Nguồn gốc của muôn loài 1
LỜI GIỚI THIỆU
Charles Robert Darwin sinh năm 1809, con của bà Susanna (con gái của ông trùm tư bản Josiah Wedgwood), với ông Robert Darwin, một bác sĩ giàu có vùng Shroshire (con trai của nhà khoa học - nhà thơ và cũng là nhà vật lý Erasmus Darwin). Đọc tiểu sử của ông, ít người nghĩ rằng Darwin sẽ trở thành một nhà khoa học chuyên về nghiên cứu quá trình tiến hóa của muôn loài. Ông hoàn toàn thuộc về tầng lớp quý tộc Anh, mặc dù là thành viên đảng Whig [1], có khả năng kinh doanh nhưng lại theo tư tưởng đối lập với hệ tư tưởng thịnh hành thời bấy giờ. Và sau một thời gian theo học tại trường Shrewsbury với kết quả không có gì nổi bật, Darwin được gửi vào trường Đại học Edinburgh theo học chuyên ngành y khoa giống như bố của ông. Hai năm sau, vào năm 1827, ông bắt đầu môn thần học tại trường Đại học Cambridge sau khi cha ông quyết định không cho ông tiếp tục ngành y không có tương lai để chuyển sang một lĩnh vực chắc chắn và được ưa chuộng hơn: trở thành thành viên của Giáo hội. Nhưng vào thời gian đó, Darwin lại tỏ ra thích các hoạt động thể thao hơn là nghiên cứu, và công việc của một vị mục sư lại xem ra quá hợp với cậu thanh niên may mắn giàu có thích nay đây mai đó này. Nhưng những hạt giống đầu tiên của niềm say mê lịch sử tự nhiên trong ông đã được gieo mầm ở chính giai đoạn này; tại trường Đại học Edinburgh, khi là thành viên của Hiệp hội sinh viên Plinian; ông được tiếp xúc với thế giới của những cuộc tranh luận giữa những người theo chủ nghĩa duy vật, và chịu rất nhiều ảnh hưởng của ông Robert Grant, một nhà khoa học về tiến hóa và chuyên gia về động vật không xưomg sống ở biển. Darwin luôn đi theo ông Grant trong những cuộc khảo sát thực địa và dần dần học tập phương pháp nghiên cứu và quan sát của ông khi hai người cùng nghiên cứu về con hải miên. Sự ảnh hưởng này lại ngày càng gia tăng tại trường Đại học Edinburgh, nơi mà những thí nghiệm của riêng ông Darwin về các loài cây và côn trùng được tiến hành và phát triển. Ông tham gia vào cuộc thám hiểm của Adam Sedgwick, một giáo sư địa chất nổi tiếng, tới vùng Bắc xứ Wales. Chuyến đi này đã củng cố chắc thêm kiến thức của ông về địa chất; nhưng quan trọng hơn cả chính là thời gian khi ông làm trợ lý chính cho ông Rev John Henslow, một giáo sư về thực vật học, người đã truyền tất cả những nhiệt huyết của mình về công việc sang ông. Ông Henslow cũng có thể là hình tượng của Darwin, một chuẩn mực của mục sư thời đại Victoria - một nhà tự nhiên học - của một mối quan hệ gắn bó, biểu tượng về việc có thể tồn tại giữa công việc của một mục sư tại thị trấn nhỏ và sự tiếp tục các cuộc nghiên cứu khoa học. Nhưng trước khi Darwin có thể chắc chắn trơ thành một nhà khoa học thực thụ, giáo sư Henslow đã khuyên ông nên là một nhà tự nhiên học và là bạn đồng hành của thuyền trưởng James Fitzroy trên con tàu thám hiểm HMSS Beagle tới cực nam trái đất. Những ảnh hưởng của chuyến viễn thám này đối với Darwin là cực kỳ hữu ích, xét trên rất nhiều mặt.
Trong giai đoạn từ năm 1831 cho tới năm 1836, với vai trò là một nhà tự nhiên học trên con tàu HMS Beagle, ông đã có dịp tiếp xúc với cả một thế giới tự nhiên hoàn toàn khác biệt; khoảng thời gian ngắn ngủi mà Darwin có được để khám phá những vùng đất Nam Mỹ đã trở thành kinh nghiệm quý báu cả đời, tạo ra một ảnh hưởng lớn và kéo dài tới cách suy nghĩ và trí tường tượng phong phú của ông về thiên nhiên và đóng vai trò quyết định trong quá trình hình thành cơ chế giải thích táo bạo mà đã đơm hoa kết trái hơn 20 năm sau đó: cuốn Nguồn gốc của muôn loài (1859). Nhà tự nhiên học trẻ tuổi này đã viết ứong cuốn nhật ký về cuộc hành trình này, mà về sau trở thành cuốn Chuyến đi của con tàu Beagle (Tủ sách văn học cổ điển thế giới - 1997): "Ôi, thật là một niềm khát khao cháy bỏng lớn lao đối với một người yêu thiên nhiên khi được nhìn thấy, nếu điều này là có thể, cảnh sác tuyệt vời của một thế giới khác! Mà đối với bất cứ ai ớ châu âu, thật sự khung cảnh này chi cách họ có vài độ, một thế giới kỳ diệu đang mờ ra trước mắt anh ta".
Do đó, với những đọc giả lần đầu tiên biết tới cuốn Nguồn gốc của muôn loài, có lẽ là tác phẩm mang tính cách mạng nhất của trí tưởng tượng khoa học cận đại, có thể ngạc nhiên khi bất thình lình phát hiện ra mình đang ở trong thế giới giai đoạn giữa thế kỷ 19 của những người thích nghiên cứu chim bồ câu nước Anh. Ông Darwin cố gáng giải thích lý thuyết của mình cho những người đọc có kiến thức và có đầu óc phân tích bằng cách xuất phát từ những hoạt động thường ngày; chương đầu tiên của ông cho rằng những hoạt động của người nhân giống tại giã, trong quá trình lựa chọn qua một vài thế hệ những biến thể tốt nhất trong số những con giống của họ, có thể giúp chúng ta hiểu rằng tổng thể thế giới thiên nhiên đang liên tục biến đổi. Lý do cho cách giải thích bước đầu như vậy là khá rõ ràng và mang tính sư phạm: bắt đầu bằng một thứ quen thuộc. Tuy vậy trong cuốn Nguồn gốc của muôn loài, chúng ta cũng sẽ bắt gặp cảnh mà không phải là Câu lạc bộ nuôi chim bồ câu London mà là cảnh cơn mưa rừng nhiệt đới từ thời nguyên thủy ở Brazil và những quần đảo núi lửa tại Galapagos Archipelago. Và sau đấy, độc giả sẽ sớm nhận thấy mình đang đi tiến đi lui dọc một đoạn giữa những cái "quen thuộc" và cái "khác", giữa cái "nội địa" và cái "ngoại lai", trong những dòng chữ mà dường như coi khinh ranh giới chia tách các vật thể nói trên. Với biến thể kỳ lạ và không đoán trước được, chúng ta sẽ gặp những kẻ man rợ Tierra del Fuego ăn thịt phụ nữ; những con gián nhỏ vùng Asiatic; những cây thân dày dạng củ cải Thụy Sỹ thông thường; những mấu cây của các cây tre dài thuộc quần đảo Malay; những mảng lông trên da mang trứng của con chân tơ, những khu vực trũng của vùng bắc và nam Weald; những đáy trầm tích tại cửa sông Mississippi trong suốt kỷ nguyên băng giá. Nhiệm vụ của nhà tự nhiên học Darwin, khi mà là trong tâm khoa học trong công việc của ông và chỉ có thể đạt được thông qua khả năng sử dụng ngôn ngữ sống động và sáng tạo, là để biến những thứ lạ lùng hay "không thể tin được" thành những điều quen thuộc gần gũi với chúng ta, và biến những khía cạnh vấn đề vô cùng khó hiểu và chưa bao giờ được biết đến trở nên dễ hiểu, kiến thức chung của mọi người. Thành công của ông, trong văn cảnh mà sự quyến rũ không hề giảm đi nếu không muốn nói là tăng thêm khi chúng ta tiến vào những góc cạnh dị thường của thiên niên kỷ, thật ra nằm trong sự phát hiện rằng những thế giới đối lập nhau trên thực tế lại là một. Vậy thì cái gì là trung tâm mà mọi nỗ lực đều dành cho nó?
Trong tiêu đề ngắn gọn như mọi tiêu đề khác, cuốn Nguồn gốc của muôn loài có thể gây ra sự hiểu nhầm cho những người đọc đương đại. Tiêu đề của cuốn sách sẽ chính xác hơn, mặc dù có thể là kém hấp dẫn hơn, nếu được đặt theo tên tác phẩm khổng lồ đang còn dang dở trên bàn giấy mà đã được tóm tắt một cách khá vội vàng: Sự lựa chọn của thiên nhiên. Bởi vì cuốn sách Nguồn gốc của muôn loài là sự giả thích của Darwin về lý thuyết lựa chọn tự nhiên của ông. Tư tưởng chủ đạo của lý thuyết này là không một loài nào có thể không bao giờ thay đổi; tất cả mọi thứ đều tiến hóa, và vẫn tiếp tục tiến hóa trong suốt quá trình một thời gian rất dài. Lý thuyết này thách thức quan điểm thống trị của những người theo chủ nghĩa sáng tạo luận về các loài là được tạo ra một cách đặc biệt và tách biệt bởi ý muốn của Chúa trời; Tự nhiên, đối với Darwin, là một thể liên tục, làm nền tảng cho một sự phỏng đoán rằng: "Các con vật có nguồn gốc từ nhiều nhất chỉ bốn hoặc năm đời và đối với các loài thực vật, con số này chỉ bằng hoặc kém hơn" hoặc là thậm chí - mặc dù nhà tiến hóa học đặt cược ở đây - là: "có khả năng tất cả các loài hữu cơ đã từng sống trên trái đất này là con cháu của một loài nguyên thủy mà chính nó sự sống đã được thổi vào".
Tất nhiên Darwin không phải là người đầu tiên nhận ra rằng về cơ bản mọi thứ đều đổi thay. Một nhận định mang tính triết lý ít nhất có từ thời Hy Lạp cổ đại của nhà triết học Heraclitus về khái niệm thế giới trong một trạng thái luôn luôn thay đổi hay là trong trái thái "lửa". Ông cũng không phải là người đầu tiên trong thế hệ của ông khởi xướng thuyết "người biến hình" hoặc là "người đột biến" trong lịch sử thế giới tự nhiên: như là cuốn "Tóm tắt lịch sử" đã thêm vào lần tái bản thứ ba của cuốn sách Nguồn gốc của muôn loài (và được in lại trong quyển sách này) chỉ ra, trong nửa đầu thế kỷ 19, những ý tưởng về lý thuyết của Darwin đã từng xuất hiện, và Darwin rõ ràng tìm ra trong lý thuyết của mình có những ý tưởng đó.
Nhưng chính sự giải thích của ông về cách mà muôn loài thay đổi và phát triển đã làm cho tác phẩm Nguồn gốc của muôn loài trở nêấn độc đáo, cỏ một không hai. "Sự lựa chọn của thiên nhiên" được định nghĩa là "sự duy trì những biến thể tốt và loại bỏ những biến thể xấu", ở đây, cụm từ "sự duy trì" nói đến một quá trình trong đỏ các cơ thể khỏe hơn hoặc là "thích hợp hơn", được trang bị với những biến thể hữu ích dù có bé hơn xét về mặt tỷ lệ, có nhiều khả năng tồn tại và tái sinh hơn hơn những cơ thế yếu. Do đó, vô số thế hệ các loài "thay đồi", theo cách mà những thực thể phù hợp hơn, có khả năng thích nghi cao hơn đã thay thế dần dần - hoặc đang thay thế liên tục - những thực thể có ít khả năng thích nghi hơn và như vậy, theo quy luật tự nhiên, chúng đã bị tuyệt chủng. Những nhà nhân giống chim bồ câu đáng kính của Darwin đi theo một phiên bản "nhân tạo", yếu hơn của quá trình lựa chọn này; một người nhân giống tốt chỉ cho phép những con giống giỏi nhất sinh sản, và loại bỏ những con yếu kém. Nhưng "con người chỉ có thể tác động tới những vật thể bên ngoài hữu hình", trong khi đó, thiên nhiên "có thể tác động tới mọi cơ quan bên trong, tới mọi sự vật vô hình của khác biệt về thể trạng, tới toàn bộ cơ chế đời sống"; năng lực tuyệt đối của sự lựa chọn tự nhiên là hầu như không thể đo đạc được.
Người ta thường nói rằng sự lựa chọn tự nhiên diễn ra hàng ngày, hàng giờ, trên khắp thế giới, trong mọi biến thể, thậm chí là những cái nhỏ nhất; loại trừ những cơ thể xấu, duy trì và phát triển tất cả cơ thể khoẻ; hoạt động một cách thầm lặng và vô hình, bất cứ nơi nào và bất cứ khi nào cơ hội xuất hiện, biến đối theo hướng tích cực mỗi cơ thể sống trong mối quan hệ với điều kiện sống hữu cơ và vô cơ của nó. Chúng ta không hề nhìn thấy bất cứ điều gì từ những thay đổi chậm chạp của quá trình này, cho đến khi bàn tay thời gian để lại dấu ấn của mình sau một thời kỳ dài...
Lý thuyết này dựa trên một vài nhân tố cần thiết. Thứ nhất, đó là tồn tại "một thể nguyên thủy", nguồn gốc của bàn thân "sự sống", mà Darwin khẳng định công việc của ông không thể "giải thích hay can thiệp" được. Sau đó, một khoảng thời gian dài chậm chạp trôi qua, không thể nhận thức được hay là cái mà bây giờ chúng ta gọi là "thời gian sâu", thông qua đó, nguồn gốc của sự sống bắt đầu đa dạng hóa thành vô số hình thái sự sống tự nhiên và cuối cùng trở thành những cơ quan phức tạp và "hoàn thiện" như là mắt người chẳng hạn. Trong giai đoạn thế kỷ 19 mà nhà thờ có vai trò khá lớn, môn "thần học tự nhiên" truyền thống, được thiết lập trong công trình tác phẩm cùng tên của William Paley (1802) và kế đó được trân trọng nhắc đến trong rất nhiều Bridgewater Treatises quyền năng, những cấu trúc bộ phận như kiểu của mẩt người được giải thích bởi khái niệm quyền lực tuyệt đối của Chúa trời: chúng là sản phẩm của Đức Chúa. Nhưng trong tác phẩm Những nguyên lý của Địa chất gồm ba phần của Charles Lyell với lý thuyết "đồng nhất" hay tiệm tiến luận về quá trình đột biến địa chất dường như tiêu diệt sự tồn tại của trái đất trong kinh thánh 6.000 năm, thay thế nó bằng một giai đoạn "hoàn toàn không thể hiểu được" cần thiết cho sự tiến hóa của những thể vô cùng phức tạp. Tuy vậy, Darwin cho rằng sẽ là chưa đủ nếu chi đọc các tác phẩm của Lyell và các chuyên luận khác về sự hình thành của đá nhằm để nhận thực đúng đắn sự mênh mông rộng lớn của giai đoạn tiến hóa sâu thẳm: "Hằng năm, một người phải tự mình tìm hiểu nghiên cứu vô số địa tầng chồng lên nhau, và quan sát biển bào mòn những tàng đá nhiều tuổi, tạo nên những tầng trầm tích mới, trước khi anh ta có thể hi vọng hiểu được mọi thứ theo dòng thời gian, những tượng đài kỷ niệm xung quanh chúng ta".
Quá trình lựa chọn cũng được chứng thực nhờ vào việc suy xét xem liệu thế giới tự nhiên sẽ trông như thế nào nếu không có quá trình sàng lọc này. Điều cốt yếu ở đây là số lượng loài có thể tồn tại ít hơn so với số loài sinh ra: nguyên tắc "tăng theo cấp số nhân", nếu tất cả các cá thể và rất nhiều trứng và giống của chúng có thể tồn tại và sinh sản không được kiểm soát, trái đất này sẽ sớm bị bao phủ - "tràn ngập" bởi "dòng dõi con cháu của một đôi duy nhất", thậm chí là loài voi cái to lớn chậm chạp, mà theo sự tính toán của Darwin đẻ 3 cặp trong vòng đời 60 năm của chúng, sẽ tạo ra số lượng 15 triệu con vào cuối thể kỷ 15 trong quá trình tồn tại của chúng. Để cho hệ thống tự nhiên có thể phát triển tồn tại được, "quá trình tranh đấu cho sự sinh tồn" là không thể thiếu. Ở đây, với những người nhân giống chim bồ câu, Darwin tỏ ra mâu thuẫn khi sử dụng một ví dụ "thiếu tính thuyết phục" trong thế giới loài người để minh họa cho một nguyên lý mạnh mẽ hơn rất nhiều của tự nhiên; trong trường hợp này, gây nhiều tranh cãi, tác phẩm của Thơnas Malthus, cuốn Bài luận về dân số (1798) cho rằng dân số loài người sẽ luôn luôn vượt quá nguồn sinh kế của mình trừ khi chịu sự can thiệp giới hạn của tự nhiên hoặc có ý thức của con người. Đấu tranh sinh tồn là "học thuyết của Malthus được áp dụng trên rất nhiều lĩnh vực của vương quốc động và thực vật"; với quá nhiều nơi trong tự nhiên để khám phá, sự lựa chọn tự nhiên theo nghĩa này có thể được coi là để tận dụng bất cứ sự điều chỉnh nào trong điều kiện - từ sự xuất hiện của một cây tại một khu vực, tới sự thay đổi thời tiết dài hạn hoặc là khắp nơi -nhằm để chứng thực nguyên lý của sự hủy diệt; vì "sự tuyệt chủng và sự lựa chọn tự nhiên luôn luôn song hàng".
Cuối cùng, lựa chọn tự nhiên cũng dựa vào chính sự thay đổi. Lý thuyết của Darwin hình như là đưa ra một lời giải thích về tính năng động đa dạng của thế giới sự sống, nhưng nó lại chi phản ánh những kết quả logic của sự biến đổi, và không hoặc là không thể tính đến sự biến đổi cá nhân. Nếu sử dụng một trong những minh họa giả thiết của cuốn sách: nếu một con sói, mà săn rất nhiều con vật khác nhau bằng kỹ năng săn mồi, sức mạnh và tốc độ của nó sẽ sống ở vùng mà tại đó những con mồi nhanh nhất, con hươu, vì một lý do nào đó tăng lên về mặt số lượng tại thời điểm khan hiếm, và khi những con mồi khác giảm đi về mặt số lượng, thì chúng ta có thể suy ra rằng "những con sói nhanh nhất và khéo léo nhất sẽ có nhiều cơ hội tồn tại hơn, và do đó được duy trì và được lựa chọn"; nguyên nhân nào khiến cho con sói này nhanh hơn, khéo léo hơn con sói khác, hoặc là, cụ thể hơn, là hơn cha mẹ chúng trong quá trình săn mồi? Như Darwin đã phải thừa nhận: "Sự kém hiểu biết của chúng ta về quy luật đổi thay" - và bằng sự ám chỉ, về quy luật di truyền "là rất nghiêm trọng". Sự xuất hiện sáng ngời của Jean Baptiste Lamarck, một trong những bậc tiền bối nổi tiếng về biến dạng sống cùng thời Darwin, là đủ cho thấy những vấn đề của biến đổi và di truyền được Darwin quan tâm như thế nào, và tầm quan trọng của chúng được thể hiện ở chương năm cuốn sách này.
Trong công trình nghiên cứu Triết lý về động vật học (1809), Lamarck lần đầu tiên nêu ra lý thuyết của ông về sự kế thừa những tính cách thu được. Thông qua sử dụng và thói quen, những cá thể có thể, theo như lý thuyết này, không chỉ thay đổi thể trạng của chúng nhằm thích nghi với môi trường mới mà còn di truyền các đặc tính đó cho con cháu chúng. Những đặc điểm hình thoi dài thường là những cái được lấy làm ví dụ minh họa chủ nghĩa Lamarck; có lẽ bởi vì hiệu ứng thị giác trực tiếp của chúng: cổ của con hươu cao cổ, chân của con chim cao cẳng. Lamarck do đó tin rằng trong một cơ chế tiến hóa từ từ, giống như sự lựa chọn tự nhiên, làm giảm đi tính cố định của các loài; nhưng tác phẩm của ông cũng không loại trừ khả năng tồn tại thế hệ tự phát của những kiểu mới, và được dựa trên mô hình kỹ thuật của lòng khát vọng và sự cải thiện mà người ta cho rằng là mang tính trừu tượng như là bản thân chủ nghĩa loài, vẫn có người tin là "quan điểm của Lamarck về quá trình tiến hóa vẫn còn nổi tiếng" [2]
Những dòng hồi ký mà Darwin viết vào những năm 1840 cho thấy ông ít có thời gian để nghiên cứu các khía cạnh vấn đề trong tác phẩm của Lamarck, và trong chương "Những quy luật của sự thay đổi" của cuốn sách Nguồn gốc của muôn loài, chúng ta sẽ thấy ông đưa một loạt các phương pháp thay thế lý giải cho "điều kiện nhân tạo" của các con vật mới được sinh ra: sự phụ thuộc của hệ thống sinh đẻ vào những đổi thay trong điều kiện sống; hay là nguyên tắc của sự tương quan tăng trường nhờ đó mà những biến đổi nhỏ nhất định sẽ dẫn đến những thay đổi khác của cấu trúc. Mặt khác, quay trở lại với những người nuôi chim bồ câu của ông, thực tế củạ nhân giống tại gia đã khiến Darwin "hoàn toàn tin" rằng "việc một vài con vật nuôi trong nhà sử dụng các bộ phận nhất định của chủng ta làm cho những bộ phận cơ thể đó phát triển và to ra, và ngược lại việc không sử dụng sẽ làm suy yếu chúng; và những thay đổi như vậy sẽ được truyền sang đời sau". Thật là thú vị khi chúng ta thấy Darwin, trong suốt cả chương đó, liên tục quay trở lại và “làm xiếc” với những thứ bên lề thói quen và "các nguyên lý chính" của sự kế thừa. Còn Darwin, trong một chừng mực nào đó, dựa vào công trình của Lamarck vẫn tiếp tục là chủ để gây tranh cãi giữa những nhà bình luận về ông. Song điều rõ ràng ở đây là nếu sự chọn lựa tự nhiên ở một mức độ nào đó có thể dự báo được dựa trên một mức biến đổi nhưng nhỏ giữa con cái và bố mẹ thì nó sẽ cần một cơ chế lý giải cho quá trình di truyền, và sự biến dạng của vật chất ẩn trong quả trình sinh sản. Chúng ta bây giờ gọi quá trình cơ chế này là "gen" - một thuật ngữ, một khoa học mà vào năm 1859, Darwin không hề biết đến. Tiếp tục công trình nghiên cứu của Gregor Mendel, một nhà sư người Bohemian Augustunian, người đã đặt nền móng cho ngành khoa học này vào năm 1865 (nhưng lại không được biết đến cho tới đầu thế kỹ hai mốt), và cùng với thời gian, chúng ta có thể vẽ được bản đố gen người, chính mục tiêu này đã, đang và sẽ thôi thúc chúng ta nâng cao hiểu biết của mình bằng việc đọc cuốn Nguồn gốc của muôn loài với những kiến thức của chúng ta về gen di truyền.
Trong cuốn tiểu sử sống động của mình, hai ông Adrrian Desmond và James Moore đã thu hút được sự quan tâm tới ngành nghiên cứu bệnh lý học mới lạ mà Darwin theo đuổi khi trưởng thành. Khi bắt đầu khóa học cao học tại trường Beagle về quá trình chuyển hóa, Darwin đã bị mắc chứng đau nửa đầu. Căn bệnh này đã hành hạ ông, làm ông "khô héo trên giường bệnh, cảm thấy như đang bị tra tấn tàn bạo"; cuối cùng, "một phần ba cuộc đời làm việc của ông chìm trong sự đau đớn, run rẩy, nôn tháo, và dìm ngập ông vào băng giá" [3]. Sự đau đớn về thể xác và những cuộc xung đột tư tưởng mà cùng với nhận thức ngày một rõ rệt rằng những quan điểm của ông khác xa so với học thuyết chính thống Thiên chúa giáo được thể hiện rất rõ trong quá trình phát triển ý tưởng cho cuốn sách này. Bắt đầu bằng những quyển ghi chép về sự đột biến loài vào năm 1837, Darwin đã hoàn thành hai bản tóm tắt sơ bộ trong năm 1844. Nhưng cả hai bản thảo này đều không được biết đến rộng rãi. Ông tiếp tục cố gắng và cho xuất bản những nghiên cứu gây tranh cãi hơn, chẳng hạn như nghiên cứu của ông về cấu trúc và vị trí của những rặng san hô, về con hàu, trong khi vẫn âm thầm theo đuổi những ý tường lý thuyết táo bạo. Những bài viết và lá thư của ông trong giai đoạn này bị gián đoạn bởi nỗi sợ hãi và sự cam chịu: ông cảm thấy mình đã dành trọn cuộc đời cho một "suy nghĩ kỳ quặc", nó giống như thú nhận "tội giết người": "Ồ, bạn là người theo chủ nghĩa Duy vật biện chứng", ông thường tự chỉ trích mình một cách hài hước. Cho đến trước những năm 1850, các bài nghiên cứu của ông được viết thành một cuốn sách dày, không có sự kết thúc, Sự lựa chọn của tự nhiên, thu thập những dẫn chứng về quá trình này một cách cẩn thận song rất khó khăn. Khả năng để cuốn sách có thể ra mắt công chúng là xa vời. Nhưng cuối cùng, ông cũng viết ra tất cả những suy nghĩ thật của mình; sự im lặng trong ông đã bị phá vỡ bởi yếu tổ bên ngoài.
Alffred Russell Wallace, một nhà tự nhiên học cũng là một người theo chủ nghĩa xã hội trẻ tuổi nghiên cứu và tìm hiểu về quần đảo Malay, đã trao đổi ý tưởng với Darwin, và gửi cho ông một vài mẫu vật thí nghiệm. Ông Wallace cũng đưa ra các quan điểm của ông về lý thuyết của cơ chế tiến hóa. Sự kiện này mà qua đó Darwin tìm thấy những điểm tưởng đồng trong lý thuyết của mình đã làm Darwin cảm thấy hết sức sung sướng và khuyến khích Wallace tiếp tục phát triển lý thuyết đó. Vào ngày 18 tháng 6 năm 1858, một bức thư dài 20 trang được Wallace gửi đến cho Darwin. Trong bức thư chứa đựng một bản đề cương sơ lược về lý thuyết của sự lựa chọn tự nhiên. Không thể cư xử như một kẻ thiếu văn hóa, Darwin đồng ý giúp công trình nghiên cứu của Wallace có được sự quan tâm rộng rãi của công luận trong khi ông phải đối mặt với sự thực phũ phàng là sự chậm chạp đo để chỉnh sửa tài liệu đã khiến ông trở thành người đến sau. Sau khi tham khảo ý kiến với Charles Lyell và nhà thực vật học Joseph Hooker, một thỏa ước đã đạt được: bức thư của Wallace và những đoạn trích có liên quan từ công trình nghiên cứu của Darwin sẽ được đọc cùng một lúc trong buổi họp tại Hiệp hội Linnean ở London vào ngày 1 tháng 7 năm 1858. Sự vắng mặt của Darwin trong buổi hôm đó là do ông được báo tin về cái chết của cậu con trai bé bỏng, Charles, do bệnh ban đỏ. Do đó, tại thòi điểm tồi tệ ấy, rõ ràng là ông cần xuất bản tác phẩm của mình một cách nhanh chóng.
Trong khoảng thời gian đi nghi với gia đình tại đảo Wight, thời gian an dưỡng và trị bệnh ở Moor Park tại Surrey, và thời gian ở nhà, Darwin đã hoàn thành xong cuốn Nguồn gốc của muôn loài trong vòng 10 tháng và chủ yếu là từ trí nhớ. Cuốn sách được xuất bản bởi John Murray trong tháng 11 năm 1859, và bán chạy đến nỗi mà kế hoạch tái bản lần thứ hai được đưa ra ngay lập tức.
Sự mô tả của Darwin trong cuốn sách đó với quan niệm là "một cuộc tranh luận lâu dài" xác nhận đánh giá của chúng ta về cuốn sách là sâu sắc và phong phú về nội dung - luôn luôn tỉ mẩn, tuy có đôi chỗ chưa được như ý, nhưng thường là sinh động và đầy xúc cảm trong kỹ năng thuyết phục. Nhận thức rõ vô số "khó khăn" trong quá trình trình bày lý thuyết của mình -không có bằng chứng cụ thể trong thiên nhiên về những dạng chuyển đổi, hay sự thiếu sót của những tải liệu địa chất, đây chỉ là hai vướng mắc nhất đổi với Darwin đôi khi người ta có cảm giác như Darwin thích dựng lên những chướng ngại vật đối với mình hơn là rũ bỏ chúng. Tác phẩm Nguồn gốc của muôn loài tự tranh luận với bản thân nó, hay nói chính xác hơn là với một người đối thoại tưởng tượng - "anh ta người mà tin vào vô số hành động riêng rẽ của sự sáng tạo" - người mà lúc nào cũng sẵn sàng nêu ra các ý tưởng cần thiết đối lập với người theo chủ nghĩa sáng tạo luận. Tuy thể, sự xuất hiện của sự thật không thể chối cãi tất nhiên luôn luôn có thể gây ấn tượng tốt cho người đọc. Hơn nữa, khi người đối thoại theo trường phái sáng tạo luận phải đối mặt với việc giải thích sự tồn tại lâu dài của những đặc điểm tiến hóa mặc dù khó nhận biết về những nguyên lý thiết kế, chẳng hạn như chân có màng của loài vịt sống trên cạn, hay là loài chim gõ kiến sống ở những cánh đồng không có cây tại La Plata, chúng ta nhận ra rằng những bằng chứng đó đứng về phía Darwin.
Công trình nghiên cứu gần đây của Gillian Beer về điểm chính của Darwin nhấn mạnh nhà khoa học xét trên một vài khía cạnh quan trọng phụ thuộc vào ngôn ngữ giống như bất kỳ “nhà sản xuất kiến thức” nào[4]. Ngôn ngữ thể hiện kiến thức, và kiến thức là sức mạnh, nhưng ngôn ngữ cũng nổi tiếng là bất tín và khỏ lường, luôn có nguy cơ làm sai lệch hoặc nói giảm những ý mà ta thực sự muốn truyền đạt. Thậm chí là bản thân cụm từ "sự lựa chọn của tự nhiên" cũng không phải là ngoại lệ, mà đoạn trích sau đang một lần nữa minh họa:
Người ta thường nói rằng sự lựa chọn tự nhiên diễn ra hàng ngày, hàng giờ, trên khắp thế giới, trong mọi biến thể, thậm chí là những cái nhỏ nhất; loại trừ những cơ thể xấu, duy trì và phát triển tất cả cơ thể khoẻ; hoạt động một cách thầm lặng và vô hình, bất cứ nơi nào và bất cứ khi nào cơ hội xuất hiện, biến đối theo hướng tích cực mỗi cơ thể sống trong mối quan hệ với điều kiện sống hữu cơ và vô cơ của nó.
Xét về mặt ngôn ngữ học, cụm từ "sự lựa chọn" hàm ý một nhân tố của sự lựa chọn có ý thức; một ai đó hoặc cái gì đó phải tiến hành quá trình chọn lọc, nhất là khi quá trình này kết hợp một vài động từ như "xem xét kỹ lưỡng", "loại bỏ", "duy trì", "thêm vào" và "làm việc". Có phải là nó không để cho cụm từ dễ dàng quên "không nhận thức", hoặc là một chút hạn chế "Người ta có thể nói rằng", người đọc có thể được tha thứ khi cho rằng trong phần này, Darwin cố gắng gán Sự thiết kế sáng tạo cho quá trình đó, cho dù thậm chí là nội dung chính trong công trình nghiên cứu của ông là để phản bác sự can thiệp siêu hình như vậy. Hơn nữa, tại điểm này trong bài viết của Darwin, "sự lựa chọn của tự nhiên" liên tục xuất hiện bằng một phương pháp diễn đạt quen thuộc hơn về "tác nhân của tự nhiên; chính là, từ bài luận về giống mà trong đó tự nhiên là giống cái, người mẹ nuôi dưỡng, người mà chi "lựa chọn" những đứa con mà bà cho là tốt nhất" (sự nhấn mạnh của tôi): "Mọi người con được chọn lựa đều hoàn toàn do bà ta quyết định; và người con đó được đặt trong một môi trường sống thích hợp nhất".
Liệu ở đây chúng ta có thể rút ra kết luận rằng Darwin không hoàn toàn kiểm soát được ngôn ngữ mà ông sử dụng? Hay là, rằng những nguyên tố của tác nhân trong "sự chọn lựa" và "tự nhiên" đã giúp ông làm hài lòng những độc giả theo trường phái chính thống trong khi lặng lẽ đưa ra lý thuyết thực của ông dưới vỏ bọc đó? Sự thực là một điều gì đó phức tạp hơn, là sự hòa trộn của hai, dựa trên một thực tế là ngôn ngữ chắc chắn thể hiện thế giới trong ngữ cảnh nhân chủng học hay là lấy con người làm trung tâm. Ông khẳng định tại một điểm "Tôi nên tuyên bố rằng việc tôi sử dụng cụm từ Đấu tranh sinh tồn trong ngữ cảnh rộng mang tính ẩn dụ, bao gồm sự phụ thuộc của một các thể vào các cá thể khác, và bao gồm (điều này quan trọng hơn) không chỉ sự sống của các thể đó mà còn cả khả năng duy trì giống nòi". Giống như cụm từ "sự lựa chọn của thiên nhiên", cụm từ "đấu tranh sinh tồn" là một phép ẩn dụ; nó như thể là tự nhiên lựa chọn, hay là như thể mọi sinh vật liên tục đấu tranh cho sự tồn tại của chúng. Những hình mẫu cùng phụ thuộc, và hoạt động của "sự đấu tranh" mang tính trừu tượng hơn nhiều, không chì đơn thuần là sự cạnh tranh của hai loài động vật nào đó giành nhau khu đất, và làm thay đổi đáng kể ý nghĩa của phép ẩn dụ. Tuy nhiên, điều chính xác là ngữ nghĩa "rộng mang tính ẩn dụ" mà giúp cuốn Nguồn gốc của muôn loài rất dễ dẫn đến kiểu hiểu nhầm đó hoặc là sự vận dụng sáng tạo mà Darwin, trong những lần tái bản tiếp theo bản thảo đưa ra ở đây, cố tìm kiếm sự giới hạn và kiểm soát [5].
Ngày nay, "chủ nghĩa Darwin" và "người theo chủ nghĩa Darwin" là những thuật ngữ quen thuộc đối với chúng ta. Do vậy, khi đọc cuốn Nguồn gốc của muôn loài tức là chúng ta đang tận dụng cơ hội xem xét xem kiến thức chung đấy quan hệ gần gũi đến mức nào với nguồn mà được coi là kiến tạo ra chúng. Bời vì có thể người ta sẽ sử dụng nó kiến thức đó nhưng cũng có thể lạm dụng nó và có rất nhiều thứ trong "chủ nghĩa Darwin" và "người theo chủ nghĩa Darwin" mà chúng ta có lẽ sẽ không tìm thấy ở Darwin. Hãy lấy đoạn dẫn sau đây về nguyên tắc chung của "người theo chủ nghĩa Darwin" làm ví dụ:
... Sự lựa chọn của tự nhiên liên tục tìm cách tối ưu hóa tất cả các phần của một tổ chức. Nếu trong điều kiện sống bị thay đổi, một cấu trúc mà trở nên kém hữu ích, thì bất kỳ sự suy giảm nào dù nhỏ trong quá trình phát triển của nó sẽ được quá trình lựa chọn của tự nhiên nắm lấy, bởi vì cấu trúc đó sẽ được hưởng lợi do không bị lãng phí dinh dưỡng để xây dựng nên những phần vô ích.
Do không nằm trong văn cảnh, chúng ta có thể dễ dàng hiểu cụm từ "tổ chức" ở đây theo nghĩa quen thuộc là một công ty thương mại, cho dù là cơ quan hợp nhất được nói đến là một "cá thể" sống. Theo nghĩa cơ bản nhất, tác phẩm Nguồn gốc của muôn loài là một tác phẩm của kinh tế học, của tự nhiên - như là - nền kinh tế; và lịch sử cận đại của chúng ta chứng kiến sự lớn mạnh của chủ nghĩa tự do mới, thị trường tự do, trong những năm 1980, và sau đó là sự sụp đổ của Liên bang Xô viết theo chủ nghĩa Cộng sản, sự chấp nhận rộng rãi mối quan hệ kinh tế của tư bản chủ nghĩa. Những biến cố đó có thể khiến chúng ta hiểu nội dung cuốn sách theo nghĩa nó là một một sự khẳng định rằng trật tự kinh tế xã hội của kiểu này là "tự nhiên" hơn các trật tự khác. Mặc dù không hề ám chỉ rằng ngôn ngữ được sử dụng trong cuốn sách là ngôn ngữ của những nhà quản lý doanh nghiệp đương đại, nhưng một điều không thể phủ nhận là ngôn từ của nghệ thuật quản lý kiểu mới - thu gọn và hợp lý hóa, nhằm tạo ra những tổ chức thích hợp và gọn ghẽ hơn có khả năng cạnh tranh trong môi trường kinh doanh cạnh tranh khốc liệt mà tại đó kẻ mạnh thì sống kẻ yếu thì bị tiêu diệt - đã được mượn từ một sự lựa trọn của thiên nhiên mà "luôn luôn thành công, xét về mặt dài hạn, trong việc tinh giản mọi phần của tổ chức ngay khi phần đó không còn có ích nữa". Một doanh nhân có thể đổi cái gì để chạm vào một vật mà Darwin gọi là "bản năng tuyệt diệu nhất trong sổ tất cả các bản năng được biết đến", bản năng của ông? ... Sự lựa chọn tự nhiên diễn ra từ từ và ngày càng hoàn chinh điều khiến loài ong bay từ nơi này sang nơi khác với một khoảng cách nhất định theo dạng lớp đôi, và xây nên và phá hủy sáp suốt dọc đường bay. Loài ong tất nhiên là không biết chủng làm tổ với những khoảng cách nhất định xa nhau nhiều hơn là chúng biết những góc của một hình lăng trụ sáu cạnh và những đĩa hình thoi cơ bàn là gì. Động lực của quá trình lựa chọn tự nhiên là sự tiết kiệm sáp ong, từng bầy cá biệt tiết kiệm được nhiều sáp ong nhất là đàn ong thành công nhất, và sẽ di truyền lọi đặc tỉnh tiết kiệm có được qua quá trình thích nghi với môi trường song cho các bầy khác, và như vậy có cơ hội tổt nhất để tồn tại trong cuộc đấu tranh sinh tồn.
Điểm chính ở đây tất nhiên là tính đúng đắn của việc đưa ra sự so sánh dễ dàng giữa thế giới tự nhiên và thế giới con người. Phải chăng Darwin không phải là một nhà tự nhiên học? Do dó, chúng ta không thể để khoa học của ông đứng một mình, chống lại sự quyến rũ để áp dụng lý thuyết của ông vào thế giới loài người, cho dù là cá thể hay xã hội? Cho đến trước thế kỷ 19, một điều rõ ràng là câu trả lời cho những điểm trên là một sự phủ định phức tạp. "Chủ nghĩa Darwin xã hội" thâm nhập và đưa ra bằng chứng về quá trình phát triển của những khoa học mới về con người chẳng hạn như nhân chủng học, kiến nghị một mô hình đổi lập, có trật tự và tiến hỏa của sự phát triển những "kiểu" dân tộc mà song hành cùng với sự trỗi dậy của các quốc gia nhà nước. Công trình nghiên cứu của Francis Galton về trí thông minh di truyền, dựa vào cuốn Nguồn gốc của muôn loài, là tác nhân cho sự phát triển lý thuyết mới -thuyết ưu sinh. Thuyết này dựa trên một nguyên lý của khoa học sinh học - xã hội mà phát biểu rằng kẻ yếu (tức là "người nghèo", tầng lớp dân lao động hoặc là có nguồn gốc "thấp kém") không được khuyến khích sinh đẻ trong khi đó kẻ mạnh (tức là những người giàu có quyền lực) lại được khuyến khích[6]. Sau khi có được ảnh hưởng nhất định trong giới chính trị nước Anh trong những năm trước chiến tranh Thế giới thứ nhất, thuyết ưu sinh dường như bị toàn giới khoa học phản bác. Nhưng lịch sử thế giới ở thế kỷ 20 để lại những dấu ấn khùng khiếp liên quan đến tính thượng đẳng dân tộc, và các định luật của thuyết ưu sinh dường như liên tục ám ảnh cuộc nghiên cứu khoa học tiên tiến nhất của chúng ta. Tiến triển trong dự án Bộ gien người đang bị gián đoạn bởi những cuộc thảo luận đầy lo ngại về sự biến đổi gen, và sẽ gây nên nhiều cuộc tranh cãi kiểu này hơn trước khi dự án đó kết thúc trong một tưomg lai khá gần.
Charles Robert Darwin sinh năm 1809, con của bà Susanna (con gái của ông trùm tư bản Josiah Wedgwood), với ông Robert Darwin, một bác sĩ giàu có vùng Shroshire (con trai của nhà khoa học - nhà thơ và cũng là nhà vật lý Erasmus Darwin). Đọc tiểu sử của ông, ít người nghĩ rằng Darwin sẽ trở thành một nhà khoa học chuyên về nghiên cứu quá trình tiến hóa của muôn loài. Ông hoàn toàn thuộc về tầng lớp quý tộc Anh, mặc dù là thành viên đảng Whig [1], có khả năng kinh doanh nhưng lại theo tư tưởng đối lập với hệ tư tưởng thịnh hành thời bấy giờ. Và sau một thời gian theo học tại trường Shrewsbury với kết quả không có gì nổi bật, Darwin được gửi vào trường Đại học Edinburgh theo học chuyên ngành y khoa giống như bố của ông. Hai năm sau, vào năm 1827, ông bắt đầu môn thần học tại trường Đại học Cambridge sau khi cha ông quyết định không cho ông tiếp tục ngành y không có tương lai để chuyển sang một lĩnh vực chắc chắn và được ưa chuộng hơn: trở thành thành viên của Giáo hội. Nhưng vào thời gian đó, Darwin lại tỏ ra thích các hoạt động thể thao hơn là nghiên cứu, và công việc của một vị mục sư lại xem ra quá hợp với cậu thanh niên may mắn giàu có thích nay đây mai đó này. Nhưng những hạt giống đầu tiên của niềm say mê lịch sử tự nhiên trong ông đã được gieo mầm ở chính giai đoạn này; tại trường Đại học Edinburgh, khi là thành viên của Hiệp hội sinh viên Plinian; ông được tiếp xúc với thế giới của những cuộc tranh luận giữa những người theo chủ nghĩa duy vật, và chịu rất nhiều ảnh hưởng của ông Robert Grant, một nhà khoa học về tiến hóa và chuyên gia về động vật không xưomg sống ở biển. Darwin luôn đi theo ông Grant trong những cuộc khảo sát thực địa và dần dần học tập phương pháp nghiên cứu và quan sát của ông khi hai người cùng nghiên cứu về con hải miên. Sự ảnh hưởng này lại ngày càng gia tăng tại trường Đại học Edinburgh, nơi mà những thí nghiệm của riêng ông Darwin về các loài cây và côn trùng được tiến hành và phát triển. Ông tham gia vào cuộc thám hiểm của Adam Sedgwick, một giáo sư địa chất nổi tiếng, tới vùng Bắc xứ Wales. Chuyến đi này đã củng cố chắc thêm kiến thức của ông về địa chất; nhưng quan trọng hơn cả chính là thời gian khi ông làm trợ lý chính cho ông Rev John Henslow, một giáo sư về thực vật học, người đã truyền tất cả những nhiệt huyết của mình về công việc sang ông. Ông Henslow cũng có thể là hình tượng của Darwin, một chuẩn mực của mục sư thời đại Victoria - một nhà tự nhiên học - của một mối quan hệ gắn bó, biểu tượng về việc có thể tồn tại giữa công việc của một mục sư tại thị trấn nhỏ và sự tiếp tục các cuộc nghiên cứu khoa học. Nhưng trước khi Darwin có thể chắc chắn trơ thành một nhà khoa học thực thụ, giáo sư Henslow đã khuyên ông nên là một nhà tự nhiên học và là bạn đồng hành của thuyền trưởng James Fitzroy trên con tàu thám hiểm HMSS Beagle tới cực nam trái đất. Những ảnh hưởng của chuyến viễn thám này đối với Darwin là cực kỳ hữu ích, xét trên rất nhiều mặt.
Trong giai đoạn từ năm 1831 cho tới năm 1836, với vai trò là một nhà tự nhiên học trên con tàu HMS Beagle, ông đã có dịp tiếp xúc với cả một thế giới tự nhiên hoàn toàn khác biệt; khoảng thời gian ngắn ngủi mà Darwin có được để khám phá những vùng đất Nam Mỹ đã trở thành kinh nghiệm quý báu cả đời, tạo ra một ảnh hưởng lớn và kéo dài tới cách suy nghĩ và trí tường tượng phong phú của ông về thiên nhiên và đóng vai trò quyết định trong quá trình hình thành cơ chế giải thích táo bạo mà đã đơm hoa kết trái hơn 20 năm sau đó: cuốn Nguồn gốc của muôn loài (1859). Nhà tự nhiên học trẻ tuổi này đã viết ứong cuốn nhật ký về cuộc hành trình này, mà về sau trở thành cuốn Chuyến đi của con tàu Beagle (Tủ sách văn học cổ điển thế giới - 1997): "Ôi, thật là một niềm khát khao cháy bỏng lớn lao đối với một người yêu thiên nhiên khi được nhìn thấy, nếu điều này là có thể, cảnh sác tuyệt vời của một thế giới khác! Mà đối với bất cứ ai ớ châu âu, thật sự khung cảnh này chi cách họ có vài độ, một thế giới kỳ diệu đang mờ ra trước mắt anh ta".
Do đó, với những đọc giả lần đầu tiên biết tới cuốn Nguồn gốc của muôn loài, có lẽ là tác phẩm mang tính cách mạng nhất của trí tưởng tượng khoa học cận đại, có thể ngạc nhiên khi bất thình lình phát hiện ra mình đang ở trong thế giới giai đoạn giữa thế kỷ 19 của những người thích nghiên cứu chim bồ câu nước Anh. Ông Darwin cố gáng giải thích lý thuyết của mình cho những người đọc có kiến thức và có đầu óc phân tích bằng cách xuất phát từ những hoạt động thường ngày; chương đầu tiên của ông cho rằng những hoạt động của người nhân giống tại giã, trong quá trình lựa chọn qua một vài thế hệ những biến thể tốt nhất trong số những con giống của họ, có thể giúp chúng ta hiểu rằng tổng thể thế giới thiên nhiên đang liên tục biến đổi. Lý do cho cách giải thích bước đầu như vậy là khá rõ ràng và mang tính sư phạm: bắt đầu bằng một thứ quen thuộc. Tuy vậy trong cuốn Nguồn gốc của muôn loài, chúng ta cũng sẽ bắt gặp cảnh mà không phải là Câu lạc bộ nuôi chim bồ câu London mà là cảnh cơn mưa rừng nhiệt đới từ thời nguyên thủy ở Brazil và những quần đảo núi lửa tại Galapagos Archipelago. Và sau đấy, độc giả sẽ sớm nhận thấy mình đang đi tiến đi lui dọc một đoạn giữa những cái "quen thuộc" và cái "khác", giữa cái "nội địa" và cái "ngoại lai", trong những dòng chữ mà dường như coi khinh ranh giới chia tách các vật thể nói trên. Với biến thể kỳ lạ và không đoán trước được, chúng ta sẽ gặp những kẻ man rợ Tierra del Fuego ăn thịt phụ nữ; những con gián nhỏ vùng Asiatic; những cây thân dày dạng củ cải Thụy Sỹ thông thường; những mấu cây của các cây tre dài thuộc quần đảo Malay; những mảng lông trên da mang trứng của con chân tơ, những khu vực trũng của vùng bắc và nam Weald; những đáy trầm tích tại cửa sông Mississippi trong suốt kỷ nguyên băng giá. Nhiệm vụ của nhà tự nhiên học Darwin, khi mà là trong tâm khoa học trong công việc của ông và chỉ có thể đạt được thông qua khả năng sử dụng ngôn ngữ sống động và sáng tạo, là để biến những thứ lạ lùng hay "không thể tin được" thành những điều quen thuộc gần gũi với chúng ta, và biến những khía cạnh vấn đề vô cùng khó hiểu và chưa bao giờ được biết đến trở nên dễ hiểu, kiến thức chung của mọi người. Thành công của ông, trong văn cảnh mà sự quyến rũ không hề giảm đi nếu không muốn nói là tăng thêm khi chúng ta tiến vào những góc cạnh dị thường của thiên niên kỷ, thật ra nằm trong sự phát hiện rằng những thế giới đối lập nhau trên thực tế lại là một. Vậy thì cái gì là trung tâm mà mọi nỗ lực đều dành cho nó?
Trong tiêu đề ngắn gọn như mọi tiêu đề khác, cuốn Nguồn gốc của muôn loài có thể gây ra sự hiểu nhầm cho những người đọc đương đại. Tiêu đề của cuốn sách sẽ chính xác hơn, mặc dù có thể là kém hấp dẫn hơn, nếu được đặt theo tên tác phẩm khổng lồ đang còn dang dở trên bàn giấy mà đã được tóm tắt một cách khá vội vàng: Sự lựa chọn của thiên nhiên. Bởi vì cuốn sách Nguồn gốc của muôn loài là sự giả thích của Darwin về lý thuyết lựa chọn tự nhiên của ông. Tư tưởng chủ đạo của lý thuyết này là không một loài nào có thể không bao giờ thay đổi; tất cả mọi thứ đều tiến hóa, và vẫn tiếp tục tiến hóa trong suốt quá trình một thời gian rất dài. Lý thuyết này thách thức quan điểm thống trị của những người theo chủ nghĩa sáng tạo luận về các loài là được tạo ra một cách đặc biệt và tách biệt bởi ý muốn của Chúa trời; Tự nhiên, đối với Darwin, là một thể liên tục, làm nền tảng cho một sự phỏng đoán rằng: "Các con vật có nguồn gốc từ nhiều nhất chỉ bốn hoặc năm đời và đối với các loài thực vật, con số này chỉ bằng hoặc kém hơn" hoặc là thậm chí - mặc dù nhà tiến hóa học đặt cược ở đây - là: "có khả năng tất cả các loài hữu cơ đã từng sống trên trái đất này là con cháu của một loài nguyên thủy mà chính nó sự sống đã được thổi vào".
Tất nhiên Darwin không phải là người đầu tiên nhận ra rằng về cơ bản mọi thứ đều đổi thay. Một nhận định mang tính triết lý ít nhất có từ thời Hy Lạp cổ đại của nhà triết học Heraclitus về khái niệm thế giới trong một trạng thái luôn luôn thay đổi hay là trong trái thái "lửa". Ông cũng không phải là người đầu tiên trong thế hệ của ông khởi xướng thuyết "người biến hình" hoặc là "người đột biến" trong lịch sử thế giới tự nhiên: như là cuốn "Tóm tắt lịch sử" đã thêm vào lần tái bản thứ ba của cuốn sách Nguồn gốc của muôn loài (và được in lại trong quyển sách này) chỉ ra, trong nửa đầu thế kỷ 19, những ý tưởng về lý thuyết của Darwin đã từng xuất hiện, và Darwin rõ ràng tìm ra trong lý thuyết của mình có những ý tưởng đó.
Nhưng chính sự giải thích của ông về cách mà muôn loài thay đổi và phát triển đã làm cho tác phẩm Nguồn gốc của muôn loài trở nêấn độc đáo, cỏ một không hai. "Sự lựa chọn của thiên nhiên" được định nghĩa là "sự duy trì những biến thể tốt và loại bỏ những biến thể xấu", ở đây, cụm từ "sự duy trì" nói đến một quá trình trong đỏ các cơ thể khỏe hơn hoặc là "thích hợp hơn", được trang bị với những biến thể hữu ích dù có bé hơn xét về mặt tỷ lệ, có nhiều khả năng tồn tại và tái sinh hơn hơn những cơ thế yếu. Do đó, vô số thế hệ các loài "thay đồi", theo cách mà những thực thể phù hợp hơn, có khả năng thích nghi cao hơn đã thay thế dần dần - hoặc đang thay thế liên tục - những thực thể có ít khả năng thích nghi hơn và như vậy, theo quy luật tự nhiên, chúng đã bị tuyệt chủng. Những nhà nhân giống chim bồ câu đáng kính của Darwin đi theo một phiên bản "nhân tạo", yếu hơn của quá trình lựa chọn này; một người nhân giống tốt chỉ cho phép những con giống giỏi nhất sinh sản, và loại bỏ những con yếu kém. Nhưng "con người chỉ có thể tác động tới những vật thể bên ngoài hữu hình", trong khi đó, thiên nhiên "có thể tác động tới mọi cơ quan bên trong, tới mọi sự vật vô hình của khác biệt về thể trạng, tới toàn bộ cơ chế đời sống"; năng lực tuyệt đối của sự lựa chọn tự nhiên là hầu như không thể đo đạc được.
Người ta thường nói rằng sự lựa chọn tự nhiên diễn ra hàng ngày, hàng giờ, trên khắp thế giới, trong mọi biến thể, thậm chí là những cái nhỏ nhất; loại trừ những cơ thể xấu, duy trì và phát triển tất cả cơ thể khoẻ; hoạt động một cách thầm lặng và vô hình, bất cứ nơi nào và bất cứ khi nào cơ hội xuất hiện, biến đối theo hướng tích cực mỗi cơ thể sống trong mối quan hệ với điều kiện sống hữu cơ và vô cơ của nó. Chúng ta không hề nhìn thấy bất cứ điều gì từ những thay đổi chậm chạp của quá trình này, cho đến khi bàn tay thời gian để lại dấu ấn của mình sau một thời kỳ dài...
Lý thuyết này dựa trên một vài nhân tố cần thiết. Thứ nhất, đó là tồn tại "một thể nguyên thủy", nguồn gốc của bàn thân "sự sống", mà Darwin khẳng định công việc của ông không thể "giải thích hay can thiệp" được. Sau đó, một khoảng thời gian dài chậm chạp trôi qua, không thể nhận thức được hay là cái mà bây giờ chúng ta gọi là "thời gian sâu", thông qua đó, nguồn gốc của sự sống bắt đầu đa dạng hóa thành vô số hình thái sự sống tự nhiên và cuối cùng trở thành những cơ quan phức tạp và "hoàn thiện" như là mắt người chẳng hạn. Trong giai đoạn thế kỷ 19 mà nhà thờ có vai trò khá lớn, môn "thần học tự nhiên" truyền thống, được thiết lập trong công trình tác phẩm cùng tên của William Paley (1802) và kế đó được trân trọng nhắc đến trong rất nhiều Bridgewater Treatises quyền năng, những cấu trúc bộ phận như kiểu của mẩt người được giải thích bởi khái niệm quyền lực tuyệt đối của Chúa trời: chúng là sản phẩm của Đức Chúa. Nhưng trong tác phẩm Những nguyên lý của Địa chất gồm ba phần của Charles Lyell với lý thuyết "đồng nhất" hay tiệm tiến luận về quá trình đột biến địa chất dường như tiêu diệt sự tồn tại của trái đất trong kinh thánh 6.000 năm, thay thế nó bằng một giai đoạn "hoàn toàn không thể hiểu được" cần thiết cho sự tiến hóa của những thể vô cùng phức tạp. Tuy vậy, Darwin cho rằng sẽ là chưa đủ nếu chi đọc các tác phẩm của Lyell và các chuyên luận khác về sự hình thành của đá nhằm để nhận thực đúng đắn sự mênh mông rộng lớn của giai đoạn tiến hóa sâu thẳm: "Hằng năm, một người phải tự mình tìm hiểu nghiên cứu vô số địa tầng chồng lên nhau, và quan sát biển bào mòn những tàng đá nhiều tuổi, tạo nên những tầng trầm tích mới, trước khi anh ta có thể hi vọng hiểu được mọi thứ theo dòng thời gian, những tượng đài kỷ niệm xung quanh chúng ta".
Quá trình lựa chọn cũng được chứng thực nhờ vào việc suy xét xem liệu thế giới tự nhiên sẽ trông như thế nào nếu không có quá trình sàng lọc này. Điều cốt yếu ở đây là số lượng loài có thể tồn tại ít hơn so với số loài sinh ra: nguyên tắc "tăng theo cấp số nhân", nếu tất cả các cá thể và rất nhiều trứng và giống của chúng có thể tồn tại và sinh sản không được kiểm soát, trái đất này sẽ sớm bị bao phủ - "tràn ngập" bởi "dòng dõi con cháu của một đôi duy nhất", thậm chí là loài voi cái to lớn chậm chạp, mà theo sự tính toán của Darwin đẻ 3 cặp trong vòng đời 60 năm của chúng, sẽ tạo ra số lượng 15 triệu con vào cuối thể kỷ 15 trong quá trình tồn tại của chúng. Để cho hệ thống tự nhiên có thể phát triển tồn tại được, "quá trình tranh đấu cho sự sinh tồn" là không thể thiếu. Ở đây, với những người nhân giống chim bồ câu, Darwin tỏ ra mâu thuẫn khi sử dụng một ví dụ "thiếu tính thuyết phục" trong thế giới loài người để minh họa cho một nguyên lý mạnh mẽ hơn rất nhiều của tự nhiên; trong trường hợp này, gây nhiều tranh cãi, tác phẩm của Thơnas Malthus, cuốn Bài luận về dân số (1798) cho rằng dân số loài người sẽ luôn luôn vượt quá nguồn sinh kế của mình trừ khi chịu sự can thiệp giới hạn của tự nhiên hoặc có ý thức của con người. Đấu tranh sinh tồn là "học thuyết của Malthus được áp dụng trên rất nhiều lĩnh vực của vương quốc động và thực vật"; với quá nhiều nơi trong tự nhiên để khám phá, sự lựa chọn tự nhiên theo nghĩa này có thể được coi là để tận dụng bất cứ sự điều chỉnh nào trong điều kiện - từ sự xuất hiện của một cây tại một khu vực, tới sự thay đổi thời tiết dài hạn hoặc là khắp nơi -nhằm để chứng thực nguyên lý của sự hủy diệt; vì "sự tuyệt chủng và sự lựa chọn tự nhiên luôn luôn song hàng".
Cuối cùng, lựa chọn tự nhiên cũng dựa vào chính sự thay đổi. Lý thuyết của Darwin hình như là đưa ra một lời giải thích về tính năng động đa dạng của thế giới sự sống, nhưng nó lại chi phản ánh những kết quả logic của sự biến đổi, và không hoặc là không thể tính đến sự biến đổi cá nhân. Nếu sử dụng một trong những minh họa giả thiết của cuốn sách: nếu một con sói, mà săn rất nhiều con vật khác nhau bằng kỹ năng săn mồi, sức mạnh và tốc độ của nó sẽ sống ở vùng mà tại đó những con mồi nhanh nhất, con hươu, vì một lý do nào đó tăng lên về mặt số lượng tại thời điểm khan hiếm, và khi những con mồi khác giảm đi về mặt số lượng, thì chúng ta có thể suy ra rằng "những con sói nhanh nhất và khéo léo nhất sẽ có nhiều cơ hội tồn tại hơn, và do đó được duy trì và được lựa chọn"; nguyên nhân nào khiến cho con sói này nhanh hơn, khéo léo hơn con sói khác, hoặc là, cụ thể hơn, là hơn cha mẹ chúng trong quá trình săn mồi? Như Darwin đã phải thừa nhận: "Sự kém hiểu biết của chúng ta về quy luật đổi thay" - và bằng sự ám chỉ, về quy luật di truyền "là rất nghiêm trọng". Sự xuất hiện sáng ngời của Jean Baptiste Lamarck, một trong những bậc tiền bối nổi tiếng về biến dạng sống cùng thời Darwin, là đủ cho thấy những vấn đề của biến đổi và di truyền được Darwin quan tâm như thế nào, và tầm quan trọng của chúng được thể hiện ở chương năm cuốn sách này.
Trong công trình nghiên cứu Triết lý về động vật học (1809), Lamarck lần đầu tiên nêu ra lý thuyết của ông về sự kế thừa những tính cách thu được. Thông qua sử dụng và thói quen, những cá thể có thể, theo như lý thuyết này, không chỉ thay đổi thể trạng của chúng nhằm thích nghi với môi trường mới mà còn di truyền các đặc tính đó cho con cháu chúng. Những đặc điểm hình thoi dài thường là những cái được lấy làm ví dụ minh họa chủ nghĩa Lamarck; có lẽ bởi vì hiệu ứng thị giác trực tiếp của chúng: cổ của con hươu cao cổ, chân của con chim cao cẳng. Lamarck do đó tin rằng trong một cơ chế tiến hóa từ từ, giống như sự lựa chọn tự nhiên, làm giảm đi tính cố định của các loài; nhưng tác phẩm của ông cũng không loại trừ khả năng tồn tại thế hệ tự phát của những kiểu mới, và được dựa trên mô hình kỹ thuật của lòng khát vọng và sự cải thiện mà người ta cho rằng là mang tính trừu tượng như là bản thân chủ nghĩa loài, vẫn có người tin là "quan điểm của Lamarck về quá trình tiến hóa vẫn còn nổi tiếng" [2]
Những dòng hồi ký mà Darwin viết vào những năm 1840 cho thấy ông ít có thời gian để nghiên cứu các khía cạnh vấn đề trong tác phẩm của Lamarck, và trong chương "Những quy luật của sự thay đổi" của cuốn sách Nguồn gốc của muôn loài, chúng ta sẽ thấy ông đưa một loạt các phương pháp thay thế lý giải cho "điều kiện nhân tạo" của các con vật mới được sinh ra: sự phụ thuộc của hệ thống sinh đẻ vào những đổi thay trong điều kiện sống; hay là nguyên tắc của sự tương quan tăng trường nhờ đó mà những biến đổi nhỏ nhất định sẽ dẫn đến những thay đổi khác của cấu trúc. Mặt khác, quay trở lại với những người nuôi chim bồ câu của ông, thực tế củạ nhân giống tại gia đã khiến Darwin "hoàn toàn tin" rằng "việc một vài con vật nuôi trong nhà sử dụng các bộ phận nhất định của chủng ta làm cho những bộ phận cơ thể đó phát triển và to ra, và ngược lại việc không sử dụng sẽ làm suy yếu chúng; và những thay đổi như vậy sẽ được truyền sang đời sau". Thật là thú vị khi chúng ta thấy Darwin, trong suốt cả chương đó, liên tục quay trở lại và “làm xiếc” với những thứ bên lề thói quen và "các nguyên lý chính" của sự kế thừa. Còn Darwin, trong một chừng mực nào đó, dựa vào công trình của Lamarck vẫn tiếp tục là chủ để gây tranh cãi giữa những nhà bình luận về ông. Song điều rõ ràng ở đây là nếu sự chọn lựa tự nhiên ở một mức độ nào đó có thể dự báo được dựa trên một mức biến đổi nhưng nhỏ giữa con cái và bố mẹ thì nó sẽ cần một cơ chế lý giải cho quá trình di truyền, và sự biến dạng của vật chất ẩn trong quả trình sinh sản. Chúng ta bây giờ gọi quá trình cơ chế này là "gen" - một thuật ngữ, một khoa học mà vào năm 1859, Darwin không hề biết đến. Tiếp tục công trình nghiên cứu của Gregor Mendel, một nhà sư người Bohemian Augustunian, người đã đặt nền móng cho ngành khoa học này vào năm 1865 (nhưng lại không được biết đến cho tới đầu thế kỹ hai mốt), và cùng với thời gian, chúng ta có thể vẽ được bản đố gen người, chính mục tiêu này đã, đang và sẽ thôi thúc chúng ta nâng cao hiểu biết của mình bằng việc đọc cuốn Nguồn gốc của muôn loài với những kiến thức của chúng ta về gen di truyền.
Trong cuốn tiểu sử sống động của mình, hai ông Adrrian Desmond và James Moore đã thu hút được sự quan tâm tới ngành nghiên cứu bệnh lý học mới lạ mà Darwin theo đuổi khi trưởng thành. Khi bắt đầu khóa học cao học tại trường Beagle về quá trình chuyển hóa, Darwin đã bị mắc chứng đau nửa đầu. Căn bệnh này đã hành hạ ông, làm ông "khô héo trên giường bệnh, cảm thấy như đang bị tra tấn tàn bạo"; cuối cùng, "một phần ba cuộc đời làm việc của ông chìm trong sự đau đớn, run rẩy, nôn tháo, và dìm ngập ông vào băng giá" [3]. Sự đau đớn về thể xác và những cuộc xung đột tư tưởng mà cùng với nhận thức ngày một rõ rệt rằng những quan điểm của ông khác xa so với học thuyết chính thống Thiên chúa giáo được thể hiện rất rõ trong quá trình phát triển ý tưởng cho cuốn sách này. Bắt đầu bằng những quyển ghi chép về sự đột biến loài vào năm 1837, Darwin đã hoàn thành hai bản tóm tắt sơ bộ trong năm 1844. Nhưng cả hai bản thảo này đều không được biết đến rộng rãi. Ông tiếp tục cố gắng và cho xuất bản những nghiên cứu gây tranh cãi hơn, chẳng hạn như nghiên cứu của ông về cấu trúc và vị trí của những rặng san hô, về con hàu, trong khi vẫn âm thầm theo đuổi những ý tường lý thuyết táo bạo. Những bài viết và lá thư của ông trong giai đoạn này bị gián đoạn bởi nỗi sợ hãi và sự cam chịu: ông cảm thấy mình đã dành trọn cuộc đời cho một "suy nghĩ kỳ quặc", nó giống như thú nhận "tội giết người": "Ồ, bạn là người theo chủ nghĩa Duy vật biện chứng", ông thường tự chỉ trích mình một cách hài hước. Cho đến trước những năm 1850, các bài nghiên cứu của ông được viết thành một cuốn sách dày, không có sự kết thúc, Sự lựa chọn của tự nhiên, thu thập những dẫn chứng về quá trình này một cách cẩn thận song rất khó khăn. Khả năng để cuốn sách có thể ra mắt công chúng là xa vời. Nhưng cuối cùng, ông cũng viết ra tất cả những suy nghĩ thật của mình; sự im lặng trong ông đã bị phá vỡ bởi yếu tổ bên ngoài.
Alffred Russell Wallace, một nhà tự nhiên học cũng là một người theo chủ nghĩa xã hội trẻ tuổi nghiên cứu và tìm hiểu về quần đảo Malay, đã trao đổi ý tưởng với Darwin, và gửi cho ông một vài mẫu vật thí nghiệm. Ông Wallace cũng đưa ra các quan điểm của ông về lý thuyết của cơ chế tiến hóa. Sự kiện này mà qua đó Darwin tìm thấy những điểm tưởng đồng trong lý thuyết của mình đã làm Darwin cảm thấy hết sức sung sướng và khuyến khích Wallace tiếp tục phát triển lý thuyết đó. Vào ngày 18 tháng 6 năm 1858, một bức thư dài 20 trang được Wallace gửi đến cho Darwin. Trong bức thư chứa đựng một bản đề cương sơ lược về lý thuyết của sự lựa chọn tự nhiên. Không thể cư xử như một kẻ thiếu văn hóa, Darwin đồng ý giúp công trình nghiên cứu của Wallace có được sự quan tâm rộng rãi của công luận trong khi ông phải đối mặt với sự thực phũ phàng là sự chậm chạp đo để chỉnh sửa tài liệu đã khiến ông trở thành người đến sau. Sau khi tham khảo ý kiến với Charles Lyell và nhà thực vật học Joseph Hooker, một thỏa ước đã đạt được: bức thư của Wallace và những đoạn trích có liên quan từ công trình nghiên cứu của Darwin sẽ được đọc cùng một lúc trong buổi họp tại Hiệp hội Linnean ở London vào ngày 1 tháng 7 năm 1858. Sự vắng mặt của Darwin trong buổi hôm đó là do ông được báo tin về cái chết của cậu con trai bé bỏng, Charles, do bệnh ban đỏ. Do đó, tại thòi điểm tồi tệ ấy, rõ ràng là ông cần xuất bản tác phẩm của mình một cách nhanh chóng.
Trong khoảng thời gian đi nghi với gia đình tại đảo Wight, thời gian an dưỡng và trị bệnh ở Moor Park tại Surrey, và thời gian ở nhà, Darwin đã hoàn thành xong cuốn Nguồn gốc của muôn loài trong vòng 10 tháng và chủ yếu là từ trí nhớ. Cuốn sách được xuất bản bởi John Murray trong tháng 11 năm 1859, và bán chạy đến nỗi mà kế hoạch tái bản lần thứ hai được đưa ra ngay lập tức.
Sự mô tả của Darwin trong cuốn sách đó với quan niệm là "một cuộc tranh luận lâu dài" xác nhận đánh giá của chúng ta về cuốn sách là sâu sắc và phong phú về nội dung - luôn luôn tỉ mẩn, tuy có đôi chỗ chưa được như ý, nhưng thường là sinh động và đầy xúc cảm trong kỹ năng thuyết phục. Nhận thức rõ vô số "khó khăn" trong quá trình trình bày lý thuyết của mình -không có bằng chứng cụ thể trong thiên nhiên về những dạng chuyển đổi, hay sự thiếu sót của những tải liệu địa chất, đây chỉ là hai vướng mắc nhất đổi với Darwin đôi khi người ta có cảm giác như Darwin thích dựng lên những chướng ngại vật đối với mình hơn là rũ bỏ chúng. Tác phẩm Nguồn gốc của muôn loài tự tranh luận với bản thân nó, hay nói chính xác hơn là với một người đối thoại tưởng tượng - "anh ta người mà tin vào vô số hành động riêng rẽ của sự sáng tạo" - người mà lúc nào cũng sẵn sàng nêu ra các ý tưởng cần thiết đối lập với người theo chủ nghĩa sáng tạo luận. Tuy thể, sự xuất hiện của sự thật không thể chối cãi tất nhiên luôn luôn có thể gây ấn tượng tốt cho người đọc. Hơn nữa, khi người đối thoại theo trường phái sáng tạo luận phải đối mặt với việc giải thích sự tồn tại lâu dài của những đặc điểm tiến hóa mặc dù khó nhận biết về những nguyên lý thiết kế, chẳng hạn như chân có màng của loài vịt sống trên cạn, hay là loài chim gõ kiến sống ở những cánh đồng không có cây tại La Plata, chúng ta nhận ra rằng những bằng chứng đó đứng về phía Darwin.
Công trình nghiên cứu gần đây của Gillian Beer về điểm chính của Darwin nhấn mạnh nhà khoa học xét trên một vài khía cạnh quan trọng phụ thuộc vào ngôn ngữ giống như bất kỳ “nhà sản xuất kiến thức” nào[4]. Ngôn ngữ thể hiện kiến thức, và kiến thức là sức mạnh, nhưng ngôn ngữ cũng nổi tiếng là bất tín và khỏ lường, luôn có nguy cơ làm sai lệch hoặc nói giảm những ý mà ta thực sự muốn truyền đạt. Thậm chí là bản thân cụm từ "sự lựa chọn của tự nhiên" cũng không phải là ngoại lệ, mà đoạn trích sau đang một lần nữa minh họa:
Người ta thường nói rằng sự lựa chọn tự nhiên diễn ra hàng ngày, hàng giờ, trên khắp thế giới, trong mọi biến thể, thậm chí là những cái nhỏ nhất; loại trừ những cơ thể xấu, duy trì và phát triển tất cả cơ thể khoẻ; hoạt động một cách thầm lặng và vô hình, bất cứ nơi nào và bất cứ khi nào cơ hội xuất hiện, biến đối theo hướng tích cực mỗi cơ thể sống trong mối quan hệ với điều kiện sống hữu cơ và vô cơ của nó.
Xét về mặt ngôn ngữ học, cụm từ "sự lựa chọn" hàm ý một nhân tố của sự lựa chọn có ý thức; một ai đó hoặc cái gì đó phải tiến hành quá trình chọn lọc, nhất là khi quá trình này kết hợp một vài động từ như "xem xét kỹ lưỡng", "loại bỏ", "duy trì", "thêm vào" và "làm việc". Có phải là nó không để cho cụm từ dễ dàng quên "không nhận thức", hoặc là một chút hạn chế "Người ta có thể nói rằng", người đọc có thể được tha thứ khi cho rằng trong phần này, Darwin cố gắng gán Sự thiết kế sáng tạo cho quá trình đó, cho dù thậm chí là nội dung chính trong công trình nghiên cứu của ông là để phản bác sự can thiệp siêu hình như vậy. Hơn nữa, tại điểm này trong bài viết của Darwin, "sự lựa chọn của tự nhiên" liên tục xuất hiện bằng một phương pháp diễn đạt quen thuộc hơn về "tác nhân của tự nhiên; chính là, từ bài luận về giống mà trong đó tự nhiên là giống cái, người mẹ nuôi dưỡng, người mà chi "lựa chọn" những đứa con mà bà cho là tốt nhất" (sự nhấn mạnh của tôi): "Mọi người con được chọn lựa đều hoàn toàn do bà ta quyết định; và người con đó được đặt trong một môi trường sống thích hợp nhất".
Liệu ở đây chúng ta có thể rút ra kết luận rằng Darwin không hoàn toàn kiểm soát được ngôn ngữ mà ông sử dụng? Hay là, rằng những nguyên tố của tác nhân trong "sự chọn lựa" và "tự nhiên" đã giúp ông làm hài lòng những độc giả theo trường phái chính thống trong khi lặng lẽ đưa ra lý thuyết thực của ông dưới vỏ bọc đó? Sự thực là một điều gì đó phức tạp hơn, là sự hòa trộn của hai, dựa trên một thực tế là ngôn ngữ chắc chắn thể hiện thế giới trong ngữ cảnh nhân chủng học hay là lấy con người làm trung tâm. Ông khẳng định tại một điểm "Tôi nên tuyên bố rằng việc tôi sử dụng cụm từ Đấu tranh sinh tồn trong ngữ cảnh rộng mang tính ẩn dụ, bao gồm sự phụ thuộc của một các thể vào các cá thể khác, và bao gồm (điều này quan trọng hơn) không chỉ sự sống của các thể đó mà còn cả khả năng duy trì giống nòi". Giống như cụm từ "sự lựa chọn của thiên nhiên", cụm từ "đấu tranh sinh tồn" là một phép ẩn dụ; nó như thể là tự nhiên lựa chọn, hay là như thể mọi sinh vật liên tục đấu tranh cho sự tồn tại của chúng. Những hình mẫu cùng phụ thuộc, và hoạt động của "sự đấu tranh" mang tính trừu tượng hơn nhiều, không chì đơn thuần là sự cạnh tranh của hai loài động vật nào đó giành nhau khu đất, và làm thay đổi đáng kể ý nghĩa của phép ẩn dụ. Tuy nhiên, điều chính xác là ngữ nghĩa "rộng mang tính ẩn dụ" mà giúp cuốn Nguồn gốc của muôn loài rất dễ dẫn đến kiểu hiểu nhầm đó hoặc là sự vận dụng sáng tạo mà Darwin, trong những lần tái bản tiếp theo bản thảo đưa ra ở đây, cố tìm kiếm sự giới hạn và kiểm soát [5].
Ngày nay, "chủ nghĩa Darwin" và "người theo chủ nghĩa Darwin" là những thuật ngữ quen thuộc đối với chúng ta. Do vậy, khi đọc cuốn Nguồn gốc của muôn loài tức là chúng ta đang tận dụng cơ hội xem xét xem kiến thức chung đấy quan hệ gần gũi đến mức nào với nguồn mà được coi là kiến tạo ra chúng. Bời vì có thể người ta sẽ sử dụng nó kiến thức đó nhưng cũng có thể lạm dụng nó và có rất nhiều thứ trong "chủ nghĩa Darwin" và "người theo chủ nghĩa Darwin" mà chúng ta có lẽ sẽ không tìm thấy ở Darwin. Hãy lấy đoạn dẫn sau đây về nguyên tắc chung của "người theo chủ nghĩa Darwin" làm ví dụ:
... Sự lựa chọn của tự nhiên liên tục tìm cách tối ưu hóa tất cả các phần của một tổ chức. Nếu trong điều kiện sống bị thay đổi, một cấu trúc mà trở nên kém hữu ích, thì bất kỳ sự suy giảm nào dù nhỏ trong quá trình phát triển của nó sẽ được quá trình lựa chọn của tự nhiên nắm lấy, bởi vì cấu trúc đó sẽ được hưởng lợi do không bị lãng phí dinh dưỡng để xây dựng nên những phần vô ích.
Do không nằm trong văn cảnh, chúng ta có thể dễ dàng hiểu cụm từ "tổ chức" ở đây theo nghĩa quen thuộc là một công ty thương mại, cho dù là cơ quan hợp nhất được nói đến là một "cá thể" sống. Theo nghĩa cơ bản nhất, tác phẩm Nguồn gốc của muôn loài là một tác phẩm của kinh tế học, của tự nhiên - như là - nền kinh tế; và lịch sử cận đại của chúng ta chứng kiến sự lớn mạnh của chủ nghĩa tự do mới, thị trường tự do, trong những năm 1980, và sau đó là sự sụp đổ của Liên bang Xô viết theo chủ nghĩa Cộng sản, sự chấp nhận rộng rãi mối quan hệ kinh tế của tư bản chủ nghĩa. Những biến cố đó có thể khiến chúng ta hiểu nội dung cuốn sách theo nghĩa nó là một một sự khẳng định rằng trật tự kinh tế xã hội của kiểu này là "tự nhiên" hơn các trật tự khác. Mặc dù không hề ám chỉ rằng ngôn ngữ được sử dụng trong cuốn sách là ngôn ngữ của những nhà quản lý doanh nghiệp đương đại, nhưng một điều không thể phủ nhận là ngôn từ của nghệ thuật quản lý kiểu mới - thu gọn và hợp lý hóa, nhằm tạo ra những tổ chức thích hợp và gọn ghẽ hơn có khả năng cạnh tranh trong môi trường kinh doanh cạnh tranh khốc liệt mà tại đó kẻ mạnh thì sống kẻ yếu thì bị tiêu diệt - đã được mượn từ một sự lựa trọn của thiên nhiên mà "luôn luôn thành công, xét về mặt dài hạn, trong việc tinh giản mọi phần của tổ chức ngay khi phần đó không còn có ích nữa". Một doanh nhân có thể đổi cái gì để chạm vào một vật mà Darwin gọi là "bản năng tuyệt diệu nhất trong sổ tất cả các bản năng được biết đến", bản năng của ông? ... Sự lựa chọn tự nhiên diễn ra từ từ và ngày càng hoàn chinh điều khiến loài ong bay từ nơi này sang nơi khác với một khoảng cách nhất định theo dạng lớp đôi, và xây nên và phá hủy sáp suốt dọc đường bay. Loài ong tất nhiên là không biết chủng làm tổ với những khoảng cách nhất định xa nhau nhiều hơn là chúng biết những góc của một hình lăng trụ sáu cạnh và những đĩa hình thoi cơ bàn là gì. Động lực của quá trình lựa chọn tự nhiên là sự tiết kiệm sáp ong, từng bầy cá biệt tiết kiệm được nhiều sáp ong nhất là đàn ong thành công nhất, và sẽ di truyền lọi đặc tỉnh tiết kiệm có được qua quá trình thích nghi với môi trường song cho các bầy khác, và như vậy có cơ hội tổt nhất để tồn tại trong cuộc đấu tranh sinh tồn.
Điểm chính ở đây tất nhiên là tính đúng đắn của việc đưa ra sự so sánh dễ dàng giữa thế giới tự nhiên và thế giới con người. Phải chăng Darwin không phải là một nhà tự nhiên học? Do dó, chúng ta không thể để khoa học của ông đứng một mình, chống lại sự quyến rũ để áp dụng lý thuyết của ông vào thế giới loài người, cho dù là cá thể hay xã hội? Cho đến trước thế kỷ 19, một điều rõ ràng là câu trả lời cho những điểm trên là một sự phủ định phức tạp. "Chủ nghĩa Darwin xã hội" thâm nhập và đưa ra bằng chứng về quá trình phát triển của những khoa học mới về con người chẳng hạn như nhân chủng học, kiến nghị một mô hình đổi lập, có trật tự và tiến hỏa của sự phát triển những "kiểu" dân tộc mà song hành cùng với sự trỗi dậy của các quốc gia nhà nước. Công trình nghiên cứu của Francis Galton về trí thông minh di truyền, dựa vào cuốn Nguồn gốc của muôn loài, là tác nhân cho sự phát triển lý thuyết mới -thuyết ưu sinh. Thuyết này dựa trên một nguyên lý của khoa học sinh học - xã hội mà phát biểu rằng kẻ yếu (tức là "người nghèo", tầng lớp dân lao động hoặc là có nguồn gốc "thấp kém") không được khuyến khích sinh đẻ trong khi đó kẻ mạnh (tức là những người giàu có quyền lực) lại được khuyến khích[6]. Sau khi có được ảnh hưởng nhất định trong giới chính trị nước Anh trong những năm trước chiến tranh Thế giới thứ nhất, thuyết ưu sinh dường như bị toàn giới khoa học phản bác. Nhưng lịch sử thế giới ở thế kỷ 20 để lại những dấu ấn khùng khiếp liên quan đến tính thượng đẳng dân tộc, và các định luật của thuyết ưu sinh dường như liên tục ám ảnh cuộc nghiên cứu khoa học tiên tiến nhất của chúng ta. Tiến triển trong dự án Bộ gien người đang bị gián đoạn bởi những cuộc thảo luận đầy lo ngại về sự biến đổi gen, và sẽ gây nên nhiều cuộc tranh cãi kiểu này hơn trước khi dự án đó kết thúc trong một tưomg lai khá gần.
Với cách nhìn đó, người ta lập luận rằng Darwin "quá hiền
lành" khi chấp nhận để cho những người theo chủ nghĩa Darwin xã hội lạm dụng
tên của ông trong khi đó mục đích thực sự của công việc ông làm, là tốt, nhưng
lại bị đặt sang một bên[7]: Cuốn sách giàu tính hình tượng và ý tứ nhưng nó
không bao giờ có thể bị trói buộc vào những mục đích nhân đạo cơ bản của tác giả.
Hơn nữa, sự gán ghép của cuốn Nguồn gốc của muôn loài với chủ nghĩa tư bản ủng
hộ thị trường tự do trong giai đoạn gần đây đóng vai trò như là một thứ gợi cho
một vài người nhớ rằng sự lựa chọn của thiên nhiên bản thân nó là một sản phẩm
của những véctơ lịch sử trong thời đại của họ và vị thế của uy quyền khởi đầu:
đúng vậy, của giai đoạn giữa thời Victorian của nước Anh. Đứng ừên quan điểm
này, khoa học của Darwin là một thí dụ của giai cấp tư bản đầy quyền lực, làm
chủ quốc gia công nghiệp phát triển đầu tiên của thế giới, và nhìn thấy trong tự
nhiên hình ảnh của sự tiết kiệm và nguồn năng lượng không bao giờ ngừng chảy của
chính nó; sự lựa chọn của tự nhiên vừa là sự thể hiện của giai cấp tư bản, chủ
nghĩa tự bản tự do và vừa là công cụ được sử dụng như là ý thức hệ.
Chúng ta nên nhớ rằng thân thế của Darwin gắn liền với gia đình Wedgwoods, vì thế khi ai đó liên hệ Malthus tới công việc đang phát triển của Darwin có thể ít gây ra ngạc nhiên cho mọi người. Có vẻ như là một sự trùng hợp ngẫu nhiên khi kèm theo quyển Nguồn gốc của muôn loài trên danh sách 1859 của Murray, là cột mốc của chủ nghĩa kinh doanh cá thể, tác phẩm Tự giúp mình của Samuel Smiles.
Nhưng nếu chính trị là vấn đề chủ đạo thì cuốn Nguồn gốc của muôn loài cũng có tầm quan trọng không kém gì. Ở Paraguay, số lượng "một loài ruồi nào đó" mà đẻ trứng trên rốn những con ngựa hoang vừa mới sinh, gia súc và chó, đông hơn số lượng chim sâu ăn những con ruồi này. Những con chim sâu đó đến lượt mình lại làm mồi cho loài diều hâu và các con vật ăn thịt khác; nếu loài ruồi bị giảm đi về mặt số lượng, số lượng ngựa, gia súc và chó sẽ tăng lên và như vậy làm thay đổi thảm thực vật. Sự thay đổi này tới lượt nó lại ảnh hưởng tới các loài côn trùng, và loài chim sâu... và cứ như vậy "một vòng tròn phức tạp của những thay đổi không bao giờ kết thúc". Ở nước Anh, mèo thì săn chuột, và những con chuột đồng thì săn gà và phá tổ của loài ong duy nhất mà có thể làm tươi tốt loại cỏ ba lá; vì vậy, "chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng sự có mặt của loài mèo với số lượng lớn trong khu vực đó có thể quyết định, thông qua sự can thiệp đầu tiên vào đời sống loài chuột sau đó tới ong, sự phát triển của một số loại hoa nhất định tại khu vực đó". Đây có thể là "cuộc chiến vĩ đại trong cuộc đời"; nhưng nó cũng là một minh chứng rằng "mạng lưới quan hệ phức tạp" mà gắn chặt các loài "động vật và thực vật, rất bé nhỏ so với thiên nhiên" với nhau - hay nói cách khác, là sự chứng minh của "mối quan hệ tương tác giữa các cơ thể sống". Mối quan hệ này chặt chẽ đến mức mà cấu trúc của mỗi cơ thể sổng là một chức năng của "tất cả các cơ thể hữu cơ khác" có thể trở thành sự cạnh tranh giành lấy nguồn thức ăn hay lãnh thổ, hoặc là trở thành con mồi chạy trốn hoặc là con thú săn đuổi.
Cuốn sách có ý nghĩa thực tiễn lớn nhất khi xem xét mối quan hệ qua lại, sự phụ thuộc lẫn nhau là đặc trưng cơ bản của những hệ sinh thái đa dạng. Chúng ta nên nhớ rằng những kiến thức cơ bản về hệ sinh thái trong cuốn sách này mà Darwin đã thu thập được trong chyến đi thám hiểm trên con tàu Beagle, nằm trong phạm vi của ngành địa lý sinh vật, cuộc nghiên cứu về sự phân chia không gian sinh tồn của các hình thái sống[8]. Như Darwin giải thích trong lời mờ đầu của cuốn Nguồn gốc của muôn loài, ông cảm thấy rất khó hiểu và bị ảm ảnh bởi "một vài thực tế nhất định trong sự phân chia nơi cư ngụ ở Nam Mỹ" trong suốt cuộc hành trình. Chưomg XI và XII giải quyết chi tiết vấn đề này. Những sinh vật biển sống ở bờ biển phía đông và tây vùng Nam và Trung Mỹ hầu như hoàn toàn bị tuyệt chùng, mặc dùng chúng chỉ bị ngăn cách bởi một eo đất hẹp của kênh đào Panama; trong khi đó, những loài thực vật sổng trên các đinh núi châu Mỹ và châu âu lại có thể hoàn toàn giống nhau. Lời giải thích cho một vài hiện tượng kỳ lạ như vậy dường như không hề dễ dàng: Một mặt, có sự khác biệt rất lớn giữa các loài sổng trong những khu vực địa lý, khí hậu tương tự nhau, và mặt khác lại có sự tương đồng giữa các loài sống trên lục địa khác nhau. Khái niệm giúp giải thích những bí ẩn trên chính là sự di cư. Cộng đồng các thực thể sống hay là các hệ sinh thái ít nhiều có thể thẩm thấu qua các đường biên giới, hoặc là cho phép hoặc là hạn chế sự nhập cư và sự di cư. Ở đây, chúng ta lại một lần nữa bắt gặp phát hiện thú vị trong sự tìm tòi của Darwin: đó là trong cách mà hạt giống được phát tán khắp đại dương. Một vài độc giả có thể quyết định bỏ qua những kết luận thống kê của Darwin (Con cháu của Joseph Hooker đã châm chọc ông về tính khó hiểu và khó đọc của những phần đó); song vẫn có một sự hòa trộn khó diễn tả của điều nhàm chán và lý thú trong bài viết của ông: "Trong một lần đi thực nghiệm tôi đã bắt gặp một miếng đất sét khô có tới hai mươi hai hạt ngũ cốc dính vào chân một con gà gô và trong miếng đất đó có một viên đá cuội to bằng hạt giống cây đậu tằm" - và trong lời gợi ý của ông dành một chút thời gian suy nghĩ hiện tượng hàng triệu con chim cút mỗi năm vượt qua Địa Trung Hải; và liệu chúng ta có thể nghi ngờ rằng miếng đất sét dính vào chân con những con chim đó có thể đôi lục chứa một vài hạt giống nhỏ bé? Sử dụng phương pháp phân tích đó, khái niệm về sự dí trú cũng đòi hỏi một "hiểu biết" về những quá trình địa lý xuất hiện trong các thay đổi khí hậu suốt quãng thời gian dài. Từ hạt giống nằm trên chân con chim, Darwin đã đưa chúng ta quay trở lại kỳ nguyên băng hà chỉ trong vòng vài trang giấy, và sự tách rời các vùng đất có khí hậu lạnh và/hoặc khí hậu ôn hòa dưới tác động của thay' đổi khí hậu địa lý gây nên sự cô lập của một vài vùng địa lý cách xa nhau nhưng lại có nhiều điểm tương đồng.
Điểm mấu chốt của công việc đòi hỏi nhiều nghiên cứu và tìm tòi về quá trình di trú: tuy nhiên chủng ta khó có thể tường tượng được hết tính phức tạp của những tác nhân ảnh hưởng trong một hệ sinh thái, chính là cộng đồng luôn luôn là một hệ thống vật lý đóng. Mặc dù thuận tiện nhưng nó đôi khi dường như thừa nhận sự sáng tạo đặc biệt và siêu hình của những loài giống nhau tại các điểm khác nhau trên trái đất. Một sự giải thích khoa học luôn luôn có thể đưa ra nếu như chúng ta được trang bị đầy đủ kiến thức, giống như sự lựa chọn của tự nhiên lúc nào cũng có đưa ra lời giải đáp đầy đù cho tính phức tạp của bất kỳ cơ thể sống nào. Darwin chuẩn bị thực hiện nhiệm vụ chình sửa lại cách nhìn của chúng ta, giúp chúng ta có quan điểm mới đúng đắn về thế giới, về tính phụ thuộc lẫn nhau với niềm tin tưởng chắc chắn nếu có đối lập rằng lý lẽ phải chiến thắng "trí tường tượng" - một phiên bản, không thể chối cãi được, của câu châm ngôn cổ: sự thực luôn lạ lùng và bí ẩn hơn là sự viễn tường. Thông qua hàm ý, không nói thẳng ra, Darwin không tin vào sự sáng tạo của Chúa trời mà chì tin vào tính đối trọng của toàn bộ hệ thống thiên nhiên - đó là tất cả những gì chủng ta cỏ; khái niệm "Đấng sáng tạo" như xuất hiện trong cuốn Nguồn gốc của muôn loài rõ ràng bị kiềm chế nhiều về mặt ngữ nghĩa do nếu giảm tầm quan trọng của "Đấng sáng tạo" sẽ làm cho tác phẩm của ông gặp khó khăn trong quá trình xuất bản. Nhưng cũng có những phiên bản hoặc là sự giải thích về hệ thống này: cuộc cạnh tranh khốc liệt; cộng đồng cùng tồn tại phụ thuộc.[9]
Cố tình tránh bất kỳ khả năng xảy ra những can thiệp về tôn giáo, nhượng bộ tình cảm hoặc làm thỏa mãn tư tưởng chính thống thời gian đó, nhưng Darwin vẫn tin rằng sự thay đổi tích cực là có thể có, và rằng nó có thể tìm thấy trong mọi bản thân lý thuyết về tiến hóa - trí thông minh của con người.
Một điều rất đáng được chú ý trong cuốn Nguồn gốc của muôn loài liên quan đếấn động vật giống người. Người đọc sẽ không thể tìm thấy một suy đoán nào về loài khi là tổ tiên của chúng ta; người đầu tiên cần được nhắc tới khi nói đến sự mờ rộng cuộc tranh luận về chủ đề gây nhiều tranh cãi kiểu này chính là ông T.H. Huxley, bạn đồng nghiệp và cũng là một người hoàn toàn tin vào Chúa trời của Darwin. Darwin đã đoán trước được một "cuộc cách mạng lớn" trong lịch sử tự nhiên sau khi cuốn sách này của ông được xuất bản, với một sự chấc chắn người đọc sẽ nhận ra đâu đó trong toàn bộ tác phẩm, và việc "nguồn gốc của loài người sẽ được làm sáng tỏ" vẫn chỉ là nguồn tham khảo trực tiếp đến nhân loại. Và lại một lần nữa, điều này rất hiếm khi cần tới: sự phản đối của công luận ngay lập tức nổi lên khi cuốn Nguồn gốc của muôn loài chứng minh là cuộc tranh cãi với chủ đề tiến hóa lúc nào cũng là cuộc tranh luận về nguồn gốc loài người. Công trình nghiên cứu mới đây - của nhà lịch sử Alfred w. Crosby cũng đề cập đến nhận thức sâu sắc của Darwin về thế giới tự nhiên trong suốt chuyến hành trình trên con tàu Beagle có thể không thể tách rời khỏi sự nhận thức về can thiệp con người [10]. Luận đề của ông Crosby là chủ nghĩa đế quốc châu âu ở thế kỷ 19 mang nặng khía cạnh sinh học cũng như chính trị, kinh tế và văn hóa; quá trình thực dân hóa liên quan đến, dù là ngẫu nhiên hay cố ý, sự nhập khẩu quần thể động thực vật từ Lục địa già sang Lục địa trẻ. Những dạng động thực vật loại này luôn luôn thắng thế trước những cây cỏ, con thú cạnh tranh bản địa, làm thay đổi những người bị thực dân hóa thành hình ảnh của những người thực dân hóa, và nhờ đó giúp cho sự cai quản thuộc địa dễ dàng hơn. Darwin viết trong cuốn Nguồn gốc của muôn loài "Khi xem xét tốc độ khủng khiếp mà hàng hóa châu âu tràn ngập khắp Niu-di-lân và có mặt tại hầu hết các nước có người cư trú, thì chúng ta có lẽ sẽ tin rằng nếu tất cả các loại động thực vật của Đe chế Anh được mang tới Niu-di-lân, theo thời gian một số lượng khổng lồ các dạng sống của Anh có thể trở nên hoàn toàn quen thuộc với nơi này, và có thể sẽ xóa sổ rất nhiều loài bản địa".
Darwin có lẽ không thể tỏ ra thờ ơ trước mối liên hệ sâu sắc của chủ nghĩa đế quốc xét về mặt sinh học và chính trị trong thời đại ông sống. Ông chính là sản phẩm của xã hội đó, có rất nhiều đặc trưng của nó. Tuy thế, Darwin vẫn biết rằng, bằng kinh nghiệm của chính bản thân, là tính bền vững của sự sống đa dạng phong phú trên trái đất không tương thích với một dự án mà tìm cách sử dụng kiến thức và quyền lực của nó để thống trị và đàn áp. Ý tường chính của các cuộc tranh luận trí tuệ trong nửa sau thế kỳ 19, "Vị trí của con người trong tự nhiên thực sự là vô cùng quan trọng, khả năng ngôn ngữ và trí tuệ cao của loài người, mà nhờ đó một lực lượng có dáng vẻ siêu nhiên để can thiệp và thiết kế dường như là có thể, nhưng không hề tách rời con người khỏi thế giới tự nhiên: chúng vẫn là một sự trùng hợp thú vị của quá trình tiến hóa phức tạp của tự nhiên, một phần của chuỗi liên tục trong tự nhiên. Trong thời đại của chúng ta, khi mà tầm quan trọng của quan điểm mới về tự nhiên dường như cấp bách hơn bao giờ hơn, và khi chúng ta đang cố dừng lại để suy nghĩ về sự kiện kinh tế chính trị quan trọng của thời gian qua, cuốn Nguồn gốc của muôn loài, với tình cảm và sự cảm thông sâu sắc, phương pháp tiếp cận mờ và bao quát đối với tất cả các hiện tượng, và vô số những ứng dụng và mối quan tâm dường như không bao giờ hết của quyển sách, cung cấp một mô hình kiến thức về hệ sinh thái mà chúng ta vẫn sẽ tiếp tục cần đến".
JEFF WALLACE
Đại học Glamorgan
CHÚ THÍCH:
[1] Whig: Một đảng phái chính trị ở nước Anh ở thế kỷ 18 -19.
[2] Gillian Beer, Darwin"s Plots: Câu chuyện tiến hóa của Darwin, George Eliot và Thể kỷ 19 viễn tưởng, trang 25, Ark, London 1985. [3] Adrrian Desmond và James Moore, Darwin, Michael Joseph London 1991.
[4] Xem Beer, Darwin"s Plots, và Opert Field: Science in Cultural Encounter, Clarendon Press, Oxford 1996.
[5] Xem Robert Young, Darwin"s Metaphor: Nature"s place in Victorian culture, Cambrridge University Press, 1985; đặc biệt là chương 4, "Phép ẩn dự của Darwin: có thực sự là tự nhiên lựa chọn?"
[6] Xem Francis Galton, Herediary Genius: An Inquìry into its Laws and Consequences, Julian Friedmann Publisherss, London 1979; Frank Mort, "Health and Hygiene: The Edwarrdian State and Medico - Moral Politics", trong eds Jane Beckett và Deborah Cherry, The Edwardian Era, trang 26 -33, Phaidon Press barbican Art Gallery, Oxford London 1987
[7] Raymond Williams, "Social Darwinism", trong cuốn Problems in Materialism and Culture: Selected Essays, trang 89, Verso, London 1980.
[8] Xem Michael Ghiselin, The Triumph of the Darwinian Method Chater 2, "Biogeography and Evolution", University of Chicago Press, 1984.
[9] Một ví dụ về lời chỉ trích mạnh mẽ việc coi nhũng người theo tư bản chủ nghĩa hiểu sai về bản chất sự lựa chọn của tự nhiên, thay vào đó đề xuất rằng "tính xã hội mới chính là quy luật của tự nhiên cũng như giống như cuộc đấu tranh chung", xem tác phẩm chính của nhà văn Nga Petr Kropotkin: Mutal Aid: A Factor in Evolution , 1914 (tái bản bởi công ty phát hành sách Potter Sargent, Boston, Mass).
[10] Alfred w. Crosby, Ecological Imperialism: The Biological Expansion of Europe, 900 - 1900, Cambridge University Press, 1986.
Chúng ta nên nhớ rằng thân thế của Darwin gắn liền với gia đình Wedgwoods, vì thế khi ai đó liên hệ Malthus tới công việc đang phát triển của Darwin có thể ít gây ra ngạc nhiên cho mọi người. Có vẻ như là một sự trùng hợp ngẫu nhiên khi kèm theo quyển Nguồn gốc của muôn loài trên danh sách 1859 của Murray, là cột mốc của chủ nghĩa kinh doanh cá thể, tác phẩm Tự giúp mình của Samuel Smiles.
Nhưng nếu chính trị là vấn đề chủ đạo thì cuốn Nguồn gốc của muôn loài cũng có tầm quan trọng không kém gì. Ở Paraguay, số lượng "một loài ruồi nào đó" mà đẻ trứng trên rốn những con ngựa hoang vừa mới sinh, gia súc và chó, đông hơn số lượng chim sâu ăn những con ruồi này. Những con chim sâu đó đến lượt mình lại làm mồi cho loài diều hâu và các con vật ăn thịt khác; nếu loài ruồi bị giảm đi về mặt số lượng, số lượng ngựa, gia súc và chó sẽ tăng lên và như vậy làm thay đổi thảm thực vật. Sự thay đổi này tới lượt nó lại ảnh hưởng tới các loài côn trùng, và loài chim sâu... và cứ như vậy "một vòng tròn phức tạp của những thay đổi không bao giờ kết thúc". Ở nước Anh, mèo thì săn chuột, và những con chuột đồng thì săn gà và phá tổ của loài ong duy nhất mà có thể làm tươi tốt loại cỏ ba lá; vì vậy, "chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng sự có mặt của loài mèo với số lượng lớn trong khu vực đó có thể quyết định, thông qua sự can thiệp đầu tiên vào đời sống loài chuột sau đó tới ong, sự phát triển của một số loại hoa nhất định tại khu vực đó". Đây có thể là "cuộc chiến vĩ đại trong cuộc đời"; nhưng nó cũng là một minh chứng rằng "mạng lưới quan hệ phức tạp" mà gắn chặt các loài "động vật và thực vật, rất bé nhỏ so với thiên nhiên" với nhau - hay nói cách khác, là sự chứng minh của "mối quan hệ tương tác giữa các cơ thể sống". Mối quan hệ này chặt chẽ đến mức mà cấu trúc của mỗi cơ thể sổng là một chức năng của "tất cả các cơ thể hữu cơ khác" có thể trở thành sự cạnh tranh giành lấy nguồn thức ăn hay lãnh thổ, hoặc là trở thành con mồi chạy trốn hoặc là con thú săn đuổi.
Cuốn sách có ý nghĩa thực tiễn lớn nhất khi xem xét mối quan hệ qua lại, sự phụ thuộc lẫn nhau là đặc trưng cơ bản của những hệ sinh thái đa dạng. Chúng ta nên nhớ rằng những kiến thức cơ bản về hệ sinh thái trong cuốn sách này mà Darwin đã thu thập được trong chyến đi thám hiểm trên con tàu Beagle, nằm trong phạm vi của ngành địa lý sinh vật, cuộc nghiên cứu về sự phân chia không gian sinh tồn của các hình thái sống[8]. Như Darwin giải thích trong lời mờ đầu của cuốn Nguồn gốc của muôn loài, ông cảm thấy rất khó hiểu và bị ảm ảnh bởi "một vài thực tế nhất định trong sự phân chia nơi cư ngụ ở Nam Mỹ" trong suốt cuộc hành trình. Chưomg XI và XII giải quyết chi tiết vấn đề này. Những sinh vật biển sống ở bờ biển phía đông và tây vùng Nam và Trung Mỹ hầu như hoàn toàn bị tuyệt chùng, mặc dùng chúng chỉ bị ngăn cách bởi một eo đất hẹp của kênh đào Panama; trong khi đó, những loài thực vật sổng trên các đinh núi châu Mỹ và châu âu lại có thể hoàn toàn giống nhau. Lời giải thích cho một vài hiện tượng kỳ lạ như vậy dường như không hề dễ dàng: Một mặt, có sự khác biệt rất lớn giữa các loài sổng trong những khu vực địa lý, khí hậu tương tự nhau, và mặt khác lại có sự tương đồng giữa các loài sống trên lục địa khác nhau. Khái niệm giúp giải thích những bí ẩn trên chính là sự di cư. Cộng đồng các thực thể sống hay là các hệ sinh thái ít nhiều có thể thẩm thấu qua các đường biên giới, hoặc là cho phép hoặc là hạn chế sự nhập cư và sự di cư. Ở đây, chúng ta lại một lần nữa bắt gặp phát hiện thú vị trong sự tìm tòi của Darwin: đó là trong cách mà hạt giống được phát tán khắp đại dương. Một vài độc giả có thể quyết định bỏ qua những kết luận thống kê của Darwin (Con cháu của Joseph Hooker đã châm chọc ông về tính khó hiểu và khó đọc của những phần đó); song vẫn có một sự hòa trộn khó diễn tả của điều nhàm chán và lý thú trong bài viết của ông: "Trong một lần đi thực nghiệm tôi đã bắt gặp một miếng đất sét khô có tới hai mươi hai hạt ngũ cốc dính vào chân một con gà gô và trong miếng đất đó có một viên đá cuội to bằng hạt giống cây đậu tằm" - và trong lời gợi ý của ông dành một chút thời gian suy nghĩ hiện tượng hàng triệu con chim cút mỗi năm vượt qua Địa Trung Hải; và liệu chúng ta có thể nghi ngờ rằng miếng đất sét dính vào chân con những con chim đó có thể đôi lục chứa một vài hạt giống nhỏ bé? Sử dụng phương pháp phân tích đó, khái niệm về sự dí trú cũng đòi hỏi một "hiểu biết" về những quá trình địa lý xuất hiện trong các thay đổi khí hậu suốt quãng thời gian dài. Từ hạt giống nằm trên chân con chim, Darwin đã đưa chúng ta quay trở lại kỳ nguyên băng hà chỉ trong vòng vài trang giấy, và sự tách rời các vùng đất có khí hậu lạnh và/hoặc khí hậu ôn hòa dưới tác động của thay' đổi khí hậu địa lý gây nên sự cô lập của một vài vùng địa lý cách xa nhau nhưng lại có nhiều điểm tương đồng.
Điểm mấu chốt của công việc đòi hỏi nhiều nghiên cứu và tìm tòi về quá trình di trú: tuy nhiên chủng ta khó có thể tường tượng được hết tính phức tạp của những tác nhân ảnh hưởng trong một hệ sinh thái, chính là cộng đồng luôn luôn là một hệ thống vật lý đóng. Mặc dù thuận tiện nhưng nó đôi khi dường như thừa nhận sự sáng tạo đặc biệt và siêu hình của những loài giống nhau tại các điểm khác nhau trên trái đất. Một sự giải thích khoa học luôn luôn có thể đưa ra nếu như chúng ta được trang bị đầy đủ kiến thức, giống như sự lựa chọn của tự nhiên lúc nào cũng có đưa ra lời giải đáp đầy đù cho tính phức tạp của bất kỳ cơ thể sống nào. Darwin chuẩn bị thực hiện nhiệm vụ chình sửa lại cách nhìn của chúng ta, giúp chúng ta có quan điểm mới đúng đắn về thế giới, về tính phụ thuộc lẫn nhau với niềm tin tưởng chắc chắn nếu có đối lập rằng lý lẽ phải chiến thắng "trí tường tượng" - một phiên bản, không thể chối cãi được, của câu châm ngôn cổ: sự thực luôn lạ lùng và bí ẩn hơn là sự viễn tường. Thông qua hàm ý, không nói thẳng ra, Darwin không tin vào sự sáng tạo của Chúa trời mà chì tin vào tính đối trọng của toàn bộ hệ thống thiên nhiên - đó là tất cả những gì chủng ta cỏ; khái niệm "Đấng sáng tạo" như xuất hiện trong cuốn Nguồn gốc của muôn loài rõ ràng bị kiềm chế nhiều về mặt ngữ nghĩa do nếu giảm tầm quan trọng của "Đấng sáng tạo" sẽ làm cho tác phẩm của ông gặp khó khăn trong quá trình xuất bản. Nhưng cũng có những phiên bản hoặc là sự giải thích về hệ thống này: cuộc cạnh tranh khốc liệt; cộng đồng cùng tồn tại phụ thuộc.[9]
Cố tình tránh bất kỳ khả năng xảy ra những can thiệp về tôn giáo, nhượng bộ tình cảm hoặc làm thỏa mãn tư tưởng chính thống thời gian đó, nhưng Darwin vẫn tin rằng sự thay đổi tích cực là có thể có, và rằng nó có thể tìm thấy trong mọi bản thân lý thuyết về tiến hóa - trí thông minh của con người.
Một điều rất đáng được chú ý trong cuốn Nguồn gốc của muôn loài liên quan đếấn động vật giống người. Người đọc sẽ không thể tìm thấy một suy đoán nào về loài khi là tổ tiên của chúng ta; người đầu tiên cần được nhắc tới khi nói đến sự mờ rộng cuộc tranh luận về chủ đề gây nhiều tranh cãi kiểu này chính là ông T.H. Huxley, bạn đồng nghiệp và cũng là một người hoàn toàn tin vào Chúa trời của Darwin. Darwin đã đoán trước được một "cuộc cách mạng lớn" trong lịch sử tự nhiên sau khi cuốn sách này của ông được xuất bản, với một sự chấc chắn người đọc sẽ nhận ra đâu đó trong toàn bộ tác phẩm, và việc "nguồn gốc của loài người sẽ được làm sáng tỏ" vẫn chỉ là nguồn tham khảo trực tiếp đến nhân loại. Và lại một lần nữa, điều này rất hiếm khi cần tới: sự phản đối của công luận ngay lập tức nổi lên khi cuốn Nguồn gốc của muôn loài chứng minh là cuộc tranh cãi với chủ đề tiến hóa lúc nào cũng là cuộc tranh luận về nguồn gốc loài người. Công trình nghiên cứu mới đây - của nhà lịch sử Alfred w. Crosby cũng đề cập đến nhận thức sâu sắc của Darwin về thế giới tự nhiên trong suốt chuyến hành trình trên con tàu Beagle có thể không thể tách rời khỏi sự nhận thức về can thiệp con người [10]. Luận đề của ông Crosby là chủ nghĩa đế quốc châu âu ở thế kỷ 19 mang nặng khía cạnh sinh học cũng như chính trị, kinh tế và văn hóa; quá trình thực dân hóa liên quan đến, dù là ngẫu nhiên hay cố ý, sự nhập khẩu quần thể động thực vật từ Lục địa già sang Lục địa trẻ. Những dạng động thực vật loại này luôn luôn thắng thế trước những cây cỏ, con thú cạnh tranh bản địa, làm thay đổi những người bị thực dân hóa thành hình ảnh của những người thực dân hóa, và nhờ đó giúp cho sự cai quản thuộc địa dễ dàng hơn. Darwin viết trong cuốn Nguồn gốc của muôn loài "Khi xem xét tốc độ khủng khiếp mà hàng hóa châu âu tràn ngập khắp Niu-di-lân và có mặt tại hầu hết các nước có người cư trú, thì chúng ta có lẽ sẽ tin rằng nếu tất cả các loại động thực vật của Đe chế Anh được mang tới Niu-di-lân, theo thời gian một số lượng khổng lồ các dạng sống của Anh có thể trở nên hoàn toàn quen thuộc với nơi này, và có thể sẽ xóa sổ rất nhiều loài bản địa".
Darwin có lẽ không thể tỏ ra thờ ơ trước mối liên hệ sâu sắc của chủ nghĩa đế quốc xét về mặt sinh học và chính trị trong thời đại ông sống. Ông chính là sản phẩm của xã hội đó, có rất nhiều đặc trưng của nó. Tuy thế, Darwin vẫn biết rằng, bằng kinh nghiệm của chính bản thân, là tính bền vững của sự sống đa dạng phong phú trên trái đất không tương thích với một dự án mà tìm cách sử dụng kiến thức và quyền lực của nó để thống trị và đàn áp. Ý tường chính của các cuộc tranh luận trí tuệ trong nửa sau thế kỳ 19, "Vị trí của con người trong tự nhiên thực sự là vô cùng quan trọng, khả năng ngôn ngữ và trí tuệ cao của loài người, mà nhờ đó một lực lượng có dáng vẻ siêu nhiên để can thiệp và thiết kế dường như là có thể, nhưng không hề tách rời con người khỏi thế giới tự nhiên: chúng vẫn là một sự trùng hợp thú vị của quá trình tiến hóa phức tạp của tự nhiên, một phần của chuỗi liên tục trong tự nhiên. Trong thời đại của chúng ta, khi mà tầm quan trọng của quan điểm mới về tự nhiên dường như cấp bách hơn bao giờ hơn, và khi chúng ta đang cố dừng lại để suy nghĩ về sự kiện kinh tế chính trị quan trọng của thời gian qua, cuốn Nguồn gốc của muôn loài, với tình cảm và sự cảm thông sâu sắc, phương pháp tiếp cận mờ và bao quát đối với tất cả các hiện tượng, và vô số những ứng dụng và mối quan tâm dường như không bao giờ hết của quyển sách, cung cấp một mô hình kiến thức về hệ sinh thái mà chúng ta vẫn sẽ tiếp tục cần đến".
JEFF WALLACE
Đại học Glamorgan
CHÚ THÍCH:
[1] Whig: Một đảng phái chính trị ở nước Anh ở thế kỷ 18 -19.
[2] Gillian Beer, Darwin"s Plots: Câu chuyện tiến hóa của Darwin, George Eliot và Thể kỷ 19 viễn tưởng, trang 25, Ark, London 1985. [3] Adrrian Desmond và James Moore, Darwin, Michael Joseph London 1991.
[4] Xem Beer, Darwin"s Plots, và Opert Field: Science in Cultural Encounter, Clarendon Press, Oxford 1996.
[5] Xem Robert Young, Darwin"s Metaphor: Nature"s place in Victorian culture, Cambrridge University Press, 1985; đặc biệt là chương 4, "Phép ẩn dự của Darwin: có thực sự là tự nhiên lựa chọn?"
[6] Xem Francis Galton, Herediary Genius: An Inquìry into its Laws and Consequences, Julian Friedmann Publisherss, London 1979; Frank Mort, "Health and Hygiene: The Edwarrdian State and Medico - Moral Politics", trong eds Jane Beckett và Deborah Cherry, The Edwardian Era, trang 26 -33, Phaidon Press barbican Art Gallery, Oxford London 1987
[7] Raymond Williams, "Social Darwinism", trong cuốn Problems in Materialism and Culture: Selected Essays, trang 89, Verso, London 1980.
[8] Xem Michael Ghiselin, The Triumph of the Darwinian Method Chater 2, "Biogeography and Evolution", University of Chicago Press, 1984.
[9] Một ví dụ về lời chỉ trích mạnh mẽ việc coi nhũng người theo tư bản chủ nghĩa hiểu sai về bản chất sự lựa chọn của tự nhiên, thay vào đó đề xuất rằng "tính xã hội mới chính là quy luật của tự nhiên cũng như giống như cuộc đấu tranh chung", xem tác phẩm chính của nhà văn Nga Petr Kropotkin: Mutal Aid: A Factor in Evolution , 1914 (tái bản bởi công ty phát hành sách Potter Sargent, Boston, Mass).
[10] Alfred w. Crosby, Ecological Imperialism: The Biological Expansion of Europe, 900 - 1900, Cambridge University Press, 1986.
LỜI GIỚI THIỆU VỀ CUỐN SÁCH
Cuốn sách này là phiên bản đầu tiên (tháng 11 năm 1859), với tên đầy đủ On the Origin of Species by Means of Natural Selection or, The Preservation of Favoured Races in the Struggle for Life (Nguồn gốc của muôn loài thông qua sự lựa chọn của tự nhiên, hay là Sự duy trì những giống loài tốt trong cuộc Đấu tranh sinh tồn). Darwin đã tái bản 5 lần có sửa đổi, lần tái bản thứ sáu và là cuối cùng đã ra mắt độc giả vào tháng 2 năm 1872. Cuốn xuất bản đầu tiên đã được lựa chọn vì tính rõ ràng và trung thực, cũng như vì tính quan trọng lịch sử của nó - Nỗ lực ban đầu của Darwin trong việc giải thích lý thuyết của ông một cách tổng thể cho thế giới. Những lần tái bản tiếp theo bao gồm cả các câu giải đáp cho rất nhiều lời chỉ trích, và trong suốt các lần tái bản bốn, năm, và sáu, nội dung cuốn sách trở nên quá nhiều, đôi khi không đi vào chủ đề chính. Những tái bản sau này bao gồm cả những câu trả lời chi tiết cho những lời bình luận, nhận xét cụ thể, và do đó có thể nói là chúng trở nên kém trong sáng và dễ đọc hơn cho người đọc đại chúng. Phần đông các nhà bình luận cũng tò ra đồng tình với nhận định là chúng (những cuốn tái bản sau này) không tinh tế cũng chẳng hấp dẫn bằng cuốn xuất bản lần đầu tiên. Song Darwin đã thêm vào hai công cụ rất có ích cho người đọc phổ thông. Hai công cụ đó được miêu tả ngắn gọn như sau: "Bản tóm tắt lịch sử của quá trình nhận thức về nguồn gốc các loài" (thêm vào lần tái bản thứ ba năm 1861) nhằm đặt cuốn sách vào trong bối cảnh của giai đoạn trước tư tưởng truyền thống về quá trình tiến hóa; và cuốn Định nghĩa, được thêm vào cuốn tái bản lần thứ sáu mà lần đầu tiên được thiết kế và chỉnh lại giá bán cho phù hợp với mức sống trung bình của người dân.
Trong đa phần cuốn sách, chúng tôi vẫn giữ nguyên bản tác phẩm song cũng có một vài thay đổi nhỏ nhằm cụ thể hóa và làm rõ nội dung đoạn viết.
LỜI GIỚI THIỆU CỦA TÁC GIẢ
Khi ở trên con tàu Beagle, với tư cách là một nhà tự nhiên học, tôi cảm thấy vô cùng kinh ngạc trước cách phân chia khu vực sinh sống vùng Nam Mỹ, và trong mối quan hệ địa lý giữa những thực thể sống cư trú tại lục địa đó. Những thực tiễn đó dường như giúp tôi hiểu biết hơn phần nào về nguồn gốc của các loài - sự bí ẩn của những sự bí ẩn như nó thường được miêu tả bởi một trong những nhà triết học vĩ đại nhất của chủng ta. Trên đường trở về, vào năm 1837, tôi cảm thấy mình có thể tìm ra một điều vô cùng lý thú nào đó bằng việc kiên trì thu thập và suy nghĩ về tất cả các loại bằng chứng, thực tiễn mà có thể chứa đựng câu trả lời cho câu hỏi liên quan đến Nguồn gốc của muôn loài. Sau năm năm miệt mài nghiên cứu và tìm hiểu, tôi mạnh dạn có một vài suy đoán về chù đề này và viết lại những ghi chú ngắn gọn; những ghi chú đó, vào năm 1844, được tôi phát triển thành một bản kết luận tóm tẳt mà sau đó đối với tôi có vẻ như là sự thật: từ sau chuyến đi đó cho đến tận bây giờ tôi vẫn liên tục theo đuổi chỉ với một mục đích. Tôi hy vọng bạn đọc sẽ rộng lòng bỏ qua khi tôi viết những dòng mang tính cá nhân này, vì tôi muốn nói rằng tôi rất cẩn thận trong quá trình đi đến kết luận cuối cùng.
Tác phẩm của tôi giờ đây đã gần hoàn thành, nói vậy nhưng tôi cũng sẽ phải mất thêm hai đến ba năm nữa để hoàn thành nó. Và khi sức khỏe tôi lúc này không được tốt, tôi phải cố gắng xuất bản bản thảo này, tôi cũng đặc biệt bị thúc đẩy hoàn thành và xuất bản tác phẩm bởi vì ông Wallace, người đang nghiên cứu lịch sử tự nhiên tại quần đảo Malay cũng có kết luận hầu như hoàn toàn giống tôi về nguồn gốc các loài. Năm ngoái, ông ta đã gửi cho tôi một bản tóm tắt về chủ đề này, và nhờ tôi chuyển lại cho ngài Charles Lyell. Ngài Lyell đã chuyển bản kết luận đó tới Hội đồng Linnean, và nó đã được xuất bản trong số thứ ba của tạp chí Hội đồng đó. Ngài C.Lyell và tiến sĩ Hooker, những người biết về công trình nghiên cứu của tôi - tiến sĩ Hooker thậm chí còn đã đọc bản tóm tắt của tôi trong năm 1844 - ca ngợi tôi là sáng suốt khi cho in, với bản kết luận tuyệt vời của ông Wallace, một số đoạn trích ngắn từ bản thảo viết tay của tôi.
Bản viết mà tôi sắp cho xuất bản này chắc chắn sẽ không thể hoàn thiện. Ở đây, tôi không thể đưa ra những tài liệu tham khảo và kiến thức đầy đủ cho một số nhận định đưa ra. Chắc chắn trong bản viết lần này không tránh khỏi sai sót. Nhưng xét về tổng thể, tôi rất mong bạn đọc tin tường vào tính chính xác của bài viết bởi vì tôi lúc nào cũng tự nhắc nhở mình phải hết sức cẩn thận với những gì được viết ra. Tôi chỉ có thể đưa ra ở đây một số kết luận tổng quát nhất mà tôi tin tưởng với các ví dụ minh họa thực tế. Tôi hy vọng rằng những minh chứng này là đầy đủ trong hầu hết các trường hợp. Không ai có thể hiểu rõ hơn tôi về sự cần thiết sau này phải xuất bản chi tiết tất cả các bằng chứng, cùng với tài liệu tham khảo, mà dựa vào chúng, tôi rút ra kết luận. Hy vọng trong những cuốn sau, tôi có thể làm điều này. Bởi vì tôi nhận thức rõ ràng chỉ cần một điểm được đưa ra thôi trong cuốn sách này mà không có dẫn chứng minh họa thì sự thiếu sót này thường rất dễ dẫn đến những kết luận trái ngược với những gi tôi đã trình bày. Một kết quả khả dĩ chỉ có thể đạt được khi có bằng chứng cùng với lý lẽ rõ ràng và đầy tính thuyết phục, điều mà có lẽ tôi khó có thể thực hiện được trong lần xuất bản này.
Tôi rất lấy làm tiếc, do hạn chế về mặt không gian cũng như thời gian, không thể cảm ơn tất cả những nhà tự nhiên, trong đó thậm chí một số tôi còn không được hân hạnh biết đến, và nhiều người khác đã nhiệt tình giúp đỡ tôi. Và nhân dịp này tôi mong muốn bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới tiến sỹ Hooker, người mà trong mười lăm năm qua đã hết lòng giúp đỡ tôi với kho kiến thức uyên bác và nhận xét tuyệt vời của ông.
Bàn đến quyển Nguồn gốc của muôn loài, cảm nhận rõ ràng là một nhà tự nhiên học, luôn suy nghĩ nhiều tới mối quan hệ qua lại của các thực thể hữu cơ, tới mối quan hệ phôi thai của chúng, tới sự phân chia địa lý, mô hình địa chất, và những thứ tương tự, có thể sẽ đi đến kết luận rằng mỗi loài không thể được tạo ra một cách riêng lẻ, mà là sự kế tục, giống như những biến thể, từ các loài khác. Tuy nhiên, một kết luận như vậy, cho dù nếu có cơ sở vững chắc, cũng có thể không hoàn toàn đầy đù cho đến khi nỏ có thể chứng minh là vô số loài sống trên thế giới này đã thay đổi như thế nào để có được cấu trúc và sự cùng tương thích hoàn thiện khiến cho hầu hết chúng ta phải thán phục. Các nhà tự nhiên học liên tục nhắc đến điều kiện bên ngoài, như là khí hậu, thức ăn, vân vân... như là lý do duy nhất của sự thay đổi. Theo một nghĩa rất hẹp, như chúng ta sẽ thấy sau này, điều này có thể đúng; nhưng nó hoàn toàn phi lý khi chỉ xét đến mỗi điều kiện bên ngoài, ví dụ như cấu trúc của con chim gõ kiến chẳng hạn, cái đuôi, chân, mỏ và âm thanh, hết sức phù hợp cho việc bắt côn trùng sống trên vỏ cây. Trong trường hợp cây tầm gửi, loại cây chuyên hút chất dinh dưỡng từ các loại khác, và phải nhờ các loài chim mang hạt giống đi, và có hoa với giống đực cái riêng rẽ cần có sự trợ giúp của côn trùng để có thể giúp chúng thụ phấn, thì cũng rất khó hiểu khi giải thích cấu trúc của loài sống nhờ này, cùng với mối quan hệ của nó với một vài thực thể hữu cơ đã bị tuyệt chủng, là do ảnh hưởng của điều kiện bên ngoài, hay của thói quen, hay của quyền lựa chọn của bản thân nó.
Tôi tiên đoán tác giả của cuốn Những vết tích của Sự sáng tạo lập luận rằng sau vài thế hệ, không biết chính xác là bao nhiêu, một loài chim đã sinh ra con chim gõ kiến, và cây thỉ cho ra loài tầm gửi, và rằng những thực thể đó được sinh ra hoàn hảo ngay từ đó và vẫn giữ nguyên dạng cho tới ngày nay; nhưng sự suy đoán này đối với tôi dường như không phải là một lời giải thích, bởi vì nó đề cập đến cũng chẳng giải đáp những câu hỏi liên quan tới sự cùng thích ứng của các cơ thể hữu cơ với nhau và với điều kiện sống tự nhiên.
Với lý do đó, điều quan trọng nhất ở đây là phải hiểu rõ được cách mà các cơ thể sống thay đổi cùng thích nghi. Khi quan sát lúc đầu tôi thấy dường như đúng là một cuộc nghiên cứu cẩn thận về các loài vật được thuần hóa và cây trồng sẽ là cách tốt nhất giải quyết vấn đề khó hiểu này. Và tôi đã không bị thất vọng; trong trường hợp này và trong tất cả các trường hợp rắc rối khác tôi hầu như đều nhận ra rằng kiến thức của chúng ta, dù không hoàn toàn đầy đủ, về sự biến đổi trong điều kiện thuần dưỡng, chứa đựng đầu mối tốt nhất và rõ ràng nhất. Tôi mạnh dạn nói lên sự tin tưởng của mình đối với những nghiên cứu có giá trị cao như vậy, mặc dù chúng thường bị các nhà tự nhiên bỏ qua.
Dựa vào những suy xét này, tôi sẽ dành cả chương đầu tiên của bản viết này bàn về Sự biến đổi trong điều kiện thuần hóa. Chúng ta sẽ thấy những biến đổi mang tính di truyền là rất ít xảy ra; và điều quan trọng tương đương, mà có thể là quan trọng hơn chính là chúng ta sẽ sức mạnh của con người cực kỳ to lớn trong quá trình tích tụ bởi Sự lựa chọn những biến đổi nhỏ liên tiếp của họ. Sau đó tôi đó sẽ chuyển sang viết về tính biến đổi của các loài trong điều kiện tự nhiên; nhưng đáng tiếc là tôi không thể viết chi tiết trong phần này mà đáng ra phải được phân tích tỷ mỉ kỹ lưỡng hơn nữa. Song tôi vẫn sẽ cố gắng trong chừng mực điều kiện cho phép thảo luận cụ thể về sự biến đổi. Trong chương tiếp theo, Cuộc đấu tranh cho sự sinh tồn giữa tất cả các thực thể hữu cơ trên khắp thế giới mà chắc chắn sẽ không ừánh khỏi nghiêng về loài mạnh khỏe và chống lại loài yếu hơn, sẽ được đề cập. Đó chính là học thuyết của Malthus, đúng với toàn bộ hai vương quốc của các loài động vật và thực vật. Vì số lượng loài được sinh ra lón hơn số lượng loài có thể tồn tại nên kết quả là cuộc đấu ữanh sinh tồn luôn luôn diễn ra không bao giờ ngơi nghỉ. Một quy luật là bất kỳ cơ thể sống nào nếu có khả năng thay đổi dù ít mà theo chiều hướng cỏ lợi cho bản thân trong điều kiện sổng thay đổi, đôi khi phức tạp sẽ có cơ hội tồn tại tốt hơn, và như vậy tức là được tự nhiên lựa chọn. Xét trên quy luật của sự kế thừa, bất kỳ sự biến đổi có tính lựa chọn nào sẽ có xu hướng nhân rộng dạng thức mới và sửa đổi của nó.
Chủ đề chính yếu của Sự lựa chọn của tự nhiên sẽ được viết cụ thể hơn ở chương thư tư; và chúng ta sẽ nhận ra Sự lựa chọn tự nhiên hầu như chắc chắn gây nên sự Tuyệt chủng của những dạng thức sổng ít được biến đổi theo xu hướng tích cực, và bao gồm cái mà tôi gọi là sự Chệch hướng của Tinh cách. Trong chương kế tiếp, tôi sẽ viết về những quy luật phức tạp và ít được biết đen của sự biến đổi và của mối tương tác tăng trường. Trong bốn chương sau đó, những vấn đề nan giải và khó hiểu nhất của lý thuyết sẽ được đề cập tới, bao gồm: khó khăn đầu tiên liên quan tới quá trình chuyển đổi, hay được hiểu là một thực thể sống hoặc một bộ phận đơn giản chuyển đổi như thế nào và trở thành một tổ chức phức hợp có cấu trúc hoàn hảo; thứ hai, chủ đề của Bàn năng, hay sức mạnh tinh thần của động vật; thứ ba, lai ghép, hay là tình trạng vô sinh của loài và khả năng sinh sản của loài biến đổi khi được lai chéo; và thứ tư, sự không hoàn thiện của Tài liệu địa chất.
Trong chương tiếp theo, tôi sẽ xem xét sự kế tiếp địa chất của thực thể hữu cơ theo thời gian; trong chương mười một và mười hai, sự phân chia địa lý của chúng theo không gian; trong chương mười ba là quá trình phân loài hoặc mối quan hệ gần gũi phụ thuộc của chúng, cả hai trong giai đoạn trưởng thành và khi còn trong phôi thai. Và chương cuối cùng tôi sẽ tóm tắt lại toàn bộ tác phẩm, và đưa ra một số nhận xét cuối cùng.
Bạn đọc không cần phải cảm thấy ngạc nhiên khi nhiều điều còn chưa được giải thích trong chủ đề nguồn gốc của các loài và biến thể, nếu các bạn biết rõ về sự thiếu hiểu biết của chúng tôi về mối quan hệ phụ thuộc của tất cả cơ thể sống xung quanh chúng ta. Ai có thể giải thích tạo sao một loài lại phát triển nhiều và rộng như vậy trong khi những loài khác đồng minh của nó lại trở nên hẹp dần và hiếm đi? Nhưng mối quan hệ kiểu này là cực kỳ quan trọng bởi vì nó quyết định tình trạng sống hiện thời, và, như tôi tin tưởng, thành công và sự sửa đổi trong tương lai của mọi loài sống trên thế giới này. Chúng ta vẫn còn biết rất ít về mối quan hệ mang tính phụ thuộc giữa vô sổ loài trên quả địa cầu trong suốt các giai đoạn địa chất lịch sử. Mặc dù còn nhiều điều lờ mờ, và sẽ vẫn ở tình trạng đó trong một thời gian dài nữa, tôi có thể khẳng định rằng, với những nghiên cứu có chủ định và sự nhận xét khách quan, và quan điểm mà trước đây tôi tin vào - mọi loài đều được tạo ra một cách riêng biệt - là sai lầm. Tôi hoàn toàn bị thuyết phục bởi nhận định rằng loài không thể thay đổi được; rằng đó là chúng thuộc vào cái gọi là cùng giống loài mà là con cháu trực tiếp của những loài đã bị tuyệt chủng; trong một cách tương tự đối với các biến thể của bất cứ một loài nào là con cháu của loài đó. Hơn nữa, tôi chắc chắn là Sự lựa chọn của tự nhiên là tác nhân chính nhưng không phải là duy nhất của sự biến đổi.
Cuốn sách này là phiên bản đầu tiên (tháng 11 năm 1859), với tên đầy đủ On the Origin of Species by Means of Natural Selection or, The Preservation of Favoured Races in the Struggle for Life (Nguồn gốc của muôn loài thông qua sự lựa chọn của tự nhiên, hay là Sự duy trì những giống loài tốt trong cuộc Đấu tranh sinh tồn). Darwin đã tái bản 5 lần có sửa đổi, lần tái bản thứ sáu và là cuối cùng đã ra mắt độc giả vào tháng 2 năm 1872. Cuốn xuất bản đầu tiên đã được lựa chọn vì tính rõ ràng và trung thực, cũng như vì tính quan trọng lịch sử của nó - Nỗ lực ban đầu của Darwin trong việc giải thích lý thuyết của ông một cách tổng thể cho thế giới. Những lần tái bản tiếp theo bao gồm cả các câu giải đáp cho rất nhiều lời chỉ trích, và trong suốt các lần tái bản bốn, năm, và sáu, nội dung cuốn sách trở nên quá nhiều, đôi khi không đi vào chủ đề chính. Những tái bản sau này bao gồm cả những câu trả lời chi tiết cho những lời bình luận, nhận xét cụ thể, và do đó có thể nói là chúng trở nên kém trong sáng và dễ đọc hơn cho người đọc đại chúng. Phần đông các nhà bình luận cũng tò ra đồng tình với nhận định là chúng (những cuốn tái bản sau này) không tinh tế cũng chẳng hấp dẫn bằng cuốn xuất bản lần đầu tiên. Song Darwin đã thêm vào hai công cụ rất có ích cho người đọc phổ thông. Hai công cụ đó được miêu tả ngắn gọn như sau: "Bản tóm tắt lịch sử của quá trình nhận thức về nguồn gốc các loài" (thêm vào lần tái bản thứ ba năm 1861) nhằm đặt cuốn sách vào trong bối cảnh của giai đoạn trước tư tưởng truyền thống về quá trình tiến hóa; và cuốn Định nghĩa, được thêm vào cuốn tái bản lần thứ sáu mà lần đầu tiên được thiết kế và chỉnh lại giá bán cho phù hợp với mức sống trung bình của người dân.
Trong đa phần cuốn sách, chúng tôi vẫn giữ nguyên bản tác phẩm song cũng có một vài thay đổi nhỏ nhằm cụ thể hóa và làm rõ nội dung đoạn viết.
LỜI GIỚI THIỆU CỦA TÁC GIẢ
Khi ở trên con tàu Beagle, với tư cách là một nhà tự nhiên học, tôi cảm thấy vô cùng kinh ngạc trước cách phân chia khu vực sinh sống vùng Nam Mỹ, và trong mối quan hệ địa lý giữa những thực thể sống cư trú tại lục địa đó. Những thực tiễn đó dường như giúp tôi hiểu biết hơn phần nào về nguồn gốc của các loài - sự bí ẩn của những sự bí ẩn như nó thường được miêu tả bởi một trong những nhà triết học vĩ đại nhất của chủng ta. Trên đường trở về, vào năm 1837, tôi cảm thấy mình có thể tìm ra một điều vô cùng lý thú nào đó bằng việc kiên trì thu thập và suy nghĩ về tất cả các loại bằng chứng, thực tiễn mà có thể chứa đựng câu trả lời cho câu hỏi liên quan đến Nguồn gốc của muôn loài. Sau năm năm miệt mài nghiên cứu và tìm hiểu, tôi mạnh dạn có một vài suy đoán về chù đề này và viết lại những ghi chú ngắn gọn; những ghi chú đó, vào năm 1844, được tôi phát triển thành một bản kết luận tóm tẳt mà sau đó đối với tôi có vẻ như là sự thật: từ sau chuyến đi đó cho đến tận bây giờ tôi vẫn liên tục theo đuổi chỉ với một mục đích. Tôi hy vọng bạn đọc sẽ rộng lòng bỏ qua khi tôi viết những dòng mang tính cá nhân này, vì tôi muốn nói rằng tôi rất cẩn thận trong quá trình đi đến kết luận cuối cùng.
Tác phẩm của tôi giờ đây đã gần hoàn thành, nói vậy nhưng tôi cũng sẽ phải mất thêm hai đến ba năm nữa để hoàn thành nó. Và khi sức khỏe tôi lúc này không được tốt, tôi phải cố gắng xuất bản bản thảo này, tôi cũng đặc biệt bị thúc đẩy hoàn thành và xuất bản tác phẩm bởi vì ông Wallace, người đang nghiên cứu lịch sử tự nhiên tại quần đảo Malay cũng có kết luận hầu như hoàn toàn giống tôi về nguồn gốc các loài. Năm ngoái, ông ta đã gửi cho tôi một bản tóm tắt về chủ đề này, và nhờ tôi chuyển lại cho ngài Charles Lyell. Ngài Lyell đã chuyển bản kết luận đó tới Hội đồng Linnean, và nó đã được xuất bản trong số thứ ba của tạp chí Hội đồng đó. Ngài C.Lyell và tiến sĩ Hooker, những người biết về công trình nghiên cứu của tôi - tiến sĩ Hooker thậm chí còn đã đọc bản tóm tắt của tôi trong năm 1844 - ca ngợi tôi là sáng suốt khi cho in, với bản kết luận tuyệt vời của ông Wallace, một số đoạn trích ngắn từ bản thảo viết tay của tôi.
Bản viết mà tôi sắp cho xuất bản này chắc chắn sẽ không thể hoàn thiện. Ở đây, tôi không thể đưa ra những tài liệu tham khảo và kiến thức đầy đủ cho một số nhận định đưa ra. Chắc chắn trong bản viết lần này không tránh khỏi sai sót. Nhưng xét về tổng thể, tôi rất mong bạn đọc tin tường vào tính chính xác của bài viết bởi vì tôi lúc nào cũng tự nhắc nhở mình phải hết sức cẩn thận với những gì được viết ra. Tôi chỉ có thể đưa ra ở đây một số kết luận tổng quát nhất mà tôi tin tưởng với các ví dụ minh họa thực tế. Tôi hy vọng rằng những minh chứng này là đầy đủ trong hầu hết các trường hợp. Không ai có thể hiểu rõ hơn tôi về sự cần thiết sau này phải xuất bản chi tiết tất cả các bằng chứng, cùng với tài liệu tham khảo, mà dựa vào chúng, tôi rút ra kết luận. Hy vọng trong những cuốn sau, tôi có thể làm điều này. Bởi vì tôi nhận thức rõ ràng chỉ cần một điểm được đưa ra thôi trong cuốn sách này mà không có dẫn chứng minh họa thì sự thiếu sót này thường rất dễ dẫn đến những kết luận trái ngược với những gi tôi đã trình bày. Một kết quả khả dĩ chỉ có thể đạt được khi có bằng chứng cùng với lý lẽ rõ ràng và đầy tính thuyết phục, điều mà có lẽ tôi khó có thể thực hiện được trong lần xuất bản này.
Tôi rất lấy làm tiếc, do hạn chế về mặt không gian cũng như thời gian, không thể cảm ơn tất cả những nhà tự nhiên, trong đó thậm chí một số tôi còn không được hân hạnh biết đến, và nhiều người khác đã nhiệt tình giúp đỡ tôi. Và nhân dịp này tôi mong muốn bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới tiến sỹ Hooker, người mà trong mười lăm năm qua đã hết lòng giúp đỡ tôi với kho kiến thức uyên bác và nhận xét tuyệt vời của ông.
Bàn đến quyển Nguồn gốc của muôn loài, cảm nhận rõ ràng là một nhà tự nhiên học, luôn suy nghĩ nhiều tới mối quan hệ qua lại của các thực thể hữu cơ, tới mối quan hệ phôi thai của chúng, tới sự phân chia địa lý, mô hình địa chất, và những thứ tương tự, có thể sẽ đi đến kết luận rằng mỗi loài không thể được tạo ra một cách riêng lẻ, mà là sự kế tục, giống như những biến thể, từ các loài khác. Tuy nhiên, một kết luận như vậy, cho dù nếu có cơ sở vững chắc, cũng có thể không hoàn toàn đầy đù cho đến khi nỏ có thể chứng minh là vô số loài sống trên thế giới này đã thay đổi như thế nào để có được cấu trúc và sự cùng tương thích hoàn thiện khiến cho hầu hết chúng ta phải thán phục. Các nhà tự nhiên học liên tục nhắc đến điều kiện bên ngoài, như là khí hậu, thức ăn, vân vân... như là lý do duy nhất của sự thay đổi. Theo một nghĩa rất hẹp, như chúng ta sẽ thấy sau này, điều này có thể đúng; nhưng nó hoàn toàn phi lý khi chỉ xét đến mỗi điều kiện bên ngoài, ví dụ như cấu trúc của con chim gõ kiến chẳng hạn, cái đuôi, chân, mỏ và âm thanh, hết sức phù hợp cho việc bắt côn trùng sống trên vỏ cây. Trong trường hợp cây tầm gửi, loại cây chuyên hút chất dinh dưỡng từ các loại khác, và phải nhờ các loài chim mang hạt giống đi, và có hoa với giống đực cái riêng rẽ cần có sự trợ giúp của côn trùng để có thể giúp chúng thụ phấn, thì cũng rất khó hiểu khi giải thích cấu trúc của loài sống nhờ này, cùng với mối quan hệ của nó với một vài thực thể hữu cơ đã bị tuyệt chủng, là do ảnh hưởng của điều kiện bên ngoài, hay của thói quen, hay của quyền lựa chọn của bản thân nó.
Tôi tiên đoán tác giả của cuốn Những vết tích của Sự sáng tạo lập luận rằng sau vài thế hệ, không biết chính xác là bao nhiêu, một loài chim đã sinh ra con chim gõ kiến, và cây thỉ cho ra loài tầm gửi, và rằng những thực thể đó được sinh ra hoàn hảo ngay từ đó và vẫn giữ nguyên dạng cho tới ngày nay; nhưng sự suy đoán này đối với tôi dường như không phải là một lời giải thích, bởi vì nó đề cập đến cũng chẳng giải đáp những câu hỏi liên quan tới sự cùng thích ứng của các cơ thể hữu cơ với nhau và với điều kiện sống tự nhiên.
Với lý do đó, điều quan trọng nhất ở đây là phải hiểu rõ được cách mà các cơ thể sống thay đổi cùng thích nghi. Khi quan sát lúc đầu tôi thấy dường như đúng là một cuộc nghiên cứu cẩn thận về các loài vật được thuần hóa và cây trồng sẽ là cách tốt nhất giải quyết vấn đề khó hiểu này. Và tôi đã không bị thất vọng; trong trường hợp này và trong tất cả các trường hợp rắc rối khác tôi hầu như đều nhận ra rằng kiến thức của chúng ta, dù không hoàn toàn đầy đủ, về sự biến đổi trong điều kiện thuần dưỡng, chứa đựng đầu mối tốt nhất và rõ ràng nhất. Tôi mạnh dạn nói lên sự tin tưởng của mình đối với những nghiên cứu có giá trị cao như vậy, mặc dù chúng thường bị các nhà tự nhiên bỏ qua.
Dựa vào những suy xét này, tôi sẽ dành cả chương đầu tiên của bản viết này bàn về Sự biến đổi trong điều kiện thuần hóa. Chúng ta sẽ thấy những biến đổi mang tính di truyền là rất ít xảy ra; và điều quan trọng tương đương, mà có thể là quan trọng hơn chính là chúng ta sẽ sức mạnh của con người cực kỳ to lớn trong quá trình tích tụ bởi Sự lựa chọn những biến đổi nhỏ liên tiếp của họ. Sau đó tôi đó sẽ chuyển sang viết về tính biến đổi của các loài trong điều kiện tự nhiên; nhưng đáng tiếc là tôi không thể viết chi tiết trong phần này mà đáng ra phải được phân tích tỷ mỉ kỹ lưỡng hơn nữa. Song tôi vẫn sẽ cố gắng trong chừng mực điều kiện cho phép thảo luận cụ thể về sự biến đổi. Trong chương tiếp theo, Cuộc đấu tranh cho sự sinh tồn giữa tất cả các thực thể hữu cơ trên khắp thế giới mà chắc chắn sẽ không ừánh khỏi nghiêng về loài mạnh khỏe và chống lại loài yếu hơn, sẽ được đề cập. Đó chính là học thuyết của Malthus, đúng với toàn bộ hai vương quốc của các loài động vật và thực vật. Vì số lượng loài được sinh ra lón hơn số lượng loài có thể tồn tại nên kết quả là cuộc đấu ữanh sinh tồn luôn luôn diễn ra không bao giờ ngơi nghỉ. Một quy luật là bất kỳ cơ thể sống nào nếu có khả năng thay đổi dù ít mà theo chiều hướng cỏ lợi cho bản thân trong điều kiện sổng thay đổi, đôi khi phức tạp sẽ có cơ hội tồn tại tốt hơn, và như vậy tức là được tự nhiên lựa chọn. Xét trên quy luật của sự kế thừa, bất kỳ sự biến đổi có tính lựa chọn nào sẽ có xu hướng nhân rộng dạng thức mới và sửa đổi của nó.
Chủ đề chính yếu của Sự lựa chọn của tự nhiên sẽ được viết cụ thể hơn ở chương thư tư; và chúng ta sẽ nhận ra Sự lựa chọn tự nhiên hầu như chắc chắn gây nên sự Tuyệt chủng của những dạng thức sổng ít được biến đổi theo xu hướng tích cực, và bao gồm cái mà tôi gọi là sự Chệch hướng của Tinh cách. Trong chương kế tiếp, tôi sẽ viết về những quy luật phức tạp và ít được biết đen của sự biến đổi và của mối tương tác tăng trường. Trong bốn chương sau đó, những vấn đề nan giải và khó hiểu nhất của lý thuyết sẽ được đề cập tới, bao gồm: khó khăn đầu tiên liên quan tới quá trình chuyển đổi, hay được hiểu là một thực thể sống hoặc một bộ phận đơn giản chuyển đổi như thế nào và trở thành một tổ chức phức hợp có cấu trúc hoàn hảo; thứ hai, chủ đề của Bàn năng, hay sức mạnh tinh thần của động vật; thứ ba, lai ghép, hay là tình trạng vô sinh của loài và khả năng sinh sản của loài biến đổi khi được lai chéo; và thứ tư, sự không hoàn thiện của Tài liệu địa chất.
Trong chương tiếp theo, tôi sẽ xem xét sự kế tiếp địa chất của thực thể hữu cơ theo thời gian; trong chương mười một và mười hai, sự phân chia địa lý của chúng theo không gian; trong chương mười ba là quá trình phân loài hoặc mối quan hệ gần gũi phụ thuộc của chúng, cả hai trong giai đoạn trưởng thành và khi còn trong phôi thai. Và chương cuối cùng tôi sẽ tóm tắt lại toàn bộ tác phẩm, và đưa ra một số nhận xét cuối cùng.
Bạn đọc không cần phải cảm thấy ngạc nhiên khi nhiều điều còn chưa được giải thích trong chủ đề nguồn gốc của các loài và biến thể, nếu các bạn biết rõ về sự thiếu hiểu biết của chúng tôi về mối quan hệ phụ thuộc của tất cả cơ thể sống xung quanh chúng ta. Ai có thể giải thích tạo sao một loài lại phát triển nhiều và rộng như vậy trong khi những loài khác đồng minh của nó lại trở nên hẹp dần và hiếm đi? Nhưng mối quan hệ kiểu này là cực kỳ quan trọng bởi vì nó quyết định tình trạng sống hiện thời, và, như tôi tin tưởng, thành công và sự sửa đổi trong tương lai của mọi loài sống trên thế giới này. Chúng ta vẫn còn biết rất ít về mối quan hệ mang tính phụ thuộc giữa vô sổ loài trên quả địa cầu trong suốt các giai đoạn địa chất lịch sử. Mặc dù còn nhiều điều lờ mờ, và sẽ vẫn ở tình trạng đó trong một thời gian dài nữa, tôi có thể khẳng định rằng, với những nghiên cứu có chủ định và sự nhận xét khách quan, và quan điểm mà trước đây tôi tin vào - mọi loài đều được tạo ra một cách riêng biệt - là sai lầm. Tôi hoàn toàn bị thuyết phục bởi nhận định rằng loài không thể thay đổi được; rằng đó là chúng thuộc vào cái gọi là cùng giống loài mà là con cháu trực tiếp của những loài đã bị tuyệt chủng; trong một cách tương tự đối với các biến thể của bất cứ một loài nào là con cháu của loài đó. Hơn nữa, tôi chắc chắn là Sự lựa chọn của tự nhiên là tác nhân chính nhưng không phải là duy nhất của sự biến đổi.
CHƯƠNG I
SỰ BIẾN ĐỔI TRONG ĐIỀU KIỆN ĐƯỢC THUẦN DƯỠNG
Nguyên nhân của tính biến đổi - Những ảnh hưởng của thói quen - Mối tương quan của tăng trưởng - Tính kế thừa - Đặc điểm của những biến thể được thuần hóa - Những khó khăn trong việc phân biệt giữa biến thể và loài - Nguồn gốc của biến thể thuần dưỡng từ một hoặc nhiều loài - Những con chim bồ câu được nuôi trong nhà, sự khác biệt và nguồn gốc của chúng - Nguyên tắc của sự lựa chọn mà đã được công nhận từ xa xưa, những ảnh hưởng của nó - Sự lựa chọn kỹ càng logic và vô thức - Nguồn gốc chưa được biết đến của những con thuần hóa - Những điều kiện thuận lợi nhất cho sự lựa chọn của con người.
Khi chúng ta nhìn vào những cá thể của một biến thể hay là tiểu biến thể của các loài cây được trồng và loài động vật được thuần dưỡng từ lâu của chúng ta, một trong những điểm gây sự chú ý đầu tiên là chúng nhìn chúng khác nhau rất nhiều hom so với các cá thể của bất kỳ loài hoặc biến thể nào khác trong tự nhiên. Khi mà chúng ta tìm hiểu về sự đa dạng rộng lớn của những loài cây và động vật mà đã được nuôi, trồng, mà đã biến đổi trong suốt tất các thời đại dưới những điều kiện khí hậu và sự đối xử khác nhau, tôi nghĩ chúng ta sẽ đi đến một kết luận rằng tính thay đổi lớn hơn chỉ đơn giản là do những cây con vật nuôi của mọi người đã được thuần dưỡng trong điều kiện sống không hề giống như, và phần nào đó khác biệt so với, những điều kiện mà cha mẹ chúng đã sống trong thiên nhiên. Tôi cho là cũng có một vài khả năng theo như quan điểm của Andrew Knight rằng tính biến đổi của có thể một phần liên quan đến sự dư thừa thức ăn. Dường như khá rõ ràng là thực thể hữu cơ, qua nhiều thế hệ, phải được tiếp xúc với điều kiện sống để có thể gây nên một vài biến đổi đáng kể; và rằng một khi tổ chức cơ thể bắt đầu biến chuyển, nói chung nó sẽ tiếp tục biến đổi theo nhiều thế hệ sau đó. Chưa hề có trường hợp nào cho thấy một thực thể đã biến đối lại ngừng không chuyển biến nữa trong môi trường thuần dưỡng. Nhũng loài cây được trồng sớm nhất của chúng ta, chẳng hạn như lúa mỳ, vẫn thường sinh ra những biến thể mới; vật nuôi sớm nhất của chúng ta vẫn còn có khả năng biến đổi và cải thiện bản thân nhanh.
Mọi người vẫn đang tranh cãi tại thời kỳ nào của chu trình sống, các nguyên nhân của sự thay đổi, cho dù là nguyên nhân nào đi chăng nữa, thường xuất hiện; liệu có phải trong suốt quá trình ban đầu hay cuối của giai đoạn phát triển phôi thai, hay là ngay ở quá trình thụ thai. Những thí nghiệm của Geoffroy St Hilaire cho thấy rằng sự đối xử phi tự nhiên đối với bào thai gây ra quái thai; và các quái thai không thể bị tách rời bởi bất kỳ sự phân chia rõ ràng nào chỉ từ những biến đổi. Tôi hết sức nghi ngờ nguyên nhân thường xuyên nhất của tính biến đổi có thể là cơ quan sinh sản của con đực và con cái đã bị ảnh hưởng trước khi thụ thai. Một số nguyên nhân khiến tôi tin vào nhận định này, nhưng nguyên nhân chính là ảnh hưởng đáng kể do sự giam hãm và thuần hóa tới các chức năng của hệ thống sinh sản. Hệ thống sinh sản rất dễ bị ảnh hưởng hơn so với bất kỳ cơ quan nào khác của cơ thể trước thay đổi của điều kiện sống. Không gì dễ hơn việc thuần chủng một con vật, và cũng dễ dàng khiến chúng sinh sản tự do trong điều kiện bị giam hãm, thậm chí trong rất nhiều trường hợp khi cả con đực và con cái được sống chung. Có vô số loài vật không sinh nở, cho dù sống lâu trong điều kiện không bị giam cầm quá trong đất nước bản địa của chúng! Hiện tượng này nói chung bắt nguồn từ những con côn trùng gây hại; nhưng cũng có vô số loài thực vật với sức sống tràn trề nhưng lại hiểm khi hoặc không bao giờ ra hạt giống! Trong một số trường hợp như vậy, người ta nhận thấy là những thay đổi rất nhỏ, chẳng hạn như ít hay nhiều nước hơn một chút tại một giai đoạn nhất định trong quá trình phát triển, sẽ là nhân tố quyết định xem loại cây đó có sinh sàn không. Ở đây tôi không thể đi vào quá chi tiết những gì mà tôi thu thập được về chủ đề đầy sự tò mò này; nhưng để chứng minh các quy luật kỳ lạ quyết định khả năng sinh sản của động vật trong điều kiện bị giam cầm, tôi xin đưa ra những loài vật ăn thịt, thậm chí từ vùng nhiệt đới, sinh sản tại đất nước này khá dễ dàng trong điều kiện bị giam giữ, trừ trường họp loài động vật đi bằng gan bàn chân hoặc gia đình nhà gấu; trái lại, những loài chim ăn thịt, hầu như không có ngoại lệ, rất hiếm khi đẻ trứng. Nhiều loại cây ngoại lai hoàn toàn vô dụng, trong điều kiện sống giống hệt như của những loài lai không sinh sản. Một mặt khi chúng ta bắt gặp những động thực vật được thuần dưỡng, mặc dù thường yếu và hay bị đau ốm, sinh sản dễ dàng trong điều kiện bị giam giữ; và mặt khác khi chúng ta thấy những cá thể, được lấy đi khi còn nhỏ trong tự nhiên, được thuần dưỡng tuyệt đối, sống lâu, khỏe mạnh (tôi có thể đưa ra rất nhiều ví dụ minh chứng cho trường hợp kiểu này), nhưng lại có hệ thống sinh sản bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi những nhân tố không cảm nhận được do không hoạt động đúng chức năng. Chúng ta không cần phải ngạc nhiên trước hệ thống này, khi mà nó nằm trong điều kiện bị giam giữ, hoạt động không hoàn toàn bình thường, và sinh những đứa con không được hoàn chỉnh như cha mẹ chúng hoặc là biến thể.
Sự vô sinh thường được người ta cho rằng là do cách làm vườn; nhưng xét trên khía cạnh này, chúng ta sẽ thấy tính biến đổi cũng là do nguyên nhân đó - nguyên nhân gây ra tình trạng vô sinh; và tính thay đổi là nguồn của tất cả sản phẩm tốt nhất của khu vườn đó. Tôi xin nói thêm rằng một số cá thể sẽ sinh sản tốt nhất trong điều kiện nhân tạo (chẳng hạn như loài thỏ và chồn íìirô bị nhốt trong chuồng), cho thấy hệ thống sinh sản của chúng, do đó, không bị ảnh hưởng; tưcmg tự như vậy có một vài loài thực vật và động vật lại không thích hợp với điều kiện thuần dưỡng, và thay đổi rất ít - có lẽ thay đổi ít hơn so với khi chúng trong tự nhiên.
Chúng ta sẽ chẳng có khó khăn gì để đưa ra một bản danh sách dài liệt kê tên "các loài cây khác biệt"; theo nghĩa này, người làm vườn hàm ý chỉ một nụ hay mầm cây, mà đột nhiên tiếp nhận một đặc tính mới đôi khi rất khác lạ so với các cây còn lại. Những nụ kiểu này có thể được sinh ra bởi cấy ghép, hay đại loại như thế, và có khi lại do hạt giống. "Những loài biến dị" này là cực kỳ hiếm trong tự nhiên, nhưng lại khá phổ biến trong nuôi ưồng nhân tạo; và trong trường hợp này chúng ta thấy cách đối xử của bố mẹ đã ảnh hưởng tới một nụ hay mầm hoa, nhưng không ảnh hưởng tới noãn hay phấn hoa. Nhưng ý kiến của hầu hết các nhà sinh lý học là không có sự khác biệt cơ bản nào giữa một cái nụ và noãn hoa trong giai đoạn đầu sự hình thành của chúng; để mà trên thực tế "các cây biến dị" minh chửng cho quan điểm của tôi, rằng tính biến đổi có thể chủ yểu gây ra bởi noãn hoa hay phấn hoa, hoặc là cả hai bị ảnh hưởng bởi cách đối xử của cây bố mẹ trước giai đoạn thụ phấn. Những trường hợp này chứng minh rằng sự biến đổi không nhất thiết, như một số học giả đã nghĩ, phải liên quan đến hoạt động của cả thế hệ.
Những cây con từ một nhành cây, và những con cùng được sinh ra trong một lứa, đôi khi lại khác xa nhau, mặc dù cả đứa con và bố mẹ, như Muller nhận xét, rõ ràng được đặt trong điều kiện sống như nhau; thực tế này cho thấy ảnh hưởng trực tiếp của điều kiện sống là rất ít nếu so sánh với các quy luật của sinh sản, và của trưởng thành, và của kế thừa; bởi vì nếu ảnh hưởng trực tiếp của điều kiện sống có lớn, nếu bất kỳ một đứa con nào biến đổi, thì tất cả chúng đã phải giống nhau. Đe đánh giá ảnh hưởng trực tiếp của nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, thức ăn, v.v... là không dễ dàng trong trường hợp của bất cứ sự biến đổi nào: ấn tượng của tôi là với động vật, những tác nhân như vậy gây rất ít ảnh hưởng trực tiếp, cho dù rõ ràng ảnh hưởng trực tiếp nhiều hem đối với cây. Theo quan điểm này, những thí nghiệm gần đây của ông Buckman cực kỳ quý báu. Khi tất cả hoặc hầu như tất cả các thể sống tồn tại trong điều kiện nhất định chịu ảnh hưởng giống nhau, sự thay đổi lúc đầu có vẻ như là trực tiếp do những điều kiện kiểu đó; nhưng trong một số trường hợp thì lại cho thấy những điều kiện đối nghịch lại mang lại kết quả thay đổi tưcmg tự trong cấu trúc.
Tuy vậy một số thay đổi nhỏ, tôi nghĩ, có thể là do ảnh hưởng trực tiếp của điều kiện sống - như trong một số trường hợp, sự tăng kích thước cơ thể do cỏ nhiều thức ăn, thay đổi màu do một vài loại thức ăn và ánh sáng gây ra, và có thể là cả độ dày của bộ lông do khí hậu chuyến biến.
Thói quen cũng có một ảnh hưởng quan trọng, như trong giai đoạn ra hoa mà cây được chuyển sang nơi có khí hậu khác. Đối với động vật, nó có ảnh hưởng còn sâu sắc hom; ví dụ tôi tìm thấy trong một con vịt được nuôi những xưomg cánh nhẹ hơn và xưomg chân nặng hom, tính theo trọng lượng của toàn bộ cơ thể, so với những loại xưomg đó của một con vịt hoang; và tôi suy luận với độ tin cậy cao là sự thay đổi này do vịt nuôi bay ít hom và đi nhiều hom so với vịt hoang. Sự phát triển mạnh mẽ mang tính di truyền của vú bò và dê trong những nước mà chúng thường cho sữa, nếu đem so với tình trạng của những bộ phận đó ở các nước khác, lại là một ví dụ nữa về tác động của việc sử dụng. Chúng ta không thể kể ra một con vật được nuôi nào mà, tại một vài nước, không có đôi tai rủ xuống; và quan điểm được chia sẻ bởi một vài học giả, là đôi tai rủ xuống là do việc không sử dụng cơ tai bởi vì chúng không sử dụng tai nhiều để đoán nhận nguy hiểm đang rình rập.
Có rất nhiều quy luật chi phối sự biến đổi, một vài trong số chúng khá khó hiểu, và do đó nên được đề cập một cách ngan gọn. Ở đây sẽ chỉ nói một cách gián tiếp về cái có-thể được gọi là sự tương quan tăng trưởng. Bất cứ một thay đổi nào trong bào thai hoặc trong ấu trùng hầu như sẽ chắc chắn gây ra thay đổi trong con vật khi trưởng thành. Trong những dị dạng, sự tương quan giữa các phần riêng biệt là kỳ lạ; và chúng ta có thể tìm thấy nhiều ví dụ trong công trình nghiên cứu vĩ đại của Geoffroy St Hilaire về chủ đề này. Những người nhân giống tin rằng những chi dài thường đi kèm với đầu dài. Một vài ví dụ về sự tương quan là hơi buồn cười: những con mèo biến dạng với cặp mắt xanh chắc chắn là bị điếc; màu sắc và đặc tính kỳ lạ thể chất đi cùng nhau, trong đó rất nhiều trường hợp nổi tiếng có thể được đưa ra đối với động thực vật. Từ những chứng cứ thu thập bởi ông Heusinger, dường như là cừu trắng và lợn bị ảnh hưởng khác biệt từ những cá thể màu bởi các chất độc rau nhất định. Những con chó không có lông thì có hàm răng không hoàn chỉnh, những loài động vật lông dài và thô thường hay có, như đã được khẳng định, nhiều sừng hoặc sừng dài; những con chim bồ câu với đôi chân có lông có mang da ở giữa ngón chân cái ngoài; chim bồ câu với mỏ ngắn có chân bé, và những con với cái mỏ dài có chân to. Với lý do này, nếu con người tiếp tục lựa chọn, và kết quả là tăng, đặc tính kỳ lạ, chúng ta sẽ hầu như không tránh khỏi biến đổi một cách vô thức những cấu trúc của bộ phận khác, do những quy luật bí hiểm của sự tưomg quan tăng trưởng.
Kết quả của những quy luật đa dạng, ít được biết tới hoặc là khó hiểu, của sự biến đổi cực kỳ là phức tạp và đa dạng. Chúng ta nên nghiên cứu một cách kỹ lưỡng cẩn thận một số cuốn viết về những cây đã được trồng lâu đời, như cây dạ hưorng lan, khoai tây, thậm chí là cây thược dược, v.v...; chúng ta sẽ thật sự ngạc nhiên khi phát hiện ra có vô số những điểm trong cấu trúc và thể chất mà tại đó các biến thể và tiểu biến thể khác nhau chút ít. Cả hệ thống tổ chức dường như dễ thay đổi, và có xu hướng, trong một mức độ không nhiều, tách khỏi kiểu của bố mẹ.
Bất kỳ sự thay đổi nào mà không được truyền lại thì không quan trọng đối với chúng ta. Nhưng số lượng và tính đa dạng của những sai khác có thể kế thừa trong cấu trúc, cả những cái kém quan trọng và những cái rất quan trọng xét về mặt sinh lý học, là cực kỳ lớn. Bài viết của giáo sư Prosper Lucas, được in trong hai tập dày, cung cấp đầy đủ nhất và chuẩn xác nhất về chủ đề này. Không một người nhân giống nào nghi ngờ xu hướng tiến tới sự kế thừa là vô cùng mạnh mẽ: sự ưa thích mang đến sự ưa thích là thông điệp chính của ông: những học giả chỉ mang tính lý thuyết nghi ngờ quy luật này. Khi một sự sai khác xuất hiện thường xuyên, và chúng ta thấy nó ở cả người cha và đứa con, chúng ta không thể kết luận liệu sự sai khác đó không phải là do cùng một nguyên nhân tác động lên cả hai; khi trong số nhiều cá thể, rõ ràng sống trong cùng điều kiện tự nhiên, bất kỳ sự sai khác hiếm thấy nào, do sự kết hợp lạ kỳ giữa các hoàn cảnh, xuất hiện ở cha mẹ - cứ cho là một trong vài triệu cá thể - và nó xuất hiện lại ở đứa con, chỉ những học thuyết về sự ngẫu nhiên hầu như chắc chắn làm cho chúng ta nghĩ sự tái xuất hiện của sai khác đó là do di truyền. Mọi người chắc hẳn đã nghe đến các trường hợp của chứng bạch tạng, da quá nhạy cảm, lông trên cơ thể, v.v..., xuất hiện ở một số thành viên gia đình. Nếu những sai khác hiếm thấy và kỳ lạ của cấu trúc thực sự là được di truyền, thì những sai khác ít kỳ lạ và thường thấy hơn có thể cũng là do tính di truyền. Có lẽ cách tiếp cận chuẩn xác toàn bộ chủ đề này là coi sự kế thừa của đặc điểm bất kỳ là quy luật, và sự không di truyền như là sự dị thường.
Những quy luật điều chỉnh quá trình di truyền vẫn chưa được biết đến đầy đủ; không ai có thể nói tại sao sự biến đổi giống nhau trong các cá thể khác nhau của cùng một loài; và trong các cá thể của các loài khác nhau, lại có khi được di truyền và lại có khi không; tại sao một đứa trẻ thường có một vài đặc điểm nhất định của ông, bà hay là thậm chí của cụ, kỵ; tại sao một sai lệch thường được truyền từ một giới tính sang cả hai giới tính, hoặc chỉ một giới tính không thôi, nhung không phải là lúc nào cũng vậy tới giống cùng giới tính. Đó là một thực tế khá quan trọng đối với chúng ta, rằng sự sai khác xuất hiện ở những con đực nhân giống trong nhà thường được truyền lại, với tần suất rất cao, có khi lên đến 100%, chỉ cho những đứa con giống đực. Một quy tắc quan trọng hơn nhiều mà tôi nghĩ có thể tin tưởng được là tại giai đoạn nào đó của vòng đời, một sai khác xuất hiện đầu tiên, nó có xu hướng xuất hiện lại trong đứa con khi đứa con trưởng thành tới chính giai đoạn đó, nhưng đôi khi lại sớm hơn. Trong nhiều trường hợp thì nó không thể nào khác: do đó những biến đổi di truyền trong sừng của gia súc nuôi có thể chỉ xuất hiện trong đứa con khi gần trưởng thành; những điểm khác biệt của con tằm quan sát thấy xuất hiện trong giai đoạn tương ứng sâu bướm hoặc là kén. Nhưng những bệnh di truyền và một vài bằng chứng khác khiến tôi tin rằng quy luật đó có một sự mở rộng lớn hơn, và rằng khi không có lý do xác thực nào giải thích tại sao sự sai lệch lại xuất hiện ở một giai đoạn nhất định, và tại sao nó lại có xu hướng tái xuất hiện trong đứa con ở giai đoạn tương ứng khi nó lần đầu tiên xuất hiện ở cha mẹ. Tôi tin nguyên lý này đóng vai trò quan trọng nhất trong việc giải thích các quy luật của bào thai. Nhận định này tất nhiên là chỉ áp dụng cho lần xuất hiện đầu tiên của đặc tính sai khác, và không phải là nguyên nhân chính, mà có thể tác động đến tế bào chứng hoặc là các nguyên tố giống đực; theo cách gần giống như đứa con được lai ghép từ một con bò cái sừng ngắn với con bò đực sừng dài, độ dài hơn của sừng, cho dù xuất hiện muộn trong vòng đời rõ ràng là do các nhân tố của con bò đực.
Sau khi nói gián tiếp về chủ để di truyền, tôi có lẽ ở đây sẽ đề cập tới một lời tuyên bố thường là của các nhà tự nhiên học - những biến thể thuần dưỡng của chúng ta, khi được thả về tự nhiên, dần dần nhưng chắc chắn sẽ quay trở lại các đặc điểm nguyên thủy của tổ tiên chúng. Do đó, người ta lập luận rằng không một suy luận nào có thể rút ra được từ loài thuần dưỡng tới các loài trong tự nhiên. Tôi đã cố sức trong vô vọng để tìm ra bằng chứng thuyết phục mà dựa vào đó lời tuyên bố trên thường rất hay được tự tin đưa ra. Có lẽ hết sức khó khăn để chứng minh tính đúng đắn của lời tuyên bố đó: chúng ta chỉ có thể kết luận rằng rất nhiều trong sổ những biến thể của vật nuôi thuần chủng nhất có thể không đủ khả năng sổng trong môi trường tự nhiên. Trong rất nhiều trường hợp, chung ta không biết những đặc tính sơ khai của chúng là như thế nào, không thể nói rằng liệu sự quay trở lại gần như bản năng ban đầu cỏ xảy ra hay không. Một điều cần thiết, nhằm tránh ảnh hưởng của sự lai ghép, rằng chỉ một biến thể duy nhất được thả về môi trường mới. Tuy nhiên do trong các biến thể có chúng ta chắc chắn có trường hợp quay trở về một số đặc điểm của tổ tiên chúng, theo tôi nghĩ, cũng không phải là không có lý để nói nếu chúng ta thành công trong quá trình tự nhiên hóa qua rất nhiều thế hệ, vài loài, chẳng hạn như cây cải bắp, trên mảnh đất kém màu mỡ (song trong trường hợp này một số ảnh hiện tượng có lẽ là bắt nguồn từ ảnh trực tiếp của đất kém màu mỡ), sẽ có nhiều khả năng quay trở lại những tính cách, đặc điểm của tố tiên trong hoang dã. Cho dù thí nghiệm kiểu này có thành công hay không, nó cũng không phải quá quan trọng đối với những gì chúng ta đang bàn luận ở đây; bởi vì bản thân cuộc thí nghiệm này khi diễn ra thì điều kiện sống cũng đã, đang và sẽ thay đổi. Nếu nó có thể làm rõ những loài biến thể thuần dưỡng của chúng ta thể hiện xu hướng mạnh quay trở lại - tức là mất đi những đặc tính đã học được khi bị giam cầm trong điều kiện sống ít biếấn động đến mức mà sự giao phối bị kiểm soát, bằng cách cho con đực và con cái một cách có chủ định sống chung một chỗ, bất kỳ sự sai khác nào của cấu trúc, trong trường hợp đó, tôi đảm bảo là chúng ta chẳng suy luận được điều gì từ những biến thể trong nhà xét về nguồn gốc loài. Nhưng không hề có bằng chứng nào ủng hộ lời tuyên bố trên của các nhà tự nhiên học: chắc chắn việc chúng ta không thể nhân giống ngựa kéo xe và ngựa đua, gia súc sừng dài và sừng ngắn, và gia cầm của nhiều giống khác, và các loài rau tươi sẽ, vì với số lượng không thể đếm được của các thế hệ, đối lập lại với tất cả những gì chúng ta đã thấy. Tôi xin nói thêm rằng khi điều kiện sống tự nhiên có thay đổi, sự biến đổi và sự quay trở lại các đặc điểm có khả năng xuất hiện; nhưng sự lựa chọn của tự nhiên, sẽ được giải thích ở phần sau, quyết định những đặc điểm mới này thay đổi bao nhiêu và có được giữ lại.
Khi chúng ta xem xét những biến thể di truyền hay động thực vật được nuôi trồng, và so sánh chúng với các loài họ hàng, chúng ta nói chung cảm nhận trong mỗi loài thuần dưỡng, như đã nói, ít có tính đồng dạng như các loài họ hàng trong tự nhiên. Những loại cây, vật nuôi tại gia trong cùng một họ cũng thường có một số đặc điểm ngoại lai; qua đó tôi muốn nói, mặc dầu khác biệt so với nhau, và so với những họ khác trong cùng một loài trong một số khía cạnh không quan trọng lắm, chúng thường khác biệt với mức độ cực lớn trong một bộ phận khi so sánh với con khác, và nhất là khi so sánh với tất cả nhánh khác sổng trong tự nhiên mà có họ hàng gần gũi nhất với chúng. Với những ngoại lệ này, (và với ngoại lệ của khả năng sinh sản hoàn hảo khi được lai ghép - một chủ đề sau này sẽ được nói đến), các loại vật nuôi cây trồng do con người thuần hóa của cùng một loài khác nhau theo kiểu giống như, chỉ trong những trường hợp với mức độ thấp hom, những chi họ hàng gần gũi nhất trong cùng một loài trong môi trường tự nhiên. Tôi nghĩ rằng điều này phải được công nhận, khi chúng ta phát hiện ra rằng có rất ít loài nuôi trong nhà, cho dù là động vật hay thực vật, mà không được xếp vào, bởi những phán quyết đáng tin cậy chỉ là những biến thể, và bởi những nhận định hợp lý khác là con cháu của loài khác biệt rõ ràng nguyên thủy. Nếu có bất kỳ một sự khác biệt rõ ràng nào giữa các dạng và loài vật nuôi, cây trồng trong nhà, thì sự nghi ngờ này đã không kéo dài lâu như vậy. Tôi cho rằng đã có thể nói lời tuyên bố trên không chính xác, nhưng những nhà tự nhiên học lại không thống nhất trong quyết định đặc điểm nào là của giá trị loài; tất cả sự đánh giá kiểu này hiện chỉ mang tính kinh nghiệm.
Hơn nữa, theo quan điểm về nguồn gốc loài mà tôi sẽ đưa ra ở đây, chúng ta không có quyền mong đợi thường xuyên gặp sự khác biệt loài trong những sản phẩm thuần hóa của chúng ta.
Khi chúng ta cố tính toán sự khác biệt cấu trúc giữa nhánh vật nuôi trong nhà của cùng loài, chúng ta sẽ ngay lập tức nghi ngờ, không biết liệu chúng có là con cháu của một hay một vài loài bố mẹ. Điểm này, nếu nó được làm rõ, sẽ rất thú vị; chẳng hạn nếu người ta có thể chứng minh rằng chó đua, chó săn. chó đánh hơi, chó xpantơn, và chó bun, những con tất cả chúng ta đều biết sinh sản hết sức dễ dàng, có thể đã là con cháu của bất cứ một loài nào, thì những thực tế như vậy sẽ là nhân tố chính khiến chúng ta nghi ngờ về tính không thể biến đổi của rất nhiều họ hàng loài động thực vật gần gũi - chẳng hạn như nhiều con cáo - sống ở những nơi khác nhau trên thế giới. Tôi không tin, như chúng ta sẽ thấy ở đây, rằng tất cả các loài chó của chúng ta là con cháu của bất kỳ một loài hoang dã nào; nhưng trong một số trường hợp loài thuần chủng khác, thì lại có cơ sở, thậm chí bằng chứng xác thực ủng hộ quan điểm này.
Mọi người thường thừa nhận con người đã lựa chọn những loại động vật và cây trồng để thuần hóa có xu hướng biến đổi mạnh mẽ, và có thể tồn tại trong khí hậu phức tạp. Tôi không tranh cãi về những khả năng đã tăng giá trị nhữmi sản phẩm tại gia của chúng ta; nhưng một người nguyên thủy làm sao có thể biết, khi lần đầu tiên anh ta thuần dưỡng một con vật, liệu nó có thay đổi trong những thế hệ sau này, và liệu nó có sống được trong các loại khí hậu khác nhau. Có phải tính ít thay đổi của loài lừa hay gà Nhật Bản, hay khả năng yếu ớt chịu đựng khí hậu ấm áp của con nai tuyết, hay chống lại giá lạnh của loài lạc đà thông thường, ngăn cản chúng không được thuần hóa? Tôi không thể nghi ngờ rằng nếu những loài động thực vật khác, có số lượng bằng với số lượng động thực vật chúng ta thuần hóa, và thuộc về những lớp sinh vật và đất nước đa dạng tưorng đương, được lấy từ môi trường tự nhiên và có thể nhân giống qua vài thế hệ trong điều kiện thuần hóa, chúng sẽ có lẽ thay đổi, xét trung bình, nhiều như là những loài động thực vật thế hệ cha mẹ của những cây con vật thuần dưỡng hiện đang tồn tại của chúng ta.
Trong trường hợp những loài cây, con vật được thuần hóa một cách ngẫu nhiên nhất do con người, tôi không cho là chúng ta rút ra được một kết luận cụ thế nào, liệu chúng có là con cháu của một hoặc nhiều loài. Lý lẽ chủ .yếu được những người mà tin vào tính đa nguồn gốc của những con vật thuần hóa vin vào là chúng ta tìm thấy trong hầu hết những ghi chép cổ, nhất là trên các tượng đài của Ai Cập, rất nhiều loại nhân giống; và một số con nhân giống rất giống, có lẽ là giống hệt, với những con đang tồn tại. Thậm chí nếu những bằng chứng được tìm thấy là khá xác thực đối với mọi người hơn là đối với tôi; nó nói lên điều gì ngoài việc một vài loài nhân giống của chúng ta có nguồn gốc ở đó, bốn hay năm nghìn năm về trước? Nhưng những nghiên cứu của ông Homer đã mang lại cho nó một khả năng loài người đã phát triển tới trình độ văn minh có thể sản xuất ra gốm xuất hiện ở thung lũng sông Nile mười ba hay mười bốn nghìn năm về trước; ai cố tình nói trước những giai đoạn sơ khai này bao lâu, những người nguyên thủy giống như người của Tierra del Fuego hay Australia, người mà có những con chó bán thuần dưỡng, có thể không tồn tại ở Ai Cập?
Theo tôi, toàn bộ chủ đề này vẫn còn nhiều điểm chưa sáng tỏ; tuy vậy tôi có thể, ở đây không đi sâu vào bất cứ chi tiết nào, tuyên bố dựa trên những suy xét địa lý và suy xét khác, rằng rất có thể những con chó nhà của chúng ta là con cháu của một vài giống loài hoang dã. Trong trường hợp con cừu và con dê, tôi không có ý tưởng nào cả. Tôi đã nghĩ đến một số thực tế cung cấp bởi ông Blyth về thói quen, âm thanh và thể tạng... của gia súc có bướu được người Anh-điêng nuôi dưỡng, và đoán chúng bắt nguồn từ một loài gia súc trang trại khác - gia súc của người châu âu; và một vài học giả có uy tín tin những con gia súc châu âu có nhiều hơn một loài bố mẹ trong tự nhiên. Nói đến loài ngựa, từ những lý do tôi không thể đưa ra ở đây, tôi không hoàn toàn chắc chan lam là, trong sự đổi lập với ý kiến của một vài học giả, tất cả những loại nhân giống đều là con cháu của một loài gia súc trang trại có nguồn gốc từ thiên nhiên. Ông Blyth, với kho kiến thức đồ sộ và uyên bác, tôi coi trọng ý kiến của ông hơn bất cứ ai khác trong lĩnh vực này, nghĩ là tất cả các loài gia cầm được nhân giống đã phát triển từ một loài gà hoang thông thường của người Anh-điêng (Gallus bankiva). Trong trường hợp của loài vịt và thỏ, những con được nhân giống có cấu trúc khác biệt nhiều so với nhau, tôi không hề nghi ngờ là chúng có nguồn gốc chung từ loài vịt và thỏ hoang.
SỰ BIẾN ĐỔI TRONG ĐIỀU KIỆN ĐƯỢC THUẦN DƯỠNG
Nguyên nhân của tính biến đổi - Những ảnh hưởng của thói quen - Mối tương quan của tăng trưởng - Tính kế thừa - Đặc điểm của những biến thể được thuần hóa - Những khó khăn trong việc phân biệt giữa biến thể và loài - Nguồn gốc của biến thể thuần dưỡng từ một hoặc nhiều loài - Những con chim bồ câu được nuôi trong nhà, sự khác biệt và nguồn gốc của chúng - Nguyên tắc của sự lựa chọn mà đã được công nhận từ xa xưa, những ảnh hưởng của nó - Sự lựa chọn kỹ càng logic và vô thức - Nguồn gốc chưa được biết đến của những con thuần hóa - Những điều kiện thuận lợi nhất cho sự lựa chọn của con người.
Khi chúng ta nhìn vào những cá thể của một biến thể hay là tiểu biến thể của các loài cây được trồng và loài động vật được thuần dưỡng từ lâu của chúng ta, một trong những điểm gây sự chú ý đầu tiên là chúng nhìn chúng khác nhau rất nhiều hom so với các cá thể của bất kỳ loài hoặc biến thể nào khác trong tự nhiên. Khi mà chúng ta tìm hiểu về sự đa dạng rộng lớn của những loài cây và động vật mà đã được nuôi, trồng, mà đã biến đổi trong suốt tất các thời đại dưới những điều kiện khí hậu và sự đối xử khác nhau, tôi nghĩ chúng ta sẽ đi đến một kết luận rằng tính thay đổi lớn hơn chỉ đơn giản là do những cây con vật nuôi của mọi người đã được thuần dưỡng trong điều kiện sống không hề giống như, và phần nào đó khác biệt so với, những điều kiện mà cha mẹ chúng đã sống trong thiên nhiên. Tôi cho là cũng có một vài khả năng theo như quan điểm của Andrew Knight rằng tính biến đổi của có thể một phần liên quan đến sự dư thừa thức ăn. Dường như khá rõ ràng là thực thể hữu cơ, qua nhiều thế hệ, phải được tiếp xúc với điều kiện sống để có thể gây nên một vài biến đổi đáng kể; và rằng một khi tổ chức cơ thể bắt đầu biến chuyển, nói chung nó sẽ tiếp tục biến đổi theo nhiều thế hệ sau đó. Chưa hề có trường hợp nào cho thấy một thực thể đã biến đối lại ngừng không chuyển biến nữa trong môi trường thuần dưỡng. Nhũng loài cây được trồng sớm nhất của chúng ta, chẳng hạn như lúa mỳ, vẫn thường sinh ra những biến thể mới; vật nuôi sớm nhất của chúng ta vẫn còn có khả năng biến đổi và cải thiện bản thân nhanh.
Mọi người vẫn đang tranh cãi tại thời kỳ nào của chu trình sống, các nguyên nhân của sự thay đổi, cho dù là nguyên nhân nào đi chăng nữa, thường xuất hiện; liệu có phải trong suốt quá trình ban đầu hay cuối của giai đoạn phát triển phôi thai, hay là ngay ở quá trình thụ thai. Những thí nghiệm của Geoffroy St Hilaire cho thấy rằng sự đối xử phi tự nhiên đối với bào thai gây ra quái thai; và các quái thai không thể bị tách rời bởi bất kỳ sự phân chia rõ ràng nào chỉ từ những biến đổi. Tôi hết sức nghi ngờ nguyên nhân thường xuyên nhất của tính biến đổi có thể là cơ quan sinh sản của con đực và con cái đã bị ảnh hưởng trước khi thụ thai. Một số nguyên nhân khiến tôi tin vào nhận định này, nhưng nguyên nhân chính là ảnh hưởng đáng kể do sự giam hãm và thuần hóa tới các chức năng của hệ thống sinh sản. Hệ thống sinh sản rất dễ bị ảnh hưởng hơn so với bất kỳ cơ quan nào khác của cơ thể trước thay đổi của điều kiện sống. Không gì dễ hơn việc thuần chủng một con vật, và cũng dễ dàng khiến chúng sinh sản tự do trong điều kiện bị giam hãm, thậm chí trong rất nhiều trường hợp khi cả con đực và con cái được sống chung. Có vô số loài vật không sinh nở, cho dù sống lâu trong điều kiện không bị giam cầm quá trong đất nước bản địa của chúng! Hiện tượng này nói chung bắt nguồn từ những con côn trùng gây hại; nhưng cũng có vô số loài thực vật với sức sống tràn trề nhưng lại hiểm khi hoặc không bao giờ ra hạt giống! Trong một số trường hợp như vậy, người ta nhận thấy là những thay đổi rất nhỏ, chẳng hạn như ít hay nhiều nước hơn một chút tại một giai đoạn nhất định trong quá trình phát triển, sẽ là nhân tố quyết định xem loại cây đó có sinh sàn không. Ở đây tôi không thể đi vào quá chi tiết những gì mà tôi thu thập được về chủ đề đầy sự tò mò này; nhưng để chứng minh các quy luật kỳ lạ quyết định khả năng sinh sản của động vật trong điều kiện bị giam cầm, tôi xin đưa ra những loài vật ăn thịt, thậm chí từ vùng nhiệt đới, sinh sản tại đất nước này khá dễ dàng trong điều kiện bị giam giữ, trừ trường họp loài động vật đi bằng gan bàn chân hoặc gia đình nhà gấu; trái lại, những loài chim ăn thịt, hầu như không có ngoại lệ, rất hiếm khi đẻ trứng. Nhiều loại cây ngoại lai hoàn toàn vô dụng, trong điều kiện sống giống hệt như của những loài lai không sinh sản. Một mặt khi chúng ta bắt gặp những động thực vật được thuần dưỡng, mặc dù thường yếu và hay bị đau ốm, sinh sản dễ dàng trong điều kiện bị giam giữ; và mặt khác khi chúng ta thấy những cá thể, được lấy đi khi còn nhỏ trong tự nhiên, được thuần dưỡng tuyệt đối, sống lâu, khỏe mạnh (tôi có thể đưa ra rất nhiều ví dụ minh chứng cho trường hợp kiểu này), nhưng lại có hệ thống sinh sản bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi những nhân tố không cảm nhận được do không hoạt động đúng chức năng. Chúng ta không cần phải ngạc nhiên trước hệ thống này, khi mà nó nằm trong điều kiện bị giam giữ, hoạt động không hoàn toàn bình thường, và sinh những đứa con không được hoàn chỉnh như cha mẹ chúng hoặc là biến thể.
Sự vô sinh thường được người ta cho rằng là do cách làm vườn; nhưng xét trên khía cạnh này, chúng ta sẽ thấy tính biến đổi cũng là do nguyên nhân đó - nguyên nhân gây ra tình trạng vô sinh; và tính thay đổi là nguồn của tất cả sản phẩm tốt nhất của khu vườn đó. Tôi xin nói thêm rằng một số cá thể sẽ sinh sản tốt nhất trong điều kiện nhân tạo (chẳng hạn như loài thỏ và chồn íìirô bị nhốt trong chuồng), cho thấy hệ thống sinh sản của chúng, do đó, không bị ảnh hưởng; tưcmg tự như vậy có một vài loài thực vật và động vật lại không thích hợp với điều kiện thuần dưỡng, và thay đổi rất ít - có lẽ thay đổi ít hơn so với khi chúng trong tự nhiên.
Chúng ta sẽ chẳng có khó khăn gì để đưa ra một bản danh sách dài liệt kê tên "các loài cây khác biệt"; theo nghĩa này, người làm vườn hàm ý chỉ một nụ hay mầm cây, mà đột nhiên tiếp nhận một đặc tính mới đôi khi rất khác lạ so với các cây còn lại. Những nụ kiểu này có thể được sinh ra bởi cấy ghép, hay đại loại như thế, và có khi lại do hạt giống. "Những loài biến dị" này là cực kỳ hiếm trong tự nhiên, nhưng lại khá phổ biến trong nuôi ưồng nhân tạo; và trong trường hợp này chúng ta thấy cách đối xử của bố mẹ đã ảnh hưởng tới một nụ hay mầm hoa, nhưng không ảnh hưởng tới noãn hay phấn hoa. Nhưng ý kiến của hầu hết các nhà sinh lý học là không có sự khác biệt cơ bản nào giữa một cái nụ và noãn hoa trong giai đoạn đầu sự hình thành của chúng; để mà trên thực tế "các cây biến dị" minh chửng cho quan điểm của tôi, rằng tính biến đổi có thể chủ yểu gây ra bởi noãn hoa hay phấn hoa, hoặc là cả hai bị ảnh hưởng bởi cách đối xử của cây bố mẹ trước giai đoạn thụ phấn. Những trường hợp này chứng minh rằng sự biến đổi không nhất thiết, như một số học giả đã nghĩ, phải liên quan đến hoạt động của cả thế hệ.
Những cây con từ một nhành cây, và những con cùng được sinh ra trong một lứa, đôi khi lại khác xa nhau, mặc dù cả đứa con và bố mẹ, như Muller nhận xét, rõ ràng được đặt trong điều kiện sống như nhau; thực tế này cho thấy ảnh hưởng trực tiếp của điều kiện sống là rất ít nếu so sánh với các quy luật của sinh sản, và của trưởng thành, và của kế thừa; bởi vì nếu ảnh hưởng trực tiếp của điều kiện sống có lớn, nếu bất kỳ một đứa con nào biến đổi, thì tất cả chúng đã phải giống nhau. Đe đánh giá ảnh hưởng trực tiếp của nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, thức ăn, v.v... là không dễ dàng trong trường hợp của bất cứ sự biến đổi nào: ấn tượng của tôi là với động vật, những tác nhân như vậy gây rất ít ảnh hưởng trực tiếp, cho dù rõ ràng ảnh hưởng trực tiếp nhiều hem đối với cây. Theo quan điểm này, những thí nghiệm gần đây của ông Buckman cực kỳ quý báu. Khi tất cả hoặc hầu như tất cả các thể sống tồn tại trong điều kiện nhất định chịu ảnh hưởng giống nhau, sự thay đổi lúc đầu có vẻ như là trực tiếp do những điều kiện kiểu đó; nhưng trong một số trường hợp thì lại cho thấy những điều kiện đối nghịch lại mang lại kết quả thay đổi tưcmg tự trong cấu trúc.
Tuy vậy một số thay đổi nhỏ, tôi nghĩ, có thể là do ảnh hưởng trực tiếp của điều kiện sống - như trong một số trường hợp, sự tăng kích thước cơ thể do cỏ nhiều thức ăn, thay đổi màu do một vài loại thức ăn và ánh sáng gây ra, và có thể là cả độ dày của bộ lông do khí hậu chuyến biến.
Thói quen cũng có một ảnh hưởng quan trọng, như trong giai đoạn ra hoa mà cây được chuyển sang nơi có khí hậu khác. Đối với động vật, nó có ảnh hưởng còn sâu sắc hom; ví dụ tôi tìm thấy trong một con vịt được nuôi những xưomg cánh nhẹ hơn và xưomg chân nặng hom, tính theo trọng lượng của toàn bộ cơ thể, so với những loại xưomg đó của một con vịt hoang; và tôi suy luận với độ tin cậy cao là sự thay đổi này do vịt nuôi bay ít hom và đi nhiều hom so với vịt hoang. Sự phát triển mạnh mẽ mang tính di truyền của vú bò và dê trong những nước mà chúng thường cho sữa, nếu đem so với tình trạng của những bộ phận đó ở các nước khác, lại là một ví dụ nữa về tác động của việc sử dụng. Chúng ta không thể kể ra một con vật được nuôi nào mà, tại một vài nước, không có đôi tai rủ xuống; và quan điểm được chia sẻ bởi một vài học giả, là đôi tai rủ xuống là do việc không sử dụng cơ tai bởi vì chúng không sử dụng tai nhiều để đoán nhận nguy hiểm đang rình rập.
Có rất nhiều quy luật chi phối sự biến đổi, một vài trong số chúng khá khó hiểu, và do đó nên được đề cập một cách ngan gọn. Ở đây sẽ chỉ nói một cách gián tiếp về cái có-thể được gọi là sự tương quan tăng trưởng. Bất cứ một thay đổi nào trong bào thai hoặc trong ấu trùng hầu như sẽ chắc chắn gây ra thay đổi trong con vật khi trưởng thành. Trong những dị dạng, sự tương quan giữa các phần riêng biệt là kỳ lạ; và chúng ta có thể tìm thấy nhiều ví dụ trong công trình nghiên cứu vĩ đại của Geoffroy St Hilaire về chủ đề này. Những người nhân giống tin rằng những chi dài thường đi kèm với đầu dài. Một vài ví dụ về sự tương quan là hơi buồn cười: những con mèo biến dạng với cặp mắt xanh chắc chắn là bị điếc; màu sắc và đặc tính kỳ lạ thể chất đi cùng nhau, trong đó rất nhiều trường hợp nổi tiếng có thể được đưa ra đối với động thực vật. Từ những chứng cứ thu thập bởi ông Heusinger, dường như là cừu trắng và lợn bị ảnh hưởng khác biệt từ những cá thể màu bởi các chất độc rau nhất định. Những con chó không có lông thì có hàm răng không hoàn chỉnh, những loài động vật lông dài và thô thường hay có, như đã được khẳng định, nhiều sừng hoặc sừng dài; những con chim bồ câu với đôi chân có lông có mang da ở giữa ngón chân cái ngoài; chim bồ câu với mỏ ngắn có chân bé, và những con với cái mỏ dài có chân to. Với lý do này, nếu con người tiếp tục lựa chọn, và kết quả là tăng, đặc tính kỳ lạ, chúng ta sẽ hầu như không tránh khỏi biến đổi một cách vô thức những cấu trúc của bộ phận khác, do những quy luật bí hiểm của sự tưomg quan tăng trưởng.
Kết quả của những quy luật đa dạng, ít được biết tới hoặc là khó hiểu, của sự biến đổi cực kỳ là phức tạp và đa dạng. Chúng ta nên nghiên cứu một cách kỹ lưỡng cẩn thận một số cuốn viết về những cây đã được trồng lâu đời, như cây dạ hưorng lan, khoai tây, thậm chí là cây thược dược, v.v...; chúng ta sẽ thật sự ngạc nhiên khi phát hiện ra có vô số những điểm trong cấu trúc và thể chất mà tại đó các biến thể và tiểu biến thể khác nhau chút ít. Cả hệ thống tổ chức dường như dễ thay đổi, và có xu hướng, trong một mức độ không nhiều, tách khỏi kiểu của bố mẹ.
Bất kỳ sự thay đổi nào mà không được truyền lại thì không quan trọng đối với chúng ta. Nhưng số lượng và tính đa dạng của những sai khác có thể kế thừa trong cấu trúc, cả những cái kém quan trọng và những cái rất quan trọng xét về mặt sinh lý học, là cực kỳ lớn. Bài viết của giáo sư Prosper Lucas, được in trong hai tập dày, cung cấp đầy đủ nhất và chuẩn xác nhất về chủ đề này. Không một người nhân giống nào nghi ngờ xu hướng tiến tới sự kế thừa là vô cùng mạnh mẽ: sự ưa thích mang đến sự ưa thích là thông điệp chính của ông: những học giả chỉ mang tính lý thuyết nghi ngờ quy luật này. Khi một sự sai khác xuất hiện thường xuyên, và chúng ta thấy nó ở cả người cha và đứa con, chúng ta không thể kết luận liệu sự sai khác đó không phải là do cùng một nguyên nhân tác động lên cả hai; khi trong số nhiều cá thể, rõ ràng sống trong cùng điều kiện tự nhiên, bất kỳ sự sai khác hiếm thấy nào, do sự kết hợp lạ kỳ giữa các hoàn cảnh, xuất hiện ở cha mẹ - cứ cho là một trong vài triệu cá thể - và nó xuất hiện lại ở đứa con, chỉ những học thuyết về sự ngẫu nhiên hầu như chắc chắn làm cho chúng ta nghĩ sự tái xuất hiện của sai khác đó là do di truyền. Mọi người chắc hẳn đã nghe đến các trường hợp của chứng bạch tạng, da quá nhạy cảm, lông trên cơ thể, v.v..., xuất hiện ở một số thành viên gia đình. Nếu những sai khác hiếm thấy và kỳ lạ của cấu trúc thực sự là được di truyền, thì những sai khác ít kỳ lạ và thường thấy hơn có thể cũng là do tính di truyền. Có lẽ cách tiếp cận chuẩn xác toàn bộ chủ đề này là coi sự kế thừa của đặc điểm bất kỳ là quy luật, và sự không di truyền như là sự dị thường.
Những quy luật điều chỉnh quá trình di truyền vẫn chưa được biết đến đầy đủ; không ai có thể nói tại sao sự biến đổi giống nhau trong các cá thể khác nhau của cùng một loài; và trong các cá thể của các loài khác nhau, lại có khi được di truyền và lại có khi không; tại sao một đứa trẻ thường có một vài đặc điểm nhất định của ông, bà hay là thậm chí của cụ, kỵ; tại sao một sai lệch thường được truyền từ một giới tính sang cả hai giới tính, hoặc chỉ một giới tính không thôi, nhung không phải là lúc nào cũng vậy tới giống cùng giới tính. Đó là một thực tế khá quan trọng đối với chúng ta, rằng sự sai khác xuất hiện ở những con đực nhân giống trong nhà thường được truyền lại, với tần suất rất cao, có khi lên đến 100%, chỉ cho những đứa con giống đực. Một quy tắc quan trọng hơn nhiều mà tôi nghĩ có thể tin tưởng được là tại giai đoạn nào đó của vòng đời, một sai khác xuất hiện đầu tiên, nó có xu hướng xuất hiện lại trong đứa con khi đứa con trưởng thành tới chính giai đoạn đó, nhưng đôi khi lại sớm hơn. Trong nhiều trường hợp thì nó không thể nào khác: do đó những biến đổi di truyền trong sừng của gia súc nuôi có thể chỉ xuất hiện trong đứa con khi gần trưởng thành; những điểm khác biệt của con tằm quan sát thấy xuất hiện trong giai đoạn tương ứng sâu bướm hoặc là kén. Nhưng những bệnh di truyền và một vài bằng chứng khác khiến tôi tin rằng quy luật đó có một sự mở rộng lớn hơn, và rằng khi không có lý do xác thực nào giải thích tại sao sự sai lệch lại xuất hiện ở một giai đoạn nhất định, và tại sao nó lại có xu hướng tái xuất hiện trong đứa con ở giai đoạn tương ứng khi nó lần đầu tiên xuất hiện ở cha mẹ. Tôi tin nguyên lý này đóng vai trò quan trọng nhất trong việc giải thích các quy luật của bào thai. Nhận định này tất nhiên là chỉ áp dụng cho lần xuất hiện đầu tiên của đặc tính sai khác, và không phải là nguyên nhân chính, mà có thể tác động đến tế bào chứng hoặc là các nguyên tố giống đực; theo cách gần giống như đứa con được lai ghép từ một con bò cái sừng ngắn với con bò đực sừng dài, độ dài hơn của sừng, cho dù xuất hiện muộn trong vòng đời rõ ràng là do các nhân tố của con bò đực.
Sau khi nói gián tiếp về chủ để di truyền, tôi có lẽ ở đây sẽ đề cập tới một lời tuyên bố thường là của các nhà tự nhiên học - những biến thể thuần dưỡng của chúng ta, khi được thả về tự nhiên, dần dần nhưng chắc chắn sẽ quay trở lại các đặc điểm nguyên thủy của tổ tiên chúng. Do đó, người ta lập luận rằng không một suy luận nào có thể rút ra được từ loài thuần dưỡng tới các loài trong tự nhiên. Tôi đã cố sức trong vô vọng để tìm ra bằng chứng thuyết phục mà dựa vào đó lời tuyên bố trên thường rất hay được tự tin đưa ra. Có lẽ hết sức khó khăn để chứng minh tính đúng đắn của lời tuyên bố đó: chúng ta chỉ có thể kết luận rằng rất nhiều trong sổ những biến thể của vật nuôi thuần chủng nhất có thể không đủ khả năng sổng trong môi trường tự nhiên. Trong rất nhiều trường hợp, chung ta không biết những đặc tính sơ khai của chúng là như thế nào, không thể nói rằng liệu sự quay trở lại gần như bản năng ban đầu cỏ xảy ra hay không. Một điều cần thiết, nhằm tránh ảnh hưởng của sự lai ghép, rằng chỉ một biến thể duy nhất được thả về môi trường mới. Tuy nhiên do trong các biến thể có chúng ta chắc chắn có trường hợp quay trở về một số đặc điểm của tổ tiên chúng, theo tôi nghĩ, cũng không phải là không có lý để nói nếu chúng ta thành công trong quá trình tự nhiên hóa qua rất nhiều thế hệ, vài loài, chẳng hạn như cây cải bắp, trên mảnh đất kém màu mỡ (song trong trường hợp này một số ảnh hiện tượng có lẽ là bắt nguồn từ ảnh trực tiếp của đất kém màu mỡ), sẽ có nhiều khả năng quay trở lại những tính cách, đặc điểm của tố tiên trong hoang dã. Cho dù thí nghiệm kiểu này có thành công hay không, nó cũng không phải quá quan trọng đối với những gì chúng ta đang bàn luận ở đây; bởi vì bản thân cuộc thí nghiệm này khi diễn ra thì điều kiện sống cũng đã, đang và sẽ thay đổi. Nếu nó có thể làm rõ những loài biến thể thuần dưỡng của chúng ta thể hiện xu hướng mạnh quay trở lại - tức là mất đi những đặc tính đã học được khi bị giam cầm trong điều kiện sống ít biếấn động đến mức mà sự giao phối bị kiểm soát, bằng cách cho con đực và con cái một cách có chủ định sống chung một chỗ, bất kỳ sự sai khác nào của cấu trúc, trong trường hợp đó, tôi đảm bảo là chúng ta chẳng suy luận được điều gì từ những biến thể trong nhà xét về nguồn gốc loài. Nhưng không hề có bằng chứng nào ủng hộ lời tuyên bố trên của các nhà tự nhiên học: chắc chắn việc chúng ta không thể nhân giống ngựa kéo xe và ngựa đua, gia súc sừng dài và sừng ngắn, và gia cầm của nhiều giống khác, và các loài rau tươi sẽ, vì với số lượng không thể đếm được của các thế hệ, đối lập lại với tất cả những gì chúng ta đã thấy. Tôi xin nói thêm rằng khi điều kiện sống tự nhiên có thay đổi, sự biến đổi và sự quay trở lại các đặc điểm có khả năng xuất hiện; nhưng sự lựa chọn của tự nhiên, sẽ được giải thích ở phần sau, quyết định những đặc điểm mới này thay đổi bao nhiêu và có được giữ lại.
Khi chúng ta xem xét những biến thể di truyền hay động thực vật được nuôi trồng, và so sánh chúng với các loài họ hàng, chúng ta nói chung cảm nhận trong mỗi loài thuần dưỡng, như đã nói, ít có tính đồng dạng như các loài họ hàng trong tự nhiên. Những loại cây, vật nuôi tại gia trong cùng một họ cũng thường có một số đặc điểm ngoại lai; qua đó tôi muốn nói, mặc dầu khác biệt so với nhau, và so với những họ khác trong cùng một loài trong một số khía cạnh không quan trọng lắm, chúng thường khác biệt với mức độ cực lớn trong một bộ phận khi so sánh với con khác, và nhất là khi so sánh với tất cả nhánh khác sổng trong tự nhiên mà có họ hàng gần gũi nhất với chúng. Với những ngoại lệ này, (và với ngoại lệ của khả năng sinh sản hoàn hảo khi được lai ghép - một chủ đề sau này sẽ được nói đến), các loại vật nuôi cây trồng do con người thuần hóa của cùng một loài khác nhau theo kiểu giống như, chỉ trong những trường hợp với mức độ thấp hom, những chi họ hàng gần gũi nhất trong cùng một loài trong môi trường tự nhiên. Tôi nghĩ rằng điều này phải được công nhận, khi chúng ta phát hiện ra rằng có rất ít loài nuôi trong nhà, cho dù là động vật hay thực vật, mà không được xếp vào, bởi những phán quyết đáng tin cậy chỉ là những biến thể, và bởi những nhận định hợp lý khác là con cháu của loài khác biệt rõ ràng nguyên thủy. Nếu có bất kỳ một sự khác biệt rõ ràng nào giữa các dạng và loài vật nuôi, cây trồng trong nhà, thì sự nghi ngờ này đã không kéo dài lâu như vậy. Tôi cho rằng đã có thể nói lời tuyên bố trên không chính xác, nhưng những nhà tự nhiên học lại không thống nhất trong quyết định đặc điểm nào là của giá trị loài; tất cả sự đánh giá kiểu này hiện chỉ mang tính kinh nghiệm.
Hơn nữa, theo quan điểm về nguồn gốc loài mà tôi sẽ đưa ra ở đây, chúng ta không có quyền mong đợi thường xuyên gặp sự khác biệt loài trong những sản phẩm thuần hóa của chúng ta.
Khi chúng ta cố tính toán sự khác biệt cấu trúc giữa nhánh vật nuôi trong nhà của cùng loài, chúng ta sẽ ngay lập tức nghi ngờ, không biết liệu chúng có là con cháu của một hay một vài loài bố mẹ. Điểm này, nếu nó được làm rõ, sẽ rất thú vị; chẳng hạn nếu người ta có thể chứng minh rằng chó đua, chó săn. chó đánh hơi, chó xpantơn, và chó bun, những con tất cả chúng ta đều biết sinh sản hết sức dễ dàng, có thể đã là con cháu của bất cứ một loài nào, thì những thực tế như vậy sẽ là nhân tố chính khiến chúng ta nghi ngờ về tính không thể biến đổi của rất nhiều họ hàng loài động thực vật gần gũi - chẳng hạn như nhiều con cáo - sống ở những nơi khác nhau trên thế giới. Tôi không tin, như chúng ta sẽ thấy ở đây, rằng tất cả các loài chó của chúng ta là con cháu của bất kỳ một loài hoang dã nào; nhưng trong một số trường hợp loài thuần chủng khác, thì lại có cơ sở, thậm chí bằng chứng xác thực ủng hộ quan điểm này.
Mọi người thường thừa nhận con người đã lựa chọn những loại động vật và cây trồng để thuần hóa có xu hướng biến đổi mạnh mẽ, và có thể tồn tại trong khí hậu phức tạp. Tôi không tranh cãi về những khả năng đã tăng giá trị nhữmi sản phẩm tại gia của chúng ta; nhưng một người nguyên thủy làm sao có thể biết, khi lần đầu tiên anh ta thuần dưỡng một con vật, liệu nó có thay đổi trong những thế hệ sau này, và liệu nó có sống được trong các loại khí hậu khác nhau. Có phải tính ít thay đổi của loài lừa hay gà Nhật Bản, hay khả năng yếu ớt chịu đựng khí hậu ấm áp của con nai tuyết, hay chống lại giá lạnh của loài lạc đà thông thường, ngăn cản chúng không được thuần hóa? Tôi không thể nghi ngờ rằng nếu những loài động thực vật khác, có số lượng bằng với số lượng động thực vật chúng ta thuần hóa, và thuộc về những lớp sinh vật và đất nước đa dạng tưorng đương, được lấy từ môi trường tự nhiên và có thể nhân giống qua vài thế hệ trong điều kiện thuần hóa, chúng sẽ có lẽ thay đổi, xét trung bình, nhiều như là những loài động thực vật thế hệ cha mẹ của những cây con vật thuần dưỡng hiện đang tồn tại của chúng ta.
Trong trường hợp những loài cây, con vật được thuần hóa một cách ngẫu nhiên nhất do con người, tôi không cho là chúng ta rút ra được một kết luận cụ thế nào, liệu chúng có là con cháu của một hoặc nhiều loài. Lý lẽ chủ .yếu được những người mà tin vào tính đa nguồn gốc của những con vật thuần hóa vin vào là chúng ta tìm thấy trong hầu hết những ghi chép cổ, nhất là trên các tượng đài của Ai Cập, rất nhiều loại nhân giống; và một số con nhân giống rất giống, có lẽ là giống hệt, với những con đang tồn tại. Thậm chí nếu những bằng chứng được tìm thấy là khá xác thực đối với mọi người hơn là đối với tôi; nó nói lên điều gì ngoài việc một vài loài nhân giống của chúng ta có nguồn gốc ở đó, bốn hay năm nghìn năm về trước? Nhưng những nghiên cứu của ông Homer đã mang lại cho nó một khả năng loài người đã phát triển tới trình độ văn minh có thể sản xuất ra gốm xuất hiện ở thung lũng sông Nile mười ba hay mười bốn nghìn năm về trước; ai cố tình nói trước những giai đoạn sơ khai này bao lâu, những người nguyên thủy giống như người của Tierra del Fuego hay Australia, người mà có những con chó bán thuần dưỡng, có thể không tồn tại ở Ai Cập?
Theo tôi, toàn bộ chủ đề này vẫn còn nhiều điểm chưa sáng tỏ; tuy vậy tôi có thể, ở đây không đi sâu vào bất cứ chi tiết nào, tuyên bố dựa trên những suy xét địa lý và suy xét khác, rằng rất có thể những con chó nhà của chúng ta là con cháu của một vài giống loài hoang dã. Trong trường hợp con cừu và con dê, tôi không có ý tưởng nào cả. Tôi đã nghĩ đến một số thực tế cung cấp bởi ông Blyth về thói quen, âm thanh và thể tạng... của gia súc có bướu được người Anh-điêng nuôi dưỡng, và đoán chúng bắt nguồn từ một loài gia súc trang trại khác - gia súc của người châu âu; và một vài học giả có uy tín tin những con gia súc châu âu có nhiều hơn một loài bố mẹ trong tự nhiên. Nói đến loài ngựa, từ những lý do tôi không thể đưa ra ở đây, tôi không hoàn toàn chắc chan lam là, trong sự đổi lập với ý kiến của một vài học giả, tất cả những loại nhân giống đều là con cháu của một loài gia súc trang trại có nguồn gốc từ thiên nhiên. Ông Blyth, với kho kiến thức đồ sộ và uyên bác, tôi coi trọng ý kiến của ông hơn bất cứ ai khác trong lĩnh vực này, nghĩ là tất cả các loài gia cầm được nhân giống đã phát triển từ một loài gà hoang thông thường của người Anh-điêng (Gallus bankiva). Trong trường hợp của loài vịt và thỏ, những con được nhân giống có cấu trúc khác biệt nhiều so với nhau, tôi không hề nghi ngờ là chúng có nguồn gốc chung từ loài vịt và thỏ hoang.
Học thuyết về một số loài có nguồn gốc từ vài loài trong tự
nhiên đã bị một số tác giả đẩy tới một thái cực hoàn toàn khác, hết sức vô lý.
Họ khẳng định là mọi con vật, cây được nhân giống, cứ cho là những đặc điểm
khác biệt không đáng kể, có nguyên mẫu đầu tiên của chính nó. Nếu như vậy, chắc
chắn đã phải có rất nhiều loài của gia súc tự nhiên, chỉ riêng châu âu thôi cũng
đã phải có rất nhiều, và một vài ở nước Đế chế Anh. Một học giả tin rằng trước
đây ở Đế ché Anh tồn tại mười một dạng cừu riêng biệt! Khi chúng ta nhớ lại nước
Anh bây giờ chỉ có một loài có vú riêng biệt duy nhất, và Pháp có một số nhưng
khác với những con ở Đức và ngược lại, tương tự như vậy với Hungari, Tây Ban
Nha... nhưng việc mỗi vương quốc có vài loài nhân giống riêng biệt của gia súc,
cừu... chúng ta phải thừa nhận là nhiều loài nhân giống thuần dưỡng có nguồn gốc
từ châu âu; bởi vì từ đâu mà chúng được sinh ra khi mà những nước này không có
những loài riêng biệt chẳng hạn như những con gia súc bố mẹ khác biệt? Như vậy
nó là ở Ấn Độ. Thậm chí trong trường hợp của loài chó nhà trên khắp thế giới,
mà tôi hoàn toàn đã thừa nhận là bắt nguồn từ một vài loài hoang dã, tôi không
hề nghi ngờ là có rất nhiều sự biến đổi được kế thừa. Ai có thể tin là những
con vật gần giống như loài chó đua ở nước Italia, loài chó thính, loài chó Bun,
hay loài ch ó Xpanhơn Blenheim... - không hề có đặc điểm chung với loài Canidac
hoang dã - lại từng tồn tại một cách tự do trong tự nhiên? Mọi người thường nói
một cách thoáng là tất cả các giống chó của chúng ta đã được tạo ra bởi sự lai
ghép của một vài loài nguyên thủy; nhưng khi lai ghép, chúng ta chỉ có thể có
những dạng trung gian giữa bố mẹ chúng; và nếu chúng ta giải thích một vài giống
thuần hóa bởi cách này, chúng ta sẽ phải thừa nhận sự tồn tại trước đó của những
dạng cao nhất; như giống chó đua Italia, chó Thính, chó Bun... trong môi trường
hoang dã. Hơn nữa, xác suất thành công tạo ra một giống khác biệt bởi quá trình
lai ghép đã bị phóng đại quá nhiều. Chắc chắn là một giống mới có thể được biến
đổi bởi những cách lai ghép ngẫu nhiên với sự trợ giúp của quá trình lựa chọn kỹ
càng các con chó giống lai, mà có những đặc điểm mong muốn; nhưng việc một loại
giống có thể có được gần giữa hai giống hay loài khác nhau là điều tôi không thể
tin được. Ngài J Sebright dã làm thí nghiệm cho mục đích này nhưng không thành
công. Đứa con của lần lai ghép đầu tiên từ hai loại giống thuần chủng có thể
nói là tưorng đối, đôi khi hoàn toàn (như tôi tìm thấy ở những con chim bồ
câu), đồng nhất, và mọi thứ dường như là rất đơn giản; nhưng khi những con chó
giống được lai với nhau qua nhiều thế hệ, hai con trong số chúng hầu như rất
khó giống nhau, và tiếp đó là sự khó khăn tột bậc, hay nói đúng hơn là sự vô vọng
của nhiệm vụ đó trở nên rõ ràng. Tất nhiên, một giống trung gian giữa hai loại
giống hoàn toàn khác nhau sẽ không thể có được nếu thiếu sự chăm sóc hết sức cẩn
thận và sự lựa chọn trong một thời gian dài liên tục; cho dù là như thế tôi
cũng không tìm ra một trường hợp nào ghi lại một giống mới được tạo từ quá
trình này.
Quá trình nhân giống những con chim bồ câu tại nhà - Tôi tin rằng cách tốt nhất để nghiên cứu một số nhóm đặc biệt, tôi đã cố tình nhân giống những con chim bồ câu nuôi. Tôi giữ lại mọi con giống mà tôi có thể mua hay có xin được, và đã nhận được sự giúp đỡ tận tình từ khắp mọi miền trên trái đất, nhất là của ông Hon. w. Elliot từ Ấn Độ, và của gia đình Hon. c. Muưay từ Ba Tư. Nhiều bài viết trong các ngôn ngữ khác nhau về chim bồ câu, và có một vài bài rất quan trọng, được coi là tài liệu cổ quý giá. Tôi có tiếp xúc với một vài người có thú nuôi chim bồ câu nổi tiếng, và được phép gia nhập Hiệp hội chim bồ câu London. Tính đa dạng của các giống chim thực là đáng kinh ngạc. Nếu đem so sánh với chim đưa thư của Anh và những con chim bồ câu nhào lộn mặt ngắn, và xem sự khác biệt kỳ diệu ở những cái mỏ của chúng kèm theo với sự khác biệt về cái đầu tương ứng. Loài chim đưa thư, đặc biệt là loài giống đực, cũng thật đặc biệt do sự phát triển của bộ lông mào trên đầu, và nó được kèm theo với mí mắt thon dài với cái miệng rất rộng, tới cái mũi, vòm miệng rộng. Loài chim nhào lộn mặt ngắn có mỏ bên ngoài giống chim sẻ; và loài nhào lộn thông thường có thói quen bay rất cao theo đàn. Đây là đặc tính di truyền khá kỳ lạ; lao vào không trung với đầu trên phần sau của chân. Loài bồ câu gộc rất to lớn với cái mỏ dài khổng lồ và chân to; một vài loại chim bồ câu gộc có cổ khá dài, một số con khác có cánh và đuôi dài, có con thì kỳ lạ là có đuôi ngắn. Loài chim sorn ca lại có họ hàng với loài đưa thư, nhưng thay vì cái mỏ rất dài nó có mỏ rất ngắn và rộng. Loài bồ câu diều to có thân, cánh và chân dài ra nhiều; và bộ diều cực kỳ phát triển của nó, cái mà trông khá hoành tráng khi căng phồng lên, dễ gây sự ngạc nhiên và tức cười. Loài bồ câu đầu bằng có mỏ rất ngắn hình nón, với một đường lông vũ móc ngược xuống ngực; và nó có thói quen liên tục hé mở phần trên của thực quản. Loài chim bồ câu Jacobin có bộ lông vũ ngược suốt dọc phần sau cổ dài đến mức tạo ra hình mũ trùm đầu, và nó có thân hình khá cân đối, cánh và lông đuôi dài. Loài chim bồ câu kèn và loài chim bồ câu cười, như cái tên đã nói lên đặc điểm nổi bật của chúng, phát ra âm thanh gù gù riêng biệt của chúng so với các giống khác. Loài chim bồ câu đuôi quạt có tới ba mươi, thậm chí đôi khi lên bốn mươi lông đuôi, thay vì mười hai hay mười ba lông đuôi thông thường như đại gia đình họ chim bồ câu; và những chiếc lông đuôi nằm vẫn tiếp tục phát triển; và được dựng thẳng đứng đến mức mà đầu chim chạm vào đuôi; tuyến bã nhờn hoàn toàn bị loại bỏ. Những con còn lại kém khác biệt hơn tôi sẽ nói đến vào dịp khác.
Trong bộ xương của một vài giống, sự phát triển xương mặt về chiều dài, chiều rộng và độ cong khác nhau rất lớn. Hình dạng cũng như chiều dài và chiều rộng của sợi lông chim ở hàm dưới, biến đổi đa dạng, số lượng xương sống trong cùng ở phần đuôi cũng không giống nhau; số lượng của xương sườn cũng thế, cùng với khổ khá rộng và sự xuất hiện của những quá trình. Cỡ và hình dạng của độ mở xương ức biến đổi rất nhiều; và cả hai cánh của xương chạc. Chiều rộng của độ mờ của miệng cân đối, chiều dài phù hợp của mí mắt, của độ rộng lỗ mũi, của âm thanh (không phải lúc nào cũng cân đối với chiều dài của mỏ), kích thước của diều và phần trên thực quản; sự phát triển và loại bỏ tuyến bã nhờn; số lượng cánh chính và lông đuôi; chiều dài tương đối của cánh và đuôi so với nhau và so với cơ thể; chiều dài tương đối của chân; số lượng vảy trên ngón chân, sự phát triển của màng da giữa các ngón chân, là tất cả các điểm của cấu trúc cơ thể mà đã biến đổi. Giai đoạn khi bộ lông chim hoàn thiện bắt đầu thay đổi, giống như phần dưới che chở những con chim non khi ấp. Kích cỡ và hình dạng của những quả trứng cũng biến đổi. Cách bay khác nhau đáng kể;và cả âm thanh lẫn cách cấu tạo cơ thể nữa.
Cuối cùng, trong một số giống, con đực và con cái cũng khác nhau đôi chỗ.
Ít nhất, vô số loài chim bồ câu có thể đã được lựa chọn, điều mà nếu trình bày với một nhà nghiên cứu chim, và nói với ông ta rằng chúng là chúng con chim hoang dã, chắc chắn ông ta, tôi nghĩ, sẽ phân loại chúng là loài đã được xác định. Tôi không tin là có một nhà nghiên cứu chim nào lại xếp loài bồ câu đưa thư, bồ câu nhào lộn mặt ngắn, bồ câu gộc, sơn ca, bồ câu diều to, và bồ câu đuôi quạt vào cùng một loài, đặc biệt hơn nữa, khi mà mỗi giống này lại có một số tiểu loài, có thể ông ta gọi chúng là như vậy.
Do những khác biệt lớn như vậy giữa các giống chim bồ câu, tôi hoàn toàn đồng ý với nhận định chung của đại đa số các nhà tự nhiên học là tất cả giống chim bồ câu đều bắt nguồn từ loài bồ câu núi (Columba livia), bao gồm cả các tiểu loài theo khu vực địa lý của nó, những loài mà không khác nhau là bao. Với một số lý do mà đã khiến tôi tin vào nhận định này trong một chừng mực nào đấy cũng đúng trong các trường hợp khác. Tôi sẽ trình bày chúng ngắn gọn ở đây. Nếu một vài giống trên không phải là những biến thể của, hoặc không tiến hóa từ loài bồ câu núi thì chúng phải là con cháu của ít nhất bảy, tám giống chim bồ câu nguyên thủy; bởi vì không thể tạo ra những giống thuần hóa như ngày nay bằng cách lai ghép với số lượng giống ít hơn: chẳng hạn như làm thế nào mà một con chim bồ câu diều to có thể được sinh ra bởi lai ghép hai giống trừ khi một trong hai giống bố mẹ có đặc điểm diều to? Các giống chim nguyên thủy được nói đến tất cả phải là giống bồ câu núi, giống không sinh sản hoặc không thích nghi với việc làm tổ trên cây. Nhưng bên cạnh loài c. livia, với các tiểu loài xét theo khu vực địa lý của nó, chỉ có hai hoặc ba loài chim bồ câu núi khác là được biết đến; và chúng không hề có bất cứ một đặc điểm nào của giống thuần chủng trên. Do vậy, các giống chim nguyên thủy được nói đến phải hoặc là vẫn còn tồn tại ở trong những nước mà chúng ban đầu đã được thuần hóa, nhưng lại chưa được các nhà nghiên cứu chim biết tới; và điều này hoàn toàn là vô lý nếu xét trên kích thước, thói quen và các đặc điểm nổi bật của chúng; hoặc là chúng đã bị tuyệt chủng trong tự nhiên hoang dã. Nhưng những con chim mà sinh sản trên các vách núi và có khả năng sinh tồn tốt rất hiếm khi bi tuyệt chủng; loài chim bồ câu núi thông thường có các tính cách thói quen giống như những giống nuôi trong nhà, không hề bị tuyệt chủng thậm chí ở trên các đảo nhỏ ở nước Anh, hay là trên bờ biển Địa Trung Hải. Do đó nhận định về sự tuyệt chủng của nhiều loài có tính cách, thói quen giống như loài chim bồ câu núi đối với tôi như là một điều quá vội vàng. Hom thế nữa, các giống thuần hóa nói trên đều đã được chuyển đi khắp nơi trên thế giới, và như vậy một vài con trong số chúng chắc đã được mang trở lại đất nước bản địa; nhưng không một con nào trở thành loài chim hoang dã mặc dù loài bồ câu dovecot, thực ra là loài chim bồ câu núi nhưng hơi khác biệt một chút đã trở thành loài bồ câu hoang dã tại một vài nơi. Một lần nữa, tất cả các kinh nghiệm thực tiễn cho thấy điều khó nhất là để khiến cho những động vật hoang dại sinh nở tự nhiên trong điều kiện thuần hóa; nhưng xét trên giả thuyết đa nguồn gốc của loài chim bồ câu, mọi người phải giả định rằng ít nhất bảy hoặc tám loài đã bị thuần hóa hoàn toàn bởi những người tiền sử, bởi vì có thế chúng mới mắn đẻ như vậy trong điều kiện giam cầm.
Một lập luận mà tôi thấy mang tính thuyết phục cao, và có thể áp dụng được cho một vài trường hợp khác, cho là những giống nhắc đến ở trên, mặc dù nói chung giống nhau về thể trạng, thói quen, âm giọng, màu sắc và trong phần lớn các bộ phận trên cơ thể: chúng-ta có thể không bao giờ tìm thấy trong toàn bộ đại gia đình họ chim Columbidae một cái mỏ giống như mỏ của chim bồ câu đưa thư, hay của chim bồ câu nhào lộn mặt ngắn, của chim sơn ca; bộ lông vũ ngược giống như của chim bồ câu Jacobin; bộ diều giống như của loài bồ câu diều to; đuôi lông vũ giống như của chim bồ câu đuôi quạt. Nếu dựa vào lập luận này, chúng ta phải chấp nhận giả thiết là người tiến sử không chỉ đã thành công trong quá trình thuần dưỡng tuyệt đối mà anh ta còn hoặc cổ tình hay vô ý đã chọn được - đó là những loài kỳ diệu - và hơn nữa, tất cả loài này đã không còn tồn tại trên trái đất này nữa hoặc vẫn chưa được mọi người biết tới. Và còn quá nhiều điều ngẫu nhiên mà tôi cảm thấy không thể có được xét trên mức độ cao nhất.
Một vài bằng chứng về màu sắc của những con chim bồ câu cũng đáng được lưu tâm. Loài chim bồ câu núi có màu xanh ngọc và phần sau trắng (tiểu loài Ấn Độ, c. intermedia của Strickland có phần sau màu xanh dương); phần sau của đuôi màu sọc đen, viền ngoài bộ lông màu trắng, cánh có hai vệt màu đen; một số giống bán thuần hóa cùng với một số giống hoàn toàn hoang dã, ngoài đặc điểm có hai vệt đen, cánh của chúng cũng màu đen. Những đặc điểm này không đồng thời xuất hiện trong bất cứ một loài nào khác của đại gia đình chim bồ câu. Giờ đây, trong mỗi giống thuần hóa, bao gồm toàn bộ các con chim được nhân giống tốt, tất cả những đặc điểm nêu trên, thậm chí là cả phần rìa trắng của bộ lông, lại đôi khi xuất hiện cùng lúc và phát triển đến độ hoàn chỉnh. Hơn nữa, khi hai con chim thuộc về hai giống khác biệt được lai ghép với nhau, trong cả hai con, không con nào có màu xanh hay có những đặc điểm nêu trên, nhưng đứa con lai được sinh ra lại đột nhiên dễ có khả năng có các đặc điểm đó; ví dụ: tôi lai giống một vài con chim bồ câu đuôi quạt toàn trắng với một vài con chim sơn ca toàn đen, và chúng sinh ra những đứa con màu đen và lốm đốm nâu. Những con này tôi lại lai giống với nhau và đứa cháu của một con chim bồ câu đuôi quạt hoàn toàn trắng với một con sơn ca hoàn toàn đen lại có bộ lông màu xanh tuyệt đẹp với phần sau trắng, hai vệt đen ở cánh, lông đuôi viền trắng và sọc giống như bất kỳ một con chim bồ câu đá hoang dã nào. Chúng ta có thể hiểu được những thực tế này dựa trên quy luật nổi tiếng về sự quay trở lại các đặc tính của tổ tiên nếu như mọi giống đều có nguồn gốc từ loài chim bồ câu núi. Nhưng nếu chúng ta phủ nhận quy luật này, thì một trong hai giả định được thừa nhận sau đây là vô lý. Giả định thứ nhất là tất cả những giống nguyên thủy được hình dung ra có màu sắc và đặc tính giống loài bồ câu núi, mặc dù không có một loài nào đang tồn tại lại có màu và các đặc trưng đó, để mà trong mỗi giống riêng biệt có xu hướng quay trở lại màu và đặc trưng trên. Giả định thứ .hai là mỗi giống, cho dù là thuần chủng nhất, trong vòng ít nhất mười hai thế hệ (có thể nhiều hơn nữa) đã được nhân giống với chim bồ câu núi, tôi nói là trong vòng mười hai đến hai mươi thế hệ bởi vì chúng ta vẫn chưa thu lượm được bất kỳ bằng chứng nào ủng hộ niềm tin rằng một đứa trẻ đã từng có những đặc điểm giống tổ tiên trước đó nhiều thế hệ. Một loại giống khi chỉ được lai với một vài giống khác thì xu hướng quay trở lại đặc điểm có được từ kết quả của sự lai ghép như vậy một cách tự nhiên sẽ trở nên dần dần yếu đi, bởi vì trong các thế hệ tiếp theo sẽ có ngày càng ít dòng máu ngoại lai nhưng khi không có sự lai ghép nào giữa các giống khác nhau và cả con bố và con mẹ có xu hướng quay về cùng một đặc điểm mà không thấy xuất hiện ở những thế hệ trước, xu hướng này có thể đã được truyền lại cho nhiều thế hệ sau mà không hệ bị suy giảm hay thay đổi. Hai trường hợp khác biệt này thường bị nhầm lẫn trong các bài viết về di truyền.
Cuối cùng những giống lai ghép giữa tất cả các loài bồ câu thuần hóa đều mắn để. Tôi có thể khẳng định điều này dựa trên quan sát của chính bản thân, chủ định nhằm vào những giống khác biệt nhất. Giờ đây tôi rất khó, mà có lẽ là không thể đưa ra một trường hợp đứa con lai giữa hai con vật hoàn toàn khác biệt lại có khả năng sinh sản tốt. Một vài nhà nghiên cửu tin rằng quá trình thuần hóa dài liên tục sẽ xóa bỏ xu hướng vô sinh của loài. Dựa vào thực tế phát triển của loài chó, tôi nghĩ giả định này không phải là vô căn cứ; nó được áp dụng đối với những loài khá gần gũi, cho dù nó không được minh chứng bởi bất kỳ thí nghiệm đơn lẻ nào. Nhưng để phát triển giả thuyết này rộng hom đến mức có thể cho rằng các loài có nguồn gốc nguyên thủy khác biệt như loài chim bồ câu đưa thư, chim bồ câu nhào lộn mặt ngắn, chim bồ câu diều to, và chim bồ câu đuôi quạt, sinh ra những đứa con có khả năng sinh sản tốt, đối với tôi điều này là hom vội vàng.
Từ những lý do này, bao gồm khả năng không thể tồn tại là con người đã có bảy, tám loài chim bồ câu sinh sản tự nhiên trong điều kiện thuần hóa; những loài được cho là tồn tại trong thiên nhiên nhưng chúng ta vẫn chưa biết tới, và không tìm thấy chúng trong tự nhiên, những loài có các đặc trưng vô cùng lạ kỳ, xét trên một vài phương diện nhất định khi đem so sánh với tất cả loài Columbidae, mặc dù lại có nhiều điểm tương đồng trong các mặt khác với loài bồ câu núi, màu xanh và các đặc trưng đa dạng đôi lúc xuất hiện ở hầu hết các con giống, cả hai khi thuần chủng và khi được lai, đứa con lai ghép có khả năng sinh sản tốt; tất cả những lý do này cộng lại, tôi không hề nghi ngờ nhận định là tất cả loài chim bồ câu của chúng ta có nguồn gốc từ loài Columba livia với các tiểu loài theo khu vực địa lý của nó.
Để làm rõ hơn cho quan điểm này, đầu tiên tôi xin nói thêm rằng loài c. livia hay loài chim bồ câu núi có khả năng sống tốt trong điều kiện thuần hóa ở châu âu và Ấn Độ; và rằng chúng có nhiều điểm giống nhau về cả tính cách và cấu trúc với các giống thuần hóa. Thứ hai, mặc dù một con chim bồ câu đưa thư hay một con bồ câu nhào lộn mặt ngắn ở nước Anh khác nhiều, xét về một vài đặc điểm nhất định, so với chim bồ câu núi, nhưng nếu đem so sánh tiểu loài của những giống này, nhất là đối với những con được mang từ các nước xa xôi đến, chúng ta có thể chỉ ra rất nhiều điểm mà giống nhau gần như tuyệt đối giữa hai cấu trúc tường xa lạ. Thứ ba, những đặc điểm mà chủ yếu khác nhau ở mỗi giống, ví dụ như yếm thịt hay độ dài của cái mỏ của giống bồ câu đưa thư, độ ngắn của giống chim nhào lộn, và số lượng lông đuôi của chim bồ câu đuôi quạt, trong mỗi giống rõ ràng là thay đổi; và lời giải thích cho hiện tượng này sẽ trở nên rõ ràng khi chúng ta nói đến sự lựa chọn tự nhiên. Thứ tư, loài chim bồ câu đã được xem xét, nghiên cứu hết sức cẩn thận và được nhiều người yêu thích. Chúng đã được nuôi trong nhà từ hàng ngàn năm nay ở khấp nơi trên thế giới; ghi chép đầu tiên về loài chim bồ câu xuất hiện ở triều đại Ai Cập thứ năm, khoảng năm 3000 trước công nguyên. Chính giáo sư Lepsius đã nói cho tôi về phát hiện này; nhưng ông Birch cho tôi biết rằng loài chim bồ câu đã được nuôi lấy thịt từ triều đại Ai Cập trước. Trong thời đại La Mã, như chúng ta được nghe từ Pliny, giá của thịt chim bồ câu đắt khủng khiếp; "thậm chí chúng còn được ghi chép theo phả hệ một cách cẩn thận". Loài chim bồ câu được Akber Khan Ấn Độ hết sức coi trọng; khoảng năm 1600 trước công nguyên, không bao giờ ít hơn 20.000 con chim bồ câu được thả xung quanh tòa án tối cao. Các nhà lịch sử viết: "Những vị hoàng đế của Iran và Turan gửi cho ông'ta (Akber Khan) một vài con chim quý hiếm. Và khả năng nhân giống những con chim của các vị hoàng đế đã tăng lên đáng kể". Cũng trong khoảng thời gian này, người Hà Lan rất chuộng chim bồ câu giống như những người La Mã cổ đại. Tầm quan trọng rất lớn của những xem xét này trong việc giải thích chủng loại biến thể vô cùng đa dạng mà con chim bồ câu đã trải qua sẽ trở nên rõ ràng khi chúng ta bàn về Sự lựa chọn. Chúng ta cũng sẽ biết làm như thế nào mà những giống này lại thường có đặc điểm kỳ lạ.
Điều kiện thích hợp nhất cho quá trình lai cấy giữa hai giống chim bồ câu riêng rẽ là cả chim bồ câu đực và chim bồ câu cái có thể dễ dàng giao phối trong cả vòng đời; để được như thế, hai giống khác nhau này phải được nhốt trong cùng một cái lồng lớn.
Tôi đã trình bày một số vấn đề liên quan đến nguồn gốc có thể có của loài chim bồ câu thuần hóa mặc dù là tôi vẫn cảm thấy cần viết nhiều hơn nữa; ban đầu, tôi giữ những con bồ câu để theo dõi chúng trong một thời gian nhằm tìm hiểu cách chúng sinh sản như thế nào. Tôi cảm thấy hết sức khó khăn khi phải tin rằng những con bồ câu này là con cháu của một loài giống như kết luận mà bât cứ nhà tự nhiên học nào đã rút ra khi họ nghiên cứu về loài chim họ sẻ hay những nhóm chim lớn trong tự nhiên. Một hiện tượng khiến tôi vô cùng ngạc nhiên là tất cả những người nhân giống các loài vật thuần hóa và người nhân giống cây, những người mà tôi đã có dịp trò chuyện và các bài nghiên cứu của họ tôi đã được đọc, thì đều ủng hộ quan điểm: một vài giống đã được quan sát tìm hiểu một thời gian (thuần hóa) là con cháu của nhiều loài hoang dã. Bạn hãy hỏi, như tôi đã hỏi, một người nuôi bò Hereíbrd lành nghề: liệu những con bò của anh ta có thể bắt nguồn từ giống bò sừng dài hay không, anh ta sẽ cười nhạo bạn đến phát tức cho mà xem. Tôi chưa bao giờ gặp một người nuôi chim bồ câu, gia cầm, vịt hay thỏ, người mà không hoàn toàn bị thuyết phục bởi quan điểm rằng mỗi giống chính có nguồn gốc từ một loài khác biệt. Ông Van Mons, trong bài nghiên cứu của mình về cây lê và cây táo đã tuyên bố rõ ràng ông không cho là một vài loại cây, chang hạn như cây Ribston - pippin hay cây táo Codlin, lại có thể từng phát triển từ cùng một hạt giống. Vô số các ví dụ khác có thể được đưa ra. Lời giải thích tôi nghĩ hết sức đơn giản: Từ kết quả của các cuộc nghiên cứu lâu dài liên tục, những người này bị ảnh hưởng mạnh bởi sự khác biệt giữa vài giống; và mặc dù họ biết rõ ràng mỗi giống chỉ thay đổi chút ít; do chúng sẽ cò khả năng tồn tại tốt hơn nhờ những biến đổi nhỏ đó; nhưng họ lại bỏ qua tất cả các lập luận cơ bản và từ chối không tổng kết trong trí óc họ những khác biệt nhỏ được tích tụ dần qua nhiều thế hệ kế tiếp. Liệu những nhà tự nhiên học, người biết ít hơn nhiều về các quy luật di truyền so với người nhân giống, và cũng chẳng biết nhều hơn về mối quan hệ trung gian trong dây truyền dòng giống, lại không thừa nhận nhiều giống thuần hóa của chúng ta cùng được sinh ra bởi một bố mẹ chung - Có phải họ không rút ra được bải học về tính cẩn thận khi họ chế nhạo quan điểm nhiều loài trong tự nhiên là trực hệ của nhiều loài khác?
Sự lựa chọn - Bây giờ chúng ta hãy xem xét các bước mà nhiều giống nuôi trong nhà được phát triển, từ một hay một vài chi họ hàng gần gũi. Một số ảnh hưởng nhỏ có lẽ trực tiếp là do điều kiện sống bên ngoài và cả các thói quen không điển hình, nhưng anh ta chắc hẳn phải là người dũng cảm khi giải thích những điểm khác nhau giữa giống ngựa kéo xe và giống ngựa đua, giống chó đua và giống chó thính, giống chim bồ câu đưa thư và giống chim bồ câu nhào lộn bởi tác nhân dạng này. Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của các giống thuần chủng là khả năng thích nghi, mặc dù khả năng này không thực sự tốt cho chúng nhưng lại mang đến lợi ích cho con người. Một vài biến thể dần dần hoặc bỗng chốc trở nên có ích đối với con người. Ví dụ, giới thực vật học tin là cây túc đoạn với những cái móc của nó, không một công cụ máy móc nào có thể so sánh với cái móc này cả về cấu tạo lẫn tính năng, chi là một biến thể của loài Dipsacus hoang dại; và sự thay đổi này đột nhiên xuất hiện trong cây con giống. Quá trình này cũng có thể đã xảy ra với loài cho quay thịt nướng và cả đối với trường hợp cừu. Nhưng khi chúng ta so sánh giống ngựa đUa với giống ngựa kéo xe, giống lạc đà một bướu với giống lạc đà hai bướu, những giống cừu khác nhau, loại phù hợp nuôi trên đất canh tác với loại thích nghi trên đồng cỏ thảo nguyên trong đó bộ lông của mỗi loài được sử dụng cho các mục đích khác nhau của con người; khi chúng ta so sánh những giống chó, mỗi giống có ích lợi riêng đối với con người; khi chúng ta so sánh giống gà chọi, loài vật tỏ ra dữ dội trong cuộc đấu, với các giống gà khác gây ra chút phiền phức, với giống "gà luôn luôn đẻ Trứng" không bao giờ muốn nghỉ, và với giống gà bantam rất nhỏ bé nhưng lại vô cùng duyên dáng; khi chúng ta so sánh những động, thực vật ký sinh tại vườn cây ăn quả và vườn hoa, chúng mang lại khá nhiều ích lợi cho con người ở các mùa khác nhau và ở những mục đích khác nhau, chẳng hạn như một vườn hoa vô cùng tươi đẹp; chúng ta, tôi nghĩ, phải nhìn xa hơn chứ không chỉ là mỗi tính biến đổi. Chúng ta không thể giả định rằng tất cả các giống loài đột nhiên được sinh ra đã hoàn hảo và hữu ích như ngày nay; thật vậy, quá trình lịch sử phát triển của vài loài đã chứng minh điều này. Chìa khóa giải đáp nằm c sức mạnh của con người đối với quá trình lựa chọn mang tính tích lũy: tự nhiên mang đến những biến đổi liên tục; con người thêm vào các biến đổi đó những đặc tính theo chiều hướng có lợi cho bản thân.
Quá trình nhân giống những con chim bồ câu tại nhà - Tôi tin rằng cách tốt nhất để nghiên cứu một số nhóm đặc biệt, tôi đã cố tình nhân giống những con chim bồ câu nuôi. Tôi giữ lại mọi con giống mà tôi có thể mua hay có xin được, và đã nhận được sự giúp đỡ tận tình từ khắp mọi miền trên trái đất, nhất là của ông Hon. w. Elliot từ Ấn Độ, và của gia đình Hon. c. Muưay từ Ba Tư. Nhiều bài viết trong các ngôn ngữ khác nhau về chim bồ câu, và có một vài bài rất quan trọng, được coi là tài liệu cổ quý giá. Tôi có tiếp xúc với một vài người có thú nuôi chim bồ câu nổi tiếng, và được phép gia nhập Hiệp hội chim bồ câu London. Tính đa dạng của các giống chim thực là đáng kinh ngạc. Nếu đem so sánh với chim đưa thư của Anh và những con chim bồ câu nhào lộn mặt ngắn, và xem sự khác biệt kỳ diệu ở những cái mỏ của chúng kèm theo với sự khác biệt về cái đầu tương ứng. Loài chim đưa thư, đặc biệt là loài giống đực, cũng thật đặc biệt do sự phát triển của bộ lông mào trên đầu, và nó được kèm theo với mí mắt thon dài với cái miệng rất rộng, tới cái mũi, vòm miệng rộng. Loài chim nhào lộn mặt ngắn có mỏ bên ngoài giống chim sẻ; và loài nhào lộn thông thường có thói quen bay rất cao theo đàn. Đây là đặc tính di truyền khá kỳ lạ; lao vào không trung với đầu trên phần sau của chân. Loài bồ câu gộc rất to lớn với cái mỏ dài khổng lồ và chân to; một vài loại chim bồ câu gộc có cổ khá dài, một số con khác có cánh và đuôi dài, có con thì kỳ lạ là có đuôi ngắn. Loài chim sorn ca lại có họ hàng với loài đưa thư, nhưng thay vì cái mỏ rất dài nó có mỏ rất ngắn và rộng. Loài bồ câu diều to có thân, cánh và chân dài ra nhiều; và bộ diều cực kỳ phát triển của nó, cái mà trông khá hoành tráng khi căng phồng lên, dễ gây sự ngạc nhiên và tức cười. Loài bồ câu đầu bằng có mỏ rất ngắn hình nón, với một đường lông vũ móc ngược xuống ngực; và nó có thói quen liên tục hé mở phần trên của thực quản. Loài chim bồ câu Jacobin có bộ lông vũ ngược suốt dọc phần sau cổ dài đến mức tạo ra hình mũ trùm đầu, và nó có thân hình khá cân đối, cánh và lông đuôi dài. Loài chim bồ câu kèn và loài chim bồ câu cười, như cái tên đã nói lên đặc điểm nổi bật của chúng, phát ra âm thanh gù gù riêng biệt của chúng so với các giống khác. Loài chim bồ câu đuôi quạt có tới ba mươi, thậm chí đôi khi lên bốn mươi lông đuôi, thay vì mười hai hay mười ba lông đuôi thông thường như đại gia đình họ chim bồ câu; và những chiếc lông đuôi nằm vẫn tiếp tục phát triển; và được dựng thẳng đứng đến mức mà đầu chim chạm vào đuôi; tuyến bã nhờn hoàn toàn bị loại bỏ. Những con còn lại kém khác biệt hơn tôi sẽ nói đến vào dịp khác.
Trong bộ xương của một vài giống, sự phát triển xương mặt về chiều dài, chiều rộng và độ cong khác nhau rất lớn. Hình dạng cũng như chiều dài và chiều rộng của sợi lông chim ở hàm dưới, biến đổi đa dạng, số lượng xương sống trong cùng ở phần đuôi cũng không giống nhau; số lượng của xương sườn cũng thế, cùng với khổ khá rộng và sự xuất hiện của những quá trình. Cỡ và hình dạng của độ mở xương ức biến đổi rất nhiều; và cả hai cánh của xương chạc. Chiều rộng của độ mờ của miệng cân đối, chiều dài phù hợp của mí mắt, của độ rộng lỗ mũi, của âm thanh (không phải lúc nào cũng cân đối với chiều dài của mỏ), kích thước của diều và phần trên thực quản; sự phát triển và loại bỏ tuyến bã nhờn; số lượng cánh chính và lông đuôi; chiều dài tương đối của cánh và đuôi so với nhau và so với cơ thể; chiều dài tương đối của chân; số lượng vảy trên ngón chân, sự phát triển của màng da giữa các ngón chân, là tất cả các điểm của cấu trúc cơ thể mà đã biến đổi. Giai đoạn khi bộ lông chim hoàn thiện bắt đầu thay đổi, giống như phần dưới che chở những con chim non khi ấp. Kích cỡ và hình dạng của những quả trứng cũng biến đổi. Cách bay khác nhau đáng kể;và cả âm thanh lẫn cách cấu tạo cơ thể nữa.
Cuối cùng, trong một số giống, con đực và con cái cũng khác nhau đôi chỗ.
Ít nhất, vô số loài chim bồ câu có thể đã được lựa chọn, điều mà nếu trình bày với một nhà nghiên cứu chim, và nói với ông ta rằng chúng là chúng con chim hoang dã, chắc chắn ông ta, tôi nghĩ, sẽ phân loại chúng là loài đã được xác định. Tôi không tin là có một nhà nghiên cứu chim nào lại xếp loài bồ câu đưa thư, bồ câu nhào lộn mặt ngắn, bồ câu gộc, sơn ca, bồ câu diều to, và bồ câu đuôi quạt vào cùng một loài, đặc biệt hơn nữa, khi mà mỗi giống này lại có một số tiểu loài, có thể ông ta gọi chúng là như vậy.
Do những khác biệt lớn như vậy giữa các giống chim bồ câu, tôi hoàn toàn đồng ý với nhận định chung của đại đa số các nhà tự nhiên học là tất cả giống chim bồ câu đều bắt nguồn từ loài bồ câu núi (Columba livia), bao gồm cả các tiểu loài theo khu vực địa lý của nó, những loài mà không khác nhau là bao. Với một số lý do mà đã khiến tôi tin vào nhận định này trong một chừng mực nào đấy cũng đúng trong các trường hợp khác. Tôi sẽ trình bày chúng ngắn gọn ở đây. Nếu một vài giống trên không phải là những biến thể của, hoặc không tiến hóa từ loài bồ câu núi thì chúng phải là con cháu của ít nhất bảy, tám giống chim bồ câu nguyên thủy; bởi vì không thể tạo ra những giống thuần hóa như ngày nay bằng cách lai ghép với số lượng giống ít hơn: chẳng hạn như làm thế nào mà một con chim bồ câu diều to có thể được sinh ra bởi lai ghép hai giống trừ khi một trong hai giống bố mẹ có đặc điểm diều to? Các giống chim nguyên thủy được nói đến tất cả phải là giống bồ câu núi, giống không sinh sản hoặc không thích nghi với việc làm tổ trên cây. Nhưng bên cạnh loài c. livia, với các tiểu loài xét theo khu vực địa lý của nó, chỉ có hai hoặc ba loài chim bồ câu núi khác là được biết đến; và chúng không hề có bất cứ một đặc điểm nào của giống thuần chủng trên. Do vậy, các giống chim nguyên thủy được nói đến phải hoặc là vẫn còn tồn tại ở trong những nước mà chúng ban đầu đã được thuần hóa, nhưng lại chưa được các nhà nghiên cứu chim biết tới; và điều này hoàn toàn là vô lý nếu xét trên kích thước, thói quen và các đặc điểm nổi bật của chúng; hoặc là chúng đã bị tuyệt chủng trong tự nhiên hoang dã. Nhưng những con chim mà sinh sản trên các vách núi và có khả năng sinh tồn tốt rất hiếm khi bi tuyệt chủng; loài chim bồ câu núi thông thường có các tính cách thói quen giống như những giống nuôi trong nhà, không hề bị tuyệt chủng thậm chí ở trên các đảo nhỏ ở nước Anh, hay là trên bờ biển Địa Trung Hải. Do đó nhận định về sự tuyệt chủng của nhiều loài có tính cách, thói quen giống như loài chim bồ câu núi đối với tôi như là một điều quá vội vàng. Hom thế nữa, các giống thuần hóa nói trên đều đã được chuyển đi khắp nơi trên thế giới, và như vậy một vài con trong số chúng chắc đã được mang trở lại đất nước bản địa; nhưng không một con nào trở thành loài chim hoang dã mặc dù loài bồ câu dovecot, thực ra là loài chim bồ câu núi nhưng hơi khác biệt một chút đã trở thành loài bồ câu hoang dã tại một vài nơi. Một lần nữa, tất cả các kinh nghiệm thực tiễn cho thấy điều khó nhất là để khiến cho những động vật hoang dại sinh nở tự nhiên trong điều kiện thuần hóa; nhưng xét trên giả thuyết đa nguồn gốc của loài chim bồ câu, mọi người phải giả định rằng ít nhất bảy hoặc tám loài đã bị thuần hóa hoàn toàn bởi những người tiền sử, bởi vì có thế chúng mới mắn đẻ như vậy trong điều kiện giam cầm.
Một lập luận mà tôi thấy mang tính thuyết phục cao, và có thể áp dụng được cho một vài trường hợp khác, cho là những giống nhắc đến ở trên, mặc dù nói chung giống nhau về thể trạng, thói quen, âm giọng, màu sắc và trong phần lớn các bộ phận trên cơ thể: chúng-ta có thể không bao giờ tìm thấy trong toàn bộ đại gia đình họ chim Columbidae một cái mỏ giống như mỏ của chim bồ câu đưa thư, hay của chim bồ câu nhào lộn mặt ngắn, của chim sơn ca; bộ lông vũ ngược giống như của chim bồ câu Jacobin; bộ diều giống như của loài bồ câu diều to; đuôi lông vũ giống như của chim bồ câu đuôi quạt. Nếu dựa vào lập luận này, chúng ta phải chấp nhận giả thiết là người tiến sử không chỉ đã thành công trong quá trình thuần dưỡng tuyệt đối mà anh ta còn hoặc cổ tình hay vô ý đã chọn được - đó là những loài kỳ diệu - và hơn nữa, tất cả loài này đã không còn tồn tại trên trái đất này nữa hoặc vẫn chưa được mọi người biết tới. Và còn quá nhiều điều ngẫu nhiên mà tôi cảm thấy không thể có được xét trên mức độ cao nhất.
Một vài bằng chứng về màu sắc của những con chim bồ câu cũng đáng được lưu tâm. Loài chim bồ câu núi có màu xanh ngọc và phần sau trắng (tiểu loài Ấn Độ, c. intermedia của Strickland có phần sau màu xanh dương); phần sau của đuôi màu sọc đen, viền ngoài bộ lông màu trắng, cánh có hai vệt màu đen; một số giống bán thuần hóa cùng với một số giống hoàn toàn hoang dã, ngoài đặc điểm có hai vệt đen, cánh của chúng cũng màu đen. Những đặc điểm này không đồng thời xuất hiện trong bất cứ một loài nào khác của đại gia đình chim bồ câu. Giờ đây, trong mỗi giống thuần hóa, bao gồm toàn bộ các con chim được nhân giống tốt, tất cả những đặc điểm nêu trên, thậm chí là cả phần rìa trắng của bộ lông, lại đôi khi xuất hiện cùng lúc và phát triển đến độ hoàn chỉnh. Hơn nữa, khi hai con chim thuộc về hai giống khác biệt được lai ghép với nhau, trong cả hai con, không con nào có màu xanh hay có những đặc điểm nêu trên, nhưng đứa con lai được sinh ra lại đột nhiên dễ có khả năng có các đặc điểm đó; ví dụ: tôi lai giống một vài con chim bồ câu đuôi quạt toàn trắng với một vài con chim sơn ca toàn đen, và chúng sinh ra những đứa con màu đen và lốm đốm nâu. Những con này tôi lại lai giống với nhau và đứa cháu của một con chim bồ câu đuôi quạt hoàn toàn trắng với một con sơn ca hoàn toàn đen lại có bộ lông màu xanh tuyệt đẹp với phần sau trắng, hai vệt đen ở cánh, lông đuôi viền trắng và sọc giống như bất kỳ một con chim bồ câu đá hoang dã nào. Chúng ta có thể hiểu được những thực tế này dựa trên quy luật nổi tiếng về sự quay trở lại các đặc tính của tổ tiên nếu như mọi giống đều có nguồn gốc từ loài chim bồ câu núi. Nhưng nếu chúng ta phủ nhận quy luật này, thì một trong hai giả định được thừa nhận sau đây là vô lý. Giả định thứ nhất là tất cả những giống nguyên thủy được hình dung ra có màu sắc và đặc tính giống loài bồ câu núi, mặc dù không có một loài nào đang tồn tại lại có màu và các đặc trưng đó, để mà trong mỗi giống riêng biệt có xu hướng quay trở lại màu và đặc trưng trên. Giả định thứ .hai là mỗi giống, cho dù là thuần chủng nhất, trong vòng ít nhất mười hai thế hệ (có thể nhiều hơn nữa) đã được nhân giống với chim bồ câu núi, tôi nói là trong vòng mười hai đến hai mươi thế hệ bởi vì chúng ta vẫn chưa thu lượm được bất kỳ bằng chứng nào ủng hộ niềm tin rằng một đứa trẻ đã từng có những đặc điểm giống tổ tiên trước đó nhiều thế hệ. Một loại giống khi chỉ được lai với một vài giống khác thì xu hướng quay trở lại đặc điểm có được từ kết quả của sự lai ghép như vậy một cách tự nhiên sẽ trở nên dần dần yếu đi, bởi vì trong các thế hệ tiếp theo sẽ có ngày càng ít dòng máu ngoại lai nhưng khi không có sự lai ghép nào giữa các giống khác nhau và cả con bố và con mẹ có xu hướng quay về cùng một đặc điểm mà không thấy xuất hiện ở những thế hệ trước, xu hướng này có thể đã được truyền lại cho nhiều thế hệ sau mà không hệ bị suy giảm hay thay đổi. Hai trường hợp khác biệt này thường bị nhầm lẫn trong các bài viết về di truyền.
Cuối cùng những giống lai ghép giữa tất cả các loài bồ câu thuần hóa đều mắn để. Tôi có thể khẳng định điều này dựa trên quan sát của chính bản thân, chủ định nhằm vào những giống khác biệt nhất. Giờ đây tôi rất khó, mà có lẽ là không thể đưa ra một trường hợp đứa con lai giữa hai con vật hoàn toàn khác biệt lại có khả năng sinh sản tốt. Một vài nhà nghiên cửu tin rằng quá trình thuần hóa dài liên tục sẽ xóa bỏ xu hướng vô sinh của loài. Dựa vào thực tế phát triển của loài chó, tôi nghĩ giả định này không phải là vô căn cứ; nó được áp dụng đối với những loài khá gần gũi, cho dù nó không được minh chứng bởi bất kỳ thí nghiệm đơn lẻ nào. Nhưng để phát triển giả thuyết này rộng hom đến mức có thể cho rằng các loài có nguồn gốc nguyên thủy khác biệt như loài chim bồ câu đưa thư, chim bồ câu nhào lộn mặt ngắn, chim bồ câu diều to, và chim bồ câu đuôi quạt, sinh ra những đứa con có khả năng sinh sản tốt, đối với tôi điều này là hom vội vàng.
Từ những lý do này, bao gồm khả năng không thể tồn tại là con người đã có bảy, tám loài chim bồ câu sinh sản tự nhiên trong điều kiện thuần hóa; những loài được cho là tồn tại trong thiên nhiên nhưng chúng ta vẫn chưa biết tới, và không tìm thấy chúng trong tự nhiên, những loài có các đặc trưng vô cùng lạ kỳ, xét trên một vài phương diện nhất định khi đem so sánh với tất cả loài Columbidae, mặc dù lại có nhiều điểm tương đồng trong các mặt khác với loài bồ câu núi, màu xanh và các đặc trưng đa dạng đôi lúc xuất hiện ở hầu hết các con giống, cả hai khi thuần chủng và khi được lai, đứa con lai ghép có khả năng sinh sản tốt; tất cả những lý do này cộng lại, tôi không hề nghi ngờ nhận định là tất cả loài chim bồ câu của chúng ta có nguồn gốc từ loài Columba livia với các tiểu loài theo khu vực địa lý của nó.
Để làm rõ hơn cho quan điểm này, đầu tiên tôi xin nói thêm rằng loài c. livia hay loài chim bồ câu núi có khả năng sống tốt trong điều kiện thuần hóa ở châu âu và Ấn Độ; và rằng chúng có nhiều điểm giống nhau về cả tính cách và cấu trúc với các giống thuần hóa. Thứ hai, mặc dù một con chim bồ câu đưa thư hay một con bồ câu nhào lộn mặt ngắn ở nước Anh khác nhiều, xét về một vài đặc điểm nhất định, so với chim bồ câu núi, nhưng nếu đem so sánh tiểu loài của những giống này, nhất là đối với những con được mang từ các nước xa xôi đến, chúng ta có thể chỉ ra rất nhiều điểm mà giống nhau gần như tuyệt đối giữa hai cấu trúc tường xa lạ. Thứ ba, những đặc điểm mà chủ yếu khác nhau ở mỗi giống, ví dụ như yếm thịt hay độ dài của cái mỏ của giống bồ câu đưa thư, độ ngắn của giống chim nhào lộn, và số lượng lông đuôi của chim bồ câu đuôi quạt, trong mỗi giống rõ ràng là thay đổi; và lời giải thích cho hiện tượng này sẽ trở nên rõ ràng khi chúng ta nói đến sự lựa chọn tự nhiên. Thứ tư, loài chim bồ câu đã được xem xét, nghiên cứu hết sức cẩn thận và được nhiều người yêu thích. Chúng đã được nuôi trong nhà từ hàng ngàn năm nay ở khấp nơi trên thế giới; ghi chép đầu tiên về loài chim bồ câu xuất hiện ở triều đại Ai Cập thứ năm, khoảng năm 3000 trước công nguyên. Chính giáo sư Lepsius đã nói cho tôi về phát hiện này; nhưng ông Birch cho tôi biết rằng loài chim bồ câu đã được nuôi lấy thịt từ triều đại Ai Cập trước. Trong thời đại La Mã, như chúng ta được nghe từ Pliny, giá của thịt chim bồ câu đắt khủng khiếp; "thậm chí chúng còn được ghi chép theo phả hệ một cách cẩn thận". Loài chim bồ câu được Akber Khan Ấn Độ hết sức coi trọng; khoảng năm 1600 trước công nguyên, không bao giờ ít hơn 20.000 con chim bồ câu được thả xung quanh tòa án tối cao. Các nhà lịch sử viết: "Những vị hoàng đế của Iran và Turan gửi cho ông'ta (Akber Khan) một vài con chim quý hiếm. Và khả năng nhân giống những con chim của các vị hoàng đế đã tăng lên đáng kể". Cũng trong khoảng thời gian này, người Hà Lan rất chuộng chim bồ câu giống như những người La Mã cổ đại. Tầm quan trọng rất lớn của những xem xét này trong việc giải thích chủng loại biến thể vô cùng đa dạng mà con chim bồ câu đã trải qua sẽ trở nên rõ ràng khi chúng ta bàn về Sự lựa chọn. Chúng ta cũng sẽ biết làm như thế nào mà những giống này lại thường có đặc điểm kỳ lạ.
Điều kiện thích hợp nhất cho quá trình lai cấy giữa hai giống chim bồ câu riêng rẽ là cả chim bồ câu đực và chim bồ câu cái có thể dễ dàng giao phối trong cả vòng đời; để được như thế, hai giống khác nhau này phải được nhốt trong cùng một cái lồng lớn.
Tôi đã trình bày một số vấn đề liên quan đến nguồn gốc có thể có của loài chim bồ câu thuần hóa mặc dù là tôi vẫn cảm thấy cần viết nhiều hơn nữa; ban đầu, tôi giữ những con bồ câu để theo dõi chúng trong một thời gian nhằm tìm hiểu cách chúng sinh sản như thế nào. Tôi cảm thấy hết sức khó khăn khi phải tin rằng những con bồ câu này là con cháu của một loài giống như kết luận mà bât cứ nhà tự nhiên học nào đã rút ra khi họ nghiên cứu về loài chim họ sẻ hay những nhóm chim lớn trong tự nhiên. Một hiện tượng khiến tôi vô cùng ngạc nhiên là tất cả những người nhân giống các loài vật thuần hóa và người nhân giống cây, những người mà tôi đã có dịp trò chuyện và các bài nghiên cứu của họ tôi đã được đọc, thì đều ủng hộ quan điểm: một vài giống đã được quan sát tìm hiểu một thời gian (thuần hóa) là con cháu của nhiều loài hoang dã. Bạn hãy hỏi, như tôi đã hỏi, một người nuôi bò Hereíbrd lành nghề: liệu những con bò của anh ta có thể bắt nguồn từ giống bò sừng dài hay không, anh ta sẽ cười nhạo bạn đến phát tức cho mà xem. Tôi chưa bao giờ gặp một người nuôi chim bồ câu, gia cầm, vịt hay thỏ, người mà không hoàn toàn bị thuyết phục bởi quan điểm rằng mỗi giống chính có nguồn gốc từ một loài khác biệt. Ông Van Mons, trong bài nghiên cứu của mình về cây lê và cây táo đã tuyên bố rõ ràng ông không cho là một vài loại cây, chang hạn như cây Ribston - pippin hay cây táo Codlin, lại có thể từng phát triển từ cùng một hạt giống. Vô số các ví dụ khác có thể được đưa ra. Lời giải thích tôi nghĩ hết sức đơn giản: Từ kết quả của các cuộc nghiên cứu lâu dài liên tục, những người này bị ảnh hưởng mạnh bởi sự khác biệt giữa vài giống; và mặc dù họ biết rõ ràng mỗi giống chỉ thay đổi chút ít; do chúng sẽ cò khả năng tồn tại tốt hơn nhờ những biến đổi nhỏ đó; nhưng họ lại bỏ qua tất cả các lập luận cơ bản và từ chối không tổng kết trong trí óc họ những khác biệt nhỏ được tích tụ dần qua nhiều thế hệ kế tiếp. Liệu những nhà tự nhiên học, người biết ít hơn nhiều về các quy luật di truyền so với người nhân giống, và cũng chẳng biết nhều hơn về mối quan hệ trung gian trong dây truyền dòng giống, lại không thừa nhận nhiều giống thuần hóa của chúng ta cùng được sinh ra bởi một bố mẹ chung - Có phải họ không rút ra được bải học về tính cẩn thận khi họ chế nhạo quan điểm nhiều loài trong tự nhiên là trực hệ của nhiều loài khác?
Sự lựa chọn - Bây giờ chúng ta hãy xem xét các bước mà nhiều giống nuôi trong nhà được phát triển, từ một hay một vài chi họ hàng gần gũi. Một số ảnh hưởng nhỏ có lẽ trực tiếp là do điều kiện sống bên ngoài và cả các thói quen không điển hình, nhưng anh ta chắc hẳn phải là người dũng cảm khi giải thích những điểm khác nhau giữa giống ngựa kéo xe và giống ngựa đua, giống chó đua và giống chó thính, giống chim bồ câu đưa thư và giống chim bồ câu nhào lộn bởi tác nhân dạng này. Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của các giống thuần chủng là khả năng thích nghi, mặc dù khả năng này không thực sự tốt cho chúng nhưng lại mang đến lợi ích cho con người. Một vài biến thể dần dần hoặc bỗng chốc trở nên có ích đối với con người. Ví dụ, giới thực vật học tin là cây túc đoạn với những cái móc của nó, không một công cụ máy móc nào có thể so sánh với cái móc này cả về cấu tạo lẫn tính năng, chi là một biến thể của loài Dipsacus hoang dại; và sự thay đổi này đột nhiên xuất hiện trong cây con giống. Quá trình này cũng có thể đã xảy ra với loài cho quay thịt nướng và cả đối với trường hợp cừu. Nhưng khi chúng ta so sánh giống ngựa đUa với giống ngựa kéo xe, giống lạc đà một bướu với giống lạc đà hai bướu, những giống cừu khác nhau, loại phù hợp nuôi trên đất canh tác với loại thích nghi trên đồng cỏ thảo nguyên trong đó bộ lông của mỗi loài được sử dụng cho các mục đích khác nhau của con người; khi chúng ta so sánh những giống chó, mỗi giống có ích lợi riêng đối với con người; khi chúng ta so sánh giống gà chọi, loài vật tỏ ra dữ dội trong cuộc đấu, với các giống gà khác gây ra chút phiền phức, với giống "gà luôn luôn đẻ Trứng" không bao giờ muốn nghỉ, và với giống gà bantam rất nhỏ bé nhưng lại vô cùng duyên dáng; khi chúng ta so sánh những động, thực vật ký sinh tại vườn cây ăn quả và vườn hoa, chúng mang lại khá nhiều ích lợi cho con người ở các mùa khác nhau và ở những mục đích khác nhau, chẳng hạn như một vườn hoa vô cùng tươi đẹp; chúng ta, tôi nghĩ, phải nhìn xa hơn chứ không chỉ là mỗi tính biến đổi. Chúng ta không thể giả định rằng tất cả các giống loài đột nhiên được sinh ra đã hoàn hảo và hữu ích như ngày nay; thật vậy, quá trình lịch sử phát triển của vài loài đã chứng minh điều này. Chìa khóa giải đáp nằm c sức mạnh của con người đối với quá trình lựa chọn mang tính tích lũy: tự nhiên mang đến những biến đổi liên tục; con người thêm vào các biến đổi đó những đặc tính theo chiều hướng có lợi cho bản thân.
Sức mạnh to lớn của nguyên lý lựa chọn không phải mang tính
giải thuyết. Một điều chắc chắn rằng những nhà nhân giống tài ba của chúng ta,
thậm chí trong một vòng đời, đã biến đổi khá nhiều đặc điểm của giống bồ câu và
cừu. Để hiểu được cặn kẽ những điều mà họ đã làm, bạn cần phải đọc bài viết về
chủ đề và nghiên cứu những con vật đó. Những người nhân giống, theo thói quen,
thường nói về tổ chức của một động vật như là một thứ gì đó có thể thay đổi dễ
dàng, và họ không gặp khó khăn gì khi muốn "nhào nặn" nó theo ý thích
của mình. Nếu tôi có được nhiều thời gian và giấy mực hơn nữa, tôi sẽ dẫn ra vô
số các đoạn viết bởi các nhà khoa học danh tiếng nói đến khả n&ng này. Ông
Youatt, người có lẽ là quen thuộc với công việc của một nhà nông nghiệp học hơn
bất cứ ai, và đồng thời là người có những nhận xét khá chính xác về động vật,
nói đến nguyên lý lựa chọn như là "thứ không chỉ cho phép các nhà nông
nghiệp học biến đổi đặc điểm của các con gia súc mà còn thay đổi nó hoàn toàn.
Nguyên lý là cây đũa thần. Với nó anh ta có thể tạo ra trên đời bất cứ khuôn dạng
nào mà anh ta muốn". Bá tước Somerville, khi miêu tả những gì mà người
nhân giống thực hiện trên loài con cừu, nói "Dường như là họ đúc ra một
hình dạng mong muốn và sau đó thổi luồng sinh khi vào nó." Điều mà những
nhà nhân giống lành nghề nhất như ngài John Sebright, thường nói, đối với loài
chim bồ câu, là "họ có thể tạo bất cứ bộ lông mong muốn nào trong vòng 3
năm nhưng sẽ mất 6 năm để họ tạo ra cái đầu và cái mỏ." Tại vùng Saxony, tầm
quan họng của nguyên lý lựa chọn đối với cừu mêrinô được mọi người hiểu rõ tới
mức họ tuân thủ nó như là một nguyên tắc của thưcmg mại: cừu được đặt trên mặt
bàn và được nghiên cứu giống như người am hiểu hội họa ngắm nhìn một bức tranh,
cuộc nghiên cứu dạng này diễn ra ba lần trong các khoảng thời gian nghỉ ngơi của
các tháng; và những con cừu này sẽ được đánh dấu và phân loại để tìm ra con tốt
nhất cho quá trình phối giống.
Thành công của các nhà nhân giống người Anh được chứng tỏ thông qua sự trả giá rất cao cho những con giống tốt; và giờ đây, những con này đã được xuất khi đi khắp mọi nơi trên thế giới. Những con giống tốt không hề là sản phẩm phối giống giữa 2 giống khác nhau; tất cả các nhà nhân giống giỏi nhất đều chống lại quan niệm này, trừ một vài trường hợp tiểu giống có quan hệ họ hàng gần gũi. Và khi một sự phối giống được tiến hành sự lựa chọn gần nhất là không thể thiếu được, thậm chí trong cả các trường hợp thông thường. Nếu sự lựa chọn chỉ xảy ra ở biến thể rất khác biệt, và nhân giống biến thể này thì nguyên lý hoàn toàn đúng tới mức mà không hề gây ra sự chú ý nào; nhưng tầm quan trọng của nó nằm ở sự ảnh hưởng lớn tạo ra bởi quá trình tích tụ theo một chiều hướng, trong suốt các thế hệ kế tiếp, của các điểm khác biệt không hề đáng kể đối với những người kém hiểu biết - những điểm khác biệt mà tôi đã từng cố nêu bật nhưng không thành công. Không một ai trong số hàng nghìn người có con mắt tinh tường và sự nhận xét xác đáng để trở thành một nhà nhân giống xuất sắc. Nếu được Chúa ban cho các phẩm chất đó, và anh ta dành nhiều thời gian cũng như công sức để nghiên cứu chủ đề này, thì anh ta sẽ thành công, và có được sự tiến bộ to lớn; nếu anh ta thiếu bất cứ một trong những phẩm chất trên, anh ta sẽ không tránh khỏi sự thất bại. Rất ít người sẵn sàng tin vào khả năng của tự nhiên và những năm tháng của lao động cần thiết để trở thành thậm chí chỉ là một giống chim bồ câu khéo léo.
Nguyên lý tương tự cũng được những nhà làm vườn tuân theo; nhưng sự biến đổi ở đây thường bất ngờ hơn. Không ai cho rằng những sản phẩm tốt nhất của chúng ta được sản xuất bởi một biến thể duy nhất của giống nguyên thủy. Chủng ta có bằng chứng là điều này không đúng trong một số trường hợp mà trong đó các ghi chép chính xác chi tiết vẫn được giữ lại; nhờ đó đưa ra được một ví dụ nhưng rất mờ nhạt: sự tăng kích cỡ liên tục của cây gai lý có thể được dẫn ra. Chủng ta tìm thấy rất nhiều cải thiện đáng kinh ngạc trong các giống của người trồng hoa, khi những giống hoa ngày nay được mang đem so sánh với những cây hoa trong tranh vẽ từ 20 hay 30 năm về trước. Khi một giống hoa đã được tạo ra khả hoàn chỉnh, người gieo giống không chọn ra những cây tốt nhất mà thay vào đó, anh ta sẽ đi xem xét cả vườn hoa rồi nhổ bỏ đi những "cây hoa xấu" - như cách mà họ vẫn thường gọi những bông hoa không đạt tiêu chuẩn.
Đối với động vật, phương pháp này cũng được áp dụng trong thực tiễn; bởi vì hiếm ai lại bất cẩn đến mức nhân giống những con có chất lượng tồi. Đối với các loài cây, có một cách khác để quan sát những thay đổi tích tụ của Sự lựa chọn - cụ thể là bằng cách so sánh sự đa dạng của những bông hoa trong các biến thể khác nhau của cùng một loài trong vườn hoa; sự đa dạng của lá, vỏ, củ hay bất cứ phần nào có giá trị khác của trong vườn rau, so với những cây cùng loài; và sự đa dạng của các loại quà trong cùng một loài trong vườn cây ăn quả; so sánh là và hoa của cùng một nhóm biến thể. Các bạn sẽ thấy những chiếc lá của cây cải bắp khác nhau như thế nào; có những loài hoa cực kỳ giống nhau nhưng cũng có loài lại hoàn toàn khác biệt (loài hoa bướm dại); những chiếc lá giống hệt nhau; và quả của cây lý gai khác biệt về kích thước, màu sắc, hình dáng, và cả lông; những loài hoa cho thấy chỉ có những khác biệt nhỏ. Không phải là những biến thể có khác biệt lớn tại một vài điểm lại không bất kỳ sự sai khác nào ở những phần còn lại. Những quy luật về sự tương đồng trong quá trình tăng trưởng, mà tầm quan trọng của nó chúng ta không được bao giờ đánh giá thấp, chắc chắn sẽ đảm bảo sự sai khác này; nhưng như là một quy tắc chung, tôi không hề nghi ngờ rằng sự lựa chọn liên tục của các biến đổi nhỏ, hoặc là trong những chiếc lá, hoa hay quả, sẽ tạo ra những giống có đặc điểm khác biệt lớn.
Có người phản đối nguyên lý của sự lựa chọn đã bị suy giảm trở thành một hoạt động có phương pháp trong chỉ hơn ba phần tư thế kỷ trở lại đây; và người ta đã chú ý tới nó nhiều hơn trong những năm cuối này và hàng loạt bài nghiên cứu khoa học về chủ đề này đã và đang được xuất bản. Tôi xin nói thêm rằng kết quả có được là xứng đáng với những gì bỏ ra - kết quả ngày càng thu được nhiều và quan trọng hơn. Những nguyên lý này hoàn toàn không phải là một phát hiện mang tính thời đại. Tôi có thể đưa ra một số nguồn tài liệu đáng tin cậy công nhận tầm quan trọng của nguyên lý này. Đó là các tác phẩm cổ xưa.
Trong kỷ nguyên hoang sơ cổ đại của lịch sử quá trình phát triển nước Anh, những giống động vật tốt thường được nhập khẩu và luật pháp ngăn cấm xuất khẩu chúng: pháp luật cho phép loại bỏ những con ngựa không đạt tiêu chuẩn về kích thước; hành động này có thể so sánh được với hành động loại bỏ những "cây hoa xấu" của người làm vườn. Nguyên lý của sự lựa chọn, vâng, tôi tìm thấy không thể phủ nhận được chính là nguyên lý đấy trong cuốn bách khoa toàn thư của người Trung Quốc cổ đại. Những nguyên tắc lựa chọn được một số nhà sinh học người La mã cổ xưa đưa ra. Dựa vào những trang viết trong Genesis, chúng ta có thể thấy ngay rằng màu sắc của vật nuôi trong nhà ở giai đoạn đầu khai phá đã được con người để ý tới. Những người cổ đại đôi khi lai giống những con chó nhà của họ với những con chó hoang để cải thiện giống; và họ cũng làm như vậy, theo những gì được viết trong Pliny, với loài ngựa. Những người nguyên thủy vùng Nam Phi đã phối giống bò kéo xe của họ để có được giống bò mong muốn, giống như những gì người Eskimo làm với đàn chó của họ. Những nhà truyền giáo người Scotlen còn kể lại là người da đen cực kỳ quý giống thuần chủng tốt nhất của họ. Những người này không hề có quan hệ gì với người châu âu văn minh. Một vài thực tiễn cho thấy không có sự lựa chọn nhưng chúng lại chứng minh sự nhân giống loài vật được người cổ xưa quan tâm tới nhiều, và cả hiện tại, người cận đại cũng như vậy. Thực sự nó sẽ là một điểm lạ lùng nếu người ta không chú ý tới hoạt động nhân giống bởi vì sự di truyền các đặc tính tốt và xấu là quá rõ ràng.
Ngày nay, những người nhân giống tài ba, bằng sự lựa chọn có tính toán và với mục tiêu cụ thể, cố tạo ra giống mới tốt hơn tất cả những giống hiện đang tồn tại trong đất nước này. Nhưng với mục đích của chúng ta, một dạng lựa chọn, có thể được gọi là dạng lựa chọn vô thức, và có được thông qua thực tế là mọi người đều cố mua được và nhân từ những cá thể tốt nhất, là quan trọng hơn. Do vậy, nếu một người định giừ giống chó săn thì tất nhiên sẽ cố gắng sở hữu giống chó tốt nhất và sau đó nhân giống từ con tốt nhất của anh ta. Nhưng anh ta không hề mong muốn hay trông đợi sự biến đổi thường xuyên của con giống. Tuy nhiên tôi khẳng định là quá trình này sẽ tiếp tục trong nhiều thế kỷ, chấc chan sẽ cải thiện hay biến đổi bất kỳ giống nào, theo cách tương tự như của ông Bakewell. Collins... với quá ưình hoàn toàn giống thế, chỉ có điều nó được thực hiện có phưoug pháp và đã thay đổi lớn thậm chí là ngay trong vòng đời tồn tại của con vật, hình dáng và đặc điểm của những con bò họ sở hữu. Các thay đổi chậm chạp và khó cảm nhận dạng này có thể đã không bao giờ được nhận ra nếu không có sự đo đạc, quan sát cẩn thận các con giống bị nghi ngờ và đem đi so sánh. Tuy nhiên, trong vài trường hợp những cá thể không hoặc rất ít thay đổi của cùng một loài lại có thể tìm thấy ở những nơi kém phát triển hơn, nơi mà chúng ít được cải thiện hơn. Chúng ta có lý do để tin rằng giống chó Xpanhơn của vua Charles đã được vô tình biến đổi kể từ thời trị vì của ông ta. Một số nhà nghiên cứ nổi tiếng khẳng định chắc chắn rằng giống chó lông xù có nguồn gốc từ giống Xpanhơn và có lẽ đã phát triển dần dần từ nó. Mọi người đều biết rằng giống chó săn Anh đã thay đổi nhiều trong suốt thể kỷ trước, và trong các trường hợp này, sự thay đổi mà hầu hết đều được cho là do lai ghép với giống chó săn cảo. Điều mà làm cho chúng ta quan tâm là sự thay đổi diễn ra chậm chạp và không nhận thấy song lại có hiệu quả tới mức là mặc dù giống chó săn cổ Tây Ban Nha không thể nào khác được đến từ Tây Ban Nha nhưng ông Brovm không hề nhìn thấy, như ông đã nói với tôi, bất kỳ loài chó săn Tây Ban Nha bản địa nào giống với loài chó của chúng ta.
Bằng một quá trình lựa chọn tương tự, bằng cách huấn luyện kỹ càng, toàn bộ giống ngựa đua Anh chạy nhanh hơn và to hơn so với giống bố mẹ Ả-rập của chúng; và giống ngựa Ả rập, do các điều lệ quy định trong cuộc đua Goodwood, lại có ưu thế về khả năng mang cân nặng. Bá tước Spencer và những người khác đã cho mọi người thấy các con bò Anh tăng cân và khả năng phát triển sớm của chúng như thế nào, khi đem so sánh với giống trước đây ở trong nước. Bằng cách so sánh những đặc điểm được miêu tả trong các bài viết về chim bồ câu đưa thư và chim bồ câu nhào lộn với những giống đang sinh sống ở Anh, Ẩn Độ, hay Ba Tư, tôi cho là chúng ta có thể dễ dàng tìm ra các giai đoạn trong đó chúng biến đổi âm thầm và tiến đến sự khác biệt rất lớn so với loài chim gốc: chim bồ câu núi. Ông Youatt đưa ra một minh họa tuyệt vời cho ảnh hưởng của quá trình lựa chọn có thể được coi là vô ý tuân theo, trong đó những người nhân giống đã có thể không bao giờ trông đợi hay thậm chí mong muốn tạo ra kết quả mà đến lượt nó, mang lại sự ra đời của hai giống khác biệt. Hai đàn cừu Leicester sở hữu bởi ông Buckley và ông Burgess, như ông Youatt cho biết, đã được nhân giống thuần chủng từ đàn cừu của ông Bakewell hơn 50 năm trước! Bất kỳ ai có kiến thức về chủ đề này không hề nghi ngờ rằng một trong hai ông chủ đàn cừu tại một thời điểm nào đó đã biến đổi chúng; và kết quả là những điểm khác biệt giữa hai đàn cừu do hai quý ông ấy sở hữu quá lớn đến mức mà chúng ta có cảm giác chúng phát triển từ hai biến thể khác nhau.
Nếu có tồn tại dạng người nguyên thủy không hiểu biết tới mức họ chẳng bao giờ để ý tới đặc điểm di truyền lại cho con của giống vật nuôi thuần hóa, song bất kỳ giống nào có ích đối với họ, cho dù là với bất kỳ mục đích sử dụng đặc biệt nào, sẽ được chăm sóc, trông nom cẩn thận qua các nạn đói hay thảm họa thiên nhiên khác, như vậy người nguyên thủy thật là trách nhiệm, và do đó những con giống tốt báo om bằng cách sinh sản nhiều hơn; như thế chúng ta có thể nói đây là trường họp lựa chọn vô thức. Chúng ta sẽ thấy rõ người nguyên thủy man rợ coi trọng vật nuôi giống tốt của họ như thế nào khi biết rằng người cổ xưa vùng Tierra del Fuego đã giết những người phụ nữ già nua trong giai đoạn khó khăn khan hiếm để dành thức ăn cho đàn chó của họ!
Đối với loài thực vật, quá trình cải thiện từ từ, thông qua sự duy trì không thường xuyên các cá thể tốt nhất, cho dù chúng có đủ khác biệt hay không để được xếp vào biến thể khác loài trong lần đầu tiên xuất hiện của chúng; và liệu hai giồng hay nhiều hem nữa đã được lai cẩy với nhau , có thể dễ dàng nhận ra trong kích thước ngày một lớn và vẻ đẹp mà hiện tại chúng ta đang có được ở các biến thể của cây hoa bướm dại, hoa hồng, hoa quỳ thiên trúc, cây thược dược và các loài cây khác khi đem so sánh với những biến thể già hơn hay với giống bố mẹ. Không ai lại mong đợi có được một cây hoa bướm dại hay thược dược tốt nhất từ hạt giống của một cây trong tự nhiên. Không ai trồng cây lê bở hạng một từ hạt giống của một cây lê hoang dã, mặc dù anh ta có thể (nhưng khả năng xả}; ra là cực hiếm) thành công với một cây giống mọc trong hoang dã nếu nó bắt nguồn từ một vườn nhà. Cây lê, mặc dù đã được trồng từ xa xưa, theo như sự miêu tả của Pliny, có vệ như là một loài chất lượng thấp. Tôi rất lấy làm ngạc nhiên trước kỹ năng lai giống điêu luyện như vậy của người cổ xưa. Họ có thể tạo ra những giống tuyệt đẹp từ nguyên liệu đầu vào tồi. Tôi nghĩ là nghệ thuật đó khá đơn giản, và được thực hiện hoàn toàn vô thức. Nó tồn tại trong quá trình trồng giống tốt nhất có thể, gieo hạt giống của nó và khi một biến thể tốt hơn có cơ hội xuất hiện, họ chọn nó và quá trình trên được lặp lại. Nhưng người làm vườn thời nguyên thủy, trồng giống lê tốt nhất mà họ có, không bao giờ biết tới quả lê tuyệt vời mà chúng ta ăn ngày nay. Phải nói rằng chúng ta trong một chừng mực nhất định (nhỏ thôi) đã nợ họ do quả lê ngon ngọt ngày nay có được là nhờ họ lựa chọn và duy trì một cách hoàn toàn không ý thức những biến thể tốt nhất bất cứ khi nào họ tìm thấy.
Nhiều sự thay đổi trong cây trồng của chúng ta được tích tụ một cách chậm chạp và vô thức, tôi tin là chúng có thể giải thích nhiều hiện tượng phổ biến. Trong đa số trường hợp, chúng ta không thể nhận ra và do đó không biết loài cây bố mẹ trong tự nhiên của các giống trồng lâu nhất trong vườn hoa và vườn cây gia đình. Nếu mất hàng thế kỷ, thậm chí là hàng thiên niên kỷ để cải thiện hoặc biến đổi hầu hết các loài hoa của chúng ta được như chuẩn mực hiện nay (xét về tính hữu dụng của chúng đối với con người), chúng ta có thể hiểu như thế nào mà cả vùng châu Úc hay mũi Hảo Vọng hay bất cứ vùng nào khác có người tiền sử sinh sống kém phát triển lại không thể cung cấp cho chúng ta một loại cây trồng hữu ích. Không phải là những vùng này không có may mắn sở hữu các giống cây nguyên thủy hữu ích, trái lại rất trù phú về giống cây là đằng khác, nhưng do những cây bản địa ở đó không được cải thiện bởi quá trình lựa chọn liên tục lâu dài để mang đến sự hoàn thiện tiêu chuẩn có thể so sánh được với những loài cây của các quốc gia cổ đại văn minh hơn.
Đối với loài vật nuôi trong nhà của người tối cổ, chúng ta không nên nghĩ rằng những con vật đó hầu như lúc nào cũng phải đấu tranh dành lấy thức ăn cho riêng chúng, ít nhất là trong một vài mùa nhất định. Và tại hai nước rất khác biệt về điều kiện sống, các cá thể của cùng một loài, có cấu trúc và thể tạng khác nhau ít, sẽ thường sống tốt hơn là so với loài của nước kia, và cùng với quá trinh "sự lựa chọn của tự nhiên", sẽ được đề cập chi tiết sau đây, hai tiểu giống có thể sẽ được hình thành. Điều này có lẽ giải tích một phần nhận xét là những biến thể giữ bởi người tối cổ có nhiều đặc điểm dạng loài hơn là những biến thể giữ bởi những nước văn minh.
Xét về vai trò quan trọng của sự chọn lọc do con người, một điều dễ nhận thấy là như thế nào những giống thuần hóa của chúng ta cho biết sự thích nghi trong cấu trúc và thói quen của chúng phù hợp với sở thích người nuôi. Tôi nghĩ chúng ta có thể hiểu sâu hơn đặc điểm bất bình thường hay xuất hiện của giống vật nuôi tại gia và tưomg tự thế những điểm khác biệt của chúng quá lớn trong các ở các đặc điểm bên ngoài và khá nhỏ các bộ phận bên trong hay các cơ quan. Con người khó có thể chọn ra, hoặc sẽ rất mất công tạo ra bất kỳ sự sai khác nào của cấu trúc trừ những thứ bên ngoài có thể nhìn thấy; và thực sự thì họ cũng chẳng quan tâm nhiều đến cấu trúc bên trong. Con người có thể không bao giờ hành động dựa trên sự lựa chọn, trừ trường hợp các thay đổi mà ngay lúc đầu mang lại một số ích lợi. Không người nào đã từng có tạo ra giống chim bồ câu đuôi quạt cho đến khi họ nhìn thấy con chim bồ câu mà lông đuôi của nó phát triển khác thuờng một chút và sụ khác biệt cục kỳ nhỏ; đó là bản chất của con người: thích những điều kỳ lạ, cho dù nhỏ thôi, đối với họ. Nhưng cũng không phải bất cứ biến đổi nào cũng được đón chào và coi trọng. Thực sự là như vậy, rất nhiều biến đổi nhỏ xuất hiện trong số những con chim bồ câu mà đã bị loại bỏ do lỗi hoặc sai khác so với chuẩn mực của loài ngỗng thông thường không hề có bất kỳ một biến thể đáng chú ý nào; do đó giống Thoulouse và giống thông thường mà chỉ có màu sắc khác nhau, đặc điểm ý được chú ý tới nhất só với các đặc điểm khác, sau này xuất hiện khác biệt so với giống gia cầm.
Tôi nghĩ, các quan điểm này giải thích kỹ hơn những điều mà đôi khi được mọi người đề cập tới, đó là chúng ta chẳng biết tý gì về nguồn gốc hay lịch sử hình thành của bất kỳ giống nuôi trồng trong nhà nào của chúng ta. Song trên thực tế, một giống, cũng như là một nhánh của một ngôn ngữ, khó có thể nói là có nguồn gốc cụ thể. Một người duy trì và lai ghép các con giống từ cá thể có một vài sai khác nhỏ trong cấu trúc, hay dành nhiều công sức hơn cho việc phối giống những con vật tốt nhất của anh ta, nhờ đó cải thiện chúng, và các cá thể được cải thiện này dần dần lan truyền khắp khu vực xung quanh. Nhưng do không được đặt một cái tên cụ thể, và nếu con người không đánh giá cao chúng thì lịch sử hình thành của chúng chắc chắn sẽ bị chìm vào quên lãng. Khi được cải thiện tốt hơn nữa bởi quá trình chập chạp, từ từ tương tự, chúng sẽ lan rộng ra tự nhiên hơn và sẽ được nhận ra như là một loài có ích, khác biệt và sau đó sẽ được đặt tên ở vùng đó. Ở những nước chưa thực sự phát triển, hệ thống thông tin liên lạc yếu kém, sự nhân rộng cũng như kiến thức về bất kỳ một loài tiểu giống mới sẽ là một quá trình chậm chạp. Ngay khi giá trị của một tiểu giống được nhận ra, nguyên lý của sự lựa chọn vô thức, như tôi vẫn thường gọi nó, sẽ lũôn có xu hướng - có lẽ là mạnh hơn ở một giai đoạn nhất định so với giai đoạn khác, tưcmg tự như quá trình phát triển và suy vong của một giống - có lẽ mạnh hơn ở khu vực này so với một khu vực khác, tùy thuộc vào mức độ phát triển nền văn minh của nơi đó - thêm vào dần dần các đặc điểm tính cách của giống, cho dù chúng là thế nào đi chăng nữa. Nhưng cơ hội để ghi lại được những thay đổi chậm chạp, không nhận biết được như vậy là vô cùng nhỏ bé.
Bây giờ, tôi xin nói thêm về một vài điểm liên quan đến điều kiện thuận lợi hay là khó khăn đối với sức manh của sự lựa chọn do con người. Mức độ cao của tính biến đổi rõ ràng là một thuận lợi vì nó sẽ cung cấp dồi dào nguyên luyện đầu vào cho sự lựa chọn; không phải là chỉ mỗi khác biệt cá thể là không đủ, cộng với sự chăm sóc chu đáo, cho phép sự tích tụ lớn các sửa đổi trong hầu hết bất kỳ chiều hướng mong muốn nào. Nhưng vì những thay đổi cho thấy sự tiện ích hay phù hợp với ý muốn của con người hiếm khi xuất hiện, cơ hội cho sự xuất hiện của chúng sẽ tăng lên đáng kể khi một số lượng cá thể lớn được nhốt cùng nhau, và như thế, việc nhốt chung trở thành yếu tố quan trọng nhất để dẫn tới thành công. Như ông Marshall đã nhận xét về đàn cừu ở Yorkshire là, dựa trên nguyên lý này, những con cừu ở đó chủ yêu thuộc vê người dân nghèo và đàn cừu có số lượng rất ít. Những người trông nom vườn ưcrm, người trồng số lượng lớn các cây từ cùng một loài, thường thành công hơn nhiều so với những người nghiệp dư trong việc tạo ra được những biến thể mới và có giá trị. Để giữ được một số lượng lớn các cá thể của một loài lại bất kỳ nước nào trong điều kiện thuận lợi tại đòi hỏi là loài đó được sống trong điều kiện thuận lợi và nhờ thế chúng sẽ có thể sinh sản tự do trong nước đấy.
Khi số lượng của một loài là ít, tất cả các cá thể, cho dù là chất lượng tốt hay xấu, đều được phép nhân giống; và thực tế đã chứng minh sự cho phép này cản trở quá trình lựa chọn. Song có lẽ điểm quan trọng nhất là động vật hay loài cây có giá trị hay hữu ích đối với con người tới mức mà chúng ta chú tới cả những biến dạng nhỏ nhất trong đặc điểm hay cấu trúc của mỗi các thể. Trừ khi sự chú ý như vậy không mang lại kết quả gì. Thật là thú vị khi tôi biết rằng cây dâu tây chỉ thực sự bắt đầu biến chuyển theo chiều hướng có lợi cho con người khi những người làm vườn quan tâm chăm sóc chúng kỹ lưỡng. Một sự thật không có gì phải bàn cãi là cây dâu tây liên tục biến đổi kể từ khi chúng được trồng; nhưng những biến đổi ít đó thường bị con người bỏ qua. Ngay khi người làm vườn chọn ra các cây với quả ngọt hơn, to hơn và chín sớm hơn, rồi đem trồng cây con giống từ chúng, sau đó lại chọn ra cây giống tốt nhất để nhân giống. Kết quả là cây dâu tây (cùng với sự trợ giúp từ con người lai ghép chúng với các loài khác) đã cho ra nhiều biến thể tuyệt vời được trồng trong suốt hai mươi hay ba mươi năm qua. Trong trường hợp của các loài động vật có giống đực và giống cái riêng biệt, khả năng ngăn cản sự lai giống dễ dàng là một nhân tố quan trọng mang tới thành công tạo ra giống mới - ít nhất là tại một nước mà đã có các giống khác tương tự. Xét trên khía cạnh này, thì việc rào giậu đất cũng đóng một vai trò nhất định. Những người nguyên thủy sống du canh du cư hay người sống trên cánh đồng bao la bát ngát hiếm khi sở hữu nhiều hơn một giống của cùng loài. Loài chim bồ câu có thể giao phối cả đời và khả năng này rất có ích đoi với người nuôi chim bồ câu; bởi vì nhờ đó nhiều giống có thể được giữ thuần chủng cho dù bị nhốt chung với các giống khác trong một cái lồng lớn. Hoàn cảnh này chắc hẳn đã phải khá thuận tiện chợ cải thiện và hình thành giống mới. Tôi xin nói thêm rằng loài bồ câu có khả năng được nhân giống với số lượng cực lớn và nhanh; vì thế những con chim không đạt tiêu chuẩn ngay lập tức sẽ bị loại bỏ và trở thành thức ăn. Trong khi đó, loài mèo, với đặc tính đi đêm của chúng, không thể được phối giống nhân tạo; và cho dù chúng được các bà các cô cũng như các em nhỏ hêt sức nâng niu, nhưng mọi người chưa nhìn thấy một biến thể mèo khác biệt phát triển; những giống mèo khác biệt chúng ta đôi khi nhìn thấy hầu hết đều được nhập khẩu từ các nước khác, thường là từ các quốc đảo. Mặc dù tôi không nghi ngờ là vài giống vật nuôi trong nhà thay đổi ít hơn các giống khác nhưng tính hiếm có, thậm chí là không xuất hiện, các giống khác biệt của mèo, lừa, công trống, ngỗng... có thể phần lớn là do sự lựa chọn không phát huy tác dụng: đối với loài mèo là do khó khăn trong việc ghép đôi phối giống; đối với con lừa là do người nông dân nghèo có số lượng lừa quá ít và ít dành sự quan tâm tới việc phối giống chúng; đối với con công trống, do không dễ chăm sóc và không có số lượng lớn, đối với con ngỗng là do chúng chỉ có hai mục đích sử dụng đối với con người: thức ăn và lông; và quan trọng hem cả là do người nhân giống không cảm thấy thích thú giống mới.
Để tổng kết về nguồn gốc vật nuôi cây trồng thuần hóa của chúng ta, tôi tin rằng, điều kiện sống, xét trên tác động của nó tới hệ thống sinh sản, không phải là nguyên nhân chính gây nên tính biến đổi. Tôi không tin tính biến đổi là một thứ gì đó nhất thiết phải có và không thể tách rời, trong tất cả các trường hợp, với mồi cơ thể sống hữu cơ. Một vài học giả đã phát biểu ảnh hưởng của tính thay đổi biếấn động theo nhiều mức độ khác nhau của sự kế thừa và của sự quay trở lại. Tính biến đổi được điều chỉnh bởi rất nhiều quy luật chưa được biết đến mà trong đó quan trọng hơn cả là quy luật của sự tương quan tăng trưởng. Một thứ có thể do điều kiện sống trực tiếp gây ra. Một thứ phải do sự sử dụng hay không sừ dụng gây ra. Do đó, kết quả cuối cùng xuất hiện cực kỳ phức tạp. Trong một vài trường hợp, tôi thừa nhận rằng việc nhân giống chéo các loài mà có nguồn gốc nguyên thủy khác nhau đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành các sản phẩm vật nuôi cây trồng thuần hóa của chúng ta. Khi một vài giống được tạo ra trong bẩt kỳ một nước nào, sự lai ghép chéo hiếm khi xuất hiện của chúng với sự trợ giúp của quá trình lựa chọn chắc chắn đã góp phần lớn trong việc hình thành tiểu giống mới; nhưng tôi tin tầm quan ừọng của sự lai ghép các biến thể đã bị phóng đại quá mức, trong trường hợp của cả động và thực vật mà phát triển từ cây, con giống. Đối với những cây được tạo thành bởi cách chiết, cắt... thì tầm quan trọng của sự lai ghép loài và biến thể khác biệt là vô cùng lớn; vì người trồng cây ở đây hoàn toàn bỏ qua tính biến đổi lớn của động vật và thực vật lai cấy, và cả tính vô sinh thường xuyên xuất hiện ở động vật lai cấy; nhưng trựờng hợp cây không sinh ra từ hạt giống đối với chúng ta là ít có ý nghĩa do sự tồn tại của chúng chỉ là tạm thời. Nói tóm lại, tôi khẳng định nguyên nhân dẫn tới sự thay đổi: ảnh hưởng tích tụ của sự lựa chọn, dù được áp dụng có phương pháp và nhanh chóng hay áp dụng vô tình và chậm chạp, song lại hiệu quả hơn là sức mạnh vượt trội.
Thành công của các nhà nhân giống người Anh được chứng tỏ thông qua sự trả giá rất cao cho những con giống tốt; và giờ đây, những con này đã được xuất khi đi khắp mọi nơi trên thế giới. Những con giống tốt không hề là sản phẩm phối giống giữa 2 giống khác nhau; tất cả các nhà nhân giống giỏi nhất đều chống lại quan niệm này, trừ một vài trường hợp tiểu giống có quan hệ họ hàng gần gũi. Và khi một sự phối giống được tiến hành sự lựa chọn gần nhất là không thể thiếu được, thậm chí trong cả các trường hợp thông thường. Nếu sự lựa chọn chỉ xảy ra ở biến thể rất khác biệt, và nhân giống biến thể này thì nguyên lý hoàn toàn đúng tới mức mà không hề gây ra sự chú ý nào; nhưng tầm quan trọng của nó nằm ở sự ảnh hưởng lớn tạo ra bởi quá trình tích tụ theo một chiều hướng, trong suốt các thế hệ kế tiếp, của các điểm khác biệt không hề đáng kể đối với những người kém hiểu biết - những điểm khác biệt mà tôi đã từng cố nêu bật nhưng không thành công. Không một ai trong số hàng nghìn người có con mắt tinh tường và sự nhận xét xác đáng để trở thành một nhà nhân giống xuất sắc. Nếu được Chúa ban cho các phẩm chất đó, và anh ta dành nhiều thời gian cũng như công sức để nghiên cứu chủ đề này, thì anh ta sẽ thành công, và có được sự tiến bộ to lớn; nếu anh ta thiếu bất cứ một trong những phẩm chất trên, anh ta sẽ không tránh khỏi sự thất bại. Rất ít người sẵn sàng tin vào khả năng của tự nhiên và những năm tháng của lao động cần thiết để trở thành thậm chí chỉ là một giống chim bồ câu khéo léo.
Nguyên lý tương tự cũng được những nhà làm vườn tuân theo; nhưng sự biến đổi ở đây thường bất ngờ hơn. Không ai cho rằng những sản phẩm tốt nhất của chúng ta được sản xuất bởi một biến thể duy nhất của giống nguyên thủy. Chủng ta có bằng chứng là điều này không đúng trong một số trường hợp mà trong đó các ghi chép chính xác chi tiết vẫn được giữ lại; nhờ đó đưa ra được một ví dụ nhưng rất mờ nhạt: sự tăng kích cỡ liên tục của cây gai lý có thể được dẫn ra. Chủng ta tìm thấy rất nhiều cải thiện đáng kinh ngạc trong các giống của người trồng hoa, khi những giống hoa ngày nay được mang đem so sánh với những cây hoa trong tranh vẽ từ 20 hay 30 năm về trước. Khi một giống hoa đã được tạo ra khả hoàn chỉnh, người gieo giống không chọn ra những cây tốt nhất mà thay vào đó, anh ta sẽ đi xem xét cả vườn hoa rồi nhổ bỏ đi những "cây hoa xấu" - như cách mà họ vẫn thường gọi những bông hoa không đạt tiêu chuẩn.
Đối với động vật, phương pháp này cũng được áp dụng trong thực tiễn; bởi vì hiếm ai lại bất cẩn đến mức nhân giống những con có chất lượng tồi. Đối với các loài cây, có một cách khác để quan sát những thay đổi tích tụ của Sự lựa chọn - cụ thể là bằng cách so sánh sự đa dạng của những bông hoa trong các biến thể khác nhau của cùng một loài trong vườn hoa; sự đa dạng của lá, vỏ, củ hay bất cứ phần nào có giá trị khác của trong vườn rau, so với những cây cùng loài; và sự đa dạng của các loại quà trong cùng một loài trong vườn cây ăn quả; so sánh là và hoa của cùng một nhóm biến thể. Các bạn sẽ thấy những chiếc lá của cây cải bắp khác nhau như thế nào; có những loài hoa cực kỳ giống nhau nhưng cũng có loài lại hoàn toàn khác biệt (loài hoa bướm dại); những chiếc lá giống hệt nhau; và quả của cây lý gai khác biệt về kích thước, màu sắc, hình dáng, và cả lông; những loài hoa cho thấy chỉ có những khác biệt nhỏ. Không phải là những biến thể có khác biệt lớn tại một vài điểm lại không bất kỳ sự sai khác nào ở những phần còn lại. Những quy luật về sự tương đồng trong quá trình tăng trưởng, mà tầm quan trọng của nó chúng ta không được bao giờ đánh giá thấp, chắc chắn sẽ đảm bảo sự sai khác này; nhưng như là một quy tắc chung, tôi không hề nghi ngờ rằng sự lựa chọn liên tục của các biến đổi nhỏ, hoặc là trong những chiếc lá, hoa hay quả, sẽ tạo ra những giống có đặc điểm khác biệt lớn.
Có người phản đối nguyên lý của sự lựa chọn đã bị suy giảm trở thành một hoạt động có phương pháp trong chỉ hơn ba phần tư thế kỷ trở lại đây; và người ta đã chú ý tới nó nhiều hơn trong những năm cuối này và hàng loạt bài nghiên cứu khoa học về chủ đề này đã và đang được xuất bản. Tôi xin nói thêm rằng kết quả có được là xứng đáng với những gì bỏ ra - kết quả ngày càng thu được nhiều và quan trọng hơn. Những nguyên lý này hoàn toàn không phải là một phát hiện mang tính thời đại. Tôi có thể đưa ra một số nguồn tài liệu đáng tin cậy công nhận tầm quan trọng của nguyên lý này. Đó là các tác phẩm cổ xưa.
Trong kỷ nguyên hoang sơ cổ đại của lịch sử quá trình phát triển nước Anh, những giống động vật tốt thường được nhập khẩu và luật pháp ngăn cấm xuất khẩu chúng: pháp luật cho phép loại bỏ những con ngựa không đạt tiêu chuẩn về kích thước; hành động này có thể so sánh được với hành động loại bỏ những "cây hoa xấu" của người làm vườn. Nguyên lý của sự lựa chọn, vâng, tôi tìm thấy không thể phủ nhận được chính là nguyên lý đấy trong cuốn bách khoa toàn thư của người Trung Quốc cổ đại. Những nguyên tắc lựa chọn được một số nhà sinh học người La mã cổ xưa đưa ra. Dựa vào những trang viết trong Genesis, chúng ta có thể thấy ngay rằng màu sắc của vật nuôi trong nhà ở giai đoạn đầu khai phá đã được con người để ý tới. Những người cổ đại đôi khi lai giống những con chó nhà của họ với những con chó hoang để cải thiện giống; và họ cũng làm như vậy, theo những gì được viết trong Pliny, với loài ngựa. Những người nguyên thủy vùng Nam Phi đã phối giống bò kéo xe của họ để có được giống bò mong muốn, giống như những gì người Eskimo làm với đàn chó của họ. Những nhà truyền giáo người Scotlen còn kể lại là người da đen cực kỳ quý giống thuần chủng tốt nhất của họ. Những người này không hề có quan hệ gì với người châu âu văn minh. Một vài thực tiễn cho thấy không có sự lựa chọn nhưng chúng lại chứng minh sự nhân giống loài vật được người cổ xưa quan tâm tới nhiều, và cả hiện tại, người cận đại cũng như vậy. Thực sự nó sẽ là một điểm lạ lùng nếu người ta không chú ý tới hoạt động nhân giống bởi vì sự di truyền các đặc tính tốt và xấu là quá rõ ràng.
Ngày nay, những người nhân giống tài ba, bằng sự lựa chọn có tính toán và với mục tiêu cụ thể, cố tạo ra giống mới tốt hơn tất cả những giống hiện đang tồn tại trong đất nước này. Nhưng với mục đích của chúng ta, một dạng lựa chọn, có thể được gọi là dạng lựa chọn vô thức, và có được thông qua thực tế là mọi người đều cố mua được và nhân từ những cá thể tốt nhất, là quan trọng hơn. Do vậy, nếu một người định giừ giống chó săn thì tất nhiên sẽ cố gắng sở hữu giống chó tốt nhất và sau đó nhân giống từ con tốt nhất của anh ta. Nhưng anh ta không hề mong muốn hay trông đợi sự biến đổi thường xuyên của con giống. Tuy nhiên tôi khẳng định là quá trình này sẽ tiếp tục trong nhiều thế kỷ, chấc chan sẽ cải thiện hay biến đổi bất kỳ giống nào, theo cách tương tự như của ông Bakewell. Collins... với quá ưình hoàn toàn giống thế, chỉ có điều nó được thực hiện có phưoug pháp và đã thay đổi lớn thậm chí là ngay trong vòng đời tồn tại của con vật, hình dáng và đặc điểm của những con bò họ sở hữu. Các thay đổi chậm chạp và khó cảm nhận dạng này có thể đã không bao giờ được nhận ra nếu không có sự đo đạc, quan sát cẩn thận các con giống bị nghi ngờ và đem đi so sánh. Tuy nhiên, trong vài trường hợp những cá thể không hoặc rất ít thay đổi của cùng một loài lại có thể tìm thấy ở những nơi kém phát triển hơn, nơi mà chúng ít được cải thiện hơn. Chúng ta có lý do để tin rằng giống chó Xpanhơn của vua Charles đã được vô tình biến đổi kể từ thời trị vì của ông ta. Một số nhà nghiên cứ nổi tiếng khẳng định chắc chắn rằng giống chó lông xù có nguồn gốc từ giống Xpanhơn và có lẽ đã phát triển dần dần từ nó. Mọi người đều biết rằng giống chó săn Anh đã thay đổi nhiều trong suốt thể kỷ trước, và trong các trường hợp này, sự thay đổi mà hầu hết đều được cho là do lai ghép với giống chó săn cảo. Điều mà làm cho chúng ta quan tâm là sự thay đổi diễn ra chậm chạp và không nhận thấy song lại có hiệu quả tới mức là mặc dù giống chó săn cổ Tây Ban Nha không thể nào khác được đến từ Tây Ban Nha nhưng ông Brovm không hề nhìn thấy, như ông đã nói với tôi, bất kỳ loài chó săn Tây Ban Nha bản địa nào giống với loài chó của chúng ta.
Bằng một quá trình lựa chọn tương tự, bằng cách huấn luyện kỹ càng, toàn bộ giống ngựa đua Anh chạy nhanh hơn và to hơn so với giống bố mẹ Ả-rập của chúng; và giống ngựa Ả rập, do các điều lệ quy định trong cuộc đua Goodwood, lại có ưu thế về khả năng mang cân nặng. Bá tước Spencer và những người khác đã cho mọi người thấy các con bò Anh tăng cân và khả năng phát triển sớm của chúng như thế nào, khi đem so sánh với giống trước đây ở trong nước. Bằng cách so sánh những đặc điểm được miêu tả trong các bài viết về chim bồ câu đưa thư và chim bồ câu nhào lộn với những giống đang sinh sống ở Anh, Ẩn Độ, hay Ba Tư, tôi cho là chúng ta có thể dễ dàng tìm ra các giai đoạn trong đó chúng biến đổi âm thầm và tiến đến sự khác biệt rất lớn so với loài chim gốc: chim bồ câu núi. Ông Youatt đưa ra một minh họa tuyệt vời cho ảnh hưởng của quá trình lựa chọn có thể được coi là vô ý tuân theo, trong đó những người nhân giống đã có thể không bao giờ trông đợi hay thậm chí mong muốn tạo ra kết quả mà đến lượt nó, mang lại sự ra đời của hai giống khác biệt. Hai đàn cừu Leicester sở hữu bởi ông Buckley và ông Burgess, như ông Youatt cho biết, đã được nhân giống thuần chủng từ đàn cừu của ông Bakewell hơn 50 năm trước! Bất kỳ ai có kiến thức về chủ đề này không hề nghi ngờ rằng một trong hai ông chủ đàn cừu tại một thời điểm nào đó đã biến đổi chúng; và kết quả là những điểm khác biệt giữa hai đàn cừu do hai quý ông ấy sở hữu quá lớn đến mức mà chúng ta có cảm giác chúng phát triển từ hai biến thể khác nhau.
Nếu có tồn tại dạng người nguyên thủy không hiểu biết tới mức họ chẳng bao giờ để ý tới đặc điểm di truyền lại cho con của giống vật nuôi thuần hóa, song bất kỳ giống nào có ích đối với họ, cho dù là với bất kỳ mục đích sử dụng đặc biệt nào, sẽ được chăm sóc, trông nom cẩn thận qua các nạn đói hay thảm họa thiên nhiên khác, như vậy người nguyên thủy thật là trách nhiệm, và do đó những con giống tốt báo om bằng cách sinh sản nhiều hơn; như thế chúng ta có thể nói đây là trường họp lựa chọn vô thức. Chúng ta sẽ thấy rõ người nguyên thủy man rợ coi trọng vật nuôi giống tốt của họ như thế nào khi biết rằng người cổ xưa vùng Tierra del Fuego đã giết những người phụ nữ già nua trong giai đoạn khó khăn khan hiếm để dành thức ăn cho đàn chó của họ!
Đối với loài thực vật, quá trình cải thiện từ từ, thông qua sự duy trì không thường xuyên các cá thể tốt nhất, cho dù chúng có đủ khác biệt hay không để được xếp vào biến thể khác loài trong lần đầu tiên xuất hiện của chúng; và liệu hai giồng hay nhiều hem nữa đã được lai cẩy với nhau , có thể dễ dàng nhận ra trong kích thước ngày một lớn và vẻ đẹp mà hiện tại chúng ta đang có được ở các biến thể của cây hoa bướm dại, hoa hồng, hoa quỳ thiên trúc, cây thược dược và các loài cây khác khi đem so sánh với những biến thể già hơn hay với giống bố mẹ. Không ai lại mong đợi có được một cây hoa bướm dại hay thược dược tốt nhất từ hạt giống của một cây trong tự nhiên. Không ai trồng cây lê bở hạng một từ hạt giống của một cây lê hoang dã, mặc dù anh ta có thể (nhưng khả năng xả}; ra là cực hiếm) thành công với một cây giống mọc trong hoang dã nếu nó bắt nguồn từ một vườn nhà. Cây lê, mặc dù đã được trồng từ xa xưa, theo như sự miêu tả của Pliny, có vệ như là một loài chất lượng thấp. Tôi rất lấy làm ngạc nhiên trước kỹ năng lai giống điêu luyện như vậy của người cổ xưa. Họ có thể tạo ra những giống tuyệt đẹp từ nguyên liệu đầu vào tồi. Tôi nghĩ là nghệ thuật đó khá đơn giản, và được thực hiện hoàn toàn vô thức. Nó tồn tại trong quá trình trồng giống tốt nhất có thể, gieo hạt giống của nó và khi một biến thể tốt hơn có cơ hội xuất hiện, họ chọn nó và quá trình trên được lặp lại. Nhưng người làm vườn thời nguyên thủy, trồng giống lê tốt nhất mà họ có, không bao giờ biết tới quả lê tuyệt vời mà chúng ta ăn ngày nay. Phải nói rằng chúng ta trong một chừng mực nhất định (nhỏ thôi) đã nợ họ do quả lê ngon ngọt ngày nay có được là nhờ họ lựa chọn và duy trì một cách hoàn toàn không ý thức những biến thể tốt nhất bất cứ khi nào họ tìm thấy.
Nhiều sự thay đổi trong cây trồng của chúng ta được tích tụ một cách chậm chạp và vô thức, tôi tin là chúng có thể giải thích nhiều hiện tượng phổ biến. Trong đa số trường hợp, chúng ta không thể nhận ra và do đó không biết loài cây bố mẹ trong tự nhiên của các giống trồng lâu nhất trong vườn hoa và vườn cây gia đình. Nếu mất hàng thế kỷ, thậm chí là hàng thiên niên kỷ để cải thiện hoặc biến đổi hầu hết các loài hoa của chúng ta được như chuẩn mực hiện nay (xét về tính hữu dụng của chúng đối với con người), chúng ta có thể hiểu như thế nào mà cả vùng châu Úc hay mũi Hảo Vọng hay bất cứ vùng nào khác có người tiền sử sinh sống kém phát triển lại không thể cung cấp cho chúng ta một loại cây trồng hữu ích. Không phải là những vùng này không có may mắn sở hữu các giống cây nguyên thủy hữu ích, trái lại rất trù phú về giống cây là đằng khác, nhưng do những cây bản địa ở đó không được cải thiện bởi quá trình lựa chọn liên tục lâu dài để mang đến sự hoàn thiện tiêu chuẩn có thể so sánh được với những loài cây của các quốc gia cổ đại văn minh hơn.
Đối với loài vật nuôi trong nhà của người tối cổ, chúng ta không nên nghĩ rằng những con vật đó hầu như lúc nào cũng phải đấu tranh dành lấy thức ăn cho riêng chúng, ít nhất là trong một vài mùa nhất định. Và tại hai nước rất khác biệt về điều kiện sống, các cá thể của cùng một loài, có cấu trúc và thể tạng khác nhau ít, sẽ thường sống tốt hơn là so với loài của nước kia, và cùng với quá trinh "sự lựa chọn của tự nhiên", sẽ được đề cập chi tiết sau đây, hai tiểu giống có thể sẽ được hình thành. Điều này có lẽ giải tích một phần nhận xét là những biến thể giữ bởi người tối cổ có nhiều đặc điểm dạng loài hơn là những biến thể giữ bởi những nước văn minh.
Xét về vai trò quan trọng của sự chọn lọc do con người, một điều dễ nhận thấy là như thế nào những giống thuần hóa của chúng ta cho biết sự thích nghi trong cấu trúc và thói quen của chúng phù hợp với sở thích người nuôi. Tôi nghĩ chúng ta có thể hiểu sâu hơn đặc điểm bất bình thường hay xuất hiện của giống vật nuôi tại gia và tưomg tự thế những điểm khác biệt của chúng quá lớn trong các ở các đặc điểm bên ngoài và khá nhỏ các bộ phận bên trong hay các cơ quan. Con người khó có thể chọn ra, hoặc sẽ rất mất công tạo ra bất kỳ sự sai khác nào của cấu trúc trừ những thứ bên ngoài có thể nhìn thấy; và thực sự thì họ cũng chẳng quan tâm nhiều đến cấu trúc bên trong. Con người có thể không bao giờ hành động dựa trên sự lựa chọn, trừ trường hợp các thay đổi mà ngay lúc đầu mang lại một số ích lợi. Không người nào đã từng có tạo ra giống chim bồ câu đuôi quạt cho đến khi họ nhìn thấy con chim bồ câu mà lông đuôi của nó phát triển khác thuờng một chút và sụ khác biệt cục kỳ nhỏ; đó là bản chất của con người: thích những điều kỳ lạ, cho dù nhỏ thôi, đối với họ. Nhưng cũng không phải bất cứ biến đổi nào cũng được đón chào và coi trọng. Thực sự là như vậy, rất nhiều biến đổi nhỏ xuất hiện trong số những con chim bồ câu mà đã bị loại bỏ do lỗi hoặc sai khác so với chuẩn mực của loài ngỗng thông thường không hề có bất kỳ một biến thể đáng chú ý nào; do đó giống Thoulouse và giống thông thường mà chỉ có màu sắc khác nhau, đặc điểm ý được chú ý tới nhất só với các đặc điểm khác, sau này xuất hiện khác biệt so với giống gia cầm.
Tôi nghĩ, các quan điểm này giải thích kỹ hơn những điều mà đôi khi được mọi người đề cập tới, đó là chúng ta chẳng biết tý gì về nguồn gốc hay lịch sử hình thành của bất kỳ giống nuôi trồng trong nhà nào của chúng ta. Song trên thực tế, một giống, cũng như là một nhánh của một ngôn ngữ, khó có thể nói là có nguồn gốc cụ thể. Một người duy trì và lai ghép các con giống từ cá thể có một vài sai khác nhỏ trong cấu trúc, hay dành nhiều công sức hơn cho việc phối giống những con vật tốt nhất của anh ta, nhờ đó cải thiện chúng, và các cá thể được cải thiện này dần dần lan truyền khắp khu vực xung quanh. Nhưng do không được đặt một cái tên cụ thể, và nếu con người không đánh giá cao chúng thì lịch sử hình thành của chúng chắc chắn sẽ bị chìm vào quên lãng. Khi được cải thiện tốt hơn nữa bởi quá trình chập chạp, từ từ tương tự, chúng sẽ lan rộng ra tự nhiên hơn và sẽ được nhận ra như là một loài có ích, khác biệt và sau đó sẽ được đặt tên ở vùng đó. Ở những nước chưa thực sự phát triển, hệ thống thông tin liên lạc yếu kém, sự nhân rộng cũng như kiến thức về bất kỳ một loài tiểu giống mới sẽ là một quá trình chậm chạp. Ngay khi giá trị của một tiểu giống được nhận ra, nguyên lý của sự lựa chọn vô thức, như tôi vẫn thường gọi nó, sẽ lũôn có xu hướng - có lẽ là mạnh hơn ở một giai đoạn nhất định so với giai đoạn khác, tưcmg tự như quá trình phát triển và suy vong của một giống - có lẽ mạnh hơn ở khu vực này so với một khu vực khác, tùy thuộc vào mức độ phát triển nền văn minh của nơi đó - thêm vào dần dần các đặc điểm tính cách của giống, cho dù chúng là thế nào đi chăng nữa. Nhưng cơ hội để ghi lại được những thay đổi chậm chạp, không nhận biết được như vậy là vô cùng nhỏ bé.
Bây giờ, tôi xin nói thêm về một vài điểm liên quan đến điều kiện thuận lợi hay là khó khăn đối với sức manh của sự lựa chọn do con người. Mức độ cao của tính biến đổi rõ ràng là một thuận lợi vì nó sẽ cung cấp dồi dào nguyên luyện đầu vào cho sự lựa chọn; không phải là chỉ mỗi khác biệt cá thể là không đủ, cộng với sự chăm sóc chu đáo, cho phép sự tích tụ lớn các sửa đổi trong hầu hết bất kỳ chiều hướng mong muốn nào. Nhưng vì những thay đổi cho thấy sự tiện ích hay phù hợp với ý muốn của con người hiếm khi xuất hiện, cơ hội cho sự xuất hiện của chúng sẽ tăng lên đáng kể khi một số lượng cá thể lớn được nhốt cùng nhau, và như thế, việc nhốt chung trở thành yếu tố quan trọng nhất để dẫn tới thành công. Như ông Marshall đã nhận xét về đàn cừu ở Yorkshire là, dựa trên nguyên lý này, những con cừu ở đó chủ yêu thuộc vê người dân nghèo và đàn cừu có số lượng rất ít. Những người trông nom vườn ưcrm, người trồng số lượng lớn các cây từ cùng một loài, thường thành công hơn nhiều so với những người nghiệp dư trong việc tạo ra được những biến thể mới và có giá trị. Để giữ được một số lượng lớn các cá thể của một loài lại bất kỳ nước nào trong điều kiện thuận lợi tại đòi hỏi là loài đó được sống trong điều kiện thuận lợi và nhờ thế chúng sẽ có thể sinh sản tự do trong nước đấy.
Khi số lượng của một loài là ít, tất cả các cá thể, cho dù là chất lượng tốt hay xấu, đều được phép nhân giống; và thực tế đã chứng minh sự cho phép này cản trở quá trình lựa chọn. Song có lẽ điểm quan trọng nhất là động vật hay loài cây có giá trị hay hữu ích đối với con người tới mức mà chúng ta chú tới cả những biến dạng nhỏ nhất trong đặc điểm hay cấu trúc của mỗi các thể. Trừ khi sự chú ý như vậy không mang lại kết quả gì. Thật là thú vị khi tôi biết rằng cây dâu tây chỉ thực sự bắt đầu biến chuyển theo chiều hướng có lợi cho con người khi những người làm vườn quan tâm chăm sóc chúng kỹ lưỡng. Một sự thật không có gì phải bàn cãi là cây dâu tây liên tục biến đổi kể từ khi chúng được trồng; nhưng những biến đổi ít đó thường bị con người bỏ qua. Ngay khi người làm vườn chọn ra các cây với quả ngọt hơn, to hơn và chín sớm hơn, rồi đem trồng cây con giống từ chúng, sau đó lại chọn ra cây giống tốt nhất để nhân giống. Kết quả là cây dâu tây (cùng với sự trợ giúp từ con người lai ghép chúng với các loài khác) đã cho ra nhiều biến thể tuyệt vời được trồng trong suốt hai mươi hay ba mươi năm qua. Trong trường hợp của các loài động vật có giống đực và giống cái riêng biệt, khả năng ngăn cản sự lai giống dễ dàng là một nhân tố quan trọng mang tới thành công tạo ra giống mới - ít nhất là tại một nước mà đã có các giống khác tương tự. Xét trên khía cạnh này, thì việc rào giậu đất cũng đóng một vai trò nhất định. Những người nguyên thủy sống du canh du cư hay người sống trên cánh đồng bao la bát ngát hiếm khi sở hữu nhiều hơn một giống của cùng loài. Loài chim bồ câu có thể giao phối cả đời và khả năng này rất có ích đoi với người nuôi chim bồ câu; bởi vì nhờ đó nhiều giống có thể được giữ thuần chủng cho dù bị nhốt chung với các giống khác trong một cái lồng lớn. Hoàn cảnh này chắc hẳn đã phải khá thuận tiện chợ cải thiện và hình thành giống mới. Tôi xin nói thêm rằng loài bồ câu có khả năng được nhân giống với số lượng cực lớn và nhanh; vì thế những con chim không đạt tiêu chuẩn ngay lập tức sẽ bị loại bỏ và trở thành thức ăn. Trong khi đó, loài mèo, với đặc tính đi đêm của chúng, không thể được phối giống nhân tạo; và cho dù chúng được các bà các cô cũng như các em nhỏ hêt sức nâng niu, nhưng mọi người chưa nhìn thấy một biến thể mèo khác biệt phát triển; những giống mèo khác biệt chúng ta đôi khi nhìn thấy hầu hết đều được nhập khẩu từ các nước khác, thường là từ các quốc đảo. Mặc dù tôi không nghi ngờ là vài giống vật nuôi trong nhà thay đổi ít hơn các giống khác nhưng tính hiếm có, thậm chí là không xuất hiện, các giống khác biệt của mèo, lừa, công trống, ngỗng... có thể phần lớn là do sự lựa chọn không phát huy tác dụng: đối với loài mèo là do khó khăn trong việc ghép đôi phối giống; đối với con lừa là do người nông dân nghèo có số lượng lừa quá ít và ít dành sự quan tâm tới việc phối giống chúng; đối với con công trống, do không dễ chăm sóc và không có số lượng lớn, đối với con ngỗng là do chúng chỉ có hai mục đích sử dụng đối với con người: thức ăn và lông; và quan trọng hem cả là do người nhân giống không cảm thấy thích thú giống mới.
Để tổng kết về nguồn gốc vật nuôi cây trồng thuần hóa của chúng ta, tôi tin rằng, điều kiện sống, xét trên tác động của nó tới hệ thống sinh sản, không phải là nguyên nhân chính gây nên tính biến đổi. Tôi không tin tính biến đổi là một thứ gì đó nhất thiết phải có và không thể tách rời, trong tất cả các trường hợp, với mồi cơ thể sống hữu cơ. Một vài học giả đã phát biểu ảnh hưởng của tính thay đổi biếấn động theo nhiều mức độ khác nhau của sự kế thừa và của sự quay trở lại. Tính biến đổi được điều chỉnh bởi rất nhiều quy luật chưa được biết đến mà trong đó quan trọng hơn cả là quy luật của sự tương quan tăng trưởng. Một thứ có thể do điều kiện sống trực tiếp gây ra. Một thứ phải do sự sử dụng hay không sừ dụng gây ra. Do đó, kết quả cuối cùng xuất hiện cực kỳ phức tạp. Trong một vài trường hợp, tôi thừa nhận rằng việc nhân giống chéo các loài mà có nguồn gốc nguyên thủy khác nhau đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành các sản phẩm vật nuôi cây trồng thuần hóa của chúng ta. Khi một vài giống được tạo ra trong bẩt kỳ một nước nào, sự lai ghép chéo hiếm khi xuất hiện của chúng với sự trợ giúp của quá trình lựa chọn chắc chắn đã góp phần lớn trong việc hình thành tiểu giống mới; nhưng tôi tin tầm quan ừọng của sự lai ghép các biến thể đã bị phóng đại quá mức, trong trường hợp của cả động và thực vật mà phát triển từ cây, con giống. Đối với những cây được tạo thành bởi cách chiết, cắt... thì tầm quan trọng của sự lai ghép loài và biến thể khác biệt là vô cùng lớn; vì người trồng cây ở đây hoàn toàn bỏ qua tính biến đổi lớn của động vật và thực vật lai cấy, và cả tính vô sinh thường xuyên xuất hiện ở động vật lai cấy; nhưng trựờng hợp cây không sinh ra từ hạt giống đối với chúng ta là ít có ý nghĩa do sự tồn tại của chúng chỉ là tạm thời. Nói tóm lại, tôi khẳng định nguyên nhân dẫn tới sự thay đổi: ảnh hưởng tích tụ của sự lựa chọn, dù được áp dụng có phương pháp và nhanh chóng hay áp dụng vô tình và chậm chạp, song lại hiệu quả hơn là sức mạnh vượt trội.
CHƯƠNG II
BIẾN ĐỔI TRONG TỰ NHIÊN
Tính biến đổi - những khác biệt các thể - các loài đáng nghi ngờ - tầm trải rộng, và loài thông thường biến đổi nhiều nhất - những giống trong một loài lớn tại bất cứ nước nào biến đổi nhiều hơn so với giống thuộc loài bé hơn - Nhiều giống của loài lớn có bề ngoài giống như các biến thể rất gần gũi nhưng có mối quan hệ không đồng đều, và trong tầm giới hạn.
Trước khi áp dụng những nguyên lý mà chúng ta đã rút ra được từ chương trước cho các cơ thể hữu cơ tồn tại trong môi trường tự nhiên, chúng ta cần thiết phải đề cập một cách ngắn, gọn liệu những cơ thể sống này có chịu ảnh hưởng của sự biến đổi? Để có thể giải đáp chính xác câu hỏi này, tôi nên đưa ra một catalog dài những bằng chứng khô cứng; nhưng tôi sẽ giữ lại chúng cho chủ đề sau này và ở đây tôi cũng không thảo luận các định nghĩa khác nhau đối với từ "loài". Hiện vẫn chưa có một định nghĩa nào được mọi nhà tự nhiên học chấp thuận cho là đầy đủ. Tuy thế họ vẫn ngầm hiểu (khá tù mù) hàm ý của một người khi anh này nói đến "loài". Xét về tổng thể, thuật ngữ đó bao gồm nhân tố chưa được biết đến của một hành động sáng tạo cụ thể. Cụm từ "biến thể" cũng khó định nghĩa không kém; nhưng ở đây, người ta thường ám chỉ đến cộng đồng con cháu mặc dù điều này hiếm khi chứng minh được. Chúng ta cũng có những điều kỳ quái; nhưng chúng tồn tại trong chính các biến thể. Khi nói tới "sự kỳ dị", tôi hình dung nó là một số sai khác đáng kể trong cấu trúc của một bộ phận, mang tính bất lọi hoặc là gây tổn thương cho chính con vật đó, may mắn thay nó ít khi xuất hiện. Một số nhà nghiên cứu sử dụng cụm từ "sự biến đổi" mang ý nghĩa kỹ thuật, hàm ý một chỉnh sửa trực tiếp do điều kiện vật chất của cuộc sống, và "sự biến đổi" theo nghĩa này được cho rằng là không di truyền; nhưng ai có thể nói rằng điều kiện sống khó khăn của các loài động vật có mai, vỏ tại những vùng nước lợ biển Baltic hay của những cây lùn trên đỉnh Alpine, hay bộ lông dày hơn của một con vật tại vùng phía bắc xa xôi, trong một số trường hợp, lại không được di truyền ít nhất qua vài thế hệ. Ở đây, tôi hình dung dạng thức sống đó được gọi là một biến thể.
Một lần nữa, chúng ta có nhiều điểm khác biệt nhỏ có thể được gọi là những khác biệt cá thể, giống như saị khác mà được biết thường xuất hiện ở đứa con so với cha mẹ, hoặc là cái mà có thể được đoán đã xuất hiện ở thực thé sống bị quan sát thường xuyên trong các cá thể của cùng một loài cư trú tại cùng một địa nơi giam cầm. Không ai cho rằng tất cả các cá thể của một loài được đúc từ cùng một khuôn. Những điểm khác biệt cá thể rất quan trọng đối với chúng ta bởi vì chúng cung cấp nguyên liệu cho sự lựa chọn tự nhiên tích lũy, tương tự như cách mà con người có thể tích tụ những điểm khác biệt cá thể trong sản phẩm thuần hóa của họ theo bất kỳ hướng nào cho trước. Những điểm khác biệt cá thể thường ảnh hưởng đến cái mà các nhà tự nhiên coi là kém quan trọng; nhưng tôi có thể chỉ ra, với một cuốn catalo dài các bằng chứng, rằng các phần mà phải được gọi là quan trọng, cho dù được xem xét dưới góc độ của quan điểm sinh lý hay của phân loại, đôi khi thay đổi trong các cá thể của cùng một loài. Tôi hoàn toàn tự tin nói rằng một nhà tự nhiên học giàu kinh nghiệm sẽ phải ngạc nhiên trước số lượng các trường hợp của tính biến đổi, thậm chí trong phần quan trọng của cấu trúc, mà ông ta có thể thu được nhiều kiến thức bổ ích, giống như tôi đã thu lượm được qua nhiều năm. Chúng ta nên nhớ rằng những người làm việc theo phương pháp khoa học chưa hề hài lòng với việc tìm ra tính biến đổi ở tại các đặc điểm quan trọng; và răng không có nhiều người chịu khó xem xét tìm hiểu các bộ phận quan ừọng bên trong, và so sánh chúng giữa các con trong cùng một loài. Tôi không nên bao giờ ưông đợi nhánh thần kinh chính gần với trung tâm hạch của một con côn trùng biến đổi trong cùng một loài mà nên trông đợi sự thay đổi của đặc điểm này chi có thể xảy ra qua quá trình dài lâu; và gần đây thôi, ông Lubbock đã cho thấy một mức độ biến đổi trong dây thần kinh chính của loài Coccus, cái hầu như có thể đem so sánh với nhánh bất bình thường của bộ rễ cây.
Tôi cũng xin nói thêm nhà tự nhiên học kiêm triết gia này gần đây minh chứng các dây cơ trong ấu trùng của vài loài côn trùng không hề đồng nhất. Các học giả đôi khi lập luận vòng vo khi họ phát biểu rằng những bộ phận quan trọng thì không bao giờ biến đổi; và thú vị là chính những vị này xếp đặc điểm quan trọng (như một số nhà tự nhiên học bộc bạch) không thay đổi. Theo quan điểm này, chúng ta sẽ không bao giờ tìm ra ví dụ về một bộ phận biến đổi; nhưng nếu theo bất cứ quan điểm nào khác, nhiều ví dụ kiểu này có thể được đưa ra.
Có một điều liên quan đến tính khác biệt mà vô cùng phức tạp đối với tôi: tôi muốn nói đến các loài mà mọi người vẫn thường gọi là loài "hay thay đổi" hay là "loài đa hình". Những loài này trải qua quá trình thay đổi và phát triển liên tục kể từ khi chúng hình thành. Chúng ta khó có thể tìm thấy hai nhà tự nhiên học đồng ý với nhau dạng thức nào thì được xếp vào loài còn dạng thức nào thì xếp vào biến thể. Những ví dụ về Rubus, hoa hồng và Hieracium trong số các loài cây, một vài loài côn trùng và một vài loài thân vỏ Brachiopod, có thể được trích dẫn ra. Đa số các loài hay thay đổi lại có nhiều đặc điểm cố định và xác định. Loài hay đổi thay nhiều trong một nước hình như có xu hướng cũng biển chuyển nhiều ở các nước khác, tất nhiên là phải trừ một số trường hợp ngoại lệ như của loài Brachiopod. Những thực tể này dường như rất khó hiểu và chứa đựng mâu thuẫn do chúng cỏ vẻ cho thấy kiểu tính biến đổi này là độc lập, không phụ thuộc vào điều kiện sổng. Tôi có thiên hướng nghi ngờ rằng chúng ta nhìn thấy trong loài hay biến đổi các thay đổi có đặc điểm cấu trúc không có ích đối với chúng, do vậy không được sự lựa chọn tự nhiên, một khái niệm sẽ được giải thích đầy đủ ở phần sau chấp nhận.
Những dạng nắm giữ, ở một mức độ đáng kể, các đặc tính của loài nhưng lại quá giống với những dạng khác hay có quan hệ gần gũi với chúng thông qua sự thay đổi nhỏ đến mức các nhà tự nhiên học không thích sắp xếp chúng là một loài riêng biệt, trong một số trường hợp nhất định là khá có ý nghĩa đối với chúng ta. Chúng ta hoàn toàn có lý do để tin rằng nhiều dạng trong số các dạng thức gần gũi, đáng nghi liên tục giữ lại các đặc điểm của chúng tại nước cư ngụ trong thời gian dài. Trong thực tế, khi một nhà tự nhiên học có thể gộp hai dạng vào với nhau do chúng có các đặc điểm trung gian, anh ta coi một dạng là biến thể của dạng còn lại, và sẽ xếp dạng phổ biến hơn, nhưng đôi khi là dạng được miêu tả đầu tiên, là loài và dạng thứ hai là biến thể. Tôi không liệt kê ra đây những trường hợp đầy khó khăn để quyết định xem có hay không xếp một dạng là biến thể của dạng khác thậm chí là khi chúng liên quan mật thiết với nhau thông qua liên kết trung gian. Đặc điểm lai ghép của các liên kết trung gian được đa số các nhà tự nhiên học thừa nhận sẽ không phải lúc nào cũng gỡ bỏ khó khăn. Tuy thế trong rất nhiều trường hợp, một dạng bị coi là biến thể của dạng khác không chỉ là do người ta tìm ra liên kết trung gian mà còn bởi vì những sự so sánh khiến người quan sát đi tới sự tiên đoán hoặc là chúng hiện giờ vẫn tồn tại ở đâu đó hoặc có thể từng tồn tại; và ở đây cánh cửa cho sự nghi ngờ và phỏng đoán đã được mở tung.
Do đó khi quyết định liệu một dạng là nên được xếp vào loài hay biến thể, ý kiến của những nhà tự nhiên học giàu kinh nghiệm, có nhận xét, đánh giá chuẩn xác có vẻ như là phương hướng đúng đắn duy nhất để đi theo. Nhưng trong nhiều trường hợp chúng ta vẫn phải quyết định dựa trên ý kiến đa số của các nhà tự nhiên, bởi vì có một số dạng được đông đảo giới sinh học biết đến và có đặc điểm nổi bật rõ ràng để được xếp vào loài, nhưng chúng vẫn không được các nhà tự nhiên học danh tiếng coi là loài. Việc các biến thể của loài trong thế giới tự nhiên hoang dã đầy sự nghi ngờ này không hề thống nhất là điều không có gì phải bàn cãi. So sánh vài quần thể thực vật ở Đe chế Anh, Pháp, hay Mỹ, được rút ra bởi các nhà nghiên cứu thực vật khác nhau, tôi phát hiện một con số đáng kinh ngạc các dạng thức đã được xếp là loài thực sự bởi một số nhà thực vật học; nhưng đối với những nhà nghiên cứu khác chúng lại chi là biến thể của một dạng. Ông H.c Watson, người đã tận tình giúp đỡ tôi về mọi mặt, đã chỉ cho tôi thấy 182 loài cây nước Anh được coi là biến thể nhưng lại được đa số các nhà thực vật học coi đây là loài. Khi đưa ra bản danh sách này, ông đã loại đi nhiều biến thể không đáng kể, nhưng lại được các nhà thực vật học khác xếp vào loài, và ông đã bỏ đi toàn bộ một số loài hay thay đổi. Trái lại ông Babington đưa ra hai trăm năm mươi mốt loài, bao gồm cả những dạng biến đổi nhiều nhất, còn ông Bentham liệt kê một trăm mười hai loài - một sự khác biệt một trăm ba chín dạng đang tranh cãi. Trong số những con vật mà được hợp vào dựa trên nguồn gốc sinh nở, và những con mang tính di động cao, các dạng đáng nghi ngờ, được phân loại là bởi nhà động vật học này nhưng là biến thể bởi nhà động vật học khác, ít khi tìm ra trong cùng một nước nhưng lại hay xuất hiện tại các địa điểm cách biệt. Có vô số loài chim và côn trùng ở Bắc Mỹ và châu âu, chúng rất ít khác biệt nếu đem so với nhau, đã được một nhà tự nhiên giàu kinh nghiệm xếp vào dạng loài rõ ràng,và bởi một người khác xếp vào dạng biến thể, hay như người thường gọi chúng là giống theo khu vực địa lý! Nhiều năm trước đây, khi so sánh, và cả xem người khác so sánh các con chim đến từ các đảo khác nhau của quần đảo Galapagos, so sánh một con một với nhau hay là với các con từ lục địa châu Mỹ, tôi cảm thấy rất ngạc nhiên trước sự phân biệt mơ hồ và thường dựa vào chủ quan cá nhân giữa loài và biến thể. Trong những đảo của quần đảo Maderia có rất nhiều côn trùng mà được ông Wollaston xếp vào dạng biến thể trong công trình nghiên cứu khoa học đáng khâm phục của ông, nhưng chắc chắn những con này sẽ được các nhà nghiên cứu côn trùng khác xếp vào dạng loài. Thậm chí trong nước Ireland chỉ có một vài con vật được mọi người vẫn là biến thể, song một vài nhà tự nhiên học khăng khăng chúng là loài. Một vài nhà nghiên cứu chim nổi tiếng chỉ công nhận gà gô trắng Anh là một giống của một loài ở Na-uy, trong khi đó nhiều người lại xếp nó vào loài ngoại lai của Đế chế Anh. Khoảng cách lớn giữa hai dạng thuộc diện nghi ngờ khiến hầu hết các nhà tự nhiên học nghĩ chúng là hai loài phân biệt. Song một câu hỏi đặt ra ở đây là khoảng cách xa bao nhiêu thì mới đủ? Chúng ta phải thừa nhận rằng nhiều dạng thức được phân loại bởi các nhà nghiên cứu đầy uy tín, có những đặc điểm chỉ hoàn hảo tới mức mà các nhà nghiên cứu tiếng tăm khác coi chúng thực sự là dạng loài. Nhưng để thảo luận xem liệu có đúng hay không khi chúng được gọi là loài hoặc biến thể, trước khi bất kỳ một định nghĩa nào cho các cụm từ này được chấp nhận, là không khả thi.
Nhiều trường hợp của các biến thể được chú ý kỹ hay loài bị nghi ngờ đáng nhận được sự quan tâm đúng mực. Người ta vin vào sự phân bố địa lý, biến đổi mang tính so sánh, tính lai ghép... để đưa ra một số lập luận nhằm cố gắng quyết định việc phân loại. Tôi chỉ đưa ra một ví dụ duy nhầt, ví dụ nổi tiếng về cây anh thảo và cây anh thảo vàng, hay cây báo xuân. Những cây này khác nhau đáng kể nếu xét về hình dáng bên ngoài của chúng. Chúng có mùi thon và tỏa hưomg thon không lẫn vào đâu được; chúng trổ hoa ở những thời điểm khác nhau chút ít; chúng phát triển trong hoàn cảnh, môi trường sống khá khác biệt, chúng mọc trên núi ở độ cao chênh lệch; chúng có tầm địa lý không giống nhau; và cuối cùng theo kết quả rút ra từ nhiều cuộc khảo sát và thực nghiệm trong suốt mấy năm qua của ông Gartner, người nổi tiếng về tính cẩn thận: để lai giống chúng là một việc làm vô cùng khó khăn. Chúng ta khó có thể đạt được một chứng cứ với chất lượng cao hơn nữa về hai dạng khác biệt cụ thể. Chúng được gắn kết thông qua nhiều mối liên hệ trung gian và mọi người nghi ngờ rằng liệu những gắn kết này có phải là các lai ghép hay không; và tôi cho rằng số lượng bằng chứng khảo nghiệm là khổng lồ, chứng minh chúng bắt nguồn từ cùng cha mẹ; và như thế thì phải được xếp vào hàng biến thể.
Trong hầu hết các trường hợp, việc rà soát kỹ càng sẽ giúp các nhà tự nhiên học đi đến một thống nhất về dạng đang bị nghi ngờ. Song chúng ta phải công nhận là ở những nước được biết tới nhiều nhất, chúng ta tìm thấy số lượng lớn nhất các dạng bị nghi ngờ. Tôi cho rằng nếu bất kỳ động vật hay thực vào nào trong thiên nhiên có ích lợi lớn đối với con người hay thu hút được sự chú ý của họ, thì các biến thể của chúng được tìm thấy rất nhiều. hơn nữa một số học giả thường khẳng định những biến thể này là loài. Hãy quan sát cây sồi bình thường; nó đã được các nhà sinh vật học nghiên cứu kỹ càng, song một nhà nghiên cứu người Đức xếp hơn 12 loài từ các dạng nói chung được coi là biến thể; và tại quốc gia này, chúng ta có thể trích dẫn lời của những chuyên gia và của những người làm việc thực tế nói rằng cầy sồi là không cuống và có cuống hoặc là loài thực sự hoặc chỉ là biến thể đơn thuần.
Khi một nhà tự nhiên học trẻ tuổi bắt đầu nghiên cứu về nhóm các cơ thể sống tương đối xa lạ đối với anh ta, anh ta ban đầu sẽ thấy bối rối không biết quyết định xem với đặc điểm khác biệt gì để được cho vào dạng loài hay biến thể; bởi vì anh ta chưa hề biết tới sự biến đổi mà nhóm đó phải chịu tác động. Điều này ít nhất cho thấy sự biến đổi thường xuất hiện. Nhưng nếu tập trung nghiên cứu một loài trong một nước nào đó, anh ta sẽ sớm tìm ra được phương pháp để phân loại những dạng nghi ngờ nhất. Xu hướng chung của một nhà tự nhiên học trẻ tuổi điển hình là mong muốn sắp xếp càng nhiều dạng vào loài càng tốt; bởi vì như thế họ sẽ được mọi người chú ý tới, giống như những người nuôi chim bồ câu hay gia cầm. Anh ta có ít kiến thức chung về sự biến đối tương tự của các nhóm khác và trong các nước khác mà chính chúng có thể giúp anh ta nhận thức đúng hơn so với ấn tượng ban đầu. Trong quá trình mở rộng tầm nghiên cứu cũng như quan sát, anh ta sẽ đối mặt nhiều trường hợp khó khăn, phức tạp hơn và anh ta sẽ bắt gặp số lượng lớn hơn các loài có quan hệ gần gũi. Nếu sự quan sát, nghiên cứu được mờ rộng, chắc chắn kết quả cuối cùng thu được là nhà tự nhiên học trẻ tuổi này có thể quyết định gọi dạng nào là loài, dạng nào là biến thể. Song anh ta chỉ thành công trong việc này khi chấp nhận có nhiều biến đổi đã xảy ra -và sự thật đó thường bị các nhà tự nhiên học khác phản đối. Vả lại khi nghiên cứu, xem xét các dạng thức gần gũi được mang đến từ nhiều nước, việc này hiện giờ không còn được làm nữa, mà trong đó anh ta khó có thể tìm ra mối liên kết trung gian giữa các dạng bị nghi ngờ, anh ta sẽ phải hoàn toàn tin vào sự so sánh trực quan; và lúc đó khó khăn sẽ chồng chất.
Tuy nhiên cho đến nay, chúng ta vẫn không có sự phân định rõ ràng về loài và tiểu loài. Những dạng mà theo một số nhà tự nhiên học đã tiến rất gần, nhưng không hoàn toàn đạt tới để có thể xếp vào loài, hay nằm giữa tiểu loài và biến thể nổi bật, hay giữa biến thể ít nổi bật hơn và khác biệt cá thể. Các điếm khác biệt này xen kẽ lẫn lộn song lại cung cấp một lối ra đích thực.
Do đó tôi quan niệm những khác biệt cả thể, cho dù chúng không hề thủ vị gì đối với một nhà nghiên cứu về hệ thống, nhưng lại quan trọng đối với chúng ta, như là bước đầu tiên tiến tới biến thể. Mọi người rất ít để ý tới các khác biệt này thể hiện qua thực tế là họ nghĩ chúng không đáng để ghi vào trong những tác phẩm viết về lịch sử tự nhiên. Tôi coi các biến thể xét trên bất kỳ mức độ khác biệt hay thường xuyên nào, là bước dẫn tới biến thể thường xuyên và nổi bật hơn, tiếp đó là dần tới tiểu loài rồi loài.
Trong một vài trường họp, sự chuyển hóa từ giai đoạn này sang giai đoạn khác cao hơn có thể chỉ đơn thuần là do ảnh hưởng lâu dài liên tục của các điều kiện sống vật chất tự nhiên trong hai vùng khác biệt, nhưng tôi không mấy tin vào tư tưởng này; và tôi quan niệm rằng nguyên nhân gây ra sự chuyển đổi của một biến thể, từ trạng thái mà trong đó nó ít khác biệt sang trạng thái khác biệt nhiều hơn so với cha mẹ, chính là tác nhân của sự lựa chọn tự nhiên (sẽ được giải thích đủ sau này) đối với khác biệt tích tụ của cấu trúc theo những hướng nhất định. Với lý do này, tôi quan niệm một biến thể nổi bật chỉ nên được gọi là loài mới xuất hiện; nhưng liệu quan niệm này có thể được minh chứng hay không thì tôi cần phải có các bằng chứng thuyết phục và cái nhìn đúng đắn trong toàn bộ tác phẩm.
Mọi người không nên nghĩ rằng tất cả các biến thế hoặc loài mới sinh ra nhất thiết phải đạt tới xép hạng loài. Chúng có thể bị tuyệt chủng hoặc tồn tại với tư cách là biến thể trong giai đoạn rất dài, giống như ví dụ dẫn ra bởi ông Wollaston về biến thể của loài thân sò trên cạn cổ đại tại quần đảo Madeira. Nếu một biến thể phát triển mạnh mẽ tới mức vượt số lượng loài bố mẹ, thì chúng sẽ được coi là loài, còn loài bố mẹ bị đẩy xuống hàng biến thể; có thể giành lấy hay làm tuyệt chủng loài bố me; hoặc nếu cùng tồn tại thì cả hai cùng được công nhận là hai loài độc lập. Chúng ta sẽ còn quay lại chủ đề này ở phần sau.
Với những nhận xét đó, người ta hiểu là tôi hình dung thuật ngữ "loài" như là một từ được đưa ra mang tính chủ quan để thuận tiện cho việc gọi tên một hệ các cá thể rất giống nhau, và cơ bản là nó không khác mấy so với thuật ngữ "biến thể", dùng cho dạng ít nổi bất và hay biến hóa hơn. Thuật ngữ "biến thể", một lần nữa, trong sự so sánh với khác biệt cá thể, cũng bị áp dụng một cách lộn xộn với mục đích thuận tiện.
Dựa vào suy xét mang tính lý thuyết, tôi đã nghĩ chúng ta sẽ thu được kết quả thú vị về thế giới tự nhiên và mối quan hệ của loài thay đổi nhiều nhất bằng cách lập bảng tất cả các biến thể trong các quần thực vật hoạt động tốt. Ban đầu, việc này nghe có vẻ đơn giản nhưng ông H.c. Watson, người tôi rất biết ơn với lời góp ý và sự giúp đỡ quý báu về chủ đề-này. Đã sớm thuyết phục tôi: nhiều khó khăn vướng mắc sẽ phát sinh; và tiến sĩ Hooker cũng đưa ra nhận định tương tự, thậm chí là với từ ngữ mãnh liệt hơn. Tôi sẽ nói đến sau những khó khăn này và các bảng con số cân đối của các loài biến đổi.
Tiến sĩ Hooker cho phép tôi thêm một số chi tiết, sau khi đã đọc kỹ bản thảo và kiểm tra các bảng biểu của tôi; ông nhận xét những nhận ỵinh sau là hoàn toàn có căn cứ. Tuy nhiên toàn bộ chủ đề mà cần thiết được đề cập ngắn gọn ở đây lại khá phức tạp; vẩn đề quan đến "cuộc đấu tranh sinh tồn", "sự chệch hướng của tính cách" và các câu hỏi khác sẽ được thảo luận đến sau.
Ông Alph. De. Candolle phát biểu những cây trải rộng nói chung là hay cho ra biến thể; và người ta có thể đã trông đợi sự việc này bởi vì chúng tồn tại trong điều kiện sống đa dạng và phải cạnh tranh (quá hiện tượng sau này chúng ta sẽ thấy nó còn quan trọng hơn) và các bộ loài cơ thể sống khác. Nhưng các bảng của tôi còn cung cấp nhiều thông tin hơn thế nữa: loài phổ biến nhất, nhiều cá thể nhất, và loài phát triển rộng khắp trong chính nước bản địa của chúng, trong một chừng mực nào đó, đây là một quan điểm khá khác lạ so với quan niệm chung, thường tạo điều kiện cho các biến thể phát triển nổi bật tới mức chúng được ghi chép lại trong các công trình nghiên cứu về cây cối. Như vậy loài phát triển nhất, hay như người ta vẫn thường gọi nó là loài thống trị, loài mà có mặt khắp nơi trên thế giới, phổ biến nhất trong nước bản địa và có đông số lượng cá thể nhất - thường sinh ra biến thể nhiều nhất, và theo cách tôi quan niệm về chúng là loài mới sinh. Và điều này có lẽ cũng đã được tiên đoán từ trước bởi vì các biến thể để tồn tại lâu dài phải cạnh tranh với các cư dâấn động, thực vật khác sống trong nước đó. Loài thống trị có xu hướng sinh ra những đưa con được thừa hưởng các ưu điểm nhờ đó loài thống trị có lợi thế hơn so với các loài khác. Chúng ta sẽ thấy số lượng lớn hơn của các loài rất phổ biến hay loài thống trị nằm ở trong lớp thực vật lớn hơn. Một lần nữa, các nhà tự nhiên học chắc hẳn đã dự đoán tình trạng này do thực tể nhiều loài trong cùng một lớp sống tại bất cứ nước nào, cho chúng ta thấy có một cái gì đó trong điều kiện sống hữu cơ và vô cơ đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển lớp động thực vật đó, và kết quả là chúng ta đã mong đợi tìm ra trong lớp lớn hơn hay nói cách khác trong lớp bao gồm nhiều loài, một số lượng lớn các loài thống trị. Nhưng có quá nhiều nguyên nhân che giấu đi kết quả này đến nỗi tôi cảm thấy ngạc nhiên chính những bảng biểu của mình thậm chí còn một phần (nhỏ thôi) nghiêng về phía lớp lớn. Ở đây, tôi chỉ muốn nói đến hai nguyên nhân của sự khó hiểu. Cây ưa nước ngọt và cây ưa nước mặn thường phân tán khá rộng, nhưng hiện tượng này có vẻ như liên quan đến điều kiện tự nhiên nơi chúng tồn tại và có ít hoặc không có quan hệ gì tới kích thước của lớp thực vật mà chúng thuộc về. Cây nhỏ hoặc ít phát triển thông thường trải rộng hơn nhiều so với cây cỡ lớn. và ở đây cũng không có mối quan hệ mật thiết với kích thước của lớp thực vật. Nguyên nhân những cây có cấu trúc không hoàn chỉnh phân bố rộng sẽ được tôi đề cập đến ở chương bàn về phân bố địa.
BIẾN ĐỔI TRONG TỰ NHIÊN
Tính biến đổi - những khác biệt các thể - các loài đáng nghi ngờ - tầm trải rộng, và loài thông thường biến đổi nhiều nhất - những giống trong một loài lớn tại bất cứ nước nào biến đổi nhiều hơn so với giống thuộc loài bé hơn - Nhiều giống của loài lớn có bề ngoài giống như các biến thể rất gần gũi nhưng có mối quan hệ không đồng đều, và trong tầm giới hạn.
Trước khi áp dụng những nguyên lý mà chúng ta đã rút ra được từ chương trước cho các cơ thể hữu cơ tồn tại trong môi trường tự nhiên, chúng ta cần thiết phải đề cập một cách ngắn, gọn liệu những cơ thể sống này có chịu ảnh hưởng của sự biến đổi? Để có thể giải đáp chính xác câu hỏi này, tôi nên đưa ra một catalog dài những bằng chứng khô cứng; nhưng tôi sẽ giữ lại chúng cho chủ đề sau này và ở đây tôi cũng không thảo luận các định nghĩa khác nhau đối với từ "loài". Hiện vẫn chưa có một định nghĩa nào được mọi nhà tự nhiên học chấp thuận cho là đầy đủ. Tuy thế họ vẫn ngầm hiểu (khá tù mù) hàm ý của một người khi anh này nói đến "loài". Xét về tổng thể, thuật ngữ đó bao gồm nhân tố chưa được biết đến của một hành động sáng tạo cụ thể. Cụm từ "biến thể" cũng khó định nghĩa không kém; nhưng ở đây, người ta thường ám chỉ đến cộng đồng con cháu mặc dù điều này hiếm khi chứng minh được. Chúng ta cũng có những điều kỳ quái; nhưng chúng tồn tại trong chính các biến thể. Khi nói tới "sự kỳ dị", tôi hình dung nó là một số sai khác đáng kể trong cấu trúc của một bộ phận, mang tính bất lọi hoặc là gây tổn thương cho chính con vật đó, may mắn thay nó ít khi xuất hiện. Một số nhà nghiên cứu sử dụng cụm từ "sự biến đổi" mang ý nghĩa kỹ thuật, hàm ý một chỉnh sửa trực tiếp do điều kiện vật chất của cuộc sống, và "sự biến đổi" theo nghĩa này được cho rằng là không di truyền; nhưng ai có thể nói rằng điều kiện sống khó khăn của các loài động vật có mai, vỏ tại những vùng nước lợ biển Baltic hay của những cây lùn trên đỉnh Alpine, hay bộ lông dày hơn của một con vật tại vùng phía bắc xa xôi, trong một số trường hợp, lại không được di truyền ít nhất qua vài thế hệ. Ở đây, tôi hình dung dạng thức sống đó được gọi là một biến thể.
Một lần nữa, chúng ta có nhiều điểm khác biệt nhỏ có thể được gọi là những khác biệt cá thể, giống như saị khác mà được biết thường xuất hiện ở đứa con so với cha mẹ, hoặc là cái mà có thể được đoán đã xuất hiện ở thực thé sống bị quan sát thường xuyên trong các cá thể của cùng một loài cư trú tại cùng một địa nơi giam cầm. Không ai cho rằng tất cả các cá thể của một loài được đúc từ cùng một khuôn. Những điểm khác biệt cá thể rất quan trọng đối với chúng ta bởi vì chúng cung cấp nguyên liệu cho sự lựa chọn tự nhiên tích lũy, tương tự như cách mà con người có thể tích tụ những điểm khác biệt cá thể trong sản phẩm thuần hóa của họ theo bất kỳ hướng nào cho trước. Những điểm khác biệt cá thể thường ảnh hưởng đến cái mà các nhà tự nhiên coi là kém quan trọng; nhưng tôi có thể chỉ ra, với một cuốn catalo dài các bằng chứng, rằng các phần mà phải được gọi là quan trọng, cho dù được xem xét dưới góc độ của quan điểm sinh lý hay của phân loại, đôi khi thay đổi trong các cá thể của cùng một loài. Tôi hoàn toàn tự tin nói rằng một nhà tự nhiên học giàu kinh nghiệm sẽ phải ngạc nhiên trước số lượng các trường hợp của tính biến đổi, thậm chí trong phần quan trọng của cấu trúc, mà ông ta có thể thu được nhiều kiến thức bổ ích, giống như tôi đã thu lượm được qua nhiều năm. Chúng ta nên nhớ rằng những người làm việc theo phương pháp khoa học chưa hề hài lòng với việc tìm ra tính biến đổi ở tại các đặc điểm quan trọng; và răng không có nhiều người chịu khó xem xét tìm hiểu các bộ phận quan ừọng bên trong, và so sánh chúng giữa các con trong cùng một loài. Tôi không nên bao giờ ưông đợi nhánh thần kinh chính gần với trung tâm hạch của một con côn trùng biến đổi trong cùng một loài mà nên trông đợi sự thay đổi của đặc điểm này chi có thể xảy ra qua quá trình dài lâu; và gần đây thôi, ông Lubbock đã cho thấy một mức độ biến đổi trong dây thần kinh chính của loài Coccus, cái hầu như có thể đem so sánh với nhánh bất bình thường của bộ rễ cây.
Tôi cũng xin nói thêm nhà tự nhiên học kiêm triết gia này gần đây minh chứng các dây cơ trong ấu trùng của vài loài côn trùng không hề đồng nhất. Các học giả đôi khi lập luận vòng vo khi họ phát biểu rằng những bộ phận quan trọng thì không bao giờ biến đổi; và thú vị là chính những vị này xếp đặc điểm quan trọng (như một số nhà tự nhiên học bộc bạch) không thay đổi. Theo quan điểm này, chúng ta sẽ không bao giờ tìm ra ví dụ về một bộ phận biến đổi; nhưng nếu theo bất cứ quan điểm nào khác, nhiều ví dụ kiểu này có thể được đưa ra.
Có một điều liên quan đến tính khác biệt mà vô cùng phức tạp đối với tôi: tôi muốn nói đến các loài mà mọi người vẫn thường gọi là loài "hay thay đổi" hay là "loài đa hình". Những loài này trải qua quá trình thay đổi và phát triển liên tục kể từ khi chúng hình thành. Chúng ta khó có thể tìm thấy hai nhà tự nhiên học đồng ý với nhau dạng thức nào thì được xếp vào loài còn dạng thức nào thì xếp vào biến thể. Những ví dụ về Rubus, hoa hồng và Hieracium trong số các loài cây, một vài loài côn trùng và một vài loài thân vỏ Brachiopod, có thể được trích dẫn ra. Đa số các loài hay thay đổi lại có nhiều đặc điểm cố định và xác định. Loài hay đổi thay nhiều trong một nước hình như có xu hướng cũng biển chuyển nhiều ở các nước khác, tất nhiên là phải trừ một số trường hợp ngoại lệ như của loài Brachiopod. Những thực tể này dường như rất khó hiểu và chứa đựng mâu thuẫn do chúng cỏ vẻ cho thấy kiểu tính biến đổi này là độc lập, không phụ thuộc vào điều kiện sổng. Tôi có thiên hướng nghi ngờ rằng chúng ta nhìn thấy trong loài hay biến đổi các thay đổi có đặc điểm cấu trúc không có ích đối với chúng, do vậy không được sự lựa chọn tự nhiên, một khái niệm sẽ được giải thích đầy đủ ở phần sau chấp nhận.
Những dạng nắm giữ, ở một mức độ đáng kể, các đặc tính của loài nhưng lại quá giống với những dạng khác hay có quan hệ gần gũi với chúng thông qua sự thay đổi nhỏ đến mức các nhà tự nhiên học không thích sắp xếp chúng là một loài riêng biệt, trong một số trường hợp nhất định là khá có ý nghĩa đối với chúng ta. Chúng ta hoàn toàn có lý do để tin rằng nhiều dạng trong số các dạng thức gần gũi, đáng nghi liên tục giữ lại các đặc điểm của chúng tại nước cư ngụ trong thời gian dài. Trong thực tế, khi một nhà tự nhiên học có thể gộp hai dạng vào với nhau do chúng có các đặc điểm trung gian, anh ta coi một dạng là biến thể của dạng còn lại, và sẽ xếp dạng phổ biến hơn, nhưng đôi khi là dạng được miêu tả đầu tiên, là loài và dạng thứ hai là biến thể. Tôi không liệt kê ra đây những trường hợp đầy khó khăn để quyết định xem có hay không xếp một dạng là biến thể của dạng khác thậm chí là khi chúng liên quan mật thiết với nhau thông qua liên kết trung gian. Đặc điểm lai ghép của các liên kết trung gian được đa số các nhà tự nhiên học thừa nhận sẽ không phải lúc nào cũng gỡ bỏ khó khăn. Tuy thế trong rất nhiều trường hợp, một dạng bị coi là biến thể của dạng khác không chỉ là do người ta tìm ra liên kết trung gian mà còn bởi vì những sự so sánh khiến người quan sát đi tới sự tiên đoán hoặc là chúng hiện giờ vẫn tồn tại ở đâu đó hoặc có thể từng tồn tại; và ở đây cánh cửa cho sự nghi ngờ và phỏng đoán đã được mở tung.
Do đó khi quyết định liệu một dạng là nên được xếp vào loài hay biến thể, ý kiến của những nhà tự nhiên học giàu kinh nghiệm, có nhận xét, đánh giá chuẩn xác có vẻ như là phương hướng đúng đắn duy nhất để đi theo. Nhưng trong nhiều trường hợp chúng ta vẫn phải quyết định dựa trên ý kiến đa số của các nhà tự nhiên, bởi vì có một số dạng được đông đảo giới sinh học biết đến và có đặc điểm nổi bật rõ ràng để được xếp vào loài, nhưng chúng vẫn không được các nhà tự nhiên học danh tiếng coi là loài. Việc các biến thể của loài trong thế giới tự nhiên hoang dã đầy sự nghi ngờ này không hề thống nhất là điều không có gì phải bàn cãi. So sánh vài quần thể thực vật ở Đe chế Anh, Pháp, hay Mỹ, được rút ra bởi các nhà nghiên cứu thực vật khác nhau, tôi phát hiện một con số đáng kinh ngạc các dạng thức đã được xếp là loài thực sự bởi một số nhà thực vật học; nhưng đối với những nhà nghiên cứu khác chúng lại chi là biến thể của một dạng. Ông H.c Watson, người đã tận tình giúp đỡ tôi về mọi mặt, đã chỉ cho tôi thấy 182 loài cây nước Anh được coi là biến thể nhưng lại được đa số các nhà thực vật học coi đây là loài. Khi đưa ra bản danh sách này, ông đã loại đi nhiều biến thể không đáng kể, nhưng lại được các nhà thực vật học khác xếp vào loài, và ông đã bỏ đi toàn bộ một số loài hay thay đổi. Trái lại ông Babington đưa ra hai trăm năm mươi mốt loài, bao gồm cả những dạng biến đổi nhiều nhất, còn ông Bentham liệt kê một trăm mười hai loài - một sự khác biệt một trăm ba chín dạng đang tranh cãi. Trong số những con vật mà được hợp vào dựa trên nguồn gốc sinh nở, và những con mang tính di động cao, các dạng đáng nghi ngờ, được phân loại là bởi nhà động vật học này nhưng là biến thể bởi nhà động vật học khác, ít khi tìm ra trong cùng một nước nhưng lại hay xuất hiện tại các địa điểm cách biệt. Có vô số loài chim và côn trùng ở Bắc Mỹ và châu âu, chúng rất ít khác biệt nếu đem so với nhau, đã được một nhà tự nhiên giàu kinh nghiệm xếp vào dạng loài rõ ràng,và bởi một người khác xếp vào dạng biến thể, hay như người thường gọi chúng là giống theo khu vực địa lý! Nhiều năm trước đây, khi so sánh, và cả xem người khác so sánh các con chim đến từ các đảo khác nhau của quần đảo Galapagos, so sánh một con một với nhau hay là với các con từ lục địa châu Mỹ, tôi cảm thấy rất ngạc nhiên trước sự phân biệt mơ hồ và thường dựa vào chủ quan cá nhân giữa loài và biến thể. Trong những đảo của quần đảo Maderia có rất nhiều côn trùng mà được ông Wollaston xếp vào dạng biến thể trong công trình nghiên cứu khoa học đáng khâm phục của ông, nhưng chắc chắn những con này sẽ được các nhà nghiên cứu côn trùng khác xếp vào dạng loài. Thậm chí trong nước Ireland chỉ có một vài con vật được mọi người vẫn là biến thể, song một vài nhà tự nhiên học khăng khăng chúng là loài. Một vài nhà nghiên cứu chim nổi tiếng chỉ công nhận gà gô trắng Anh là một giống của một loài ở Na-uy, trong khi đó nhiều người lại xếp nó vào loài ngoại lai của Đế chế Anh. Khoảng cách lớn giữa hai dạng thuộc diện nghi ngờ khiến hầu hết các nhà tự nhiên học nghĩ chúng là hai loài phân biệt. Song một câu hỏi đặt ra ở đây là khoảng cách xa bao nhiêu thì mới đủ? Chúng ta phải thừa nhận rằng nhiều dạng thức được phân loại bởi các nhà nghiên cứu đầy uy tín, có những đặc điểm chỉ hoàn hảo tới mức mà các nhà nghiên cứu tiếng tăm khác coi chúng thực sự là dạng loài. Nhưng để thảo luận xem liệu có đúng hay không khi chúng được gọi là loài hoặc biến thể, trước khi bất kỳ một định nghĩa nào cho các cụm từ này được chấp nhận, là không khả thi.
Nhiều trường hợp của các biến thể được chú ý kỹ hay loài bị nghi ngờ đáng nhận được sự quan tâm đúng mực. Người ta vin vào sự phân bố địa lý, biến đổi mang tính so sánh, tính lai ghép... để đưa ra một số lập luận nhằm cố gắng quyết định việc phân loại. Tôi chỉ đưa ra một ví dụ duy nhầt, ví dụ nổi tiếng về cây anh thảo và cây anh thảo vàng, hay cây báo xuân. Những cây này khác nhau đáng kể nếu xét về hình dáng bên ngoài của chúng. Chúng có mùi thon và tỏa hưomg thon không lẫn vào đâu được; chúng trổ hoa ở những thời điểm khác nhau chút ít; chúng phát triển trong hoàn cảnh, môi trường sống khá khác biệt, chúng mọc trên núi ở độ cao chênh lệch; chúng có tầm địa lý không giống nhau; và cuối cùng theo kết quả rút ra từ nhiều cuộc khảo sát và thực nghiệm trong suốt mấy năm qua của ông Gartner, người nổi tiếng về tính cẩn thận: để lai giống chúng là một việc làm vô cùng khó khăn. Chúng ta khó có thể đạt được một chứng cứ với chất lượng cao hơn nữa về hai dạng khác biệt cụ thể. Chúng được gắn kết thông qua nhiều mối liên hệ trung gian và mọi người nghi ngờ rằng liệu những gắn kết này có phải là các lai ghép hay không; và tôi cho rằng số lượng bằng chứng khảo nghiệm là khổng lồ, chứng minh chúng bắt nguồn từ cùng cha mẹ; và như thế thì phải được xếp vào hàng biến thể.
Trong hầu hết các trường hợp, việc rà soát kỹ càng sẽ giúp các nhà tự nhiên học đi đến một thống nhất về dạng đang bị nghi ngờ. Song chúng ta phải công nhận là ở những nước được biết tới nhiều nhất, chúng ta tìm thấy số lượng lớn nhất các dạng bị nghi ngờ. Tôi cho rằng nếu bất kỳ động vật hay thực vào nào trong thiên nhiên có ích lợi lớn đối với con người hay thu hút được sự chú ý của họ, thì các biến thể của chúng được tìm thấy rất nhiều. hơn nữa một số học giả thường khẳng định những biến thể này là loài. Hãy quan sát cây sồi bình thường; nó đã được các nhà sinh vật học nghiên cứu kỹ càng, song một nhà nghiên cứu người Đức xếp hơn 12 loài từ các dạng nói chung được coi là biến thể; và tại quốc gia này, chúng ta có thể trích dẫn lời của những chuyên gia và của những người làm việc thực tế nói rằng cầy sồi là không cuống và có cuống hoặc là loài thực sự hoặc chỉ là biến thể đơn thuần.
Khi một nhà tự nhiên học trẻ tuổi bắt đầu nghiên cứu về nhóm các cơ thể sống tương đối xa lạ đối với anh ta, anh ta ban đầu sẽ thấy bối rối không biết quyết định xem với đặc điểm khác biệt gì để được cho vào dạng loài hay biến thể; bởi vì anh ta chưa hề biết tới sự biến đổi mà nhóm đó phải chịu tác động. Điều này ít nhất cho thấy sự biến đổi thường xuất hiện. Nhưng nếu tập trung nghiên cứu một loài trong một nước nào đó, anh ta sẽ sớm tìm ra được phương pháp để phân loại những dạng nghi ngờ nhất. Xu hướng chung của một nhà tự nhiên học trẻ tuổi điển hình là mong muốn sắp xếp càng nhiều dạng vào loài càng tốt; bởi vì như thế họ sẽ được mọi người chú ý tới, giống như những người nuôi chim bồ câu hay gia cầm. Anh ta có ít kiến thức chung về sự biến đối tương tự của các nhóm khác và trong các nước khác mà chính chúng có thể giúp anh ta nhận thức đúng hơn so với ấn tượng ban đầu. Trong quá trình mở rộng tầm nghiên cứu cũng như quan sát, anh ta sẽ đối mặt nhiều trường hợp khó khăn, phức tạp hơn và anh ta sẽ bắt gặp số lượng lớn hơn các loài có quan hệ gần gũi. Nếu sự quan sát, nghiên cứu được mờ rộng, chắc chắn kết quả cuối cùng thu được là nhà tự nhiên học trẻ tuổi này có thể quyết định gọi dạng nào là loài, dạng nào là biến thể. Song anh ta chỉ thành công trong việc này khi chấp nhận có nhiều biến đổi đã xảy ra -và sự thật đó thường bị các nhà tự nhiên học khác phản đối. Vả lại khi nghiên cứu, xem xét các dạng thức gần gũi được mang đến từ nhiều nước, việc này hiện giờ không còn được làm nữa, mà trong đó anh ta khó có thể tìm ra mối liên kết trung gian giữa các dạng bị nghi ngờ, anh ta sẽ phải hoàn toàn tin vào sự so sánh trực quan; và lúc đó khó khăn sẽ chồng chất.
Tuy nhiên cho đến nay, chúng ta vẫn không có sự phân định rõ ràng về loài và tiểu loài. Những dạng mà theo một số nhà tự nhiên học đã tiến rất gần, nhưng không hoàn toàn đạt tới để có thể xếp vào loài, hay nằm giữa tiểu loài và biến thể nổi bật, hay giữa biến thể ít nổi bật hơn và khác biệt cá thể. Các điếm khác biệt này xen kẽ lẫn lộn song lại cung cấp một lối ra đích thực.
Do đó tôi quan niệm những khác biệt cả thể, cho dù chúng không hề thủ vị gì đối với một nhà nghiên cứu về hệ thống, nhưng lại quan trọng đối với chúng ta, như là bước đầu tiên tiến tới biến thể. Mọi người rất ít để ý tới các khác biệt này thể hiện qua thực tế là họ nghĩ chúng không đáng để ghi vào trong những tác phẩm viết về lịch sử tự nhiên. Tôi coi các biến thể xét trên bất kỳ mức độ khác biệt hay thường xuyên nào, là bước dẫn tới biến thể thường xuyên và nổi bật hơn, tiếp đó là dần tới tiểu loài rồi loài.
Trong một vài trường họp, sự chuyển hóa từ giai đoạn này sang giai đoạn khác cao hơn có thể chỉ đơn thuần là do ảnh hưởng lâu dài liên tục của các điều kiện sống vật chất tự nhiên trong hai vùng khác biệt, nhưng tôi không mấy tin vào tư tưởng này; và tôi quan niệm rằng nguyên nhân gây ra sự chuyển đổi của một biến thể, từ trạng thái mà trong đó nó ít khác biệt sang trạng thái khác biệt nhiều hơn so với cha mẹ, chính là tác nhân của sự lựa chọn tự nhiên (sẽ được giải thích đủ sau này) đối với khác biệt tích tụ của cấu trúc theo những hướng nhất định. Với lý do này, tôi quan niệm một biến thể nổi bật chỉ nên được gọi là loài mới xuất hiện; nhưng liệu quan niệm này có thể được minh chứng hay không thì tôi cần phải có các bằng chứng thuyết phục và cái nhìn đúng đắn trong toàn bộ tác phẩm.
Mọi người không nên nghĩ rằng tất cả các biến thế hoặc loài mới sinh ra nhất thiết phải đạt tới xép hạng loài. Chúng có thể bị tuyệt chủng hoặc tồn tại với tư cách là biến thể trong giai đoạn rất dài, giống như ví dụ dẫn ra bởi ông Wollaston về biến thể của loài thân sò trên cạn cổ đại tại quần đảo Madeira. Nếu một biến thể phát triển mạnh mẽ tới mức vượt số lượng loài bố mẹ, thì chúng sẽ được coi là loài, còn loài bố mẹ bị đẩy xuống hàng biến thể; có thể giành lấy hay làm tuyệt chủng loài bố me; hoặc nếu cùng tồn tại thì cả hai cùng được công nhận là hai loài độc lập. Chúng ta sẽ còn quay lại chủ đề này ở phần sau.
Với những nhận xét đó, người ta hiểu là tôi hình dung thuật ngữ "loài" như là một từ được đưa ra mang tính chủ quan để thuận tiện cho việc gọi tên một hệ các cá thể rất giống nhau, và cơ bản là nó không khác mấy so với thuật ngữ "biến thể", dùng cho dạng ít nổi bất và hay biến hóa hơn. Thuật ngữ "biến thể", một lần nữa, trong sự so sánh với khác biệt cá thể, cũng bị áp dụng một cách lộn xộn với mục đích thuận tiện.
Dựa vào suy xét mang tính lý thuyết, tôi đã nghĩ chúng ta sẽ thu được kết quả thú vị về thế giới tự nhiên và mối quan hệ của loài thay đổi nhiều nhất bằng cách lập bảng tất cả các biến thể trong các quần thực vật hoạt động tốt. Ban đầu, việc này nghe có vẻ đơn giản nhưng ông H.c. Watson, người tôi rất biết ơn với lời góp ý và sự giúp đỡ quý báu về chủ đề-này. Đã sớm thuyết phục tôi: nhiều khó khăn vướng mắc sẽ phát sinh; và tiến sĩ Hooker cũng đưa ra nhận định tương tự, thậm chí là với từ ngữ mãnh liệt hơn. Tôi sẽ nói đến sau những khó khăn này và các bảng con số cân đối của các loài biến đổi.
Tiến sĩ Hooker cho phép tôi thêm một số chi tiết, sau khi đã đọc kỹ bản thảo và kiểm tra các bảng biểu của tôi; ông nhận xét những nhận ỵinh sau là hoàn toàn có căn cứ. Tuy nhiên toàn bộ chủ đề mà cần thiết được đề cập ngắn gọn ở đây lại khá phức tạp; vẩn đề quan đến "cuộc đấu tranh sinh tồn", "sự chệch hướng của tính cách" và các câu hỏi khác sẽ được thảo luận đến sau.
Ông Alph. De. Candolle phát biểu những cây trải rộng nói chung là hay cho ra biến thể; và người ta có thể đã trông đợi sự việc này bởi vì chúng tồn tại trong điều kiện sống đa dạng và phải cạnh tranh (quá hiện tượng sau này chúng ta sẽ thấy nó còn quan trọng hơn) và các bộ loài cơ thể sống khác. Nhưng các bảng của tôi còn cung cấp nhiều thông tin hơn thế nữa: loài phổ biến nhất, nhiều cá thể nhất, và loài phát triển rộng khắp trong chính nước bản địa của chúng, trong một chừng mực nào đó, đây là một quan điểm khá khác lạ so với quan niệm chung, thường tạo điều kiện cho các biến thể phát triển nổi bật tới mức chúng được ghi chép lại trong các công trình nghiên cứu về cây cối. Như vậy loài phát triển nhất, hay như người ta vẫn thường gọi nó là loài thống trị, loài mà có mặt khắp nơi trên thế giới, phổ biến nhất trong nước bản địa và có đông số lượng cá thể nhất - thường sinh ra biến thể nhiều nhất, và theo cách tôi quan niệm về chúng là loài mới sinh. Và điều này có lẽ cũng đã được tiên đoán từ trước bởi vì các biến thể để tồn tại lâu dài phải cạnh tranh với các cư dâấn động, thực vật khác sống trong nước đó. Loài thống trị có xu hướng sinh ra những đưa con được thừa hưởng các ưu điểm nhờ đó loài thống trị có lợi thế hơn so với các loài khác. Chúng ta sẽ thấy số lượng lớn hơn của các loài rất phổ biến hay loài thống trị nằm ở trong lớp thực vật lớn hơn. Một lần nữa, các nhà tự nhiên học chắc hẳn đã dự đoán tình trạng này do thực tể nhiều loài trong cùng một lớp sống tại bất cứ nước nào, cho chúng ta thấy có một cái gì đó trong điều kiện sống hữu cơ và vô cơ đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển lớp động thực vật đó, và kết quả là chúng ta đã mong đợi tìm ra trong lớp lớn hơn hay nói cách khác trong lớp bao gồm nhiều loài, một số lượng lớn các loài thống trị. Nhưng có quá nhiều nguyên nhân che giấu đi kết quả này đến nỗi tôi cảm thấy ngạc nhiên chính những bảng biểu của mình thậm chí còn một phần (nhỏ thôi) nghiêng về phía lớp lớn. Ở đây, tôi chỉ muốn nói đến hai nguyên nhân của sự khó hiểu. Cây ưa nước ngọt và cây ưa nước mặn thường phân tán khá rộng, nhưng hiện tượng này có vẻ như liên quan đến điều kiện tự nhiên nơi chúng tồn tại và có ít hoặc không có quan hệ gì tới kích thước của lớp thực vật mà chúng thuộc về. Cây nhỏ hoặc ít phát triển thông thường trải rộng hơn nhiều so với cây cỡ lớn. và ở đây cũng không có mối quan hệ mật thiết với kích thước của lớp thực vật. Nguyên nhân những cây có cấu trúc không hoàn chỉnh phân bố rộng sẽ được tôi đề cập đến ở chương bàn về phân bố địa.
Khi xem loài chỉ là biến thể nổi bật và được định nghĩa rõ
ràng, tôi tiên đoán loài thuộc lớp lớn hơn trong mỗi nước sẽ thường cho ra biến
thể nhiều hơn so với loài nằm trong lớp bé; vì bất cứ đâu nhiều loài có mối
liên hệ mật thiết (ví dụ như loài trong cùng một lớp) hình thành, nhiều biến thể
hay loài mới phát sinh, như là một quy luật chung, phải được hình thành ở nơi
mà những cây lớn mọc lên. Chúng ta trông đợi tìm thấy những cây non ở noi nhiều
loài của một lớp ra đời bởi sự biến đổi. Bởi thế chúng ta có lẽ trông đợi tìm
thấy các hoàn cảnh, điều kiện tự nhiên có lợi cho sự biến đổi. Mặc khác chúng
ta xem mỗi loài là một sáng tạo đặc biệt thì không có lý do cụ thể nào giải
thích tại sao nhiều biến thể lại xuất hiện trong nhóm có nhiều loài hơn là nhóm
ít loài.
Để kiểm chứng tính xác thực của tiên đoán này, tôi đã sắp xếp các cây của 12 nước và các loài côn trùng cánh cứng của 2 vùng thành 2 khối riêng biệt - loài thuộc lớp lớn ở một bên, và loài thuộc lớp nhỏ một bên. Kết quả luôn là lớp lớn cho nhiều biến thể hơn lớp nhỏ. Hơn thế nữa, loài thuộc lớp lớn mà cho ra bất kỳ biến thể nào luôn luôn sản xuất số lượng các biến thể nhiều hơn là loài thuộc lớp nhỏ. Kết quả là hoàn toàn tương tự khi sự cách phân chia khác được tiến hành, và khi tất cả lớp nhỏ nhất, chi khoảng từ một đến bốn loài bị loại ra khỏi bảng. Những bằng chứng này chỉ có ý nghĩa lớn đối với quan điểm: loài là biến thể lâu dài và nổi bật; bởi vì bất kỳ đâu khi nhiều loài trong cùng một lớp hình thành, hay khi, nếu chúng ta sử dụng cách diễn đạt này, nhà máy chế tạo loài đang trong thời gian hoạt động, nói chung chúng ta phải nhận ra rằng nhà máy vẫn đang làm việc, đặc biệt hơn là chúng ta có mọi lý do để tin rằng quá trình tạo ra loài mới là một quá trình lâu dài và chậm chạp. Và tất đây là một trường hợp, nếu biến thể được xem là loài mới phát sinh; các bảng của tôi minh họa chính xác, như là một quy luật chung, bất kỳ khi nào nhiều loài của cùng một lớp hình thành, các loài đó cho ra một số lượng biến thể nhất định; đó là các loài mới sinh. Thực tế là không phải tất cả các lớp động thực vật lớn đang thay đổi nhiều, và do đó đang tăng số lượng các loài của chúng, hay không lớp động thực vật nhỏ nào đang biến đổi và tăng trưởng; bởi vì nếu như vậy, lý thuyết của tôi sẽ đứng trước nguy cơ bị sụp đổ ngay lập tức khi xét về mặt địa chất học thì lớp động thực vật nhỏ theo quá trình thời gian tăng kích cỡ của chúng rất nhiều, trong khi lớp lớn thường đạt tới cực độ phát triển của chúng, suy tàn, rồi biến mất. Tất cả những điều mà tôi muốn thể hiện là nhiều loài thuộc một chi được hình thành ở những nơi mà hiện giờ nhiều loài, xét trên mức độ trung bình, vẫn đang tiếp tục hình thành, mà điều này là hoàn toàn chuẩn xác.
Các nhà tự nhiên học phát hiện ra có những mối quan hệ đáng chú ý giữa loài lớp lớn và các biến thể ghi nhận được của chúng. Chúng ta biết rằng cho đến nay, tiêu chí cụ thể phân biệt giữa loài và biến thể nổi bật vần chưa xuất hiện. Trong các trường hợp mà quan hệ trung gian không tìm thấy giữa những dạng đáng nghi ngờ, các nhà tự nhiên học thường dễ đi tới một quyết định dựa trên số lượng khác biệt của chúng, phán xét dựa trên sự so sánh liệu có hay không số lượng khác biệt đủ lớn để đưa một hoặc cả hai vào dạng loài. Như vậy, số lượng các điểm khác biệt là một tiêu chí rất quan trọng trong việc công nhận dạng thức nào là loài, dạng thức nào là biến thể. Ông Fries, khi nhận xét về cây cối và ông Wesstwood khi nói về côn trùng đã khẳng định rằng trong các lớp lớn, số lượng những khác biệt giữa các loài thường quá nhỏ.
Tôi đã cố gắng kiểm tra nhận xét này thông qua tính toán định lượng trung bình, và nếu dựa trên kết quả thu được không hoàn chỉnh của tôi thì nó khẳng định nhận xét trên là chính xác. Tôi cũng đã tham vẩn ý kiến của một số người quan sát sắc sảo và kinh nghiệm; sau khi thảo luận, trao đổi ý kiến, họ tán đồng với cách nhìn nhận này. Như vậy có thể nói loài thuộc lớp lớn có bề ngoài giống với biến thể hơn so với loài thuộc lớp bẻ. Hay nói cách khác, trong các lớp lớn hơn, số lượng biến thể hay loài mới sinh hiện đang sản sinh, và đã sản sinh các biến thể tương đồng; và chúng khác nhau dưới hơn mức trung bình.
Ngoài ra các loài trong lớp lớn có mối liên hệ với nhau giống như các biến thể của bất kỳ loài nào khác quan hệ với nhau. Không một nhà tự nhiên học dám thừa nhận là tất cả các loài của một lớp cỏ cùng một mức độ khác nhau. Xét về tổng thể, chúng có thể được chia theo tiểu lớp, khu vực hay nhóm nhỏ. Như ông Fries đã nói, những giống bé thường tập hợp lại giống như các vệ tinh xoay xung quanh các loài khác. Những biến thể là gì nếu không phải là các nhóm dạng, có quan hệ không đồng đều với nhau, tập hợp xung quanh các dạng thể nhất định - đó là loài cha mẹ chúng? Chúng ta khó có thể nghi ngờ là có một điểm quan trọng khác biệt giữa biến thể. Đó là số lượng khác biệt giữa các biến thể, khi đem chúng so sánh với nhau và so.
Cuối cùng, những biến thể có chung đặc tính chủ yếu với loài, chúng không thể được phân biệt rõ rệt khỏi loài - trừ khi, thứ nhất phát hiện ra những mối liên kết chung gian, và sự xuất hiện của liên kết loại này không thể ảnh hưởng đặc điểm thực sự của dạng thể mà chúng liên quan; và trừ khi, thứ hai, số lượng nhất định các khác biệt, đối với hai dạng thể, nếu khác nhau rất ít thì thường được coi là biến thể cho dù liên kết trung gian không tìm thấy; nhưng số lượng các khác biệt cần thiết để xếp hai dạng thức vào loài thì hoàn toàn chưa xác định. Trong các lớp có số lượng loài nhiều hơn mức trung bình trong bất kỳ nước nào, loài thuộc lớp này có số lượng biến thể nhiều hơn trung bình. Trong các lớp lớn có xu hướng tự nhiên có quan hệ gần gũi, họ hàng, nhưng không đồng đều, tạo thành nhũng cụm nhỏ xung quanh vài loài nhất định. Những loài mà gắn bó mật thiết với các loài khác chắc chắn có tầm hạn chế. Trong tất cả các mặt, loài thuộc lớp lớn cho thấy nhiều điểm tương đồng với biến thể. Và chúng ta có thể hiểu rõ nhũng điểm tương đồng này, nếu loài đã từng tồn tại với tư cách là biến thể, và bắt nguồn từ đó: trái lại, những tương đồng đó sẽ không thể giải thích nổi nếu mỗi loài đã được tạo ra một cách độc lập.
Chúng ta cũng biết là loài phát triển nhất hay loài thống trị thuộc lớp lớn mà nhìn chung thay đổi nhiều nhất; và như chúng ta sẽ thấy dưới đây, các biến thể có xu hướng biến chuyển thành loài mới và riêng biệt. Như thể, lớp lớn có xu hướng trở nên lớn hơn; và trong khắp thế giới tự nhiên, dạng thức sống mà giờ đây đang giữ vị trí thống trị có xu hướng nắm quyền thống trị chắc hơn bằng cách sinh đẻ nhiều con cháu thống trị và có thay đổi. Nhưng thông qua các bước sau đây sẽ giải thích, lớp lớn lại có xu hướng chia nhỏ thành các lớp bé hơn. Và do đó, dạng thức sống trên khắp hành tinh bị chia nhỏ vào trong các nhóm thuộc nhóm.
Để kiểm chứng tính xác thực của tiên đoán này, tôi đã sắp xếp các cây của 12 nước và các loài côn trùng cánh cứng của 2 vùng thành 2 khối riêng biệt - loài thuộc lớp lớn ở một bên, và loài thuộc lớp nhỏ một bên. Kết quả luôn là lớp lớn cho nhiều biến thể hơn lớp nhỏ. Hơn thế nữa, loài thuộc lớp lớn mà cho ra bất kỳ biến thể nào luôn luôn sản xuất số lượng các biến thể nhiều hơn là loài thuộc lớp nhỏ. Kết quả là hoàn toàn tương tự khi sự cách phân chia khác được tiến hành, và khi tất cả lớp nhỏ nhất, chi khoảng từ một đến bốn loài bị loại ra khỏi bảng. Những bằng chứng này chỉ có ý nghĩa lớn đối với quan điểm: loài là biến thể lâu dài và nổi bật; bởi vì bất kỳ đâu khi nhiều loài trong cùng một lớp hình thành, hay khi, nếu chúng ta sử dụng cách diễn đạt này, nhà máy chế tạo loài đang trong thời gian hoạt động, nói chung chúng ta phải nhận ra rằng nhà máy vẫn đang làm việc, đặc biệt hơn là chúng ta có mọi lý do để tin rằng quá trình tạo ra loài mới là một quá trình lâu dài và chậm chạp. Và tất đây là một trường hợp, nếu biến thể được xem là loài mới phát sinh; các bảng của tôi minh họa chính xác, như là một quy luật chung, bất kỳ khi nào nhiều loài của cùng một lớp hình thành, các loài đó cho ra một số lượng biến thể nhất định; đó là các loài mới sinh. Thực tế là không phải tất cả các lớp động thực vật lớn đang thay đổi nhiều, và do đó đang tăng số lượng các loài của chúng, hay không lớp động thực vật nhỏ nào đang biến đổi và tăng trưởng; bởi vì nếu như vậy, lý thuyết của tôi sẽ đứng trước nguy cơ bị sụp đổ ngay lập tức khi xét về mặt địa chất học thì lớp động thực vật nhỏ theo quá trình thời gian tăng kích cỡ của chúng rất nhiều, trong khi lớp lớn thường đạt tới cực độ phát triển của chúng, suy tàn, rồi biến mất. Tất cả những điều mà tôi muốn thể hiện là nhiều loài thuộc một chi được hình thành ở những nơi mà hiện giờ nhiều loài, xét trên mức độ trung bình, vẫn đang tiếp tục hình thành, mà điều này là hoàn toàn chuẩn xác.
Các nhà tự nhiên học phát hiện ra có những mối quan hệ đáng chú ý giữa loài lớp lớn và các biến thể ghi nhận được của chúng. Chúng ta biết rằng cho đến nay, tiêu chí cụ thể phân biệt giữa loài và biến thể nổi bật vần chưa xuất hiện. Trong các trường hợp mà quan hệ trung gian không tìm thấy giữa những dạng đáng nghi ngờ, các nhà tự nhiên học thường dễ đi tới một quyết định dựa trên số lượng khác biệt của chúng, phán xét dựa trên sự so sánh liệu có hay không số lượng khác biệt đủ lớn để đưa một hoặc cả hai vào dạng loài. Như vậy, số lượng các điểm khác biệt là một tiêu chí rất quan trọng trong việc công nhận dạng thức nào là loài, dạng thức nào là biến thể. Ông Fries, khi nhận xét về cây cối và ông Wesstwood khi nói về côn trùng đã khẳng định rằng trong các lớp lớn, số lượng những khác biệt giữa các loài thường quá nhỏ.
Tôi đã cố gắng kiểm tra nhận xét này thông qua tính toán định lượng trung bình, và nếu dựa trên kết quả thu được không hoàn chỉnh của tôi thì nó khẳng định nhận xét trên là chính xác. Tôi cũng đã tham vẩn ý kiến của một số người quan sát sắc sảo và kinh nghiệm; sau khi thảo luận, trao đổi ý kiến, họ tán đồng với cách nhìn nhận này. Như vậy có thể nói loài thuộc lớp lớn có bề ngoài giống với biến thể hơn so với loài thuộc lớp bẻ. Hay nói cách khác, trong các lớp lớn hơn, số lượng biến thể hay loài mới sinh hiện đang sản sinh, và đã sản sinh các biến thể tương đồng; và chúng khác nhau dưới hơn mức trung bình.
Ngoài ra các loài trong lớp lớn có mối liên hệ với nhau giống như các biến thể của bất kỳ loài nào khác quan hệ với nhau. Không một nhà tự nhiên học dám thừa nhận là tất cả các loài của một lớp cỏ cùng một mức độ khác nhau. Xét về tổng thể, chúng có thể được chia theo tiểu lớp, khu vực hay nhóm nhỏ. Như ông Fries đã nói, những giống bé thường tập hợp lại giống như các vệ tinh xoay xung quanh các loài khác. Những biến thể là gì nếu không phải là các nhóm dạng, có quan hệ không đồng đều với nhau, tập hợp xung quanh các dạng thể nhất định - đó là loài cha mẹ chúng? Chúng ta khó có thể nghi ngờ là có một điểm quan trọng khác biệt giữa biến thể. Đó là số lượng khác biệt giữa các biến thể, khi đem chúng so sánh với nhau và so.
Cuối cùng, những biến thể có chung đặc tính chủ yếu với loài, chúng không thể được phân biệt rõ rệt khỏi loài - trừ khi, thứ nhất phát hiện ra những mối liên kết chung gian, và sự xuất hiện của liên kết loại này không thể ảnh hưởng đặc điểm thực sự của dạng thể mà chúng liên quan; và trừ khi, thứ hai, số lượng nhất định các khác biệt, đối với hai dạng thể, nếu khác nhau rất ít thì thường được coi là biến thể cho dù liên kết trung gian không tìm thấy; nhưng số lượng các khác biệt cần thiết để xếp hai dạng thức vào loài thì hoàn toàn chưa xác định. Trong các lớp có số lượng loài nhiều hơn mức trung bình trong bất kỳ nước nào, loài thuộc lớp này có số lượng biến thể nhiều hơn trung bình. Trong các lớp lớn có xu hướng tự nhiên có quan hệ gần gũi, họ hàng, nhưng không đồng đều, tạo thành nhũng cụm nhỏ xung quanh vài loài nhất định. Những loài mà gắn bó mật thiết với các loài khác chắc chắn có tầm hạn chế. Trong tất cả các mặt, loài thuộc lớp lớn cho thấy nhiều điểm tương đồng với biến thể. Và chúng ta có thể hiểu rõ nhũng điểm tương đồng này, nếu loài đã từng tồn tại với tư cách là biến thể, và bắt nguồn từ đó: trái lại, những tương đồng đó sẽ không thể giải thích nổi nếu mỗi loài đã được tạo ra một cách độc lập.
Chúng ta cũng biết là loài phát triển nhất hay loài thống trị thuộc lớp lớn mà nhìn chung thay đổi nhiều nhất; và như chúng ta sẽ thấy dưới đây, các biến thể có xu hướng biến chuyển thành loài mới và riêng biệt. Như thể, lớp lớn có xu hướng trở nên lớn hơn; và trong khắp thế giới tự nhiên, dạng thức sống mà giờ đây đang giữ vị trí thống trị có xu hướng nắm quyền thống trị chắc hơn bằng cách sinh đẻ nhiều con cháu thống trị và có thay đổi. Nhưng thông qua các bước sau đây sẽ giải thích, lớp lớn lại có xu hướng chia nhỏ thành các lớp bé hơn. Và do đó, dạng thức sống trên khắp hành tinh bị chia nhỏ vào trong các nhóm thuộc nhóm.
CHƯƠNG III
CUỘC ĐẤU TRANH SINH TỒN
Dựa trên sự lựa chọn của tự nhiên - Cụm từ được sử dụng theo nghĩa rộng - số lượng tăng theo cấp số nhân - Sự phát triển mạnh mẽ của cây cối và động vật tự nhiên hóa - Bản chất của quá trình kiểm soát tăng trưởng - Cạnh tranh khắp nơi - Ảnh hưởng của khí hậu - Sự bảo vệ từ số lượng các cá thể - Những mối quan hệ phức tạp của tất cả các động, thực vật trong tự nhiên - Cuộc đấu tranh sinh tồn khốc liệt nhất là giữa cá thể và biến thể thuộc cùng loài; thường khốc liệt giữa loài cùng lớp - Mối quan hệ giữa sinh vật với sinh vật là quan trọng hơn tất cả các mối quan hệ khác.
Trước khi bước vào chủ đề chương, tôi xin đưa ra một vài nhận xét ban đầu để thể hiện cuộc đấu tranh sinh tồn dựa trên Sự lựa chọn tự nhiên như thế nào. Ở chương trước chúng ta thấy trong số các thực thể hữu cơ ở tự nhiên có tính biến đổi đặc thù; thực sự là tôi không nhận ra là nhận định này đã từng gây tranh cãi. Chúng ta chẳng có ích lợi gì khi một số lượng lớn các dạng bị nghi ngờ được gọi là loài hay tiểu loài; ví dụ, trong số hai hay ba trăm dạng nghi ngờ của cây cối nước Anh có đủ tiêu chuẩn để xếp vào loài, tiểu loài hay biến thể, nếu sự tồn tại của bất kỳ biến thể nổi bật nào được thừa nhận. Nhưng sự có mặt của tính biến đổi đặc thù và của một vài biến thể nổi bật, mặc dù cần thiết để làm nền tảng cho công trình nghiên cứu, chỉ giúp được chúng ta rất ít trong việc hiểu biết các loài xuất hiện như thế nào trong tự nhiên. Tất cả các sự thích hợp tuyệt vời của một bộ phận cấu trúc với bộ phận khác, với điều kiện sống, và của một cơ thể sống với cơ thể sống khác, được hoàn chỉnh như thế nào? Chúng ta chỉ cần quan sát con chim gõ kiến và misletoe sẽ thấy sự tương thích hoàn hảo; và ít hoàn hảo hơn đối với thực vật ký sinh nhỏ bé, bám vào da của động vật bốn chân hay lông của các con chim; trong cấu trúc của con bọ cánh cứng lặn dưới nước; trong hạt giống mà được mang đi bởi ruồi trâu; tóm lại, chúng ta nhìn thấy sự tương thích hoàn hảo ở mọi nơi và trong mọi bộ phận cơ thể trên thế giới.
Một lần nữa, người ta có thể hỏi như thế nào các biến thể mà tôi gọi là loài mới sinh ra cuối cùng cũng chuyển hóa thành loài hoàn chỉnh, trong nhiều trường hợp khác hẳn so với nhau nhiều hơn so với sự khác biệt giữa các biến thể cùng một loài? Những nhóm loài này, tạo thành cái gọi là lớp riêng biệt, và sự khác biệt so với nhau lớn hơn là sự khác biệt của các loài trong cùng một lớp xuất hiện như thế nào? Tất cả các kết quả này, bạn sẽ thấy rõ hơn trong chương tiếp theo, thu được chắc chắn thông qua cuộc đấu tranh sinh tồn. Nhờ có cuộc đấu tranh sinh tồn, bất kỳ thay đổi nào, tuy nhỏ và do bất cứ nguyên nhân nào, nếu nó có bất kỳ lợi ích nào đối với một cá thể của một loài bất kỳ, trong mối quan hệ vô cùng phức tạp của nó với các cơ thể sổng khác, và với môi trường bên ngoài, sẽ có xu hướng được giữ lại và nói chung sẽ được truyền lại cho con. Như thế, đứa con cũng sẽ có cơ hội sống sót tốt hơn vì trong số nhiều cá thể của bất kỳ loài nào được sinh ra theo từng thời kỳ, chỉ có một số nhỏ có thể sống sót. Tôi đã gọi nguyên lý này, nhờ nó mỗi biến đổi nhỏ, nếu có lợi, sẽ được giữ lại bởi cái gọi là Sự lựa chọn tự nhiên, nhằm phân biệt mối quan hệ của nó với sự lựa chọn của con người. Chúng ta biết rằng con người với sự lựa chọn của mình, có thể tạo ra nhiều giống kỳ lạ, và có thể điều chỉnh các loài theo ý muốn, thông qua sự tích tụ các thay đổi nhỏ nhưng có ích, mang lại cho chúng ta bởi bàn tay của Tự Nhiên. Nhưng í ự lựa chọn tự nhiên, như chúng ta sẽ thấy sau đây, là một sức mạnh lúc nào cũng sẵn sàng hoạt động, và sức mạnh yếu ớt của con người không thể so sánh được. Tác phẩm của Tự nhiên là tác phẩm của Nghệ thuật.
Chúng ta bây giờ sẽ thảo luận về cuộc đấu tranh sinh tồn chi tiết hơn một chút. Trong các bài viết tới đây, tôi sệ đề cập tới chủ đề này đầy đủ hơn vì nó đáng được như vậy. Ông De Candolle và ông Lyell đã chứng minh, dựa vào những bằng chứng khoa học, là tất cả các cơ thể sống đều nằm trong môi trường cạnh tranh gay gắt. Đối với thực vật, không ai dành nhiều thời gian và công sức tới chủ đề này bằng ông w. Herbert, hiệu trưởng trường Manchester, tất nhiên là dựa vào cả kinh nghiệm uyên bác trong nghề làm vườn của ông. Chúng ta hết sức dễ dàng để thừa nhận bằng lời sự thật của cuộc đấu tranh toàn vũ trụ cho sự sống, hay khó khăn hơn - ít nhất là tôi nhận thấy thế - để chấp nhận kết luận này. Trừ khi kết luận này được mọi người chấp thuận, tôi tin là toàn bộ thế giới tự nhiên, với mọi thực tế về sự phân bố, tính hiếm thấy, sự dồi dào, sự tuyệt chủng, và sự biến đổi, trở nên khó hiểu hoặc bị hiểu nhầm. Chúng ta trông thấy bộ mặt của tự nhiên sáng sủa với sự hài lòng, chúng ta thường thấy khối lượng thức ăn khổng lồ, vô biên. Chúng ta không nhìn thấy hay quên là những con chim hót suốt ngày quanh chúng ta, sống dựa vào côn trùng hay hạt giống, và như thế thì tức là chúng đang liên tục giết chết sự sống; hoặc là chúng ta quên số lượng con chim hót, hay trứng của chúng, hay tổ của chúng bị phá hủy bởi những com chim khác và thú săn mồi; chúng ta không phải lúc nào cũng nghĩ trong đầu là, mặc dù thức ăn hiện tại có thể thừa thãi, nhưng nó sẽ không được như thế trong tất cả các mùa của mỗi năm tới.
Tôi nên nói trước rằng, tôi sử dụng cụm từ Cuộc đấu tranh sinh tồn theo nghĩa rộng và ẩn dụ, bao gồm sự phụ thuộc của cơ thể sống này vào cơ thể sống khác, và bao gồm, quan trọng hơn, không chỉ sự sống của cá thể mà còn cả sự thành công sinh ra đàn con cháu. Hai giống chó, trong giai đoạn khan hiếm thức ăn, thực sự có thể khẳng định là cạnh tranh với nhau để giành lấy thức ăn và tồn tại. Nhưng một cây mọc ở rìa của một sa mạc lại tranh đấu với hạn hán cho sự sống, mặc dù nói chính xác hơn là nó dựa vào độ ẩm ướt. Một cây mà hàng năm cho ra hàng nghìn hạt giống, trong đó trung bình chỉ có một hạt trưởng thành, có thể nói chính xác là đang cạnh tranh với các cây cùng hoặc khác loài mà đã bao phủ toàn bộ mặt đất quanh đó. Cây tầm gửi sống nhờ vào cây táo và một vài loài khác, nhưng chi có thể hiểu theo nghĩa rất rộng là đấu tranh với những cây này, bởi vì nếu quá nhiều loại ăn bám này sống trên cùng cây, nó sẽ bị yếu dần rồi chết, nhưng một sổ cây tầm gửi non mọc trên cùng một nhánh, hoàn toàn có thể được nói là đang đấu tranh với nhau. Do loài cây tầm gửi được những con chim đưa đi xa, sự tồn tại của chúng dựa vào các con chim; và nói một cách bóng bẩy, là chúng đấu tranh với các cây ra quả, nhăm để được các con chim nuốt rồi mang đi theo. Trong các nghĩa vừa rồi, đan xen lẫn nhau, tôi sử dụng cụm từ Cuộc đấu tranh sinh tồn để cho thuận tiện và ngắn gọn.
Một cuộc đấu tranh sinh tồn, lúc nào cũng vậy, đều phát triển từ tỷ lệ cao tại đó tất cả các cơ thể sống có xu hướng tăng lên. Mọi thực thể sống mà trong suốt thời gian tồn tại tự nhiên cho ra trứng hay hạt giống đều phải hứng chịu sự hủy diệt trong một khoảng thời gian sinh tồn nào đó của nó, và trong suốt một số mùa hay năm. Nếu theo nguyên lý của sự tăng theo cấp số nhân, số lượng của nó sẽ nhanh chóng trở nên không thể kiểm soát được và lớn tới mức không một quốc gia nào có thể chứa hết chúng. Với lý do này, vì số lượng các cá thể sống sót ít hơn so với số lượng sinh ra, sự đấu tranh sinh tồn có bất cứ trong trường hợp nào, hoặc là với các cá thể cùng loài, hoặc là với các cá thể khác loài, hay với điều kiện sống vật chất. Đó là học thuyết của Malthus được áp dụng gấp hàng triệu lần cho toàn bộ các vương quốc loài động thực vật; vì trong trường hợp này, chúng ta không có sự tăng nhân tạo thức ăn và sự kìm chế có tính toán đối với hôn nhân. Mặc dù một vài loài hiện đang tăng lên, dù nhanh hay chậm, trong số lượng, nhưng tất cả các loài không thể làm như vậy, vì thế giới không thể chứa hết chúng được. Không hề có ngoại lệ đối với quy luật là mọi cơ thể sống đều tự nhiên tăng lên với tốc độ cao; rằng nếu không bị tiêu diệt, trái đất sẽ nhanh chóng bị bao phủ bởi con đàn cháu đống của chỉ một cặp. Thậm chí thực thể sinh đẻ rất ít, là con người, cũng đã tăng dân số gấp hai lần trong vòng hai mươi nhăm năm, và với tỷ lệ sinh này, trong vài nghìn năm tới, trái đất sẽ không còn đủ chỗ đứng cho con cháu chúng ta. Linnaeus đã tính toán nếu một cây hàng năm chỉ cho ra hai hạt giống - thực tế thì không có cây nào kém năng suất như vậy - và mỗi cây con của nó năm sau cho ra tiếp hai hạt giống, và cứ như thế, thì trong 20 năm sẽ có một triệu cây.
Loài voi được coi là loài sinh sản thấp nhất trong tất cả các con vật. Tôi đã lấy một vải đôi để tính toán tốc độ thấp nhất của tỷ lệ gia tăng tự nhiên: kết quả là chúng bắt đầu giao phối lúc ba mươi tuổi và tiếp tục cho đến năm chín mươi tuổi. Trong quãng thời gian đó, chúng cho ra ba lứa con (mỗi lứa hai con); nếu kết quả tính toán là chính xác, vào cuối thế kỷ thứ năm trái đất sẽ có 15 triệu con voi, có nguồn gốc từ cặp này.
Nhưng chúng ta có bằng chứng thuyết phục hơn là những tính toán chỉ mang tính lý thuyết này. Đó là hàng loạt các trường hợp được ghi lại của sự tăng đột biến nhiều có thể nói chính xác là đang cạnh tranh với các cây cùng hoặc khác loài mà đã bao phủ toàn bộ mặt đất quanh đó. Cây tầm gửi sống nhờ vào cây táo và một vài loài khác, nhưng chỉ có thể hiểu theo nghĩa rất rộng là đấu tranh với những cây này, bởi vì nếu quá nhiều loại ăn bám này sống trên cùng cây, nó sẽ bị yếu dần rồi chết, nhưng một số cây tầm gửi non mọc trên cùng một nhánh, hoàn toàn có thể được nói là đang đấu tranh với nhau. Do loài cây tầm gửi được những con chim đưa đi xa, sự tồn tại của chúng dựa vào các con chim; và nói một cách bóng bẩy, là chúng đấu tranh với các cây ra quả, nhàm để được các con chim nuốt rồi mang đi theo. Trong các nghĩa vừa rồi, đan xen lẫn nhau, tôi sử dụng cụm từ Cuộc đấu tranh sinh tồn để cho thuận tiện và ngắn gọn.
Một cuộc đấu tranh sinh tồn, lúc nào cũng vậy, đều phát triển từ tỷ lệ cao tại đó tất cả các cơ thể sống có xu hướng tăng lên. Mọi thực thể sống mà trong suốt thời gian tồn tại tự nhiên cho ra trứng hay hạt giống đều phải hứng chịu sự hủy diệt trong một khoảng thời gian sinh tồn nào đó của nó, và trong suốt một số mùa hay năm. Nếu theo nguyên lý của sự tăng theo cấp số nhân, số lượng của nó sẽ nhanh chóng trở nên không thể kiểm soát được và lớn tới mức không một quốc gia nào có thể chứa hết chúng. Với lý do này, vì số lượng các cá thể sống sót ít hơn so với số lượng sinh ra, sự đấu tranh sinh tồn có bất cứ trong trường hợp nào, hoặc là với các cá thể cùng loài, hoặc là với các cá thể khác loài, hay với điều kiện sống vật chất. Đó là học thuyết của Malthus được áp dụng gấp hàng triệu lần cho toàn bộ các vương quốc loài động thực vật; vì trong trường hợp này, chúng ta không có sự tăng nhân tạo thức ăn và sự kìm chế có tính toán đối với hôn nhân. Mặc dù một vài loài hiện đang tăng lên, dù nhanh hay chậm, trong số lượng, nhưng tất cả các loài không thể làm như vậy, vì thế giới không thể chứa hết chủng được. Không hề có ngoại lệ đối với quy luật là mọi cơ thể sống đều tự nhiên tăng lên với tốc độ cao; rằng nếu không bị tiêu diệt, trái đất sẽ nhanh chóng bị bao phủ bởi con đàn cháu đống của chỉ một cặp. Thậm chí thực thể sinh đẻ rất ít, là con người, cũng đã tăng dân số gấp hai lần trong vòng hai mươi nhăm năm, và với tỷ lệ sinh này, trong vài nghìn năm tới, trái đất sẽ không còn đủ chỗ đứng cho con cháu chúng ta. Linnaeus đã tính toán nếu một cây hàng năm chỉ cho ra hai hạt giống - thực tế thì không có cây nào kém năng suất như vậy - và mỗi cây con của nó năm sau cho ra tiếp hai hạt giống, và cứ như thế, thì trong 20 năm sẽ có một triệu cây. Loài voi được coi là loài sinh sản thấp nhất trong tất cả các con vật. Tôi đã lấy một vài đôi để tính toán tốc độ thấp nhất của tỷ lệ gia tăng tự nhiên: kết quả là chúng bắt đầu giao phối lúc ba mươi tuổi và tiếp tục cho đến năm chín mươi tuổi. Trong quãng thời gian đó, chúng cho ra ba lứa con (mỗi lứa hai con); nếu kết quả tính toán là chính xác, vào cuối thế kỷ thứ năm trái đất sẽ có 15 triệu con voi, có nguồn gốc từ cặp này. Nhưng chúng ta có bằng chứng thuyết phục hơn là những tính toán chỉ mang tính lý thuyết này. Đó là hàng loạt các trường hợp được ghi lại của sự tăng đột biến nhiều loài trong môi trường tự nhiên, khi mà hoàn cảnh sống thuận lợi đối với chúng kéo dài hai hoặc ba mùa liên tiếp. Những thực tế về loài động vật thuần dưỡng của chúng ta đã từng sổng trong hoang dã ở đâu đó trong thế giới này còn rõ ràng hơn: néu những khẳng định về tỷ lệ sinh sản tăng của trâu bò và ngựa ít đẻ tại Nam Mỹ, hay gần đây là tại Úc, không được minh chứng rõ ràng, chúng đã có thể hoàn toàn khó tin. Như vậy cũng đúng với các loài cây: chúng ta có thể đưa ra các trường hợp về loài cây được phát hiện giờ đã trở nên phổ biến trên khắp các đảo trong thời gian ít hơn mười năm. Vài loại cây trong số đó có tỉ lệ đông đúc nhất trên các cánh đồng hoang dã ở La Plata; bao phủ toàn bộ khu đó, loại bỏ tất cả các cây khác, đã được đem tới từ châu âu; và có loại cây mà bầy giờ tồn tại ở Ấn Độ, như tôi được biết từ tiến sỹ Falconer, từ mũi Comorin tới tới dãy Himalaya, mà được nhập khẩu từ Mỹ kể từ khi người ta phát hiện ra chúng. Trong những trường hợp như vậy, và vô số minh họa khác có thể được đưa ra, không ai cho là khả năng sinh sản của động vật và thực vật đột nhiên hoặc tạm thời tăng lên xét trên bất cứ mức độ có thể chấp nhận được nào. Lời giải thích rõ ràng là điều kiện sổng đã rất thuận lợi, và kết quả là cơ hội tồn tại dành cho các thực thể mới sinh và già cỗi tăng lên, và hầu hết tất cá thể bé đều có thể được nhân giống. Trong những trường hợp như thế, tỷ lệ cấp số nhân gia tăng; và kết quả của các trường hợp này, không bao giờ gây ngạc nhiên, đơn giản giải thích mức độ gia tăng chóng mặt và phân bố rộng rãi của các sản phẩm tự nhiên hóa ở ngôi nhà mới của chúng.
Trong thế giới tự nhiên, mọi loài cây đều cho ra hạt giống, và trong số động vật, hiếm loài mà không giao phối hằng năm. Do đó, chúng ta hoàn toàn tin tưởng khẳng định rằng, tất cả loài động và thực vật đang có xu hướng tăng tỷ lệ cấp số nhân, và tất cả sẽ nhanh chóng di chuyển tới mọi nơi mà chúng có thể bằng cách nào đó để tồn tại, và rằng xu hướng tăng cấp số nhân phải bị kiềm chế bởi sự hủy diệt tại một vài giai đoạn nhất định trong vòng đời. Tôi nghĩ sự quen thuộc của chúng ta đối với động vật thuần hóa lớn hơn dễ gây hiểu lầm: chúng ta không hề chứng kiến sự phá hủy tàn khốc nào đối với chúng, và chúng ta quên là mỗi năm hàng nghìn con bị giết mổ làm thức ăn, và rằng trong tự nhiên, một con số tương tự các động vật bị giết bằng cách này hay cách khác.
Điểm khác biệt duy nhất giữa các cơ thể sống hàng năm cho ra hàng nghìn trứng hoặc hạt giống với những cơ thể sống đẻ ra cực kỳ ít, đó là giống không mắn đẻ đòi hỏi nhiều năm hơn một chút, trong điều kiện thuận lợi, để bao phủ toàn bộ một khu vực, cho dù khu vực này lớn thế nào đi chăng nữa. Loài kền kền khoang cổ đẻ ra một hai quả trứng, còn loài đà điểu châu Phi thì hàng đống, sống trong cùng một nước, loài kền kền khoang cổ lại đông hơn cả đà điểu châu Phi. Chim hải âu Fulmar chỉ đẻ duy nhất một trứng nhưng người ta tin rằng chúng là loài chim đông nhất trên thế giới. Một con ruồi đè hàng trăm trứng, và con khác, như hippobosca, duy nhất một trứng; nhưng sự khác biệt này không quyết định bao nhiêu cá thể của hai loài có thể sống trong một khu vực. số lượng trứng lớn là có tầm quan trọng nhất định đối với các loài này, loài mà sống dựa vào khối lượng thức ăn thay đổi liên tục; và sự sẵn có của thức ăn sẽ quyết định số lượng của chúng. Nhưng tầm quan trọng đích thực của số lượng trứng lớn là để bù đắp cho sự hủy diệt lớn tại giai đoạn nào đó của vòng đời; và giai đoạn này trong đại đa số trường hợp là ở thời gian đầu chu trình sống. Nếu một giống động vật có thể bảo vệ trứng hay đứa con của nó bằng cách này hoặc cách khác, dù một số lượng nhỏ các cá thể có thể sinh ra, nhưng mức trung bình vẫn được giữ nguyên. Nhưng nếu quá nhiều trứng hay con bị phá hủy, nhiều trứng sẽ phải được sinh ra, nếu không loài sẽ bị tuyệt chủng, số lượng của một loài cây sống trung bình một nghìn năm, sẽ đủ lớn nếu một hạt giống đuợc tạo ra trong bằng thời gian ấy với giả thiết là hạt giống không thể bị phá hủy, và đảm bảo chắc rằng nó sẽ phát triển ở nới thích hợp. Như vậy là trong mọi trường hợp, số lượng trung bình của bất kỳ loài động vật hay thực vật nào chỉ phụ thuộc gián tiếp vào số lượng trứng hoặc hạt giống của nó.
Khi nghĩ về thế giới tự nhiên, chúng ta nhất thiết phải luôn giữ những nhận định trên trong đầu - đừng bao giờ quên rằng mọi cơ thể sống xung quanh chúng có thể được nói là đang phát triển mạnh mẽ nhất về số lượng; rằng mỗi cơ thể sống sót thông qua cuộc đấu tranh tại giai đoạn nhất định trong vòng đời; rằng sự hủy diệt hàng loạt không thể tránh khỏi sẽ rơi vào cá thể bé hoặc giả cỗi trong mỗi thế hệ hoặc tại quãng thời gian lặp lại. Làm sáng tỏ những sự kiềm chế, giảm nhẹ dị sự hủy diệt là rất ít được bàn tới, và số lượng của loài sẽ tăng lên hầu như ngay lập tức tới một mức bất kỳ. Bộ mặt của Tự nhiên có thể được so sánh với một bề mặt mềm, với mười nghìn cái nêm sắt buộc với nhau và bị di chuyển vào trong bởi những cú huých không ngừng nghỉ, đôi khi một cái nêm bị đánh vào, và sau đó là cái khác với lực lớn hơn.
Cái gì kiềm chế xu hướng gia tăng tự nhiên về số lượng vẫn còn hết sức mờ mịt. Hãy xem những loài khỏe mạnh nhất; nhiều về số lượng, và xu hướng gia tăng vẫn tiếp tục tiến triển đi lên. Chúng ta không biết chính xác những kiềm chế là gì thậm chí trong một trường hợp cụ thể. Và cũng chẳng ai ngạc nhiên về sự kiếm hiểu biết của chúng ta về chủ đề này, thậm chí là xét về loài người, loài mà được biết đến nhiều nhất, hơn bất cứ một loài nào khác. Chủ đề này đã được một số học giả đề cập chi tiết và đúng đắn. Trong các nghiên cứu tương lai, tôi sẽ thảo luận về một vài sự kiềm chế với mức độ cụ thể hơn nhiều, nhất là đối với động vật hoang dã vùng Nam Phi. Ở đây tôi chỉ nêu ra một vài nhận xét, chỉ để giúp người đọc nhớ lại những điểm chính. Trứng hoặc những con rẩt nhỏ nói chung dường như chịu nguy hiểm nhiều nhất, nhưng điều này không phải lúc nào cũng đúng. Với thực vật, có sự phá hủy lớn các hạt giống, nhưng dựa trên những quan sát của bản thân, tôi tin rằng chính là cây con chịu thiệt hại lớn nhất mọc lên từ đất. Cây con cũng bị tàn phá với số lượng lớn bởi các kẻ thù khác nhau; ví dụ: chỉ trên mảnh đất dài lm rộng 0,6m, được đào xới và phát quang, và ở đó không thể có sự cạnh tranh từ các loài khác, tôi đã đánh dấu tất cả các cây tảo cong bản địa khi chúng mọc lên, và trong số 357 cây thì không ít hơn 295 cây bị chết, chủ yếu là do sên và côn trùng. Nếu mảnh đất mà được xén cỏ, và trường hợp sẽ là tưomg tự đối với mảnh đất mà cỏ ừên đó bị các coấn động vật bốn chân ăn hết, để cây tự mọc thì những cây khỏe hơn sẽ dần dần giết các cây ít khỏe hơn: do đó trong số hai mươi loài mọc trên một mảnh đất nhỏ đầy cỏ (cao khoảng 30 - 40cm), chín loài bị chết bởi các loài khác để cho phát triển tự do.
Khối lượng thức ăn cho mỗi loài tẩt nhiên sẽ giới hạấn độ tăng trưởng của nó; nhưng thường không phải là giành được thức ăn mà vai trò là con mồi cho động vật khác quyết định số lượng trung bình của một loài. Do vậy, người ta có vẻ ít nghi ngờ số lượng gà gô, gà gô trắng và thỏ rừng trên một khu đất rộng phụ thuộc chủ yếu vào sự tiêu diệt các con thú săn mồi. Nếu không một con vật làm mồi săn nào bị bắn trong vòng hai mươi năm tới ở Anh, và cùng thời gian đó, không con thú săn mồi nào bị tiêu diệt, thì, với mọi xác suất tính toán, chúng ta sẽ có ít thú bị săn mồi hơn bây giờ, mặc dù hiện tại hàng trăm nghìn thú bị săn mồi hàng năm đang bị giết. Mặt khác, trong một số trường hợp, như là của voi hay tê giác, không con nào bị săn cả, thậm chí là loài hổ Ấn Độ rất hiểm khi dám tấn công một chú voi con khi nó được mẹ bảo vệ.
Khí hậu có vai trò quan trọng trong việc quyết định số lượng trung bình của loài và những khoảng thời gian băng giá hay hạn hán, theo tôi, là những sự kiềm chế hiệu quả nhất. Theo tôi tính toán thì mùa đông năm 1854 - 1955 đã lấy làm chết bốn phần năm số chim trong vườn nhà tôi; và đó là một sự hủy diệt ghê gớm khi chúng ta nhớ lại rằng mười phần trăm là do tỷ lệ tử vong khủng khiếp gây ra bởi đại dịch của con người.
Ảnh hưởng của khí hậu ban đầu có vẻ như hoàn toàn không có quan hệ gì với cuộc đấu tranh sinh tồn; nhưng xét về mặt là thời tiết giảm lượng thức ăn, nó mang lại một cuộc đấu tranh khốc liệt nhất giữa các cá thể, cho dù là cùng hay khác loài mà sống nhờ vào cùng dạng thức ăn. Thậm chí khi khí hậu, chẳng hạn như cực kỳ lạnh, gây lên ảnh hưởng trực tiếp, thì nó cũng chỉ là nhân tố ảnh hưởng yếu nhất. Những con vật kiếm được thức ăn ít nhất trong suốt mùa đông giá lạnh là những con chịu ảnh hưởng lớn nhất. Khi chúng tôi đi dọc từ nam ra bắc, hay từ vùng ẩm thấp tới vùng khô hạn, chúng tôi bao giờ cũng gặp một số loài tĩỏ nên ngày một hiếm dần, và cuối cùng biến mất; và sự thay đổi của khí hậu là khá rõ, và chúng ta có chiều hướng gán mọi tác động là gây ra bởi ảnh hưởng của thời tiết, nhưng đây là một quan điểm hết sức lệch lạc: chúng ta quên rằng mỗi loài, thậm chí khi đông nhất, vẫn đang liên tục chịu sự tiêu diệt hàng loạt tại một vài giai đoạn nhất định của chu trình sống từ kẻ thù hay từ kẻ cạnh tranh giành lấy địa bàn sinh sống và thức ăn. Nếu những kẻ thù hay kẻ cạnh tranh này, xét trên mức độ bé nhất, được hưởng thuận lợi từ bất cứ sự thay đổi khí hậu nào, chúng sẽ tăng lên về số lượng, và khi mồi khu vực đã chứa đầy chúng, số lượng những loài khác sẽ giảm. Khi chúng tôi tiến về phía nam, và chứng kiến một loài đang giảm dần số lượng, chúng tôi cảm thấy chắc chắn rằng nguyên nhân nằm phần lớn ở chỗ là các loài khác gặp thuận lợi trong khi loài này bị tác động xấu. Và cũng tưorng tự khi chúng tôi đi về phía bắc, nhưng ở một mức độ nào đó yếu hơn, đối với số lượng loài của mọi kiểu và do đó của cả những kẻ cạnh tranh ngày càng giảm theo phía bắc; do đó khi tiến về phía bắc hay trèo lên một ngọn núi, chúng ta càng thường bẳt gặp nhiều hơn những dạng sống gây sửng sốt, do ảnh hưởng trực tiếp có hại của thời tiết hơn là khi chúng ta tiến về phía nam hay trèo xuống núi. Khi chúng tôi tới vùng Artic, hay những đinh núi bao phủ đầy tuyết, hay sa mạc hoàn toàn, thì cuộc đấu tranh sinh tồn hầu như chỉ diễn ra với các nhân tố này. Việc khí hậu phần lớn có ảnh hưởng thuận lợi đối với các loài khác, chúng ta có thể thấy rõ số lượng khổng lồ các loài cây trong vườn của chúng ta hoàn toàn cỏ thể tồn tại trong khí hậu hiện giờ, nhưng không bao giờ ưở thành tự nhiên hóa, bởi vì chúng không thể cạnh tranh với loài bản địa của chúng ta hay chống lại sự phá hủy của động vật. Khi một loài, nhờ có điều kiện thuận lợi, gia tăng số lượng cá thể quá nhanh trong một khu vực nhỏ, đại dịch, ít nhất là như đối với các con thú bị săn mồi thông thường hay xuất hiện: và ở đây chúng ta có một sự kiểm soát giới hạấn độc lập với cuộc đấu tranh sinh tồn. Nhưng thậm chi cái gọi là đại dịch có vẻ do là giun ký sinh mà tồn tại một phần trong các trang trại nuôi động vật quá đông đúc; và ở đây sẽ nổi lên cuộc đấu tranh sinh tồn giữa loài ký sinh và con chủ ký sinh.
Mặt khác, trong nhiều trường hợp, số lượng lớn cá thể cùng một loài, so với kẻ thù của nó, là rất cần thiết cho sự duy trì giống nòi. Chủng ta có thể trồng nhiều cây ngũ cốc hay cây cải dầu trên cánh đồng, bởi vì số lượng hạt giống của chúng là quá lớn so với số lượng các con chim mà ăn chúng; và loài chim cũng không thể tăng số lượng của mình lên, cho dù là có những mùa thực ăn thừa thãi, tương xứng với số -lượng hạt giống bởi vì số lượng chim lại bị kiềm chế bởi mùa đông: nhưng bất cứ ai mà đã từng thử đều biết cực kỳ khó khăn để lấy được hạt giống từ vài cây lúa mỳ hay những cây tương tự trong vườn; trong trường hợp này, tôi mất hết tất cả hạt giống. Tôi tin là cách nhìn nhận về sự cần thiết của số lượng lớn để bảo tồn giống nòi giải thích một vài thực tế kỳ lạ trong tự nhiên, chẳng hạn như là một số cây cực kỳ hiếm đôi khi lại được tìm thấy xuất hiện dồi dào tại nơi chúng đã từng mọc; hay những cây mang tính xã hội, tức là nhiều về số lượng, lại bị giới hạn hết mức trong tầm hoạt động. Với những thực tế như vậy, chúng ta có thể tin là một cây chỉ có thẻ tồn tại ở nới mà điều kiện sống hết sức thuận lợi tới mức mà rất nhiều cây có thể tồn tại cùng lúc, và do đó giúp nhau không bị diệt vong hoàn toàn. Tôi xin thêm rằng những ảnh hưởng tốt của việc lai phối thường xuyên, và ảnh hiểu tiêu cực của việc lai phối kín có thể đóng vai trò nhất định trong một vài trường họp, nhưng tôi không mở rộng ở đây chủ đề đầy thú vị này.
Người ta ghi lại được nhiều trường hợp minh họa sự những kiềm chế và mối quan hệ giữa các cơ thể sống phức tạp và không đoán trước được như thế nào, những cơ thể phải cạnh tranh với nhau trong cùng một nước. Tôi chỉ xin đưa ra một ví dụ, dù đơn giản, nhưng khiến tôi thích thú. Tại Stafforshire, cỏ một mảnh đất cằn cỗi rộng lớn, chưa bao giờ được con người cầy xới; nhưng khoảng vài trăm mẫu Anh (1 Một mẫu Anh tương đương với khoảng 4050 m2 ) trong điều kiện tự nhiên chính xác hệt như thế bị bao bọc và cây linh sam Scotch được trồng trên đó hai mươi nhăm năm về trước. Sự thay đổi trong thảm thực vật bản địa của phần có cây trồng trên mảnh đất đó là nổi bật nhất, hơn là thường thấy khi đi từ mảnh đất này sang mảnh đất khác biệt khác. Không chi số lượng tương ứng của các cây trên mảnh đất hoàn toàn bị thay đổi, mà mười hai loài cây (không tính cây cỏ dại) phát triển khỏe mạnh trên mảnh đất đó, những cây không thể tìm thấy trên mảnh đất khô càn. Ảnh hưởng đối với loài côn trùng còn lớn hơn. Sáu giống chim ăn sâu bọ rất phổ biến trên các khu đất đó, nhưng không nhìn thấy trên mảnh đất cằn cỗi; và mảnh đất cằn cỗi thường xuyên được hai hay ba loại chim ăn sâu bọ khác. Ở đây chúng ta thấy ảnh hưởng của sự xuất hiện một loại cây thôi, ngoài ra không hề có gì khác, mạnh đến như thế nào, trừ trường trường hợp đất bị rào kín khiến cho trâu bò không thể vào được. Tầm quan trọng của nhân tố rào giậu tôi đã nhìn thấy rõ ở khu vực gần Farham, tại Surrey. Ở đây có những mảnh đất hoang, chỉ có một vài bụi cây linh sam Scotch già cỗi trên những đỉnh đồi xa xăm; trong vòng mười năm qua, những vùng 1 đất rộng lớn đã bị rào kín lại, và những cây linh sam tự sinh sản giờ đây đang mọc lên với số lượng lớn, rất gần nhau đến nỗi mà chúng không thể sống. Khi tôi khẳng định là các cây con này không được gieo hay trồng, tôi vô cùng ngạc nhiên trước số lượng của chúng đến mức tôi đã đi tới một số kết luận khi kiểm tra hàng trăm mẫu đất hoang không bị rào giậu, và hầu như không thấy bất kỳ một cây linh sam Scotch nào trừ các bụi cây trồng già nua. Nhưng khi nhìn sát xuống mặt đất, tôi tìm thấy hàng đống cây con bị gia súc gặm nát. Trong một yard (1 yard = 0,90144m) vuông, tại một điểm cách xa hằng trăm mét so với bụi cây già, tôi đếm được ba mươi hai cây con, và một trong số chúng, xét trên vòng tăng trưởng, trong suốt hai mươi sáu năm đã cố mọc lên khỏi mặt đất, nhưng đã không thành công. Không ai nghi ngờ là ngay khi miếng đất đó được rào kín lại thì nó sẽ được bao phủ nhanh chónh bởi cây linh sam con khỏe mạnh. Nhưng mảnh đất đã quá cằn cỗi và rộng lớn tới mức không một người nào tưởng tượng là gia súc đã tìm kiếm thức ăn trên mảnh đất đó rất kỹ càng và hiệu quả.
Ở đây chúng ta thấy rằng gia súc hoàn toàn quyết định sự tồn tại của cây lam sinh Scotch; nhưng tại một vài nơi trên thế giới, côn trùng lại quyết định sự tồn tại của gia súc. Có lẽ đất nước Paraguay cung cấp ví dụ thú vị nhất; ở đó, cả chó, ngựa, và gia súc không bao giờ lớn lên trong hoang dã, mặc dù chúng di chuyển từ nam tới bắc trong thế giới tự nhiên; và hai ông Azara và Rengger đã chỉ ra là điều này có nguyên nhân từ số lượng lớn loài ruồi ở Paraguay. Những con ruồi này đẻ trứng trên rốn của các con vật mới sinh. Sự gia tăng số lượng ruồi, rất đông như hiện tại, đưcmg nhiên phải bị kiềm chế bởi các nhân tố khác, có thể là những con chim. Chính vì thế, nếu những con chim ăn sâu bọ (số lượng có thể thường xuyên bị kiểm soát bởi chim ưng hay các loài thú săn mồi khác) tăng lên, thì số lượng ruồi Paraguay sẽ giảm xuống - như thế, gia súc, chó và ngựa sẽ phát triển trong tự nhiên.
Chuỗi quan hệ ràng buộc này chắc chắn sẽ làm thay đổi lớn (như thật sự những gì tôi đã quan sát được ở Nam Mỹ) thảm thực vật: nó lại một lần nữa ảnh hưởng lớn đến loài côn trùng; rồi đến loài chim bắt sâu bọ và cứ tiếp tục như thế vòng tròn tương tác tỏa rộng dần ra như chúng ta đã chứng kiến ở Staffordshire. Chúng ta bắt đầu chuồi này với loài chim ăn sâu bọ, và chúng ta kết thúc cũng với chúng. Mối quan hệ trong tự nhiên không hề đơn giản như thế. Trận chiến trong trận chiến phải đã từng lặp lại nhiều lần với sự thành công khác nhau; và trong tương lai, các lực lượng được cân bằng hoàn hảo tới mức mà bộ mặt của tự nhiên vẫn giữ được tính thổng nhất trong thời gian dài, cho dù chắc chắn là ưu thế nhỏ nhất thường mang tới thắng lợi cho một thực thể sống trước thực thể khác. Phải thừa nhận là chúng ta còn biết quá ít, và phán đoán quá nhiều tới độ chúng ta bị bất ngờ khi biết đến sự tuyệt chủng của một cá thể sống; và do chúng ta không biết nguyên nhân tại sao, chúng ta tưởng tượng những thảm họa bất thường giáng xuống thế giới này, hay sáng tạo ra các quy luật về sự thời gian tồn tại của dạng sống!
Tôi rất muốn đưa thêm một ví dụ nữa minh chứng động vật và thực vật, hiếm nhất trong tự nhiên, gắn kết với nhau như thế nào bởi mạng lưới quan hệ phức tạp. Tôi sẽ nhân dịp này chứng minh rằng loài Lobelia ýulgens ngoại lai, tại nước Anh, không bao giờ được các con côn trùng “viếng thăm”, và kết quả là, chúng không bao giờ có thể tạo ra hạt giống do cấu trúc lạ lùng của nó. Nhiều cây thuộc họ hoa lan của chúng ta đòi hỏi phải có sự “thăm hỏi” của các con côn trùng hàng tháng để loại bỏ khối lượng phấn hoa lớn và do đó thụ phấn được. Tôi cũng có lý do để tin rằng loài ong nghệ là tác nhân không thể thiếu để giúp cây hoa bướm dại thụ phấn (Viola tricolor), bởi vì không một loài ong khác nào ghé thăm chúng. Từ những thí nghiệm mà tôi tiến hành, tôi nhận thấy là sự viếng thăm của các con ong, nếu không muốn nói là không thể thiếu, thì ít nhất cũng mang lại lợi ích lớn về khả năng sinh sản cho cỏ ba lá của chúng ta; nhưng chỉ có ong nghệ là viếng thăm loài cỏ ba lá đỏ thông thường (Trifolium pratensè), bởi vì các loài ong khác không thể đến được mật hoa. Với lý do này, tôi khá tin tưởng là nếu toàn bộ loài ong nghệ bị tuyệt chủng hoặc trở nên cực kỳ hiếm ở nước Anh, cây hoa bướm dại và cỏ ba lá đỏ có thể trở nên khan hiếm hoặc biến mất tất cả. số lượng ong nghệ trong bất cứ khu vực nào đều phụ thuộc lớn vào số lượng chuột đồng, những con phá hủy tổ của chúng, ông H. Newman, người đã nghiên cứu lâu nay về thói quen của loài ong nghệ, thừa nhận là "hơn hai phần ba số chúng đã bị tiêu diệt ở trên toàn bộ nước Anh". Và như mọi người đều biết số lượng chuột lại phụ thuộc chủ yếu vào số lượng mèo. Ông Newman nói "gần những làng và thị trấn nhỏ, tôi đã tìm thấy tổ của ong nghệ nhiều hơn bất cứ ở đâu. Hiện tượng này tôi cho là do số lượng lớn mèo đã bắt hết chuột". Bởi vậy, một kết luận đáng tin là sự xuất hiện với số lượng lớn của động vật giống mèo tại một khu vực có thể quyết định, thông qua sự can thiệp vào đầu tiên là chuột sau đó đến ong, số lượng của vài loài hoa nhất định mọc trên khu vực đó!
Trong trường hợp của mọi loài, nhiều sự kiềm chế khác nhau, hoạt động tại các giai đoạn chu trình sống khác biệt, và trong những mùa hay năm riêng rẽ, có thể gây ảnh hưởng; một số khá mạnh mẽ, nhưng tất cả đều đóng vai trò quyết định số lượng trung bình, thậm chí là sự tồn tại của loài. Trong một vài trường hợp, chúng ta có thể chứng minh những sự kiểm soát đa dạng có tác động tới cùng một loài ở các khu vực khác nhau. Khi chúng ta nhìn những cây và bụi cây quấn chặt nhau, bao phủ dọc một dải đất bên sông, chúng ta thường ngay lập tức coi số lượng tưomg đối và các dạng của chúng là do cái mà chúng ta gọi là "ngẫu nhiên".
Nhưng quan điểm này là hoàn toàn sai lầm! Mọi người đều đã nghe nói khi một khu rừng nước Mỹ bị tàn phá, một thảm thực vật rất khác biệt lại mọc lên đúng chỗ đó; nhưng người ta quan sát được những cây hiện tại đang mọc trên đồi núi của người Anh-điêng cổ đại, tại phía nam nước Mỹ, phô bày vẻ tính đa dạng lộng lẫy và tính tương đồng trong dạng loại giống như của khu rừng nguyên sinh. Một cuộc đấu tranh giữa vài loài cây đã phải kéo dài hàng thế kỷ; mỗi loại hàng năm rải hàng nghìn hạt giống của nó; một cuộc chiến tranh giữa côn trùng với côn trùng - giữa côn trùng, ốc sên, và các loài động vật khác với chim, các loài thú săn mồi - tất cả đều đang đấu tranh để tăng số lượng của mình lên, và tất cả đều ăn thịt nhau hay ăn cây cỏ, hạt giống và cây con, hay ăn cây mà mọc lên đầu tiên. Chúng đang kiềm chế lẫn nhau! Tung lên một nhúm lông, tất cả sẽ phải rơi xuống đất theo như định luật trọng trường của Newton; nhưng thật quá đơn giản khi đem so sánh định luật này với tác động và tái tác động của vô số các loài thực vật và động vật mà, trong suốt thế kỷ qua, quyết định số lượng và dạng thức cân xứng của cây đang mọc trên khu hoang tàn của người Anh-điêng cổ!.
CUỘC ĐẤU TRANH SINH TỒN
Dựa trên sự lựa chọn của tự nhiên - Cụm từ được sử dụng theo nghĩa rộng - số lượng tăng theo cấp số nhân - Sự phát triển mạnh mẽ của cây cối và động vật tự nhiên hóa - Bản chất của quá trình kiểm soát tăng trưởng - Cạnh tranh khắp nơi - Ảnh hưởng của khí hậu - Sự bảo vệ từ số lượng các cá thể - Những mối quan hệ phức tạp của tất cả các động, thực vật trong tự nhiên - Cuộc đấu tranh sinh tồn khốc liệt nhất là giữa cá thể và biến thể thuộc cùng loài; thường khốc liệt giữa loài cùng lớp - Mối quan hệ giữa sinh vật với sinh vật là quan trọng hơn tất cả các mối quan hệ khác.
Trước khi bước vào chủ đề chương, tôi xin đưa ra một vài nhận xét ban đầu để thể hiện cuộc đấu tranh sinh tồn dựa trên Sự lựa chọn tự nhiên như thế nào. Ở chương trước chúng ta thấy trong số các thực thể hữu cơ ở tự nhiên có tính biến đổi đặc thù; thực sự là tôi không nhận ra là nhận định này đã từng gây tranh cãi. Chúng ta chẳng có ích lợi gì khi một số lượng lớn các dạng bị nghi ngờ được gọi là loài hay tiểu loài; ví dụ, trong số hai hay ba trăm dạng nghi ngờ của cây cối nước Anh có đủ tiêu chuẩn để xếp vào loài, tiểu loài hay biến thể, nếu sự tồn tại của bất kỳ biến thể nổi bật nào được thừa nhận. Nhưng sự có mặt của tính biến đổi đặc thù và của một vài biến thể nổi bật, mặc dù cần thiết để làm nền tảng cho công trình nghiên cứu, chỉ giúp được chúng ta rất ít trong việc hiểu biết các loài xuất hiện như thế nào trong tự nhiên. Tất cả các sự thích hợp tuyệt vời của một bộ phận cấu trúc với bộ phận khác, với điều kiện sống, và của một cơ thể sống với cơ thể sống khác, được hoàn chỉnh như thế nào? Chúng ta chỉ cần quan sát con chim gõ kiến và misletoe sẽ thấy sự tương thích hoàn hảo; và ít hoàn hảo hơn đối với thực vật ký sinh nhỏ bé, bám vào da của động vật bốn chân hay lông của các con chim; trong cấu trúc của con bọ cánh cứng lặn dưới nước; trong hạt giống mà được mang đi bởi ruồi trâu; tóm lại, chúng ta nhìn thấy sự tương thích hoàn hảo ở mọi nơi và trong mọi bộ phận cơ thể trên thế giới.
Một lần nữa, người ta có thể hỏi như thế nào các biến thể mà tôi gọi là loài mới sinh ra cuối cùng cũng chuyển hóa thành loài hoàn chỉnh, trong nhiều trường hợp khác hẳn so với nhau nhiều hơn so với sự khác biệt giữa các biến thể cùng một loài? Những nhóm loài này, tạo thành cái gọi là lớp riêng biệt, và sự khác biệt so với nhau lớn hơn là sự khác biệt của các loài trong cùng một lớp xuất hiện như thế nào? Tất cả các kết quả này, bạn sẽ thấy rõ hơn trong chương tiếp theo, thu được chắc chắn thông qua cuộc đấu tranh sinh tồn. Nhờ có cuộc đấu tranh sinh tồn, bất kỳ thay đổi nào, tuy nhỏ và do bất cứ nguyên nhân nào, nếu nó có bất kỳ lợi ích nào đối với một cá thể của một loài bất kỳ, trong mối quan hệ vô cùng phức tạp của nó với các cơ thể sổng khác, và với môi trường bên ngoài, sẽ có xu hướng được giữ lại và nói chung sẽ được truyền lại cho con. Như thế, đứa con cũng sẽ có cơ hội sống sót tốt hơn vì trong số nhiều cá thể của bất kỳ loài nào được sinh ra theo từng thời kỳ, chỉ có một số nhỏ có thể sống sót. Tôi đã gọi nguyên lý này, nhờ nó mỗi biến đổi nhỏ, nếu có lợi, sẽ được giữ lại bởi cái gọi là Sự lựa chọn tự nhiên, nhằm phân biệt mối quan hệ của nó với sự lựa chọn của con người. Chúng ta biết rằng con người với sự lựa chọn của mình, có thể tạo ra nhiều giống kỳ lạ, và có thể điều chỉnh các loài theo ý muốn, thông qua sự tích tụ các thay đổi nhỏ nhưng có ích, mang lại cho chúng ta bởi bàn tay của Tự Nhiên. Nhưng í ự lựa chọn tự nhiên, như chúng ta sẽ thấy sau đây, là một sức mạnh lúc nào cũng sẵn sàng hoạt động, và sức mạnh yếu ớt của con người không thể so sánh được. Tác phẩm của Tự nhiên là tác phẩm của Nghệ thuật.
Chúng ta bây giờ sẽ thảo luận về cuộc đấu tranh sinh tồn chi tiết hơn một chút. Trong các bài viết tới đây, tôi sệ đề cập tới chủ đề này đầy đủ hơn vì nó đáng được như vậy. Ông De Candolle và ông Lyell đã chứng minh, dựa vào những bằng chứng khoa học, là tất cả các cơ thể sống đều nằm trong môi trường cạnh tranh gay gắt. Đối với thực vật, không ai dành nhiều thời gian và công sức tới chủ đề này bằng ông w. Herbert, hiệu trưởng trường Manchester, tất nhiên là dựa vào cả kinh nghiệm uyên bác trong nghề làm vườn của ông. Chúng ta hết sức dễ dàng để thừa nhận bằng lời sự thật của cuộc đấu tranh toàn vũ trụ cho sự sống, hay khó khăn hơn - ít nhất là tôi nhận thấy thế - để chấp nhận kết luận này. Trừ khi kết luận này được mọi người chấp thuận, tôi tin là toàn bộ thế giới tự nhiên, với mọi thực tế về sự phân bố, tính hiếm thấy, sự dồi dào, sự tuyệt chủng, và sự biến đổi, trở nên khó hiểu hoặc bị hiểu nhầm. Chúng ta trông thấy bộ mặt của tự nhiên sáng sủa với sự hài lòng, chúng ta thường thấy khối lượng thức ăn khổng lồ, vô biên. Chúng ta không nhìn thấy hay quên là những con chim hót suốt ngày quanh chúng ta, sống dựa vào côn trùng hay hạt giống, và như thế thì tức là chúng đang liên tục giết chết sự sống; hoặc là chúng ta quên số lượng con chim hót, hay trứng của chúng, hay tổ của chúng bị phá hủy bởi những com chim khác và thú săn mồi; chúng ta không phải lúc nào cũng nghĩ trong đầu là, mặc dù thức ăn hiện tại có thể thừa thãi, nhưng nó sẽ không được như thế trong tất cả các mùa của mỗi năm tới.
Tôi nên nói trước rằng, tôi sử dụng cụm từ Cuộc đấu tranh sinh tồn theo nghĩa rộng và ẩn dụ, bao gồm sự phụ thuộc của cơ thể sống này vào cơ thể sống khác, và bao gồm, quan trọng hơn, không chỉ sự sống của cá thể mà còn cả sự thành công sinh ra đàn con cháu. Hai giống chó, trong giai đoạn khan hiếm thức ăn, thực sự có thể khẳng định là cạnh tranh với nhau để giành lấy thức ăn và tồn tại. Nhưng một cây mọc ở rìa của một sa mạc lại tranh đấu với hạn hán cho sự sống, mặc dù nói chính xác hơn là nó dựa vào độ ẩm ướt. Một cây mà hàng năm cho ra hàng nghìn hạt giống, trong đó trung bình chỉ có một hạt trưởng thành, có thể nói chính xác là đang cạnh tranh với các cây cùng hoặc khác loài mà đã bao phủ toàn bộ mặt đất quanh đó. Cây tầm gửi sống nhờ vào cây táo và một vài loài khác, nhưng chi có thể hiểu theo nghĩa rất rộng là đấu tranh với những cây này, bởi vì nếu quá nhiều loại ăn bám này sống trên cùng cây, nó sẽ bị yếu dần rồi chết, nhưng một sổ cây tầm gửi non mọc trên cùng một nhánh, hoàn toàn có thể được nói là đang đấu tranh với nhau. Do loài cây tầm gửi được những con chim đưa đi xa, sự tồn tại của chúng dựa vào các con chim; và nói một cách bóng bẩy, là chúng đấu tranh với các cây ra quả, nhăm để được các con chim nuốt rồi mang đi theo. Trong các nghĩa vừa rồi, đan xen lẫn nhau, tôi sử dụng cụm từ Cuộc đấu tranh sinh tồn để cho thuận tiện và ngắn gọn.
Một cuộc đấu tranh sinh tồn, lúc nào cũng vậy, đều phát triển từ tỷ lệ cao tại đó tất cả các cơ thể sống có xu hướng tăng lên. Mọi thực thể sống mà trong suốt thời gian tồn tại tự nhiên cho ra trứng hay hạt giống đều phải hứng chịu sự hủy diệt trong một khoảng thời gian sinh tồn nào đó của nó, và trong suốt một số mùa hay năm. Nếu theo nguyên lý của sự tăng theo cấp số nhân, số lượng của nó sẽ nhanh chóng trở nên không thể kiểm soát được và lớn tới mức không một quốc gia nào có thể chứa hết chúng. Với lý do này, vì số lượng các cá thể sống sót ít hơn so với số lượng sinh ra, sự đấu tranh sinh tồn có bất cứ trong trường hợp nào, hoặc là với các cá thể cùng loài, hoặc là với các cá thể khác loài, hay với điều kiện sống vật chất. Đó là học thuyết của Malthus được áp dụng gấp hàng triệu lần cho toàn bộ các vương quốc loài động thực vật; vì trong trường hợp này, chúng ta không có sự tăng nhân tạo thức ăn và sự kìm chế có tính toán đối với hôn nhân. Mặc dù một vài loài hiện đang tăng lên, dù nhanh hay chậm, trong số lượng, nhưng tất cả các loài không thể làm như vậy, vì thế giới không thể chứa hết chúng được. Không hề có ngoại lệ đối với quy luật là mọi cơ thể sống đều tự nhiên tăng lên với tốc độ cao; rằng nếu không bị tiêu diệt, trái đất sẽ nhanh chóng bị bao phủ bởi con đàn cháu đống của chỉ một cặp. Thậm chí thực thể sinh đẻ rất ít, là con người, cũng đã tăng dân số gấp hai lần trong vòng hai mươi nhăm năm, và với tỷ lệ sinh này, trong vài nghìn năm tới, trái đất sẽ không còn đủ chỗ đứng cho con cháu chúng ta. Linnaeus đã tính toán nếu một cây hàng năm chỉ cho ra hai hạt giống - thực tế thì không có cây nào kém năng suất như vậy - và mỗi cây con của nó năm sau cho ra tiếp hai hạt giống, và cứ như thế, thì trong 20 năm sẽ có một triệu cây.
Loài voi được coi là loài sinh sản thấp nhất trong tất cả các con vật. Tôi đã lấy một vải đôi để tính toán tốc độ thấp nhất của tỷ lệ gia tăng tự nhiên: kết quả là chúng bắt đầu giao phối lúc ba mươi tuổi và tiếp tục cho đến năm chín mươi tuổi. Trong quãng thời gian đó, chúng cho ra ba lứa con (mỗi lứa hai con); nếu kết quả tính toán là chính xác, vào cuối thế kỷ thứ năm trái đất sẽ có 15 triệu con voi, có nguồn gốc từ cặp này.
Nhưng chúng ta có bằng chứng thuyết phục hơn là những tính toán chỉ mang tính lý thuyết này. Đó là hàng loạt các trường hợp được ghi lại của sự tăng đột biến nhiều có thể nói chính xác là đang cạnh tranh với các cây cùng hoặc khác loài mà đã bao phủ toàn bộ mặt đất quanh đó. Cây tầm gửi sống nhờ vào cây táo và một vài loài khác, nhưng chỉ có thể hiểu theo nghĩa rất rộng là đấu tranh với những cây này, bởi vì nếu quá nhiều loại ăn bám này sống trên cùng cây, nó sẽ bị yếu dần rồi chết, nhưng một số cây tầm gửi non mọc trên cùng một nhánh, hoàn toàn có thể được nói là đang đấu tranh với nhau. Do loài cây tầm gửi được những con chim đưa đi xa, sự tồn tại của chúng dựa vào các con chim; và nói một cách bóng bẩy, là chúng đấu tranh với các cây ra quả, nhàm để được các con chim nuốt rồi mang đi theo. Trong các nghĩa vừa rồi, đan xen lẫn nhau, tôi sử dụng cụm từ Cuộc đấu tranh sinh tồn để cho thuận tiện và ngắn gọn.
Một cuộc đấu tranh sinh tồn, lúc nào cũng vậy, đều phát triển từ tỷ lệ cao tại đó tất cả các cơ thể sống có xu hướng tăng lên. Mọi thực thể sống mà trong suốt thời gian tồn tại tự nhiên cho ra trứng hay hạt giống đều phải hứng chịu sự hủy diệt trong một khoảng thời gian sinh tồn nào đó của nó, và trong suốt một số mùa hay năm. Nếu theo nguyên lý của sự tăng theo cấp số nhân, số lượng của nó sẽ nhanh chóng trở nên không thể kiểm soát được và lớn tới mức không một quốc gia nào có thể chứa hết chúng. Với lý do này, vì số lượng các cá thể sống sót ít hơn so với số lượng sinh ra, sự đấu tranh sinh tồn có bất cứ trong trường hợp nào, hoặc là với các cá thể cùng loài, hoặc là với các cá thể khác loài, hay với điều kiện sống vật chất. Đó là học thuyết của Malthus được áp dụng gấp hàng triệu lần cho toàn bộ các vương quốc loài động thực vật; vì trong trường hợp này, chúng ta không có sự tăng nhân tạo thức ăn và sự kìm chế có tính toán đối với hôn nhân. Mặc dù một vài loài hiện đang tăng lên, dù nhanh hay chậm, trong số lượng, nhưng tất cả các loài không thể làm như vậy, vì thế giới không thể chứa hết chủng được. Không hề có ngoại lệ đối với quy luật là mọi cơ thể sống đều tự nhiên tăng lên với tốc độ cao; rằng nếu không bị tiêu diệt, trái đất sẽ nhanh chóng bị bao phủ bởi con đàn cháu đống của chỉ một cặp. Thậm chí thực thể sinh đẻ rất ít, là con người, cũng đã tăng dân số gấp hai lần trong vòng hai mươi nhăm năm, và với tỷ lệ sinh này, trong vài nghìn năm tới, trái đất sẽ không còn đủ chỗ đứng cho con cháu chúng ta. Linnaeus đã tính toán nếu một cây hàng năm chỉ cho ra hai hạt giống - thực tế thì không có cây nào kém năng suất như vậy - và mỗi cây con của nó năm sau cho ra tiếp hai hạt giống, và cứ như thế, thì trong 20 năm sẽ có một triệu cây. Loài voi được coi là loài sinh sản thấp nhất trong tất cả các con vật. Tôi đã lấy một vài đôi để tính toán tốc độ thấp nhất của tỷ lệ gia tăng tự nhiên: kết quả là chúng bắt đầu giao phối lúc ba mươi tuổi và tiếp tục cho đến năm chín mươi tuổi. Trong quãng thời gian đó, chúng cho ra ba lứa con (mỗi lứa hai con); nếu kết quả tính toán là chính xác, vào cuối thế kỷ thứ năm trái đất sẽ có 15 triệu con voi, có nguồn gốc từ cặp này. Nhưng chúng ta có bằng chứng thuyết phục hơn là những tính toán chỉ mang tính lý thuyết này. Đó là hàng loạt các trường hợp được ghi lại của sự tăng đột biến nhiều loài trong môi trường tự nhiên, khi mà hoàn cảnh sống thuận lợi đối với chúng kéo dài hai hoặc ba mùa liên tiếp. Những thực tế về loài động vật thuần dưỡng của chúng ta đã từng sổng trong hoang dã ở đâu đó trong thế giới này còn rõ ràng hơn: néu những khẳng định về tỷ lệ sinh sản tăng của trâu bò và ngựa ít đẻ tại Nam Mỹ, hay gần đây là tại Úc, không được minh chứng rõ ràng, chúng đã có thể hoàn toàn khó tin. Như vậy cũng đúng với các loài cây: chúng ta có thể đưa ra các trường hợp về loài cây được phát hiện giờ đã trở nên phổ biến trên khắp các đảo trong thời gian ít hơn mười năm. Vài loại cây trong số đó có tỉ lệ đông đúc nhất trên các cánh đồng hoang dã ở La Plata; bao phủ toàn bộ khu đó, loại bỏ tất cả các cây khác, đã được đem tới từ châu âu; và có loại cây mà bầy giờ tồn tại ở Ấn Độ, như tôi được biết từ tiến sỹ Falconer, từ mũi Comorin tới tới dãy Himalaya, mà được nhập khẩu từ Mỹ kể từ khi người ta phát hiện ra chúng. Trong những trường hợp như vậy, và vô số minh họa khác có thể được đưa ra, không ai cho là khả năng sinh sản của động vật và thực vật đột nhiên hoặc tạm thời tăng lên xét trên bất cứ mức độ có thể chấp nhận được nào. Lời giải thích rõ ràng là điều kiện sổng đã rất thuận lợi, và kết quả là cơ hội tồn tại dành cho các thực thể mới sinh và già cỗi tăng lên, và hầu hết tất cá thể bé đều có thể được nhân giống. Trong những trường hợp như thế, tỷ lệ cấp số nhân gia tăng; và kết quả của các trường hợp này, không bao giờ gây ngạc nhiên, đơn giản giải thích mức độ gia tăng chóng mặt và phân bố rộng rãi của các sản phẩm tự nhiên hóa ở ngôi nhà mới của chúng.
Trong thế giới tự nhiên, mọi loài cây đều cho ra hạt giống, và trong số động vật, hiếm loài mà không giao phối hằng năm. Do đó, chúng ta hoàn toàn tin tưởng khẳng định rằng, tất cả loài động và thực vật đang có xu hướng tăng tỷ lệ cấp số nhân, và tất cả sẽ nhanh chóng di chuyển tới mọi nơi mà chúng có thể bằng cách nào đó để tồn tại, và rằng xu hướng tăng cấp số nhân phải bị kiềm chế bởi sự hủy diệt tại một vài giai đoạn nhất định trong vòng đời. Tôi nghĩ sự quen thuộc của chúng ta đối với động vật thuần hóa lớn hơn dễ gây hiểu lầm: chúng ta không hề chứng kiến sự phá hủy tàn khốc nào đối với chúng, và chúng ta quên là mỗi năm hàng nghìn con bị giết mổ làm thức ăn, và rằng trong tự nhiên, một con số tương tự các động vật bị giết bằng cách này hay cách khác.
Điểm khác biệt duy nhất giữa các cơ thể sống hàng năm cho ra hàng nghìn trứng hoặc hạt giống với những cơ thể sống đẻ ra cực kỳ ít, đó là giống không mắn đẻ đòi hỏi nhiều năm hơn một chút, trong điều kiện thuận lợi, để bao phủ toàn bộ một khu vực, cho dù khu vực này lớn thế nào đi chăng nữa. Loài kền kền khoang cổ đẻ ra một hai quả trứng, còn loài đà điểu châu Phi thì hàng đống, sống trong cùng một nước, loài kền kền khoang cổ lại đông hơn cả đà điểu châu Phi. Chim hải âu Fulmar chỉ đẻ duy nhất một trứng nhưng người ta tin rằng chúng là loài chim đông nhất trên thế giới. Một con ruồi đè hàng trăm trứng, và con khác, như hippobosca, duy nhất một trứng; nhưng sự khác biệt này không quyết định bao nhiêu cá thể của hai loài có thể sống trong một khu vực. số lượng trứng lớn là có tầm quan trọng nhất định đối với các loài này, loài mà sống dựa vào khối lượng thức ăn thay đổi liên tục; và sự sẵn có của thức ăn sẽ quyết định số lượng của chúng. Nhưng tầm quan trọng đích thực của số lượng trứng lớn là để bù đắp cho sự hủy diệt lớn tại giai đoạn nào đó của vòng đời; và giai đoạn này trong đại đa số trường hợp là ở thời gian đầu chu trình sống. Nếu một giống động vật có thể bảo vệ trứng hay đứa con của nó bằng cách này hoặc cách khác, dù một số lượng nhỏ các cá thể có thể sinh ra, nhưng mức trung bình vẫn được giữ nguyên. Nhưng nếu quá nhiều trứng hay con bị phá hủy, nhiều trứng sẽ phải được sinh ra, nếu không loài sẽ bị tuyệt chủng, số lượng của một loài cây sống trung bình một nghìn năm, sẽ đủ lớn nếu một hạt giống đuợc tạo ra trong bằng thời gian ấy với giả thiết là hạt giống không thể bị phá hủy, và đảm bảo chắc rằng nó sẽ phát triển ở nới thích hợp. Như vậy là trong mọi trường hợp, số lượng trung bình của bất kỳ loài động vật hay thực vật nào chỉ phụ thuộc gián tiếp vào số lượng trứng hoặc hạt giống của nó.
Khi nghĩ về thế giới tự nhiên, chúng ta nhất thiết phải luôn giữ những nhận định trên trong đầu - đừng bao giờ quên rằng mọi cơ thể sống xung quanh chúng có thể được nói là đang phát triển mạnh mẽ nhất về số lượng; rằng mỗi cơ thể sống sót thông qua cuộc đấu tranh tại giai đoạn nhất định trong vòng đời; rằng sự hủy diệt hàng loạt không thể tránh khỏi sẽ rơi vào cá thể bé hoặc giả cỗi trong mỗi thế hệ hoặc tại quãng thời gian lặp lại. Làm sáng tỏ những sự kiềm chế, giảm nhẹ dị sự hủy diệt là rất ít được bàn tới, và số lượng của loài sẽ tăng lên hầu như ngay lập tức tới một mức bất kỳ. Bộ mặt của Tự nhiên có thể được so sánh với một bề mặt mềm, với mười nghìn cái nêm sắt buộc với nhau và bị di chuyển vào trong bởi những cú huých không ngừng nghỉ, đôi khi một cái nêm bị đánh vào, và sau đó là cái khác với lực lớn hơn.
Cái gì kiềm chế xu hướng gia tăng tự nhiên về số lượng vẫn còn hết sức mờ mịt. Hãy xem những loài khỏe mạnh nhất; nhiều về số lượng, và xu hướng gia tăng vẫn tiếp tục tiến triển đi lên. Chúng ta không biết chính xác những kiềm chế là gì thậm chí trong một trường hợp cụ thể. Và cũng chẳng ai ngạc nhiên về sự kiếm hiểu biết của chúng ta về chủ đề này, thậm chí là xét về loài người, loài mà được biết đến nhiều nhất, hơn bất cứ một loài nào khác. Chủ đề này đã được một số học giả đề cập chi tiết và đúng đắn. Trong các nghiên cứu tương lai, tôi sẽ thảo luận về một vài sự kiềm chế với mức độ cụ thể hơn nhiều, nhất là đối với động vật hoang dã vùng Nam Phi. Ở đây tôi chỉ nêu ra một vài nhận xét, chỉ để giúp người đọc nhớ lại những điểm chính. Trứng hoặc những con rẩt nhỏ nói chung dường như chịu nguy hiểm nhiều nhất, nhưng điều này không phải lúc nào cũng đúng. Với thực vật, có sự phá hủy lớn các hạt giống, nhưng dựa trên những quan sát của bản thân, tôi tin rằng chính là cây con chịu thiệt hại lớn nhất mọc lên từ đất. Cây con cũng bị tàn phá với số lượng lớn bởi các kẻ thù khác nhau; ví dụ: chỉ trên mảnh đất dài lm rộng 0,6m, được đào xới và phát quang, và ở đó không thể có sự cạnh tranh từ các loài khác, tôi đã đánh dấu tất cả các cây tảo cong bản địa khi chúng mọc lên, và trong số 357 cây thì không ít hơn 295 cây bị chết, chủ yếu là do sên và côn trùng. Nếu mảnh đất mà được xén cỏ, và trường hợp sẽ là tưomg tự đối với mảnh đất mà cỏ ừên đó bị các coấn động vật bốn chân ăn hết, để cây tự mọc thì những cây khỏe hơn sẽ dần dần giết các cây ít khỏe hơn: do đó trong số hai mươi loài mọc trên một mảnh đất nhỏ đầy cỏ (cao khoảng 30 - 40cm), chín loài bị chết bởi các loài khác để cho phát triển tự do.
Khối lượng thức ăn cho mỗi loài tẩt nhiên sẽ giới hạấn độ tăng trưởng của nó; nhưng thường không phải là giành được thức ăn mà vai trò là con mồi cho động vật khác quyết định số lượng trung bình của một loài. Do vậy, người ta có vẻ ít nghi ngờ số lượng gà gô, gà gô trắng và thỏ rừng trên một khu đất rộng phụ thuộc chủ yếu vào sự tiêu diệt các con thú săn mồi. Nếu không một con vật làm mồi săn nào bị bắn trong vòng hai mươi năm tới ở Anh, và cùng thời gian đó, không con thú săn mồi nào bị tiêu diệt, thì, với mọi xác suất tính toán, chúng ta sẽ có ít thú bị săn mồi hơn bây giờ, mặc dù hiện tại hàng trăm nghìn thú bị săn mồi hàng năm đang bị giết. Mặt khác, trong một số trường hợp, như là của voi hay tê giác, không con nào bị săn cả, thậm chí là loài hổ Ấn Độ rất hiểm khi dám tấn công một chú voi con khi nó được mẹ bảo vệ.
Khí hậu có vai trò quan trọng trong việc quyết định số lượng trung bình của loài và những khoảng thời gian băng giá hay hạn hán, theo tôi, là những sự kiềm chế hiệu quả nhất. Theo tôi tính toán thì mùa đông năm 1854 - 1955 đã lấy làm chết bốn phần năm số chim trong vườn nhà tôi; và đó là một sự hủy diệt ghê gớm khi chúng ta nhớ lại rằng mười phần trăm là do tỷ lệ tử vong khủng khiếp gây ra bởi đại dịch của con người.
Ảnh hưởng của khí hậu ban đầu có vẻ như hoàn toàn không có quan hệ gì với cuộc đấu tranh sinh tồn; nhưng xét về mặt là thời tiết giảm lượng thức ăn, nó mang lại một cuộc đấu tranh khốc liệt nhất giữa các cá thể, cho dù là cùng hay khác loài mà sống nhờ vào cùng dạng thức ăn. Thậm chí khi khí hậu, chẳng hạn như cực kỳ lạnh, gây lên ảnh hưởng trực tiếp, thì nó cũng chỉ là nhân tố ảnh hưởng yếu nhất. Những con vật kiếm được thức ăn ít nhất trong suốt mùa đông giá lạnh là những con chịu ảnh hưởng lớn nhất. Khi chúng tôi đi dọc từ nam ra bắc, hay từ vùng ẩm thấp tới vùng khô hạn, chúng tôi bao giờ cũng gặp một số loài tĩỏ nên ngày một hiếm dần, và cuối cùng biến mất; và sự thay đổi của khí hậu là khá rõ, và chúng ta có chiều hướng gán mọi tác động là gây ra bởi ảnh hưởng của thời tiết, nhưng đây là một quan điểm hết sức lệch lạc: chúng ta quên rằng mỗi loài, thậm chí khi đông nhất, vẫn đang liên tục chịu sự tiêu diệt hàng loạt tại một vài giai đoạn nhất định của chu trình sống từ kẻ thù hay từ kẻ cạnh tranh giành lấy địa bàn sinh sống và thức ăn. Nếu những kẻ thù hay kẻ cạnh tranh này, xét trên mức độ bé nhất, được hưởng thuận lợi từ bất cứ sự thay đổi khí hậu nào, chúng sẽ tăng lên về số lượng, và khi mồi khu vực đã chứa đầy chúng, số lượng những loài khác sẽ giảm. Khi chúng tôi tiến về phía nam, và chứng kiến một loài đang giảm dần số lượng, chúng tôi cảm thấy chắc chắn rằng nguyên nhân nằm phần lớn ở chỗ là các loài khác gặp thuận lợi trong khi loài này bị tác động xấu. Và cũng tưorng tự khi chúng tôi đi về phía bắc, nhưng ở một mức độ nào đó yếu hơn, đối với số lượng loài của mọi kiểu và do đó của cả những kẻ cạnh tranh ngày càng giảm theo phía bắc; do đó khi tiến về phía bắc hay trèo lên một ngọn núi, chúng ta càng thường bẳt gặp nhiều hơn những dạng sống gây sửng sốt, do ảnh hưởng trực tiếp có hại của thời tiết hơn là khi chúng ta tiến về phía nam hay trèo xuống núi. Khi chúng tôi tới vùng Artic, hay những đinh núi bao phủ đầy tuyết, hay sa mạc hoàn toàn, thì cuộc đấu tranh sinh tồn hầu như chỉ diễn ra với các nhân tố này. Việc khí hậu phần lớn có ảnh hưởng thuận lợi đối với các loài khác, chúng ta có thể thấy rõ số lượng khổng lồ các loài cây trong vườn của chúng ta hoàn toàn cỏ thể tồn tại trong khí hậu hiện giờ, nhưng không bao giờ ưở thành tự nhiên hóa, bởi vì chúng không thể cạnh tranh với loài bản địa của chúng ta hay chống lại sự phá hủy của động vật. Khi một loài, nhờ có điều kiện thuận lợi, gia tăng số lượng cá thể quá nhanh trong một khu vực nhỏ, đại dịch, ít nhất là như đối với các con thú bị săn mồi thông thường hay xuất hiện: và ở đây chúng ta có một sự kiểm soát giới hạấn độc lập với cuộc đấu tranh sinh tồn. Nhưng thậm chi cái gọi là đại dịch có vẻ do là giun ký sinh mà tồn tại một phần trong các trang trại nuôi động vật quá đông đúc; và ở đây sẽ nổi lên cuộc đấu tranh sinh tồn giữa loài ký sinh và con chủ ký sinh.
Mặt khác, trong nhiều trường hợp, số lượng lớn cá thể cùng một loài, so với kẻ thù của nó, là rất cần thiết cho sự duy trì giống nòi. Chủng ta có thể trồng nhiều cây ngũ cốc hay cây cải dầu trên cánh đồng, bởi vì số lượng hạt giống của chúng là quá lớn so với số lượng các con chim mà ăn chúng; và loài chim cũng không thể tăng số lượng của mình lên, cho dù là có những mùa thực ăn thừa thãi, tương xứng với số -lượng hạt giống bởi vì số lượng chim lại bị kiềm chế bởi mùa đông: nhưng bất cứ ai mà đã từng thử đều biết cực kỳ khó khăn để lấy được hạt giống từ vài cây lúa mỳ hay những cây tương tự trong vườn; trong trường hợp này, tôi mất hết tất cả hạt giống. Tôi tin là cách nhìn nhận về sự cần thiết của số lượng lớn để bảo tồn giống nòi giải thích một vài thực tế kỳ lạ trong tự nhiên, chẳng hạn như là một số cây cực kỳ hiếm đôi khi lại được tìm thấy xuất hiện dồi dào tại nơi chúng đã từng mọc; hay những cây mang tính xã hội, tức là nhiều về số lượng, lại bị giới hạn hết mức trong tầm hoạt động. Với những thực tế như vậy, chúng ta có thể tin là một cây chỉ có thẻ tồn tại ở nới mà điều kiện sống hết sức thuận lợi tới mức mà rất nhiều cây có thể tồn tại cùng lúc, và do đó giúp nhau không bị diệt vong hoàn toàn. Tôi xin thêm rằng những ảnh hưởng tốt của việc lai phối thường xuyên, và ảnh hiểu tiêu cực của việc lai phối kín có thể đóng vai trò nhất định trong một vài trường họp, nhưng tôi không mở rộng ở đây chủ đề đầy thú vị này.
Người ta ghi lại được nhiều trường hợp minh họa sự những kiềm chế và mối quan hệ giữa các cơ thể sống phức tạp và không đoán trước được như thế nào, những cơ thể phải cạnh tranh với nhau trong cùng một nước. Tôi chỉ xin đưa ra một ví dụ, dù đơn giản, nhưng khiến tôi thích thú. Tại Stafforshire, cỏ một mảnh đất cằn cỗi rộng lớn, chưa bao giờ được con người cầy xới; nhưng khoảng vài trăm mẫu Anh (1 Một mẫu Anh tương đương với khoảng 4050 m2 ) trong điều kiện tự nhiên chính xác hệt như thế bị bao bọc và cây linh sam Scotch được trồng trên đó hai mươi nhăm năm về trước. Sự thay đổi trong thảm thực vật bản địa của phần có cây trồng trên mảnh đất đó là nổi bật nhất, hơn là thường thấy khi đi từ mảnh đất này sang mảnh đất khác biệt khác. Không chi số lượng tương ứng của các cây trên mảnh đất hoàn toàn bị thay đổi, mà mười hai loài cây (không tính cây cỏ dại) phát triển khỏe mạnh trên mảnh đất đó, những cây không thể tìm thấy trên mảnh đất khô càn. Ảnh hưởng đối với loài côn trùng còn lớn hơn. Sáu giống chim ăn sâu bọ rất phổ biến trên các khu đất đó, nhưng không nhìn thấy trên mảnh đất cằn cỗi; và mảnh đất cằn cỗi thường xuyên được hai hay ba loại chim ăn sâu bọ khác. Ở đây chúng ta thấy ảnh hưởng của sự xuất hiện một loại cây thôi, ngoài ra không hề có gì khác, mạnh đến như thế nào, trừ trường trường hợp đất bị rào kín khiến cho trâu bò không thể vào được. Tầm quan trọng của nhân tố rào giậu tôi đã nhìn thấy rõ ở khu vực gần Farham, tại Surrey. Ở đây có những mảnh đất hoang, chỉ có một vài bụi cây linh sam Scotch già cỗi trên những đỉnh đồi xa xăm; trong vòng mười năm qua, những vùng 1 đất rộng lớn đã bị rào kín lại, và những cây linh sam tự sinh sản giờ đây đang mọc lên với số lượng lớn, rất gần nhau đến nỗi mà chúng không thể sống. Khi tôi khẳng định là các cây con này không được gieo hay trồng, tôi vô cùng ngạc nhiên trước số lượng của chúng đến mức tôi đã đi tới một số kết luận khi kiểm tra hàng trăm mẫu đất hoang không bị rào giậu, và hầu như không thấy bất kỳ một cây linh sam Scotch nào trừ các bụi cây trồng già nua. Nhưng khi nhìn sát xuống mặt đất, tôi tìm thấy hàng đống cây con bị gia súc gặm nát. Trong một yard (1 yard = 0,90144m) vuông, tại một điểm cách xa hằng trăm mét so với bụi cây già, tôi đếm được ba mươi hai cây con, và một trong số chúng, xét trên vòng tăng trưởng, trong suốt hai mươi sáu năm đã cố mọc lên khỏi mặt đất, nhưng đã không thành công. Không ai nghi ngờ là ngay khi miếng đất đó được rào kín lại thì nó sẽ được bao phủ nhanh chónh bởi cây linh sam con khỏe mạnh. Nhưng mảnh đất đã quá cằn cỗi và rộng lớn tới mức không một người nào tưởng tượng là gia súc đã tìm kiếm thức ăn trên mảnh đất đó rất kỹ càng và hiệu quả.
Ở đây chúng ta thấy rằng gia súc hoàn toàn quyết định sự tồn tại của cây lam sinh Scotch; nhưng tại một vài nơi trên thế giới, côn trùng lại quyết định sự tồn tại của gia súc. Có lẽ đất nước Paraguay cung cấp ví dụ thú vị nhất; ở đó, cả chó, ngựa, và gia súc không bao giờ lớn lên trong hoang dã, mặc dù chúng di chuyển từ nam tới bắc trong thế giới tự nhiên; và hai ông Azara và Rengger đã chỉ ra là điều này có nguyên nhân từ số lượng lớn loài ruồi ở Paraguay. Những con ruồi này đẻ trứng trên rốn của các con vật mới sinh. Sự gia tăng số lượng ruồi, rất đông như hiện tại, đưcmg nhiên phải bị kiềm chế bởi các nhân tố khác, có thể là những con chim. Chính vì thế, nếu những con chim ăn sâu bọ (số lượng có thể thường xuyên bị kiểm soát bởi chim ưng hay các loài thú săn mồi khác) tăng lên, thì số lượng ruồi Paraguay sẽ giảm xuống - như thế, gia súc, chó và ngựa sẽ phát triển trong tự nhiên.
Chuỗi quan hệ ràng buộc này chắc chắn sẽ làm thay đổi lớn (như thật sự những gì tôi đã quan sát được ở Nam Mỹ) thảm thực vật: nó lại một lần nữa ảnh hưởng lớn đến loài côn trùng; rồi đến loài chim bắt sâu bọ và cứ tiếp tục như thế vòng tròn tương tác tỏa rộng dần ra như chúng ta đã chứng kiến ở Staffordshire. Chúng ta bắt đầu chuồi này với loài chim ăn sâu bọ, và chúng ta kết thúc cũng với chúng. Mối quan hệ trong tự nhiên không hề đơn giản như thế. Trận chiến trong trận chiến phải đã từng lặp lại nhiều lần với sự thành công khác nhau; và trong tương lai, các lực lượng được cân bằng hoàn hảo tới mức mà bộ mặt của tự nhiên vẫn giữ được tính thổng nhất trong thời gian dài, cho dù chắc chắn là ưu thế nhỏ nhất thường mang tới thắng lợi cho một thực thể sống trước thực thể khác. Phải thừa nhận là chúng ta còn biết quá ít, và phán đoán quá nhiều tới độ chúng ta bị bất ngờ khi biết đến sự tuyệt chủng của một cá thể sống; và do chúng ta không biết nguyên nhân tại sao, chúng ta tưởng tượng những thảm họa bất thường giáng xuống thế giới này, hay sáng tạo ra các quy luật về sự thời gian tồn tại của dạng sống!
Tôi rất muốn đưa thêm một ví dụ nữa minh chứng động vật và thực vật, hiếm nhất trong tự nhiên, gắn kết với nhau như thế nào bởi mạng lưới quan hệ phức tạp. Tôi sẽ nhân dịp này chứng minh rằng loài Lobelia ýulgens ngoại lai, tại nước Anh, không bao giờ được các con côn trùng “viếng thăm”, và kết quả là, chúng không bao giờ có thể tạo ra hạt giống do cấu trúc lạ lùng của nó. Nhiều cây thuộc họ hoa lan của chúng ta đòi hỏi phải có sự “thăm hỏi” của các con côn trùng hàng tháng để loại bỏ khối lượng phấn hoa lớn và do đó thụ phấn được. Tôi cũng có lý do để tin rằng loài ong nghệ là tác nhân không thể thiếu để giúp cây hoa bướm dại thụ phấn (Viola tricolor), bởi vì không một loài ong khác nào ghé thăm chúng. Từ những thí nghiệm mà tôi tiến hành, tôi nhận thấy là sự viếng thăm của các con ong, nếu không muốn nói là không thể thiếu, thì ít nhất cũng mang lại lợi ích lớn về khả năng sinh sản cho cỏ ba lá của chúng ta; nhưng chỉ có ong nghệ là viếng thăm loài cỏ ba lá đỏ thông thường (Trifolium pratensè), bởi vì các loài ong khác không thể đến được mật hoa. Với lý do này, tôi khá tin tưởng là nếu toàn bộ loài ong nghệ bị tuyệt chủng hoặc trở nên cực kỳ hiếm ở nước Anh, cây hoa bướm dại và cỏ ba lá đỏ có thể trở nên khan hiếm hoặc biến mất tất cả. số lượng ong nghệ trong bất cứ khu vực nào đều phụ thuộc lớn vào số lượng chuột đồng, những con phá hủy tổ của chúng, ông H. Newman, người đã nghiên cứu lâu nay về thói quen của loài ong nghệ, thừa nhận là "hơn hai phần ba số chúng đã bị tiêu diệt ở trên toàn bộ nước Anh". Và như mọi người đều biết số lượng chuột lại phụ thuộc chủ yếu vào số lượng mèo. Ông Newman nói "gần những làng và thị trấn nhỏ, tôi đã tìm thấy tổ của ong nghệ nhiều hơn bất cứ ở đâu. Hiện tượng này tôi cho là do số lượng lớn mèo đã bắt hết chuột". Bởi vậy, một kết luận đáng tin là sự xuất hiện với số lượng lớn của động vật giống mèo tại một khu vực có thể quyết định, thông qua sự can thiệp vào đầu tiên là chuột sau đó đến ong, số lượng của vài loài hoa nhất định mọc trên khu vực đó!
Trong trường hợp của mọi loài, nhiều sự kiềm chế khác nhau, hoạt động tại các giai đoạn chu trình sống khác biệt, và trong những mùa hay năm riêng rẽ, có thể gây ảnh hưởng; một số khá mạnh mẽ, nhưng tất cả đều đóng vai trò quyết định số lượng trung bình, thậm chí là sự tồn tại của loài. Trong một vài trường hợp, chúng ta có thể chứng minh những sự kiểm soát đa dạng có tác động tới cùng một loài ở các khu vực khác nhau. Khi chúng ta nhìn những cây và bụi cây quấn chặt nhau, bao phủ dọc một dải đất bên sông, chúng ta thường ngay lập tức coi số lượng tưomg đối và các dạng của chúng là do cái mà chúng ta gọi là "ngẫu nhiên".
Nhưng quan điểm này là hoàn toàn sai lầm! Mọi người đều đã nghe nói khi một khu rừng nước Mỹ bị tàn phá, một thảm thực vật rất khác biệt lại mọc lên đúng chỗ đó; nhưng người ta quan sát được những cây hiện tại đang mọc trên đồi núi của người Anh-điêng cổ đại, tại phía nam nước Mỹ, phô bày vẻ tính đa dạng lộng lẫy và tính tương đồng trong dạng loại giống như của khu rừng nguyên sinh. Một cuộc đấu tranh giữa vài loài cây đã phải kéo dài hàng thế kỷ; mỗi loại hàng năm rải hàng nghìn hạt giống của nó; một cuộc chiến tranh giữa côn trùng với côn trùng - giữa côn trùng, ốc sên, và các loài động vật khác với chim, các loài thú săn mồi - tất cả đều đang đấu tranh để tăng số lượng của mình lên, và tất cả đều ăn thịt nhau hay ăn cây cỏ, hạt giống và cây con, hay ăn cây mà mọc lên đầu tiên. Chúng đang kiềm chế lẫn nhau! Tung lên một nhúm lông, tất cả sẽ phải rơi xuống đất theo như định luật trọng trường của Newton; nhưng thật quá đơn giản khi đem so sánh định luật này với tác động và tái tác động của vô số các loài thực vật và động vật mà, trong suốt thế kỷ qua, quyết định số lượng và dạng thức cân xứng của cây đang mọc trên khu hoang tàn của người Anh-điêng cổ!.
Sự phụ thuộc của một cơ thể sống vào cơ thể sống khác, như là
cây tầm gửi, nói chung thường nằm giữa các thực thể sống xa cách trong tự
nhiên. Đây thường là trường hợp của các cơ thể sống đang cạnh tranh sinh tồn với
nhau, giống như trường hợp của con châu chấu với động vật bốn chân ăn cỏ. Nhưng
cuộc đấu tranh bao giờ cũng khốc liệt nhất giữa các cá thể thuộc cùng loài, bởi
vì chúng thường xuyên sống cùng một nơi, ăn cùng loại thức ăn, và đối mặt với
cùng mối hiểm họa. Trong trường hợp của các biến thể cùng loài, tính khốc liệt
của cuộc tranh đấu gần tương đương, và đôi khi chúng ta thấy cuộc canh tranh được
quyết định nhanh chóng. Ví dụ: nếu vài biến thể của cây lúa mì được gieo cùng
nhau, và hạt giống lai được gieo lại, những biến thể mà hợp với đất hay khí hậu
nhất, hay có khả năng sinh sản tự nhiên tốt nhất, sẽ đánh bại các biến thể khác
và cho ra nhiều hạt giống hơn, và kết quả là sẽ trong vòng vài năm thay thế các
biến thể khác. Đe giữ được một số lượng biến thể lẫn lộn của các biến thể cực kỳ
gần gũi như vậy kiểu màu sắc rực rỡ cây hoa đậu, chúng phải được thu hoạch
riêng rẽ, và sau đó trộn lẫn vào nhau với tỷ lệ hợp lý, nếu không những loại yếu
hơn sẽ giảm sút số lượng đều đều, sau đó biến mất. Tưomg tự như thế với các biến
thể loài cừu: Có người khẳng định là vài biến thể cừu núi nhất định sẽ bị chết
đói bởi loài cừu núi khác, do đó chúng không thể được nuôi cùng nhau. Tình trạng
tưcmg tự cũng xảy ra khi chúng ta dùng các loài đỉa để chữa bệnh khác biệt cùng
một chỗ. Thậm chí mọi người còn nghi ngờ rằng liệu biến thể của bất kỳ một động
thực vật thuần chủng nào của chúng ta có sức mạnh, thói quen, và thể trạng giống
hệt thế tới mức mà tỷ lệ trộn lẫn ban đầu có thể được giữ trong vòng sáu thế hệ,
nếu chúng được để cho đấu tranh với nhau, giống như các thực thể sống trong tự
nhiên, và nếu như hạt giống hay cây con không bị phân loại hàng năm.
Vì các loài nằm trong cùng lớp thường có, mặc dù không phải bao giờ cũng thế, một vài điểm tương đồng trong tính cách và thể trạng, và lúc nào cũng có điểm tương đồng trong cấu trúc, cuộc đấu tranh thông thường diễn ra ác liệt hơn giữa các loài cùng lớp khi chúng cạnh tranh với nhau hơn là giữa những loài thuộc lớp khác nhau. Chúng ta nhìn thấy sự thực này trong sự gia tăng gần đây của một giống chim nhạn trên nước Mỹ, khiến cho số lượng loài khác giảm sút. Chúng ta rất thường hay nghe về trường hợp một loài chuột tiêu diệt loài khác trong các điều kiện khí hậu khác biệt! Ở nước Nga, loài gián Asiatic nhỏ ở mọi nơi đều loại bỏ đồng loại lớn hơn nó. Một giống bạch giới sẽ thay thế giống khác, và tương tự như thế trong các trường hợp khác. Chúng ta chỉ hiểu lờ mờ tại sao sự cạnh tranh lại gay gắt nhất giữa các dạng gần gũi, sống cùng một nơi trong tự nhiên; nhưng có lẽ không một trường hợp nào chúng ta có thể nói chính xác tại sao một loài thắng thế hơn so với loài khác trong cuộc chiến vĩ đại cuộc đời.
Hệ luận của tầm quan trọng cao nhất có thể được tìm ra dựa trên các nhận xét dưới đây. Đó là cấu trúc của mọi cơ thể sống, trong mặt chủ yếu nhất nhưng bị ẩn đi, có liên hệ với cấu trúc của tất cả các cơ thể sống khác, mà nó cạnh tranh giành lấy thức ăn hay địa bàn hoạt động, hay những thực thể mà chúng phải trốn tránh, hay thực thể mà chúng săn đuổi. Điều này rõ ràng trong cấu trúc hàm răng và móng vuốt loài hổ; hay ở chân và vuốt của động, thực vật ký sinh, những con bám vào lông hổ. Nhưng trong hạt giống của cây bồ công anh Trung Quốc, và trong chân tua, phẳng của bọ cánh cứng nước, mối quan hệ dường như đầu tiên chỉ là giữa nước và không khí. Nhưng lợi thế của hạt giống này, không có gì phải nghi ngờ, là nằm ở mối quan hệ gần gũi nhất với mảnh đất đã bị bao phủ dầy bởi các loài cây khác khiến cho hạt giống có thể được phân bổ rộng rãi và roi vào vùng chưa bị chiếm giữ. Đối với loài bọ cánh cứng dưới nước, cách tổ chức chân của nó, cực kỳ phù hợp với việc lặn, cho phép nó cạnh tranh với các loại côn trùng nước khác, săn bắt con mồi và tránh bị trở thành con mồi.
Khối chất dinh dưỡng nằm bên trong hạt giống của nhiều loại cây ban đầu có vẻ như không liên quan gì tới các loại cây khác. Nhưng dựa trên sự phát triển khỏe mạnh của cây con từ những hạt giống như đậu Hà Lan hay đậu thông thường, khi chúng được gieo giữa vùng cỏ mọc dài, Tôi nghi ngờ là khối chất dinh dưỡng bên trong là dùng để hỗ trợ sự phát triển của cây con, trong cuộc đấu tranh với các cây khác xung quanh đang mọc lên mạnh mẽ.
Hãy nhìn vào một cây trong tầm trải rộng của nó, tại sao nó lại không tăng số lượng lên gấp đôi hay gấp bốn? Chúng ta biết rằng nó hoàn toàn có thể chống chọi lại nếu nhiệt độ có lên cao hay xuống thấp, hay ẩm thấp hoặc khô hạn hơn một chút bởi vì đâu đó, nó vẫn tồn tại trong những vùng có điều kiện nóng, lạnh, khô, ẩm hơn. Trong trường hợp này, chúng ta có thể nhận thấy rõ nếu chúng ta mong muôn trong tưởng tượng có sức mạnh ban cho loài cây này quyền lực tăng số lượng, thì chúng ta sẽ phải tạo ra một vài ưu thế cho nó so với đối thủ cạnh tranh, hay so với loài động vật ăn nó. Trong tầm trải rộng địa lý của mình, một sự thay dổi trong thể tạng gây ra bởi thời tiết rõ ràng là một lợi thế đối cói loài cây của chúng ta; nhưng chúng ta có lý do để khẳng định chỉ một vài cây hay động vật có tầm trải rộng đủ xa tới mức mà chúng chỉ có thể bị tiêu diệt bởi các điều kiện bất lợi của thời tiết mà thôi. Cho đến khi chúng ta đạt tới cực độ giới hạn của sự sống, trong vùng băng giá hay trên rìa của sa mạc khủng khiếp, sự cạnh tranh sẽ không ngừng lại. Vùng đất có thể là vô cùng lạnh hoặc vô cùng nóng, nhưng ở đó vẫn có sự cạnh tranh giữa vài loài, hay giữa các cá thể cùng loài, để giành lấy những chỗ ấm áp hoặc ẩm ướt nhất.
Chúng ta cũng nhận ra là khi một cây hay động vật được mang tới một đất nước mới, giữa các đối thủ cạnh tranh mới, cho dù điều kiện thời tiết khí hậu cực kỳ giống với nước nó sinh sổng trước đây, song điều kiện sổng của nó sẽ dần dần thay đổi cơ bản. Nếu chúng ta mong muốn tăng số lượng trung bình của động vật này tại nơi ở mới, chúng ta sẽ phải chỉnh sửa nó theo một cách khác bởi vì chúng ta phải tạo ra những lợi thế cho nó trước các đối thủ cạnh tranh và kẻ thù đa dạng.
Do đó trong tưởng tượng chúng ta nên cố thử tạo ra các lợi thế cho bất kỳ dạng thức nào khác dạng thức trước. Có lẽ là chúng ta không biết phải làm gì để thực hiện thành công thử nghiệm đó. Thực tế này chứng minh cho chúng ta thấy về sự hiểu biết quá ít ỏi của con người đối với các mối quan hệ qua lại của tất cả thực thể sống, một sự thuyết phục cần thiết nhưng có vẻ như khó đạt được. Tất cả những gì mà chúng ta có thể làm là luôn nghĩ trong đầu rằng mỗi cơ thể sống đang cố hết sức để tăng cấp số nhân của nó; mồi cơ thể sống, tại một số giai đoạn cuộc đời, trong suốt vài mùa của năm, trong suốt mỗi thế hệ hay tại khoảng trung gian, phải đấu tranh cho sự sinh tồn và chịu sự tàn phá hàng loạt. Khi chúng ta nghĩ về cuộc đấu tranh này, chúng ta có thể tự an ủi mình bằng niềm tin tuyệt đối là cuộc chiến trong tự nhiên đến một lúc nào đó sẽ dừng, không nỗi sợ hãi nào được cảm nhận, cái chết thường đến ngay lập tức, và loài manh mẽ, khỏe khoắn, và hạnh phúc sẽ sống sót và phát triển.
Vì các loài nằm trong cùng lớp thường có, mặc dù không phải bao giờ cũng thế, một vài điểm tương đồng trong tính cách và thể trạng, và lúc nào cũng có điểm tương đồng trong cấu trúc, cuộc đấu tranh thông thường diễn ra ác liệt hơn giữa các loài cùng lớp khi chúng cạnh tranh với nhau hơn là giữa những loài thuộc lớp khác nhau. Chúng ta nhìn thấy sự thực này trong sự gia tăng gần đây của một giống chim nhạn trên nước Mỹ, khiến cho số lượng loài khác giảm sút. Chúng ta rất thường hay nghe về trường hợp một loài chuột tiêu diệt loài khác trong các điều kiện khí hậu khác biệt! Ở nước Nga, loài gián Asiatic nhỏ ở mọi nơi đều loại bỏ đồng loại lớn hơn nó. Một giống bạch giới sẽ thay thế giống khác, và tương tự như thế trong các trường hợp khác. Chúng ta chỉ hiểu lờ mờ tại sao sự cạnh tranh lại gay gắt nhất giữa các dạng gần gũi, sống cùng một nơi trong tự nhiên; nhưng có lẽ không một trường hợp nào chúng ta có thể nói chính xác tại sao một loài thắng thế hơn so với loài khác trong cuộc chiến vĩ đại cuộc đời.
Hệ luận của tầm quan trọng cao nhất có thể được tìm ra dựa trên các nhận xét dưới đây. Đó là cấu trúc của mọi cơ thể sống, trong mặt chủ yếu nhất nhưng bị ẩn đi, có liên hệ với cấu trúc của tất cả các cơ thể sống khác, mà nó cạnh tranh giành lấy thức ăn hay địa bàn hoạt động, hay những thực thể mà chúng phải trốn tránh, hay thực thể mà chúng săn đuổi. Điều này rõ ràng trong cấu trúc hàm răng và móng vuốt loài hổ; hay ở chân và vuốt của động, thực vật ký sinh, những con bám vào lông hổ. Nhưng trong hạt giống của cây bồ công anh Trung Quốc, và trong chân tua, phẳng của bọ cánh cứng nước, mối quan hệ dường như đầu tiên chỉ là giữa nước và không khí. Nhưng lợi thế của hạt giống này, không có gì phải nghi ngờ, là nằm ở mối quan hệ gần gũi nhất với mảnh đất đã bị bao phủ dầy bởi các loài cây khác khiến cho hạt giống có thể được phân bổ rộng rãi và roi vào vùng chưa bị chiếm giữ. Đối với loài bọ cánh cứng dưới nước, cách tổ chức chân của nó, cực kỳ phù hợp với việc lặn, cho phép nó cạnh tranh với các loại côn trùng nước khác, săn bắt con mồi và tránh bị trở thành con mồi.
Khối chất dinh dưỡng nằm bên trong hạt giống của nhiều loại cây ban đầu có vẻ như không liên quan gì tới các loại cây khác. Nhưng dựa trên sự phát triển khỏe mạnh của cây con từ những hạt giống như đậu Hà Lan hay đậu thông thường, khi chúng được gieo giữa vùng cỏ mọc dài, Tôi nghi ngờ là khối chất dinh dưỡng bên trong là dùng để hỗ trợ sự phát triển của cây con, trong cuộc đấu tranh với các cây khác xung quanh đang mọc lên mạnh mẽ.
Hãy nhìn vào một cây trong tầm trải rộng của nó, tại sao nó lại không tăng số lượng lên gấp đôi hay gấp bốn? Chúng ta biết rằng nó hoàn toàn có thể chống chọi lại nếu nhiệt độ có lên cao hay xuống thấp, hay ẩm thấp hoặc khô hạn hơn một chút bởi vì đâu đó, nó vẫn tồn tại trong những vùng có điều kiện nóng, lạnh, khô, ẩm hơn. Trong trường hợp này, chúng ta có thể nhận thấy rõ nếu chúng ta mong muôn trong tưởng tượng có sức mạnh ban cho loài cây này quyền lực tăng số lượng, thì chúng ta sẽ phải tạo ra một vài ưu thế cho nó so với đối thủ cạnh tranh, hay so với loài động vật ăn nó. Trong tầm trải rộng địa lý của mình, một sự thay dổi trong thể tạng gây ra bởi thời tiết rõ ràng là một lợi thế đối cói loài cây của chúng ta; nhưng chúng ta có lý do để khẳng định chỉ một vài cây hay động vật có tầm trải rộng đủ xa tới mức mà chúng chỉ có thể bị tiêu diệt bởi các điều kiện bất lợi của thời tiết mà thôi. Cho đến khi chúng ta đạt tới cực độ giới hạn của sự sống, trong vùng băng giá hay trên rìa của sa mạc khủng khiếp, sự cạnh tranh sẽ không ngừng lại. Vùng đất có thể là vô cùng lạnh hoặc vô cùng nóng, nhưng ở đó vẫn có sự cạnh tranh giữa vài loài, hay giữa các cá thể cùng loài, để giành lấy những chỗ ấm áp hoặc ẩm ướt nhất.
Chúng ta cũng nhận ra là khi một cây hay động vật được mang tới một đất nước mới, giữa các đối thủ cạnh tranh mới, cho dù điều kiện thời tiết khí hậu cực kỳ giống với nước nó sinh sổng trước đây, song điều kiện sổng của nó sẽ dần dần thay đổi cơ bản. Nếu chúng ta mong muốn tăng số lượng trung bình của động vật này tại nơi ở mới, chúng ta sẽ phải chỉnh sửa nó theo một cách khác bởi vì chúng ta phải tạo ra những lợi thế cho nó trước các đối thủ cạnh tranh và kẻ thù đa dạng.
Do đó trong tưởng tượng chúng ta nên cố thử tạo ra các lợi thế cho bất kỳ dạng thức nào khác dạng thức trước. Có lẽ là chúng ta không biết phải làm gì để thực hiện thành công thử nghiệm đó. Thực tế này chứng minh cho chúng ta thấy về sự hiểu biết quá ít ỏi của con người đối với các mối quan hệ qua lại của tất cả thực thể sống, một sự thuyết phục cần thiết nhưng có vẻ như khó đạt được. Tất cả những gì mà chúng ta có thể làm là luôn nghĩ trong đầu rằng mỗi cơ thể sống đang cố hết sức để tăng cấp số nhân của nó; mồi cơ thể sống, tại một số giai đoạn cuộc đời, trong suốt vài mùa của năm, trong suốt mỗi thế hệ hay tại khoảng trung gian, phải đấu tranh cho sự sinh tồn và chịu sự tàn phá hàng loạt. Khi chúng ta nghĩ về cuộc đấu tranh này, chúng ta có thể tự an ủi mình bằng niềm tin tuyệt đối là cuộc chiến trong tự nhiên đến một lúc nào đó sẽ dừng, không nỗi sợ hãi nào được cảm nhận, cái chết thường đến ngay lập tức, và loài manh mẽ, khỏe khoắn, và hạnh phúc sẽ sống sót và phát triển.
CHARLES DARWIN
Ngọc Linh dịch
Nguồn: Dịch từ bản tiếng Anh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét