhưng rõ ràng việc ông chiếu tướng Tố Hữu về
tình cảm cá nhân và khả năng một con người có thể mang nhiều diện mạo tiềm ẩn
nguy cơ thách thức học thuyết chính thống cao hơn rất nhiều so với yêu cầu của
Xuân Trường về việc cần tả cụ thể về đảng tiên phong và quần chúng hàm ơn.
Ngày 11 tháng Ba năm 1955, hai tuần sau khi đăng bài bình luận
của chính mình, Xuân Diệu duyệt và cho đăng bài phê bình Việt Bắc của
Hoàng Yến, một nhà phê bình văn học trong quân đội gần như chưa được ai biết đến.
Với nhan đề “Tập thơ Việt Bắc có tính hiện thực hay không?”, bài phê
bình phân tích năm bài trong tập thơ để đi đến kết luận chung rằng những suy
nghĩ, từ ngữ và hành động của các nhân vật trong Việt Bắc trong những
tình huống quan trọng có vẻ không hiện thực và không thể hiện được tính phong
phú và vĩ đại của cách mạng.[11] Ngoài
bài viết của Hoàng Yến, Văn nghệ còn mời độc giả viết thư để đóng góp
phản hồi về tập thơ Việt Bắc đồng nghĩa với việc mở rộng diễn đàn
tranh luận cho công chúng.
Trong một tháng rưỡi sau đó, Xuân Diệu, trong vai trò thư ký
tòa soạn Văn nghệ, đã cho đăng tiếp năm bài phê bình Tố Hữu, có nhiều điểm
cho rằng ông ta kém về năng lực lãnh đạo, thơ thì tầm thường và quan điểm cách
mạng “tiểu tư sản có hệ thống”.[12] Chắc
chính lời phê về “tiểu tư sản” đó đã làm lãnh đạo đảng nhức nhối nhất vì họ đã
chọn Tố Hữu, cùng với các Ủy viên Trung ương là Lê Văn Lương và Hoàng Quốc Việt
giám sát công tác chỉnh huấn tư tưởng, với mục tiêu chính là gạt bỏ những “tư
tưởng tiểu tư sản” khỏi đầu óc các đảng viên.[13]
Trong suốt năm tuần, Xuân Diệu đã duy trì gần như cân bằng những
bài viết theo hai hướng khen và chê tập thơ của Tố Hữu, như thể ông đang trở lại
làm việc cho tờ Ngày Nay của Tự lực Văn đoàn vậy. Rồi bỗng nhiên, sau
số Văn nghệ ra ngày 1 tháng Năm năm 1955, ông xoay ngược một trăm tám
mươi độ, cho đăng toàn những bài khen ngợi tập thơ hết lời. Sự trùng hợp về thời
gian giữa việc thay đổi đường lối nói trên và cái mốc ba trăm ngày tự do đi lại
giữa hai miền Nam Bắc (đến 18 tháng Năm 1955) gợi cho ta thấy hình như việc tự
do đi lại cũng là một yếu tố quyết định cách chính quyền xử lý cuộc tranh luận.
Những bài viết phê phán Việt Bắc bị ngừng đăng kể từ số Văn nghệ ngày
10 tháng Năm 1955, nhưng đến thời điểm đó, đã quá muộn để biến cuộc tranh luận
thành đợt tuyên truyền cho thơ Tố Hữu – những nhà phê bình trẻ đã gây tổn thất
nặng nề cho danh tiếng tập thơ Việt Bắc. Không một bài bình luận tiếp theo
nào, dù ca ngợi không tiếc lời về lòng yêu nước và văn tài của Tố Hữu, có thể đảo
ngược lại được những lời phê bình về nhược điểm của Việt Bắc mà Xuân
Diệu đã cho đăng trên những trang báo trước đó của tờ Văn nghệ.
Ngoài quyết định chuyển hướng đột ngột trong cuộc tranh luận
về Việt Bắc, có ba điểm khác cho thấy hình như cách xử lý vấn đề của Xuân
Diệu lúc ban đầu không theo quan điểm của lãnh đạo đảng. Một là, không một tờ
báo nào khác của đảng ngoài tờ Văn nghệ đăng bài chê tập thơ Việt
Bắc.[14] Các tổng
biên tập của những tờ báo khác dường như hiểu được ý của lãnh đạo đảng muốn họ
giữ vai trò gì trong cuộc tranh luận: đăng các bài khen Việt Bắc để
bài chê của Hoàng Yến trở thành hiện tượng cá biệt, qua đó cho thấy Tố Hữu được
sự ủng hộ của đa số quần chúng Việt Nam. Hai là, không bao lâu sau, lãnh đạo
quyết định thay Xuân Diệu và đưa Nguyễn Đình Thi, một quan chức văn hóa cứng rắn
vào vị trí thư ký tòa soạn báo Văn nghệ, người đặt dấu chấm hết cho cuộc
tranh luận về Việt Bắc một thời gian ngắn sau đó.[15]. Bằng chứng thứ ba là ý kiến
nhận định về cuộc tranh luận của một quan chức văn hóa cao cấp, Hoài Thanh (tác
giả cuốn Thi nhân Việt Nam: 1932 – 1941đã được nhắc đến ở phần trên).
Trong một bài nhận xét về hoạt động văn học năm 1955, ông ta viết: “Về mặt phê
bình cũng phạm nhiều sai lầm thiếu sót. Công tác phê bình ít được chú ý. Thỉnh
thoảng có một cuộc phê bình như cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc thì lại
có tính chất tự phát, thiếu chuẩn bị, thiếu mục đích rõ ràng, thiếu kết hợp với
yêu cầu đấu tranh chính trị và tư tưởng.”[16]
Ý của Hoài Thanh là, Xuân Diệu, với vai trò thư ký tòa soạn Văn
nghệ đã không quan tâm đầy đủ đến những bài phê bình Việt Bắc, cho
đăng những bài không phù hợp với “yêu cầu của cuộc đấu tranh chính trị và tư tưởng”.
Nói cách khác, ông không hiểu được rằng Văn nghệ đúng ra phải đóng
vai trò là một cơ quan văn hóa của đảng. Đặt trong hoàn cảnh đất nước ba năm rưỡi
sau đó, cách ông xử lý cuộc tranh luận – nhất là để cho mọi tầng lớp trí thức
trong nước công khai và trực tiếp chất vấn năng lực chuyên môn của một quan chức
cao cấp của đảng như Tố Hữu – là điều không thể tưởng tượng được.[17]
Xuân Diệu và Walt Whitman
Như đã đề cập ở phần trước, trong hai đêm Xuân Diệu tham gia
chỉnh huấn vào năm 1952, vấn đề lang chạ đồng tính của Xuân Diệu bị đem ra để
“phê và tự phê”. Theo nhà văn Tô Hoài, những người tham gia buổi chỉnh huấn đêm
đó đã liên hệ xu hướng luyến ái đồng tính của nhà văn lãng mạn nổi tiếng với
“tư tưởng tiểu tư sản xấu xa” của ông – điều mà Xuân Diệu nhất quyết từ chối
trong nước mắt. Sau đợt chỉnh huấn, ông bị đưa ra khỏi Ban Thường vụ Hội Văn
nghệ, một tai nạn nghề nghiệp vẫn làm ông nhức nhối nhiều năm sau đó.[18] Vì quá nhiều bài
thơ lãng mạn nổi tiếng của ông có cảm hứng từ đề tài luyến ái đồng tính, và vì
ông có biểu hiện coi đó là một phần của chính mình, không thể thay đổi ngay cả
với quyền năng chuyển hóa của cách mạng, bài tiểu luận được ít người biết
của Xuân Diệu viết về Walt Whitman đăng trên số ra ngày 5 tháng Giêng năm 1956
của tờ Văn nghệ cần được nghiên cứu kỹ.[19]
Quyết định viết về nhà thơ Mỹ không phải là một lựa chọn liều
lĩnh về mặt chính trị, vì chính những người gác cửa văn học chính thống của
Liên Xô cũng đã tặng cho Whitman danh hiệu “nhà thơ cách mạng” từ trước đó rất
lâu. Dù đã tạ thế, sự nghiệp cách mạng của nhà thơ Mỹ này có thể coi như được
khởi đầu ở Nga vào năm 1905, khi những nhà cách mạng Nga tại hải ngoại phụ
trách tờ Tia lửa (Iksra), cơ quan của Đảng Lao động Dân chủ Xã hội
Nga (lúc đó đặt trụ sở tại Geneva-Thụy Sỹ), chọn một bài thơ của ông vào “tuyển
tập thi ca cách mạng”. Hơn thế nữa, Whitman còn được nhân vật nổi tiếng nhất
trong văn giới Liên Xô – nhà biên dịch, viết tiểu luận và thơ thiếu nhi Kornei
Chukovsky (1882-1969) chọn làm đề tài nghiên cứu chuyên sâu.[20]. Chukovsky đã đăng bài viết
đầu tiên về nhà thơ Mỹ “Phong trào hâm mộ Whitman ở Nga” trong tạp chí của trường
phái Tượng trưng Vesy vào năm 1906. Phần lớn nội dung bài viết đó được
Chukovsky dành để phê phán những bài dịch thơ Whitman của Konstantin Balmont, một
nhà thơ Tượng trưng. Sự công kích của Chukovsky đã khơi mào cho một cuộc tranh
luận sôi nổi về nghệ thuật biên dịch giữa hai người yêu thơ Whitman trên các
trang báo của tờ Vesy. Sau đó, giới lãnh đạo văn hóa Liên Xô ủng hộ
Chukovsky, giúp ông đủ quyền lực để nâng quan điểm về dịch thuật của mình trong
cuộc tranh luận trước đó về Whitman thành tiêu chuẩn chính thống, thành các
nguyên tắc chung cho mọi hoạt động dịch thuật của Liên Xô.[21]
Vì Whitman vừa sử dụng thể thơ tự do vừa có quan điểm triết học
duy tâm giống như các nhà thơ trường phái Tượng trưng của Pháp – những người có
ảnh hưởng quan trọng đến dòng thơ lãng mạn của Xuân Diệu, có thể ông đã biết rõ
về tác giả của tập Lá cỏ từ trước khi tham gia cách mạng.[22] Không biết ông có
biết về Whitman sớm đến thế không, nhưng ít nhất Xuân Diệu hẳn phải nghe nói đến
nhà thơ này vào cuối năm 1945, khi một bài báo đăng trên Tiên
Phong vào tháng 12 năm 1945 có nhắc đến nhà thơ Mỹ này. Với tiêu đề “Một
lá thư ngỏ của Hội Văn hóa Cứu quốc gửi các trí thức Mỹ”, bài báo được công bố
là bản sao nguyên văn lá thư thật được đưa cho một nhà báo Mỹ đến Hà Nội để đưa
tin sự kiện Nhật Bản đầu hàng. Theo lời kể, nhà báo bí ẩn này đến trụ sở hội
vào ngày 21 tháng Mười năm 1945, trước khi về Mỹ. Người ta kể rằng vì cảm tình
với sự nghiệp ái quốc của Hội Văn hóa Cứu quốc, ông nhà báo này tình nguyện nhận
chuyển thư của hội đến các nhà trí thức Mỹ.[23] Lá thư của hội, được
in lại trên báo Tiên Phong bày tỏ lòng tin rằng “…mối thiện cảm của
những người đồng chí của Phan-cờ-in (Franklin), Bít-sơ Xít-tao (Beecher Stowe),
I-mớc-sơn (Emerson), Oan-tờ Huýt-man (Walt Whitman), Ê-đi-sơn (Edison), những
người như Giấc-cờ Lân-đơn (Jack London), Xin-co-le Liu-ít-xờ (Sinclair Lewis),
Pớc Bấc-cờ (Pearl Buck)… ở giữa một nước lớn như dân tộc Hoa-kỳ, sẽ làm rung
chuyển dư luận hoàn cầu để giúp cho cuộc giải phóng của chúng tôi.”[24]
Cũng có thể Xuân Diệu đã tìm hiểu thêm về Whitman khi đi Liên
Xô và Đông Âu năm 1955, vì chuyến đi của ông trùng với thời gian kỷ niệm 100
năm tập thơ Lá Cỏ nổi tiếng của nhà thơ Mỹ này. Trong chuyến đi, có
thể Xuân Diệu đã thấy những cuốn sách về Whitman bày trên giá các hiệu sách nơi
ông đến thăm, với hy vọng thu hút được mối quan tâm về tác giả đang được hâm
nóng lại trong đợt kỷ niệm. Điều này có thể lý giải được thời điểm Xuân Diệu viết
bài về Whitman, vì bài báo được đăng trên Tiên Phong một thời gian ngắn
sau khi ông đi Liên Xô và Đông Âu về. Tuy nhiên, chi tiết thú vị nhất là Xuân
Diệu biết Whitman là người đồng tính luyến ái từ khi nào và bằng cách nào, vẫn
còn là câu hỏi bí ẩn. Chỉ biết trong các bài thơ lãng mạn của ông, không thấy
có điểm liên hệ nào tới nhà thơ Mỹ này.
Bài của Xuân Diệu giới thiệu Whitman trên báo Văn nghệ thể
hiện quan điểm chính trị của chế độ đương thời, với yêu cầu phải xác định rõ mối
đồng cảm của nhà thơ Mỹ với giai cấp vô sản. Vì thế, bài báo bắt đầu bằng những
dòng kể lể tỉ mẩn về xuất thân bình dân của Whitman, là con trai một di dân,
làm nghề đóng khung nhà, và thời trẻ ông ta cũng làm những công việc “tay làm
hàm nhai” – thợ in, giáo viên, nhà báo, thợ gặt. Bài báo cũng trích nguyên nhiều
câu trong bài “Thơ Tự do cho châu Á, Phi, Mỹ, Úc, Cuba và các Quần đảo ở Đại
Dương” của Whitman. Trong những lời kêu gọi chung chung tranh đấu chống cường
quyền trên khắp thế giới, bài thơ đó của Whitman phảng phất những nét hao hao
giống lý thuyết Mác-xít về cách mạng vô sản thế giới. Có lẽ để tô đậm thêm mối
liên hệ này, tiêu đề của bài thơ được đổi thành “Tặng một nhà cách mạng châu Âu
thất bại”. Không rõ Xuân Diệu tự đổi hay chỉ đơn thuần sao chép lại cách đặt
tiêu đề của một dịch giả trước đó. Ngay dưới tiêu đề bài thơ, Xuân Diệu giải
thích rằng bài thơ lấy cảm hứng từ cuộc cách mạng bị thất bại năm 1848. Trong
bài viết, Xuân Diệu còn khai thác sâu thêm cảm tình vô sản của Whitman bằng
cách dẫn nhiều khổ thơ trong bài “Bài ca đời tôi”, tất cả đều nhằm minh chứng rằng
nhà thơ Mỹ thực sự đã “đi sâu vào thực tế của quần chúng lao khổ”.[25]
Tuy nhiên, bài báo có đôi chỗ mang dấu hiệu cho thấy Xuân Diệu
đang sử dụng quan điểm chính trị của chế độ đương thời làm bình phong để khoe một
cách kín đáo về đời sống luyến ái đồng tính của Whitman. Ví dụ, bài báo có kể rằng
“… lúc đã nổi tiếng, nhiều khi ông (Whitman) thay các bạn ông làm người đánh xe
ngựa, làm người bán vé xe hàng”. Chi tiết này có vẻ như đơn thuần là một động
tác nhấn mạnh sự gần gũi của nhà thơ Mỹ với quần chúng cách mạng. Nhưng trên thực
tế, có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nữa, vì người bán vé xe hàng mà Xuân Diệu
nhắc đến chính là Peter Doyle, người đàn ông được coi là người tình suốt đời của
Whitman.
Đọc kỹ bài báo, ta thấy có nhiều chỗ Xuân Diệu dường như đang
muốn liên hệ những nét giống nhau giữa cuộc đời của chính mình với nhà thơ Mỹ
này. Ví dụ, ông viết rằng Whitman “lúc hai mươi tuổi, đọc rất nhiều sách Âu và
Mỹ” (ai cũng biết Xuân Diệu là nhà Thơ mới chịu ảnh hưởng nhiều nhất của thơ
Tây phương, nhất là thơ trường phái Biểu tượng của Pháp). Ông còn kể rằng, từ
năm mười chín đến hai mươi hai tuổi, nhà thơ trẻ Whitman “làm một số bài buồn
thảm và tiêu cực” (theo cách phân tích chính thống về bước chuyển hóa cách mạng
của Xuân Diệu, văn nghiệp của ông bắt đầu từ những năm mười mấy, hai mươi tuổi
với những bài thơ lãng mạn “buồn thảm” và “tiêu cực”). Bài báo viết tiếp rằng,
trong những năm từ 1846 đến 1848, Whitman làm tổng biên tập báo Brooklyn
Daily Eagle (tương tự như chức vụ thư ký tòa soạn báo Tiên
Phong của Xuân Diệu từ năm 1945 đến 1946) trong thời gian Mỹ đang có chiến
tranh với Mexico. Xuân Diệu viết trong bài báo rằng “từ lúc đó, một luồng gió
cách mạng thổi vào trong các bài báo của ông. Và chính lúc ông đầy một tinh thần
chống dùng nô lệ và đấu tranh cho lý tưởng dân chủ, là lúc ông thấy dồi dào hồn
thơ trở lại”. Phải chăng “luồng gió cách mạng” này cũng tương tự như luồng gió
đã thực sự thổi vào Xuân Diệu trong năm 1945, và góp phần hình thành những vần
thơ cách mạng của ông?
Sau khi khai thác mọi chi tiết có thể để tạo cho Whitman căn
cước của một người vô sản với tư tưởng tiến bộ, hàm ý nhà văn Mỹ vĩ đại này hội
đủ điều kiện để đi theo đảng Tiên Phong nếu có được cơ hội, Xuân Diệu đi vào phần
kết của bài luận dài. Đến đây, ông tự nhiên mất cảnh giác và dẫn một đoạn trong
bài thơ cuối cùng của tập Lá Cỏ, bài “Chia tay”, không liên quan gì đến chủ
đề cách mạng:
Bạn ơi, đây không phải là một quyển sách.
Ai cầm đến sách này là động đến một con người.
Có phải giữa đêm chăng?
Có phải chỉ có hai chúng ta mà thôi chăng?
Bạn cầm lấy tôi và tôi đang cầm lấy bạn.
Từ giữa những trang sách tôi vọt ra giữa vòng tay bạn ôm…
… Bạn thân hỡi, dù bạn là ai, bạn cũng nhận cái hôn này
Cái hôn tôi riêng tặng bạn,
Bạn đừng quên tôi…
Dù không ai biết chắc trăm phần trăm, nhưng có vẻ Xuân Diệu
chọn những câu thơ này vì chúng gợi tả một tình cảm đồng tính và lãng mạn, nhất
là với những người hiểu biết về đời tư của Whitman. Lời bình đầy cảm xúc của
Xuân Diệu về bài thơ là bằng chứng rõ ràng cho cách suy luận nêu trên: “Đọc đến
bài thơ này, tôi có thể nào không nhận thấy hơi thở của nhà thi sĩ còn tinh anh
ở trong câu thơ? Tôi có thể đọc qua loa, hờ hững?” Ông còn viết thêm “Thơ viết
hàng trăm năm trước, bây giờ vẫn còn tươi nguyên. Đó là mãnh lực của văn
chương, của thơ”.[26]
Giai Phẩm Mùa Xuân 1956
Làm một trí thức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cần phải có nhiều
kỹ năng, vừa phải biết điều chỉnh ngòi bút, cây cọ vẽ, nét nhạc hay bài nghiên
cứu so cho phù hợp với yêu cầu chính trị mới nhất do lãnh đạo đảng đưa ra, vừa
phải đảm bảo chất lượng chuyên môn để không bị đồng nghiệp phê phán. Đồng thời,
phải theo dõi những sự kiện lớn trong khối xã hội chủ nghĩa và lường trước được
những ảnh hưởng đến chính trị trong nước. Và cuối cùng, ở mức độ cá nhân, một
trí thức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải biết duy trì quan hệ trên – dưới và biết
nên kết bạn với ai (và cần phải gạt bỏ ai). Trong cuộc tranh luận về Việt
Bắc, Xuân Diệu đã để cho các nhà thơ trẻ Hoàng Cầm và Lê Đạt đăng các bài viết
phê bình nặng nề Tố Hữu, quan chức văn hóa quyền lực nhất của Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Không biết ông có đồng tình hay không với quan điểm chỉ trích của họ,
nhưng kể từ thời điểm đó, Xuân Diệu bị coi là có liên quan với hai người nổi loạn
này. Trong suốt hai năm rưỡi sau đó, ông nhiều lần tìm cách để tách mình khỏi
hai người đó. Như chúng ta sẽ thấy, để đạt mục đích nói trên, Xuân Diệu dùng những
biện pháp càng ngày càng xấu xa, thậm chí đến mức gần như tự hủy diệt cá tính của
mình.
Động thái đầu tiên là vào tháng Hai năm 1956, khi Hoàng Cầm
và Lê Đạt cộng tác với bảy nhà văn khác cho ra đời một tuyển tập văn học, xuất
bản riêng, có tiêu đề Giai Phẩm mùa Xuân 1956.[27] Dù có quan điểm
chính trị riêng, về cơ bản tuyển tập vẫn đồng điệu với lãnh đạo đảng, thậm chí
còn thể hiện nhiệt tình hưởng ứng chiến dịch cải cách ruộng đất – thiết nghĩ
không cần nhắc lại rằng chỉ sáu tháng sau đó, chiến dịch cải cách ruộng đất này
bắt đầu bị phê phán và các nhà trí thức bất bình phản đối gay gắt.[28]. Hình như Giai Phẩm
mùa Xuân 1956 ra đời nhằm hai mục tiêu chính. Thứ nhất là để chứng tỏ với
lãnh đạo đảng rằng, nếu để cho các trí thức trẻ tự thân vận động, họ vẫn sẽ ủng
hộ chương trình chính trị của Đảng Lao động Việt Nam một cách trung thành, và
chính vì thế, họ đáng được tin tưởng nhiều hơn. Nói cách khác, đảng mất gì mà
không cho tự do ngôn luận? Mục tiêu thứ hai là thể hiện cho lãnh đạo đảng và những
thành viên khác của giới trí thức thấy có những sáng tác văn chương thực sự cách
mạng hơn, hay hơn so với loại thơ “tiểu tư sản” của Tố Hữu. Cứ để tự do ngôn luận,
chế độ sẽ dễ dàng phát hiện và bồi dưỡng những tài năng trẻ.
Không thấy rung động trước nỗ lực ve vãn cảm tình của mình
theo cách này, lãnh đạo đảng lập tức ra lệnh tịch thu tuyển tập. Tuy nhiên, một
điều quan trọng cần lưu ý là họ (lãnh đạo đảng) giải quyết vấn đề Giai Phẩm
mùa Xuân 1956 hoàn toàn qua kênh quản lý văn hóa. Xem cả hai ấn phẩm nặng
ký nhất của đảng, báo Nhân Dân và Học Tập – một tạp chí lý
luận mới ra đời trước đó không lâu, không có một bài báo nào “đánh” ấn phẩm
này. Chính vị quan chức văn hóa sắt đá Hoài Thanh đứng ra triệu tập cuộc họp
các nhà văn để phê bình bài thơ “Nhất định thắng” của nhà thơ quân đội trẻ nóng
tính Trần Dần đăng trong tập Giai Phẩm mùa Xuân 1956.[29] Có chân trong ban
lãnh đạo Hội Văn nghệ, đương nhiên Xuân Diệu cũng phải phát biểu ý kiến về việc
này, mà hình như ai cũng biết là có liên quan đến vấn đề tự do ngôn luận trong
chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bài báo ông viết trên báo Văn nghệ không
bao lâu sau khi Giai Phẩm mùa Xuân 1956 bị tịch thu là lời minh định
rõ ràng, khó có thể hiểu khác đi được. Dưới tiêu đề “Vai trò lãnh đạo của Đảng”,
bài báo thực chất là bản dịch rút gọn lời phát biểu của Nikolai Fadeyev – một
quan chức văn học Liên Xô tại Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ hai mươi tổ
chức vào tháng Hai năm 1956 “Đối với chúng ta, những nhà văn trong Đảng hay
ngoài Đảng, khía cạnh quan trọng nhất của quan niệm chúng ta về một nền văn học
tự do, tức là thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong tất cả mọi
lĩnh vực của đời sống và trong lĩnh vực văn học. Những nhà văn tư sản thì phụ
thuộc vào các đảng tư sản, mà cầm đầu là bọn trùm của giới kỹ nghệ và tài chính,
nhà văn phải phụ thuộc vào các nhà xuất bản của chúng, vào báo chí của chúng.
Thuật ngữ ‘phi chính trị’ của các nhà văn tư sản chỉ là ảo tưởng”.[30]
Đợt công kích của Văn nghệ vào Giai Phẩm mùa
Xuân 1956 sử dụng chiến thuật hai gọng kìm. Trước hết, Xuân Diệu biện luận
rằng đảng không thể tha thứ cho hành động thách thức vị thế độc quyền của mình
trong lĩnh vực văn hóa. Việc xuất bản riêng, không qua tổ chức đảng tức
là Giai Phẩm mùa Xuân 1956 đã không chịu phục tùng yêu cầu bắt buộc về
kiểm duyệt của chế độ. Một điềm xấu hơn nữa đối với những trí thức nhiều ưu tư
về tình trạng chế độ ngày càng gia tăng kiểm soát, phần nội dung bài phát biểu
được Xuân Diệu chọn dịch thừa nhận “vai trò lãnh đạo” của đảng không chỉ trong
lĩnh vực văn học mà còn trong “tất cả mọi lĩnh vực của đời sống”. Hoài Thanh đảm
nhận mũi tấn công thứ hai bằng bài viết in ngay sau bài của Xuân Diệu với nhan
đề “Vạch tính chất phản động của bài thơ ‘Nhất định thắng’ của Trần Dần”[31]. Trong bài viết, Hoài
Thanh dùng một loạt đòn bẩy tư tưởng và hùng biện để bẻ cong bài thơ yêu nước
và đầy tính chiến đấu của Trần Dần thành “phản động” và nổi loạn.[32] Hơn một tháng rưỡi
sau, một quan chức văn hóa cốt cán khác – Nguyễn Đình Thi, đột nhiên đào xới lại
việc này, đăng liên tiếp trên hai số Văn nghệ ngày 19 và 27 tháng Tư
năm 1956 bài viết dài hai phần với tiêu đề “Những sai lầm tư tưởng trong tập
sách Giai Phẩm”.[33]
Ngay sau khi Giai Phẩm mùa Xuân 1956 được phát
hành, Xuân Diệu đã có những bước dứt khoát để tách mình ra khỏi Trần Dần và Lê
Đạt. Tuy nhiên, điều quan trọng ta cần lưu ý là bài viết của Xuân Diệu
đánh Giai Phẩm không hề động chạm tới nội dung tuyển tập. Nếu lấy lời
phê bình của Xuân Diệu đối với Việt Bắc làm thước đo, những bài thơ của
Trần Dần, Lê Đạt và các tác giả khác trong tuyển tập Giai Phẩm mùa Xuân
1956 có lẽ đã được Xuân Diệu duyệt về chất lượng. Trong khi, theo con mắt
của Xuân Diệu, Tố Hữu còn nhiều thiếu sót – như không thể hiện được một “Tố Hữu,
con người bình thường” hay “gần như bỏ qua tình cảm cá nhân”, thật ra các tác
giả trẻ của Giai Phẩm mùa Xuân 1956 đã thành công.[34] Có lẽ Xuân Diệu chọn
cách dịch bài diễn văn mới của quan chức văn hóa Liên Xô phần nào để tránh công
việc khó khăn là bới móc những nội dung nguy hiểm và phản động trong Giai
Phẩm mùa Xuân 1956 – một tuyển tập thể hiện rõ ràng sự ủng hộ đối với Đảng
Lao động Việt Nam và những mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Nhưng có lẽ yếu tố quan trọng nhất là khi Xuân Diệu quyết định
sử dụng bài diễn văn của Fadeyev, các trí thức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như được
bật đèn xanh để khai thác các thông tin, văn kiện của Đại hội Đảng Cộng sản
Liên Xô lần thứ 20 làm dẫn chứng cho tính chính thống của quan điểm của mình đối
với các sự kiện trong nước. Những người thấy thất vọng với Xuân Diệu khi ông
công khai viện dẫn quyền lực của Fadeyev đã không thể ngờ được rằng chính chiến
thuật khôn ngoan đó lại nổ ngược một cách ngoạn mục làm điêu đứng nhà thơ và
các lãnh đạo bảo thủ khác của giới trí thức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó là vì
có một bài diễn văn “bí mật” khác, mà đến giờ ai cũng rõ, cũng được đọc ngay tại
Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô – bản báo cáo nổi tiếng của Khrushchev lên án
Stalin. Từ bài diễn văn đó, các nhà trí thức bất bình trong đội ngũ nhà văn có
thể khai thác được không biết bao nhiêu lời biện hộ ở cấp cao nhất cho kế hoạch
cải cách của họ – trên thực tế những thành viên Nhân văn – Giai phẩm sẽ coi
Khrushchev như một ông thánh bảo hộ.
Quyết định chậm công bố bài của Khrushchev vạch mặt những tội
ác của Stalin của Đảng Lao động Việt Nam đã làm cho chàng thi sĩ cả tin Xuân Diệu
bị việt vị. Nếu được biết về bản báo cáo bí mật đó, chắc ông đã chọn cách khác
để tấn công Giai Phẩm mùa Xuân 1956. Tuy nhiên, cũng phải thấy sự cân nhắc,
lưỡng lự xem có nên công bố nội dung bản báo cáo của Khrushchev hay không từ
phía các nhà lãnh đạo là có nguyên cớ, vì từ Hồ Chí Minh, Trường Chinh đến các
quan chức khác của Đảng Lao động Việt Nam đã mất rất nhiều công sức khuếch
trương hình ảnh của Stalin ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[35] Họ sẽ phải giải
thích thế nào về một ông Stalin khát máu, cố chấp, đôi khi bất tài đến mức làm
hỏng việc như Khrushchev đã tả trong bản báo cáo bí mật? Giống như những nhà
lãnh đạo khác trong khối xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh cũng lâm vào tình thế tiến
thoái lưỡng nan khi phải lên tiếng về những điểm xấu của thói “sùng bái cá
nhân”, vì ông rõ ràng đã khuyến khích xây dựng một vòng hào quang sùng bái
quanh hình ảnh chính mình ở Việt Nam.[36] Hơn thế nữa, nội
dung bản báo cáo của Khrushchev còn có vấn đề ở chỗ, phần dài nhất được tác giả
dành để kể về những năm tháng chuẩn bị và giai đoạn chính của cuộc Đại Thanh trừng
do Stalin tiến hành, từ năm 1934 đến 1938. Đối với Hồ Chí Minh, đây quả là một
vấn đề khó khăn, vì những năm tháng đó cũng trùng với thời gian ông đang ở
Moscow (tháng Bảy năm 1934 đến mùa xuân 1938).[37] Nếu đây là quá
trình Stalin thể hiện bộ mặt xấu xa nhất và Hồ Chí Minh đang ở ngay tại Moscow
trong suốt thời gian đó, thì tại sao ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Stalin lại (và
vẫn đang) được mô tả như một ông thánh trong suốt mấy thập kỷ qua? Tại sao Hồ
Chí Minh, lãnh tụ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Nikita Khrushchev, lãnh tụ mới của
khối xã hội chủ nghĩa, lại đi đến những kết luận trái ngược đến như vậy về di sản
của Stalin?
Những yếu tố nói trên giúp giải thích vì sao lãnh đạo Đảng
Lao động Việt Nam chậm tiết lộ thông tin về bản báo cáo của Khrushchev về
Stalin. Những bằng chứng từ hồi ký của nhà văn cách mạng Nguyễn Huy Tưởng cho
thấy, mãi tới tận ngày mồng Một tháng Tư năm 1956, tức là ba mươi tư ngày sau
khi bản báo cáo được công bố, những trí thức cao cấp của Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa mới bắt đầu hiểu thuật ngữ “tệ sùng bái cá nhân” là để chỉ Stalin.[38] Ngày 24 tháng Tư
năm 1956, Đảng Lao động Việt Nam ban hành Nghị quyết 9, với nội dung, theo tinh
thần Đại hội 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô, kêu gọi các cấp ủy “đấu tranh chống
tệ sùng bái cá nhân, tăng cường lãnh đạo tập thể, tích cực tham gia phê bình và
tự phê bình”.[39] Đợt
hóa giải ảnh hưởng của Stalin đã chính thức bắt đầu tại Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa.
[1] Là
thư ký tòa soạn, Xuân Diệu chịu trách nhiệm cuối cùng về tất cả các bài đăng
trên tờ báo. Tuy nhiên, theo chính thành viên Nhân văn – Giai phẩm Hoàng Cầm trả
lời phỏng vấn Thụy Khuê ngày 5/5/2997, nhân vật trong ban biên tập Văn nghệ tích
cực nhất trong cuộc tranh luận (http://thuykhue.free.fr/rfi/2007/20070519-HoangCam.mp3)
là con người đầy sức thu hút Nguyễn Hữu Đang. Sau đó, ông Đang trở thành một
thành viên có thể gọi là quan trọng nhất của phong trào Nhân văn – Giai phẩm.
Ta không thể không thắc mắc liệu có phải, trong chừng mực nào đó, Xuân Diệu đã
nghe theo ý của Nguyễn Hữu Đang thuyết phục về cách thức báo Văn nghệ tổ
chức và điều hành cuộc tranh luận.
[2] Lê
Văn Lương, “Chỉ thị của trung ương số 12-CT/TW, 9/4/55: Tăng cường lãnh đạo chống
đói và giải quyết nạn đói”, Văn Kiện Đảng Toàn Tập, 16:241; Ban bí thư,
“Điện của ban bí thư ngày 16 tháng 4 năm 1955 gửi các khu”, Văn Kiện Đảng
Toàn Tập, 16:252; Nguyễn Duy Trinh, “Thông tri của ban bí thư số 30-TT/TW ngày
29 tháng 4 năm 1955: về việc tích cực thi hành Chỉ thị số 12 của TW gấp rút
tăng cường lãnh đạo công tác chống đói”, Văn Kiện Đảng Toàn Tập, 16:279.
[3] Lê
Văn Lương, “Chỉ thị của bộ chính trị số 07-CT/TW ngày 16 tháng 2 năm 1955: Đẩy
mạnh đấu tranh phá âm mưu mới của địch trong việc dụ dỗ và cưỡng ép giáo dân di
cư vào Nam”, Văn Kiện Đảng Toàn Tập, 16:74.
[4] Từ
điển Văn học (Hà Nội, KHXH, 1984), 405-406.
[5] Boudarel, Cent
fleurs, 119.
[6] Về
chất lượng và phong cách, thơ Tố Hữu có thể so sánh, đại loại như với bài “Paul
Revere’s Ride” của Henry Wadsworth Longfellow.
[7] Báo Nhân
Dân thành lập năm 1951, là cơ quan chính thức của Ủy ban Trung ương Đảng
Lao động Việt Nam. Có thể tờ báo được lấy ý tưởng từ ấn phẩm cùng tên của Đảng
Cộng sản Trung Quốc.
[8] Xuân
Trường, “Vài ý kiến sau khi đọc tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu”, Nhân
Dân, số 329, 24/1/1955.
[9] Xuân
Diệu, “Đọc tập thơ Việt Bắc”, Văn nghệ, số 63, 15-22/2/1955.
[10] Sđd,
số 64, 28/2-10/3/1955.
[11] Hoàng
Yến, “Tập thơ Việt Bắc có hiện thực không?”, Văn nghệ, số 65,
11/3/1955. Bài này sau đó được đăng lại trên báo Nhân Dân hai số ra
ngày 3-4/4/1955. Bài báo được đăng lần đầu trên tạp chí văn học quân đội Sinh
Hoạt Văn nghệ.
[12] Về
khả năng lãnh đạo yếu kém, xem Lê Đạt, “Học tập Maikovski, phát huy sức sống mới
của thi ca Việt Nam (kỳ 1 và kỳ 2), Văn nghệ, số 69 và 70, 21/4/1955 và
1/5/1955. Về chất lượng thơ tầm thường, xem Hoàng Cầm “Tập thơ Việt Bắc ít
chất sống thực tế”, Văn nghệ, số 67, 1/4/1955; và Nguyễn Văn Phú, “Vài điểm
non yếu trong nghệ thuật tập thơ Việt Bắc, Văn nghệ, số 68 11/4/1955;
và Hoàng Cầm, “Bổ sung ý kiến của tôi về tập thơ Việt Bắc”, Văn nghệ số
70, 1/5/1955.
[13] Xem
Lê Văn Lương, “Vấn đề chỉnh huấn”, Văn Kiện Đảng Toàn Tập, 13:101-106.
[14] Có
thể kể các tờ báo Nhân Dân, Tổ Quốc, Độc Lập và Nói Thật.
Ngoại lệ duy nhất là báo Nhân Dân có đăng lại bài của Hoàng Yến, được
coi như bài mở màn cho cuộc tranh luận. Ngoài ra, không có một bài phê bình (chê)
nào xuất hiện ngoài mặt báo Văn nghệ.
[15] Sau
khi Nguyễn Đình Thi thay Xuân Diệu làm thư ký tòa soạn, màu ma-két báo Văn nghệ
đổi từ xanh lá cây sang đỏ cờ. Thông tin về ban biên tập, vốn được đăng ngay
trang bìa trong thời gian Xuân Diệu làm thư ký tòa soạn, bị đưa về trang cuối.
[16] Hoài
Thanh, “Nhìn lại hoạt động văn nghệ một năm qua”, Nhân Dân, số 697,
29/1/1956.
[17] Phê
bình công khai lãnh đạo cao cấp cỡ như Tố Hữu trong cuộc tranh luận về Việt
Bắc vẫn còn là điều cấm kỵ ở Việt Nam.
[18] Tô
Hoài, Cát bụi chân ai, 198-199.
[19] Tình
yêu đồng tính của Whitman đã được người nghiên cứu và viết tiểu sử ông trình
bày trong một bài phân tích thú vị. Xem Jeffrey Meyers, “Whitman’s Life” (Cuộc
đời của Whitman), The Antioch Review, số 4 (Autumn 2005): 755-787.
[20] Muốn
biết về ảnh hưởng của Whitman đối với các nhà văn Biểu tượng Pháp, xem P.M.
Jones, “Whitman in France” (Whitman ở Pháp), Modern Language
Review 10, số 1 (tháng 1/1915): 1-22. Về ảnh hưởng của Whitman đối với nhà
văn Liên Xô nổi tiếng Vladimir Mayakovsky, xem Dale E. Peterson, “Mayakovsky
and Whitman: The Icon and the Mosaic” (Mayakovsky và Whitman: Biểu tượng đơn
icon và hình ghép mosaic), Slavic Review 28, số 3 (tháng 9/1969):
416-425. Nghiên cứu về Chokovsky vừa với vai trò dịch giả của thơ Whitman vừa
làm chính trị, xem Rachel Polonsky, “Translating Whitman, Mistranslating
Bal’mont” (Dịch Whitman, dịch nhầm Bal’mont), Slavonik and Eastern Europe
Review 75, số 3 (tháng 7/1997):401-425. Trong bài viết thú vị này,
Polonsky đã ghi nhận rằng “Whitman đã từng được Max Nordau nhắc đến trong
nghiên cứu gây nhiều tiếng vang về căn bệnh mà ông cho là ‘bệnh đồi trụy’ Entartung [Sa
đọa, 1892], trong đó Whitman bị miêu tả là ‘bụi đời và phóng đãng’ và xếp đồng
hạng với Verlaine và Rimbaud và những kẻ giống như họ”.
[22] Jones,
“Whitman in France”, 4. Tác giả ghi nhận ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu văn học
suy đoán rằng các nhà thơ Pháp đã học thể thơ tự do của Whitman sau khi tác phẩm
của nhà thơ Mỹ này được dịch lần đầu tiên và xuất hiện ở Pháp vào năm 1886, tức
là một năm trước khi Pháp bắt đầu có lối làm thơ tự do.
[23] Chúng
tôi chưa tìm được bất kỳ bằng chứng nào về việc một nhà báo Mỹ đến trụ sở Hội Văn
hóa Cứu quốc. Có thể câu chuyện được dựng lên hoàn toàn (hoặc một phần nào) nhằm
mục đích tuyên truyền, tạo ấn tượng cho công chúng Việt Nam rằng khi đó nhà báo
nước ngoài đã nhìn nhận Hội là tiếng nói chính thức của văn hóa Việt Nam. Tại
thời điểm cuối năm 1945, thực ra Hội Văn hóa Cứu quốc, dù khá quan trọng, cũng
chỉ là một trong nhiều tiếng nói văn hóa ở Việt Nam.
[24] “Một
bức thư của Hội Văn hóa Cứu quốc Việt Nam trao tận tay cho các nhà văn hóa Hoa
Kỳ”, Tiên Phong, số 2, tháng 12/1945, 5.
[25] Xuân
Diệu, “Uýt-man: Nhà thi hào tiến bộ của nhân dân Mỹ”, Văn nghệ, số 102,
5/1/1956.
[26] Sđd
[27] Giai
phẩm Mùa xuân 1956 (Hà Nội, NXB Minh Đức, tháng 2/1956). Các tác giả khác
là Văn Cao, Trần Dần, Sỹ Ngọc, Tử Phác, Phùng Quán, Nguyễn Sáng và Tô Vũ.
[28] George
Boudarel và Kim Ninh đều đi đến kết luận giống nhau. Xem Boudarel, Cent
fleurs, 134-138 và “Intellectual Dissidence”, 159; và Kim Ninh, A World
Transformed, 137. Chúng tôi dùng từ “về cơ bản” chứ không phải “hoàn toàn” vì
tuyển tập có nhiều bài viết về nhân vật chính là người dẫn chuyện ở ngôi thứ nhất
(chứ không phải là quần chúng). Lãnh đạo đảng đương nhiên không muốn các trí thức
tiểu tư sản viết về bản thân mình. Để biết thêm một ý kiến phân tích mới lạ về
hiện tượng này, xem Chương bảy của Nguyễn-võ Thu-hương The Ironies of
Freedom. Kuriharu đưa ra ý kiến rằng bài thơ “Nhất định thắng” của Trần Dần có
những dòng “có thể hiểu như lời kêu gọi thống nhất đất nước bằng cách đưa quân
đội tiến chiếm miền Nam”, điều trái ngược với chính sách công khai được Đảng
Lao động Việt Nam công bố lúc bấy giờ là thống nhất bằng biện pháp hòa bình.
Xem Kuriharu “Changes in the Literary Policy”, 168. Cảm giác của chúng tôi là ý
kiến trên có vẻ mang tính suy đoán hơi quá, nhưng rất mong độc giả quan tâm tìm
hiểu thêm (xem khổ thơ thứ bảy).
[29] Trần
Dần là một trong những trí thức đầu tiên lên tiếng về chính sách văn nghệ gò bó
của đảng. Việc bày tỏ ý kiến công khai về vấn đề trên là một nguyên nhân khiến
ông bị quản chế hai lần (tháng 6/1955 và tháng 4/1956). Boudarel gọi ông là người
châm ngòi cho phong trào trí thức bất đồng chính kiến ở miền Bắc. Xem
Boudarel, Cent fleurs, 143.
[30] Xuân
Diệu, “Vai trò lãnh đạo của Đảng”, Văn nghệ số 110, 1/3/1956.
[31] Hoài
Thanh, “Vạch tính chất phản động của bài ‘Nhất định thắng’ của Trần Dần”, Văn
nghệ, số 110, 1/3/1956.
[32] Một
ví dụ là suy luận của ông này chụp mũ Trần Dần dùng hình ảnh mưa ở Hà Nội để vu
khống miền Bắc. Một ví dụ nữa là suy luận (theo đường lối chính thống của đảng)
rằng Trần Dần nói xấu miền Bắc khi thể hiện rằng đồng bào tự ý quyết định di cư
vào Nam. Quan điểm chính thức của Đảng Lao động Việt Nam là, những người di cư
là nạn nhân bị Mỹ, Diệm ép buộc phải đi.
[33] Nguyễn
Đình Thi, “Những sai lầm về tư tưởng trong tập sách Giai Phẩm”, Văn
nghệ, số 117 & 118, 19 và 27/4/1956.
[34] Xem
các tác phẩm, ví dụ như, Lê Đạt, hai bài thơ “Làm thơ” và “Mới”; Trần Dần, thơ
“Nhất định thắng”, Hoàng Cầm “Thơ qua đài phát thanh”; hay bài hát “Mưa Xuân” của
Tử Phác và Văn Cao.
[35] Các
nghiên cứu của Ilya V. Gaiduk và Christopher E. Goscha nhấn mạnh sự ngờ vực ban
đầu của Stalin cho rằng Hồ Chí Minh thiên về chủ nghĩa dân tộc hơn là chủ nghĩa
cộng sản và hậu quả của nó là sự khó khăn cho Đảng Cộng sản Đông Dương tái hòa
nhập với phong trào cộng sản thế giới sau Chiến tranh Thế giới lần II. Tuy
nhiên, có phải chính vì nguyên nhân này mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhiệt tình
lăng-xê Stalin hơn so với các quốc gia khác trong khối xã hội chủ nghĩa vẫn là
giải thuyết cần nghiên cứu thêm. Xem Ilya V. Gaiduk Confronting Vietnam:
Soviet Policy toward the Indochina Conflict, 1954-1964 [Đối phó với Việt
Nam: Chính sách của Liên Xô về xung đột ở Đông Dương, 1954-1964] (Standford:
Stanford University Press, 2003); và Christopher E. Goscha “Courting Diplomatic
Disaster? The Difficult Integration of Vietnam into the International Communist
Movement (1945-1950) “Journal of Vietnamese Studies 1, số 1-2 (tháng 2-tháng
8/2006): 59-103 (Bài này đã được dịch và đăng trên
talawas).
[36] Bằng
chứng rõ nhất về sự đóng góp của Hồ Chí Minh vào việc xây dựng hình ảnh lý tưởng
hóa chính mình ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau cách mạng tháng Tám là tự
viết tiểu sử bản thân tự thuật (dưới dạng tiểu sử thông thường – dùng bút danh
Trần Dân Tiên).
[37] Sophie
Quinn-Judge, Ho Chi Minh-The missing years, 1919-1941 [Hồ Chí Minh –
những năm tháng biệt tăm: 1919 – 1941] (Berkeley and Los Angeles: University of
California Press, 2002).
[38] “Vì
sao sùng bái cá nhân lại trái với tinh thần chủ nghĩa Mác-Lê nin?”, Nhân
Dân, số 759, 1/4/1956.
[39] “Nghị
quyết của hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng lao động Việt Nam lần thứ 9 (mở
rộng) (19-24/4/1956), Nhân Dân, số 785, 27/4/1956.
Hóa giải ảnh hưởng của Stalin ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Những lời lên án mạnh mẽ đến mức gây sốc về tội ác của Stalin
do Khrushchev phát biểu khiến những phần tử bất mãn trong đội ngũ trí thức ở Việt
Nam phấn khởi. Nhiều người còn đang giận dữ về cách xử lý của lãnh đạo văn hóa
đối với các giải thưởng văn học giai đoạn 1954 – 1955, mới công bố kết quả trên
báo Văn nghệ số ra ngày 15 tháng Ba năm 1956. Gần như đúng tròn một
năm sau vụ tranh luận về Việt Bắc, Xuân Diệu lại rơi vào vị trí trung tâm
của rắc rối. Vì chính quyết định trao giải nhì cho tập thơ cách mạng Ngôi
sao của ông đã làm dấy lên làn sóng phản ứng mạnh mẽ nhất, với sự xuất hiện
của ba bài phê bình trên tờ báo văn học tư nhân Trăm Hoa.[1]
Khi mọi chuyện đã qua, bây giờ nhìn lại mới thấy ba bài này
quả thực là phát súng mở màn cho một trận chiến về công tác cách mạng của Xuân
Diệu. Vấn đề cốt yếu vẫn là chất lượng những bài thơ cách mạng của ông. Liệu Ngôi
sao, tập trung tất cả những sáng tác của nhà thơ trong mười năm dưới sự dẫn dắt
của đảng có so được với Thơ thơ và Gửi hương cho gió không?
Nếu Ngôi sao quả là ưu việt hơn, điều đó có nghĩa là chính sách văn
hóa của đảng và sự chỉ đạo của các quan chức văn hóa là hợp lý. Nếu không, có
thể đã đến lúc phải cân nhắc những thay đổi lớn về chính sách và nhân sự. Trong
hoàn cảnh bình thường, ba bài phê bình trên Trăm Hoa và tiếp theo là
việc tờ báo phải đóng cửa vì phá sản sẽ đặt dấu chấm hết cho vụ việc này, và
các trí thức bất mãn sẽ hướng mối quan tâm của mình sang những thứ khác.
Nhưng lời kêu gọi của Khrushchev đã mang lại những thay đổi lớn
lao cho bầu không khí trí thức ở Hà Nội. Đối với những người đang bất mãn, nhà
lãnh đạo Liên Xô này đã tạo cho họ ấn tượng rằng, nếu kiên trì bày tỏ những nỗi
bất bình và đấu tranh cho những yêu cầu của mình, có thể mang lại những thay đổi.
Đối với lãnh đạo đảng, yêu cầu phải hòa nhịp với những biến động thời sự về tư
tưởng ở Moscow có thể buộc họ thấy rằng cần phải áp dụng một thái độ dung hòa
hơn đối với những yêu cầu của đội ngũ trí thức, nhất là khi họ đang trong tầm
quan sát của các đại sứ quán của khối xã hội chủ nghĩa đặt tại Hà Nội.
Bên cạnh đó, với một động thái chắc là có chủ ý đánh lạc hướng
sự quan tâm dư luận khỏi vầng hào quang sùng bái cá nhân đã và đang tồn tại
quanh Hồ Chí Minh, lãnh đạo đảng thận trọng đưa ra thuật ngữ “sùng bái cá nhân”
sao cho nghe có vẻ như một cấp độ hơi nặng hơn của các căn bệnh cũ như “cá nhân
chủ nghĩa”, “quan liêu”, “cửa quyền”. Đây là những thuật ngữ lãnh đạo Đảng Lao
động Việt Nam thường dùng trong suốt mấy thập kỷ trước để phê bình những đảng
viên không làm tốt công tác được giao.[2] Trên thực tế, Hồ Chí
Minh đã giải thích rõ về các lỗi lầm và căn bệnh (chính ông gọi như vậy) thường
mắc này cho đội ngũ đảng viên trong cuốn sách Sửa đổi lề lối làm việc ông
viết năm 1948.[3] Các
lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hẳn thấy nhẹ người khi biết rằng các trí thức
bất mãn ban đầu chỉ dừng ở mức áp dụng thuật ngữ “sùng bái cá nhân” đối với
lãnh đạo cấp trên trực tiếp của mình trong lĩnh vực văn hóa. Chừng nào mà sự chỉ
trích chỉ dừng lại trong giới hạn an toàn với những mối ưu tư nhỏ hẹp về công
tác văn hóa, lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam tỏ ra sẵn lòng để cho đội ngũ trí
thức cạo gáy các lãnh đạo chuyên môn của mình.
Tất cả những điều đó là dấu hiệu xấu báo trước một thời kỳ
sóng gió sắp đến với Xuân Diệu, khi những lời bàn sôi nổi về quá trình tham gia
cách mạng của ông lan sang tới các trang báo Văn nghệ. Trên tờ báo này,
quan chức văn hóa cao cấp Hoài Thanh, người đã tham gia ban giám khảo, buộc phải
bảo vệ quyết định trao giải nhì cho Ngôi Sao với những lời khẳng định
công khai về tác phẩm của Xuân Diệu:
“Cách mạng càng tiến lên, Xuân Diệu càng thêm gắn bó với quần
chúng, nhất là với quần chúng nông dân, nhờ đó thơ Xuân Diệu càng thêm chắc về
nội dung tình cảm, thêm giản dị về điệu về lời. Và đã có lúc chúng ta tưởng như
gặp một Xuân Diệu hoàn toàn mới. Nhưng cuộc đấu tranh giữa cái mới và cũ trong
thơ Xuân Diệu cũng như trong con người của mỗi chúng ta là một cuộc đấu tranh
gay go. Trong cái mới sao cho khỏi rơi rớt lại những cái cũ. Cái phần cũ tôi muốn
nói cái phần sống sượng, lệch lạc, giả tạo trong thơ Xuân Diệu cũng còn nhiều.
Nhưng hôm nay tôi không định nói về phần ấy. Tôi muốn nói về cái phần đứng đắn,
chân thành trong thơ Xuân Diệu.”[4]
Tuy dành phần lớn bài viết để khen ngợi những phần đúng đường
lối của Ngôi Sao, chính Hoài Thanh đã công nhận những nhược điểm của tập
thơ này. Tuy vậy, ông ta quy nguyên nhân cho quá khứ tiểu tư sản của Xuân Diệu,
chứ không phải vì những giá trị và sự dẫn dắt tác giả mới tiếp nhận trong mười
năm phục vụ cách mạng.[5]
Dù được sự tiếp ứng nói trên, tình hình vẫn ngày càng xấu đi
cho Xuân Diệu. Một tuần sau bài viết của Hoài Thanh, Văn nghệ đăng một
bài ngắn của nhà thơ lãng mạn nổi tiếng Nguyễn Bính, lớn tiếng phản đối sự
thiên vị của ban giám khảo dành cho Ngôi Sao và phủ nhận những lời
bào chữa của Hoài Thanh, cho rằng đó chỉ là nỗ lực xoa dịu dư luận một cách vụng
về:
“Thắc mắc chung quanh tập Ngôi sao thực là nhiều và
sôi nổi. Có những thắc mắc đã nói ra trên báo chí, có những thắc mắc chỉ trao đổi
trong những cuộc mạn đàm. Có những thắc mắc trong anh em Văn nghệ, có những
thắc mắc của bạn đọc. Của những người ở vùng tự do cũ, cũng như ở vùng mới giải
phóng, ở nhiều tầng lớp khác nhau, trong những cương vị công tác, hoạt động
khác nhau. Nói chung, phần tán thành ít mà phần thắc mắc thì hầu như phổ biến.
Tập thơ Ngôi sao lại đã xuất bản trước khi công bố giải thưởng. Ngay
khi chưa biết nó được giải cũng đã nhiều anh em phàn nàn về những mặt hỏng của
nó. Sao không có một cuộc thăm dò dư luận từ trước? Quả là ban giám khảo chưa
thực mở rộng dân chủ, chưa tha thiết lắng nghe ý kiến nguyện vọng của quần
chúng? Sự định đoạt giá trị và thứ bậc tác phẩm hầu như chỉ thu hẹp trong phạm
vi ban giám khảo, trong sự bàn cãi phân tách của một số nhỏ người.
[…] Đối với những phản ứng trong quần chúng, Ban chấm giải
không tự kiểm điểm, không trưng cầu ý kiến của quần chúng, khơi cho hết thắc mắc
của mọi người, mà chỉ tìm cách xoa dịu bằng một bài báo nặng tính cách bào chữa
của Hoài Thanh trong Văn nghệ số 122. Một vài anh em không bằng lòng
ra mặt những bài phê bình tập Ngôi sao trên báo Trăm hoa, cho
đó là lối “đập” thiên lệch và ác. Trong khi ấy trên tờ báo của Hội vẫn có những
bài phê bình có tính cách “đập” thiên lệch và ác như bài của Nguyễn Đình Thi
phê bình Giai phẩm. Phải chăng đó là lưu tệ của cái thói “lỗi người để túi
trước, lỗi mình để túi sau?”[6]
Ngày 21 tháng Sáu năm 1956, Văn nghệ đăng tiếp bài
viết thứ ba về Ngôi sao, của một nhà văn khác tên là Huy Phương.[7] Tác giả lập luận rằng,
mặc dù thơ cách mạng của Xuân Diệu nói chung có biểu hiện một lòng thiết tha với
dân tộc, nhân dân và cách mạng, nhưng tình cảm cao quý ấy chỉ hiện lên rất “yếu
đuối” trong tập Ngôi sao. Huy Phương viết, “Nhưng những lúc nào Xuân Diệu
bạo dạn đi sâu vào thực tế, được chất chiến đấu của thực tế tác động mạnh mẽ
vào tâm hồn, thì ta thấy anh cũng đã viết được những bài thơ thành công”. Tuy
nhiên, Huy Phương viết tiếp, “nhưng những khi Xuân Diệu trở về với ‘hồn thơ’ của
mình thì thơ anh chỉ là tiếng nói yếu đuối của con người còn vướng mắc trong
cái “tôi” riêng lẻ bé nhỏ.” Do vậy, tác giả kết luận trong bài, những vần thơ
cách mạng hay nhất của Xuân Diệu là nhờ cảm hứng trong quá trình Xuân Diệu tham
gia cải cách ruộng đất.[8]
Phần còn lại của bài viết là sự khai triển lập luận trên, khi
tác giả cố chứng minh những điểm mạnh của thơ cách mạng Xuân Diệu là kết quả của
quá trình học hỏi theo chỉ dẫn của đảng (nhất là những phần lấy cảm hứng từ cuộc
đấu tranh thực sự của quần chúng lao động). Trái lại, tất cả những điểm yếu là
kết quả của sự chệch hướng khi tác giả không theo sự dẫn dắt của đảng, để cái
tôi cá nhân của quá khứ tư sản xen vào gây tác hại. Ngay cả những vần thơ tuyệt
đẹp tả thiên nhiên đã góp phần mang lại sự nổi tiếng cho thơ lãng mạn Xuân Diệu
(và Hoài Thanh đã gồng mình thuyết phục mọi người rằng trong Ngôi sao vẫn
có những vần thơ như vậy) cũng không làm Huy Phương hài lòng: “… Xuân Diệu nhìn
quanh mình chỉ thấy những màu sắc lung linh, óng ả của núi sông, mây gió, cờ
sao… Anh ngợp đi trong những lạc thú về thị giác và vị giác, cuộc đời biến diễn
trước mắt, anh thấy như một bữa tiệc ngon của mắt và mồm.”
Một trong những nội dung thú vị nhất của bài viết là những lời
bàn của Huy Phương về cách Xuân Diệu tả chiến tranh. Hiển nhiên đây là phần khó
đổi lỗi cho quá khứ tư sản của nhà thơ nhất trong cả tập Ngôi sao, vì
đương nhiên những tập thơ lãng mạn nổi tiếng của Xuân Diệu Thơ thơ và Gửi
hương cho gió không hề có chỗ cho bạo lực. Vậy phải giải thích những câu
thơ sau thế nào đây? Tả quân địch, Xuân Diệu viết:
Rượu mồi hôi, bánh xương tủy tim gan,
Thịt nhân quần chúng mày vẫn uống ăn.
Và
Óc đã vỡ máu lộn cùng xương tủy
Tay lìa chân, đầu rụng tiệc đau thương.
Tả người lính Việt Minh, Xuân Diệu viết:
Giữa xuân nay muôn chiến sĩ say mê
Lấy máu tủy đổ ra đời bát ngát
Ngừng tay lại thấy sức xuân còn nhạt
Đổ máu thêm cho đến lúc toàn hồng.[9]
Điều khiến Huy Phương thấy khó chịu vì những dòng thơ “nhễ nhại
những máu huyết” này là “bệnh khoái cảm” (khoái cảm bệnh hoạn) mà Huy Phương
tin là Xuân Diệu đã đạt được khi viết những dòng thơ đó. “Những câu như vậy,
cái lối nhìn như vậy không phải là những trường hợp ngẫu nhiên trong thơ Xuân
Diệu. Nó là biểu hiện của cả một thái độ sống bắt nguồn từ cả một hệ thống ý thức
và tình cảm của tác giả”. Tình cảm, theo Huy Phương, là “một cạnh khía quan trọng
của khả năng cảm thông của tác giả với thực tế” và vì thế phải có một vị trí
quan trọng trong thơ. “Nhưng khi cảm giác của nghệ sĩ thiên về tính chất hình
thức và hưởng thụ thậm chí trở thành một động cơ sáng tác thì đó là biểu hiện của
bản chất hưởng lạc cá nhân của chủ nghĩa lãng mạn tư sản”.[10] Huy Phương lập luận
rằng, trong những vũng máu huyết, “bánh tim gan”, tay chân đứt lìa, óc vỡ này,
thông điệp cách mạng không thể đến được với người đọc. Cùng với những nhược điểm
khác mà nhà phê bình trẻ này cho là Ngôi sao mắc phải, Huy Phương nhận
xét rằng Xuân Diệu có khoái cảm trước cảnh bạo lực rùng rợn và quy kết nguyên
nhân tại quá khứ tư sản của nhà thơ.
Thời kỳ Nhân văn - Giai phẩm: tháng Tám đến tháng Chạp năm
1956
Suốt bốn tháng liền từ tháng Tám đến tháng Chạp năm 1956, thời
kỳ của phong trào Nhân văn - Giai phẩm, công tác kiểm soát báo chí của đảng trở
nên dễ dãi hơn bao giờ hết trong suốt lịch sử của chế độ. Vì sao, mới ra lệnh tịch
thu Giai Phẩm Mùa Xuân 1956 vào tháng Hai, lãnh đạo đảng lại đột ngột
chuyển hướng và cho phép tự do báo chí vào những tháng cuối năm 1956? Trước hết,
vì nhu cầu viện trợ từ Liên Xô và Trung Quốc là rất cấp bách, khiến giới lãnh đạo
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thấy buộc phải hòa nhịp với những diễn biến chính trị
tư tưởng ở hai nước đồng minh này. Ở Moscow, đó là phong trào hóa giải ảnh hưởng
của Stalin, ở Bắc Kinh, đó là chính sách Trăm Hoa. Một yếu tố bên ngoài nữa là
cuộc nổi dậy Poznan ở Ba Lan vào tháng Sáu. Một chị thỉ của ban bí thư đảng ban
hành tháng Tám nhận định: “Bọn tay sai của Mỹ – Diệm còn lại ở miền Bắc có thể
lợi dụng những sai lầm và khó khăn tạm thời của ta để phá hoại ta. Vụ lộn xộn xảy
ra ở Pôdơnan (Poznan) thuộc Ba Lan gần đây là một bài học cảnh giác lớn cho
ta”.[11] Một yếu tố
quan trọng của hoàn cảnh trong nước có tác động đến quyết định nhân nhượng đột
ngột của đảng là dư chấn còn nóng hổi của chiến dịch cải cách ruộng đất đầy bạo
lực, mới kết thúc vào tháng Sáu năm 1956. Những người được tiếp cận bản báo cáo
bí mật của Khrushchev không thể không nhận thấy sự tương đồng giữa những sự kiện
tiêu cực được nêu trong văn bản đó với những cái gọi là “sai lầm” trong chiến dịch
cải cách ruộng đất ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (giết người không cần xét xử,
tra tấn để cưỡng bức nhận tội hoặc tố cáo người khác, cùng với hàng loạt biểu
hiện bất chấp nhân quyền trong chiến dịch).
Một biểu hiện của cảm giác lo lắng của giới lãnh đạo Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa trong giai đoạn này có thể thấy qua Chỉ thị 45 của ban bí thư
Đảng Lao động Việt Nam, ban hành ngày 23 tháng Tám năm 1956: “Về tăng cường vận
động quần chúng để đề phòng bọn phản động gây ra tình trạng cưỡng bức di cư vào
Nam hay kích động gây hấn hoặc phá hoại.” Lúc đó đã hơn một năm sau ngày biên giới
Nam Bắc khép lại, lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn e ngại nguy cơ di dân
hàng loạt. Một phần khác của chỉ thị, chủ yếu nói về các cộng đồng Công giáo,
viết rằng “trong số người có tư tưởng muốn đi Nam thì phần lớn là nông dân lao
động, nhiều người được chia quả thực trong cải cách ruộng đất [12], có nơi cả cốt cán và
cán bộ xóm cũng muốn đi”.[13] Nhà
văn cách mạng Nguyễn Huy Tưởng ghi trong nhật ký ngày 21 tháng Tám năm 1956 về
tình hình lúc bấy giờ như sau: “Nông dân sau cải cách ruộng đất, đánh nhau vì
tranh tháo nước, để cứu úng thủy. Có hiện tượng Diệm nó phát động một phong
trào di cư mới. Mà lần này có thể cả quần chúng cơ bản đi”.[14]
Giai đoạn đầu của thời kỳ Nhân văn – Giai phẩm có thể được
đánh dấu bằng hội nghị do lãnh đạo Hội Văn nghệ triệu tập từ ngày mồng một đến
ngày mười tám tháng Tám năm 1956. Hơn ba trăm trí thức đủ mọi thành phần đang
làm việc ở Hà Nội đã tới dự hội nghị, nhiều người đã tận dụng ngọn gió “dân chủ”
do Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô đưa đến (đến lúc đó đã được thể hiện trong
Nghị quyết 9 Đảng Lao động Việt Nam) để bày tỏ những bức xúc bị dồn nén lại
trong một thời gian dài.[15] Trong
thời gian diễn ra hội nghị, cả Văn nghệ và Nhân Dân cùng
đăng trích đoạn bài báo viết bằng tiếng Trung của Lục Định Nhất “Trăm Hoa Đua Nở,
Trăm Nhà Đua Tiếng”, mở đường cho luồng gió dân chủ thứ hai đến từ Bắc Kinh.[16] Như chúng ta đều biết,
trong vòng ba tháng sau hội nghị học tập nói trên, những trí thức cách mạng bất
mãn ở Hà Nội rủ nhau lần lượt xuất bản bốn ấn phẩm mới: báo Nhân Văn và
ba tạp chí văn hóa Đất Mới, Sáng Tạo và Nói Thật, đồng thời
tái bản hai tờ báo Giai Phẩm và Trăm Hoa.[17]
Những bài vở trong các ấn phẩm này đề cập đến hàng loạt vấn đề
và không dừng lại ở lĩnh vực văn nghệ: tự do, dân chủ, tham nhũng, bạo lực cách
mạng, hóa giải ảnh hưởng của Stalin, cải cách tư pháp, chủ nghĩa Mác, nhân quyền,
giá trị truyền thống và nhiều chủ đề bức thiết khác. Chung quy, phần lớn các chủ
đề trên, bằng cách này hay cách khác, đều quy về vấn đề cơ bản nhất: tự do.
Trên thực tế, hai từ “tự do” và “dân chủ” xuất hiện ít nhất 360 lần trong ba
mươi trang của năm số báo Nhân Văn. Các báo chí tư nhân thời kỳ Nhân văn –
Giai phẩm kêu gọi lãnh đạo đảng tiến hành cải tổ nhiều lĩnh vực, tuân thủ các
tiêu chuẩn mà đảng áp dụng cho mọi người khác, và công nhận rằng việc lý tưởng
hóa Liên Xô như một thiên đường xã hội chủ nghĩa không một tỳ vết là không còn
hợp thời nữa. Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng, dù các thành viên phong trào Nhân
văn – Giai phẩm yêu cầu phải đánh giá lại hình ảnh của Liên Xô và của chính Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa cho phù hợp thực tế hơn, điều này không hề dẫn tới yêu cầu
tương tự về việc xem xét lại nhận định tiêu cực của chế độ miền Bắc đối với Cộng
Hòa miền Nam Việt Nam hay đồng minh Hoa Kỳ.[18]
Trong thời kỳ Nhân văn – Giai phẩm, có bảy bài báo về Xuân Diệu
gây nhiều chú ý (ba bài trên báo chí của nhà nước và bốn bài trên báo tư nhân).
Cả bảy bài báo đều tập trung vào quá trình tuyển tập thơ cách mạng của Xuân Diệu Ngôi
sao được xét trao giải nhì của giải thưởng văn học Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa 1954 – 1955, và chất lượng chung của tuyển tập này có xứng đáng hay không.
Có lẽ để bộc lộ rằng sự nghiệp cách mạng của Xuân Diệu đã trở
thành một đề tài căng thẳng đến thế nào, bài báo đầu tiên trên ấn phẩm đầu tiên
của thời kỳ Nhân văn - Giai phẩm, Giai Phẩm Mùa Thu tập 1 dành hẳn một
đoạn nói về nhà thơ. Bài báo của Phan Khôi nhan đề “Phê bình lãnh đạo văn nghệ”
có thể coi là bài luận nổi tiếng nhất trong suốt bốn tháng sôi động với rất nhiều
tranh luận học thuật.[19] Khi
Phan Khôi viết bài này năm 1956, ông đã 69 tuổi (hơn Hồ Chí Minh ba tuổi). Nhà
trí thức lão thành khó tính và bộc trực này có uy tín cao trong văn giới, và đã
tham gia nhiều công tác yêu nước, từng viết báo, dạy học và viết văn. Đã sống
và làm báo ở tất cả ba trung tâm văn hóa lớn của Việt Nam: Hà Nội, Huế và Sài
Gòn, ông hiểu biết về đất nước và con người Việt Nam không kém gì ai. Về quan hệ
của ông với Xuân Diệu, Phan Khôi là người đã phát động và ủng hộ Phong trào Thơ
mới từ đầu thập kỷ 1930. Ngoài những thành tích đáng nể về chuyên môn, Phan
Khôi còn xuất thân từ một dòng họ hoàn hảo, có truyền thống ái quốc. Ông ngoại
Phan Khôi là vị tướng huyền thoại Hoàng Diệu, người được giao trọng trách trấn
thủ thành Hà Nội trước đợt tấn công của Pháp năm 1882. Khi tất cả mọi kế sách đều
thất bại, theo lời kể lại, Hoàng Diệu đã tự vẫn để tỏ rõ trách nhiệm của bản
thân với tư cách một viên tướng đã không thể làm tròn trọng trách giữ thành vốn
đã hứa với đức vua và triều đình.[20]
Bài báo của Phan Khôi dài mười trang và gồm bốn phần. Trong
phần mở đầu, nhà báo lão thành tuyên bố ông sẽ nói sự thật, với ngôn ngữ không
úp mở để tất cả mọi người đều hiểu. (Việc tác giả thấy có nhu cầu tuyên bố điều
này có thể gợi cho ta thấy, vào thời điểm đó ngôn ngữ Bôn-sê-vích đã trở nên rối
rắm khó hiểu đến thế nào). Ông cũng thông báo rằng có một phe “đối lập” trong
lĩnh vực văn nghệ, gồm nhiều trí thức ở gần như tất cả mọi cấp, mọi lĩnh vực,
là những người không bằng lòng với các lãnh đạo văn hóa của Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa.[21] Phan Khôi
dành phần hai của bài báo để nói về vấn đề tự do sáng tác, lập luận rằng thái độ
nghi ngờ của lãnh đạo đảng đối với các văn nghệ sĩ cách mạng trẻ là không hợp
tình hợp lý. Theo ước tính của Phan Khôi, những trí thức cách mạng đã làm vượt
yêu cầu để chứng tỏ được lòng trung thành trong suốt tám năm kháng chiến. Phần
thứ ba của bài báo ông phê phán sự thái quá trong cách xử lý của các lãnh đạo
văn hóa đối với Giai Phẩm Mùa Xuân 1956 và tác giả Trần Dần trong
tháng Hai vừa qua.
Phần bốn và cũng là phần cuối cùng của bài báo là nơi bắt đầu
có những rắc rối cho Xuân Diệu. Trong phần này, Phan Khôi kể lại kinh nghiệm bản
thân trong thời gian làm thành viên ban giám khảo xét giải thưởng văn học
1954-1955, xoáy sâu vào những lời bàn của ban giám khảo về tập thơ Ngôi
sao của Xuân Diệu:
“Hôm bình định về thơ, tôi phản đối tập Ngôi sao đứng
giải nhì, tôi nói: có vớt vát lắm thì cũng chỉ nên để nó đứng giải ba. Tôi cử
ra những câu bí hiểm không thể hiểu nghĩa được, thì ông Huy Cận (một trong Ban
chung khảo) bảo rằng đó là tại tôi “muốn” không hiểu thì không hiểu. Quái, tôi
“muốn” làm sao được? Theo lẽ, ông Huy Cận nếu binh vực cho Ngôi sao thì
phải cắt nghĩa rạch ròi những câu ấy ra, chứ sao lại bảo rằng tôi “muốn” không
hiểu?”[22]
Sau đó, Phan Khôi tả lại lúc ông chỉ ra một vài câu thơ không
hẳn khó hiểu, nhưng “không đáng gọi là thơ”, ý muốn nói thơ cách mạng của Xuân
Diệu kém hơn thơ lãng mạn. Ông kể rằng, đáp lại lời ông, “một ông trong ban
(quên là ai) cãi rằng nếu thế thì bao lâu nay Đảng giáo dục Xuân Diệu không có
hiệu quả gì sao?” Hình ảnh Xuân Diệu được tả trong bài báo của Phan Khôi là một
người ích kỷ và cá nhân không khác gì ấn tượng chung về tính cách cũ nhà thơ
trước khi tham gia cách mạng, điều này đã phủ nhận mạnh mẽ diễn ngôn chính thống
rằng cách mạng đã hoán cải Xuân Diệu. Theo những thông tin Phan Khôi được biết,
Xuân Diệu đã dùng quyền lực và ảnh hưởng từ nội bộ đảng để để cao tập thơ của
mình: “Ban Chung khảo theo đề nghị của ông Xuân Diệu, sau khi tuyên bố giải thưởng,
phải làm nhiều cách tuyên truyền cổ động rầm rộ cho các tác phẩm được giải, và
đã cắt cử người nào viết bài phê bình cho tác phẩm nào.”
Nhưng điều mà Phan Khôi thấy “quái đản” nhất về giải thưởng
văn học nói trên là việc ba người trong ban giám khảo lại nộp tác phẩm dự giải:
“Về vụ này, có một điều, người ngoài không phải là tôi, không
biết đến, thì không lấy làm quái. Ấy là điều, ba ông Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng,
Hoài Thanh đều có tác phẩm dự thi mà đều ở trong Ban Chung Khảo. Nếu chỉ ở
trong Ban Chung khảo mà thôi, còn khá; thử điều tra lại hồ sơ, thì ba ông còn ở
trong Ban Sơ khảo nữa. Sao lại có thể như thế? Trường thi phong kiến thuở xưa,
tuy có ám muội gì bên trong, chứ bên ngoài họ vẫn giữ sạch tiếng: Một người nào
có con em đi thi, thì người ấy có được cắt cử cũng phải ‘hồi tị’, không được đi
chấm trường. Bây giờ cả đến chính mình đi thi mà cũng không ‘hồi tị’: một lẽ là
ở thời đại Hồ Chí Minh, con người đã đổi mới, đã “liêm chính” cả rồi; một lẽ là
trắng trợn vì thấy mọi cái ‘miệng’ đã bị ‘vú lấp’”.[23]
Để giải thích ý “vú lấp miệng” của mình, Phan Khôi tả lại một
vụ rõ ràng là cố tình che giấu thông tin trong một cuộc họp đột xuất của ban
giám khảo giải thưởng văn học 1954-1955 vào ngày 8 tháng Tám năn 1956. Trong buổi
họp đó, ông được đọc biên bản thảo luận của ban giám khảo: “Tất cả những ý phản
đối tập thơ Ngôi sao của tôi đều không được ghi vào biên bản. Tôi lập
tức viết thư cho ông (Trường Chinh) tổng bí thư Đảng Lao động Việt Nam để kể rõ
sự việc.”
Vì chính quyền đã không làm gì tiếp để giải quyết thắc mắc của
ông Phan Khôi, giờ đây khi mọi việc sáng tỏ trên mặt báo, mọi người có thể suy
luận là Trường Chinh và lãnh đạo đảng đã phớt lờ ý kiến của ông Phan Khôi. Có
ba cách lựa chọn cho các nhà lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam để giải quyết vấn
đề này, tất cả đều không dễ dàng trong hoàn cảnh hiện tại. Một là, họ có thể tiếp
tục làm ngơ trước lời yêu cầu xóa bỏ tham nhũng trong lĩnh vực văn hóa của Phan
Khôi. Nhưng điều này có nguy cơ khiến họ bị đánh giá là không quan tâm đến tình
trạng tham nhũng, và không theo đường lối của Khrushchev mới đưa ra về tăng cường
dân chủ trong đảng và lãnh đạo tập thể (có nghĩa là phải lắng nghe ý kiến từ
bên dưới). Hai là, lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam có thể nghe theo đề nghị của
Phan Khôi là tiến hành một số biện pháp kỷ luật đối với các lãnh đạo văn hóa.
Nhưng làm như thế chẳng khác gì gửi một thông điệp cho các trí thức rằng họ có
thể giữ vai trò cảnh sát đạo đức ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, có chức năng
giám sát chính quyền và buộc lãnh đạo đảng phải giải quyết những bất công mà
trí thức phát hiện. Lựa chọn thứ ba là tránh phải giải quyết những yêu cầu của
Phan Khôi là bằng cách làm thế nào đó để hạ uy tín của ông. Nhưng vì đảng đang
cho phép tự do báo chí trở lại, chắc chắn một chiến dịch bôi nhọ nhà báo lão
thành và nhiều uy tín này trên các cơ quan ngôn luận của đảng sẽ kéo theo những
phản hồi từ những người ủng hộ Phan Khôi trên báo chí tư nhân. Điều này sẽ thu
hút sự quan tâm rộng rãi hơn của quần chúng đối với Phan Khôi và các ấn phẩm tự
do trong thời kỳ Nhân văn – Giai phẩm.
Yến Lan
Khi đã xác định rằng không thể phớt lờ những yêu cầu công
khai của Phan Khôi, lãnh đạo đảng thử nghiệm một giải pháp kết hợp cả hai lựa
chọn còn lại, một mặt buộc ba quan chức văn hóa (Hoài Thanh, Nguyễn Tuân và
Nguyễn Đình Thi) công bố bài tự phê bình, mặt khác bật đèn xanh cho đăng những
bài viết hạ uy tín Phan Khôi. Bài đầu tiên của dạng này xuất hiện trên Văn
nghệ số ra ngày 20 tháng Chín năm 1956, tập trung đả kích bài của Phan
Khôi ở khía cạnh phê phán sai rằng lãnh đạo đảng đã phớt lờ một vụ gian lận hiển
nhiên. Tác giả của nó là nhà thơ, nhà biên kịch 40 tuổi, Yến Lan, người đã ghi
biên bản cuộc họp của ban giám khảo. Ông nhận rằng đó là quyết định cá nhân của
một mình ông khi loại bỏ ý kiến của Phan Khôi về tập Ngôi sao của
Xuân Diệu, chứ không phải là âm mưu chung của Ban như nhà báo Phan Khôi đã áp đặt:
“Biên bản là để ghi lại những ý chính của cuộc họp. Những nhận xét đó
(của ông Phan Khôi) đều lạc khỏi đề tài đang thảo luận, hoặc đưa ra trong lúc
giải lao, giữa hai ba người với nhau (nhiều lúc tranh luận rất sôi nổi, đôi khi
gay gắt nữa) và không được đưa vào biên bản vì thư ký lúc đó đang nghỉ giải
lao”.
Tiếp theo, Yến Lan trả lời thắc mắc của Phan Khôi đối với việc
ba người trong ban giám khảo (trong đó có Xuân Diệu) gửi tác phẩm và được trao
giải:
“Ông [Phan Khôi] đã vạch ra ba ông Hoài Thanh, Nguyễn Huy Tưởng,
Xuân Diệu có tác phẩm dự thi mà cùng đều ở trong ban chấm thi từ lúc sơ khảo đến
chung khảo. Cũng như những người khác, ông Phan Khôi có quyền nghi như thế sẽ
có điều ám muộn, nhưng trên thế giới việc đó không có gì là quái, miễn là người
ta phải làm việc đúng với nguyên tắc: những người ở ban chấm thi mà có tác phẩm
dự giải thì không có quyền biểu quyết tác phẩm của mình. Nguyên tắc ấy ở đây
xin chứng thực là luôn luôn được nhắt đến và làm đúng, còn ra có vị nể hay
không thì không thuộc phạm vi bài này.”[24]
Trần Công
Ngày 20 tháng Chín năm 1956 – ngày bài viết của Yến Lan được
đăng trên Văn nghệ, cũng tình cờ là ngày mà nhà trí thức cách mạng bất mãn Nguyễn
Hữu Đang, với sự cộng tác chủ yếu của Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Duy và Phan Khôi,
khai trương số đầu tiên của báo Nhân Văn. Cũng như số đầu tiên của tập Giai
Phẩm Mùa Thu xuất bản trước đó mấy tuần, tờ báo gai góc này ngay lập tức
khai thác chủ đề giải thưởng văn học 1954 – 1955. Trong bài báo “Chống bè phái
trong văn nghệ”, nhà văn trẻ Trần Công viết:
“Hoài Thanh, Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng, đại diện cho ban Chấp
hành Hội, đều có trách nhiệm lớn đối với phong trào. Thế mà tác phẩm còn non
kém của ba ông lại được giải. Nếu không phải tự mình bỏ phiếu cho mình thì cũng
là bè cánh ta lại bỏ phiếu cho tác phẩm tồi của bè cánh ta (cũng nên chú ý đến
Huy Cận có chân trong ban chấm giải, mà ai cũng biết Huy Cận và Xuân Diệu chỉ
là một).”[25]
Trần Công còn lục lại việc cũ trong quá khứ, đưa ra một vấn đề
hóc búa khác cho Xuân Diệu:
“Tập thơ Việt Bắc cũng là một tập thơ như muôn ngàn
tập thơ khác, dù có hay chăng nữa thì cũng chỉ là một tập thơ. Nhưng nó có cái
đặc biệt. Đặc biệt không phải ở thơ mà ở tác giả. Giá tập thơ Việt Bắc là
của người khác thì phê bình cũng chẳng sao đâu, nhưng Việt Bắc lại là
của Tố Hữu. Một loạt bài của Hoàng Yến, Hoàng Cầm, Lê Đạt làm một số cán bộ
lãnh đạo [Hội] Văn nghệ ngạc nhiên, tức giận thậm chí có người nói ‘Địch nó
không mong gì hơn chúng ta chê thơ Tố Hữu.’”[26]
Nguyễn Tuân
Một tuần sau đó, vào ngày 27 tháng Chín năm 1956, một bài báo
khác xuất hiện trên tờ Văn nghệ với chủ ý đáp lại những thông tin mà
Phan Khôi tiết lộ xung quanh việc chấm giải nhì cho tập thơ Ngôi sao đang
gây tranh cãi. Bài báo là một bản tự phê bình công khai của nhà văn nổi tiếng
thời Pháp thuộc, đương kim tổng thư ký Hội Văn nghệ, Nguyễn Tuân. Ông cũng tham
gia ban giám khảo, cùng với Phan Khôi, Xuân Diệu, Huy Cận, Hoài Thanh và năm
trí thức có uy tín khác của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[27] Trong bản tự phê,
dưới nhan đề “Những suy nghĩ về giải thưởng văn học 1954-1955”, Nguyễn Tuân thừa
nhận rằng ông không đồng tình với đề xuất trao giải nhì cho tập thơ Ngôi
sao (theo ông, trao giải ba thì xứng đáng hơn).[28] Tuy nhiên, theo
Nguyễn Tuân, vấn đề liên quan đến việc trao giải cho tập thơ Ngôi sao không
phải chỉ ở chỗ tác phẩm đáng được giải nào: “Riêng tôi muốn tác giả Ngôi
saotự nhìn mình nghiêm khắc nhiều hơn nữa, và tôi nghĩ rằng các anh Hoài Thanh,
Huy Cận đã tích cực bênh vực thơ Ngôi sao, có thể giúp đỡ nhiều cho tác giả
thấy rõ vấn đề. Riêng phần tôi, trong việc Ngôi sao, tôi cũng thấy mình nể
nang trước những ý kiến của Hoài Thanh đối với thơ Ngôi sao.”[29]
Ban thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam
Trong số tiếp theo, ra một tuần sau đó (ngày mồng 4 tháng Mười
năm 1956), báo Văn nghệ đăng tiếp một một bài tự phê thứ hai, liên
quan đến vụ Ngôi sao của Xuân Diệu: “Thông báo của Ban Thường vụ Hội
Văn nghệ.”[30]. Trong bài, hội
thừa nhận đã sai lầm trong việc xử lý vụ việc Trần Dần và bài thơ “Nhất định thắng”,
cũng như thiếu sót trong việc tuyển chọn giải thưởng văn học 1954-1955:
“Lề lối làm việc luộm thuộm, thiếu dân chủ, ít chú ý liên hệ
với quần chúng. Như trong khi chấm giải, đã có nhiều ý kiến về tập thơ Ngôi
sao, nhưng đa số ủy viên chưa thật chú ý lắng nghe.
… Cũng trong phiên họp trên của Ban chấm giải, đa số ủy viên
nhận rằng tập thơ Ngôi sao của Xuân Diệu xếp giải nhì là quá cao, một
số cho rằng xếp Ngôi sao vào giải ba thì đúng hơn.”[31]
Nguyễn Bính
Bài báo thứ sáu trong số bảy bài liên quan tới Xuân Diệu
trong thời kỳ Nhân văn – Giai phẩm, “Phải xem xét lại tất cả các giải thưởng
văn học” do Nguyễn Bính chấp bút và đăng trên hai số liền của tờ Trăm Hoa (ra
ngày 20 và 28 tháng Mười năm 1956).[32] Nguyễn Bính là nhà
thơ lãng mạn nổi tiếng, và cũng đã viết bài trên báo Văn nghệ bốn
tháng trước đó, yêu cầu các lãnh đạo văn nghệ phải “nghiêm túc tự phê” vì đã
trao giải nhì cho Ngôi sao trong đợt xét giải thưởng văn học
1954-1955. Khi đó, ông đang là chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Trăm Hoa, tờ báo
đã đăng ba bài phê phán tập Ngôi sao sau ngày công bố giải thưởng văn
học 1954-1955, ngày 15 tháng Ba năm 1956. Không lâu sau đó, tờ báo sập tiệm vì
hết tiền.[33] Bản
thân Nguyễn Bính cũng là một ngôi sao (tuy không rực rỡ bằng Xuân Diệu) của
Phong trào Thơ mới.[34] Về
hoạt động cách mạng, ông đã từng rời Hà Nội vào Nam từ năm 1944 để du ngoạn và
kiếm sống, ở đó khi cuộc cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống Pháp tái xâm
lược Việt Nam nổ ra, ông tiếp tục làm việc trên mặt trận văn chương cho Việt
Minh. Khi chiến tranh sắp kết thúc năm 1954, ông tập kết ra Bắc cùng với hàng
ngàn cán bộ Việt Minh khác và bắt đầu làm việc tại Nhà Xuất bản Văn nghệ. Chính
vì ở cương vị này mà ông nắm vững được thông tin chi tiết về quá trình xuất bản
tập thơ Ngôi sao.[35]
Bên cạnh các nội dung khác, Nguyễn Bính khai triển một vấn đề
do Trần Công nêu ra trong bài viết trên báo Nhân Văn cách đó một
tháng, về việc lạm dụng “yêu cầu cách mạng” làm mục tiêu biện minh cho mọi hành
động, thực chất là để che giấu động cơ mưu lợi cá nhân. Theo hướng này, Nguyễn
Bính lật lại câu nhận xét, lúc bấy giờ đã bị nhiều người chê bai, về cuộc tranh
luận Việt Bắc: “Địch nó không mong gì hơn là ta chê thơ Tố Hữu”. Nguyễn
Bính kết luận, thật là hổ thẹn khi “Ông Hoài Thanh đã đem cả địch ra mà bảo vệ
cho thơ Tố Hữu”. Theo Nguyễn Bính, nguyên nhân thực sự khiến Hoài Thanh bênh vực
tập thơ Việt Bắc là quan hệ công tác giữa ông ta và tác giả tập thơ –
Tố Hữu là thủ trưởng của Hoài Thanh. “Cái lối nịnh trên nạt dưới ấy tất nhiên
ông Hoài Thanh phải đem sử dụng vào việc chấm giải. Vì ông Tố Hữu ai cũng biết
là Trung ủy, là lãnh đạo văn nghệ, là Thứ trưởng…”[36]
Những lời phê của Nguyễn Bính còn trở nên trực tiếp hơn, cá
nhân hơn khi ông bàn tới mối liên hệ giữa giải thưởng văn học và tiền bản quyền
khi xuất bản. Ông tiết lộ rằng trong tất cả các thi sĩ có sách in ở nhà xuất bản
của Hội Văn nghệ, chỉ duy nhất có thơ Tố Hữu là được sắp vào loại A, “nghĩa là
thuộc cái loại giá trị nhất và được tính tiền bản quyền tác giả cao nhất.
(Không biết các ông lãnh đạo Hội có kiểm tra đôn đốc việc này hay không?)” Ở
đây cần phải lưu ý rằng cụm từ “kiểm tra đôn đốc” được sử dụng rất nhiều trong
các văn kiện đảng. Cũng tương tự như lời bàn của ông về việc Hoài Thanh viện tới
“địch” để bênh vực tập thơ của Tố Hữu, Nguyễn Bính nhại cụm từ “tủ” này một
cách mỉa mai để đánh động sự chú ý của mọi người rằng các quan chức cao cấp có
thể dễ dàng lợi dụng những thuật ngữ cách mạng rất văn hoa để đánh bóng và hợp
lý hóa những hành động, thực ra, có thể đơn thuần chỉ là vụ lợi cá nhân.
Nguyễn Bính cũng bật mí những chi tiết xung quanh quá trình
xuất bản tập thơ Ngôi sao. Theo ông, tất cả đội ngũ cán bộ của Nhà Xuất bản
Văn nghệ, nơi ông làm việc, đã đánh giá là tập thơ rất tệ, vì vậy, nó bị bỏ xó ở
một góc văn phòng suốt mấy tháng, mãi đến khi “cấp trên” liên tục nhắc nhở, buộc
Nguyễn Bính và đồng nghiệp phải triệu tập một cuộc họp, chọn ra những bài “đỡ tệ”
nhất trong bản thảo để gửi đến Nhà in Quốc gia. “Vì lẽ Thơ Xuân Diệu không có độc
giả, Xuân Diệu lại vận động mãi với cấp trên, sau bất đắc dĩ nhà in Quốc gia nể
quá mới in cho 1500 quyển”. Khi các thành viên của giới văn nghệ biết được
tin Ngôi sao được giải nhì, “anh em không thể tưởng tượng được rằng lại
có một cuộc xâm phạm trắng trợn văn nghệ như thế. Anh em lạ quá là vì anh em
không thể ngờ rằng ban giáo khảo lại có thể khinh thường văn nghệ, khinh thường
anh em và quần chúng đến mức ấy”. Để kết thúc bài viết, Nguyễn Bính bày tỏ những
suy nghĩ như sau:
“Hai ông Huy Cận và Hoài Thanh trong ban chung khảo tại sao lại
“tích cực bênh vực cho tập thơ Ngôi sao” (lời ông Nguyễn Tuân)? Ông Hoài
Thanh trước cách mạng đã biết chọn lọc các bài thơ hay của các thi sĩ để soạn
thành quyển Thi nhân Việt Nam, có phê phán. Ông Huy Cận, tuy bây giờ là Thứ
trưởng bộ Văn hóa, nhưng trước kia đã từng là một nhà thơ có tiếng tăm. Thế thì
đối với một tập thơ dở như tập Ngôi sao, tại sao hai ông lại tích cực bênh
vực? Có phải tại ông Huy Cận và Xuân Diệu chỉ là một, còn ông Hoài Thanh vụ trưởng
vụ Nghệ thuật thì lại là cấp dưới của ông Huy Cận hay không?”[37]
Bài báo cuối cùng trong thời kỳ Nhân văn - Giai phẩm liên
quan đến Xuân Diệu xuất hiện trên trang bìa của tờ Trăm Hoa số ba (ra
ngày mồng 4 tháng Mười một năm 1956). Tác giả là Phạm Tường Hạnh, một nhà văn
cách mạng trẻ từ miền Nam ra Bắc tập kết sau kháng chiến chống Pháp, đang làm
việc cho chương trình Phát thanh Thanh niên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tác
giả phản đối ý kiến của Nguyễn Tuân trong bài tự phê, cho rằng đa số những nhận
xét tiêu cực về tập thơ Ngôi sao xuất phát từ ác cảm với Xuân Diệu ở
một số thành phần trong đội ngũ trí thức. Ông viết: “Tôi tưởng vấn đề không phải
thế. Có thể có số người nào đó không ưa tác giả Ngôi sao. Nhưng không đến
nỗi họ “giận cá chém thớt” để tẩy chay tác phẩm của Xuân Diệu. Vả lại còn có
nhiều người xưa nay chưa biết mặt mũi Xuân Diệu ra sao như anh em miền Nam tập
kết chẳng hạn, cũng nhiều người không thích tập thơ Ngôi sao chút
nào”.[38]
Chú thích:
[1] Tiêu
đề của tập thơ Ngôi sao gợi hình ảnh Đảng Lao động Việt Nam, với đảng
kỳ có ngôi sao vàng trên nền đỏ. Nhưng cũng có thể tác giả muốn chuyển tải cảm
nghĩ về đảng như một ngôi sao dẫn đường. Chúng tôi vẫn chưa tìm lại được tư liệu
những số Trăm Hoa có đăng bài phê phán tập thơ Ngôi sao của
Xuân Diệu. Hình như tác giả của các bài phê bình đó là nhà thơ Trần Lê Văn.
[2] Xã
luận, “Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên-Xô đã thành công rực rỡ”, Nhân
Dân, số 726, 28/2/1956. Xem thêm bài “Đồng chí Trường Chinh trả lời phỏng vấn của
phóng viên đài phát thanh Mạc-Tư-Khoa”, Nhân Dân số 733, 6/3/1956.
[3] X.Y.Z., Sửa
Đổi Lề Lối Làm Việc (Hà Nội, Sự Thật, 1950).
[4] Hoài
Thanh, “Một vài ý kiến về tập thơ ‘Ngôi sao’ của Xuân Diệu”, Văn nghệ, số
122, 24/5/1956.
[5] Sđd.
So sánh những ý kiến đánh giá thơ lãng mạn Xuân Diệu trong bài này với tác phẩm Thi
nhân Việt Nam: 1932-1941 để thấy giọng văn Hoài Thanh đã thay đổi như thế
nào.
[6] Nguyễn
Bính, “Hội cần phải mạnh dạn tự phê bình”, Văn nghệ, số 125, 14/6/1956.
[7] Huy
Phương, “Phát biểu về tập thơ Ngôi sao của Xuân Diệu”, Văn nghệ,
số 126, 21/6/1956.
[8] Một
chi tiết thú vị đáng lưu ý là, đến tận tháng 6/1956, Huy Phương – một người sắp
tham gia phong trào Nhân văn – Giai phẩm vẫn có nhận xét tích cực về cải cách
ruộng đất.
[9] Huy
Phương, trong “Phát biểu về tập thơ Ngôi sao”, dẫn bài “Xuân Việt Nam” và
“Đêm Mười Chín” của Xuân Diệu.
[10] Sđd.
[11] Chỉ
thị của Ban Bí thư, số 39/CT-TW, 3/8/56, “Về việc sửa chữa một số sai lầm khuyết
điểm trong các công tác nhằm ổn định tình hình và ngăn ngừa âm mưu khiêu khích
của bọn phá hoại”, Văn Kiện Đảng Toàn Tập, 17:374.
[12] “Quả
thực” là thuật ngữ của đảng dùng để chỉ những tài sản tịch thu từ những người bị
coi là kẻ thù giai cấp trong chiến dịch cải cách ruộng đất, đem chia cho những
người nghèo để chứng tỏ rằng đảng quan tâm đến lợi ích của họ.
[13] “Chỉ
thị của Ban Bí thư, số 39/CT-TW, 3/8/56, “Về việc sửa chữa một số sai lầm khuyết
điểm trong các công tác nhằm ổn định tình hình và ngăn ngừa âm mưu khiêu khích
của bọn phá hoại”, Văn Kiện Đảng Toàn Tập, 17:374.
[14] Nguyễn
Huy Tưởng, Nhật ký của Nguyễn Huy Tưởng: Tập 3, Nghệ sĩ và công dân (Hà
Nội: Thanh Niên, 2006), 127.
[15] Chúng
tôi dùng từ “dân chủ” theo nghĩa các lãnh đạo đảng thường gán cho từ này, tức
là khi cấp trên lắng nghe ý kiến phê bình của cấp dưới. Một ví dụ cụ thể, xem
“Chỉ thị của thường vụ liên khu ủy IV, 1/10/1952” trong Văn Kiện Đảng Toàn
Tập, 13: 440-443.
[16] Báo Nhân
Dân đưa tin về bài viết trong “Thư Bắc Kinh” của Lê Hao (Nhân Dân, số 884,
5/8/1956) nhưng mãi đến số ngày 30/9/1956 mới đăng bài dịch.
[17] Theo
nhật ký của Nguyễn Huy Tưởng và hồi ký của Tô Hoài, tổng biên tập báo Trăm
Hoa, Nguyễn Bính cho rằng tờ báo của mình độc lập với Nhân Văn và Giai
Phẩm, khách quan và trung lập hơn. Dù ý định của ông là gì chăng nữa, tờ
báo Trăm Hoa cũng chia sẻ rất nhiều suy tư mang tính nhân văn được
nêu trong Nhân Văn và Giai Phẩm.
[18] Một
ngoại lệ là ý kiến của Nguyễn Hữu Đang kêu gọi mọi người tôn trọng pháp chế tư
bản hơn: “Chúng ta quá căm ghét pháp chế tư bản chủ nghĩa đến mức, ở nhiều người,
nó đã biến thành nỗi căm ghét pháp chế nói chung”. Nguyễn Hữu Đang, “Cần phải
chính quy hơn nữa”, Nhân Văn, số 4, 11/11/1956.
[19] Phan
Khôi, “Phê bình lãnh đạo văn nghệ”, Giai phẩm Mùa thu tập 1 (Hà Nội;
NXB Minh Đức, tháng 8/1956).
[20] Hoàng
Diệu được chế độ mới tôn trọng đến mức tên ông được chọn đặt cho một trong số
ít những con đường ở khu có nhiều biệt thự của lãnh đạo đảng tại thủ đô Hà Nội.
[21] Trong
nhật ký Nguyễn Huy Tưởng, nhà văn cách mạng này ghi nhận Phan Khôi có lần đã
nói với lãnh đạo đảng rằng họ là “mensheviks” (phe nhược tiểu, ngược với
bolshevik), Nguyễn Huy Tưởng, Nhật ký tập 3: Nghệ sĩ và công dân (Hà
Nội, Thanh Niên, 2006), 128.
[22] Phan
Khôi, “Phê bình lãnh đạo”.
[23] Sđd.
Ở Việt Nam, câu ngạn ngữ này được dùng để tả trường hợp một người ở thế mạnh
hơn dùng quyền thế để ép người dưới dưới im tiếng.
[24] Yến
Lan, “Một vài sự thật chung quanh ‘vụ giải thưởng văn học 1954-1955’”, Văn
nghệ, số 139. 20/9/1956.
[25] Trần
Công, “Chống bè phái trong văn nghệ”, Nhân Văn, số 1, 20/9/1956.
[26] Trần
Công, “Chống bè phái”.
[27] Năm
thành viên còn lại của ban giám khảo là Đặng Thai Mai, Thế Lữ, Trương Tửu,
Hoàng Xuân Nhị và Nguyễn Huy Tưởng.
[28] Nguyễn
Tuân, “Về giải thưởng Văn Học 1954-1955”, Văn nghệ, số 140, 27/9/1956.
[29] Sđd.
[30] “Thông
cáo của Ban Thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam”, Văn nghệ, số 141, 4/10/1956.
[31] Sđd.
[32] Nguyễn
Bính, “Cần phải xét lại toàn bộ giải thưởng văn học”, Trăm Hoa, số 1 &
2, 20 và 28/10/1956.
[33] Nguyễn
Bính đã miêu tả cách chế độ làm khó dễ cho báo chí tư nhân trong bài báo thú vị
“Hoa lại nở”, Trăm Hoa, số 1, 20/10/1956.
[34] Không
giống như Xuân Diệu và đa số các nhà thơ khác trong phong trào, Nguyễn Bính đã
khai thác cảm hứng cho thơ mình từ ca dao, dân ca Việt Nam. Thơ của ông có xu
hướng miêu tả những cảnh bình dị ở thôn quê Việt Nam theo phong cách lãng mạn.
[35] Nguyễn
Bính, “Cần phải xem xét lại toàn bộ giải thưởng văn học”.
[36] Sđd.
[37] Sđd.
[38] Phạm
Tường Hạnh, “Một vài ý kiến của bạn đọc về bài ‘Về vụ giải thưởng 1954-1955’ của
Nguyễn Tuân”, Trăm Hoa, số 3, 4/11/1956.
Alec Holcombe
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét