Nửa thế kỷ Phạm Duy - Phần 2
Chương 1 - Nhạc kịch nhân gian
Toàn bộ tác phẩm của văn hào Honoré De Balzac
mang cái tên là Hài
Kịch Nhân Gian (Comédie Humaine). Trong đó có hầu hết các
nhân vật thuộc các thành phần xã hội hoạt động trong những môi trường rất phức
tạp, từ ông nhà giàu keo kiệt, đến vị thầy thuốc miệt vườn, từ người bệnh tưởng
đến người nữ đầy tớ thô kệch. Tôi xin gọi toàn thể tác phẩm của Phạm Duy là Nhạc Kịch Nhân Gian. Tuy
rằng âm nhạc không dựng nhân vật như tiểu thuyết nhưng khi đọc xong cuốn NGÀN LỜI CA của
Phạm Duy, ta thấy như đã sống qua vô số những mảnh đời cùng với những nhân vật
hoạt động và tiếng khóc tiếng cười. Những nhân vật này tôi chia ra nhiều loại.Trước hết là loại bao gồm những nhân vật có
tên tuổi, hình dáng, nội tâm, tình cảm rất gần với nhân vật tiểu thuyết. Đó là:... Bà
mẹ Gio Linh, bà mẹ Phù Sa, một người mang tên Quốc, người anh đưa em đến trường,
hai người lính, người con gái Việt xa rời tổ quốc v.v...Tới loại bao gồm những nhân vật có danh xưng,
không có tên riêng nhưng rất tiêu biểu. Đó là:... Người
thương binh đi giết giặc trở về, người thương binh cày ruộng, tráng sĩ mài kiếm
dưới trăng, chinh phụ, chiến sĩ cụt đầu, bà mẹ quê, đôi vợ chồng quê, em bé
quê, bé chăn trâu, thợ cày, công nhân, thợ chài, thầy cúng, cường đạo, tướng cướp,
các cô gái đủ lứa tuổi, các chàng trai đủ hạng, thầy giáo, cô giáo, kép cải
lương, thiên thần, ma quỉ, kẻ ăn chơi, gái điếm, trí thức, du kích, tổng thống,
ăn mày, người lính trẻ v.v...... Chúa
Giê Su, Đức Phật, Nguyễn Du, Kiều, Sylvia Vartan, Thanh Nga, Frank Sinatra, Chú
Cuội, Hằng Nga, Giáng Hương, Trương Chi, Mỵ Nương, Giặc Hán, Quân Đội Mỹ, Adam,
Eva, Horace, Cesar, Mao Xếnh Sáng v.v... Kể không hết.... Chim (36
loại), trâu,
bò, ngựa, voi, hùm, nai, giun, dế, ve, kiến, ong, nhện, tò vò, muỗi, bướm...Loài thảo mộc thì gồm:... Hoa
hướng dương, hoa tường vi, hoa quỳ, hoa phượng vĩ, hoa hồng, cây tràm, cây đa,
cây trúc, cây dừa, cây tre, cây chuối, cây kơnia, cây vú sữa, rêu, rong, vườn
đào, cỏ trinh nữ, trái sầu riêng, cam, quýt, bưởi...Tất cả người và vật kể trên sống trong thiên
nhiên vô cùng phong phú:... Đồng
lúa, nương rẫy, núi sông, biển, lạch, nguồn, khe, ngòi, vườn, nhà sàn, lâu
đài...Nói về thời tiết thì ta thấy có:... Xuân,
Hạ, Thu, Đông, nắng nôi, mưa gió, sóng gió, bão táp, chiều, hoàng hôn, binh
minh, đêm tối, đêm trăng, xế trưa...Nói về thời đại và địa danh, nơi chốn thì có:... Việt
Nam ba miền, Lê, Lý, Trần, Cần Vương, Thăng Long, Ải Chi Lăng, Tao Đàn, Yên Thế,
Việt Bắc, Lạng Sơn, Cai Kinh, Truông Nhà Hồ, Phá Tam Giang, Trường Sơn, Hoành
Sơn, Mê Linh, Hoa Lư, Huế, Hà Nội, Sài Gòn, Tháp Rùa, Tháp Vàng, Đèo Cù Mông,
Cà Mau, Hà Tiên, Cần Thơ, Tiền Giang, Hậu Giang, Gò Công, Châu Đốc, Mỹ Lai,
Sông Đuống, Sông Cầu, Sông Lô, Đức Quốc, Cali, Minnisota, Texas, Louisiana,
Mississipi, Sông Seine, Danube, Tây Ninh, Paris, Thành Hồ, Địa Ngục, Âm Ty...Những tác động của các nhân vật là:... Xuất
quân, khởi hành, về quê, leo núi, cưỡi ngựa, đi trong mùa xuân, đi trong đêm,
chia ly, mong chồng, thương nhớ, xum họp, lao động, cuốc đất, cầy bừa, tát nước,
gặt hái, gánh lúa, đi học, đám cưới, đám ma, ôm nhau bên khóm trúc, bên cột
đèn, hát hò đối đáp, tìm mộ bia, gọi con, giết nhau, cầu kinh, ru con, gánh
thùng bánh ế, gọi người bên kia, lên mặt trăng, phá then vàng vào vườn hoang...Kể cả những hành động ít thơ mộng như:... Vén
quần lội qua khe, coi khỉ đột hiếp dâm quan tòa, sửa vú, sửa mông, chửi đổng,
nhìn lồn, cầm cặc...Tình cảm nhân vật thì là:... Yêu
nước, yêu lứa đôi, yêu thiên nhiên, yêu con người nói chung, yêu cha mẹ, thù
ghét, giận hờn, hy vọng, tuyệt vọng, đau khổ...Ngôn ngữ của tác phẩm:... Nam,
Trung, Bắc, bình dân, quí phái, thanh, tục, tiếu lâm, vè, hò, hài hước, nghệ
sĩ.Thiệt là thiên hình vạn trạng, không sao kể xiết.Tất cả những nhân vật, bối cảnh, tình cảm,
ngôn ngữ, hoạt động kể trên đây là một phần lớn học được từ toàn bộ tác phẩm của
Phạm Duy. Đúng là một cái nhân gian. bao gồm cả loài người đông đảo đang xôn
xao hoạt động, đang cười, đang khóc với giọng điệu lúc trầm lúc bổng, khi nhặt
khi khoan. Do đó mà tôi gọi nó là một nhạc kịch nhân gian Đặc biệt
trong nhạc kịch vĩ đại này có hai nhân vật mà tôi muốn nhắc đến sau cùng. Đó
là:... MẸ
VIỆT NAM và CÂY
LÚA.Có thể nói hai nhân vật này là nét đan thanh nổi
bật của họa sĩ Phạm Duy mà tôi sẽ đề cập ở những chương sau.Chương 2 - Nhạc trung hữu họaThơ hay nhờ tứ và lời. Tứ cao sâu, lời đẹp. Tứ
và lời họp sức làm nên hình tượng sâu vào lòng người. Ở đây tôi muốn nói đến sự
giàu có về hình tượng có thể nói là chật chội trong nhạc Phạm Duy. Tôi xin tạm
xếp thành ba nhóm như sau:Hiện
thực/ lãng mạn/ siêu thực. Sau
đây là những ví dụ thuộc nhóm:1.
Hiện thực/ lãng mạn.Chàng nghệ sĩ đến nhà cô em chơi rồi bỏ quên
cây đàn. Hôm sau chàng đến, thì:Cây đàn nằm đó nhưng em đâu rồiBông hoa trên phím tươi cườiNgười tiên tặng đóa hoa đời xinh xinh.(Cây Đàn Bỏ Quên)Hình ảnh y như đã vẽ: cây đàn nằm đó với đóa
hoa cài trên phím, nhưng không khí vắng phắc. Nàng tiên đã biến đi lúc nào. Còn
đây là một hiện thực lãng mạn khác:Một đoàn người đi hiên ngang trên đường
gian nanIn hình qua mây núi xanh lơ bát ngát...Kìa đoàn người đi say sưa qua đồng mênh môngNgười bàng hoàng đưa câu ca theo nhịp chân khôngCó những lúc reo mừng với tiếng hát mơ màng(Đường Về Quê)Rõ nét một bức tranh bộ đội hành quân qua rừng
núi xuống đồng bằng, hai ven đường có nông dân làm lụng hò hát và có cô nàng
tan chợ quang gánh về thôn.Đây nữa:Nhà sàn cao, tuy mái thô sơNgười dừng chân bên suối nên thơ...Đường mòn leo lên cheo leoVượt đồi non lên phiêu diêuĐồng lúa chín gió cuốn theo chân đèo(Đường Lạng Sơn)Vẫn là những bức tranh hiện thực:Chiều về trên cánh đồng xanhCó nàng gánh lúa cho anh ra đi diệt thù...Chàng về nay đã cụt tayMáu đào đã nhuốm trên thây bao nhiêu quân thù(Nhớ Người Thương Binh)...Bên suối xanh lơ mọc lên những mái tranh
xưaĐây chốn biên khu lòng ta như nước sông Lô(Tiếng Hát Trên Sông Lô)...Người đi trên đống tro tànThương em nhớ mẹ, hương vàng về đâuChiều khô nước mắt rưng sầuTan thân thiếu phụ nát đầu hài nhi.(Về Miền Trung)...Rung rinh, rung rinh gánh lúa rung rinhCánh đồng (mà) xinh xinh (rằng) xinhLão bà tóc trắng kĩu kịt quang gánhMôi trầu (mà) tươi đám cỏ xanh(Gánh Lúa)Bằng ấy dấu chứng cũng đủ minh họa cho sự
phong phú của hình tượng trong nhạc Phạm Duy. Ta có thể tìm thấy những ví dụ
như vậy nằm khắp trong nhạc Phạm Duy. Có nhiều bài là những bức tranh toàn cảnh
rất hoàn chỉnh.2.
Hiện thực/ siêu thựcBây giờ ta hãy sang nhóm thứ hai, tức là nhóm
tranh vừa hiện thực vừa siêu thực. Thực ra chẳng có một khuôn thước nào được đặt
ra để cho bài nào vào nhóm nào, nhưng vì các loại hình tượng mà tôi tìm thấy
trong nhạc Phạm Duy rất phong phú cho nên tạm xếp loại để dễ nghiên cứu. Đứng
trước nhiều bài, quả tình tôi không biết xếp vào nhóm nào. Ví dụ như bài Nợ Xương Máu vừa hiện thực lại
vừa siêu thực.Xác không đầu nào kia?Cười lên tiếng máu xé tan canh trườngNợ nần xương máu, ai đã trả xong?...Lá rụng tơi bờiĐoàn quân tiến qua làng (hiện
thực)Từng thanh kiếm đứt ngangTừng lớp áo rách mướpTừng cánh tay rụng rờiQua làn mây trắngĐoàn quân tiến về trời (siêu
thực)Ầm rung tiếng sa trườngNhư nhắn nhủ người trai mài kiếm dưới trăng (hiện thực)Ầm rung tiếng sa trườngNhư nhắn nhủ người trai mài kiếm dưới trăng (hiện thực)Ầm rung tiếng sa trườngNhư nhắn nhủ người trai mài kiếm dưới trăng (hiện thực)Ý tưởng của bài rất chất quán: Cái xác không đầu,
tượng trưng cho những người đã trả nợ máu xương xong, kêu gào mọi người phải trả
món nợ ấy. Qua một cuộc chiến đấu khủng khiếp, cái xác không đầu cười: ''Nợ
nần máu xương, ai nấy trả xong''Để đạt được cái ý tưởng cao siêu ấy, tác giả
đã phải dùng nhiều thủ pháp, từ hiện
thực (3 câu đầu của đoạn đầu - 5 câu đầu của đoạn kết) rồi
sang tượng
trưng (cái xác không đầu) là hầu hết các câu khác (trừ câu
áp chót) là hình và tượng siêu
thực (Qua làn mây trắng, đoàn quân tiến về trời - Ai
lang thang tiếng cười lên chới với...)Ngay như người trai mài kiếm dưới
trăng kia có vẻ hiện
thực nhưng nghĩ cho cùng, cũng không hẳn như vậy. Nhưng vì
đây là tác phẩm của sự tưởng tượng (đặt trên nền móng của một hiện thực) cho
nên tôi xếp nó vào nhóm 2 cùng với những bài khác.Còn bài sau đây thì tiêu biểu cho nhóm trừu tượng/ siêu thực:Chiều rơi trên đường vắng có ta rơi giữa
chiềuHồn ta theo vạt nắng, theo làn gió đìu hiu.Lá vàng bay! Lá vàng bayNhư dĩ vãng gầy, tóc buông dài, bước ra khỏi tình phaiLá vàng rơi, lá vàng rơiNhư chút hơi người giã ơn đời trên nẻo đường hấp hốiHoàng hôn mở lối, rừng khô thở khói, trời như biển chóiTừng chiếc thuyền hồn lướt trôiNeo đứt một lần cuối thôi,Cho cánh buồm lộng gió vơi, gió đầyChiều ôm vòng tay, một bó thuyền say, thuyền lơ lửng mãiTừng tiếng xào xạc lá bayLà tiếng cội già khóc câyHay tiếng lòng mình khóc ai, giờ đây?...Chiều chưa thôi trìu mến, lá chưa buông chết chìmHồn ta như vụt biến, bay vờn trong đời tiên.Lá vàng êm! Lá vàng êm!Như mũi kim mềm sẽ khâu kín khung cửa tình duyênLá vàng khô! Lá vàng khô!Như nét môi già đã nhắn chờ lên nẻo đường băng giáChiều không chiều nữa và đêm lần lửa, chẳng thương chẳng nhớĐể những lệ buồn cánh khô, rơi rớt từ một cõi mơNghe đất gọi về tiếng ru hững hờCòn rơi rụng nữa, cành khô và lá, thành ngôi mộ úaChờ đến một trận mưa, cho rũa tình già xác xơCho biến thành nhựa sống nuôi tình thơChiều tan trên đường lốiHồn ta như gò mối đang chờ phút đầu thai.(Đường Chiều Lá Rụng)Nhà nghệ sĩ ngồi giữa chiều nhìn lá rụng và ngẫm
nghĩ miên man. Rồi vẽ ra một buổi chiều khác trong tâm linh của mình. Nhưng dù
trong sâu kín của tâm linh, chiều vẫn có lá vàng rơi, có rừng, có thuyền, như
chiều giữa trời đất. Nghệ sĩ mượn cái chiều của trời đất để nói cái chiều trong
lòng mình. Một bức tranh thiên nhiên qua cảm xúc và nghĩ ngợi của nghệ sĩ đã trở
thành bức tranh nội tâm. Sở dĩ tôi gọi đó là bức tranh vì nó mang nhiều nét vẽ,
cụ thể và phơi trải màu sắc lung linh. Nhưng bức tranh này không phải loại
tranh như Đường
Về Quê, Đường Lạng Sơn, Sông Lô, Về Miền Trung hoặc Gánh Lúa mà
là một bức tranh trừu
tượng, siêu thực.Ta hãy nhặt ra một trong những hình tượng của
nó. Họa sĩ đã từng vẽ những làn tóc trong các bài khác:Tóc em dài dáng em hiền hòa... tóc xanh tơ = hiện
thực.Suối tóc bát ngát uốn quanh vai gầy = hiện thực và lãng
mạn.Bơi trong tóc em như chìm trong mộng nghìn
xưa = lãng mạn.Nhưng đến cái tóc trong bài Lá Rụng Đường Chiều thì
họa sĩ đã bước hẳn sang siêu
thực:Lá vàng bay! Lá vàng bayNhư dĩ vãng gầy, tóc buông dài, bước ra khỏi tình phai.Lá vàng bay vụt thành tóc buông dài vì dĩ vãng
gầy (thành người) bước ra khỏi tình phai. Dù là người nhưng không phải là người,
dù là tóc nhưng còn là cái gì khác, không chỉ là tóc. Nét họa rõ vô cùng nhưng
cũng khó hiểu vô cùng. Tuy khó hiểu mà vẫn hiểu được và dễ rung động vì cái
hình tượng con người tóc buông dài bước ra khỏi tình phai.Cái dĩ vãng gầy là trừu tượng nhưng
con người, tóc, bước ra hiện
thực. Ta không thể nhìn rõ dĩ vãng nếu nó không mang những
nét đó để rồi ngay sau đó ta chỉ còn nghe từng tiếng xào xạc lá bay (nhẹ,
rời rạc) khác với Lá vàng bay! Lá vàng bay! (mạnh và nhiều) vì
đó chỉ là tiếng khóc (không có hành động) của cội (già) khóc cây (non) hay tiếng
lòng mình (cũng không có hành động) khóc ai. Tiếng ''bay'' lặp lại hai lần
không êm rời như tiếng ''xào xạc bay''. Cái dấu than (!) ở đây là một năng lực
cho hành động bay, và là số lượng cho những chiếc lá rơi, để rồi ngay sau
đó, từng tiếng lá xào xạc thành hơi thở và tiếng khóc.Trong một bài thơ bất hủ của Verlaine, mấy câu
cuối cùng: Tôi đi lang thang đó đây, như chiếc lá chết (ghi tạm
bằng trí nhớ). Với Verlaine, lá chết là hết. Nhưng chiếc lá vàng của Phạm Duy
''bay, rơi'' nhưng chưa chết sau khi rời cành:Chiều chưa thôi trìu mến, lá chưa buông chết
chìmHồn ta như vụt biến, bay vờn trong đời tiênChiếc lá vụt bay lộn trở lên tiên sống tiếp dù
chỉ khoảnh khắc:Lá vàng êm! Lá vàng êm!Như mũi kim mềm sẽ khâu liền kín khung cửa tình duyên.Lá vàng trở thành mũi kim mềm. Lá vàng tái
sinh thành môi già nhăn với lệ buồn cánh khô:Lá vàng khô! Lá vàng khô!Như nét môi già đã nhăn chờ lên nẻo đường băng giáĐường hấp hối trên kia nối theo đường băng giá
ở đây là hành trình ''bay và rơi của chiếc lá vàng'' cũng là đường đi của một
kiếp người, của mặt trời. Cái gì, ai, rồi cũng sẽ như lá rụng đường chiều. Nhưng
dù lá và người có truân chuyên mưa nắng đến đâu, chúng vẫn ham sống, ở phút cuối
chiều. Chiều không chiều nữa, và mặt trời cũng không muốn đi,
và cả đêm cũng lần lửa (không muốn đến). Thời gian dừng lại ở
biên giới cuối cùng này để nghe đất gọi về tiếng ru. Để rồi, lần
cuối cùng cành khô và lá, rơi rụng thành ngôi mộ úa.Mấy bài sau đây cũng có thể xếp vào nhóm tượng trưng/ siêu thực:Một người ngồi bên kia sông im nghe nước chảy
về đâu?Một người ngồi đây trông hoa trôi theo nước chảy phương nào?Trời thì mưa rơi mưa rơi không ngưng suối tuôn niềm đau.Người thì hẹn nhau sang sông mong cho chóng tạnh mùa NgâuCuộc đời làm cho đôi bên yêu nhau cách một biển sâuHẹn hò tàn Thu sang Xuân bên nhau biết thuở ban đầuDù tình không nguôi, đôi ta xin cho hứa vui về sauTrời còn làm mưa rơi mưa rơi cách biệt dài lâuNước vẫn trôi mau mắt vẫn hoen mầuĐành để hồn theo nước trôi không màuSố kiếp hay sao? Không cho bắc cầuThì xin sông nước sẽ cho gần nhauMột người bèn ra ven sông buông theo nước cuồn cuộn mauMột người chìm sâu trong khi mưa Ngâu bỗng ngưng ngang đầuCuộc tình thương đau êm êm nước xuôi về đâu?Hẹn hò gặp nhau Thiên Thu cho phong phú đời sau(Hẹn Hò)...Mai có người chợt ngừng thăm mộNơi chôn tôi là dưới rặng maiNơi đất lạnh ngàn đời tuyết phủNên thân tôi nguyên vẹn hình hàiNếu có người tò mò muốn gặpNơi tha ma mở nắp mồ lênSẽ thấy một người nằm thanh thảnTrông như chơn dung của Việt NamThân tôi đây Bắc Việt là đầuNơi sinh óc của Rồng TiênĐây con tim Trung việt hồng hàoNo say đây, Nam Việt ngủ yên(Nguyên Vẹn Hình Hài)Mặc dù nét đặc tả rất hiện thực, nhưng đây
chính là một bức họa tượng
trưng hay siêu
thực. Chỉ với bút pháp tượng trưng hoặc siêu thực thì mới
vẽ được bức tranh này.Nhân đây tôi cũng xin kể lại một chi tiết
trong vở kịch Đêm
Thứ 12 của Shakespeare:
|
"... Lão
quản gia hình dáng thô kệch lại thầm yêu chủ của mình là Quận Chúa đẹp như
tiên nga. Một hôm, người làm vườn nói gạt, bảo rằng Quận Chúa để ý tới cụ lắm!
Và ''... kìa, Quận Chúa đang đi tới!''. Lão quản gia sướng quá, luýnh quýnh
không biết làm gì, bèn ngồi phệt xuống thành hồ vốc nước lên rưới vào ngực
(phía bên tim) và áp tay lên đó, miệng lặp bặp mắt đờ đẫn..." |
|
Cái cử chỉ vốc nước rưới lên trái tim mình để
dập ngọn lửa tình đang bốc trong tim là hiện
thực, tượng trưng hay siêu thực? Theo tôi hàm
xúc cả ba. Bây giờ hãy thử sang nhóm hoàn toàn siêu thực.
Tìm nhau trong hoa nở
Tìm nhau trong cơn gió
Tìm nhau trong đêm khô hay mưa lũ
Tìm nhau khi nắng đổ
Tìm nhau khi trăng tỏ
Tìm nhau như chim mộng tìm người mơ.
Tìm trong câu thơ cổ
Tìm qua tranh Tố Nữ
Tìm trên môi đương ca câu thương nhớ
Tìm sâu trong muôn thuở
Tìm sau lưng bốn mùa
Tìm nhau như Thiên Cổ tìm Ngàn Thu.
Gặp nhau trong hơi thở của cuộc đời, người ơi!
Gặp nhau, hãy nép hơi im trong hương mới
Gặp nhau trong Nhân Tình đầy Bác Ái, ơi người!
Gặp nhau trong kinh cầu một hồi chuông...
Tìm nhau trong bom lửa
Tìm nhau trong mưa bão
Tìm nhau trên kinh đô xây trong xương máu
Tìm nhau trong thống khổ
Tìm nghe câu than thở
Tìm nhau như góa phụ tìm mộ bia.
Tìm đâu môi em đỏ?
Tìm đâu mây trong mắt?
Tìm cho ra mái tóc ngây thơ đó.
Tìm xem trong kinh sử
Tìm tương lai sáng tỏ
Tìm nhau khi nhân loại được trùng tu.
Gặp nhau trong vinh dự của đời người, người ơi!
Gặp nhau dưới Đức Tin bao la phơi phới.
Gặp nhau trong cơ khổ của thế giới, ơi người!
Gặp nhau, đôi tâm hồn được nghỉ ngơi.
(Tìm Nhau)
Đây là một bức tranh siêu thực hoặc vị lai, mặc
dù nó mang rất nhiều nét cụ thể như hoa nở, cơn gió, mưa lũ, nắng đổ,
trăng tỏ, bom lửa, xương máu, mộ bia, môi đỏ v.v... nhưng trong trường
hợp này, họa sĩ vẽ hoa nở, cơn gió, tranh Tố Nữ là vẽ cái linh hồn, nghĩa là
cái không nhìn thấy mà chỉ cảm thấy của những vật đó, chứ không phải chính những
vật đó. Cho nên sự tìm nhau này không phải là hai người mà chính là linh hồn của
họ. Những câu này làm cho bức tranh càng rõ nét siêu thực hơn:
Tìm nhau như chim mộng tìm người mơ
Tìm trong câu thơ cổ
Tìm nhau như Thiên Cổ tìm Ngàn Thu.
Ngàn Xưa đi tìm Ngàn Sau! Hai cái
''Ngàn'' đó tìm nhau thì đời nào mới gặp được nhau? Chỉ một nét đó thôi cũng đủ
chứng minh bức tranh là siêu
thực rồi. Nếu có thể lạm bàn thì tôi xin thêm rằng trên
cái không khí bàng bạc u minh đó, ''đôi môi em đỏ'' rực lên như Đức Tin.
Một bài khác cũng thuộc nhóm này (xin phép để
tiếng ''hự'' của nhạc qua một bên):
Người đi trong đêm tối, trong đêm thâu
Trong đêm vắng, trong đêm sâu
Trong đêm dầy, trong đêm dài Việt Nam
Người đi giương đôi mắt, khua đôi tay,
Đưa chân bước trên chông gai,
Trên đất gầy, trên vũng lầy bùn nhơ
Người đi không ai dắt, không ai đưa
Như đui mắt, đi bơ vơ
Đi trong vòng vây quanh của bầy ma
Bầy ma chuyên uống máu nơi dân đen
Moi tim óc bao thanh niên
Ăn linh hồn, ăn da thịt Việt Nam
Bầy ma giơ tay níu, giơ tay mua
Giơ tay đón, giơ tay đưa
Giơ tay dọa không cho người vượt qua
Bầy ma giơ tay kéo, giơ tay ôm
Lôi ta cúi, lôi ta khom
Như con vật cong lưng bò trong đêm...
Người đi trong đêm súng, trong đêm bom,
Trong đêm máu, trong đêm sương,
Trong đêm buồn, trong đêm hận thù vương
Người đi mang nước mắt, đeo khăn tang
Nhưng la hét, nhưng kêu vang
Trong ô nhục, trong muôn vàn hờn căm
Người đi trong kinh hãi, trong cô đơn
Nhưng đi tới, nhưng đi vươn
Đi ra ngoài, đi ra ngoài màn đêm
Bầy ma thêm hung dữ, thêm hung hăng
Thêm ngoan cố, thêm nhe răng
Thêm điên cuồng, thêm căm người hùng anh
Bầy ma giơ tay đánh, giơ tay phang,
Vung cây súng, vung thanh gươm
Không cho người, không cho người vùng lên
Bầy ma vung tay giết anh thanh niên
Trong đêm trắng, trong đêm đen
Trong đêm tàn, nhưng soi bật niềm Tin...
Thế nhưng người là NGƯ–I nên không chịu làm thú!
Thế nhưng người là NGƯ–I nên không sợ loài ma!
Người đi, đi đi lên! Người đi, đi đi lên!
Người đi tìm ánh sáng mặt trời
Thế nhưng người là NGƯ–I nên không chịu làm thú!
Thế nhưng người là NGƯ–I nên không sợ loài ma!
Người đi, đi đi lên! Người đi, đi đi lên!
Người đi tìm ánh sáng trời lên.
(Dạ Hành)
Đây là một bài thơ mà vần điệu và ngôn ngữ vô
cùng trau chuốt. Và là một bức tranh bề dài bằng mười hoặc bằng trăm bề cao, một
bức tranh dựng lên một cảnh hãi hùng của một đoàn người đi trong đêm tối, trong
đêm dài Việt Nam. Hay nói đúng ra, đó chính là dân tộc Việt Nam đi trong quãng
lịch sử đen tối nhất của mình. Trong đêm tối ấy là bầy ma chuyên môn uống
máu nơi dân đen, moi tim óc bao thanh niên, ăn linh hồn ăn da thịt Việt Nam.
Bầy ma này lẫn lộn trong đoàn người đi, giở mọi
thủ đoạn để bắt họ cúi khom như con vật cong lưng bò trong đêm. Đoàn
người chẳng những đi trong đêm tối, đêm thâu, đêm dầy, đêm dài mà
còn đi trong đêm súng đêm bom, trong đêm máu, trong đêm sương, trong
kinh hãi, trong cô đơn.
Họa sĩ đã tạc nên đoàn người với vô số chi tiết
sinh động. Người đi, nhưng đi như thế nào? Giương mắt, khua tay, chân bước trên
chông gai, không ai dắt đưa nên dù giương mắt mà như đui, đi lạc lõng bơ vơ rồi
còn bị lôi kéo nên phải cúi khom như con vật, mắt đầy nước mắt, đầu đeo khăn
tang, uất ức, ô nhục, hờn căm nên phải kêu vang.
Nhưng dù bị dìm trong đêm như thú, người
vẫn là người nên không chịu làm thú, nên không sợ loài ma, nên quyết
đi tìm ánh sáng mặt trời. Bên cạnh con người vĩ đại, họa sĩ cũng vẽ rất
rõ hành động và tâm tính của loài ma để làm nổi bật tính người. Bầy ma
chuyên uống máu dân đen, ăn linh hồn, ăn da thịt Việt Nam, bầy ma giơ tay níu,
giơ tay mua, giơ tay đón, giơ tay đưa (gạ gẫm) rồi giơ tay dọa, dọa
không kết quả, phải giơ tay kéo, giơ ôm. Nhưng đoàn người cứ
đi lên, không sợ. Bầy ma điên cuồng, nhe răng, thêm hung dữ, thêm căm
thù người hùng anh. Chúng bèn giơ tay đánh giơ tay phang, vung
cây súng quơ thanh gươm quyết giết người anh hùng.
Ta thấy sự khắc họa người và ma của họa sĩ rất
sắc nét. Trắng và Đen đối chọi nhau chan chát, chứng tỏ sự xung đột rất dữ dội
giữa Thiện và Ác. Và cuối cùng đêm tàn, ánh sáng mặt trời lên, như niềm tin
mãnh liệt của con người bị ma biến thành thú mà không chịu làm thú. Đọc lời ca
của bài nhạc này ta thấy một bức tranh tương tự như Địa Ngục (như thuở bé tôi
thường trông thấy ở vách chùa). Nhưng ở địa ngục của nhà Phật thì con người đi
đầu thai để được sống kiếp sống mới, còn con người trong địa ngục của Phạm Duy
thì thoát khỏi đêm đen, đẩy lùi ma quỷ bằng vũ khí niềm tin. Trong đêm tàn, Phạm
Duy cho soi bật niềm tin.
Chương 3 - Ba bức tranh tuyệt mỹ
Trong hằng ngàn bức tranh và nét vẽ của nhạc
sĩ/họa sĩ, tôi chọn thêm ba bức sau đây để thử bàn thêm về sự phong phú về hình
tượng của Phạm Duy.
1.- Bài Gánh Lúa hoặc bài Nương Chiều sau
đây đều là những bức tranh hiện
thực/ trữ tình:
Chiều ơi! Lúc chiều về rợp bóng nương
khoai
Trâu bò về rục mõ xa xôi, ơi chiều!
Chiều ơi! Áo chàm về quảy lúa trên vai
In hình vào sườn núi chơi vơi, ới chiều!
Chiều ơi! Lúc chiều về là lúc yên vui
Qua đường mòn ngửi lúa thơm ngơi, ới chiều!
Chiều ới! Chiều ơi! Chiều ơi!
Thu về đồng lúa nương chiều
Tay dân cầy ngừng giữa làn gió
Lúa ngát thơm trên những cánh nương
Tiếng súng xa nghe lẫn oán thương
Đây nhà nông phá rừng gây luống
Mai về, để lúa trên ngàn
Ta nuôi người gìn giữ non nước
Lúc sức tôi chen với sức anh
Lấy máu tô cho thắm núi xanh
Đem mồ hôi tưới đồng lúa xanh
Chiều ơi! Lúc chiều về mọc ánh trăng tơ
Cho ngày mùa bài hát nên thơ, ơi chiều
Chiều ơi! Mái nhà sàn thở khói âm u
Cô nàng về để suối tương tư, ới chiều.
Chiều ơi! Biết chiều nào còn đứng trên nương
Phố phường nhiều chiều vắng quê hương, ới chiều.
Chiều ới! Chiều ơi! Chiều ơi!
Đây là bài dân ca hay nhất trong những bài dân
ca của Phạm Duy, đồng thời cũng là của dân ca Việt Nam. Hãy nghe Thái Thanh hát
để công nhận như thế với tôi. Chép lời riêng ra, nó là một bài thơ quá hay. Và
là một bức tranh tuyệt mỹ mang một tâm hồn mộc mạc như lúa khoai và sâu thẳm
như buổi chiều miền núi. Tâm hồn ấy hiện ra trong những nét độc đáo. Tôi hát và
nghe hát bài này trên 30 năm nay. Mỗi lần nghe lại vẫn thấy sự rung động còn mới
nguyên cho tới bây giờ. Tôi đã sống những ngày rừng núi, đi lang thang dưới
tàng cây rừng đại ngàn Lam Sơn ở Thanh Hóa và từng ngồi ở mỏm đá bến phà Mục
nhìn ngắm và suy nghĩ miên man. Cho nên tôi quả quyết rằng Nương Chiều đã
được Phạm Duy họa lại trong tôi như một mẩu giang san cẩm tú, càng nhìn càng
yêu mến thêm, càng nghe càng ngỡ hồn mình bay về cảnh cũ, bên tai văng vẳng tiếng
mõ trâu bò trở về buôn bản.
Đúng ra, đây là một bộ tranh liên hoàn gồm ba
bức, tôi tạm xếp như sau:
Bức
số 1: Cảnh vật nương chiều
với những nét xuất sắc mô tả lũ trâu bò về chuồng. Chậm rãi qua những rú rậm,
chiếc mõ đeo trên cổ khua phát tiếng rơi rơi như một điệu nhạc độc điệu buồn
não. Rồi một chiếc áo chàm, vai quảy lúa, in hình vào sườn núi chơi vơi. Chữ
''quảy'' này rất đúng. Nếu vẽ ra ''gánh'' thì sai. Người Thượng quảy, thồ, vác
nhiều hơn gánh. Có lẽ vì đường núi trúc trắc, quảy tiện hơn gánh. Nét thứ ba là
con đường mòn, trên đó vương đôi bông lúa rơi từ quảy trên vai áo chàm kia. Họa
sĩ đã chọn ba nét độc đáo của miền núi buổi chiều ngày mùa để dựng nên cái
không khí sâu thẳm và man mác buồn.
Bức
số 2: Cũng vẫn cảnh
nương chiều. Nhưng với nét lao động mệt mỏi. Người dân ngừng tay phá rừng, đưa
tay lau mồ hôi trán, mắt nhìn khoảng rừng mình mới phá xong, đang gây luống.
Bên ven luống mới, lúa chín ngát hương. Bỗng người nông phu ngoảnh lại nhìn về
phía có tiếng súng tấn công đồn giặc xa xa nên nghĩ ngợi: lấy máu tô
cho thắm núi xanh! Trộn lẫn vào cảnh lao động đó là tình cảm nồng nàn
của người dân đối với người gìn giữ non nước. Vì thế cho nên bức này có cả nội
tâm lẫn tình cảm của nhân vật.
Bức
số 3: Áo chàm về tới nhà.
Với những nét thơ mộng vô cùng êm ái: Mảnh trăng cong như sừng trâu mọc trên
mái nhà sàn. Ánh trăng tỏa nhẹ làm cho người lao động quên cả một ngày mệt mỏi,
hưởng phút thần tiên. Mái nhà sàn thở khói âm u. Nét cọ này rất thần tình. Nhà
sàn thở khói. Rất âm u, rất tuyệt, và rất khoa học. Khói ở miền núi nặng nề bốc
chậm chứ không bay bổng lả lơi như ở đồng quê khoáng đạt. Làn khói báo hiệu một
bếp lửa ấm áp bên trong ngôi nhà, sự sum họp, một bữa cơm ngon, chứng minh cho
câu áp chót ở đoạn đầu: Lúc chiều về là lúc yên vui... Câu này
được làn khói nói thay cho ở đoạn 3. Lấy khói bếp để nói sự yên vui và đây là một
nét có màu sắc địa phương đậm đà nhất. Cô nàng về để suối tương tư. Trong
câu này có hai nhân vật: cô nàng và suối; và tình cảm độc nhất: tương
tư. Chỉ có ba chữ suối tương tư nhưng đã nghệ sĩ mô tả
cả một sinh hoạt thần tiên của miền sơn cước. Nếu ở nét trên, họa sĩ đã cho
ngôi nhà sàn biết thở thì ở đây con suối thờ thẫn tương tư khi các cô nàng rời
suối. Sự nhân cách hóa này thiệt phải chỗ và tinh tế vô cùng. Có bao giờ bạn đi
hoặc sống ở miền Thượng mà gặp những nàng ngọc nữ từ trên thiên đàng lén bay xuống
phàm, gỡ cánh ra giấu, rồi thoát y xuống suối trần ai đùa nghịch chăng? Nếu có
chắc bạn sẽ lẻn đến cướp những chiếc cánh ấy để cắt đường về trời của các nàng
tiên. Và như vậy bạn sẽ hiểu sự rạo rực của từng hòn đá rong, từng hòn sỏi cuội,
hiểu nỗi lòng phàm tục của suối khi da thịt nõn nà phô bày cọ xát hoặc đắm chìm
trong lòng suối. Từ đó bạn sẽ thông cảm sự tương tư của chàng suối ở lại một
mình giữa các thiên thai có tiên nam, không có tiên nữ.
II.- Bài Một Bàn Tay là một bức
tranh hiện thực/ siêu
thực:
Bàn tay đưa anh ra khỏi lòng người
Một đêm kêu lên hơi thở tuyệt vời.
Bàn tay êm ái, ôi bàn tay khoan khoái
Nhạc ru tiếng khóc trần ai.
Bàn tay đưa anh đi gặp cuộc đời
Một Xuân bao dung ai cũng là người
Bàn tay vun xới, ôi bàn tay đưa lối
Dọc đời, thơ hát đầy vơi.
Trong cơn mưa hè, tay nào khô héo bắt anh về?
Bàn tay che mắt, ôi còn ngăn câu hát
Bàn tay ám khí u mê
Nhưng tay em về, thơm mùi gỗ quý, gỡ anh ra
Bàn tay nắng lóa, ôi bàn tay khơi gió
Tình trong năm ngón nõn nà.
Bàn tay ôm anh trong cuộc tình đầy
Một Thu sang, tim anh nở tròn ngày
Bàn tay ấm áp, ôi bàn tay bão táp
Bàn tay son, vẽ đời đôi.
Một mai đưa anh thăm thẳm lìa đời
Mùa Đông khăn tang, mây bỏ đường dài
Bàn tay thương nhớ, ôi gặp anh băng giá
Lạ lùng, tay khép làn mi.
Ở đây, họa sĩ lại cũng mượn cái bàn
tay như một cái cớ mọn để vẽ nên cái sự nghiệp của nó chứ không phải nó. Vẽ một
bàn tay, dù là một bàn tay của người lao động bình thường hay bàn tay của một nữ
nghệ sĩ dương cầm trẻ đẹp thì công sức đổ ra cũng thế thôi, nghĩa là không nhiều.
Rất không nhiều bằng vẽ lên những kỳ công của nó. Một bày tay mà Phạm Duy vẽ ra
đây, đó là bàn tay có phép lạ: Bàn tay son vẽ đời đôi. Bàn tay
có phép lạ, nhưng không phải chỉ là bàn tay của các bà tiên Lê Sơn Thánh Mẫu,
Thoại Ba Công Chúa hay Phàn Lê Huê, Thần Nữ... mà còn là bàn tay phàm trần
xương thịt. Bàn tay đưa anh ra khỏi lòng người và lạ
lùng khép kín làn mi. Cái bàn tay ấy có thiệt ở cuộc đời mà bạn và tôi
đều có thể cầm nắm, ôm ấp, nâng niu, hôn hít với tình trong năm ngón
nõn nà (cũng như bàn tay vuốt tóc chồng và nựng con thơ trong bài Ở Bên Nhà Em Không Còn Đứng
Đợi Chờ Anh trong loại tị nạn ca sau
này). Bàn tay hiện thực rõ ràng: trắng, thơm, êm ái. Bàn tay êm ái, ôi
bàn tay khoan khoái, bàn tay thơm mùi gỗ quí, ôm anh, làm cho tim
anh nở tròn ngày. Thế nhưng bày tay từng đưa anh đi gặp cuộc đời và từng
vun xới, đưa lối (cho anh) bỗng trở thành bàn tay trừu tượng, không thấy, không
nắm được. Trong cơn mưa hè, cũng bỗng có một bàn tay nào bắt
anh về, đó là bàn tay ám khí, u mê, bàn tay che mắt anh!
Nhưng rồi cũng có bàn tay kỳ diệu là bàn tay nắng lóa, bàn tay khơi
gió, bàn tay ấm áp, bàn tay bão táp gỡ anh ra. Để lần cuối cùng, một
mai đưa anh thăm thẳm lìa đời... Như một cô đào thương tuyệt sắc đã từng
khoác áo giáp nữ nguyên soái, mặc xiêm y công chúa tiểu thơ, làm say mê khán giả,
trở lại cuộc sống thực áo cơm. Cái bàn tay kia bỏ hết phép lạ để trở thành bàn
tay xương thịt, nhẹ nhàng vuốt mắt cho anh. Lạ lùng, tay khép làn
mi cũng như ở bước đầu, đưa anh ra khỏi lòng người. Qua
một cuộc đời dài siêu thực, bàn tay trở về là bàn tay hiện thực. Đó là
bàn tay son, vẽ cả một bức tranh.
III. Bài Tiếng Đàn Tôi là một bức
tranh siêu thực. Có
lẽ tôi không cần phải phân tích để chứng minh như đã làm ở trên. Tôi xin kể một
giai thoại về bản nhạc này:
Lúc tôi đi kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ,
tôi có một người bạn nhạc sĩ tên là Hoàng Lưu. Hoàng là con trai của một gia
đình giàu có ở Sài Gòn. Hoàng làm khá nhiều bài hát được phổ biến ở Nam Bộ nhất
là ở miền Tây. Hoàng yêu một người con gái tên Kim Minh ở xã Phú Hữu, quận Phụng
Hiệp, tỉnh Cần Thơ. Trong lúc đó bà mẹ Hoàng đem ra cho Hoàng một cây đàn ghi
ta hiệu Sonora. Đó là một vật quí, nhất là đối với hoàng nhạc sĩ. Đi công tác ở
đâu Hoàng cũng bỏ cây đàn dưới xuồng chèo đem theo như vật bất ly thân. - cơ
quan, chiều chiều khi cơm nước xong, Hoàng mang cây đàn lên vai, ra đứng ở bờ
kinh nhìn trời mây sông nước mà ''sô lô'' bản Tiếng Đàn Tôi một
cách vô cùng say sưa như trình bày nhạc phẩm của mình trước các buổi họp dân.
Tôi là thính giả, cũng là ca sĩ phụ họa theo tiếng đàn, lại vừa là người lính
canh cho Hoàng hát thoải mái tự do. Hễ thấy nhân viên nào xuất hiện thì lại
nháy cho Hoàng chuyển cung ''mi nơ'' qua ''ma giơ'' để đánh lừa họ. (Cũng kiểu
như câu hát ''đời buồn như một cỗ xe tang'' của Phạm Duy bị cơ
quan trong kháng chiến chỉnh là bi quan khiến tác giả phải chữa lại là ''đời
buồn như một cỗ xe tăng''. Chỉ cần thêm có một dấu là hết bi quan
ngay!). Cái kiểu chuyển cung của thằng bạn tôi cũng dễ như vậy. Hoàng cũng
nhanh trí lắm, nên chúng tôi giữ bí mật được rất lâu.
Nhớ có lần nó đang mới khởi đầu đời lạnh
lùng trôi theo dòng nước mắt... thì bỗng có chiếc xuồng từ đâu trôi tới
xĩa mũi lên bờ. Nó bèn tiếp ngay một cách hết sức tài tình như xuất khẩu thành
thơ vậy:
Quyết tâm giết Tây chết cho nhiều
Vì bọn mình kháng chiến dài muôn năm...
Thay vì:
Với bao tiếng tơ xót thương đời
Vì cuộc tình đã chết một đêm nao...
Tôi liếc thấy anh giao liên chèo thì biết là xuồng của ông Phó Ban Chính Trị
tỉnh đội nên nhanh nhẩu ra hiệu cho Hoàng ngưng và làm bộ nói :
- ''... Ê này, lời của cậu còn đại khái và
ép đôi chỗ đấy nhá...''
... như thể chúng tôi đang sáng tác một bài ca
chung với nhau vậy. Thế là qua truông được một phát. Hú hồn!
Hoàng có kể cho tôi nghe một cách thích thú là
mình đã nghe Phạm Duy hát Buồn
Tàn Thu ở trên sân khấu gánh hát Đức Huy ở Sài Gòn. Hoàng
học bộ Phạm Duy ôm đàn và nghẻo đầu lên cần đàn hát say sưa như thế nào. Lúc đó
tôi không biết gánh Đức Huy nhưng sau này nghe lại thì đúng là Phạm Duy có hát
trên sân khấu này thật. Cũng không hiểu tại sao bản Tiếng Đàn Tôi không
có in trong tập bài hát nào hết mà nghe lan tràn khắp Nam Bộ ở đâu cũng hát.
Hát riết rồi bị cấm (cùng một lúc với Vọng Cổ)
Hoàng vẫn hát lén lút như thế và tôi rất thích
thú đóng vai trò lính gác như thế một thời gian dài ở cơ quan. Rồi Hoàng vác
đàn xuống xã Phú Hữu hát nghêu ngao vì ở nông thôn lúc bấy giờ hễ nghe đàn hát
thì ham, chớ đâu có phân biệt xe tang hay xe tăng gì? Bài hát này đã đóng vai ông mai cho Hoàng Lưu chiếm được trái tim của người đẹp
có tâm hồn văn nghệ là Kim Minh. Đám cưới Hoàng, tôi có dự. Sau buổi lễ chánh
thức, tới phần văn nghệ, Hoàng lại mang ghi ta hát trước bà con cô bác: Đời
lạnh lùng trôi theo dòng nước mắt...
Chẳng may trong tiệc trà văn nghệ có một vị
cán bộ địch vận của Ban Chính Trị đến dự trong đám khách mà anh lính canh không
kịp phát giác. Thành thử sau khi hưởng tuần trăng mật với vợ hiền, Hoàng nhạc
sĩ vác đàn về cơ quan, thì phải mần bản tự kiểm thảo vì đã hát bài ủy mị của
thành. (Người ta không biết bài đó của ai. Mà thật, lúc đó Phạm Duy còn đi
kháng chiến). Hoàng Lưu phải hứa là từ nay không tái phạm. Tuy thế, nhưng đôi
khi chúng tôi đi công tác chung với nhau, lúc chèo xuồng giữa dòng kinh khuya lạnh
vắng, tôi chèo và bảo Hoàng lên dây cây Sonora để ''ngã mặn'' dưới trăng hay giữa
đêm đen một cách trọn vẹn, không cần phải đổi chữ ă cho cỗ xe tang.
Sau đây là lời ca của bức tranh siêu thực đó:
Đời lạnh lùng trôi theo dòng nước mắt
Với bao tiếng tơ xót thương đời
Vì cuộc tình đã chết một đêm nao
Lúc trăng hãy còn thơ ấu
Đời dù tàn trên cánh nhạc chơi vơi
Vẫn còn mong nhớ khúc yêu đời
Người đẹp về trong lúc mùa Thu rơi
Tiếng chân tiễn đưa tới tôi
Mênh mông lả ơi!
Thuyền về đến bến Mê rồi
Khoan khoan hò ơi
Dặt dìu trong tiếng đàn tôi
Hương hương nàng ôi!
Nàng về xõa tóc không lời
Khoan khoan hò ơi
Lệ sầu rụng xuống đàn tôi
Buồm về dội nắng trên vai
Bao nhiêu màu hoa ngát trên đôi môi, người ôi!
Có tiếng hát ru hồn tôi
Ru cho đau thương linh hồn đắm đuối
Mênh mông lả ơi!
Đường về xa tắp không lời
Khoan khoan hò ơi!
Lạnh lùng em đã rời tôi.
Để cho hợp với mối tình của mình
hơn, Hoàng Lưu có sửa đổi mấy chữ như sau trong lúc hát:
1. Tình đã chết hát ra tình
đã sống
2. Thuyền về đến bến Mê rồi hát
thành Thuyền về Phú Hữu đây rồi
3. Hương Hương nàng ôi thành Kim
Minh nàng ôi
4. Lạnh lùng em đã rời tôi là Mặn
nồng em đáp lời tôi.
Hoàng Lưu tập kết và qua đời tức tưởi cô đơn tại Hà Nội năm 1958 lúc chưa đầy
30 tuổi. Tôi đã tẩm liệm Hoàng và đem cây Sonora theo cho Hoàng. Lúc đưa tiễn
Hoàng ra nơi yên nghỉ cuối cùng, có nhạc sư Nguyễn Hữu Hiếu, Trưởng Phòng Âm Nhạc
Đài Phát Thanh Hà Nội, thầy dạy nhạc của Hoàng Lưu, đi theo đám người thưa thớt.
Phút hạ huyệt, tôi thầm bảo: ''Xuống dưới đó mày tha hồ hát Tiếng Đàn Tôi,
không lo ai bắt kiểm thảo nữa!''
Ngót 40 năm đã trôi qua, kể từ ngày đứng với
nhau trên bờ kinh miền Tây Nam Bộ. Bây giờ viết những dòng này, tôi như thấy lại
Hoàng với chiếc đàn đeo trên vai, với giọng hát ngân nga say đắm:
Đời lạnh lùng trôi theo dòng nước mắt...
Lúc bé khi đi học tôi có xem một số
hình trong quyển sách tập đọc Lecture Expliquée, không hiểu sao tôi còn nhớ mãi
bức họa Tiếng
Chuông Chiều (L'Angélus) của họa sĩ Pháp mà đến nay tôi
cũng vẫn còn nhớ (chắc không sai) là của Henri F. Millet. Họa sĩ vẽ tiếng
chuông chiều trên gương mặt của đôi vợ chồng người nông dân. Người đàn bà, đầu
hơi cúi, khuôn mặt ngó nghiêng tuyệt đẹp, với đôi tay chắp trước ngực tỏ lòng
thành kính. Cánh đồng chiều man mác. Xa xa trên đầu rặng cây là tháp chuông nhà
thờ. Tiếng chuông vô hình như tỏa ra bao trùm buổi chiều quê.
Một cách bất ngờ và lý thú, tôi tìm thấy Phạm
Duy cũng vẽ một bức tranh tương tự, trong trường ca Con đường cái quan ở
ca khúc số 18: (đoạn mô tả khách lữ hành đã đặt chân đến Nam Bộ).
Đường từ xa đem ta đã tới đây
Chùa chiều nay rung chuông trên luống cày
Người gửi ơn ra bốn phía chân trời mây
Ngẩng đầu lên dâng vút đóa linh hồn say
Đường về đây! Đường về đây!
Trời về Tây nghe gió cuồng bay.
Trong bức họa của Millet, tiếng
chuông nhà thờ là linh hồn của buổi chiều đồng quê. Trong bức họa của Phạm Duy,
tiếng chuông chùa là linh hồn của đồng quê. Trong dòng đời lạnh lùng trôi, tiếng
đàn tôi là linh hồn. Đã vẽ được tiếng chuông nhà thờ, chắc người ta cũng vẽ được
tiếng chuông chùa. Và cũng vẽ được tiếng đàn... tôi.
Tôi viết những dòng này như một bó hoa lòng
kính viếng hương hồn người bạn năm xưa đã có một thời cùng nhau yêu một tiếng
tơ bất hủ.
Chương 4 - Phạm Duy, họa sĩ của màu xanh
Mỗi nhà họa sĩ đều có nét sở trường và màu sở
thích của mình. Tôi nhận thấy Phạm Duy là họa sĩ của màu xanh. Trong
toàn bộ nhạc kịch nhân gian của mình, Phạm Duy đã dùng rất nhiều màu sắc chính,
nhiều nhất xanh kế
đó vàng, rồi hồng, tím, tía, đỏ v.v... Những sự vật màu
vàng là: tuổi vàng, ngày vàng, lầu vàng, trăng
vàng, ngọn cỏ vàng, cát vàng, chiêu dương (vàng), mộ vàng, mộ
úa, cát úa...
Sự vật màu
xanh là: đồng xanh, dâu xanh, núi xanh, lá xanh, cỏ
xanh, trầu xanh, tuổi xanh, đồi nương xanh, rau xanh, lúa xanh, mây xanh, rừng
cây xanh, chiều xanh, con trâu xanh, trăng xanh, trời xanh, phấn bướm xanh, mồ
xanh, bụi xanh, gió xanh, tóc xanh, rêu xanh, mắt xanh, sông xanh, tre xanh, nhạn
xanh, xuân xanh, hàng chữ xanh, cánh cửa xanh, mộng xanh, non xanh...
Hầu hết những gì mang màu xanh trên đời đều đã
được đề cập đến. Đã đành là xanh, nhưng sắc độ xanh có khác nhau: xanh
thắm, xanh thẳm, xanh lơ, xanh rì, xanh xanh, xanh tươi, xanh rờn, xanh ngời,
xanh nhạt, xanh ngát, xanh ngắt, xanh lá non, xanh trong, xanh biếc...
Hầu hết, hoặc tất cả, sắc độ xanh đều đã được
dùng đến. Màu xanh làm cho lòng người, mắt người thơi thới dễ chịu cho nên người
ta cho màu xanh là màu hi vọng.
Bây giờ ta hãy xem lại với những nét xanh, họa
sĩ đã mang lại cho đời những niềm hi vọng ở những trường hợp nào?
Tôi đang nhìn thấy màu xanh ở trên cây
cành...
(Tôi Đang Mơ Giấc Mộng Dài)
Màu xanh ở trong mộng và trong tiếng cười. Màu
xanh đó làm cho mộng xanh và tiếng cười xanh. Với niềm lạc quan yêu đời đó họa
sĩ nhìn cây lá tốt tươi phơi phới, trời đất, gió mây, xanh tiếp xanh...
Bên nhau khi lúa xanh rờn
Nhìn đêm trăng kể chuyện xưa
Xanh xanh, bãi lúa xanh rì...
(Lúa Mẹ)
Ngay trong những ngày khói lửa, nhà họa sĩ
cũng đã mơ cho người đời được hưởng:
Bao khúc ca thanh bình vang tới ngàn dâu
xanh
(Thu Chiến Trường)
Máu của người thương binh tô thắm núi xanh: (chiều
về trên cánh đồng xanh, tôi về tôi nhớ chiều xanh ra nơi sa trường). Trên
nương chiều, máu của người dân tưới lên đồng lúa xanh. Vườn
rau của bà mẹ quê cũng vì đó mà xanh ngắt một màu.
Còn biết bao nhiêu niềm hi vọng được nghệ sĩ tạc
nên:
Tuổi xanh như lúa mai
Đời thanh niên sáng tươi
Thuở nay chinh chiến chờ đợi người...
(Nhạc Tuổi Xanh)
Mặt khác người đi trong thanh xuân (Lữ
Hành) cũng có khi nhìn bọt bèo trôi, nhớ chăng màu tóc xanh ngời (Người
Về Miền Xuôi).
Và người đó cũng có lúc thấy được tuổi
xanh như lá Thu rụng cuối mùa (Bên Cầu Biên Giới) trong một mùa dài
chinh chiến.
Chỉ với bấy nhiêu dấu nhạc đó, họa sĩ đã phủ
lên cả địa cầu một màu xanh, nhưng màu xanh còn biến hóa vô biên trước mắt ta,
khi đậm khi nhạt, lúc xa lúc gần.
* In
hình qua mây núi xanh lơ bát ngát (Đường Về Quê)
* Đồi nương xanh xanh núi xanh lơ, rừng
cây xanh, xanh lá bên hoa (Đường Lạng Sơn)
* Thổi về ruộng nâu lúa hơi xanh
rì (Người Về)
* Môi trầu tươi đám cỏ xanh (Gánh
Lúa)
* Anh nông phu chống nạng cày bừa, có
con trâu xanh hết lòng giúp đỡ (Ngày Trở Về)
* Trời xanh xanh quá, sáng soi bên
nhà (Xuân Nồng)
* Không ngờ hồn hòa vào làn phấn bướm
xanh lờ (Mộng Du)
* Là cát trắng hay bụi xanh lơ (Nhạc
Tuổi Vàng)
* Trăng ơi, trăng ới kìa là trăng xanh (Bài
Ca Trăng)
* Mang những lời yêu trong gió
xanh (Những Bàn Chân)
* Đã mấy lần để đám rêu xanh thay màu
gạch ngói (Tôi Đi Từ Lúc Trăng Tơ)
* Làn gió xanh theo gót phiêu du (trong
CON ĐƯỜNG CÁI QUAN)
* Mẹ Việt Nam nghiêng mắt xanh, chải
tóc mây ngàn (Mẹ Xinh Đẹp)
* Sông vàng xanh yếu kêu cứu sông giàu (trong
MẸ VIỆT NAM)
* Ta cảm thương người phai nhạt tuổi
xanh (Nước Chảy Bon Bon)
* Tuổi xanh vươn trong lửa máu ngụt trời (Huyền
Sử Ca Một Người Mang Tên Quốc)
* Buổi chiều công viên, mây trời xanh
ngát, trả lại em yêu mây trời xanh ngắt (Trả Lại Em Yêu)
* Rước em lên đồi xanh, cùng ta lên
núi cao thanh thanh (Cỏ Hồng)
* Hỡi cô em lúc xuân xanh đa tình (Gió
Thoảng Đêm Hè)
* Trong tiếng cười của em, anh thấy một
màu xanh (Trong Tiếng Cười Của Em)
* Anh chợt thấy xanh ngát trời trong mắt (Bé,
Cây Đàn, Ngôi Nhà Xanh, Đồi Cỏ)
* Dường như em rêu xanh bám mạnh (Dường
Như Là Hòa Bình)
* Rồi mở cánh cửa màu xanh, rời gót
xinh, xanh như mây xanh thay cặp mắt này (Trên Đồi Xuân)
* Thơm như bông lau đồi non xanh lá (Tuổi
Hồng)
Bạn đã cùng tôi đọc đến hàng chữ xanh xanh
này? Nếu soi gương bạn sẽ ngạc nhiên thấy mắt bạn đã xanh ngắt, và lòng bạn
cũng phơi phới thanh xuân. Đó, màu xanh thần tình của nhà họa sĩ đã truyền sang
cho bạn. Với mắt xanh ấy bạn sẽ nhìn cả vũ trụ bát ngát niềm hi vọng và đánh
tan những đám bụi đen.
Chương 5 - Cây lúa của Phạm Duy
Không biết có dân nước nào đặt tên cho con như
dân ta không: Điệp,
Cúc, Mai, Lan, Liễu, Mận, Đào, Trúc, Sen, Gừng, Riềng, Ớt, Hành, Hẹ, Quít, Cam,
Nhãn, Chanh, Ổi, Mít, Dâu, Măng, Trê, Lóc, Thúng, Nia, Nong, Sàng v.v... và v.v... Và Lúa.
Ở Nam Bộ có cả một điệu hò
lúa trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp như sau:
Lúa ta là lúa nuôi quân
Quân là quân của mình
Mình là mình đánh Tây
Dân là dân của mình
Mình là mình thắng Tây...
Thuở đó tôi mới 20 tuổi, thường điều
khiển cho bộ đội hò điệu này, câu hò là do tôi đặt tuồng bụng và ứng khẩu.
Lúa là sức sống của dân tộc ta. Những nhà kinh
tế thường gọi Việt Nam là vựa lúa của Á Châu và thế giới. Một bước ra khỏi nhà
là gặp lúa. Mắt nhìn đâu cũng gặp lúa. Hơi thở đầy hương lúa. Ngủ nghe lúa reo,
mơ thấy lúa và chết cũng nằm ở ruộng lúa để được nhạc đồng quê ru giấc nghìn
thu giữa hương lúa. O objets inanimés, avez vous donc une âme? Cây
lúa vô tư cũng có linh hồn chăng? Thưa rằng có. Trong nhạc Phạm Duy.
Lúa trong nhạc Phạm Duy là một nhân vật kỳ lạ.
Giở tập NGÀN LỜI CA ra xem là tôi nghe lúa reo, thấy lúa lớn, lúa chín và cơm gạo
mới ngon lành bốc từ chiếc nồi đất ở thôn ổ quê nghèo Gio Linh trong kháng chiến,
hay ở Trạm Chội của tuổi thơ anh về thăm bà vú nuôi yêu mến, ăn bát cơm ngô sắn.
Chương
LÚA này tôi viết xong đã
lâu, lâu lắm, 10 năm có lẽ, nay đưa in, mới hay đã mất. Đáng lẽ thì cáo lỗi
cùng anh Phạm Duy và bà con độc giả, nhưng tôi mường tượng cái thân lúa đứng giữa
đời sống Việt, cái bông lúa vàng giữa đồng ruộng Việt và cây lúa trong biển nhạc
Phạm Duy, thấy nó đẹp quá, không thể thiếu được, nên phải viết lại thì sách in
ra mới yên lòng.
Tôi còn nhớ một bài hát tên là Thi Đua Ái Quốc:
Anh có cây súng kia thì tôi có bàn tay thợ
Em có bông lúa vàng thì tôi có một cây đàn
Anh giết thêm thực dân thì tôi đúc thêm súng đạn
Em có bông lúa vàng thì tôi có ngàn lời thơ.
Trong thời kháng chiến, chính nhạc
sĩ Văn Luyện, với sự giúp đỡ của tôi, đã trình diễn ở xã Trường Long, quận Ô
môn, tỉnh Cần Thơ, dưới hình thức hoạt cảnh, có các vai anh chiến sĩ,
cô thôn nữ, anh công nhân, chàng thi sĩ (tôi đóng vai thi sĩ). Mới đây
mà đã non nửa thế kỷ. Mặc dù vậy, tôi vẫn thấy lại tôi trong cái hoạt cảnh xưa,
có bông lúa vàng ở trên tay cô thôn nữ cùng đóng kịch với tôi
tên là Phấn. Lúc đó Phạm Duy 30 tuổi, đang ở Gio Linh hay Việt Bắc. Bây giờ Phạm
Duy 75 tuổi. Thế mà trong nhạc Phạm Duy, bông lúa vàng lẫn chị Phấn vẫn rực rỡ
và cây lúa vẫn xanh tươi. Con người thì có tuổi, còn nghệ thuật thì không là vậy.
Phạm Duy yêu nước qua nhiều hình thái và sự vật: tâm tư, sông núi, đất đai, hoa
cỏ... nhưng có lẽ sâu đậm nhất là qua cây lúa. Phạm Duy thể hiện cây lúa không
như một loài cây cỏ mà như con người. Phạm Duy nhìn cây lúa với tấm lòng thiết
tha vô bờ, với sự rung động tự tâm ra, với niềm tự hào của một người dân đất Việt.
Ai có đi chống Pháp vào năm 1946 thì có hát
bài này:
Một mùa Thu năm qua Cách Mạng tiến ra
Đất Việt bừng ngàn tiếng, thanh niên tung gông phá xiềng...
Một ngày qua thanh niên giã từ giấc mơ
Phất cờ hồng nhuộm máu, đấu tranh cho muôn kiếp sầu...
Cùng đi! Đem máu lên đỏ ngọn cờ
Cùng đi! Đem sức trai đổ xuống bờ, bờ ruộng xanh
Tôi cùng anh, ta tranh hùng chờ ngày hòa bình
Nồng nàn sống vui tuổi xanh.
Tuổi xanh như lúa mai
Đời thanh niên sáng tươi
(Nhạc Tuổi Xanh)
Bài hát như một điệu kèn xung phong vô cùng
hùng tráng, chẳng những thúc giục thanh niên mà còn dựng cả tuổi già dậy, lao
ra tung gông phá xiềng. Giữa cái quang cảnh bừng sôi đó, Phạm
Duy cấy lúa vào. Lúa mai... Lúa đó là thanh
niên. Quê hương của lúa là bờ ruộng xanh. Tâm hồn của
lúa là sự sáng tươi. Ý chí của lúa là phá xiềng. Lý
tưởng của lúa là tự do. Lúa đã đứng lên hát vang trời
mây và:
Đường ta, ta cứ đi, nhà ta ta cứ xây
Ruộng ta, ta cứ cầy đợi ngày
Ngày mai bao ấm no, diệt xong quân Pháp kia
Cười vang ta hát câu tự do.
Năm 1947, Phạm Duy ở chiến khu cùng
với Văn Cao, Đỗ Nhuận. Phạm Duy về đồng hoang ở Phú Thọ.
Đồng ruộng kia, ta gieo căm thù
Để mọc lên ngàn muôn cánh lúa...
Nơi cô thôn, ta xây cánh đồng kháng chiến
Từ bụi khoai, bụi sắn, nhạc lên oai hùng
Nét oai hùng của cuộc kháng chiến
chống Pháp còn được mô tả trong bài Đường
Về Quê:
Một đoàn người đi miên man trên đường gian
nan
In hình qua mây núi xanh lơ bát ngát
Người đi tìm chân trời, nơi miền quê...
Kìa đoàn người đi say sưa qua đồng mênh mông (lúa)
Đồng quê, lũy tre, sáo diều, bé chăn trâu, bát
cơm, khoanh cà... là hình ảnh thân yêu của Phạm Duy quyện chặt cùng với lúa. Có
nơi nào lúa đứng mà không nghe tiếng sáo diều, mà không thấy lũy tre và bé chăn
trâu? Lúa reo với tiếng hát của nông phu, và:
Có những lúc (lúa) tươi cười với tiếng hát cô hàng
Tan chợ chiều trên đường về cô thôn.
Lúa đứng bên đường nhìn anh chiến sĩ hành quân và lúa chạy
theo nhập vào đoàn quân để trở thành Vệ Quốc Quân đi cứu nước. Lúa biến hóa thiên hình vạn trạng. Trong bài Nhớ Người Thương Binh, ta bắt gặp cô
nàng gánh lúa cho anh ra đi diệt thù vào lúc chiều về trên cánh đồng
xanh. Cô nàng gánh lúa đó chính là lúa hóa thân ngay trên cánh đồng xanh
quê mình để một ngày kia, đón chàng về, chàng về, nay đã cụt tay. Tôi
có xem một đoạn phim quay hoạt cảnh này do một ca sĩ Mỹ hát. Thật xúc động!
Trong cuộc hành quân chiến đấu, trên đường về quê, anh bộ đội đôi khi dừng lại
một cảnh đồi nương vào lúc chiều tà:
Qua đường mòn ngửi lúa thơ ngơi (và)
Lúa ngát thơm trên những cánh nương (để)
Nhà nông phá rừng gây luống(đã)
Đem mồ hôi tưới đồng lúa xanh.
Ở đây lúa lại là cô nàng tắm suối để cho anh bộ
đội tương tư chăng?
Phạm Duy là họa sĩ của mầu xanh. Màu xanh đó,
Phạm Duy dùng một phần lớn cho thôn quê, đồng ruộng, nương rẫy, cho lũy tre,
cho lúa:
(Làng tôi) có những cánh đồng cát dài
Có lũy tre già tả tơi
Ruộng khô có những ông già rách vai...
Chiều rơi thoi thóp trên vài luống khoai
Hiu hắt tiếng bà mẹ cười
Vui vì nồi cơm ngô đầy...
Bao giờ cho lúa được mùa luôn, lúa ơi
Bao giờ cho lúa về đầy sân, hỡi em
Có lũy tre già tả tơi
Ruộng khô có những ông già rách vai...
Chiều rơi thoi thóp trên vài luống khoai
Hiu hắt tiếng bà mẹ cười
Vui vì nồi cơm ngô đầy...
Bao giờ cho lúa được mùa luôn, lúa ơi
Bao giờ cho lúa về đầy sân, hỡi em
Có lũy tre già tả tơi
Ruộng khô có những ông già rách vai...
Chiều rơi thoi thóp trên vài luống khoai
Hiu hắt tiếng bà mẹ cười
Vui vì nồi cơm ngô đầy...
Bao giờ cho lúa được mùa luôn, lúa ơi
Bao giờ cho lúa về đầy sân, hỡi em
(Quê Nghèo)
Cảnh vui, tình buồn, niềm đau khổ, qua Phạm
Duy đều có mang hình dáng cây lúa, củ khoai, củ sắn. Hãy coi bài Bà Mẹ Gio Linh:
Mẹ già cuốc đất trồng khoai
Nuôi con đánh giặc đêm ngày
Cho dù áo rách sờn vai
Cơm ăn bát vơi bát đầy...
Ra công xới vun cầy cấy...
Mẹ già đi nấu nồi khoai
Bưng lên khói hương mờ bay
Đọc câu này hẳn bạn thấy nồi khoai
thân thuộc dưới mái tranh nghèo và mùi hương bốc lên thơm phức. Và đây, nỗi thiết
tha của rừng núi và ruộng đồng gắn chặt, ôm nhau, yêu thương nhau như
trẻ thơ.
Về miền Trung
Còn chờ mong núi về đồng xanh
Một chiều nao sắm
sửa về đô thành
(Tôi hát như vậy trong kháng chiến)
Hò hô hò! Hò hố hô!
Về đây với lúa, với nàng...
Tiếng ai vừa hát qua làng
Lúc em gặt lúa trên đồng
Hát rằng: Hà há hơ!
Tiếng cười, tiếng ca trên lúa trên sông
(Về Miền Trung)
Viết đến đây, tôi rưng nước mắt. Tôi nhớ lại
tôi. Nhớ bạn bè thời chống Pháp đẹp đẽ, cao quý vô cùng. Thời đó tôi làm văn
nghệ, đủ loại, thứ gì cũng làm: thơ, văn, họa, kịch. Cả hát độc xướng trên sân
khấu. 1947 hay 1949, miền Đông bị lụt, Chiến Khu Đ không ở được, cán bộ chạy xuống
Khu 9 tá túc. Có anh chàng nhạc sĩ tên là Văn Cử đàn ghi ta tay trái. Anh cứ để
nguyên dây đàn như vậy, thay vì từ trên đánh xuống, anh ta lại từ dưới quẹt
lên. Tôi không hiểu tay kia anh bấm accords như thế nào nhưng nghe cũng rất
đúng. Chính anh ta đệm đàn cho tôi hát bài Về Miền Trung của Phạm Duy. Tôi
cũng làm nhiều người rơi lệ chứ phải vừa đâu! Lúc nào không có Văn Cử thì tôi
''kên'' ghi ta một mình nhưng chỉ bấm vài accords thôi, nếu đổi nhiều sợ bấm trật.
Về lời ca, chép đi sao lại, chúng tôi có một cuộc cãi nhau về câu ôi
quê hương xứ dân gầy. Người thì bảo xứ thông gầy vì
vùng đó có nhiều thông. Kẻ khác lại cho rằng xứ thân gầy vì miền
Trung là khoảng đất hẹp nhất của nước ta.
Ôi bông lúa, con sông xưa, thành phố
cũ... Những hình tượng mà gây
nhớ nhung bỏng cháy. Bông lúa, con sông, thành phố... có gì lạ đâu? Sao mà nhạc
làm nó trở nên kỳ diệu? Có lẽ vì Phạm Duy dựng nó trên cảnh điêu tàn của quê
hương, có cảnh tan thân thiếu phụ, nát đầu hài nhi. Trong bài
này, Phạm Duy nhắc lúa tới ba lần mà lần nào cũng nghe dường như có nước mắt.
Tôi hát cũng với nước mắt: Ôi bông lúa, về đây với lúa với nàng, tiếng
cười, tiếng ca trên lúa, trên sông (tiếng lúa kéo
dài, ngân vang, thiệt đã cái cổ họng). Đó là vào năm 1948, nhạc sĩ Phạm Duy 27
tuổi, còn ''ca sĩ'' Xuân Vũ mới 18 cái xuân xanh. Quả thiệt là:
Lúc em gặt lúa trên đồng
Nhớ thương về chiến khu mờ...
Buồn năm phút thôi! Đủ rồi! Bây giờ lại tiếp tục
hành trình của ''nhân vật lúa''. Trong bài Gánh Lúa, Phạm Duy mô tả nông thôn Việt
Nam một cách tài tình. Có thể so sánh với truyện ngắn Chí Phèo (mà
tôi cho là truyện ngắn hay nhất thế giới). Vì sao? Vì đọc Chí Phèo người
ta có thể hiểu toàn bộ cuộc sống nông thôn đời Pháp thuộc. Nghe bài Gánh Lúa, người ta
có thể hình dung được nông thôn Việt Nam ngày mùa, với niềm hạnh phúc của người
nông dân và hơn nữa, sức sống của dân Việt Nam.
Mênh mông, mênh mông, sóng lúa mênh mông
Lúc trời mà rạng đông ư rạng đông...
Rung rinh, rung rinh, gánh lúa rung rinh
Cánh đồng mà xinh xinh, rằng xinh...
Thóc bà phơi nắng, lúa nhà tôi gánh
Hai vai đem sức nuôi toàn dân...
Sớm ngày mai tới, thóc vàng cơm mới
Đi nuôi dân gánh một thành hai
Gánh lúa! Việc đó ai mà không biết
hoặc không thấy: ''gánh'' và ''lúa''. Nhưng qua con mắt nghệ sĩ, lúa
rung rinh, lúa xinh xinh, sóng lúa mênh mông, lúa nuôi toàn dân, một gánh thành
hai... Rồi lại còn thêm tình yêu:
Có nàng xay lúa quyến tròn thương nhớ
Thương chàng dãi nắng dầm mưa.
Và còn:
Môi trầu tươi đám cỏ xanh
Lão bà tóc trắng, kĩu kịt quang gánh
Ta thấy lúa trải vàng óng, thấy lúa nghiêng ngả
và nghe cả tiếng quang gánh đang nhún nhảy theo bước chân nhịp nhàng trên đường
ruộng. Đời cần nghệ sĩ biết bao. Nghệ sĩ đưa vào nghệ thuật những hình ảnh đơn
sơ làm ta giật nảy người lên vì nó đẹp hơn cả ngàn lần sự thực. Nhưng nó vẫn thực
vô cùng. Như cái đòn gánh để gánh lúa, của Phạm Duy. Xin hãy nghe lại bản nhạc
để thấy lại quê hương chút!
Nhân vật lúa của Phạm Duy mà ta bắt gặp rải
rác khắp nơi có sức hút lạ lùng. Có khi thấy lúa còn rất bé như lúa mạ, có lúc
là lúa con gái mới lên, có khi biến thành lão bà, thành ông già mặc áo rách vai
v.v...
Quê hương tôi, có con sông đào xinh xắn
Nước tuôn trên đồng vuông vắn (có
ở miền Bắc mới hiểu được tại sao ruộng vuông vắn)
Lúa thơm cho đủ hai mùa...
Văn Cao cũng có một bài mô tả đồng quê rất
hay. Đó là bài Ngày
Mùa, sáng tác có lẽ cùng lúc với bài Gánh Lúa của
Phạm Duy:
Ngày mùa vui năm nay, lúa reo như hát mừng...
Lúa, lúa vàng, màu lúa bát ngát trời
Bao tay liềm, từng nhánh lúa thơm rơi
Mùa vui quân du kích đứng im trong lúa rập rờn
Ngày ngày qua gánh lúa, nón nghiêng nghiêng nhìn theo
Nhưng bản Ngày Mùa dùng
nhịp valse 3/4 chứ không dùng nhịp dân ca. Do đó bài hát rất hay nhưng theo tôi
biết thì ít thâm nhập vào quần chúng mà chỉ đi vào giới cán bộ thời đó nhiều
hơn. Riêng tôi rất thích bài đó nhưng chỉ hòa nhạc và hát một mình, chứ không
''biểu diễn'' trước quần chúng.
Trở về với bài Tình Hoài Hương, với
câu hát: Dân trong làng trời về khuya vẳng tiếng lúa đê mê. Không
hiểu tâm tình nhà nông, không viết được hai chữ đê mê này. Lúa
reo, lúa chuyển mình, hương lúa đê mê hay nhà nông đê mê? Có
lẽ cả hai, lúa lẫn người, lúa biến thành người, người mơ theo lúa, tâm hồn của
lúa và của người hòa lẫn. Cũng với tình cảm đó, Phạm Duy viết những bài anh cho
vào một loại gọi là tình ca quê hương, tình tự dân tộc với nhiều
nét đặc sắc mà chỉ nhà văn mới có. Nhưng trong ba bài vừa kể, Phạm Duy vẫn
không bỏ qua cây lúa (và cả ngô, khoai và sắn nữa):
Mưa nhiều càng tươi bông lúa
Nắng nhiều thì phơi lúa ra...
(Bà Mẹ Quê)
Chàng là thanh niên mạch sống khơi trên luống
cầy
Nói năng hiền lành như thóc với khoai...
Chàng vừa cầy sâu vừa hứng mưa trên đất mầu
Hái bông ngô vàng hay bới khoai nâu...
(Vợ Chồng Quê)
Cất tiếng theo tiếng lúa đang reo, em đánh
vần thật mau
Khoai lùi bếp nóng, ngon hơn là vàng...
Đời vui thái bình, cây lúa sớm trổ bông
Cỏ ngàn thơm phức, trâu ăn đầy đồng.
(Em Bé Quê)
Lúa ở đây là bà mẹ, là đôi vợ chồng son và là
em bé chăn trâu. Không lúc nào vắng hình cây lúa trong nhạc quê hương Phạm Duy.
Bài Ngày Trở Về, Phạm Duy soạn trên chuyến
tầu biển, đang lênh đênh trên Ấn Độ Dương, lúc anh đi du học bên Pháp và lúc tạm
có hòa bình. Anh mơ tới ngày trở về, anh (thương binh) con
trâu xanh hết lòng giúp đỡ nhưng cũng phải có:
Lúa ngô thi nhau hát đùa trước ngõ
Có em vui tươi xách gạo bếp nước
Có nắm cơm ngon, ôi trời lạnh lùng
Có đôi uyên ương sống đời mặn nồng.
Trở lên, Phạm Duy tỏ tình yêu với ''cô lúa Bắc''.
Từ đây, (với bài Tiếng
Hò Miền Nam) Phạm Duy yêu thêm ''cô lúa Nam'':
Ruộng đồng lúa trổ bông mau
Lạch nguồn cá lội xôn xao...
Tình quê như chín con sông
Nước trôi vào lòng đất cầy thơm nồng
Đợi mùa lúa tốt trổ bông
Gặt về cho bõ nhọc công.
''Em lúa'' ở đây có dung nhan khác với ''cô
lúa'' trên đường tan chợ chiều về cô thôn, nhưng em vẫn đáng yêu như thường:
Yêu em đôi mắt hạt huyền
Yêu làn tóc rối yêu liền nước da.
Yêu em tấm áo thô sơ
Dãi dầu nắng mưa vẫn chưa phai mối tình.
Nỗi vui sướng của Phạm Duy giống y của một
nông dân, ngồi bờ đìa, nhổ rau đắng, cặp cá nướng, dzô ba xí đế:
Về miền sông ăn cá nướng thơm ngày mưa.
Về đồng dưa ta tắm nắng vui đời ta
Phạm Duy mô tả cây lúa phàm trần nghĩa
là cây lúa thực với nghĩa đen của nó, cây lúa như ta cấy, ta thấy cây lúa trổ
bông, làm ra gạo, như trong mấy bài kể trên, nhưng trong Nhạc Tuổi Xanh, Thi Đua Ái Quốc,
Nương Chiều, cây lúa lên bực siêu. Vậy có thể nói cây lúa đã từ phàm lên
tới siêu vậy.
Hơn nữa, đó là cây lúa Việt Nam, không giống như đồng loại của nó ở những khu vực
khác của địa cầu. Tôi muốn nhấn mạnh điểm này, bởi vì từ nửa thế kỷ nay, cây
lúa (nghĩa là dân tộc) Việt Nam bị đắm chìm trong khói lửa, phải vươn lên để
sinh tồn. Lúa lo sợ súng (Lời tôi ca xin lúa đừng lo: tâm ca phạm
duy đã vỗ về lúa như vậy), lúa mọc trên ruộng máu, trong chiến tranh và hận
thù.
Hồi 17 tuổi, tôi bất thần làm ẩu một bài thơ
ngũ ngôn tựa là Em
Lớn Lên đăng ở báo NHÂN DÂN MIỀN NAM trong thời kháng chiến.
Chủ nhiệm Trần Bạch Đằng khen nức nở và bảo gởi thêm, nhưng tôi có bài nào nữa
đâu mà gởi. Bài thơ này được nhạc sĩ Phan Vân phổ nhạc, có mấy đoạn như sau:
Em ăn rau ăn cải
Trồng trên đống tro tàn
Trên nền nhà rụi cháy
Hàng cột ngã thành than
Cơm em ăn mỗi ngày
Đều có dính máu Tây
Vì mùa khô mùa nước
Tây phơi xác ruộng này...
Ít lâu sau, tôi thấy những hình ảnh đau thương
đó cũng được Phạm Duy nói tới trong bài Về Miền Trung:
Người đi trên đống tro tàn
Thương em, nhớ mẹ hương vàng về đâu
Chiều khô nước mắt rưng sầu
Tan thân thiếu phụ, nát đầu hài nhi
Bà mẹ Gio Linh cuốc đất trồng khoai. Mảnh đất đó phải chăng đã ươm bao nhiêu hạt căm thù?
Cây lúa Bình Trị Thiên, Phú Thọ, Cà Mau phải chăng đã được tưới bằng nước mắt
toàn dân? Tiếng lúa Việt Nam reo lẫn trong tiếng ru của mẹ Việt Nam, trong đó
có tiếng gào thét của những bà mẹ bị giặc bắt phải ném con mình xuống sông Thu
Bồn?
Ôi cây lúa Việt Nam, cây lúa linh thiêng, giống
cây thần thánh. Nhưng nếu không có bàn tay phù phép của lão phù thủy Phạm Duy
thì cây lúa, giồng khoai, luống sắn chỉ còn là những giống cây bình thường, tầm
thường nữa là khác.
Ta hãy nghe lại bài Tình Ca. Có phải
ta đã nghe, thấy và yêu cây lúa hơn lên? Bác nông phu vai đồng xương sắt đứng
trên ruộng đất đã vài ngàn năm, luôn luôn cất lên những tiếng gọi: Nước
ơi! Lúa ơi! Như một câu đối, và như thế, tiếng ''lúa'' cũng nặng ngang
tiếng ''nước''. Trong bài đại tình ca này, dù tác giả chỉ nhắc tới lúa hai lần,
nhưng những hình ảnh khác, mặc dù không nói tới lúa, vẫn có dính dáng, quyện chặt
hay nằm giữa lúa:
Ruộng đồng vun sóng ra Thái Bình
Bác nông phu đội sương nắng bên bờ ruộng sâu
Những câu hò giận hờn không nguôi
Tiếng cô gái bên nhà, lẳng lơ như tiếng sáo diều
Người nông phu đã đứng và lúa đã mọc hơn vài
ngàn năm trên đồng ruộng Việt Nam. Ta cũng chỉ có thể nghe những câu hò, câu
hát, tiếng diều... trên đồng lúa mà thôi. Có đồng lúa mới có tiếng diều. Chả nhẽ
nghe tiếng diều ở thành phố à? Vậy bác nông phu, chính là lúa. Cây lúa có từ
bao giờ? Từ đời Hồng Bàng? Từ thời Việt Câu Tiễn (luộc thóc rồi tặng Ngô Phù
Sai làm thóc giống)? Người nông phu không có lúa thì không thành người nông
phu. Bài Tình
Ca có nhiều nét trữ tình hơn nét thực. Bài Gánh Lúa có
nhiều nét thực hơn trữ tình (tuy cả hai đều có đủ hai nét ấy). Đều là những bài
hát đem đến cho thính giả hương quê, tình quê và hình ảnh quê hương.
Trở lại cây lúa siêu phàm, ta thấy Phạm Duy đã
đặt cây lúa vào Trường
Ca Mẹ Việt Nam một cách tuyệt vời:
Mẹ Việt Nam
Bên bờ đại dương,
Mẹ duỗi chân dài chờ mưa tuôn
Mẹ mong chồng cũng như là ruộng sâu nông
Ruộng cứng hay mềm cũng êm đềm đón lưỡi cầy tìm da thơm
Phạm Duy khắc họa hình tượng Mẹ Việt Nam như một
cánh đồng (Đất
Mẹ) để đặt cây lúa vào đó, gọi là Lúa Mẹ:
Yêu nhau khi lúa chưa mòng
Thương nhau khi nắng khô đồng
Ôm nhau nghe nước mưa ròng
Chảy vào lòng cặp tình nhân
Bên nhau khi lúa xanh rờn
Chia nhau bông trĩu thơm vàng
Đem nhau ra giữa sân làng
Nhìn đèn trăng kể truyện xưa
Xinh xinh bãi lúa xanh rì
Ngoan như cơn gió đêm hè
Nghe hơi dưới đất vỗ về
Một lời thề nặng tình quê
Vươn vai lúa nhớn dậy thì
Mưa thu cưới lúa đem về
Nâng niu lúa chín tới kỳ
Kỳ nở hoa, đẹp lòng ta!
Trường
Ca Mẹ Việt Nam có bốn phần,
gồm 22 chương. Phạm Duy dành nguyên một chương để ca ngợi cây lúa. Mới đọc qua,
người ta có cảm tưởng đó là một truyện nửa thần thoại, nửa nhân gian, kể bằng
thơ. Mẹ ơi, Nước
ơi và Lúa
ơi... Nghe như tiếng hợp tấu của những dòng sông Hồng, sông
Hương và Cửu Long Giang.
Nhân đây, tôi xin kể một chuyện nhỏ: Năm 1972,
tôi đi du lịch mấy nước tư bản lớn, gặp mùa tuyết phủ, khó tìm ra một tiệm ăn Á
Châu. Khi tới Luân Đôn, mới kiếm ra một tiệm ăn Tàu, thằng bạn tôi hối hả gọi
cơm rồi chan xì dầu và lùa một hơi ba tô cơm bự. Đến chừng thức ăn dọn ra, nó vỗ
bụng: ''Tao đủ rồi! Không cần dồn thứ gì vào bao tử nữa''. Mà thật, sau ba tô
cơm, nó ăn thêm hai tô nữa, tổng cộng năm tô. Chuyện nghe như phàm tục, nhưng gẫm
ra không phàm tục chút nào. Mà có phần siêu nữa.
Chương 6 - Truyện trong nhạc Phạm Duy
Nói tới truyện phải nói nhân vật. Rồi đến cốt
truyện. Nhưng có những truyện không có truyện gì cả mà chỉ có vấn đề, nghĩa là
tác giả định nói gì với độc giả qua câu truyện mình kể mà không cần nhân vật lắm.
Trong nhạc của Phạm Duy, tôi nhận thấy cái chất truyện cũng rất phong phú. Truyện
với Họa gần nhau hơn Thơ với Họa vì nói đến truyện là phải nói đến chi tiết. -
đây tôi chỉ xin bàn đến những bản nhạc có tính chất truyện đậm nhất, nghĩa là
nó có nhân vật, có truyện và có vấn đề. Trên cơ sở này, ta có thể nói bài Cây Đàn Bỏ Quên là
một truyện với nhân vật chính là người bỏ quên cây đàn. Nhân vật kế đó là
''em''. Cây đàn cũng có thể gọi là nhân vật được. Có hai nét kịch tính trong
truyện này: Cây đàn nằm đó nhưng em đâu rồi và bông hoa trên
phím tươi cười. Câu chuyện đơn giản nhưng nó mang cả một triết lý nho
nhỏ xinh xinh như bông hoa kia. Em yêu tôi hay yêu đàn? Tất cả
ba yếu tố cấu tạo truyện đều rất rõ. Nếu muốn viết nên một truyện ngắn bằng văn
xuôi thì nhà văn chỉ cần lấy cốt truyện này mà phát triển nó lên.
Bài Chinh Phụ Ca tự nó đã là một
truyện, tuy suông sẻ hơn bài Cây
Đàn Bỏ Quên nhưng nhân vật cũng rất rõ nét và có thể chia
ra ba phần giống như ba chương.
Bài Nhớ Người Thương Binh là một
truyện mà trong đó hình dáng, tâm tính của nhân vật và bối cảnh có thể nói là
đã hiện rõ như trong hai truyện trên. Tình huống của truyện từ thấp đến cao rồi
trở lại bình thường. Chia tay, đi chiến đấu, bị thương rồi trở về sống cuộc đời
ở hậu phương như crescendo rồi decrescendo trong nhạc. Chàng về, chàng
về nay đã cụt tay là điểm cao trào, cũng là kịch tính của câu truyện.
Toàn bộ khí hậu câu truyện và nội tâm nhân vật đều thay đổi với chi tiết này. Tự
nó, bài Nhớ Người
Thương Binh đã là một câu truyện, có nhân vật là vợ chồng
anh thương binh, có bối cảnh đầm ấm đồng quê. Nó cũng là một nhạc kịch nhỏ.
Bài Cành Hoa Trắng là một truyện viết
bằng thơ rất gẫy gọn, rất xúc tích. Truyện rằng ngày xửa ngày xưa ở đâu trên xứ
của Ngọc Hoàng, có một nàng tiên tên là Giáng Hương (cái tên yêu kiều này chắc
là của tác giả đặt cho nàng tiên chứ tôi chưa thấy nó trong các truyện Tầu hay
truyện cổ tích). Không biết đó có phải là Hương Hương nàng ơi trong
bài Tiếng Đàn
Tôi, đã lạnh lùng rời tôi để lên cung tiên tìm
hạnh phúc mới không? Nàng Giáng Hương đang độ xuân thì. Sống quạnh hiu cô độc
trong cung vắng. Một đêm, ngồi nhìn trăng úa tàn, bỗng nghe máu thanh xuân nổi
dậy, bèn bạo gan phá then vàng bước vào vườn hoang. Ở đấy lại
gặp tình nhân cũ (chàng ta đuổi theo tìm nàng). Tiếng hát tiếng đàn năm xưa lại
quyến rũ, khiến nàng quên cả đây là cung tiên, quên cả mình là tiên, nên đã
cùng chàng yêu nhau. Rồi các tiên nữ bắt chước theo nàng, làm huyên náo
Thiên Đường lạnh lẽo, nghĩa là làm cho Thiên Đường cao sang vương vãi
đầy bụi trần. Do đó mà Ngọc Hoàng, hoặc vì muốn giữ nề nếp cổ điển của Thiên Đường,
hoặc vì ghen tức với chàng trai trần tục kia (sao các nàng không yêu Trời mà lại
yêu người trần tục?) nên đã đầy nàng Giáng Hương xuống trần thành bông hoa trắng.
Để cho chàng trai kia ôm ấp giữa đêm mờ ngát hương, trên gác lẻ. Từ đó nàng sống
với chàng đến hết kiếp hoa. Mãn hạn bị đày, Ngọc Hoàng mở cửa Nhà Trời ngó xuống
gọi nàng về, nhưng nàng không về, vì căn gác lẻ loi có chàng nghệ sĩ và tiếng
hát tiếng đàn mới thật là Thiên Đường của nàng. Tôi xin phép tác giả thừa thắng
xông lên, sau khi đọc truyện Cành
Hoa Trắng bằng thơ, viết luôn một cốt truyện bằng văn xuôi
như trên. Nhìn lại ở cuối bài hát (in trong tập NGÀN LỜI CA), tôi còn thấy có
dòng chữ chú thích như sau: ''... Mùng 1 tháng 5 năm 1951, tôi từ Khu Tư (Thanh
Hóa) vào thành. Tôi chỉ ở Hà Nội có đúng một tháng rồi toàn thể gia đình lên
máy bay vào sinh sống ở Sài Gòn''. Câu chú thích này làm cho truyện nàng Giáng
Hương thêm ý nghĩa.
Truyện Một Người Mang Tên Quốc là một
truyện Phạm Duy viết bằng thơ. Nếu viết ra bằng văn xuôi thì có thể vượt cả
truyện ngắn để thành truyện dài, hoặc trung thiên tiểu thuyết. Truyện (hay Chuyện) Hai Người Lính đi
kế ngay sau đó là một tiểu thuyết nếu ta phát triển nó ra. Hai người lính trong
bài ca đã là điển hình, vì họ hoạt động trong một cái không gian rộng lớn Việt
Nam, với một mục đích cao siêu (!) là cùng diệt kẻ thù chung, nghĩa
là tận diệt nhau, để gìn giữ Việt Nam. Một bi kịch rất hài hước,
chua cay.
Bài Bà
Mẹ Phù Sa cũng là một truyện bi hài bỏ lửng với câu kết: Tới
đây là xong nửa truyện, không biết rồi ai sẽ cứu ai? Kết luận bằng một
dấu hỏi to lớn. Hỏi và không trả lời để cho ai muốn tìm câu trả lời thì cứ tự
tìm lấy. Sẽ thấm thía hơn. Sự thực thì đã có xảy ra ở chiến trường rồi. Người
anh đi theo Cộng Sản, tập kết, trở về Nam gặp người em ruột, hai bên đều không
biết nhau. Người em giết anh mình, lúc xét lấy giấy tờ đem về khoe với mẹ thì
bà mẹ chết giấc vì nhận ra đó là ''thằng anh mày!'' mà lâu nay bà không nói ra.
Bài Chuyện Hai
Người Lính làm cho tôi hâm nóng lại ý định viết cái truyện
kể trên mà tôi biết từ lâu, nhưng viết không nổi. Hoặc không muốn viết ra. Vì
đó là câu truyện quá thương tâm. Không biết lý do nào làm cho tôi chưa viết được,
tôi cũng không hiểu. Những bài nhạc sau đây đều mang tính cách truyện hoặc đã
là truyện: Tóc
Mai Sợi Vắn Sợi Dài, Úm Ba La Ba Ta Cùng Khỏi, Khỉ Đột, Nhìn Lồn, Thằng Bợm,
Đưa Bé Đến Trường, Tuổi Thần Tiên, Người Việt Cao Quý, 1954 Cha Bỏ Quê, 1975
Con Bỏ Nước, Người Con Gái Việt Rời Xa Tổ Quốc, Lời Người Thiếu Phụ Việt Nam, Bầy
Chim Bỏ Xứ, Bà Mẹ Gio Linh, v.v...
Nếu tìm thêm thì ta có thể lọc ra được một số
truyện nữa, nhưng bấy nhiêu đây cũng đã chứng minh truyện trong nhạc Phạm Duy
thật phong phú. Ngoài những bản nhạc có tính chất truyện hoặc đã là truyện rồi,
tôi còn nhận thấy vô số những chi tiết và hình tượng rất là truyện. Và tôi lấy
làm ngạc nhiên là Phạm Duy đã đưa chúng vào nhạc một cách rất tự nhiên, dễ
dàng. Sau đây tôi chỉ xin nhặt ra một vài chi tiết rất ''truyện'' của Phạm Duy:
*
Xác không đầu nào kia (Nợ
Xương Máu)
*
Chàng về nay đã cụt tay (Nhớ
Người Thương Binh)
*
Anh thương binh chống nạng cầy bừa (Ngày Trở Về)
*
Bàn tay ngà vục bùn đen (Ở
Bên Nhà Em Không Còn Đứng Đợi Chờ Anh)
*
Tiếng anh chiến sĩ say rượu cười vang (Tiếng Thời Gian)
*
Ông già mím môi cầm lái (Hát
Cho Người Vượt Biển)
*
Áo ngắn đi dần, may áo mới luôn (Tuổi
Thần Tiên)
*
Con yểng nhát gan, thấy màu đỏ chót là toan giết mình và
*
Đằm thắm, đôi bồ câu bú mớm (trong
Tổ Khúc Bầy Chim Bỏ Xứ)
Tổ Khúc Bầy Chim Bỏ Xứ là một truyện có
đầu có đuôi, thủy chung như nhất, có nhân vật đông đúc, có chính diện và phản
diện. Đồng thời hình dáng, cá tánh, nội tâm nhân vật rất rõ. Cá tánh là nét đặc
sắc của nhân vật làm cho nó sống và không lẫn lộn với các nhân vật khác cùng
truyện hoặc của truyện khác. Sự nhân cách hóa loài chim là một trong những sáng
tạo tột độ của Phạm Duy. Ta hãy nhìn lại các Chàng và Nàng Chim, khởi đầu là
chàng họ Đỗ, tên Quyên. Chim là hồn Thục Đế ngày xưa.
Hồn hóa sinh ra thành con chim Quốc
Hồn hóa thân là họ Đỗ chim Quyên...
Rồi:
Đỗ Vũ không ngừng kêu mất nước
Thổ máu tươi như đêm chim chết
Tái sinh thành lần nữa Đỗ Quyên.
Bấy nhiêu nét đó làm cho Đỗ Quyên phân biệt hẳn
hoi với thiên hạ, không thể nào lẫn lộn với ai. Bên chàng Đỗ Quyên lại có cô
Chim Thanh cũng đầy nét đặc sắc, cũng không thể lẫn lộn với ai.
Rằng chim hót tiếng chim Thanh
Chim ở nhà, chim không hót
Chim nhất định lặng thinh
Dẫu cho chim thèm khóc
Dẫu cho chim muốn cười
Chim gìn giữ tiếng chim Thanh
Rồi đến các chàng chim khác, mỗi chàng chỉ một
nét phá, không chàng nào giống chàng nào:
* Con
chích chòe chìm vào đêm sâu, vẫn cất tiếng hót gọi tôi rầu rầu (nghe
hát thì còn rõ cá tính hơn)
* Con
chào mào líu lưỡi ngọng câm
* Con hoàng khuyên
lên giọng hát nao nao, giọng hót chim đau
* Chim khổ đau cấu cổ
chết không hay
* Nhạn xanh hân hoan
* Én bay thấp, én
bay cao
* Én hay nhạn,
thương cho bạn tỉnh mê
* Bạn tình xa có nhớ
gốc đa thì về
* Chèo bẻo rất hùng
anh, hễ mà thấy quạ nó rình đánh ngay
* Chèo bẻo đánh chim
đen
* Tình nghĩa là lứa
chim Uyên (uyên ương)
*
Lên tiên thì tìm cánh Hạc
* Tấu nhạc là Phượng
xuống non
* Nắng lên non véo
von, Kim Tước
* Tha thướt, Thiên
Nga
* Sóng gió là Hải âu
* Yến hộc máu vì tin
người
* Bìm Bịp, dựa nước
nhoi ra
* Rẻ cùi tốt mã (mà) ăn giơ uống bẩn v.v...
Ngoài ra, còn chim Hồng, Lạc, Tiên, Rồng, bay
lên từ thời tiền sử mơ màng, nhưng chỉ cái tên của chúng thôi cũng đủ làm cho
người ta nhớ mãi. Đây là một sự sáng tạo khác nữa của Phạm Duy. Cũng như, trong
các loại chim, làm gì có con chim Thanh? Đó là do Phạm Duy tạo ra. Và đấy là
con chim phi phàm.
Đến đây, tôi xin thêm một con chim khác, nó là
linh hồn của bầy chim bỏ xứ. Con chim đó hát hoài không ngừng từ Lạng Sơn đến
Cà Mau, từ trong nước ra ngoài nước, từ Á sang Âu, từ Mỹ sang Úc, không nơi nào
có người Việt mà vắng tiếng hót của nó tới. Tiếng hót của nó trở thành tiếng ru
lòng người ly tán, nhắc nhở ngày đêm cho người không quên tổ quốc, một con chim
trong bầy chim bỏ xứ mang hồn Đỗ Quyên, một con chim không phải nêu tên nhưng
ai cũng biết.
Miên man theo Bầy Chim Bỏ Xứ mà
tôi suýt quên một truyện khác trong chương này. Thực ra tôi cố tình quên để dời
nó lại ở cuối chương này. Đây một truyện bất hủ, truyện Bà Mẹ Gio Linh.
Mẹ cư ngụ ngay sau khi nghe tiếng
hát Sông Lô trên một nương chiều rồi vô tới quê nghèo Quảng
Trị trên ngả đường về
miền Trung có những đoàn người gánh lúa.
Ở Gio Linh thuộc tỉnh Quảng Trị vào năm 1948,
có bà mẹ nghèo ngày đêm cuốc đất trồng khoai nuôi con đánh giặc Tây. Nhà mẹ thì
Tây nó vừa đốt tro than hãy còn chưa nguội, nhưng không sao, mẹ vẫn khuyên bà
con báo thù và nung chí người con trai độc nhất đang làm du kích. Đêm đêm nghe
súng nổ xa xa mẹ câu nguyện cho con.
Bỗng một hôm bà mẹ đang tưới rau thì nghe bà
con hàng xóm gào thét hung tin. Tây bắt được con mẹ và đem ra giữa chợ cắt đầu.
Mẹ ném chiếc gàu, không nói một câu, vào nhà lấy chiếc khăn cầm tay, đi thẳng
ra chợ nhặt lấy đầu con đem về. Đường làng lặng ngắt trong khủng khiếp như chết.
Chỉ có tiếng chuông chùa gieo nặng. Chân rụng rời bước, bà mẹ nâng đầu con, nước
mắt ràn rụa mẹ cố nuốt không cho tiếng khóc bật ra. Như hiểu lòng mẹ, môi người
con trai cười, thắm như màu cờ, và mắt âu yếm nuối nhìn mẹ. Tuy đau đớn vô
cùng, mẹ vẫn nén lòng, sống với đứa cháu mồ côi còn thơ dại và đầu đã chít khăn
tang. Đêm đêm nghe tiếng súng, cháu giật mình nhưng trong cánh tay ru của bà,
cháu lại ngủ say. Bộ đội ghé nhà thăm hỏi mẹ luôn. Nhiều hôm mẹ dỡ luống khoai
đem nấu để đãi các con. Nhìn vẻ mặt rắn rỏi của các con qua làn khói nồi khoai
vừa chín tới, mẹ như nguôi đi nỗi đau mất con, tuy lòng mẹ nhớ con không nguôi.
Mẹ rót nước mời bộ đội và bảo: ''Các con uống nước đi rồi hăng hái đi
giết giặc, báo thù cho em các con. Các con có dịp nào đi ngang đây nhớ tạt vào
thăm mẹ''.
Phạm Duy đã viết một truyện với số chữ ít nhất
để diễn đạt tình ý, hành động, nội tâm cảnh vật một cách cao nhất. Noi theo kỹ
thuật diễn đạt cao, cho nên Bà
Mẹ Gio Linh là tượng trưng cho hàng ngàn bà mẹ của làng
quê Việt Nam trong thời kỳ chống xâm lăng, tiêu biểu lòng yêu nước và niềm ước
mơ giải thoát quê hương khỏi sự tàn bạo của bất cứ lũ giặc xâm lăng nào.
Chương 7 - Chữ nhỏ của Phạm Duy
Trong nghệ thuật viết tiểu thuyết Tolstoi có bảo
ta: Petit détail fait grand roman Chi tiết nhỏ làm nên truyện
lớn. Một câu nói ngắn dạy ta mãi mãi trên đường dài. Vũ Trọng Phụng để lại một
chồng tiểu thuyết cho người đời, trong đó có mấy chữ ''Biết rồi khổ lắm nói
mãi'' của cụ cố Hồng. Câu nói cau có đó vụt bước ra khỏi trang sách, đi khắp
dân gian. Thiên hạ cứ tưởng suy tôn kẻ độc tài trở thành vĩ nhân bất tử là đem
các khẩu hiệu om sòm cho vô kèn đồng rồi bắt nhạc công phun chúng ra, rồi khi
lãnh tụ chết thì xây cái nhà mồ thiệt bự. Không đâu, những bài ca khẩu hiệu sẽ
chết một cách ''bất tử'' còn một câu ca dao, đồng dao mang hồn dân tộc lưu truyền
từ miệng người đời đời không tắt. Không đâu, Tolstoi mang giày rơm, viết trên
bàn gỗ đơn sơ và chết chỉ nằm dưới nấm đất thấp không cần bia đá tượng đồng, thế
nhưng vẫn là vĩ nhân, khi còn sinh tiền cũng như sau khi nhắm mắt, quyền lực của
ông cao hơn vua chúa Âu Châu. Trên ý thức chi tiết nhỏ làm nên truyện vĩ đại của
Tolstoi, tôi tiếp tục đi nhặt thêm vài chữ rất nhỏ của Phạm Duy để coi người
nghệ sĩ này lớn như thế nào.
Chữ đóa:
Đóa hoa thì đã đành, nhưng lại còn đóa thơ.
Đóa linh hồn đã đành lại còn có thêm hồn đom đóm, hồn ma, linh
hồn, oan hồn, hồn thiêng, hồn xuân...
Có trăng sáng, trăng vàng, trăng già,
trăng non đã đành, anh lại còn có trăng tơ và trăng
thơ ấu.
Có thằng Bờm rồi, lại còn
thêm thằng Bợm.
Người ta nói hùm thiêng sa lưới cũng
hèn, Phạm Duy nói hùm thiêng sa lưới vẫn hùng. Chỉ
khác nhau một chữ, Phạm Duy đã tạo ra một triết lý mới, đảo ngược và phủ nhận
cái có từ xưa.
Chữ úa:
Lá úa, cánh hoa úa, hương úa... nhưng với Phạm Duy thì cát cũng
úa, thời gian úa. và ngôi mộ cũng úa.
Khi bông hoa úa vàng, tình tang (Cây Đàn Bỏ Quên)
Mang mùi hương úa (Tiếng Bước Trên Đường Khuya)
Cánh hoa tươi tơi bời, theo với những lá
úa (Xuân Hành)
Làm cho úa vàng từng mộng ước tươi hồng (Tuổi Biết Buồn)
Giọng ca buồn bã vào trong đời úa (Nước Mắt Mùa Thu)
Nào ngờ cát úa tuôn ra dần dà chẳng có
hay (Nha Trang Ngày Về)
Thành ngôi mộ úa (Đường Chiều Lá Rụng)
Những xác úa một thời (Mộ Phần Thế Kỷ)
Cỏ hèn đã úa từng cội (Ngựa Hồng )
Lá úa rơi vun cao cội nguồn (Người Tình Già Trên Đầu Non)
Đã Thu vàng úa, ới ơ tình rồi (Tình Thu)
Thời gian là lệ úa (Nghìn Năm Vẫn Chưa Quên)
Hoa úa trong lòng ta (Chỉ Chừng Đó Thôi)
Chữ bâng khuâng:
Chàng tráng sĩ ngồi trên lưng ngựa sắp chia
tay với người yêu để ra trận, lòng chàng bâng khuâng, nhưng đồi
núi ban mai thức giấc vươn vai cũng bâng khuâng và trời cũng biết bâng khuâng.
Nhưng với chữ bâng khuâng, trường hợp dùng sau đây là hay nhất
làm tôi thiệt bất ngờ:
Sống sót trở về, anh thợ mỏ náo nức
Sống sót trở về, anh mục đồng thao thức
Sống sót trở về, tên cường đạo lau kiếm
Xé áo giang hồ, xin chèo đò trên bến!
Sống sót trở về, quên màu hồng gái điếm
Trút phấn son rồi, xin mặc lại áo huyền
Sống sót trở về, tôi tạ từ vũ khí
Sống sót trở về, tôi trở lại nhỏ bé
Sống sót trở về, đeo một bầu rượu quý
Sống sót trở về, vui một mình, tôi đi...
(Sống Sót Trở Về)
Cả cái thiên hạ sống sót trở về kia mừng húm
thấy mình còn sống. Nhưng tình cảm và hành động mỗi người một khác. Chữ dùng rất
đúng, rất hay cho mỗi giai cấp. Nhưng chữ bâng khuâng sau đây mới là tuyệt bút:
Sống sót trở về, anh thợ chài bâng khuâng.
Đọc tới chữ bâng khuâng ở đây thì tôi buông
sách. Quái lạ! Cái anh nghệ sĩ này lại sờ tới tim đen người dân lao động thợ
chài. Cái hay của người viết là dùng chữ độ lượng (sobre) và đúng (juste). Một
chữ của Nam Cao dùng tôi nhớ mãi, khi ông tả một anh Chí Phèo lưu manh say rượu
khi tỉnh dậy thấy lòng mơ hồ buồn. Cũng như Thạch Lam tả hương
vị cà cuống thoảng tí nghi ngờ lúc ăn bánh cuốn. Chữ dùng đúng
và độ lượng vô cùng.
Chữ bâng khuâng được dùng để
tả nỗi niềm anh thợ chài thiệt đúng. Chẳng những đúng về nội tâm mà đúng cả cử
chỉ. Anh thợ mỏ náo nức vì mai này anh biết anh sẽ đi cuốc than, gã mục đồng
cũng biết rõ rằng mình sẽ cầm cờ lau ngồi lưng trâu, nằm nghe sáo diều hay gió
reo qua vườn tre mà thao thức không ngủ được. Còn anh thợ chài, tuy biết mình sống
chắc rồi. Nhưng giang sơn mình ở đâu? Sông nước nào cũng là của anh được cả,
nhưng nó chẳng phải là của anh một tí nào cả. Và ngay cả khi bụng đã chắc rằng ở
ven bờ này ta sẽ tóm một mẻ to, nhưng cái chắc đó đâu có chắc như anh thợ mỏ và
gã mục đồng. Cho đến khi anh nâng chài lên đung đưa, rùn chân sắp vung chài mà
bụng vẫn còn bâng khuâng chưa chắc ở cái kết quả. Nỗi bâng khuâng chỉ biến đi
khi anh lôi chài lên và thấy tôm cá nặng đầy. Tôi có mạo muội thử ''nhúc
nhích'' chữ này nhưng quả thật không có chữ nào đúng và hay bằng chữ bâng
khuâng.
Chữ tả tơi:
Cánh hoa tả tơi, thần đồng gãy cánh tả tơi,
biển tả tơi, đất nước tả tơi...
nhưng còn cánh tay ngỡ ngàng tả tơi và hồn nước cũng tả
tơi, đất nước tả tơi.
Chữ già:
Mẹ già, ông thợ già, trăng già, lính
già... nhưng còn có:
Chim ngoan về đậu ngọn tre già (Bầy Chim Hồi Xứ)
Đời hoa chóng già vì thiếu mặn mà (Ngày Trở Về)
Mùa Hè ngày tháng chưa già (Hạ Hồng - Mới chóng già lại vẫn chưa già)
Có một vài tóc trắng thầm mơ, ước cho hoa nở
mãi không già (Hoa Xuân)
Cây lá già trong tuổi thơ Ngày Tháng Hạ)
Hôn má Xuân già (Tiếng Hát To)
Đã già thêm nửa hành trình yêu thương (Tình Thu)
Mây từ biển quý lên ngôi trời già (Chớp Bể Mưa Nguồn)
Đêm mơ về già (Cho Nhau)
Tình già bình yên (Bài Ca Trăng)
Tình già xác xơ và Như nét môi già (Đường Chiều Lá
Rụng -- tình vừa mới bình yên lại già nua và xác xơ ngay)
Đã già thêm nửa hành trình thương yêu (Tình Thu)
Nên mau tóc ngà, con tim sớm già (Hẹ Em Năm 2000)
Trăng già, đá già vẫn còn đương tơ (Trăng Già)
Sa mạc già (Rong Khúc)
Một chữ già rất bình dân và rất phổ
thông nằm trong tay Phạm Duy bỗng chốc trở nên sang trọng và biến hóa vô cùng.
Những chữ nhỏ như thế, càng đọc càng thấy, thấy không hết, nhưng tôi cố gắng, tôi
còn yêu, tôi cứ yêu, nhặt ra càng nhiều càng hay.
Còn mấy chữ nữa cũng thích thú không kém, như
chữ gầy:
Ấm lòng thay, những lúa gầy đứng giữa trời
mây (Những Bàn Chân)
Dĩ vãng gầy (Đường Chiều Lá Rụng)
Đường thơm bóng gầy (Đường Em Đi)
Giờ đây bão tố trên vai hao gầy (Giờ Thì Em Yêu)
Này em con chim gầy (Bình Ca Một)
Trên đất gầy, trên vũng lầy bùn nhơ (Dạ Hành)
Mẹ Việt Nam gầy ốm (Đi Vào Quê Hương)
Gánh cải lương gầy (Tiếng Hát To).
Và hai chữ héo khô:
Thường thường chữ héo và khô đi dính
nhau như một:
hoa héo, lá vàng khô, hay hoa lá héo khô cũng được, nhưng
ở đây còn có:
Những lệ buồn cánh khô (Đường Chiều Lá Rụng)
Trong cơn mưa hè, tay nào khô héo bắt anh về (Một Bàn Tay)
Nhựa hòa bình loang nhành khô héo xuống (Một Con Chim Nhỏ Trên Cành Yêu Thương)
Ruộng khô có những ông già rách vai (Quê Nghèo)
Chiều khô nước mắt rưng sầu (Về Miền Trung)
Giờ thì đôi môi đã khô nụ cười (Giờ Thì Em Yêu)
Mảnh tim khô (Kỷ Niệm)
Dấu chân khô lạnh (Dấu Chân Trên Tuyết).
Trong nhạc Phạm Duy có cả cõi trần khô
héo, có cánh bướm khô, đám rơm khô, xác thây khô và
có thêm con cặc khô (Tục Ca số 10) nữa! Những chữ trên đây đã
hay, nhưng sau đây, chữ này mới đặc biệt hay:
Tôi sẽ hát cho vơi thống khổ, cho vơi dòng
lệ nhòa
Một miền quê, một miền quê tim héo và khô.
(Tiếng Hát To)
Hai chữ đứng rời ra nhưng chúng vẫn tựa vào
nhau như hai cây sinh đôi nâng nhau và hòa làm một, tuy một mà hai. Dù hai vẫn
một. Nhưng khi hát thì người nghe, nếu chỉ một chữ héo lẻ loi
thôi thì không đập mạnh bằng có tiếng khô đi ngay sau đó. Hãy nghe
câu hát một miền quê tim héo và khô thì mới thấy công dụng của
sự cắt chữ làm hai này rõ hơn. Như chính Phạm Duy đã làm ở một câu khác: Tôi
xa quê hương khi dân no và ấm (trong bài Có Phải Tôi Là Người
Quê Hương Ruồng Bỏ Giống Nòi Khinh)
Ấm
no khi đi chung thì chỉ
cho một khái niệm về sự hạnh phúc, còn khi cắt nó ra thì mỗi chữ cho hình tượng
cụ thể hơn, mạnh hơn. Ấm:
chăn, áo, No:
cơm gạo. Nhất là khi hát ''ấm và no'' thì ấn tượng rất mạnh. Cũng như Nguyễn
Tuân đã phán một câu cho nền văn học miền Bắc để đời, mấy mươi năm qua cố gỡ ra
mà vẫn còn bị đeo dính. Nguyễn nói: ''Văn học là cái báo, cái chí của ta vừa nhạt
lại vừa nhẽo''. Chữ nghĩa của ông thật hay. Ta thường nói nhạt nhẽo,
nhưng nếu cắt nó ra thì nhạt có nghĩa của nhạt mà nhẽo lại
có nghĩa của nhẽo. Nhạt như nước ốc và nhẽo như con chi chi...
Đề cập tới vài ba chữ nhỏ như thế để thấy cái lớn của nhà ngôn ngữ Phạm Duy.
Chữ gầy, một chữ cũng rất kỳ thú:
Ông già rách vai, cuốc đất bên đàn trẻ gầy (Quê Nghèo)
Suối tóc bát ngát cuốn quanh vai gầy (Trên Đồi Xuân)
Mùa đông manh chiếu rách thân gầy (Bà Mẹ Quê)
Ôi quê hương xứ dân gầy, ôi bông lúa (Về Miền Trung)
Khi xưa em gầy gò và chỉ cần một trận mưa là vai gầy thêm nữa (Chỉ
Chừng Đó Thôi)
Tôi còn nhớ mãi thân hình gầy yếu (Tôi Còn Yêu Tôi Cứ Yêu)
Trở lên, tiếng gầy được dùng
để tả chân, còn sau đây, tiếng gầy được thi vị hóa và hài hòa trong một khung cảnh
đẹp vừa hiện thực vừa siêu thực: Gánh cải lương gầy (Tiếng Hát
To)
Đường thơm bóng gầy nhạc run lá bay (Đường Em Đi)
Và còn một nét gầy khác nữa
kinh khủng hơn nhiều:
Lá vàng bay! Lá vàng bay! Như dĩ vãng gầy,
tóc buông dài, bước ra khỏi tình phai (Đường Chiều Lá Rụng)
Xin bạn hãy đọc và tìm thêm những chữ nhỏ của
Phạm Duy. Còn tôi, tôi thì muốn nói một câu này: Những chữ bình thường qua tay
Phạm Duy đã trở thành phi thường, cũng như những cô nàng làm mẫu vô danh nhờ cặp
mắt của đạo diễn mà phút chốc trở thành minh tinh rực rỡ. Và nhà đạo diễn trở
thành siêu phàm là vì đó.
Còn nữa. Chữ này cũng biến hóa rất dài. Chữ mềm. Tôi chỉ
xin nhặt ra để các bạn thưởng thức:
Mẹ mong chồng cũng như là ruộng nông sâu,
ruộng cứng hay mềm (Mẹ Đón Cha
Về)
Hãy vứt chiếc dép đi trên cỏ mềm (Cỏ Hồng)
Đồng chua rộng nới nới...thành ra ruộng mềm (trong Mẹ Việt Nam)
Mang nặng hồn mềm, em trở mình trên nhân
duyên (Nếu Môt Mai Em Sẽ Qua Đời)
Mưa cho lửa tình thêm chút yếu mềm (Mưa Rơi)
Thảm cỏ mềm cho giọt sương lay lắt, sông
dài nằm chờ kết bạn trăm năm (Một
Con Chim Nhỏ Trên Cành Yêu Thương)
Dưới bước chân anh ướt mềm ngọn cỏ (Bé, Cây Đàn, Ngôi Nhà Xanh, Đồi Cỏ)
Đã vuốt ve em trong Hạ mềm (Người Tình Già Trên Đồi Non)
Những chữ mềm này có thể làm nên một phần
của chương hội họa với mục đích nói lên cái tài tả chất (matière) mềm của họa
sĩ, nhưng tôi cho vào đoạn này cũng ổn lắm. Tiếp sau đây bạn sẽ thấy chất mềm trong
nhiều trường hợp bất ngờ:
Tưởng mơn man làn tóc rối mềm (Cỏ Hồng)
Vài hạt mưa sa hôn mềm trên má và Uống ly chanh đường, uống môi em ngọt (Trả
Lại Em Yêu)... tuy không có chữ mềm, nhưng đọc câu này, ta nhớ câu thơ mềm
môi chén mãi tít cung thang.
Lớp sóng mơn man thịt mềm da ngát
hương (Nha Trang Ngày Về)
Lá vàng êm, lá vàng êm, như mũi kim mềm sẽ
khâu cửa tình duyên (Đường Chiều
Lá Rụng)
Gối chăn đã lạnh mềm, lạnh mềm, người về
trong cõi duyên = một là
adjectif, một là adverbe (Bài Ca Trăng)
Lồn non, hay lớn con, mập mạp, lồn mềm (Tục Ca số 7)
Đến đây có lẽ cũng đủ để chứng minh cho cái
tài tình trong cách dùng chữ của Phạm Duy, mà trong buổi phát thanh của Đài
Sài Gòn về nhạc Phạm Duy, ba nhà văn Nguyễn Quang Hiện, Nguyễn Đình Toàn và Phan
Lạc Phúc đã ví chữ nghĩa của Phạm Duy với hòn đảo kim cương của Paul Valéry.
Đường chiều lá rụng
Phạm Duy - Thái Thanh
28 tháng 2, 1994
Xuân Vũ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét