Chủ Nhật, 26 tháng 9, 2021

Nắng muộn thu vàng 1

Nắng muộn thu vàng 1

Mái hiên

Lão Trưng ngồi dựa lưng vào tường, hai chân duỗi thẳng, cái túi quần áo của lão để ngang bên cạnh sườn, tài sản duy nhất của lão bây giờ. Phải giữ thật cẩn thận! mất nó là phiền cho lão lắm, toàn những thứ cần dùng cho cuộc sống hằng ngày: Một cái áo mưa của lính chế độ cũ làm bằng thứ ny lông dày và bền, đêm dùng để làm chiếu làm chăn, lão còn một cái mùng nữa, mặc dầu đã cũ vẫn còn có thể dùng được trong những đêm nhiều muỗi. Ngoài ra còn bộ quần áo và bát đũa. Kể ra cuộc sống đầu đường xó chợ có được những thứ đó cũng là quý lắm. Vì thế, đi đâu lão cũng kè kè mang theo người, lão sợ nhất là lũ tiểu quỷ thường đi theo chọc ghẹo lão. Nếu lão sơ ý là chúng cuỗm ngay cái túi hành trang của lão. Biết vậy nên mỗi lần muốn nằm nghỉ một lúc, lão lấy cái túi gối lên đầu, cẩn thận hơn, lão quàng một sợi dây quanh cổ. Có điều phiền là nếu dùng làm gối cái túi hành trang lại quá cao khiến cho nhiều khi ngồi dậy lão thấy nhức đầu, cổ và bả vai mỏi nhừ, nhưng biết làm sao được, muốn cẩn thận thì phải chịu như vậy!
Ngồi một lúc lão cảm thấy buồn ngủ, nhưng cứ ngủ hoài thì không được, rồi lấy gì mà ăn! nên lão phải dậy, đến mấy quán ăn đứng chầu rìa, khi thấy có khách sang lão chìa tay xin tiền, hoặc xin ăn những đồ thừa trên đĩa, trên tô...
Lúc đầu khi mới bước vào nghề hành khất lão thấy ngượng ngùng, hổ thẹn. Nhiều khi lão nhịn đói cả ngày, nhưng rồi sức chịu đựng của lão cũng chỉ có giới hạn, đói quá lão phải chìa tay ra xin, lâu dần cũng quen đi, lão chỉ còn cảm thấy tủi thân mỗi khi bị xua đuổi, hất hủi.
Lão không bao giờ ngờ cuộc đời của lão lại xuống dốc thê thảm như vậy. Trước đây lão cũng có nhà cửa vợ con, lão không giàu nhưng lão cũng chẳng nghèo. Cuộc chiến tranh vừa rồi làm lão mất hết, nhà cửa của lão khi trở về không còn tìm được cái nền nhà nữa, nói chi đến đồ đạc! Cả thành phố Quảng Trị, quê lão, thành ra bình địa, vợ con lão chết sạch trên đường chạy về Huế, nơi mà người ta gọi là Đại Lộ Kinh Hoàng.
Lão lang bạt từ Quảng Trị về đến Sài Gòn, nơi lão không có người thân thuộc, nên lão đành phải sống trên vỉa hè, lão cũng muốn làm một cái gì đó để nuôi lấy tấm thân, nhưng rồi mỗi tuổi mỗi già nên đành sống nhờ vào lòng từ thiện của những người khác.
Những lúc trời mưa gió, lão ngồi sớ rớ ở một góc hiên, nghĩ đến vợ con, lão không cầm được nước mắt.
Vợ lão trước đây cũng có nhan sắc, lão quen vợ lão từ khi còn nhỏ, cả hai cùng ở một khu phố, lão còn nhớ hình ảnh của vợ lão khi còn con gái, mụ thường mặc quần lĩnh đen, áo trắng, có khi mặc áo màu xanh hay hồng. Sau này ăn ở với mụ mấy chục năm, mụ đẻ cho lão năm đứa con, đứa nào cũng kháu khỉnh. Lão nhớ nhất là con Hường, đứa con gái thứ hai của lão, có lẽ nó là đứa con thương lão nhất, sáng nào nó cũng dậy đun cho lão một ấm nước trà, lão ngồi nhâm nhi một mình, chỉ thỉnh thoảng mụ vợ mới dậy sớm ngồi uống với lão, lão nhớ câu mà mụ hay nói khi uống được tách trà ngon:
- Trà chi mà ngon rứa!
Tội nghiệp mụ, mỗi khi có chút đỉnh tiền là thế nào cũng kiếm cho được trà ngon để mua cho lão!
Lão nhớ lại, lần đầu lão gặp mụ, năm đó mụ khỏang mười tám tuổi, tóc mụ để dài gần đến thắt lưng và đen mướt, càng làm tăng nước da trắng ngần. Thấy mụ xinh đẹp lại chăm chỉ làm ăn nên lão để ý, lão đón mụ ở khúc quẹo của con hẻm khi mụ đi qua:
- O, đứng lại cho tôi nói một chút.
Đang gánh, mụ đứng khựng lại, đôi thúng chao chao, lão nói thêm:
- Tôi có câu chuyện muốn nói với em, tối nay em ra cổng chùa cho tôi gặp một chút được không?
Nghe lão nói, má mụ ửng hồng, ấp úng:
- Lỡ có ai thấy thì chết!
Nói vậy rồi mụ đi, gọi gì cũng không đứng lại nữa làm lão băn khoăn cả ngày, không biết mụ có nhận lời hay từ chối. Tuy vậy, trời bắt đầu sụp tối là lão ra trước cổng chùa đứng đợi. Lão phải chờ đến lúc trời tối mịt mụ mới ra, mới nói được dăm ba câu là mụ đòi về, năn nỉ sao cũng không chịu ở lại, khi lão giơ tay nắm tay mụ, lão thấy mụ run lên, chắc là đôi má của mụ lúc đó phải đỏ lắm nhưng vì trời tối nên lão không thấy gì. Đêm đó, khi trở về lão trằn trọc mãi, lúc nào lão cũng như nhìn thấy mụ đang cười với lão. Sau này khi đã lấy nhau, thỉnh thoảng lão vẫn nhắc lại lần gặp đầu tiên ấy:
- Mụ là ác lắm, làm tôi chờ chết luôn, tôi giả vờ đứng câu nhưng cứ ngong ngóng nhìn ra ngã ba, thấy bóng người nào đi tới cũng chạy ra coi, có lần hỏi lộn một bà già Bắc Kỳ: "O Liên đấy hả?" Bà cụ nói: "Không có o iệc gì cả, chỗ tôn nghiêm mà các anh chị hẹn hò nhau, việc này tôi phải nói cho hoà thượng biết mới được".
Lão ở với mụ cả mấy chục năm, có biết bao nhiêu là kỷ niệm, ấy vậy mà bây giờ mỗi khi nhớ đến, hình ảnh cuộc gặp gỡ lần đầu lại hiện ra, rõ rệt như câu chuyện mới xẩy ra ngày hôm qua. Lão có cảm tưởng mình còn rất trẻ, nhưng khi nhìn thấy tấm thân tàn ma dại của mình, lão mới nhận ra cái thực tại đau xót mà lão đang phải chịu.
Bây giờ lão chỉ còn sống với dĩ vãng thôi, nên ngồi đâu lão cũng nhắm mắt lại để nghĩ đến cuộc đời cũ, khi không nhìn thấy cảnh vật ở chung quanh, nhất là không nhìn thấy chính mình, lão tưởng tượng dễ dàng hơn.
Thấy lão ngồi đâu cũng nhắm mắt, mấy mụ bán hàng nói với nhau:
- Ông già này ngồi đâu ngủ đấy.
Mấy mụ nói gì lão cũng nghe hết, nhưng thôi, thây kệ! miễn là thỉnh thoảng mấy mụ cho lão một cái bánh là được, nhất là những lúc mấy mụ ế hàng. Thành thử, lão thường mong mấy mụ bán ế. Tội nghiệp! Người ta tốt với mình mà mình phải mong điều xấu xẩy ra cho họ, nhiều khi lão hổ thẹn với chính mình.
Chiều nào cũng vậy, khi thành phố bắt đầu lên đèn, lão mới đi kiếm ăn bữa tối trước khi đi ngủ.
Thật ra một ngày lão ăn không biết bao nhiêu lần, khi nào có thì ăn. Nhưng dù ăn đã bao nhiêu lần trong ngày, trước khi đi ngủ lão cũng phải kiếm thứ gì cho vào bụng, nếu không có cái lần ăn ấy lão trằn trọc mãi không sao ngủ được..
Nơi lão thường kiếm ăn là những quán nhậu, ở những nơi này người ta ăn uống thừa mứa lại toàn thứ ngon. Hơn nữa, dân nhậu là những tay hào sảng, đôi khi còn cho lão ly bia hay rượu đế. Lão không phải là người nghiện rượu, nhưng kể từ ngày lão phải đi ăn xin, lão thấy bia uống vừa ngon lại đỡ khát nước. Và lão thích hơn hết là khi uống say dễ quên những thứ làm lão bứt rứt trong lòng cùng những tiếc nuối khó nguôi ngoai. Nhưng kiếm ăn ở những quán nhậu cũng không phải dễ dàng gì, thường chủ nhân của những quán ấy ngăn cản không cho hành khất vào quán sợ phiền đến khách hàng. Lão phải đứng ở bên ngoài chờ dịp thuận tiện là nhào vào kiếm ăn, và khi đã kiếm được chút đỉnh lão ra ngay, tiếp tục đứng ở cửa nhìn vào chờ dịp thuận tiện khác. Nhiều thằng chủ ác ôn còn đuổi hành khất không cho đứng ở cửa, những trường hợp ấy thì chỉ có nước đi tìm một chỗ khác với nỗi tấm tức, bực dọc trong lòng.
Thành phố Sài Gòn tuy lớn, nhưng chỗ kiếm ăn được không có là bao nhiêu, lại mật ít ruồi nhiều, nên lão phải lang thang từ khu này sang khu khác, có khi phải sang tận Chợ Lớn nữa! - đấy tiệm ăn cũng nhiều, nhưng khi ăn xong muốn kiếm một vỉa hè có mái hiên rộng để ngủ khó khăn hơn ở Sài Gòn nhưng lại ít khi bị hốt hơn, lão đã bị hốt lên kinh tế mới một lần nên lão sợ.
Đêm hôm đó, lão đang ngủ ngon thì bọn công an đến, chúng tống lão lên chiếc xe vận tải cỡ lớn rồi chạy lên tận Tây Ninh. Lúc đầu lão không hiểu tại sao lão bị bắt sau mới vỡ lẽ. Chẳng là tụi nó muốn làm đẹp thành phố để chuẩn bị đón phái đoàn các nước anh em đến tham quan, nên phải hốt hết những người sống đầu đường xó chợ. Để tránh tình trạng họ sẽ trở về sống bên lề đường chúng đưa tuốt lên vùng kinh tế mới. Lúc đầu mới nghe lão mừng thầm, lên khu kinh tế mới lão sẽ cố gắng làm, tay làm hàm nhai, dù sao cũng hơn cái nghề khốn nạn mà lão đang đeo đuổi, nhưng khi đến nơi thì hỗi ơi, kinh tế mới chỉ là mấy cái chòi lụp sụp, rách nát mà những người đến trước họ đã bỏ về. Nhìn chung quanh, ngút ngàn toàn là cỏ tranh cao quá đầu người, lại chỉ trồng được mấy thứ vớ vẩn như khoai sắn, mà lại chỉ trồng được một mùa, hết mùa mưa là hết, đến nước uống cũng hiếm hoi.
Mới nhìn quang cảnh lão hết hồn, lão không thể nào sống được ở đây. Không phải lão lười cuốc đất, nhưng làm thế nào mà sống được nếu quanh năm chỉ có mấy củ khoai, củ sắn!
Ấy vậy là lão lại lững thững cuốc bộ về Tây Ninh, vì lão nghĩ ở đâu có người là lão có thể sống được, lúc đầu lão đóng "đô" ở chợ Tây Ninh, gần cây cầu sắt và toà tỉnh trưởng cũ, nhưng rồi lão khám phá ra cái kỳ cục của tỉnh lỵ này. Chỗ mà ngày xưa là tỉnh lỵ chỉ có một hai dãy phố đìu hiu, hàng quán thưa thớt, muốn kiếm chỗ ngủ ban đêm cũng còn khó khăn huống hồ là kiếm ăn cho đầy cái bụng lão. Lão phải đi bộ xuống Long Hoa, cách đó mấy cây số mới có chợ, bến xe và nhiều quán nhậu. Mặc dầu nơi này sầm uất hơn, nhưng không phải là đất hứa của lão. Lão bắt đầu dành dụm tiền nong, khi nào đủ tiền mua một cái vé xe là lão về Sài Gòn. Chỉ cần tiền mua một cái vé xe thôi mà lão phải xin cả tháng mới đủ, ấy là lão cũng đã năn nỉ anh lơ xe bớt cho chút đỉnh.
Khi về đến Sài Gòn rồi, một thời gian khá lâu lão chỉ dám hành nghề quanh quất ở những quận xa trung tâm thành phố. Mãi sau này sau khi đã học được kinh nghiệm "chống càn" lão mới dám về lại trung tâm thành phố. Kinh nghiệm của lão là mỗi khi nghe đồn có phái đoàn này, phái đoàn nọ đến thăm thành phố là lão phải rút đi cho lẹ, khi nào phái đoàn tham quan đi khỏi, lão lại nhởn nhơ trở về. Lúc ấy lão nằm ngủ ở đâu cũng không ai thèm hỏi han tới nữa, hành khất chứ có phải phản động đâu mà bắt. Hơn nữa bắt hành khất chẳng những không được sơ múi gì, còn phiền hà đủ thứ.
Bây giờ lão kinh nghiệm đầy mình, công an rục rịch làm gì lão cũng biết. Cuộc sống lề đường giúp lão sáng mắt, lão nhìn thấy cả những hẻm hóc sâu kín nhất của xã hội này. Lão ngạc nhiên, bao nhiêu năm lão đã sống một đời sống bình thường lão hầu như học được rất ít, nhưng từ khi cùng đường, khốn quẫn, phải ăn xin, lão lại học được rất nhiều. Bây giờ lão mới thấy các cụ ngày xưa nói "đi một ngày đàng học một sàng khôn" là đúng, vì chẳng có nghề nào đi nhiều bằng nghề này. Nhưng cái biết của lão là cái biết để chơi cho riêng lão, lão không thể nói cho ai biết được và cũng không dùng được vào việc kiếm ăn! Càng tỏ ra tài giỏi bao nhiêu càng dễ bị ghét mặt, ấy thế là đói! Làm hành khất mà đói là thất bại lớn nhất rồi!
° ° °
Lão Trưng đi lang thang trên đường Cách Mạng Tháng 8, hôm nay lão phải về khu vực này để chống càn, vì lão nghe nói có phái đoàn nước ngoài đến tham quan thành phố vào ngày
mai. Hơn nữa, đây cũng là khu vực lão có thể làm ăn được. Dọc đường từ ngã ba Ông Tạ đến bà Quẹo có bao nhiêu quán nhậu lão biết hết, đã điều nghiên kỹ trước khi trở về rồi mà!
Lão đặt cái túi xuống nền xi- măng, trước căn nhà lầu ba tầng, cử đóng im lìm. Hai đêm nay lão ngủ trước căn nhà này mà chưa bao giờ thấy chủ nhân ra mở cửa, dù chỉ là mở hé.
Lão nghe nói, chủ nhân là một đôi vợ chồng già, có bốn đứa con, cho ba đứa đi vượt biên một lần, chết sạch! Từ đó ông bà cụ không còn dám nghĩ đến việc cho đứa con thứ tư đi, đêm ngày đau khổ vì thương nhớ con nhưng không dám hé môi than thở, cả ngày ông bà cụ sống quanh quẩn với đứa con út ở trong nhà, đó là biểu tượng bi thảm nhất của khu vực này về vượt biên. Nếu ông bà cụ chủ nhà biết được, ngoài hiên này, hằng đêm, có lão hành khất ngủ nhờ dưới mái hiên nhà cụ đang ôm một mối bi thảm lớn lao, lớn hơn nhiều so với nỗi buồn của cụ, chắc cụ cũng được an ủi phần nào.
Vì chủ nhân căn nhà không bao giờ mở cửa, nên lão được tự do chiếm ngụ cả ngày lẫn đêm, khi nào đói bụng, lão tìm đến mấy quán nhậu quanh đấy kiếm ăn xong lại về ngồi nhìn thiên hạ qua lại trên đường.
Nhưng rồi, đất lành chim đậu, mái hiên mọi khi lão chiếm ngụ chỉ có một mình, hôm nay lại có thêm một mụ hành khất nữa cũng đến tá túc ở đây. Từ khi mụ đến, mụ nằm liệt một chỗ không thèm xin xỏ, ăn uống chi cả! Chắc là mụ đau ốm gì đây, thỉnh thoảng lão vẫn liếc sang chỗ mụ nằm, nhưng rồi thấy mụ nằm lâu qúa không ngóc đầu lên, làm lão sợ mụ có thể chết, lão lò dò bước lại, tay cầm củ khoai lang lão mới xin được:
- Có ăn khoai lang không? Bộ bệnh hả?
Mụ hé mắt ra nhìn rồi khép lại ngay:
- Khát nước quá, có nước uống cho xin một hớp!
Lão lần trong túi, lấy ra cái bi đông bằng nhựa, rót cho mụ một chút vào nắp bi đông, mụ run tay đón lấy, nhưng mới đưa được lên gần miệng bao nhiêu nước đã đổ ra hết, nên lão đành phải cầm nắp bi đông ghé vào miệng mụ, giúp mụ uống. Đến khi đó lão mới nhìn rõ khuôn mặt mụ. Mụ cũng không phải là xấu, lão thấy răng mụ đều đặn khi mụ hé miệng, làn da lại mịn màng, mặc dầu hơi đen đủi vì sương gió.
Sống lang thang đầu đường xó chợ mà còn được như mụ chắc khi trước mụ phải đẹp, bất giác lão nghĩ đến vợ lão, lão như nghe được tiếng cười của mụ vợ còn văng vẳng bên tai, và hình dung được đôi mắt, đôi mắt lúc nào hình như cũng ánh lên niềm vui khi nhìn lão. Ấy vậy mà mụ đã chết mười mấy năm rồi, chết mất xác, không để lại gì cho lão, kể cả một nấm đất để lão đến viếng mỗi khi lão nhớ.
Bên cạnh lão, mụ hành khất như tỉnh hơn, hé mắt nhìn lão, lão quay lại:
- Có cần gì không?
- Có thuốc gì uống không?
Lão lắc đầu, ăn còn không có làm gì có thuốc vào lúc này! Cũng may là lão ít khi nào đau ốm, thỉnh thoảng cảm xoàng, lão lại lấy nhánh tỏi cho vào miệng nhai, ấy vậy mà cũng qua được. Lão lục lọi trong túi tìm nhánh tỏi lão còn để dành, chìa ra cho mụ:
- Ráng nhai cho kỹ, rồi nuốt, may ra...
Mụ run run đưa tay đón lấy, cho vào miệng, suýt nữa nhánh tỏi rớt ra ngoài.
Khi mụ đã ngủ yên, lão Trưng xách túi ra đi, lão tìm đến mấy quán cháo lòng, cố vét một ít trên mấy cái tô người ta bỏ sót lại, đổ vào lon "Gugior" lão mang theo, định tâm sẽ mang về cho mụ hành khất bạn lão, thôi thì lá rách đùm lá rách vậy, biết làm thế nào bây giờ...
Khi trời tối lão mới trở về, mụ vẫn nằm đấy, mắt nhắm nghiền, lão đến bên mà mụ cũng chẳng biết. Lão hỏi trỗng:
- Ngủ hay thức đấy?
Mụ hé đôi mắt yếu đuối:
- Mệt quá!
Lão mở cái lon cháo trước mặt mụ:
- Có cháo, ráng ăn một chút cho khoẻ.
Mụ cố gượng cười, nhưng nụ cười héo ngay khi mụ định ngồi dậy mà không nổi. Lão Trưng hơi lưỡng lự, cuối cùng lão đỡ lưng mụ, để mụ ngồi dựa lưng vào tường:
- Phải ăn mới sống được, bệnh mà đói nữa là chết, không có gì cứu nổi!
Mụ cầm lấy cái lon úp lên miệng, lão nghe được cả tiếng mụ nuốt cháo. Thấy mụ nuốt được lão cũng mừng:
- Thôi nằm nghỉ đi, sáng mai sẽ khoẻ.
Từ ngày gặp mụ hành khất ốm đau lão đâm vất vả hơn, ngoài việc xin ăn cho mình, lão còn phải để dành một ít cho mụ mà không phải là thứ bậy bạ được. Thỉnh thoảng lão lại trở về coi chừng mụ, lão mừng mỗi khi thấy mụ ngày một khá hơn.
Đêm nay, khi lão về thì đã thấy mụ đang ngồi ở một góc hiên, mắt nhìn ra ngoài đường, lão đi gần đến nơi mụ mới nhận ra, nụ cười nở trên môi mụ tươi hơn mọi ngày.
- Khỏi chưa?
- Đỡ rồi, ngày mai có thể đi quanh quanh đây kiếm ăn được. Cảm ơn ông đã giúp tôi những lúc bệnh hoạn.
Lão cũng cười, nụ cười rộng miệng của lão còn tươi hơn của mụ:
- Ơn nghĩa gì, mình phải giúp đỡ nhau những khi bệnh hoạn. Tôi xin được ít cháo và có cả củ khoai lang nữa, ráng ăn, thứ này tốt chứ không độc như khoai mì.
Mụ hành khất đưa tay đón lấy, mụ nói giọng cảm động:
- Ơn này tôi biết lấy gì đền đáp...
Đêm đã về khuya, khu phố tấp nập đã hoàn toàn yên tĩnh, mấy ngọn đèn tỏa thứ ánh sáng đỏ quạch xuống mặt đường nhựa. Thỉnh thoảng lại có những chuyến xe bò, xe ngựa chở đầy hàng hoá đi về hướng Sài Gòn. Tiếng lọc cọc của xe, lão nghe được từ đằng xa, càng ngày càng rõ, và sau đó, mỗi lúc một yếu dần, rồi mất hẳn. Cái tiếng động quen thuộc ấy kéo dài từ nửa đêm cho đến sáng. Lão Trưng và mụ nằm gối đầu lên trên cái bậc xi măng trước cửa, hai người nằm song song nhưng cách nhau một khoảng, lão nghe được tiếng mụ thở đều và tiếng trở mình của mụ.
Từ ngày gặp mụ, lão chưa hỏi mụ về gia cảnh vì chẳng có thì giờ nào, nhưng lão đoán cũng vì chiến tranh vậy thôi, vì cứ trông người mụ, lão cũng biết mụ sinh ra không phải để làm nghề này.
Lan man nghĩ đến người bạn đồng cảnh ngộ nằm bên, lão trằn trọc mãi không ngủ được. Nhìn mụ nằm không chăn mùng, lão hơi ân hận. Đáng lẽ lão phải nhường cho mụ cái mùng của lão nhưng lão đã không làm thế, lão đã nghĩ đến điều ấy rồi, nhưng lại cho rằng làm như vậy là lụy vì "gái", nên lão lại thôi. Bây giờ nhìn mụ nằm lăn lóc trên nền xi măng giữa lúc đau ốm, lão mới nhận ra sự tàn nhẫn của mình.
Mới hừng sáng lão đã trở dậy, con đường trước mặt lão càng ngày càng sáng rõ. Phương đông bầu trời mỗi lúc một hồng hơn, và ánh sáng yếu ớt đã trải những tia nắng đầu tiên xuống mặt đường nhựa. Đường phố bắt đầu có người qua lại, nhưng toàn những người buôn gánh bán bưng, hay đi nhặt những mảnh giấy vụn và túi ny lông rách nát. Lão liếc nhìn sang góc bên kia, mụ hành khất đã trở dậy, ngồi dựa lưng vào tường, nhìn ra đường như lão. Lão mon men lại gần:
- Đỡ rồi phải không?
Mụ gật đầu, cố nở một nụ cười nhưng không nói.
Lão vẫn hỏi trỗng:
- Tên gì nhỉ?
Mụ hơi lững lự, nhưng rồi trả lời gọn lỏn:
- Bích.
Mụ lưỡng lự vì lúc đầu mụ không biết phải trả lời như thế nào. Trong đời mụ, mụ đã mang quá nhiều tên, tên mụ, tên chồng mụ, tên chức vụ mà khi trước chồng mụ làm việc, và cả tên đứa con đầu lòng của mụ nữa. Tất cả những tên của chồng và con đến bây giờ mụ không còn dùng được nữa vì đã không còn, không còn gì cả, và mụ phải dùng lại cái tên trong thời kỳ con gái của mụ.
Mụ cảm thấy tủi thân khi phải dùng tên tục của mình, nên sau khi trả lời xong mụ nín thinh nhìn ra ngoài đường, hai hàng nước mắt ứa ra, lúc đầu mụ còn cố giấu, nhưng rồi không còn kiềm chế được nữa mụ đành để cho nước mắt chảy dài trên má.
Lão ngạc nhiên:
- Tại sao lại khóc?
- Tôi không ngờ đời tôi lại có ngày như thế này!
Lão an ủi:
- Nào tôi có khác chi, trước đây tôi cũng có nhà cửa vợ con mà nay cũng chẳng có gì, hơi đâu mà nghĩ ngợi vớ vẩn, đau ốm là chỉ thiệt thân mình, nhất là những lúc như lúc này. Trời sinh voi trời sinh cỏ, đừng lo!
Lão biết mụ đang nghĩ đến chồng con mụ, cũng như lão đã từng khóc mỗi khi nhớ đến vợ con mình, nên lão không dám hỏi nữa, cả hai đều ngồi yên nhìn ra ngoài đường.
Lão rất muốn xách túi đi kiếm ăn sớm hơn mọi ngày, để tránh khỏi nhìn những giọt nước mắt của mụ, vì đó cũng chính là những giọt nước mắt của lão! Nhưng nghề ăn mày không thể kiếm ăn vào lúc sáng sớm được, phải để mọi người kiếm ăn được đã, hay ít nhất cũng no bụng đã, mới đến phiên những người xấu số như lão, hưởng những cái dư thừa của họ.
Lão quay sang mụ Bích, bây giờ đã hết khóc, đang vuốt lại mái tóc rối bằng cái lược chỉ còn một nửa, lão nói hơi ngập ngừng:
- Nếu còn yếu thì cứ nằm nghỉ, tôi sẽ đi xin giùm, trưa và tối tôi sẽ về đây đưa cho...mụ ăn.
Từ hôm gặp mụ Bích, lão chỉ nói trỗng nên hôm nay lão lúng túng không biết phải xưng hô thế nào. Lão hay dùng tiếng "mụ" như khi còn ở quê lão, cái lối xưng hô rất đặc biệt mà ở đây người ta không dùng, đôi khi lão còn bị cự vì cách xưng hô này, nhưng lão đã quen miệng mất rồi.
Mụ Bích chỉ khẽ gật đầu khi đáp lại câu nói của lão, hình như mụ muốn nói với lão điều gì nhưng rồi vì mệt mỏi nên mụ không nói được, nhìn ánh mắt tha thiết của mụ, lão biết mụ đang cảm động.
Riêng lão, lão cũng muốn nói với mụ những rung động trong tâm hồn lão. Kể từ ngày vợ lão qua đời, cuộc sống vất vả nay đây mai đó, đầu đường xó chợ, đã làm cho lão chỉ còn thì giờ nghĩ đến miếng ăn hằng ngày, thỉnh thoảng lão mới thấy lòng mình rung động khi nhìn thấy đàn bà, con gái. Nhưng nhìn lại thân phận mình, lão hiểu đã có những ý nghĩ rồ dại, điên cuồng, và rồi muốn hay không, lão vẫn phải quên đi để tiếp tục sống những ngày còn lại tối tăm và đau khổ.
Nhưng từ khi gặp mụ Bích, lão thấy mình trẻ lại, yêu đời hơn. Lão còn nhớ khi lão đỡ mụ ngồi dựa vào tường hôm nọ, khi tay lão chạm vào thân thể mụ, lão cũng có cảm giác ngây ngất, làm lão nhớ đến lần lão cầm tay mụ vợ trong đêm gặp gỡ đầu tiên.
Lão Trưng liếc nhìn sang góc hiên, lão bắt gặp mụ Bích đang nhìn mình, hai người cùng cười, có lẽ chỉ lão và mụ mới hiểu được nụ cười của nhau mà thôi.
Vừa lúc đó, một bà gánh cái nồi ghi ngút khói đi lại, lão đoán là hàng cháo lòng, nên lần trong túi móc ra mấy đồng bạc lão xin được ngày hôm qua. Lão lấy vội cái lon Gugior, đứng lên, đi về phía bà bán hàng:
- Bán cho 5 đồng cháo trắng.
Bà bán hàng nhìn lão nghi ngại, nhưng cuối cùng cũng đặt gánh hàng xuống.
Đã nhiều năm đi ăn mày, lão biết bà bán hàng nghi ngờ lão không có tiền, tìm cách lừa bà để lấy cháo, nên lão cầm tiền đưa ra trước mặt:
- Tiền đây.
Bà bán hàng sau khi cầm tiền mới múc cho lão gần một lon cháo:
- Tôi bán rẻ cho ông đấy.
Lão đón lấy lon cháo, rồi đi trở về phía mụ Bích:
- Ráng ăn lon cháo này, tôi đi tới tối sẽ về, tôi sẽ lo ăn cho mụ, mụ còn yếu đừng đi đâu.
Mụ Bích nói giọng cảm động:
- Tôi biết lấy gì đền đáp tấm lòng của ông đây...
Cả ngày hôm đó lão đi lang thang hết khu vực này sang khu vực khác, xin được thứ gì lão cũng để dành cho mụ một nửa, nhất là những thứ ngon.
Lão vẽ vời tương lai của lão, mặc dầu không tươi sáng, nhưng cũng là một niềm an ủi, hai người sẽ đỡ đần chăm sóc nhau những khi trái gió trở trời, và sưởi ấm lòng nhau những lúc cô đơn buồn tủi.
Khi lão thấy đã đủ đồ ăn cho lão và mụ, lão đi trở về mái hiên nơi có mụ Bích đang chờ đợi.
Lão có cảm tưởng con đường Cách Mạng Tháng 8 dài hun hút mà lão lại phải lần từng bước một, nhất là đoạn trước trại nhảy dù Nguyễn Trung Hiếu ngày xưa, đọan đường không có vỉa hè, lại gập gềnh vì những mô đất, bụi cỏ mọc nhô ra gần đường nhựa.
Lão đứng dựa lưng vào một gốc cây bên đường nhìn xuống khu Ông Tạ, khu phố tấp nập với những hàng quán và ánh đèn, nơi ấy cũng có ngôi nhà đóng kín cửa và mụ Bích đang ngồi đấy, đang mong chờ lão trở về. Lão liên tưởng đến một mái ấm gia đình xa xưa, mỗi khi lão đi đâu về trễ, mụ vợ lão ngồi tựa cửa nhìn ra ngoài, khi thấy lão xuất hiện ở đầu ngõ, mụ nói như reo:
- Ba mi đã về, dọn cơm cho ông ăn, Hường ơi!
Nghĩ đến nỗi vui của vợ lão khi xưa và của mụ Bích bây giờ, lão cố gắng bước đi để chóng nhìn thấy nét mặt rực rỡ và nụ cười của mụ Bích khi nhìn thấy lão.
Nhưng khi về đến mái hiên quen thuộc lão không thấy mụ Bích đâu cả, lão nhìn quanh quất để tìm, nhưng rồi thất vọng nhìn xuống cái bậc xi măng nơi mụ Bích đã ngồi và nằm mấy ngày hôm nay.
Chờ đợi mãi sốt ruột, lão đi loanh quanh để dò hỏi thì ai cũng trả lời: "Không biết!". Cuối cùng, có một bà bán bánh mì ở bên kia đường nói với lão:
- Khoảng 4 giờ chiều, bà ấy đang đi, tay cầm lon nước, bỗng ngã xuống lề đường bất tỉnh, lon nước trên tay đổ tung toé. Mọi người chung quanh biết là bà trúng gió, nên có người lấy dầu đánh gió cho bà, nhưng có lẽ bà đã quá yếu nên vẫn không tỉnh lại. Một số người động lòng trắc ẩn đã đưa bà đi nhà thương, nhưng không biết nhà thương nào, và sống chết ra sao.
Lão Trưng bỗng thấy xây xẩm mặt mày, lão ngồi thụp xuống vỉa hè ôm mặt. Lão khóc!
Tạm trú
Hiển ngồi dựa lưng vào tường, thở khò khè mệt nhọc, hắn nghiêng người với bình thuốc xịt đặt trên bàn, đưa bình thuốc vào cuống họng cố gắng xịt, nhưng bình thuốc đã gần hết hơi. Chán nản, hắn ném bình thuốc nằm lăn lóc cạnh chỗ ngồi, mắt mở lớn nhìn ra ngoài vườn qua khung cửa sổ nửa khép nửa mở.
Nắng bên ngoài rực rỡ trên những tàn cây xanh, lá cây lao xao trong gió. Đời đẹp, đẹp biết bao! nhưng hắn không có diễm phúc được hưởng cái vẻ đẹp thiên nhiên lộng lẫy ấy. Hắn có cảm tưởng đang phải nhìn một bàn đầy những thức ăn ngon nhưng hắn không được tham dự. Hắn biết hắn sẽ không chết vì bệnh này nhưng vẫn có cảm tưởng cuộc đời hắn sẽ không kéo dài như những người khác. Thọ làm sao được khi không thể thở nổi, như có gì vướng mắc ở cuống họng, đè nặng trên ngực, có cảm tưởng như một bàn tay vô hình đang chận ở cổ. Đã vậy, thuốc men lại không có, bình thuốc hắn thường xịt vào cổ họng mỗi lần lên cơn đã hết, mấy viên thuốc nhỏ xíu hắn thường tống vào vội vàng trong miệng mỗi khi có triệu chứng lên cơn cũng không còn, và hắn cứ phải tiếp tục như thế này cho đến khi vợ hắn đi chợ về, nhưng còn lâu lắm vợ hắn mới về! Bây giờ mới là mười giờ sáng, sớm lắm cũng phải năm giờ chiều nàng mới về, mà khi vợ hắn về chưa chắc gì đã có thuốc uống nếu không bán được hàng.
Nhưng rồi chẳng biết vì lý do gì cơn suyễn cũng thuyên giảm phần nào, nhưng Hiển cảm thấy mệt vô cùng, cái cảm giác rã rời bải hoải sau cơn suyễn làm hắn chán nản tột độ, nên ao ước được chết, được chết một cách bình an sau một giấc ngủ, và rồi hắn mê man lúc nào không biết.
Có lẽ hắn đã thiếp đi lâu lắm, vì khi tỉnh dậy nhìn qua khung cửa sổ Hiển biết là vợ hắn sắp về, vì ánh nắng chỉ còn chiếu những tia vàng úa trên đỉnh ngọn dừa. Đúng như Hiển dự đoán vợ hắn về thật, tiếng mở cửa và bước chân nhẹ nhàng của nàng cho hắn biết điều hắn nghĩ là đúng.
Nga, vợ hắn, bước vào phòng trong, qua chỗ Hiển nằm, đứng nhìn hắn, nàng hiểu chuyện gì đang xẩy ra:
- Lại suyễn!
Dạo này, căn bệnh quái ác, đeo đẳng hắn thường xuyên đến độ, vợ hắn chẳng phải là bác sĩ, mới nhìn qua là biết ngay, và có lẽ không gây cho nàng xúc động nào. Lên cơn, chỉ cần mấy viên thuốc là có thể khỏi được, cùng lắm thì phải dùng đến bình xịt, nhưng những thứ ấy bây giờ đắt đỏ, kiếm tiền ăn đã khó huống hồ là thuốc men.
Tuy nói "lại suyễn", Nga cũng lại gần bên giường dặt tay lên trán hắn. Bàn tay nàng thật mát, hắn thấy thương vợ vô cùng, nếu nàng lấy người khác nàng đã hưởng cuộc đời hạnh phúc. Lấy hắn, chỉ là lấy nợ đời! Nhưng làm thế nào bây giờ, hắn có muốn như vậy đâu, chẳng qua là duyên số thôi!
Hắn mở mắt nhìn vợ:
- Em mới về hả?
Nàng không trả lời, hỏi lại:
- Anh bị suyễn phải không?
Hiển gật đầu:
- Nếu có tiền em sang bên bà Thịnh mua cho anh mấy viên thuốc, chỗ quen biết chắc không đến nỗi là thuốc giả!
- Họ cũng mua đi bán lại, chắc gì họ biết giả hay thật!
Nga đi một lúc sau trở về đưa cho hắn mấy viên thuốc nhỏ li ti. Chỉ thiếu có chừng đó thôi mà cơn suyễn hành hạ hắn từ sáng đến giờ!
Sau khi uống thuốc, Hiển cố gắng trở dậy đi ra ngoài ngồi ở cái ghế kê sát tường, hắn muốn chứng tỏ với nàng, mặc dầu bệnh thật nhưng không đến nỗi nào.
Không biết do đâu mà Hiển có cảm tưởng Nga sắp bỏ hắn, mặc dầu nàng vẫn chăm sóc hắn một cách bình thường. Có lẽ tại Nga đẹp và nàng thường được người này người khác đeo đuổi mặc dầu không còn là con gái. Cảm tưởng này đến với hắn thường xuyên hơn, mỗi khi đau yếu phải nằm liệt một chỗ, chẳng đi lại làm lụng gì được.
Kể ra Nga lấy hắn làm chồng cũng uổng cuộc đời của nàng! Một người đàn bà đẹp, đến bây giờ hắn còn nhận ra nàng đẹp, thì đối với người khác vợ hắn phải đẹp lắm. Nếu điều đó đúng như hắn suy đoán thì thật là nguy hiểm. Rồi một ngày nào đó vợ hắn sẽ bỏ đi, không bao giờ trở lại nữa! Hắn sẽ cô đơn vô cùng trong cái căn nhà lạnh lẽo này! Hay tệ hơn nữa nàng sẽ toa rập với người tình tống cổ hắn ra khỏi căn nhà, ngang nhiên sống với người chồng mới. Điều đó có thể xẩy ra lắm, vì mặc dầu là chồng, hắn chẳng phải là chủ hộ mà chỉ là người tạm trú. Chắc ít có ai hiểu được trường hợp éo le của hắn nếu sinh sống ở nước ngoài. Hắn không phải là "ngụy quân" hay "nguỵ quyền" gì ráo, cũng không bị bắt đi học tập cải tạo ngày nào, ấy vậy mà hắn vẫn phải tạm trú trong căn nhà này mà vợ hắn làm chủ hộ. Nguyên do trước đây hắn ở Đà Nẵng, trong lần di tản, gia đình ly tán, vợ hắn chạy vào Sài Gòn, mua lại được căn nhà này, hắn vẫn tiếp tục ở lại Đà Nẵng.
Từ ngày có chế độ hộ khẩu, việc thay đổi chỗ ở rất là khó khăn, nhất là di chuyển về Sài Gòn. Đến khi gặp lại vợ hắn thì hai người đã có hai sổ hộ khẩu, mỗi người một nơi.
Vợ hắn không muốn sống ở Đà Nẵng nữa vì làm ăn ngày một khó khăn. Còn hắn cũng cảm thấy bầu
không khí sinh hoạt ở Đà Nẵng ngột ngạt hơn Sài Gòn nên đành xách gói đến tạm trú nhà vợ. Và tình trạng ấy đã kéo dài hết năm này sang năm khác.
Điều kế tiếp hắn lo ngại là vợ chồng hắn ăn ở với nhau cả chục năm vẫn không có con. Vợ người ta đẻ sòn sòn, còn vợ hắn không có gì hết! Mà nào phải Nga không có dáng đàn bà gì cho cam, nàng có vẻ đẹp rất khêu gợi, vậy mà không con! Điều này chắc là lỗi tại hắn, hắn không có con được. Cái thân thể gầy đét, xanh lè, làm Hiển nghi ngờ khả năng làm chồng của mình. Nhưng nếu điều này đúng thật thì cái vụ cách nay ngót hai chục năm chẳng lẽ do mụ Bảy đổ vạ cho hắn.
Khi ấy Hiển còn là thanh niên, sống ở Quảng Ngãi, hắn làm lơ cho chiếc xe đò chạy đường Quảng
Ngãi- Đà Nẵng. Khi nào trở về Quảng Ngãi nghỉ, hắn ở trọ nhà mụ Bảy. Mụ nấu cơm tháng cho nhiều người lại có cho ở trọ nữa, hắn cũng là người ở trọ nhà mụ.
Trong cái đám người ăn cơm ở trọ ấy hắn ít ở nhà nhất, nghề lơ xe khiến hắn phải đi vắng hoài. Mỗi khi trở về mụ chìu chuộng hắn đủ điều, lúc nào cũng cung cấp bia và đồ nhậu cho hắn. Bề ngoài mụ xưng chị gọi em ngọt sớt nhưng lại tống tình hắn, nhiều lần hắn chợt thức giấc vì mụ hôn hắn. Hồi đó hắn còn là thanh niên mạnh khoẻ, thật khó cho hắn để từ chối những mời mọc như thế, nên hắn đã tặc lưỡi làm càn. Trong suốt thời gian ở trọ nhà mụ Bảy, chuyện như vậy xẩy ra gần như thường xuyên. Đùng một cái, mụ có chửa. Mụ nói với hắn cái bào thai là con của hắn. Làm sao hắn có thể tin được mụ! Trong nhà thiếu gì người ở trọ, biết đâu mụ chẳng ngủ với nhiều người? Nghĩ vậy nên Hiển chuồn, và từ đấy hắn không bao giờ gặp mụ nữa. Hiển hơi ân hận về việc này. Nếu mụ Bảy nói thật thì đứa bé là đứa con duy nhất của hắn. Bây giờ không biết nó ở đâu? Làm gì? Trai hay gái? Những ý nghĩ loanh quanh ấy nhiều khi quấn quýt như mớ bòng bong trong đầu hắn.
Còn Nga, vợ hắn, hắn gặp sau này, nàng theo xe đi buôn, nhờ hắn che chở, đỡ đần, lại đụng chạm mỗi khi lên xuống, và rồi "lửa gần rơm", làm sao tránh được, hắn ăn ở với Nga từ đấy, không có cưới xin gì!
Khi còn thanh niên, Hiển nghĩ, cưới hay không thì cũng vậy chỉ thêm phiền phức! Nhưng đến bây giờ hắn mới thấy chuyện ấy thật là quan trọng, có cưới gả đàng hoàng hai người dưới mắt mọi người mới là vợ chồng thật sự, nếu không thành ra "mèo mả gà đồng", nay tấp chỗ này mai tấp chỗ khác, ai mà giữ được, nhất là trong lúc hắn đau yếu và thất thế như thế này!
Đang suy nghĩ về những điều đen tối thì vợ hắn từ bếp đi lên, đặt tô cháo trước mặt hắn:
- Ráng ăn một chút cháo cho khoẻ.
Hiển nhìn vợ cảm động, rồi cúi xuống xúc cháo cho vào miệng. Từ sáng đến giờ hắn không ăn gì, bụng đói cồn cào, mắt hoa lên, người mệt lả nhưng không thấy thèm ăn.
Hắn hơi ân hận những điều suy nghĩ xấu xa về vợ, nhất là khi thấy nàng chăm sóc hắn.
° ° °
Buổi sáng khi hắn ngủ dậy thì mặt trời đã lên cao, chiếu ánh nắng qua khung cửa sổ vào đến nền đất gần chỗ hắn nằm, hắn nghiêng người nhìn xuống dải đất rực sáng trong căn phòng tối tăm, hắn thấy rõ từng gợn đất trong căn phòng. Theo luồng ánh nắng, hắn nheo mắt nhìn ra ngoài, một mảnh trời xanh ngắt in trên khung cửa sổ. Hình như hắn nghe được tiếng xôn xao của chợ búa nơi mà vợ hắn đang buôn bán. Bỗng dưng hắn thèm đi ra ngoài phố, thèm đi trong ánh nắng ban mai đang rực rỡ ở ngoài kia và nhìn cái cảnh ồn ào và náo nhiệt của ngôi chợ gần nhà.
Hắn ngồi nhỏm dậy, đưa chân quơ đôi dép đã mòn vẹt đế, đứng lên đi lần về phía cái tủ duy nhất của vợ chồng hắn, chọn một cái áo tươm tất nhất để mặc. Khi đi ngang qua tấm gương nhỏ bằng bàn tay của vợ hắn treo gần cửa ra vào, hắn liếc nhìn vào trong gương và giật mình vì có cảm tưởng nhìn thấy một người nào khác không phải hắn. Hắn khác xưa nhiều qúa, hai má đã hóp xuống, nước da xanh mét và đôi mắt lờ đờ. Hắn thất vọng khi nhận ra chính mình. Thôi thế là hết! hắn xuống dốc một cách thê thảm! Hắn cố hình dung khuôn mặt của hắn cách nay ít ngày khi hắn còn nằm liệt giường, không ngóc đầu lên nổi, chắc là còn thê thảm hơn nhiều!
Vừa bước ra khỏi cửa hắn sực nhớ ra trong túi không có một đồng nào, hắn trở vào cái tủ duy nhất của hai vợ chồng lục lọi, móc hết túi này đến túi khác vẫn không có tiền, hắn cúi xuống lật mấy bộ quần áo của Nga đã xếp ngay ngắn ở một góc tủ, trên một tờ báo cũ. Khi hắn lật tờ báo lên hắn thấy mấy chục đồng vợ hắn để dưới tờ báo, hắn hơi lưỡng lự vì không biết nên lấy bao nhiêu. Cuối cùng hắn nhặt ba đồng vừa đủ để uống một ly cà phê, hắn thèm cà phê, vì lâu lắm hắn không được uống ly nào.
Hiển đi dọc lề đường về hướng cầu Bình Triệu, cây cầu nhìn xa như một dải vải đen người ta đem căng ra phơi dưới nắng, gặp khi gió lớn phồng lên, cái cảnh hắn thường thấy khi còn nhỏ trong những buổi chiều lộng gió.
Lâu ngày Hiển không ra đến ngoài đường nên hắn ngạc nhiên khi thấy rất nhiều người quần áo rách rưới, kẻ nằm người ngồi trên nền xi măng, bên cạnh họ ngổn ngang những nồi niêu xoong chảo.

Hiển đứng lại dò hỏi mới biết là họ là những người bị dồn đi "kinh tế mới" trước đây, nhưng không sống nổi ở vùng đất mới, tràn về Sài Gòn và vùng phụ cận sống bằng nghề hành khất hoặc những nghề vặt vãnh khác.

So với họ, hắn thấy mình còn may mắn hơn họ nhiều, Hiển vẫn còn một mái nhà để che nắng che mưa, hắn vẫn còn được ăn cơm hằng ngày, hay ít ra cũng có củ khoai củ sắn. Còn những người này, họ hoàn toàn không còn gì!
Hiển chú ý đến một bà già đang vạch áo bắt rận trong ánh nắng ở cạnh một cột điện. Bỗng hắn giật mình, mắt hoa lên, tay chân run lẩy bẩy. Hắn dụi mắt mấy lần để định thần nhìn cho rõ, bà già đang ngồi bắt rận có nét mặt rất giống mụ Bảy, mặc dầu da mặt sạm đen, gầy đét và khô héo hơn mụ Bảy ngày xưa rất nhiều, nhất là bà đã quá già.
Tất nhiên hai mươi năm đã trôi qua, mụ Bảy giờ cũng gần sáu mươi, chắc chắn phải già, nhưng hắn vẫn không hình dung ra nổi, nếu bà già là mụ Bảy ngày xưa, mụ lại có thể già đến thế!
Hắn đứng chôn chân một chỗ nhìn bà già, cố tìm kiếm những dấu vết đặc biệt của mụ Bảy trên nét mặt bà, nhưng cuối cùng hắn vẫn không xác quyết được đó có phải là mụ Bảy hay không. Còn bà già vẫn ngồi đấy, thản nhiên bắt rận trong vạt áo bẩn thỉu rách rưới, không để ý gì đến hắn đang đứng bên lề đường chăm chú nhìn.
Bỗng bà lão ngẩng đầu lên, nheo mắt nhìn về hướng mặt trời, rồi quay lại về phía Hiển đang đứng, như có ý mong ngóng một điều gì, xong lại cúi xống chăm chú bắt rận.
- Nếu là mụ Bảy, mụ phải nhận ra mình chứ?
Hắn nghĩ thầm, nhưng hắn cũng nhận ra ngay tấm thân tàn ma dại của mình so với những ngày tháng cường tráng ở Quảng Ngãi.
Hắn định đi gần bà lão, nhưng mới băng qua được nửa con lộ hắn lại quay trở về đứng ở chỗ cũ nhìn ra chỗ bà lão ngồi.
Mặt trời lên đã khá cao, chiếu ánh nắng gay gắt xuống cái nền xi măng nơi bà lão ngồi, có lẽ bà cũng nhận ra được điều này nên Hiển thấy bà đã đứng lên, quơ tấm ni lông trải trên nền xi măng đi về phía bên kia đường, nơi có rặng cây che bóng râm rợp cả một khu vực khá rộng lớn, bà lúi húi trải tấm ni lông gần một gốc cây rồi lại ngồi xuống, hai tay khoanh tròn lấy gối nhìn ra ngoài đường. Bây giờ bà đã ngồi quay mặt hẳn về phía Hiển, nhưng lại xa hơn, nên hắn cũng không nhận ra được nét gì rõ hơn về bà.
Hiển phân vân không biết phải làm như thế nào, liệu có nên gặp bà lão để hỏi cho ra lẽ hay không, hắn cần phải biết đứa con hắn hiện giờ ra sao, trai hay gái. Hắn hơi ngạc nhiên từ khi gặp bà đến giờ chỉ thấy bà ngồi một mình, không thấy "đứa con" của hắn, hay là nó bận đi kiếm ăn ở đâu đó đến tối mới về, có thể lắm, chứ hai mẹ con cùng ngồi bắt rận thì lấy gì mà ăn?!
Nghĩ vậy nên Hiển quyết định ra về, định tâm buổi chiều tối sẽ ra gặp đứa con của hắn.
Trên đường trở về hắn đã quên ly cà phê hắn định sẽ đi uống vào buổi sáng trước khi ra khỏi nhà, đến khi hắn đụng tay vào mấy đồng tiền còn để trong túi mới sực nhớ ra thì hắn đã về đến cửa. Hiển bước vào căn nhà tối tăm của vợ chồng hắn, lúc đó mới cảm thấy mùi hôi, mốc, bốc lên từ cái nền đất ẩm ướt, mà bấy lâu nay vì bệnh tật hắn đã không để ý đến.
Hiển đi lại phía sau nhà, mở tung cánh cửa, ánh sáng ùa vào căn phòng âm u làm hắn nhận thấy rõ hơn vẻ tiều tụy của những đồ đạc, tài sản của vợ chồng hắn.
Hắn ngồi trên cái ghế xiêu vẹo nhìn ra vại nước ở phía sau, một cái vại bằng sành và cả cái phuy sét rỉ đều đầy ắp nước mưa, mặt nước phẳng lặng như gương, có lẽ còn hơn thế nữa nhưng hắn không có gì để so sánh. Hắn cảm thấy khô cổ nên đứng lên đi ra ngoài vại nước, gục mặt trên vại nước và uống ừng ực. Bất giác hắn nhớ đến ngày còn nhỏ, suốt ngày nô đùa chạy nhảy, khi chán lại trở về gục mặt trên vại nước uống đến khi bụng óc ách mới thôi. Những ngày ấy thật là vui, nhưng ngày vui nào cũng qua mau, chỉ để lại trong ký ức những kỷ niệm rực rỡ không bao giờ quên được, và những kỷ niệm ấy còn rực rỡ hơn bao giờ hết trong những ngày đen tối của cuộc đời.
Hiển đang lúi húi nấu cơm ở dưới bếp thì Nga về. Thấy chồng đang loay hoay với nồi cơm, Nga mỉm cười:
- Bộ hôm nay anh khỏi rồi hả?
Hắn ngước lên nhìn:
- Khỏi thì làm sao khỏi được, nhưng đỡ hơn nhiều, anh nấu cơm để em về có cơm ăn ngay kẻo đói.
Nga có vẻ cảm động:
- Thôi anh để đấy em làm cho, anh còn có vẻ yếu. Hơn nữa, đàn ông có vợ mà lại phải nấu cơm có ai biết người ta cười em.
- Ai mà cười, không giúp em được việc này cũng phải giúp em việc khác chứ.
Thấy Nga vừa đẹp vừa hiền, Hiển cảm động, định ôm vợ hôn, nhưng Nga đẩy ra:
- Người em bẩn lắm, toàn là mồ hôi, bụi bậm không hà, mới khoẻ được một chút, lại thế...
Bữa cơm chiều Nga ăn có vẻ ngon lành nhưng Hiển mãi thắc mắc về bà già mà hắn gặp hồi sáng nên không cảm thấy ngon miệng. Chẳng lẽ mụ ấy là mụ Bảy? và rồi đứa con hắn có với mụ không biết bây giờ thế nào, mẹ mà như thế thì con làm sao khá được! Hắn bỗng thấy ân hận về việc làm của mình, lòng nghẹn ngào, nhưng hắn không dám tỏ lộ ra ngoài sợ Nga có thể biết được. Nghe nói đàn bà họ tinh ý lắm, nếu không khéo mà nàng biết được thì phiền to, nhất là trong lúc này, hắn với tấm thân tàn ma dại lại sống bám vào hộ khẩu của vợ.
Vừa ăn cơm xong Hiển lật đật đi ra ngoài phố, Nga có vẻ ngạc nhiên:
- Anh đi đâu thế?
Hiển cố làm vẻ thản nhiên:
- Đi loanh quanh một chút, mấy hôm vừa rồi đau ốm nằm ở nhà tù túng quá!
Vừa nói đứt câu là hắn lẻn ra ngoài, sợ đứng lâu Nga sẽ can ngăn thêm rắc rối, hắn đang sốt ruột nhìn mặt đứa con của hắn với mụ Bảy, vì hắn tin rằng thế nào giờ này con hắn cũng đã về với mụ. Và cũng không hiểu tại sao từ khi trở về nhà sau khi gặp bà già ngoài phố hắn lại tin chắc bà chính là mụ Bảy. Mụ đã thay đổi tất cả sau hai mươi năm, nhưng còn đôi mắt, đôi mắt ấy thì đúng là không có gì thay đổi. Hắn định tâm khi ra đến nơi sẽ giáp mặt mụ hỏi cho ra lẽ, và nhận lại đứa con mà hắn chỉ còn nhớ đến mỗi khi có điều gì phiền muộn trong lòng.
Vừa khi có ý định nhận lại đứa con, hắn lại nhớ đến Nga, chắc chắn nàng sẽ không bao giờ chấp nhận cho hắn đem con về. Vả lại, hắn còn chưa lo cho bản thân hắn xong, làm sao hắn lo liệu cho con hắn được!
Hơn nữa, cũng đâu có dễ dàng gì để mụ Bảy chấp nhận cho hắn đem con hắn về, vì trong hai mươi năm hắn đã trốn trách nhiệm, không nuôi nấng dạy dỗ gì!
Nghĩ đến trở ngại hắn thấy chóng mặt, mồ hôi ra lấm tấm trên trán mặc dầu trời không nóng lắm. Hắn có cảm tưởng mấy ngọn đèn đường như nhảy múa trước mặt, tỏa những vầng ánh sáng đủ màu sắc. Bỗng dưng hắn thấy khó thở, nên biết là cơn suyễn lại sắp kéo đến hành hạ hắn.
Nghĩ đến việc hắn có thể xỉu ở dọc đường Hiển đã toan quay về, nhưng rồi ý muốn nhìn thấy mặt đứa con duy nhất của mình nên hắn lại cắm cúi đi.
Từ xa Hiển đã nhìn thấy bà cụ già quần áo rách rưới ngồi dưới chân cột điện, bên cạnh đó là một người nữa, một thiếu nữ, ăn mặc tươm tất hơn, ngồi quay mặt về phía bên kia, đang loay hoay làm công việc gì đó hắn nhìn không rõ. Hiển đoán thiếu nữ chắc hẳn là con gái của hắn, lòng khấp khởi mừng thầm, cố rảo bước để nhìn thấy mặt đứa con mà từ khi nó ra đời hắn chưa bao giờ thấy mặt.
Hắn xăm xăm bước lại gần, bà già đang cúi đầu ủ rũ thấy có người đến, ngước mắt lên nhìn. Hắn choáng váng khi nhận ra bà già trước mặt hắn bây giờ không phải là người buổi sáng hắn gặp.
Cô gái ngồi bên cạnh cũng ngước mắt nhìn:
- Ông tìm ai?
- Cô có biết bà già hồi sáng ngồi đây bây giờ ở đâu không?
Cô gái lắc đầu:
- Chỗ này biết bao nhiêu người ngồi, ai mà biết được!
Hiển ngơ ngác tìm kiếm một lúc lâu rồi thất vọng ra về, bất giác hắn thở dài.
Gió mỗi lúc một lạnh!
Bên kia khung cửa
Tăng chống một tay vào tường, tay còn lại cố vòi cái ghế, và khi đã nắm được chàng kéo nó để vào chỗ có ánh nắng hắt vào rồi xoay người ngồi nhìn ra ngoài.
Nắng buổi sáng rực rỡ đổ xuống con hẻm phía dưới, làm sống lại quang cảnh huyên náo của một ngày mới bắt đầu. Chàng có cảm tưởng ngửi được mùi thơm của những món ăn, từ những cái nồi còn đang bốc khói của mấy bà bán hàng ở ngôi chợ nhỏ đầu hẻm, gần nhà. Ngôi chợ chỉ nhóm họp từ sáng cho đến mười giờ để bán mấy món ăn sáng cho những người trong xóm.
Ngồi trên căn gác gỗ của Tăng, chàng nhìn thấy được trọn vẹn ngôi chợ này, thấy được cả từng người khách đang ngồi ăn, thậm chí còn thấy được dáng điệu của họ khi ăn, người khoan thai, người vội vã, nhưng với thái độ nào họ cũng lộ vẻ sảng khoái trên khuôn mặt, trong dáng điệu, trong ánh mắt, như những đứa trẻ vừa bú vừa mân mê vú mẹ.
Ngồi quan sát người khác ăn trước khi mình được ăn, là cách làm tăng thêm hương vị của những món ăn ấy, mà Tăng thường áp dụng vào mỗi buổi sáng khi chàng ngủ dậy.
Đó cũng là cách giải trí, một trò chơi của chàng trong những ngày giam mình trong căn gác gỗ chật hẹp này.
Từ khi bị cụt mất một chân, Tăng bị đẩy khỏi chiến trường đang trong thời kỳ sôi động để trở về căn gác gỗ này. Căn gác mà chàng đã miệt mài đèn sách từ những ngày thơ ấu cho đến khi đậu được mảnh bằng tú tài rồi đi lính. Và bây giờ sau mấy năm, trở lại căn gác gỗ ấy, chỉ để nhìn cảnh đời huyên náo ở phía dưới, mà chàng muốn tham dự sẽ phải rất vất vả mới lê được từng bước. Vì vậy, Tăng thường chọn thái độ đứng ngoài và đứng "trên", để nhìn xuống với nỗi hậm hực trong lòng.
Căn gác gỗ và Tăng đang bắt đầu một cuộc hành trình khác, không phải là đèn sách chuẩn bị vào đời như trước kia, nhưng chuẩn bị cho những ngày buồn thảm sau này. Tăng cười thành tiếng trong cái ý nghĩ ấy, chuẩn bị là nằm lì, Tăng chỉ có thể nằm lì ở đây cho đến hết đời.
Tăng cảm thấy thèm được sống hơn bao giờ hết, không một ước vọng cao sang nào, chỉ cần được như mọi người, có đủ tay đủ chân là đã hạnh phúc lắm rồi, hạnh phúc đơn sơ, đơn sơ đến độ những người đang đi lại dưới con hẻm kia không ai mơ ước cả, nhưng chàng vẫn mơ ước, dù biết rằng chẳng bao giờ được nữa. Rồi còn hai ngón tay trên bàn tay trái cũng mất nốt, để đến bây giờ nhìn lại, nó mang một vẻ vừa tội nghiệp vừa buồn cười.
Tăng đang ngồi dựa lưng vào vách thì có tiếng guốc khua trên sàn gỗ, chàng biết là Cẩm, cô em gái lên để lo cho chàng ăn bữa sáng.
Lâu ngày ngồi một chỗ và lắng nghe tiếng động ở chung quanh, Tăng phân biệt được tiếng chân của những người thân. Người ta vẫn nói, mấy người mù thính giác bén nhạy vì mọi khả năng đều dồn vào nó. Tăng không mù, nhưng chàng cũng cảm thấy thính giác của mình như bén nhạy hơn, khi cái chân cụt giam chàng trong căn gác nhỏ hẹp này..
Cẩm đi lại phía Tăng ngồi, đứng đằng sau lưng nhưng không lên tiếng vì thấy anh đang tư lự nên nghĩ là Tăng không biết nàng đến, nhưng đứng lâu không thấy anh quay lại, nàng hỏi:
- Anh muốn ăn gì để em mua?
Tăng quay lại, nhìn em, nhận ra thái độ vô lý của mình đã bắt em phải chờ đợi:
- Mua cho anh một tô bún riêu, của cái bà gì... ngồi góc đằng kia, hôm nay bún của bà ấy có vẻ ngon, màu riêu cua trông vui mắt và hấp dẫn.
Cẩm cười vì câu nói vui bất ngờ của anh.
- Anh còn thuốc hút không?
Tăng hơi ngập ngừng:
- Hết rồi!
- Sao anh không nói?
- Sợ nhà không có tiền!
- Nhà thiếu gì tiền, anh lẩm cẩm quá, hơn nữa chính phủ vẫn cấp dưỡng cho anh, tiền lương của anh ăn đâu có hết, còn nhà thì vẫn có đồng ra đồng vào, có thiếu thốn gì đâu mà anh phải làm như vậy?
Cẩm nói thế nhưng Tăng biết gia đình bắt đầu sa sút, tiền cấp dưỡng tàn phế của chàng cũng không hẳn là đã đù cho chính bản thân, nếu sống bám víu vào gia đình nữa sợ sẽ là gánh nặng cho mẹ và em, nên Tăng đã dè sẻn từng điếu thuốc vì nghĩ đó chỉ là những thứ phụ, có cũng được mà không có cũng chẳng sao, thật ra Tăng cũng chưa nghiện nặng. Nhưng từ ngày bị cụt chân, suốt ngày quanh quẩn trong nhà, Tăng đâm ra hút thuốc nhiều hơn, nhiều đến mức đáng ngại, thành thử nhân dịp hết thuốc Tăng định sẽ nhịn luôn, nhưng khi nghe Cẩm nói, chàng cảm thấy thèm thuốc trở lại và thèm mãnh liệt hơn lúc trước:
- Cô mua Bastos xanh, đừng mua Ruby nữa, bây giờ anh đổi "gừ'; rồi.
Một lúc sau Cẩm trở về với tô bún và một gói thuốc để trên bàn, Tăng nhìn em:
- Chuyện của cô với Lãng đến đâu rồi, gần sang đoạn kết chưa?
Cẩm hơi đỏ mặt:
- Cũng vậy thôi, anh ơi!
Lãng là bạn học với Tăng, do tình bạn giữa hai người, Lãng thường đi lại nên quen Cẩm và sau đó hai người yêu nhau. Khi đậu xong tú tài, Lãng học sư phạm. Do nghề nghiệp, nên từ ngày ấy hai người ít có dịp gặp nhau. Hôm biết tin Tăng bị thương nặng Lãng có lên Tổng Y Viện Cộng Hòa thăm, nhưng lâu nay Lãng không về được vì Lãng dạy học ở tận Bình Tuy, mà đường xá lúc này không còn đi lại dễ dàng như trước.
- Cũng vậy thôi là làm sao?
Cẩm nghe anh vặn hỏi, định kể cho anh nghe, nhưng nghĩ thế nào lại thôi:
- Nghĩa là cũng như hồi xưa thôi, anh ấy vẫn viết thư cho em, nói, khi nào có dịp về sẽ ghé lại thăm anh.
Thấy anh có vẻ vui hơn mọi hôm, Cẩm tò mò:
- Còn chị Thủy và anh thế nào?
Đang vui, Tăng sa sầm nét mặt. Cẩm biết mình lỡ lời nên lảng sang chuyện khác rồi đi xuống nhà.
Thật ra Thủy chẳng có lỗi gì, ít ra là bề ngoài nàng vẫn cố giữ mối liên hệ như xưa, ngày Tăng còn lành lặn. Nhưng Tăng thì đã dứt khoát, không muốn Thủy phải khổ lụy vì mình, chàng đã viết cho nàng một lá thư, cảm ơn mối tinh Thủy đã dành cho chàng và sau đó là lời chào từ giã, chúc nàng gặp được người yêu hợp ý sau này.
Tăng không ân hận gì về việc làm của mình, vì cũng chẳng có giải pháp nào khác, nhưng nỗi nhớ nhung thì không nguôi được. Hình bóng Thủy và tà áo dài nàng thường mặc vẫn tha thướt trong vùng ký ức tươi sáng và ngọt ngào của những ngày hoa mộng cũ.
Tăng vừa ăn vừa nghĩ đến những bữa ăn sáng của những ngày về phép, nhưng buổi chiều rong chơi trên những con đường vắng, những ước vọng mà hai người thường nói với nhau. Tô bún mà mới cách đây ít phút Tăng tưởng sẽ ăn rất ngon bỗng trở nên khó nuốt, chàng xé bao thuốc lá mà Cẩm mới mua về, rút một điếu mồi lửa, hút.
Khói thuốc Tăng vừa nhả ra, theo gió bay qua luồng ánh sáng chiếu qua cửa, rồi biến mất ngay sau đó.
Hút xong điếu thuốc, vừa đặt mình xuống cái giường bên cạnh cửa sổ thì thằng em trai dẫn Thứ lên trên gác. Vừa nhìn thấy Tăng, Thứ chạy lao tới:

- Sao, khỏe chưa?.
Tăng không trả lời Thứ, hỏi lại:
-Về phép hả?
- Đơn vị mới chuyển về đóng quân ở Hóc Môn nên tao chạy về ghé thăm mày.
Nhìn người bạn đồng đội cũ Tăng bỗng thấy sống lại quãng đời xông pha trận mạc của mình, giọng Tăng chợt lạc đi:
- Anh em vẫn thường cả chứ?
- Mới đụng trận, thằng Thịnh đi luôn roi, tội nghiệp vợ nó mới mang bầu được năm, sáu tháng lăn lóc bên quan tài, cô cậu yêu nhau dữ lắm đấy vậy mà nửa đường đứt gánh, mới vui hưởng hạnh phúc bên nhau được ít ngày! Không nghĩ gì cả thì còn vui mà sống được, nhưng làm người tránh sao được những nghĩ ngợi?
Thứ đang nói bỗng im bặt khi nhìn cái ống quần dẹp lép đong đưa bên mép giường, chàng định đổi sang câu chuyện khác vui hơn để tránh cho Tăng những suy nghĩ đau buồn. Tăng thấy Thứ đang nói bỗng im bặt khi nhìn bên chân đã cụt của mình, chàng biết Thứ đang nghĩ gì:
- Trận đụng độ xẩy ra như thế nào?
- Bị bắn sẻ mới đau chứ, lục soát mục tiêu xong khi rút ra thì bị bắn sẻ, thằng Thịnh bị viên duy nhất trúng ngay bọng đái, hôn mê liền, khi gọi được trực thăng tải thương thì nó tắt thở, chán ơi là chán! Đêm hôm trước nó nằm với tao kể chuyện gia đình, ước vọng của hai vợ chồng, còn rủ tao kỳ này về hậu cứ hai thằng nhậu một bữa cho thật say, lâu ngày không có rượu thèm quá. A, chút xíu nữa quên mất thì không biết nói năng làm sao, thằng Qúy gửi lời thăm mày và nhờ tao đem về cho mày chai rượu, vợ con nó dạo này đi buôn đồ Mỹ nên thằng em uống lia chia. Nó nói khi nào mày buồn uống một ly cho đỡ sầu.
Thứ vừa nói vừa cúi xuống mở ba lô móc chai rượu ra, trong khi Tăng cảm động lúc sau mới nói được:
- Mày nói lại giùm tao cảm ơn nó nhiều.
Chàng vòi tay lấy cái ly trên bàn rồi mở chai rượu róc ra một ly. Tăng và Thứ uống chung. Vốn là bạn đồng đội trong nhiều năm nên Thứ cũng không khách sáo gì, và hai người ngồi uống cho tới khi chai rượu chỉ còn một nửa.
Khi đứng lên mặt Thứ hơi đỏ, chàng giơ tay bắt tay Tăng. Thôi tao đi, khi nào có dịp, tao sẽ lại thăm mày. Ráng yêu đời cái gì ròi cũng quen đi, buồn khổ chỉ là giai đoạn đầu thôi.
Sau khi Thứ đi rồi, căn gác lại vắng lặng trở lại, và ngôi chợ đầu xóm đã tan, con hẻm xi măng bây giờ tràn ngập ánh nắng, bụi hoa giấy của nhà đối diện nở đỏ rực, những cành hoa vươn quá cao bắt đâu uốn cong gần nửa vòng tròn và đong đưa khi gió thổi.
Ở dưới nhà, Tăng nghe tiếng bát dĩa a va chạm vào nhau, chàng biết đã gần mười hai giờ trưa và mấy đứa em đang dọn cơm, chàng nghe được cả tiếng gắt của mẹ mình và hình như cả tiếng nói của người lạ nữa nhưng chàng không phân biệt được tiếng nói của ai.
Từ khi cụt chân Tăng ít xuống nhà dưới vì cầu thang gỗ chật hẹp và khó đi, mẹ Tăng lại bị chứng đau chân nên bà ít lên gác, thành thử dù ở chung nhà thỉnh thoảng mẹ con mới gặp và nói chuyện với nhau. Hơn nữa, Tăng cũng không muốn để mẹ nhìn thấy cái chân cụt của mình nhiều quá khiến cụ buồn khổ.
Tăng không thấy đói, nên chàng vòi tay lấy đôi nạng gỗ để bên giường đi về phía cầu thang nói với xuống:
- Trưa nay con không ăn cơm, mẹ đừng để phần con.
Thằng em út đứng dưới cầu thang hỏi vọng lên:
- Anh nói cái gì?
- Nói với mẹ anh không ăn cơm trưa nay, anh không đói.
Tăng nghe tiếng thằng em nói lại với mẹ, chàng còn nghe được tiếng bà cằn nhằn:
- Sao lại không ăn! Cứ để phần một bát khi nào nó đói thì ăn.
Tăng biết có nói gì thêm cũng vô ích, lòng mẹ thương con nên bao giờ cũng vậy, khi ở xa các cụ không thể lo lắng được thì đành chịu, chứ ở nhà, dù con cái lớn đến đâu, các cụ vẫn coi như còn nhỏ bé không đủ sức chăm sóc cho chính bản thân mình, các cụ phải được để mắt lo lắng mới yên tâm. Nhiều khi suy nghĩ về chuyện ấy Tăng bỗng cười thầm, những ngày bị địch bao vây không nhận được tiếp tế, mấy người phải chia nhau gói cơm sấy, nước uống nhiều khi phải gạn ở lỗ chân trâu, các cụ chẳng có ở đó để lo giùm! Bây giờ mọi thứ đều có sẵn, cơm bưng nước róc, thì các cụ lại lo thiếu thốn.
Tăng trở lại giường nằm thiêm thiếp, rượu đã làm chàng quên được những nỗi dằn vặt trong lòng và rồi ngủ quên lúc nào không hay.
Khi tỉnh dậy Tăng thấy mẹ đã để phần cho chàng một cái bánh giò, cái thứ bánh đã dính liền với cuộc đời ấu thơ của chàng. Khi bước vào đời, xa cách người mẹ, Tăng cũng xa luôn cái loại bánh mà mẹ chàng thường dấm dúi cho riêng chàng, và bây giờ khi trở về chàng lại gặp nó như gặp chính tuổi thơ của mình.
"Nó là con trai mà ốm yếu quá!". Đó là câu nhận xét của mẹ đối với chàng mỗi khi giải thích về sự ưu đãi mà chàng được hưởng.
Bây giờ, sau khi đã trưởng thành, đã đi hết nửa phần đất nước trở về, bà vẫn coi Tăng như thằng con bé bỏng thuở nào.
Bất giác Tăng nhìn xuống chân mình, phần thân thể mẹ đã cho nhưng Tăng đã để mất nó, giờ này chắc đã mục nát ở trong lòng đất. Một ngày nào đó, phần thân thể còn lại này sẽ chết, nếu là chết già, Tăng rùng mình khi nghĩ đến những ngày dài trước mặt, chàng sẽ có một thể xác già nua, với một cái chân đi trước còn rất trẻ và rất cường tráng.
- Mình lẩm cẩm ròi, đã chết còn biết gì nữa!
Tăng lắc đầu cố xua đuổi nhưng ý nghĩ kỳ cục cứ ám ảnh mãi. Nhìn ra ngoài, thấy nắng đã dịu, chàng biết là đã xế chiều, mặt trời bắt đầu lặn. Bóng tối sẽ đến với Tăng ở đây và với bạn hữu của chàng nơi đơn vị đang đồn trú. Bóng đêm đang rình rập cướp đi hết người này đến người khác.
Tăng đang ngồi lục lại chồng sách cũ thì Thứ đến, chàng định đứng lên thì Thứ chạy lại khi thấy Tăng gần ngã:
- Coi chừng!
Tăng nắm lấy cạnh bàn, ngồi xuống lại trên chiếc ghế nhìn Thứ:
- Bây giờ mày tính sao?
- Chết chứ còn tính sao nữa. Mày không dij được cũng là một cái hay, ra ngoài đường thấy buồn lắm! Nghe nói tụi tao gần phải đi "học tập", phen này chắc chết rục xương!
- Mày có biết tin thằng Quý không.
- Lúc nghe Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, nó tập họp anh em nói mấy câu từ giã, rồi mỗi người mỗi ngả, không biết nó đi đâu, nghe nói gia đình nó ở Nha Trang, chắc lại ra ngoài ấy. Nghĩ lại cảnh hôm đó muốn khóc!
Nói chuyện một lúc thì Thứ thấy lòng bồn chồn nên đứng dậy ra về. Còn lại một mình Tăng trên căn gác vắng, chàng có cảm tưởng mình như một gốc cây hay một quán nước bên đường, thỉnh thoảng có người dừng chân rồi họ lại đi, bỏ lại một mình chàng với nôi cô đơn dằn vặt.
Không hiểu vì lý do gì khi nhìn những cây đơn độc mọc bên đường, chàng luôn có cảm tưởng cây đó bị đồng loại bỏ sống cô đơn một mình, và đến bây giờ cảm tưởng ấy rõ rệt hơn bao giờ hết, khi Thứ đến rồi bỏ đi sau khi nói dăm ba câu với chàng.
Tăng cảm thấy mệt mỏi, chàng nằm xuống giường và ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
Ngồi trên gác, Tăng nghe đủ mọi loại tiếng động chen lẫn tiếng cười, nói từ dưới nhà vang lên. Mẹ chàng đang tổ chức đám cưới cho Cẩm và Lãng một cách vội vàng nên dọn mấy mâm rồi mời họ hàng và láng giềng đến dự.
Trên đường di tản, Lãng bị thương nhẹ nên lết được vào một nhà thương và sau khi bình phục đã bắt liên lạc lại với Cẩm, sau dó hai người quyết định tiến đến hôn nhân vì có lẽ cũng không còn gì nữa phải chờ đợi, và điều này cũng được mẹ của Thăng đồng ý nên đám cưới được tổ chức ngay. Lãng chỉ có một mình, cha mẹ đã chết cách đây bốn năm, do đó mẹ Tăng mong muốn khi cưới xong, Cẩm vẫn ở nhà, còn Lãng vẫn đi Bình Tuy dạy học cho đến khi Lãng có cuộc sống ổn định hơn.
Buổi sáng nay, Lãng và Cẩm đều lên gác cố kéo ông anh xuống tham dự lễ cưới, Tăng phải giải thích mãi hai người mới chịu nghe. Thật ra Tăng cũng muốn xuống tham dự với em vì nghĩ cả đời nó mới có một lần, nhưng rồi nghĩ lại, mình chỉ là một phế nhân, đi đâu cũng phải có hai cây nạng gỗ kèm theo mà còn muốn ngã, nếu xuống chỉ làm phiền thêm cho mọi người và còn làm mất vui cho đám cưới nên chàng ở lại trên gác. Tăng dặn Cẩm nếu có ai hỏi nói Tăng bị bệnh mấy hôm nay không xuống được.
Cẩm và Lãng cũng hiểu được nỗi lòng của Tăng nên không nài ép. Tăng ngồi dựa lưng vào vách hút thuốc vặt. Tiếng nói, cười, huyên náo ở dưới nhà vẫn vang vọng lên, khiến chàng có cảm tưởng đám cưới đang tổ chức ở một nhà hàng xóm, không can dự gì đến chàng. Ý nghĩ ấy vừa đến thì Tăng cũng chợt nhận ra sự vô dụng của mình ở trong gia đình, vô dụng đến nỗi đám cưới của em gái mà chàng không giúp được gì dù là chuyện cỏn con. Đang ngồi nghĩ vẩn vơ thì Cầm và Lãng lên, mang theo một chai rượu, Cẩm có vẻ lộng lẫy trong bộ áo cưới, Nàng cầm ly rượu Lãng vừa rót đưa cho Tăng:
- Anh uống với tụi em một ly.
Tăng đỡ ly rượu, giơ cao ngang tầm mắt:
- Chúc hai em hạnh phúc
Tăng cười, ghé vào tai Lãng nói thầm:
- Từ bây giờ trở đi mày là em tao rồi, phải gọi anh, xưng em đàng hoàng, nghe chưa?
Cẩm trợn mắt nhìn hai người.
- Hai anh xấu lắm, tại sao nói gì với nhau mà không cho em biết.
Không muốn sự nghi kỵ kéo dài, Tăng nói lớn:
Có gì đâu, anh nói với Lãng từ bây giờ trở đi phải ăn nói dàng hoàng, không được mày mày tao tao với anh nữa. Khi hiểu được, Cẩm lườm anh:
- Anh thật...
Không muốn Cẩm và Lãng ở lâu trên gác, gây nghi ngờ cho thực khách dưới nhà, Tăng đuổi:
- Thôi xuống đi kẻo người ta lại không hiểu tại sao cả cô dâu lẫn chú rể đều biến mất!
Cẩm và Lãng đều cười rồi kéo nhau đi.
Ly rượu mới uống làm Tăng cảm thấy thoải mái, mất cái cảm giác trì trệ của người ngồi và nằm quá lâu, nhất là xua đuổi được những ý nghĩ bi quan trong đầu. Chàng trở dậy, chống nạng ra ngồi ở cái ghế bên cửa sổ nhìn ra ngoài.
Dưới nhà tiếng huyên náo đã giảm bớt, Tăng nghe được tiếng nói đàn ông vang vang ở phía dưới, Tăng đoán có lẽ là tiếng nói của bác Dậu, một người bác xa, đã có tuổi nhưng rất khoẻ mạnh và vui tính, có lẽ nhờ rượu, ông nói chuyện có vẻ linh hoạt hơn mọi ngày và giọng nói cũng trở nên mạnh mẽ hơn.
Mấy đứa nhỏ đã ăn no và có lẽ cũng đã hết trò chơi, rủ nhau kéo lên gác, đang ngồi vòng tròn ngay chỗ lên xuống của cầu thang. Bọn chúng như không để ý đến Tăng đang ngồi ở cửa sổ nhìn ra ngoài. Chơi được một lúc, hai đứa trong bọn cãi nhau, giành nhau chia bộ bài lớn chỉ bằng hai ngón tay.
Tăng bỗng chạnh nhớ đến thời thơ ấu của mình, chàng cũng mê những trò chơi đánh bi, đánh bài ăn dây thun. Mới đây mà đã qua, đã hết, và không bao giờ trở lại nữa! Tăng nhớ hồi còn nhỏ Tăng chỉ mong cho mình chóng lớn để đi làm khi thấy người lớn có tiền, ăn mặc đẹp lại được tự do, không bị ai kiềm chế. Đến khi ra đời, Tăng lại ao ước được sống những ngày thơ ấu, và bây giờ với thân xác tàn tạ khô héo, nỗi thèm khát ấy còn mãnh liệt hơn bao giờ khi nhìn đám trẻ đang vui đùa nghịch ngợm trước mặt chàng.
Đang ngồi nhìn bọn trẻ chơi bài thì Thi đi lên, Thi là cô em họ xa của chàng.
- Mấy đứa ngồi chơi xích ra chỗ kia, đề trống cầu thang cho người ta đi lại.
Rồi nàng cười với Tăng:
- Nghe Cẩm nói anh bị bệnh mấy hôm nay nên lên thăm anh một chút.
- Cô ngồi tạm xuống đây, sao cô có khoẻ không, chú ấy đâu?
- Nhà em bị bắt đi học tập rồi.
- Bây giờ ở đâu?
Nào có biết ở đâu, chẳng nhận dược thư từ gì cả, em lo quá? Em có dò hỏi những người khác, có người mới nhận được thư, nhưng trong thư lại không đề địa chỉ, chỉ có hòm thư thành ra cũng không biết các ông ấy ở đâu.
Tăng chợt nghĩ đến Thứ, Qúy và những người bạn đồng đội cũ của mình không biết giờ này ra sao.
Thấy câu hỏi của mình chưa được trả lời, Thi hỏi thêm một lần nữa:
- Nghe nói anh bị bệnh, có nặng không?
Tăng đành nói thật:
- Tôi không muốn xuống nên dặn Cẩm nói vậy, chứ sự thực, không đau ốm gì. Cô tính tay chân như thế này, xuống chỉ thêm phiền người khác.
Thi ái ngại nhìn Tăng:
- Em cũng đoán vậy, thôi đừng buồn anh ạ! Con người ta có số trời bắt thì phải chịu chứ biết làm thế nào. Anh dù sao cũng còn độc thân, như em đây bây giờ mới khổ, một nách hai con nhỏ chẳng biết xoay xở ra sao để nuôi tụi nó, em đang định mua cói, tập đan, chẳng biết có sống nổi không vì hỏi ai cũng thấy dan lát cả, ai cũng đan thì ai là người mua không biết!
- Cẩm bây giờ nó đi bán ở chợ trời, cô thử làm nghề đó xem.
- Chị Cẩm thì chị ấy làm vậy được vì không vướng bận con cái còn em, các cháu nhỏ quá. bỏ đi cả ngày sao đành!
Tăng không biết nói sao đành ngồi im, Thi quay lại nhìn Tăng:
- À hôm nọ em gặp chị Thủy, chị ấy gửi lời thăm anh.
Nghe nhắc đến Thủy, Tăng bồi hồi, xúc động:
- Thủy lấy chồng chưa?
Em chẳng dám hỏi, hôm em gặp chị ấy đang đi xe đạp, đằng sau xe có chở gói gì đó, chắc chị ấy cũng đi buôn. Bây giờ ai cũng phải xuống đường, xuống chợ kiếm ăn cả. Trông chị ấy gầy hơn ngày xưa nhiều nhưng vẫn đẹp.
Tăng bỗng thấy một dĩ vãng hiện về với hình bóng Thủy tha thướt trong tà áo tím mỗi lần hai người đi chơi với nhau trên những con đường rợp bóng cây, ánh nắng xuyên qua lá cây nhảy múa trên hè phố và cả trên mái tóc của nàng, mỗi khi ánh nắng đi qua những sợi tóc của Thủy ánh lên một cách kỳ ảo.
- Dạo này anh không liên lạc với chị ấy à?
Tăng lắc đầu:
- Không, cô tính thân thể như thế này mình cố giữ người ta làm gì cho khổ cả hai.
Có tiếng trẻ con chạy trên cầu thang gỗ, thằng con của Thi thò đầu lên:
- Mẹ ơi, đi về!
- Chào bác Tăng đi con.
Thằng bé khoanh tay:
- Chào bác ạ.
- Lên đây bác xem thằng cu lớn đến đâu rồi.
Thằng bé đứng lưỡng lự ở câu thang, mẹ nó giục:
- Lại đây đã nào!
Thằng bé di lại chỗ Thi và Tăng ngồi.
- Cháu mấy tuổi rồi?
- Cháu được năm tuổi rồi anh ạ, nó nghịch lắm lại làm nũng nữa, hôm nọ tức mình em phết cho một trận nên thân.
- Nó nhỏ biết gì mà đánh nó.
Thi cười:
- Cũng biết vậy nhưng nhiều khi bực mình quá mà nó lại nghịch.
Nàng đẩy con ra, đứng lên:
- Thôi em về kẻo ở nhà còn nhiều công việc phải làm, khi nào rảnh em lại lên thăm anh.
Tăng nhìn theo hai mẹ con Thi bước xuống cầu thang cho đến khi không còn thấy nữa. Bọn trẻ chơi bài gần đấy cũng đã giải tán từ lúc nào. Dưới nhà vẫn còn tiếng bác Dậu vang lên lúc lớn lúc nhỏ, thỉnh thoảng chàng còn nghe được câu: "Vâng, đúng thế!" của người tiếp chuyện bác. Câu trả lời rất ngắn nhưng cũng lớn và mạnh mẽ không kém gì tiếng nói của bác Dậu.
Sau cả năm trời học nghề, Tăng đã có thể cắt và may quần áo. Mẹ Tăng gom góp, nhặt nhạnh, mua cho chàng một cái máy may để Tăng nhận hàng của những người hàng xóm kiếm ít tiền nuôi lấy thân mình.
Mẹ Tăng cũng đã già, bà cụ lại bị yếu chân, nhưng bây giờ cũng phải cố giúp con cái những việc trong nhà để Cẩm có thể rảnh rang hơn đi buôn bán chợ trời. Vả lại, dù sao Cẩm cũng đã lập gia đình, chỉ có thể giúp đỡ phần nào cho mẹ và anh, nên bà phải lo cho Tăng có một nghề.
Cũng may Tăng tương đối khéo tay nên dù tàn phế vẫn có thể cắt được những bộ quần áo đẹp, và vì thế dù nhà ở trong một ngõ hẻm, vẫn có nhiều người đem vải đến may nên gia đình còn được bữa cơm bữa cháo.
Một hôm Tăng đang lúi húi máy thì Thủy đến, nàng đến bất ngờ khiến Tăng bàng hoàng, Thủy nói ngay khi nhìn thấy Tăng:
- Em sẽ dọn đi xa nên đến thăm anh, có lẽ đây là lần cuối cùng.
Thủy nói được đến đó thì nàng nghẹn lời, đứng yên. Tăng lúng túng đứng lên, tay quờ quạng vòi đôi nạng để cạnh bàn máy, Thủy chạy lại đỡ:
- Anh ngồi xuống, coi chừng anh lại ngã bây giờ!
- Thủy kéo hộ anh cái ghế rồi ngồi xuống đi.
Thủy ngoan ngoãn đi lấy ghế rồi ngồi xuống đối diện với Tăng, nàng chợt nhận ra chỉ có mình Tăng ở nhà:
- Bác và Cẩm đâu rồi anh?
- Cẩm đi buôn bán, còn mẹ anh, mấy đứa em mới đưa cụ đi mua thuốc, dạo này cụ hay bị đau chân.
Thủy chợt nhìn chân Tăng ái ngại:
- Chân anh như vậy làm sao anh đạp máy được?
- Anh dạo bằng một chân, hơi khó một chút nhưng rồi cũng quen, khi nào có điện thì anh cho máy chạy bằng "moteur". Dạo này em có khoẻ không?
- Em vẫn thường thôi.
Tăng nhìn Thủy, chàng thấy Thủy gầy hơn, nước da hơi xanh nhưng nàng vẫn rất đẹp.
- Anh nhìn em gì thế?
- Tại em nói thăm anh lần cuối nên anh phải nhìn em cho kỹ để mai sau còn nhớ dược.
Sực nhớ ra hoàn cảnh của hai người, Tăng đổi đề tài:
- Em định đi đâu?
Có lẽ em sẽ đi về miền Tây.
- Khi nào có chồng cho anh biết tin.
Thùy nhăn mặt:
- Anh ác quá!
- Mình phải chấp nhận hoàn cảnh, anh luôn cầu mong cho em được hạnh phúc.
- Em chưa nghĩ đến chuyện ấy, chưa thể nghĩ đến điều đó được
Nàng cố cười thật tươi:
- Còn anh nữa, chẳng lẽ em phải báo cho anh biết mà em không được quyền biết về anh.
- Sẽ không bao giờ có chuyện đó xây ra đối với anh. Sẽ không bao giờ, em hiểu tại sao rồi.
Vừa lúc đó thì Cẩm về, nàng chạy ra ôm lấy Thủy.
- Lâu quá không gặp chị.
- Thủy đến chào bác, anh Tăng, Cẩm và các em vì Thuỷ sắp đi xa, gia đình Thủy sẽ về miền Tây.
- Trông chị dạo này xanh quá!
- Cẩm cũng vậy.
Cẩm cười:
- Cuộc sống vất vả quá thành ra ai cũng thế. À mà sao hôm đám cưới tụi em chị không đến, chị có nhận được thiệp cưới của em không?
- Có nhận được, nhưng anh Tăng có muốn chị đến đâu?
Cẩm nhìn Tăng trong khi Tăng cúi mặt giấu xúc động. Ngoài kia mây đen đầy trời, và gió ào ào thổi đến tung bụi trên con hẻm trước nhà. Cẩm chạy ra đóng cửa rồi quay lại nói:
- Chiều nay chị Thủy ở lại đây ăn cơm với gia đình em một bữa, mẹ em vẫn nhắc đến chị luôn, thế nào chị cũng phải để mẹ em gặp con dâu hụt của cụ một lần trước khi chị di xa. Câu nói đùa của Cầm làm cả hai ngượng ngùng.
Hai tháng sau Tăng nhận được lá thư của Thủy.
Anh,
Ngày đến thăm anh lần cuối. em định nói thật với anh nhưng rồi em nghĩ nói như thế chỉ làm chúng mình thêm bịn rịn, gây đau khổ ch o nhau, nên em chỉ nói thăm anh lần cuối trước khi về miền Tây. Em nghĩ anh hiểu lòng em mà không nỡ giận.
Em đang ở Thái Lan, cuộc hải trình đầy gian lao, vất vả và nguy hiểm nhưng rât may đã không gặp hải tặc. Bây giờ thì mọi sự đã an toàn, nhưng em cô đơn vô cùng, khi đến thăm anh lần cuối nhưng thật sự em không hiểu hết ý nghĩa bi đát của nó. Vì dù sao anh với em lúc đó vẫn đứng chung một giải đất và biết đâu chuyện vượt biên của em sẽ không thành công, rồi một hoàn cảnh run rủi nào đó chúng mình có thể gặp lại. Nhưng giờ thì thực sự hết và lần đó đúng là lần cuối cùng thật. Chúng ta vĩnh viễn mất nhau rồi Tăng ơi!
Em cầu mong anh được hưởng phận nào hạnh phúc trên cõi đời này, và xin anh cũng cầu nguyện cho em với. Trên đường đời gay go chỉ có mộ t mình em thui thủi, em sợ quá, anh cũng biết là em hay lo sợ vẩn vơ nhất là nhưng lúc không có anh.
Anh cho phép em được thỉnh thoảng viết thư cho anh, nếu không thể là vợ chồng, mình có thể là bạn, hay hơn thế nữa, là anh em.
Bây giờ em chỉ cầu mong được n ư thế!
Cho em gửi lời thăm bác, vợ chồng Cẩm và các em. Viết cho em khi anh nhận được thư, em mong lắm!
Thủy
Mặt trời đã lặn
Thằng Thuật kéo cái xe nà làm bằng lon sữa bò lọc cọc trên con đường đất mới đắp. Con đường lòi lõm làm cho cái xe của nà long lên xòng xọc, cà khi sút cả bánh ra nà phải ngồi xuống sửa mãi mới được. Cũng cà lúc xe của nà vướng vào mô đất đứng khựng lại, nà phải nhấc hẳn cái xe lên để vào chỗ đất tương đối phẳng phiu rồi lại tiếp tục kéo. Cái xe này thằng Thuật chế được từ hồi gia đình nà còn ở Sài Gòn. Ngày gia đình nà dọn nhà đi kinh tế mới mẹ nà đã định ném cái xe đi, nà phải dấu tận dới đáy va li mới mang được lên đến đây. Nhờ thế bây giờ nà còn cái chơi, nếu không thì buồn chết!
Hồi ở Sài Gòn, nà đã nghe bố mẹ nà nài gia đình nà sẽ phải đi vùng kinh tế mới, cũng tưởng đi đâu đà cũng giống như ở Sài Gòn, ai ngờ đâu bố mẹ nà lại dọn lên chỗ khỉ ho cò gáy này, không cà một mống người ở quanh nhà nà. Đứng ở nhà nà nhìn ra chung quanh, những ngôi nhà tranh bé xíu ở tít tận đằng xa, chìm vào đám cỏ tranh xanh mướt mà lại không cà đường đi tới, muốn đi người ta phải băng qua đám cỏ tranh ấy. Cà lần nà cũng đi thử, khi bước vào mới thấy cỏ tranh thật là cao, lút đầu, nên nà lật đật chạy trở ra. Cũng cà chỗ không cà cỏ tranh thì lại ngập nước vì bây giờ đang mùa mưa, may ra mùa nắng cà thể đi được. Thằng Thuật nghe mẹ nà nài ở phía đầu kia người ta cà họp chợ nhưng hình như xa lắm, nhìn mút tầm mắt mà chẳng thấy gì. Thằng Thuật không hiểu bố mẹ nà tính toán ra sao mà lại lên đây, nà rầu quá mà không dám nài, mà nài gì bây giờ nữa, lỡ rồi. Hôm nọ nà nghe bố nà nài với mẹ nà, không hiểu họ "hoạch toán" ra sao mà đưa dân lên chỗ này. Lúc chưa đi thì nài nghe ngon lành lắm, nào kinh tế mới cà chợ, trường học và cả nhà thương và rồi sẽ cà cả điện nữa, té ra chỉ cà cái chợ chồm hổm. Cà hôm bố nà chửi tùm lum, nà nghe ớn quá! Tụi công an mà nghe được là bị cùm rồi, cũng may ở đây chẳng cà ai thành ra tha hồ chửi.
Chơi với cái xe lọc cọc hoài cũng chán, thằng Thuật kéo xe về nhà, xe của nà bây giờ dính đầy đất, ướt chèm nhẹp, nà phải kéo lại cái vũng nước để rửa cho sạch, nhân tiện rửa tay chân luôn.
Khi vào đến nhà nà mới biết mẹ nà đã nấu cơm xong, ai cũng quen miệng gọi là cơm chứ thật sự là bo bo, lâu lắm nà không được ăn cơm, nhiều khi nghĩ đến cơm mà phát thèm cứ phải nuốt nước miếng hoài.
Khi còn ở Sài Gòn, nà nhớ một bài học thuộc lòng gì đà nài "đất nước ta giàu đẹp" vậy mà tại sao cứ phải ăn bo bo hoài không biết. Cái thứ đà ăn ngán muốn chết, ăn xong vẫn cảm thấy như không, bụng vẫn cồn cào, mà phải cà gì ăn với nà cũng đỡ như cá, thịt chẳng hạn, đằng này ăn bo bo với muối, sang lắm là cá khô mặn chằng, lại mục nữa!
Thằng Thuật bỗng nuốt nước miếng khi nghĩ đến thịt. Hồi xưa thỉnh thoảng nà cà được ăn thịt, nà thích nhất là thịt kho tàu những miếng thịt màu nâu, vừa nạc vừa mỡ, ăn vào vừa béo vừa ngọt vừa bùi lại mằm mặn nữa.Mai mốt lớn lên thế nào nà cũng phải mua thịt về kho tàu ăn một bữa cho đã, phải thật đã mới hết thèm được, nà nghĩ vậy!
Thằng Thuật cầm bát bo bo đứng trước cửa vừa ăn vừa nghĩ đến thịt, đến cá, đến cơm, đến tất cả mọi thứ ăn ngon mà nà còn nhớ.
- Thuật, lại mẹ bảo.
Thằng Thuật giật mình quay lại, bố mẹ nà đang ngồi trên một tấm ni lông trải xuống đất, nà tiến lại gần, mẹ nà bẻ cho nà nửa tán đường:
- Cho con nửa tán đường ăn với bo bo.
Thằng Thuật mừng rỡ đưa tay đàn lấy, đã lâu lắm nà không được ăn kẹo, nhiều khi nghĩ đến thèm đến nỗi không biết làm thế nào nà lấy đại cục muối hột cho vào miệng. Cục muối tan dần trong miệng nà, lúc đầu còn thấy ngon ngon, sau mặn chát nên phải lè ra.
Nửa tán đường mẹ nà cho, nà phải để dành, ăn hết bo bo sẽ ăn tới đường, chứ đường mà ăn với bo bo thì phí đường ra, đã ăn dở cho dở luôn, chút nữa ăn đường mới thấy đã?
Nghĩ vậy nên nà ra ngoài hiên nhà xé miếng lá chuối gài nửa tán đường lại cất kỹ vào túi. Hôm nay mẹ nà cho, nà mới biết nhà nà cà đường, nếu biết mẹ nà để ở đâu thế nào nà cũng lấy một cục ăn, mẹ nà cà biết chắc chỉ mắng là cùng, nhiều lắm là đánh một roi nhưng nà tin là mẹ nà không biết đâu.
Ăn xong bát bo bo, thằng Thuật màc tay vào túi lấy cục đường ra cho vào miệng mút, nước đường trôi tới đâu nà biết tới đà. Nà lấy làm lạ hồi xưa nà ăn thiếu gì kẹo mà đâu cà thấy ngon dữ thần vậy, bây giờ nếu được ăn những thứ kẹo ấy chắc là ngon lắm.
Nhà thằng Thuật ăn cơm xong thì trời chạng vạng tối, hễ tối đến là cả nhà nà rút lên giường nằm. Hồi còn ở Sài Gòn nà thường thức khuya để xem ti vi ké nhà hàng xàm, nhất là hôm nào cà cải lương. Nếu không cà ti vi nà chạy ra ngoài đường chơi với mấy thằng bạn cùng xàm. Bây giờ không biết tụi nà dang làm gì? thằng Tuấn, thằng Hạnh chắc lại rủ nhau đi hái trộm ổi nhà bà Tư-điếc, cây ổi sai trái quá chừng mà lại thấp, cà một cành chĩa ra ngoài đường nữa, dễ hái như chơi.
Thằng Thuật nghĩ ngợi vẩn vơ về bạn nà ở Sài Gòn rồi ngủ quên lúc nào không biết.
Một hôm, thằng Thuật thấy một toán người đến khu vực nhà nà, nghe nài Thanh Niên Xung Phong gì đà, nà chẳng hiểu là gì, nhưng nghe mẹ nà nài không xung phong cũng phải xung phong. Thằng Thuật thấy họ đào đất đắp đường, lại còn cất thêm mấy cái nhà cạnh nhà nà nữa. Thuật mừng thầm, vậy là đở lắm rồi, cà đường xá đi lại và biết đâu mai mốt còn cà người đến ở quanh đây, ít nhất cũng thấy người ta đi đi lại lại...
Khi xong việc, thằng Thuật thấy mấy anh thanh niên đi đâu mất rồi lại thấy mấy gia đình về ở quanh khu nhà nà, gia đình ở phía bên bờ suối hình như cũng cà thằng trạc bằng tuổi nà, hôm nào nà sẽ rủ thằng đà đi chơi cho cà bạn, còn gia đình ở cạnh cây bã đậu cũng cà đứa trạc bằng tuổi nà nhưng chơi với con gái thì chán chết, nhất là nà hay giận thấy phát ghét, như con Trâm ở bên cạnh nhà thằng Thuật ngày còn ở Sài Gòn, hơi tí là nà khàc, tốt hơn là không thèm chơi với nà cho khoẻ!
Một hôm mẹ thằng Thuật xách giỏ nài là đi chợ, nà kì kèo xin mẹ nà đi cho bằng được, ra đà nhìn người nọ người kia cho đở buồn, lâu quá nà không nhìn thấy chợ. Nà thèm nhìn cảnh nhiều người đông đúc chen lấn nhau trong khu chợ ồn ào. Hồi xưa ở Sài Gòn, mỗi lần phải ra chợ nà ngại vô cùng, nhiều người đến nỗi nà cứ phải lủi qua, hôm nào trời mưa sàn chợ ớt chèm nhẹp thấy mà ớn. Ấy vậy mà bây giờ thằng Thuật thèm thấy cảnh ấy. Thấy nà cứ nằng nặc đòi đi theo nên mẹ nà cũng chịu, ra đến nơi nà mới biết, chợ ở đây chỉ cà mấy chục người ngồi chồm hổm ở khu đất cao, giữa khu đất cà một cái nhà nhỏ xíu, cũng cà mấy người ngồi bán trong đà. Nà đi quanh một vòng với mẹ nà, đi đâu cũng chỉ thấy cà vài con cá khô, ít chai nước mắm và mấy gài muối, nhiều lắm là cà thêm kim chỉ và mấy thứ nữa, nà chưa bao giờ thấy chợ nào kỳ cục vậy!
Mẹ thằng Thuật đi một vòng chợ mà chỉ mua mấy con cá khô và một ít muối. Tuy vậy nà cũng muốn đứng ở đây chơi hơn là ở nhà, nhưng mẹ nà giục về. Khi về đến nhà nà lại lấy cái xe ra kéo lọc cọc trên đường, bây giờ nà cà thể đi xa hơn nhờ con đường mới đắp, cũng may mấy hôm nay trời nắng nên dễ đi, xe của nà chạy ngon lành. Nà kéo đi mãi đến tận ngôi nhà mới cất ở cạnh bờ suối. Vừa đến nơi thì một thằng bằng tuổi nà chạy ra, mỉm cời với nà:
- Mày cho tao chơi với?
Thằng Thuật cũng cười rồi gật đầu, nà giao cho thằng bạn mới của nà kéo một đoạn. Thằng đà cà vẻ thích lắm, bỗng nà quay lại hỏi:
- Mày tên gì?
- Tao tên Thuật, còn mày?
Thằng kia đáp gọn:
- Lực.
Từ đấy hai thằng vừa đi vừa nài chuyện, thằng Lực nài gia đình nà từ Gò Vấp lên đây, bố nà đi cải tạo chưa về, nhà nước nài sắp thả nhưng chờ hoài mà không thấy, nghe nài nếu đi kinh tế mới thì được thả nên mẹ nà và chị nà phải đi, lên đến đây nà nằm khàc mấy hôm vì buồn quá, nhvng riết rồi cũng quen. Thằng Thuật cũng kể chuyện nhà nà cho thằng Lực nghe, hai thằng lang thang tới khi mẹ thằng Thuật gọi nà về ăn cơm.
Buổi chiều trời lại kéo mây đen kịt một gàc, hình như mưaluôn luôn đi tới từ hướng ấy, thấy mây đen là nà rầu. Ở đây mà trời mưa cũng giống như đi tù, ngồi sớ rớ ở một gàc nhà. nhìn ra ngoài, nếu mưa kéo dài tới tối là kể như hết đi ra ngoài, thằng Thuật đành lên giường ôm gối ngủ. Giá cà cái "ra dô" thì cũng đỡ, lâu lâu còn được nghe cải lương, tân nhạc, đằng này không cà gì hết. Đã thế nhiều đêm già mạnh quá tràc cả mái, đang ngủ nước chảy xuống ào ào, bố nà phải leo lên lấy tấm ni lông chận đỡ, nhưng cũng không sao chận hết được, bố mẹ nà phải ngủ ngồi, còn nà được cho một tấm ny lông nhỏ đắp lên người, rồi nà ngủ luôn đến sáng.
Đúng như thằng Thuật nghĩ, đám mây đen càng ngày càng ran rộng và rồi mưa xuống ào ào. Nhìn ra ngoài, chung quanh nhà là một màu trắng đục, nhà của thằng Lực và những nhà chung quanh chỉ còn thấy mờ mờ. Mẹ thằng Thuật đang nấu cơm thì bếp bị giột cũng may là nồi bo bo đã chín rồi chỉ cà nồi canh rau là dở dang.
Bố thằng Thuật từ hôm lên đây tới giờ xách cuốc đi cả ngày. Sáng sớm đã thấy ông đi rồi, quá trưa ông về ăn mấy bát bo bo rồi lại đi nữa rồi đến tối mịt mới lại về lại, lúc đầu ông còn làm quanh ngôi nhà, sau ông đi ngày một xa, bây giờ ông đang cuốc ở sát mé nhà thằng Lực, nghe nài ông định trồng khoai lang ở đấy. Cà khi gặp ngày hên, ông đập được con rắn dài cả thước đem về nhà, mẹ nà thấy rắn mặt tái xanh, thành thử bố nà phải ở nhà để làm thịt. Nghĩ đến thịt rắn, thằng Thuật nuốt nước miếng. Trước đà nà chưa bao giờ đợc ăn thịt rắn nên nghĩ thứ này chắc dở ẹc, nhưng khi cho vào miệng thì ngon ơi là ngon, nà chưa ăn thứ gì ngon như thế, nhất là trứng rắn. Nà nhớ mài mại, bố nà đã nấu cháo đậu xanh, rồi bỏ thịt rắn xé nhỏ đã xào cho thơm vào trong đà, bố nà còn chiên hành đổ lên trên nồi cháo. Nà cứ tưởng bố nà chắc chả biết nấu nớng gì, ai dè ông nghề quá! Mẹ thằng Thuật lúc đầu sợ không dám ăn, sau bố nà ép quá, ăn thử cũng khen ngon.
Chiều nay trời chuyển mưa dữ quá mà chưa thấy bố nà về, không biết ông cà bắt được con gì nữa không, mà nếu bắt được chắc ông về rồi, còn ở chi đến giờ này?
Mới nghĩ vậy thì bố thằng Thuật về, người ướt nhẹp. Vừa treo cái nàn ở trên vách ông vừa than mệt và đài, vậy là mẹ nà lại phải hì hục nhàm lại cái bếp để nấu cho xong nồi canh còn đang dở dang.
Thấm thoát đã đến mùa nắng, ngày nào trời cũng xanh ngắt không gợn một tí mây, cả khu vực bao la chài chang ánh nắng, những đám cỏ tranh xanh mướt bây giờ đổi sang màu nâu, và rồi, một buổi chiều thằng Thuật thấy lửa cháy bừng bừng trên đám cỏ tranh, lửa vươn cao và lan rộng như một con quái vật đỏ chàt đang bò, tro than bay đen một gàc trời, thằng Thuật còn nghe tiếng nổ lép bép trong đám cỏ tranh ấy. Thuật và Lực đứng trân nhìn đám cỏ tranh cháy, chúng nà không ngờ cỏ tranh mà cháy dữ như vậy, cháy như người ta đổ xăng vào mà đốt. Hai thằng rủ nhau đi gần đến đám cháy để xem cho rõ hơn, nhưng khi tiến gần sát thì hai thằng bỏ chạy vì quá nàng. Đám cỏ cháy như thế trong khoảng hai tiếng đồng hồ rồi lụi dần. Sáng hôm sau nhìn vào bãi đất chỉ thấy đen ngòm toàn tro. Chán mắt, Thuật và Lực rủ nhau ra suối bắt cá, con suối chảy ngoằn ngoèo giữa khu rừng chồi và vùng kinh tế mới, nơi đây bố thằng Thuật thường đến lấy nước về cho cả nhà dùng, nà đã theo bố nà ra suối một vài lần nhưng lần nào cũng phải về ngay nên không cà dịp chạy nhảy bên bờ suối.
Thuật và Lực thích thú nhìn những đàn cá nhỏ bơi lội tung tăng trong dòng nước trong vắt, mỗi khi chúng vục tay xuống định bắt thì đàn cá lại lẹ làng vuột ra khỏi bàn tay, bơi dọc theo bờ suối chơi, chúng nà leo lên những tảng đá lớn bên bờ suối ngồi nghỉ hay xuống những nơi cà nhiều nước để tắm.
Những thú vui này Thuật và Lực chưa bao giờ được trải qua khi còn ở thành phố nên là trò chơi rất hấp dẫn đối với chúng, nhưng lâu ngày cũng chán, Thuật lại xách cái xe làm bằng lon sữa bò của nà ra kéo lọc cọc trên đường.
Thằng Lực thấy vậy cũng muốn làm một cái xe nhưng lại không cà ống lon, nà nhớ đến những ống lon người ta vứt ở những đống rác ở thành phố mà tiếc. Một hôm nà nài với thằng Thuật:
- Hôm nào mày không chơi cho tao mượn một bữa?
- Ừ nhng phải giữ cẩn thận cho tao nghe, mày nài với mẹ mày khi nào về Gò Vấp nhặt cho mày mấy cái ống lon đem lên đây tao làm hộ.
Mặc dầu thằng Thuật hứa sẽ làm giúp cho bạn nà một cái xe nếu cà lon, nhưng lon đã không bao giờ cà vì mẹ nà chẳng bao giờ về Gò Vấp nữa, mà ở đây thì không bao giờ kiếm ra được, nên hai thằng thay nhau kéo cái xe lọc cọc của thằng Thuật đi hết những con đường trong vùng kinh tế mới. Nhờ cà bạn thằng Thuật bạo dạn hơn, hai đứa rù nhau đi chơi xa thật là xa, tới tận ngọn đồi ở phía bên kia, ngọn đồi cà hình dáng ngộ nghĩnh như một cái bát úp ngược trên cà ba cây thật cao xếp thẳng hàng. Hai thằng rủ nhau lên đồi chơi, chúng đã thích thú chạy nhảy cả buổi chiều ở trên ấy cho đến khi mặt trời gàn lặn mới trở về.
Thằng Thuật về đến nhà thì không thấy mẹ nà, lên tiếng gọi cũng không thấy trả lời. Nà chạy ra phía trước chạy vè phía sau dào dác tìm kiếm cũng không thấy đâu. Mọi ngày vào giờ này bao giờ mẹ nà cũng ở nhà, thường thì bà đã nấu cơm xong chỉ chờ bố nà ở ngoài rẫy về nữa là ăn. Ấy vậy mà hôm nay mẹ nà không cà ở nhà, cơm nước cũng chưa nấu. Một ý nghĩ chợt nảy ra trong trí, hay là mẹ nà ra ngoài rẫy với bố nà. Ý nghĩ vừa loé lên là nà lao đầu chạy về phía rẫy, nơi bố nà cuốc đất vào chiều nay. Thuật chạy băng qua những khu đất lòi lõm và những cành cây ngổn ngang làm nà vấp ngã mấy lần, nà chồm dậy rồi tiếp tục lao đầu chạy.
Khi ra tới ngoài rẫy nà kinh hoàng vì không thấy bố mẹ nà đâu hết, cái cuốc mà bố nà thường dùng để cuốc đất và một con dao cán dài còn nằm trên mặt đất. Thằng Thuật lên tiếng gọi bố mẹ nà thật lớn mà không thấy ai trả lời và nà bắt đầu khàc. Tiếng khàc và tiếng gọi lúc đầu lớn sau nhỏ dần, cuối cùng tắc nghẹn trong cổ họng nà thành những tiếng nấc.
Thuật thất thểu trở về nhà, khi về đến nơi nà thấy mẹ thằng Lực và cả thằng Lực nữa đang đứng trước cửa nhà nà. Thấy Thuật, mẹ thằng Lực chạy đến:
- Cháu đi đâu, bác tìm mà không thấy?
Nà trả lời mẹ thằng Lực qua tiếng nghẹn ngào:
- Cháu đi chơi về không thấy bố mẹ cháu đâu hết!
Mẹ thằng Lực đặt tay lên vai nà:
- Bố cháu cuốc đất chẳng may trúng một trái mìn, nổ, nên bị thương ở chân, người ta đã đưa bố cháu đi nhà thương huyện rồi, mẹ cháu phải đi theo để trông mon bố cháu. Bây giờ cháu sang bên bác ăn cơm, ở chơi với thằng Lực, chắc mấy hôm nữa mẹ cháu về.
Thằng Thuật bàng hoàng nghe câu nài, nà luôn miệng kêu "bố ơi!" "mẹ ơi!"...
Mặt trời đã lặn, chân trời phía tây chỉ còn một màu xám, bầu trời bắt đầu lấp lánh những vì sao. Tiếng giun, dế, và ếch nhái bắt đầu trổi lên, hòa với tiếng khàc của thằng Thuật.
Cũng một đời
Mụ Tôn ngồi ngáp vặt, nắng buổi trưa như đổ lửa chung quanh cái quán cóc của mụ. Cánh đồng trước mặt mới cuốc lên được khỏang một nửa, nhưng lại không đều, trông loang lổ, lam nham. Mụ thấy không có cảnh nào chán mắt cho bằng. Thỉnh thoảng có một cơn gió từ cánh đồng thổi đến, mang theo hơi nóng và mùi đất, mùi cỏ, một thứ mùi ngai ngái và hình như cái mùi ấy càng làm mụ buồn ngủ hơn.
Mụ về đây đã ba năm, ba năm ở nơi đèo heo hút gió này mụ thấy thật dài. Lúc đầu mụ cũng ra đồng cuốc đất với người ta, cố trồng dăm luống khoai, luống rau, nhưng rồi sức khoẻ của mụ mỗi ngày mỗi kém, nên mụ xin với Ủy Ban Hành Chánh cho mụ mở một quán cóc, bán cà phê thuốc lá và ba thứ linh tinh. Được ít lâu sau mụ bán thêm rượu đế. Và bây giờ quán của mụ biến thành quán nhậu, những thứ khác chỉ là thứ phụ.
Sở dĩ mụ biến nó thành quán nhậu vì mụ biết dân nhậu hào sảng, ít khi nào cò kè bớt một thêm hai, hơn nữa, cũng ít ai nhậu một mình, nhậu phải có bè có bạn, mụ hy vọng nhờ vậy mà quán của mụ đông khách.
Thật ra, mụ Tôn không phải là người đàn bà đảm đang, hơn thế nữa, mụ không phải là người khéo léo trong việc nấu nướng, nhưng nhậu trong thời buổi này cũng đâu có gì để đòi hỏi phải nấu nướng cầu kỳ. Dăm ba trái cóc, trái ổi, vài con cá sặt, cũng xong. Sang hơn nữa là tôm khô, củ kiệu, là hết. Mà những thứ đó thì mụ có thể làm được. Khi lão Tôn còn sống mụ thường làm cho lão nhậu, còn những món cầu kỳ hơn thì lão phải làm lấy, được cái là lão cũng muốn như vậy cho hợp ý lão nên không bao giờ lão giao cho mụ làm.
Nhớ đến lão Tôn, chồng mụ, mụ mới thấy cái duyên nợ của mụ với lão nó kỳ cục.
Ngày ấy, mụ cũng chỉ có một mình, mụ không hề biết gốc gác của mụ ra làm sao. Khi nhận biết được có mụ sống trong cõi đời này thì mụ cũng nhận ra ngay được là mụ chỉ có một mình. Mụ kiếm sống bằng nghề gánh nước thuê ở Sài Gòn, trong những ngõ hẻm mà nước máy chưa có. Mụ nai lưng gánh nước từ sáng đến tối mới về căn chòi của mụ bên cạnh cái rạch nước ở cuối xóm. Sáng hôm sau mụ lại gánh nước nữa, và cứ như thế ngày nọ kế tiếp ngày kia. Đến khi mụ cảm thấy cô đơn cần có một tấm chồng như mọi người đàn bà khác thì mụ cũng biết được là mụ đã già. Thật sự lúc ấy mụ chỉ khoảng ba mươi tuổi, nhưng con gái vào thời ấy ít ai ở tuổi ba mươi mà chưa có chồng.
Một hôm lão Tôn đi mua ve chai ngang qua nhà Hợi, tên tục của mụ, ghé vào hỏi có gì bán không. Nhà của mụ, chẳng phải thông minh tài cán gì cũng biết là không có gì để bán cho lão, nhưng lão kèo nhèo đòi mua hết thứ này đến thứ khác. Cái thứ người gì dai nhách, làm mụ đâm ra trây, nói bừa:
- Có mua tui, tui bán nè!
Vậy là lão mua thật, đúng ra phải nói là mụ mua lão vì lão chẳng trả cho mụ xu nào mà mụ còn phải hầu hạ lão suốt cuộc đời.
Mụ cứ tưởng, người Tàu, ai cũng chí thú làm ăn, nào ngờ lão Tôn, làm chẳng được bao nhiêu mà rượu chè be bét, ít có tối nào lão không uống rượu. Say rồi lão lăn ra ngủ, đến khi thức giấc, lão mới hành mụ. Lấy nhau cả hai chục năm lão chẳng cho mụ đứa con nào, mà kể cũng may cho đứa trẻ nào đó, nếu nó ra đời và làm con mụ, cuộc đời của nó cũng lại tăm tối như mụ và lão Tôn mà thôi!
Nhưng riêng mụ, mụ vẫn thèm khát một đứa con, nhất là trong lúc tuổi đã xế chiều này, mụ còn cảm thấy cô đơn hơn cả khi mụ chưa lấy lão Tôn. Ngày xưa mụ gánh nước vất vả cả ngày, đêm về là mụ ngủ. Bây giờ, mụ nhàn rỗi hơn nên nhiều đêm mụ trằn trọc mãi mà không ngủ được, những lúc như vậy, mụ nhớ lão Tôn. Lấy lão, mụ nếm đủ mùi cay đắng nhưng không phải không có lúc ngọt bùi. Giá lão còn sống đến bây giờ mụ sẽ cảm thấy bớt cô đơn hơn, mụ sẽ cho lão uống rượu, uống cho tới "đã" thì thôi!
Mụ Tôn đang ngồi nghĩ ngợi vẩn vơ về lão Tôn, chồng mụ, thì lão Mịch bước vào quán. Mụ Tôn tự động lấy cho lão một ly rượu đế, vì bao giờ lão cũng vậy, một ly rượu đế "xúc miệng " đã, còn gì nữa, tính sau. Lão thường nói vậy.
Lão cầm ly rượu đế từ tay mụ, uống một nửa, còn một nửa để lên trên bàn. Như nhớ ra điều gì, lão nói với mụ:
- Chị rót cho tôi một ly nữa.
- Chi vậy? Anh cứ uống hết rồi tôi rót.
- Chị cứ rót cho tôi.
Mụ làm theo lời lão. Vừa đưa ly cho lão, lão lại đưa về phía mụ:
- Chị uống với tôi một ly.
Mụ hơi ngạc nhiên, mụ ngạc nhiên cũng phải, vì hồi nào tới giờ chưa bao giờ lão uống mà mời mụ. Trong khoảnh khắc mụ nhớ đến chồng mụ. Mỗi lần lão Tôn cao hứng cũng rót cho mụ một ly, rồi ép mụ uống cho bằng được. Trong cuộc đời làm vợ của mụ, mụ đã uống không biết bao nhiêu ly rượu như vậy nên lâu ngày mụ cũng đâm ra nghiện rượu. Và cũng vì lý do ấy mụ đã đổi cái quán của mụ thành quán nhậu, vì bán cho dân nhậu vừa vui lại vừa có tiền, lâu lâu còn được nhậu ké.
Mụ nhận lại ly rượu vừa trao cho lão Mịch đưa lên miệng uống một hớp nhỏ. Thật ra, mụ không thèm uống rượu vào giờ này, trời vừa nắng lại vừa nóng, đổ thêm rượu vào cũng như đổ dầu vào lửa, và cái nóng tăng lên bội phần. Nhưng nếu từ chối thành ra khách sáo, mà dân nhậu thì ít ai thích khách sáo, và biết đâu vì thế mà bận sau lão sẽ không bao giờ mời mụ nữa.
Những ngày trước lão Mịch vẫn tới quán của mụ để nhậu nhưng mụ không bao giờ để ý đến lão. Nhưng hôm nay được lão mời uống một ly, tự nhiên mụ nhận ra lão cũng không phải là xấu và vô duyên như mụ vẫn tưởng. Lão có thừa một ngón tay thật, nhưng thiếu gì người như vậy. Lão lại có một cái sẹo lớn ở trên mặt, nhưng nhìn kỹ cũng không đến nỗi nào!
Thấy lão ngồi uống khan, mụ hỏi lão:
- Anh có nhậu gì không để tôi lấy "mồi"?
- Phải đấy, chị có gì lấy ra tụi mình nhậu chơi, tôi đãi...
Đến đây thì mụ thấy hơi kỳ cục, mụ bán quán mà để khách mua của mình rồi đãi lại mình thì coi không được. Còn nếu mụ bao lão thì còn vô lý hơn, vì nếu ai cũng như vậy chỉ mấy ngày là sập tiệm.
- Thôi anh cứ lo phần anh, tôi là chủ quán mà để anh bao, kỳ chết!
Lão cười, nụ cười của lão làm cho lão xấu hơn một chút vì cái hàm răng cải mả của lão, nhưng mụ Tôn không thể nhận ra điều ấy.
- Không kỳ gì cả, tôi nhất định bao chị bữa nay. Nếu chị từ chối lần sau tôi không tới quán chị nữa.
Lão đã nói vậy nên mụ đành chìu lão, mụ lấy con cá khô ra nướng để lão và mụ nhậu, sau đó lão còn gọi cả tôm khô, củ kiệu nữa.
Lão vừa uống vừa nói, lão nói nhiều nhưng mụ nghe không rõ ràng là lão nói gì, nhất là mụ không nhớ được vì mụ cũng bắt đầu say.
Khi lão đứng dậy ra về thì mặt trời đã khuất sau cánh rừng, còn mụ Tôn cũng chỉ còn đủ tỉnh táo để hạ tấm liếp xuống, rồi mụ chui vào cái giường ở phía sau nằm. Đã lâu lắm mụ mới uống say một lần. Trong giấc ngủ chập chờn, mụ mơ thấy lão Mịch còn đang nhậu với mụ, lão còn để tay lên vai mụ, và mụ cảm thấy lòng rạo rực như lần đầu tiên lão Tôn ôm mụ. Khi tỉnh dậy mụ thấy trời đã tối hẳn, ánh trăng qua cửa sổ chiếu vào chỗ mụ nằm, một nửa người của mụ sáng lên trong ánh trăng. Gió mát cũng từ cửa sổ thổi vào khiến mụ tỉnh ngủ hẳn, nhưng vẫn không nhớ được rõ ràng chính xác những gì lão Mịch và mụ đã làm trong lúc nhậu. Giấc mơ và sự thực trong khoảnh khắc đã trở nên hỗn độn.
Mụ Tôn ngồi hẳn dậy dựa lưng vào vách, đến lúc đó mụ mới cảm thấy đầu mụ vẫn còn choáng váng vì rượu, mụ lắc đầu mấy cái rồi đưa chân xuống đất mò đôi dép, đi ra phía vại nước sau nhà. Mụ lấy cái lon vẫn thường máng ở cái cọc gần đấy múc nước trong vại giội lên đầu. Từng dòng nước lóng lánh chảy xuống thân thể mụ. Ánh trăng làm cho mụ đẹp hơn, và có lẽ mụ cũng nhận ra điều ấy nên mụ cười. Tiếng cười trong đêm thanh vắng của mụ nếu có ai nghe được chắc phải nghĩ là mụ điên, nhưng mụ không điên, mụ vẫn tỉnh, mụ chợt nhận ra cái cười hơi có phần kỳ cục của mình nên mụ lại nín bặt.
Sau khi tắm xong mụ mới thực tỉnh táo. Mụ nhớ lại từng chi tiết một, từ khi lão Mịch vào quán, lão mời mụ uống rượu, nói là đãi mụ, sau đó hai người ngồi nhậu với nhau cho đến khi say. Tới đây thì mụ đành chịu thua, không nhớ gì nữa, và cũng không biết là lão Mịch trước khi về có trả tiền nhậu như đã hứa hay không.
Hôm nay mụ Tôn nghỉ bán để đi cất hàng, mới hừng đông mụ đã dậy, lững thững đi bộ ra quốc lộ 1 tìm xe về Xuân Lộc. Đứng lóng ngóng chờ hoài không thấy xe, mụ ngồi bệt xuống bên vệ đường. Con đường nhựa đen nhánh chạy giữa rừng cao su đang xanh lá, vắng hoe, thỉnh thoảng mới lại có chiếc xe chạy ngang, mụ giơ tay vãy, nhưng xe vẫn chạy thẳng, để lại đám khói đen dày đặc bao quanh người mụ. Tuy vậy, mụ không lấy làm khó chịu vì đã lâu lắm mụ mới lại có dịp ngửi mùi khói xe. Mụ định đứng lên đi dọc theo quốc lộ, được đến đâu hay đến đó, thì có người từ vùng kinh tế mới đang đi ra. Mụ định nấn ná xem là ai, nếu cùng đi Xuân Lộc với mụ thì cũng vui, vì dù sao cũng có bạn. Nhưng một lúc sau thì mụ nhận ra người ấy đã đi về hướng khác nên mụ lại lần lũi đi.
Mặt trời đã lên khỏi ngọn cây cao su ở phía trước, trải ánh vàng trước mặt mụ. Một cái máy bay vút qua bầu trời xanh, phản chiếu ánh sáng như một thỏi bạc khổng lồ. Đã lâu lắm mụ mới lại nhìn thấy máy bay kể từ khi chiến tranh chấm dứt. Vì vậy, mỗi khi nhìn thấy máy bay mụ lại nhớ đến những ngày ở Sài Gòn, mới có ba năm xa thành phố mà mụ cảm thấy như lâu lắm, và mụ có cảm tưởng mụ không bao giờ về được nơi ấy nữa. Mụ nhớ lại những ngày đầu tiên ở khu kinh tế mới này. Nhìn cái chòi tranh trống lốc giữa khu đất hoang vu mọc đầy cỏ tranh, mụ khóc. Mặc dầu cái chòi của mụ ở Sài Gòn cũng chẳng lớn hơn cái chòi này, nhưng mụ còn được hưởng những thứ khác mà ai cũng được hưởng, như đường xá trơn tru và ánh điện. Còn ở đây, quanh năm tối hù, ban đêm nhìn lên trời chỉ thấy thăm thẳm đen, lốm đốm đây đó vài ánh sao. Chỉ những đêm trăng sáng mới đỡ buồn một chút. Còn những đêm mưa thì thôi khỏi nói, nằm trong lều tranh nghe gió rít qua kẽ lá như tiếng rú của hồn ma quanh quất đâu đó. Cũng may, đây là khu đất mới chưa có mồ mả gì nên mụ không đến nỗi quá sợ, nếu không, chắc là mụ phải liều bỏ đi.
Một chiếc xe chạy trờ tới, mụ vội đứng lên giơ tay vãy, xe ngừng trước mặt mụ. Có lẽ thấy mụ ăn mặc không được tươm tất, anh lơ xe hỏi hơi gắt:
- Đi đâu đây?
- Xuân Lộc.
- Đây tới Xuân Lộc có bảy, tám cây số thì đi bộ cho rồi! Mười đồng, có chịu thì đưa tiền đây rồi lên xe, không thì thôi.
Mụ thấy không thể chờ lâu hơn nên đành lấy tiền đưa cho anh lơ rồi leo lên, nhưng xe đã chật nên mụ phải đứng ở cửa, chỗ gần anh lơ. Mụ ân hận đã leo lên cái xe này, nhưng đã quá trễ!
Buổi chiều khi mụ về đến ngã ba, chỗ rẽ về vùng kinh tế mới thì gặp lại lão Mịch. Từ hôm mụ nhậu với lão mụ chưa gặp lại. Bỗng dưng mụ đâm ra e lệ, còn lão Mịch thì cười cười, hỏi mụ:
- Đi đâu đây?
Mụ nhìn lại lão:
- Đi Xuân Lộc cất hàng chứ đi đâu nữa!
- Đưa tôi xách đỡ chị, mua gì mà nhiều dữ thần vậy?
Không đợi mụ trả lời, lão đưa tay đỡ gói hàng trên tay mụ, tay lão chạm tay mụ, một luồng cảm giác êm ái từ lão truyền sang làm mụ trở nên lúng túng. Mụ cũng ngạc nhiên với chính mình, không hiểu sao từ ngày nhậu chung với lão, mụ lại có cảm giác kỳ lạ mỗi khi gặp lão, làm như lão có một sức mạnh nào thôi miên mụ khiến mụ trở nên rụt rè, e thẹn như khi còn con gái. Trước đây, mụ ăn nói bạt mạng đâu có kiêng nể gì mà đâu có sao. Còn bây giờ mụ nói câu gì cũng thấy ngượng ngập. Mụ cố bắt chước khi xưa, ăn nói bừa bãi nhưng mụ vẫn thấy nó làm sao, không còn được tự nhiên nữa.
Trời đã nhá nhem tối, hướng tây chỉ còn sót lại một tảng mây đỏ đang đổi sang màu đen, nằm vắt ngang ngọn cây, bây giờ cũng màu đen, ở bìa rừng. Lão và mụ vẫn sóng bước trên con đường gồ ghề ở khu kinh tế mới, bước chân của mụ không còn vững nên đi hơi lảo đảo, lão Mịch cũng vậy, thỉnh thoảng vai của lão lại đụng vào vai của mụ, có lẽ lão cũng đã mệt, hay lão làm bộ? Nếu lão biết được mụ đang nghĩ gì, lão đã không phải làm như vậy.
Mụ lên tiếng, giọng hơi do dự:
- Ngồi đây nghỉ một lúc, mệt quá!
Vừa nghe mụ nói, lão đặt liền gói hàng xuống bên đường rồi ngồi xuống một mô đất ở cạnh đấy. Đến lúc đó mụ mới nhận ra là mụ đã mua quá nhiều hàng, nếu không gặp lão Mịch thì không biết làm thế nào mụ mang được chừng ấy thứ về đến căn chòi của mụ. Nhưng dù mệt, hai người đều cảm thấy vui, và cũng vì cái vui ấy, cơn mệt qua đi một cách mau chóng.
Mụ Tôn móc trong túi ra một cái bánh, mụ bóc bỏ lá, đưa cho lão Mịch:
- Ăn đi.
Lão Mịch đón lấy, nhìn vào mấy cái giỏ của mụ Tôn, hỏi:
- Có rượu không? tụi mình làm một ly cho lại sức!
Mụ Tôn sực nhớ lại cái đêm hôm trước, uống xong không còn ai biết trời trăng gì nữa, mặc dầu cũng có vui thật, nhưng ở chỗ nào kia, còn ở đây, giữa đồng không mông quạnh, lỡ trúng gió chết không ai biết đấy vào đâu, rồi còn hàng hoá của mụ nữa, mất nó là mụ hết đất sống. Mụ nói gạt đi:
- Thôi để bữa nào mình uống, lỡ ở đây mà trúng gió thì chỉ có nước đem chôn chứ không ai cứu nổi.
Lão tặc lưỡi:
- Ôi! chết bỏ, được uống với nhau, say với nhau thì có chết cũng sướng!
- Thôi đi ông, chỉ được cái nói bừa!
Lão cười, nụ cười của lão dưới ánh trăng làm cho lão nhìn quái dị hơn. Còn mụ Tôn, tuy nói vậy nhưng mụ cũng móc chai rượu đưa cho lão. Những giọt rượu tràn ra hai bên mép lão chảy xuống, lóng lánh dưới ánh trăng, và kéo dài thành một vệt sáng xuống tận cằm lão, lão lấy tay áo chùi mép rồi đưa lại chai rượu cho mụ:
- Uống một chút, không sao đâu!
Mụ cầm lấy chai rượu, thay vì uống, mụ đạy nắp lại, rồi cất vào giỏ:
- Mai mốt tôi uống, uống bây giờ để chết hay sao?!
Lão còn kỳ kèo định uống nữa, nhưng mụ Tôn nhất định không cho, mụ còn đủ tỉnh táo để biết rằng, nếu mụ giao chai rượu cho lão là cả hai sẽ ngủ lại đêm nay ở đây, hay ít nhất mụ cũng phải tự vác hết hàng hoá của mụ về.
Lão Tôn từ khi uống chút rượu vào lão thay đổi hẳn thái độ, lão quàng tay trên vai mụ, vít đầu mụ, và một lúc sau hàng khuy áo của mụ đã tung hẳn ra. Vừa lúc ấy mụ chợt nhận ra có bóng người từ vùng kinh tế mới đi về hướng hai người, mụ liền đẩy lão ra, cài lại nút áo, rồi đứng lên xách túi hàng tiếp tục đi. Lão Mịch thấy vậy cũng đứng lên theo mụ, lão vẫn còn tỉnh để nhận ra có bóng người đi đến thật.
Sau mấy năm mất mùa liên tiếp, khu kinh tế mới bắt đầu trở lại vẻ hoang vu như lúc trước, vì người nọ theo chân người kia bỏ về thành phố, người nào cũng ra đi lén lút, không chào từ giã người quen biết của mình. Những người còn lại chỉ thấy quang cảnh ngày một vắng vẻ, cỏ dại mọc tràn lan vào cả những nền nhà bỏ trống, nhiều thứ cây leo bò lên mái những ngôi nhà ấy. Người thấy rõ cảnh tan rã của kinh tế mới nhất là mụ Tôn, vì quán của mụ khách một ngày một vắng, và đến bây giờ thì kể như không còn buôn bán gì nữa.
Kế sinh nhai của mụ bây giờ là đến những nhà người ta đã bỏ, mót những thứ chủ nhân đã để lại, hoặc khi họ đi những thứ ấy chưa có. Đôi khi mụ còn kiếm được những qủa bầu, bí, nằm lẫn trong những bụi cỏ. Nhờ người khác bỏ đi mà mụ kiếm ăn tương đối dễ dàng. Cả khu kinh tế mới rộng mênh mông mụ có thể đi bất cứ nơi nào, miễn là nơi đó có nhà bỏ hoang là mụ có ít nhiều hy vọng kiếm ăn được, mà nhà bỏ hoang bây giờ thì nhiều quá, nhiều đến nỗi mụ đi không xuể nữa. Kiếm ăn theo kiểu này chỉ một thời gian ngắn sau là mụ có kinh nghiệm. Mụ đứng nhìn quanh quất nơi nào có màu vàng và màu xanh của hoa lá là mụ đi đến, nhất là những giàn mướp giàn bầu bỏ hoang. Ở những nơi ấy chẳng những mụ có thể tìm được hoa quả mà cả khoai sắn, mặc dầu không nhiều vì không có ai chăm sóc, và bị cỏ mọc lấn lướt, nhưng vì người ở còn quá thưa thớt nên mụ vẫn còn sống được.
Một ngày nào đó, chắc chắn ngày đó cũng không còn xa, người ta sẽ bỏ đi hết, chỉ còn một mình mụ trong cái cánh rừng bao la này, vì đây sẽ thật sự trở thành rừng như trước khi nó biến thành khu kinh tế mới, lúc đó chắc chắn mụ cũng sẽ bỏ đi, nhưng đi đâu thì mụ chưa biết, vì mụ chẳng có một người thân nào trên cõi đời này, và cũng không có một nơi nào mà mụ biết được, nếu đến mụ sẽ có một chỗ để nương thân.
Mụ bỗng nhớ đến lão Mịch, lâu nay không thấy lão đến thăm mụ nữa, có lẽ lão cũng đã bỏ đi. Mụ bỗng cảm thấy như có gì chận ở cổ họng. Thời buổi này người ta sống với nhau theo kiểu ấy! hôm trước gặp nhau còn thế này thế nọ, hôm sau thì đã hết, ra đi không nói với nhau một lời từ giã, người gì mà tệ bạc đến như vậy!
Buổi chiều khi nắng đã nhạt, mụ Tôn ra ngồi trước cửa nhìn ra ngoài. Trước mặt mụ, cánh đồng mọc đầy cỏ dại mà phần đông là cỏ tranh, ngọn nó cũng cao như ngọn lúa mà còn có phần cao hơn. Khi gió thổi, những bông cỏ màu trắng lay động chập chờn. Trong khoảnh khắc mụ mơ thấy Sài Gòn náo nhiệt mà một thời xa xưa mụ đã sống ở đó. Mụ biết là mụ sẽ về.
Vẽ rồng
Thằng Đậu vừa đi vừa vạch quần vẽ rồng trên con đường đất đi về xóm, những giọt nước đái rơi xuống thành một vệt dài, ngoằn nghoèo theo kiểu chữ "chi", vì nó nghĩ phải vẽ theo kiểu đó, con rồng của nó mới có vẻ đang bay! Đó là thú chơi của thằng Đậu trên con đường về xóm trong những lúc vắng người như ngày hôm nay.
Xóm nó chỉ có mấy gia đình, tụ chung quanh cái cầu bên cạnh rạch. Ngoài nhà nó còn có nhà thím Bảy, chú Nhiều, ông Tư- điếc và mấy căn nhà nữa là hết.
Xóm nó nghèo, nghèo tàn nhẫn, vì nhà nào cũng chỉ có một mái tranh lụp xụp, giàu nhất có lẽ là nhà chú Nhiều, lợp tôn, mấy tấm tôn mới sáng rực lên mỗi buổi sáng, khi mặt trời bắt đầu lên đến đỉnh ngọn cây dừa ở nhà nó.
Bao giờ đứng trên đường nhìn vào xóm, thằng Đậu cũng thấy rõ nhất căn nhà chú Nhiều, vì nó thấy mấy tấm tôn vẫn còn rực sáng trong đám dừa nước xanh um của xóm nó.
Thằng Đậu thường đi một mình ra tít tận con đường nhựa cách nhà nó cả cây số, rồi đứng nhìn xe cộ chạy ngược xuôi trên đường. Con đường trơn tru, đen bóng, lại rộng thênh thang là biểu tượng của văn minh thành thị mà nó chưa bao giờ biết đến. Nó nghe nói ở thành phố nhà cửa san sát, có nhiều cái cao nghệu, ban đêm đèn điện sáng trưng, ở đó người nào cũng sang, cũng đẹp. Cứ nhìn những người đi xe trên con đường nhựa dẫn về thành phố cũng biết! Người nào quần áo cũng đẹp, mặt mày sáng sủa, họ như ở một thế giới khác không liên quan gì cái thế giới mà thằng Đậu đang sống là cái xóm nghèo ở trong kia.
Thằng Đậu hết nhìn về xóm lại quay lại nhìn con đường nhựa mà nó mới từ đó trở về, trên đường xe cộ vẫn cái ngược cái xuôi, có nhiều cái trông rất đẹp, vừa nhỏ lại vừa chạy nhanh, nó mới nhìn thấy đã mất hút ra ngoài tầm mắt của nó. Đã vậy, có xe còn có cả kèn, tiếng kèn của nó nghe mới vui tai làm sao! Tưởng tượng nếu được ngồi trên ấy chắc là thích lắm! Đi mãi, đi mãi, chắc đụng chân trời đằng kia, và ở đấy chắc là thành phố nơi mọi người nói đến.
Nhìn lại một hồi thằng Đậu mới lại quay đầu về xóm. Bây giờ thì nó chạy, nó thường chạy, không nhanh thì chậm, ít khi nào nó đi, chỉ trừ lúc nó muốn vẽ rồng trên đường như lúc nãy, vì vừa nhạy vừa vẽ khó lắm, nó tưng tức làm sao ấy!
Khi về đến nhà thì mẹ nó cũng mới từ ngoài đồng về, người bà lấm lem, cái ống quần đen bà vẫn còn sắn lên quá đầu gối, bà cầm cái nón, vừa ngồi ở đầu thềm vừa quạt, làm mấy sợi tóc xòa trước trán bị uốn cong lên theo chiều gió, xong lại rớt xuống trán mỗi khi mẹ nó hạ cái nón xuống. Bà có vẻ mệt, vì mồ hôi còn lấm tấm trên trán.
Bà đang ngồi quạt, thấy nó về, bà hỏi:
- Mày đi đâu về vậy, Đậu?
- Con ra ngoài đường đứng nhìn xe chạy.
- Tiên sư cha mày, ra ngoài đó có ngày bị xe cán chết, mày không thấy ông Năm bị xe cán chết năm ngoái, a? Ra quán chú Nhiều, nói, bán cho mẹ cháu mười đồng đường, ngày mai mẹ cháu trả tiền. Mua xong về liền không được đi chơi nghe chưa, suốt ngày giang nắng rồi ốm đau, khổ cả tao! Còn bố mày đi đâu cũng chưa thấy về nữa, chắc lại nhậu ở đâu đó chứ gì, có mấy trái cóc, trái xoài mà chỗ nào cũng uống được, tí nữa say, về lại hành tao!
Thằng Đậu bỏ đi, mẹ nó bắt đầu kể lể là nó bỏ đi, bao giờ cũng vậy. Khi không giận ai ở đâu đâu về bà cũng nói với nó, làm như nó là nơi bà trút mọi nỗi giận dữ của bà!
Nó định sang chơi nhà con Thắm, nhưng khi vừa mới đến trước cổng nó sực nhớ ra lời mẹ nó dặn, lại chạy ngược trở lại quán chú Nhiều mua đường cho mẹ nó. Lỡ ham vui mà quên mua là lúc về thế nào bà cũng cốc cho một cái vào đầu, đau điếng!
Chú Nhiều, mặc chiếc quần cụt, mình trần, đang đứng trước quán thấy nó chạy đến, hỏi:
- Gì vậy, mày?
Nó rụt rè:
- Mẹ cháu nói sang chú mua chịu mười đồng đường.
- Má mày cái gì cũng mua chịu, về nói với má mày, mười đồng nữa là năm chục đồng rồi đấy, liệu trả tao!
Thằng Đậu nói lí nhí trong cuống họng, chú Nhiều cũng không nghe được, rồi chạy thẳng về nhà, nó ngại nhất là đi mua chịu coi kỳ cục làm sao, đôi khi còn bị chú Nhiều nói này nói khác, hình như mẹ nó cũng ngại gặp chú Nhiều thì phải, nên mỗi khi hết tiền mà muốn mua gì mẹ nó lại đẩy nó đi.
Về đến nhà nó trao gói đường cho mẹ nó, rồi lại quay đầu chạy sang nhà con Thắm. Ở trong xóm chỉ có nó với con Thắm là cùng lứa tuổi, thành thử hai đứa nghim nhiên trở thành bạn không có sự chọn lựa nào, giá có một thằng nữa bằng tuổi nó thì vui biết mấy, đằng này con Thắm, cái thứ con gái, đi xa một chút là kêu mệt, nhiều khi còn khóc nữa chứ, thật là bực mình! Vì vậy, mỗi khi muốn đi chơi xa nó đi một mình, như vừa rồi nó ra tận đường nhựa, còn bây giờ trở về xóm nó lại chơi với con Thắm vậy.
Con Thắm ngồi ở đầu thềm đang gắn mấy bông hoa lên mái tóc, thấy nó sang, cười, chìa mấy cái răng sún:
- Tao làm cô dâu này, đẹp không?
Thằng Đậu cũng cười:
- Ê, mày "quê"! có cô dâu thì phải có chú rể, chú rể đâu?
- Đâu cần, tao làm cô dâu một mình. Hay mày làm chú rể đi.
- Thôi tao chẳng chơi cô dâu, chú rể đâu, chán thấy mồ! Mày có đi bắt nhái với tao không?
- Đi thì đi.
Thằng Đậu biết là bắt nhái không phải là d, nhưng nó muốn đi, bất cứ là đi đâu, nó không thể ngồi yên vì không có gì chán bằng ngồi một chỗ.
Hai đứa đi dọc theo bờ rạch, vừa đi vừa nhìn vào mấy bụi cỏ dọc theo bờ. Dù đã đi thật nhẹ nhàng mấy con nhái cũng vẫn biết, nên khi hai đứa chưa nhìn thấy nhái đâu cả, thì đã nghe những tiếng "tõm" "tõm" trên mặt nước. Những con nhái màu xanh rêu lại có sọc nâu thi nhau lao đầu xuống rạch, mà con nào cũng như trêu tức nó, búng đôi chân sau, đưa thân mình lên thật cao cho tụi nó thấy, xong mới bắt đầu chúi xuống theo đường cầu vồng. Khi bắt đầu xuống nước, con nhái lặn một mạch đôi khi không còn biết nó nổi chỗ nào nữa, nhưng cũng có con mới lặn được một chút đã nổi lềnh bềnh trên mặt nước, giơ chân sau lên như thách thức thằng Đậu, đã vậy đôi mắt chúng còn mở thao láo nhìn lại hai đứa đang đứng trên bờ nhìn theo.
Bây giờ trò chơi của hai đứa không còn là bắt nhái nữa nhưng nhìn nhái nhảy. Trò chơi này cũng vui, đủ hấp dẫn đối với chúng nó.
Khi đã đi khá xa, đến một cây cầu khác, thằng Đậu thấy nóng nực, rủ con Thắm:
- Tao muốn tắm một cái, mày có tắm không?
Con Thắm cũng thích tắm lắm, nhưng nó sợ mẹ nó biết sẽ đánh nó:
- Thôi tao chả tắm đâu, mẹ tao biết đánh tao chết!
- Vậy mày ngồi trên cầu chờ, tao tắm một cái.
Mới nói xong thằng Đậu cởi quần áo nhảy xuống rạch, làm nước bắn tung tóe lên cả quần áo con Thắm:
- Mày làm ướt quần áo tao rồi nè!
Thằng Đậu không còn nghe tiếng con Thắm nữa, nó bơi vòng vòng chung quanh chân cầu gỗ, từ bên này sang bên kia rồi ngược lại.
Con Thắm đứng trên bờ nhìn xuống thấy cái thân hình rắn chắc và đen đủi của thằng Đậu lướt trên mặt nước, nó thấy thằng Đậu oai quá, làm cái gì cũng giỏi hơn nó, nhưng nó bực mình vì thằng Đậu làm cái gì cũng tự ý không hỏi nó xem có chịu đứng đợi hay không, làm như thằng Đậu đi chơi một mình không có nó ở bên cạnh.
Khi không chịu nổi nữa, con Thắm hét lên:
- Thôi!
Tiếng hét lớn quá làm thằng Đậu giật mình nhìn ngược trở lại:
- Gì vậy?
- Đi về, tao không chờ mày nữa đâu!
- Ừ, thôi mày về trước đi.
Con Thắm điên tiết:
- Tao nói thôi là thôi, tao không cho mày tắm nữa.
Thằng Đậu hơi ngẩn người, nó thấy con Thắm thật vô lý, nhưng khi nhìn thấy mắt con Thắm đỏ hoe, nó biết là con bé sắp khóc, nó lật đật lên bờ mặc quần áo lại.
- Làm gì mà mày khóc?
- Còn làm gì à? Mày xuống tắm một mình bắt tao phải đợi mày.
- Thì tao rủ mày không tắm thì tao phải tắm chứ.
- Tao không tắm là mày không được tắm.
Thằng Đậu thấy con Thắm nói ngang, nó có cảm tưởng mơ hồ đàn bà con gái ai cũng vậy, nên nó dịu giọng:
- Ừ thì về, nhưng mày đừng khóc nữa.
Con Thắm vùng vằng:
- Tao không chơi với mày nữa!
- Thôi mà, không chơi, không chơi hoài!
Hai đứa đi ngược trở về xóm, thằng Đậu đi trước, con Thắm đi sau, lần lũi không nói năng. Thằng Đậu biết con Thắm còn giận nó. Bỗng một con cào cào từ một bụi cỏ lao lên như một mũi tên, rồi xoè đôi cánh ngoài màu nâu, và cả đôi cánh lụa bên trong màu đỏ, rồi xè xè bay mất. Cảnh này thằng Đậu thấy hằng ngày nhưng nó muốn làm lành với con Thắm nên quay lại:
- Mày có thấy con cào cào đẹp không? Đôi cánh đỏ chót!
Con Thắm thấy tội nghiệp, nhoẻn miệng cười:
- Ừ, đẹp há!
Mặt trời đã khuất sau lùm cây ở chân trời xa, cánh đồng thành màu nâu sẫm, gió làm ngọn lúa lay động, nhìn xa như những đợt sóng nhấp nhô. Một đàn chim bay trên nền trời xanh làm cả hai đứa ngước lên nhìn:
- Nếu có đôi cánh tao bay đi chơi, mày có bay theo tao không?
- Bay, nhưng mày đừng bắt tao phải chờ như hồi nãy.
- Ừ, tao không bắt mày chờ nữa.
Khi thằng Đậu về đến nhà, nó mới nhớ ra lời mẹ nó dặn hồi chiều là không được đi chơi nữa, nó lấm lét nhìn mẹ nó, nhưng bà đã quên. Thấy nó, bà nói:
- Mày lấy bát đũa và bê nồi cơm lên đặt trên bộ ván rồi gọi bố mày ra ăn cơm.
Thằng Đậu từ lúc đi chơi về nó thấy đói cồn cào nhưng không dám giục sợ bị mẹ mắng, bây giờ nghe nói đến ăn cơm nó ngoan ngoãn làm theo lời mẹ nó dặn. Bố nó từ khi đi nhậu về ông hơi khó chịu nằm trong nhà, nghe mẹ nó nói cũng đã trở dậy đi ra ngoài hiên. Vừa thấy bố nó bà đã nói:
- Bố thằng Đậu ăn xong đến nhà thím Bảy họp tổ, thím ấy mới gọi đấy. Ông liệu nhậu vừa vừa thôi, lần trước tụi nó đã lôi ra tổ mổ xẻ tùm lum mà ông không chừa, có chút rượu vào rồi là nói năng không giữ gìn gì nữa, cái miệng hại cái thân!
Bố thằng Đậu hết rượu là ông xìu, ông trả lời mềm xèo:
- Ừ, chút nữa tôi đi, không có gì đâu!
Thằng Đậu cắm cúi ăn, những chuyện bố mẹ nó nói với nhau nó nghe hoài đâm chán. Khi ăn đã no nó buông đũa chạy ra ngoài chơi. Bên ngoài trời đã bắt đầu tối, mấy đám mây ở chân trời đang chuyển từ màu hồng sang đỏ sậm, và rồi đen lại như trái cây chín quá bắt đầu thối. Mấy ngôi nhà trong xóm bắt đầu lên đèn, những ngọn đèn dầu leo lét đỏ như mắt ma nó thường nghe được trong những câu chuyện mấy người kể với nhau. Tuy vậy nó không thấy sợ vì bên nhà chú Nhiều hai vợ chồng đang cãi nhau, nó nghe tiếng ném đồ đạc ra ngoài sân rồi tiếng la hét của thím Nhiều, rồi tiếng khóc. Thím Nhiều nghi chú ấy lẹo tẹo với cô Tâm nào đó nên vợ chồng thường lục đục đánh nhau. Có lần thím Nhiều rượt chú ấy chạy cùng xóm, vừa chạy vừa khóc, nghe nói lần ấy thím bắt được quả tang nên làm dữ, còn chú Nhiều biết mình có lỗi nên nín khe chẳng thấy nói gì. Nhưng không phải lúc nào thím ấy cũng thắng thế, cũng có khi bị chú ấy rượt lại. Thằng Đậu thấy người lớn làm nhiều chuyện cũng tức cười quá, nó và con Thắm là con nít thì không nói làm gì, đằng này người lớn cũng vậy!
Đứng nhìn một lúc chán mắt nó trở về nhà, leo lên bộ ván đạt trước hiên nằm nhìn ra ngoài. Bầu trời bây giờ đã đổi sang màu đen, một hai ngôi sao lấp lánh, một con cò bay ngang qua, nó chỉ thoáng thấy một vệt trắng mờ trên trời. Cây dừa trước nhà nó bây giờ đen thui, lá rũ xuống và hơi lay động theo chiều gió như một người xõa tóc. Thằng Đậu còn nghe được tiếng "ộp" "ộp" của ếch nhái ở mấy thửa ruộng gần nhà và cả tiếng "chít" "chít" của con chuột đang chạy dưới bộ ván nó đang nằm. Những hình ảnh và tiếng động ấy mỗi lúc một mờ dần, và rồi thắng Đậu ngủ quên lúc nào không biết.
Năm năm sau thằng Đậu lớn ngồng, nó bắt đầu phải làm việc, thường là bắt cua, bắt ốc, bắt cá, dọc theo con rạch nó đã đi chơi với con Thắm khi xưa. Nhiều ngày nó ngâm mình dưới nước từ sáng đến tối. Vì thế nó nhận ra ở lâu dưới nước chẳng có gì thú vị như khi nó tắm, đúng hơn nó bắt đầu chán lội nước, chán công việc hằng ngày của nó. Mỗi khi mệt nó thường leo lên bờ ngồi nghỉ, có khi nó nằm xuống bãi cỏ nhìn lên bầu trời bao la ở trước mặt. Bầu trời rộng như vậy mà nó cả ngày phải quanh quẩn trong cái xóm nghèo nàn, lèo tèo vài nóc nhà tranh, cả ngày mình mẩy lấm lem và ướt át!
Một hôm nó đang ngồi nghỉ dưới gốc cây bên bờ rạch thì con Thắm đi qua. Hằng ngày nó vẫn gặp con Thắm, nhưng hôm nay không biết con Thắm đi đâu về mà mặc một cái áo màu hồng mới, tóc tai được chải chuốt gọn ghẽ, lại kẹp một cái kẹp bằng thứ gì sáng lóng lánh ở phía đằng sau. Thằng Đậu bỗng thấy con Thắm đẹp hẳn ra, không còn là con Thắm mặt mũi lem luốc và hay khóc nữa, nhưng là một cô gái. Tự nhiên nó cảm thấy mặt nóng bừng bừng, và cả con Thắm hình như cũng vậy, nó thấy cô ta làm ra vẻ mặt nghiêm trang, không còn cười toe toét như ngày xưa mỗi khi hai đứa nhìn thấy nhau.
Nó làm ra vẻ tự nhiên:
- Đi đâu vậy?
- Mua thuốc cho mẹ.
Cả hai đứa tự nhiên đều nói trỗng, nhưng không đứa nào nhận ra điều đó.
- Ngồi xuống đây nói chuyện một chút.
Thắm cười bẽn lẽn:
- Thôi, còn phải về sắc thuốc cho mẹ.
Nói rồi con Thắm bỏ đi không ngoái cổ nhìn lại như mọi lần, nhưng thằng Đậu thì nhìn theo mãi cho tới khi con Thắm khuất sau khóm dừa ở đầu xóm. Bây giờ dù không nhìn thấy con Thắm nữa nhưng nó vẫn ngồi suy nghĩ mung lung. Nó cảm thấy như trong thân thể nó có gì biến chuyển một cách kỳ cục. Hồi xưa con Thắm đi giang nắng với nó cả ngày, thậm chí có khi hai đứa còn cởi quần xuống tắm ở rạch nước này cả buổi mà đâu có thấy làm sao, con Thắm cũng như nó vậy thôi, có khác nhau cũng chỉ khác chút xíu có ăn nhằm gì. Ấy vậy mà hôm nay nó cảm thấy con Thắm có gì bí mật nó muốn khám phá và điều ấy cũng rất hấp dẫn và lôi cuốn. Mà không phải chỉ có thế, khuôn mặt con Thắm thì nó lạ gì và cũng có gì bí mật đâu, vậy mà đối với thằng Đậu bây giờ, cái mặt con Thắm như có gì rất hấp dẫn, nó muốn nhìn mãi, nhìn hoài. Khốn thay khi nó nhận ra được những điều ấy nơi con Thắm thì cô ta lại tỏ ra lạnh nhạt với nó, làm bộ nghiêm trang mỗi khi gặp nhau, có khi còn nhìn ra chỗ khác.
Thằng Đậu ngồi nghĩ hết chuyện này sang chuyện khác, nó mong chóng lớn hơn nữa để kiếm được nhiều tiền hơn, đến khi đó nó sẽ nói với bố mẹ nó sang hỏi con Thắm làm vợ, mà chẳng biết cô ta có bằng lòng không, nó nhớ đến lần con Thắm rủ nó chơi trò cô dâu chú rể nó đã không chịu, bây giờ nghĩ lại nó thấy hết nỗi ngớ ngẩn của mình. Không biết con Thắm có còn nhớ chuyện đó không, nếu cô ta nhớ chắc là sẽ giận nó. Hồi xưa nếu con Thắm giận nó thì chỉ một lúc sau là hết, bây giờ thì coi bộ hơi khó, mặt cô ta lúc nào cũng có vẻ khó đăm đăm, hay là đã mê thằng nào ở đâu đó, biết đâu đấy!
Suốt cả buổi chiều hôm đó thằng Đậu nghĩ ngợi hoài về con Thắm, nó chẳng còn chăm chỉ mò cua bắt ốc nữa, thành ra khi trời sụp tối nó mới trở về mà không được bao nhiêu, nó phải nói dối mẹ nó là nó bệnh nên làm được ít.
Từ ngày hôm đó, đi đâu nó cũng cố đi ngang nhà con Thắm, cốt ý nhìn thấy con Thắm một lần rồi có làm gì nó mới yên tâm.
Nhưng hình như nó càng để ý đến con Thắm bao nhiêu thì lại càng ít gặp bấy nhiêu, làm như con Thắm cũng biết ý nó nên cố lẩn tránh. Có điều lạ là hồi này con Thắm có vẻ đẹp thêm lên, trắng hơn trước nhiều, mái tóc đã dài lại đen mượt, quần áo lúc nào cũng có vẻ sạch sẽ, lại đẹp nữa. Mỗi khi nhìn thấy con Thắm ở đâu nó cũng làm bộ nháy mắt rồi cười, nhưng cô ta lại quay đi chỗ khác làm như không nhìn thấy nó.
Ngày lại qua ngày, thằng Đậu càng trở nên bồn chồn, nóng nảy, làm cái gì và ở đâu nó cũng nhớ đến con Thắm, nó tưởng tượng như cô ta đang cười với nó, đêm ngủ nó nằm mơ đi chơi với con Thắm ở cánh đồng sau nhà, hai đứa chạy nhảy nô đùa cho đến khi mệt thì nằm xuống bãi cỏ. Khi tỉnh dậy nó tiếc hoài, phải chi giấc mơ kéo dài thêm một chút nữa. Sau đó nó còn mơ nhiều lần nữa, vừa lúc nó định ôm con Thắm thì nó giật mình tỉnh giấc, và rồi đêm nào nó cũng không ngủ lại được với những giấc mơ như thế.
Thằng Đậu quyết tâm nếu gặp con Thắm nó phải nói hết nỗi lòng của nó.
Một hôm nó gặp con Thắm trên con đường đất từ xóm dẫn ra quốc lộ, mới nhìn thấy con Thắm từ xa nó đã luống cuống, trống ngực đập liên hồi, nó nhìn trước nhìn sau rồi lên tiếng gọi con Thắm, và không biết ma đưa lối, quỷ dẫn đường hay sao mà nó lại nói:
- Tao nhớ mày quá!
Con Thắm đang đi, vừa đứng lại thì nghe câu nói kỳ cục, chợt đỏ mặt e lệ:
- Anh kỳ quá, lớn rồi mà cứ mày, tao hoài!
Lần đầu tiên thằng Đậu nghe con Thắm gọi nó bằng anh. Ôi chao! Từ hồi nào đến giờ chưa có ai gọi nó bằng cái tiếng êm đềm ấy. Nó ấp úng mãi mới nói được câu thứ hai, trong khi con Thắm mặt cúi gầm, ngón chân cái di di trên mặt đất.
- Nói thật đi mày có nhớ tao không?
- Anh cứ mày, tao hoài, nghe kỳ cục quá!
- Bị quen rồi!
- Thôi bữa khác gặp, đứng ở đây lỡ có ai thấy thì chết!
Vừa nói con Thắm vừa quay đi và thằng Đậu thì ngẩn người nhìn theo, nó gần như á khẩu, muốn nói mà không biết nói gì nữa, khi bình tĩnh lại thì con Thắm đã đi được một quãng xa. Thằng Đậu nhìn thấy màu áo hồng của con Thắm in đậm trên nền xanh của những ruộng lúa chung quanh.
Khi nghĩ về cuộc gặp gỡ vừa qua, nó mới nhận ra mấy câu nó hỏi không câu nào con Thắm trả lời, nhưng nó cảm thấy sung sướng vì được con Thắm gọi bằng anh, và mặc dầu những lời con Thắm nói có vẻ trách móc nhưng nghe êm ái làm sao, nhất là lời hứa sẽ gặp lại làm nó tràn trề hy vọng.
Trên đường về nhà, thằng Đậu nhìn cảnh vật chung quanh thấy cái gì cũng đáng yêu, đáng mến. Nó cất tiếng hát nho nhỏ, đúng hơn, nó hát trong trí những câu hát tình tứ hồi xưa mà nó chỉ còn nhớ được lõm bõm.
Nắng muộn thu vàng
Phồn dọn về chỗ ở mới, đó là căn "flat" có hai phòng ngủ hắn thuê chung với một cặp vợ chồng mới cưới. Kể ra sống chung như vậy cũng phiền, nhưng được cái đỡ tốn tiền! Hơn nửa, ở một mình cũng chẳng vui vẻ gì, đêm ngày vò võ chỉ có một mình, quanh ra quẩn vào chỉ thấy bốn bức tường vôi, buồn có thể chết được! Những thú tiêu khiển thì chỉ có thể tưởng tượng thôi, vì làm gì cũng cần phải có tiền. Hắn mới đi làm được ít ngày thì đào đâu ra tiền để tiêu khiển. Vừa dọn dẹp xong là hắn ngả mình xuống tấm đệm ở góc phòng, định tâm chỉ nằm nghỉ một lúc nhưng rồi ngủ quên luôn, đến khi tỉnh dậy thì trời đã tối. Hắn nhận ra điều ấy khi nhìn qua cửa sổ, chân trời phía tây đã xám lại và ngọn đèn chiếu sáng một khoảng đường trước phòng hắn, hắn nhắm mắt định ngủ luôn đến sáng nhưng càng nằm càng cảm thấy tỉnh táo nên đành đứng dậy đi ra ngoài phòng khách bật ti vi ngồi xem.
Phòng bên, cặp vợ chồng mới cưới đã đóng cửa tắt đèn, nhưng hắn vẫn nghe được những tiếng động nho nhỏ và cả tiếng thì thầm. Hắn đành tắt ti vi trở vè phòng mình.
Nhìn lại căn phòng hắn cảm thấy cô đơn và nhớ đến cô bạn gái hắn mới gặp cách nay ít ngày.
Nguyệt cũng chẳng xa lạ gì đối với hắn vì cả hai cùng ở một tỉnh lẻ lại học chung trường. Hồi đó hắn chẳng có chút bận tâm nào về Nguyệt, nàng bình thường về mọi phương diện, nhất là khi đó hắn còn mải đeo đuổi những bông hoa khác đẹp hơn, quyến rũ hơn. Nhưng tiếc thay hắn lại không đủ điều kiện với các nàng, thành ra hắn luôn luôn là kẻ thất tình.
Người ta thường nói "quả đất tròn" mỗi khi tình cờ gặp lại nhau ở nơi xa lạ, trường hợp hắn gặp lại Nguyệt cũng như vậy.
Một hôm nhàn rỗi, hắn vào một siêu thị, chỉ cốt ý nhìn hàng hoá cho vui mắt, hắn thấy một thiếu nữ á đông thỉnh thoảng lại nhìn hắn, đến khi hắn nhìn lại thì nhận ra Nguyệt ngay:
- Có phải Nguyệt không
- Ồ! anh Phồn, tình cờ quá nhỉ, anh sang đây từ bao giờ?
Trước đây, khi còn ở quê nhà, mỗi khi gặp nhau ngoài đường hai người đều làm ra vẻ xa lạ, ấy vậy mà gặp nhau ở đây lại trở nên thân mật một cách dễ dàng. Khung cảnh thật cần thiết cho các cuộc gặp gỡ, không có nó đôi khi người ta lúng túng chẳng biết khởi đầu như thế nào. Sau khi nhận ra nhau, Nguyệt kể lể đủ thứ về cuộc đời nàng cho hắn nghe. Đàn đàn bà mà có nhiều biến cố quá như Nguyệt, nếu có lấy làm vợ cũng dễ gây ra nhiều nỗi băn khoăn cho cả hai người, nhưng gần đây hắn vẫn nhớ đến nàng mỗi khi cảm thấy cô đơn.
- Hay là lấy Nguyệt làm vợ cho xong chuyện!
Hắn thường nhủ thầm, nhng rồi cũng chẳng quyết định được gì. Thật ra hắn lạc quan thái quá, hắn chưa dò ý Nguyệt, ấy vậy mà hắn nghĩ nếu hắn ngỏ lời thế nào Nguyệt cũng chấp nhận. Đàn bà họ thích làm ra vẻ quyến rũ đối với đàn ông nhưng khi được hỏi ý thì họ lắc đầu, kinh nghiệm bao lần đã cho Phồn biết điều ấy, thế mà hắn vẫn không chừa!
Hồi ấy hắn yêu Kim, cũng là bạn của Nguyệt. Lúc đầu khi mới gặp, Kim có vẻ để ý đến hắn, thỉnh thoảng lại liếc trộm làm hắn có cảm tưởng là mình đẹp trai, nhưng khi hắn ngỏ lời thì nàng lắc đầu:
- Kim chưa nghĩ đến vấn đề đó.
Hắn khổ sở vì Kim một thời gian, mãi sau mới quên được, bây giờ nghĩ lại hắn vẫn cảm thấy đau như một vết thương đã lành, nhưng mỗi khi trở trời lại nhức nhối trở lại. Đến bây giờ bình tâm mà xét, hắn thấy Kim cũng chẳng có gì ghê gớm đến độ hắn phải đau khổ đến thế. Chẳng hiểu Nguyệt có biết gì về việc hắn tỏ tình với Kim mà bị từ chối không, nàng cũng có thể chơi lại trò chơi của Kim lắm, đàn bà họ rất giống nhau trong việc quyến rũ và đối phó đối với đàn ông, nhưng đối với hắn bây giờ thì Nguyệt có ba đầu sáu tay cũng không làm cho hắn ngất ngư được, hắn tin thế.
Vì cặp vợ chồng mới cưới nên hắn lại lan man nghĩ đến Nguyệt và rồi hắn ngủ lại lúc nào không biết, đến khi đồng hồ reo hắn mới lật đật trở dậy thay quần áo để đi làm. Khi ra đến ngoài phòng khách thì đã thấy người vợ đang ngồi chải đầu ở góc phòng, hắn nhìn thấy mặt nàng qua tấm gương với vẻ vui tươi nhưng thoáng qua một chút mệt mỏi. Biến cố hôn nhân làm thay đổi mọi sự trên người con gái, họ có vẻ chững chạc, có vẻ "bà" thực sự dù chỉ qua một đêm ngắn ngủi. Khi thoáng thấy Phồn đi ngang qua, nàng quay lại:
- Tối hôm qua chú ngủ được không?
Hắn mỉm cời:
- Tôi ngủ như chết chẳng biết "trời trăng" gì. Hắn đứng lại, quay mặt nhìn vào gương nơi Nga đang soi, mãi sau Phồn mới biết tên nàng. Nga cũng ngồi quay lại:
- Tối hôm qua nóng quá. Trời đất ở đây thật lạ, hôm nóng hôm lạnh!
- Ở đây còn đỡ đấy, ở Melbourne người ta nói một ngày có đến bốn mùa. Anh ấy đâu rồi?
- Nhà tôi mới đi làm.
Nga lấy tay lật mấy sợi tóc lòa xòa ra đằng sau, lọn tóc được nâng lên khiến hắn nhìn thấy một tảng da trắng ngần nơi gần gáy. Hắn vội quay đi:
- Thôi tôi cũng đi làm kẻo trễ mất.
Buổi chiều khi hắn trở về thì thấy Nga đang lúi húi ở bếp, hắn đi vội vào phòng mình lấy quần áo rồi vào phòng tắm. Một ngày làm việc cực nhọc khiến hắn mệt nhoài. Hắn mở nước thật mạnh, những tia nớc bắn vào da thịt gây cảm giác khoan khoái dễ chịu. Khi tắt vòi nước hắn nghe có tiếng nói ở bên ngoài, biết là chồng Nga đã về, hắn vội lau khô người rồi mặc quần áo đi ra ngoài. Phồn thoáng thấy anh chồng đứng sau lưng vợ, đưa tay vuốt mái tóc Nga, nàng thì đang xào nấu gì đó, hắn nghe tiếng mỡ reo trên chảo và mùi thơm bốc ra, hắn định đứng lại nói dăm ba câu chuyện nhưng rồi thấy bất tiện nên đi thẳng về phòng mình. Buổi chiều mùa hạ, sáu giờ chiều trời vẫn nắng chang chang, cây cỏ như héo rũ xuống dưới sức nóng thiêu đốt của một ngày. Hắn nhìn ra ngoài cửa sổ, mụ hàng xóm chỉ mặc mỗi cái quần ngắn và chiếc áo cộc đến sát nách, lại rộng thùng thình đang thu dọn quần áo trên dây phơi, tấm thân thừa thãi của mụ rung rinh mỗi khi mụ di chuyển. Dưới bóng cây đào ở cuối vườn một con chó đang nằm, mõm gác trên đôi chân chụm lại ở phía trước và đang ngước nhìn mụ.
Phồn bỗng nhớ đến những ngày mùa hạ ở quê nhà, những kỳ nghỉ hè ba tháng khi còn đi học, những chạy nhảy nô đùa của thời niên thiếu mà hắn không bao giờ quên. Tiếng nói chuyện của cặp vợ chồng ờ chung nhà và người khách lạ kéo hắn về thực tại. Phồn mặc vội quần áo rồi đi ra ngoài, khi đi ngang phòng khách hắn khẽ gật đầu chào mọi người rồi đi thẳng, khi đã đi khuất sau cánh cửa hắn còn nghe đợc câu hỏi từ trong nhà vọng ra:
- Ai đó?
Phồn không kịp nghe câu trả lời nhưng hắn cũng đoán được. Sau khi ăn xong bữa cơm tối Phồn lại trở về, thấy cửa đóng, hắn móc chìa khóa ra định mở thì cảnh cửa bật ra, hai vợ chồng người ở chung nhà đi ra, ng ười vợ có vẻ diện hơn mọi hôm, nàng trang điểm khá khéo nên trông đẹp hẳn ra. Họ có vẻ hạnh phúc, nh ưng cuộc hôn nhân nào chẳng hạnh phúc, nhất là trong giai đoạn đầu. Phồn đứng nép vào một bên đề nh ường đ ường, sau đó hắn mới b ước vào.
Căn phòng khách bây giờ vắng lặng. Ly, tách đã đ ược dẹp đi, nh ưng những vết tròn của chân ly trên mặt bàn nhỏ còn sũng nước, hắn không về phòng mình nh ưng lại ngồi xuống ngay chỗ Nga ngồi khi nãy, hắn như cảm thấy có gì mất mát trong lòng.
- Không thể như thế được!
Phồn nhủ thầm, rồi đứng dậy đi về phòng mình. Bên ngoài, bầu trời nh ư sẫm lại, cây dương trước cửa bây giờ chỉ còn là một bóng đen sừng sững. Một chiếc xe chạy vội trên con đường vắng rồi tiếng động nhỏ dần và mất hút, trả lại vẻ tĩnh mịch cho căn phòng hắn đang ở.
Phồn lại bàn, lấy giấy bút để trước mặt, định tâm viết một lá thư cho gia đình ở Sài Gòn, nhưng hắn vẫn ngồi bất động rất lâu, hắn có cảm tưởng viết thư là công việc khó khăn cực nhọc nhất chẳng thế mà cả năm nay hắn không viết lá thư nào về cho bà mẹ già còn ở quê nhà, mặc dầu mỗi lần nhận được thư nhà là mỗi lần bà cụ nhắc việc hắn phải chăm chỉ viết thư cho cụ.
Từ ngày tình cờ gặp Nguyệt trong siêu thị, hắn gặp Nguyệt luôn, khi ở nơi này khi ở nơi khác. Kể cũng lạ, ở chung một thành phố cả ba năm, Nguyệt và hắn mới nhận ra nhau, sau đó lại gặp hoài, phần lớn chỉ do tình cờ.
Một buổi sáng chủ nhật, Phồn đến nhà Nguyệt nhưng không báo trvớc, hắn ngạc nhiên nhìn Nguyệt không son phấn, nàng già hơn nhiều. Câu chuyện xoay quanh những ngày còn đi học. Không biết vô tình hay cố ý Nguyệt nhắc đến Kim, hắn ngồi yên, hy vọng nàng sẽ kể cho hắn nghe hết những chuyện về Kim. Mặc dầu không còn yêu Kim nữa, hắn vẫn muốn ngời khác kể cho nghe về người mà một thời hắn mải mê đeo đuổi. Nguyệt như đọc được tư tưởng của hắn, đang nói chuyện về Kim, nàng đổi đề tài, chuyển sang chuyện khác. Cuối cùng hắn đành chịu thua:
- Bây giờ Kim ở đâu?
- Bộ anh yêu Kim lắm hả?
- Ai nói với Nguyệt là tôi yêu Kim?
Nguyệt cười:
- Cần gì ai nói, các anh mà yêu ai mọi người đều biết, cả ngày cứ lượn xe đạp quanh quanh nhà người ta!
Hắn đành cười trừ:
- Đó chỉ là một kỷ niệm của những ngày còn đi học.
Kể từ hôm ấy hắn không còn mơ tưởng đến chuyện lấy Nguyệt làm vợ, giữa hắn và nàng đã có một sự bẽ bàng chia cách, không thể đến gần nhau được.
Thật ra, hắn chỉ nghĩ đến Nguyệt khi sống chung với vợ chồng Nga, mẫu người đàn bà mà mới gặp lần đầu hắn đã bị lôi cuốn không cưỡng lại được. Tiếc thay sự gặp gỡ đã quá muộn màng, hắn muốn có một hình bóng nào đó để thay thế Nga, nhất là trong lúc này.
Trên đường trở về, khi đi ngang qua khu vườn hoa của cư xá hắn giơ tay ngắt một bông rồi lững thững bước lên phòng. Lúc đến gần phòng tắm, hắn thoáng thấy trong phòng đèn bật sáng, và nghe tiếng nước chảy qua bông sen, hắn cắm thêm bông hoa mới hái vào bình ở phòng khách, rồi về phòng mình. Phồn gieo mình xuống cái đệm, nhìn lên trần nhà quét vôi đã ngả sang màu vàng, một con muỗi bay ngang trước mặt, hắn giơ hai tay lên vỗ, con muỗi bay mất về góc phòng bên kia, hắn đảo mắt nhìn theo nhưng không thấy nữa. Chợt hắn nghe tiếng máy sấy tóc chạy xè xè, có lẽ Nga đang ngồi ở cái ghế trước tấm gương mà hắn đã thấy hồi sáng, hắn tưởng tượng Nga đang giơ cái máy sấy ra phía đằng sau, đầu hơi cúi xuống để sấy lọn tóc, chỗ có mảnh da trắng ngần mà hắn đã thấy khi nàng vén lọn tóc lên. Một lúc sau hắn không còn nghe tiếng xè xè của chiếc máy sấy nữa, có lẽ nàng đã làm xong mái tóc và đã trở về phòng vì hắn nghe hình như có tiếng động trong phòng ngủ bên kia. Hắn trở dậy ra phòng ngoài, ngồi đối diện với cái ti vi nhưng hắn không mở, nhìn vào tấm gương mà Nga mới sấy tóc lúc nãy, mặt ghế đệm còn lõm xuống in dấu ngời ngồi, hắn nhìn thấy vài sợi tóc rụng in trên mặt bàn phấn. Bỗng Nga bước ra, nàng mặc bộ quần áo lụa trắng, mái tóc đã khô hẳn bung ra, những lọn tóc hơi rung rinh khi nàng đi.
- Chú mới cắm thêm hoa vào bình?
Hắn khó chịu về tiếng "chú" Nga thường dùng với hắn nhưng cũng cố nở nụ cười:
- Tôi ngắt đại một bông dưới sân cư xá để tặng Nga.
Hắn thấy Nga quay đi chỗ khác khi nghe hắn nói, chắc là nàng bực mình vì hắn không gọi bằng chị. Hắn nói thêm:
- Bông hoa tôi ngắt đẹp nhất vườn đấy!
Nga làm ra vẻ tự nhiên:.
- Mấy hôm nay trời nắng quá, hoa héo hết!
Hai người đang nói chuyện thì chồng Nga từ "toilet" đi ra, Phồn nhấn nút trên "remote control", mặt ti vi nổi hình, hắn làm ra vẻ chú ý theo dõi chương trình trên màn ảnh nhưng đầu óc hỗn độn. Ngoài bếp, Nga và chồng đang nhặt mớ cải bẹ xanh, hình như hắn nghe được cả tiếng gãy ròn tan của bẹ cải mà người chồng đang cầm trên tay, rồi tiếng khua nước trong bồn rửa, tiếng lép bép trên chảo mỡ. Người chồng khi rửa rau xong, quơ tay lấy cái khăn lau vội vàng, phát khẽ tay vào mông vợ, rồi đi trở lại phòng ngủ. Hắn cũng tắt ti vi trở về phòng mình, vẫn thấy bứt rứt khó chịu, hắn mặc vội quần áo rồi đi ra ngoài. Khi ra đến xe hắn chợt nhận ra việc làm vô lý của mình vì không biết đi đâu, tuy vậy hắn vẫn rồ máy cho xe chạy.
Khi nhìn thấy chiếc đèn đỏ bật sáng trước phòng mạch của một bác sĩ, hắn mới nhớ ra phải xin một cái toa để mua thuốc ngù, vì mấy đêm nay hắn trằn trọc mãi, gần đến sáng mới chợp mắt được, cứ cái đà này thì chẳng mấy chốc mà thành bộ xương biết đi, hắn tự trách mình về việc lao đầu vào ở chung với vợ chồng Nga và bây giờ đâm ra nan giải. Người ta là gái có chồng, mà lại mới lấy nhau, thì còn chỗ nào trong trái tim để cho hắn có thể vào được! Ngồi ở ngoài phòng đợi, hắn lật chồng báo cũ, tìm tờ Việt ngữ lật vội mấy trang, nhưng hắn không đọc chì liếc qua mấy tấm hình. Cô thư ký đang hí hoáy làm việc ở bàn đối diện ngước lên nhìn hắn:
- Anh uống nước trà hay cà phê để tôi lấy.
Hắn lắc đầu từ chối:
- Cảm ơn, tôi không khát.
Hắn móc ví lấy tấm thẻ được chính phủ Úc cấp, trao cho cô thư ký để bác sĩ tính tiền với chính phủ.
Thấy chờ đợi lâu hắn sốt ruột đứng lên đi ra ngoài hiên nhìn ra đường. Một chiếc xe trờ tới đậu trước cửa, hắn nhận ra ngay là Triệu, người bạn cùng trại khi còn ở đảo, bên Mã Lai.
- Bộ bệnh rồi hả?
- Mất ngủ thôi.
Triệu cười thật lớn:
- Phồn-trâu mà cũng mất ngủ thì kể cũng lạ, đi chơi không?
- Đi đâu?
- Chỗ nào chơi được thì chơi.
Hơi bực mình với Triệu, nhng nghĩ tới nỗi bực mình lớn hơn khi phải nhìn thấy thằng chồng của Nga nếu trở về, nên hắn gật đầu:
- Chờ tao được không?
- Lâu không?
- Khoảng hai mươi phút nữa.
- Ô kê, hai mươi phút nữa tao trở lại.
Vừa nói dứt câu Triệu đã cho xe vọt đi.
Hôm nay Phồn xin nghỉ một ngày định tâm sẽ ở nhà chờ cơ hội để tỏ tình cùng Nga. Khi hắn thức dậy mặt trời đã lên khá cao, qua khung cửa hắn thấy bầu trời xanh chan hoà ánh nắng. Hắn nằm yên nghe ngóng, bên ngoài phòng khách và phòng bên không có tiếng động, ngoài tiếng nước nhỉu từng giọt ở cái vòi hư trong bếp. Hắn đoán Nga cũng dậy trễ và chắc giờ này thằng chồng của Nga đã đi làm, có thể nàng cũng đã thức và đang nghe tiếng nước nhỉu từng giọt như hắn. Hắn ngồi dậy dựa lưng vào tường, nghiêng người nhìn ra phòng khách, bộ sa lông màu huyết dụ sẫm thêm vì thiếu ánh sáng, bình hoa để trên bàn một bông đã rũ xuống, bông hoa hắn cắm thêm hôm qua cao hẳn lên và đã nở lớn hơn, gây ra sự tương phản rõ rệt. Hắn đứng dậy đi vào phòng tắm, cố tình xả nước thật mạnh để nếu Nga còn ngủ nàng sẽ thức dậy. Hình như có tiếng động nên hắn tắt nước đứng nghe, hắn thất vọng nhận ra tiếng động từ căn "flat" kế bên chứ không phải từ phòng khách hay phòng ngủ của Nga.
Khi từ phòng tắm bước ra, hắn liếc nhìn thì thấy phòng ngủ của nàng vẫn đóng kín, hắn trở về phòng mình ngồi trên cái ghế để cạnh cửa sổ nhìn ra ngoài, chiếc xe màu đỏ của chồng Nga không có ở dưới gốc cây như mọi ngày, như vậy là chỉ còn một mình Nga ở trong phòng ngủ. Thường ngày nàng hay dậy sớm cùng với chồng, sao hôm nay lại dậy muộn, hay nàng đau ốm gì chăng? Không có lẽ, ngày hôm qua hắn còn thấy Nga vui tươi như một bông hoa mới nở, hay là nàng đi đâu đó, có thể lắm, vì thỉnh thoảng hắn thấy Nga đi chợ một mình. Hắn đến trước cửa phòng ngủ nhìn qua lỗ khóa, một tảng vải trắng trải trên giường hiện ra trước mắt. Hắn hơi lưỡng lự, giơ tay gõ trên cánh cửa rồi đứng nghe ngóng nhưng chỉ có sự im lặng trả lời hắn. Buổi trưa hôm ấy hắn không đi ra ngoài, hắn nấu nớc sôi, ăn mì gói cho xong bữa, nhủ lòng nhất định phải gặp được Nga trong ngày hôm nay để tỏ tình cùng nàng trong lúc thằng chồng Nga đi làm, hắn hy vọng với hoàn cảnh thuận tiện biết đâu nàng chẳng xiêu lòng.
Nhưng rồi buổi chiều qua đi chậm chạp, đến lúc hắn nghe tiếng động, quay lại nhìn thì thấy vợ chồng Nga bước vào.
Hắn nghe tiếng hai người nói chuyện với nhau:
- Em chờ anh có lâu không?
- Tất nhiên, một ngày chờ đợi dài lắm!
Phồn thấy đau nhói ở ngực khi nghe Nga nói. Kể từ khi thấy thái độ khác lạ của hắn, Nga đã tránh không ở nhà một mình lúc chồng đi vắng, nên mỗi buổi sáng khi chồng di làm, nàng cũng trở dậy lo cho chàng ăn sáng, sau đó nàng đến nhà người bạn ở chơi cho đến khi tan sở, chàng về, ghé lại đón nàng.
Nga chưa nói cho chồng biết thái độ khác lạ của Phồn, nàng định tâm sẽ tìm một công việc nào đó để khỏi phải ở nhà một mình và cũng không phải phiền người bạn.
Vợ chồng Nga vừa về đến nhà thì Phồn cũng chuẩn bị đi ra ngoài, hắn cảm thấy phải đi, mặc dầu không biết đi đâu. Kể từ khi ở chung nhà với vợ chồng Nga đến nay đã được bốn tháng. Bốn tháng mà hắn tưởng đã lâu lắm. Hắn sống trong nỗi băn khoăn khắc khoải, vui ít buồn nhiều. Hắn không hiểu tại sao hắn lại lao vào cuộc tình đen tối và một chiều như vậy. Miên man suy nghĩ, hắn đến nhà Triệu lúc nào không biết.
Vừa gặp Triệu, hắn đã hỏi:
- Tao về ở với mày được không?
- Tất nhiên là được, nhưng tại sao lại đổi?
Hắn hơi ngập ngừng:
- Hơi bất tiện!
Bất tiện là cái chắc, hơi gì! Thôi về đây ở với tao cho vui.
Đêm hôm đó hắn ngủ lại nhà Triệu, sau khi đã uống vài lon bia với Triệu và mấy thằng bạn.
Chiều hôm sau khi Phồn trở lại tổ ấm của Nga, hắn có cảm tưởng như đến để gặp Nga lần cuối cùng.
Mặc dầu mới đi ra khỏi nhà có một đêm khi trở về hắn như cảm thấy có gì khác lạ nơi khung cảnh, tòa nhà mà hắn trú ngụ bốn tháng nay trông cũng như có gì khác trước. Ngước nhìn lên căn "flat" hắn đã ở cùng vợ chồng Nga bốn tháng qua, hắn có cảm tưởng nơi ấy không còn là nhà của hắn nữa. Hắn nhận ra mấy khung cửa sổ tối đen, nên đoán vợ chồng Nga đã đi chơi...
Hắn nhủ thàm, lên trên đó làm gì vào giờ này, chẳng lẽ ngồi chờ vợ chồng Nga về để nói mấy lời từ giã! Nghĩ đến nỗi phải chờ đợi hắn ngại vô cùng.
Hắn quay lại nơi đậu xe và có cảm tưởng hắn không bao giờ trở về đây nữa, mặc dầu hắn chưa di chuyển đồ đạc của mình ra khỏi nơi này.
Sân ga
Trời đang nắng chang chang, bỗng mưa ào ào như thác đổ trên mái tôn, tuôn nước xối xả xuống khoảng sân xi măng nhỏ bé trước nhà. Tuấn vội vàng chạy vào bếp lấy mấy cái sô và chậu chạy ra đặt thành hàng trước hiên. Lâu nay nước máy không còn chảy nữa, chỉ những lúc khuya khoắt mở vòi nước mới thấy chảy được mấy giọt, rồi ngưng luôn! Mẹ Tuấn định thuê người đào một cái giếng ở cuối sân, nhưng rồi chưa đủ tiền nên hằng ngày Tuấn phải đi xách nước ở một cái giếng ở cuối ngõ, xa cả hai trăm thước. Vì thế, Tuấn chỉ mong trời mưa, mưa là nguồn vui đối với nó bây giờ. Chẳng bù cho những ngày trước mỗi khi trời chuyển mưa là Tuấn buồn, đường xá ướt nhẹp, lầy lội. Tuấn có cái xe đạp lại mất "gác-đờ-bu'; phía sau, mỗi lần đi đâu bùn văng lên từ đầu cho đến thắt lưng.
Tuấn ngồi ở cửa phía trước nhìn ra ngoài, đám mây đen lúc đầu chỉ có một mảng, bây giờ lan ra càng ngày càng rộng, và mưa rơi vẫn nặng hạt như lúc đầu. Tuấn lăng xăng đổ hết chậu nước này đến chậu nước khác vào hai cái phuy ở đầu nhà. Phút chốc, mọi thứ có thể chứa đựng được đã đầy nước. Tuấn vào nhà lục lọi, thấy bộ quần áo nào dơ bẩn là đem ra giặt hết. Sau khi xong mọi công việc thì mưa cũng tạnh.
- Hên thật!
Tuấn nhủ thầm. Như vậy là ít nhất hai ngày không phải lo chuyện nước nôi cho gia đình, cái gánh nặng mà Tuấn phải mang, không thể trút cho ai được.
Tuấn là người con cả trong gia đình, có bốn đứa em. Từ khi Tuấn nhận ra sự thay đổi lớn lao ngoài xã hội thì cha Tuấn cũng đi tù và đến bây giờ vẫn chưa được về!
Mẹ Tuấn vất vả vì đàn con, đau tắt mặt tối, nay chợ này mai chợ khác, cũng chỉ đủ nuôi gia đình với bữa cơm bữa cháo. Như vậy cũng là may mắn, có nhiều nhà quanh đây, như nhà thằng Thược, lâu lắm mới được ăn một bữa cơm gạo đỏ, có bữa phải xin cây chuối sắt mỏng ra bóp muối ăn trừ!
Thấy mẹ vất vả quá cũng tội nghiệp, Tuấn định sẽ vào ga Chí Hòa khuân vác thuê để kiếm tiền phụ giúp mẹ, nhưng không hiểu sao bà biết được, nhất định ngăn cản. Tuấn định nói dối mẹ đi sửa xe đạp nhưng thật sự là đi khuân vác, vì sửa xe đạp chẳng kiếm được bao nhiêu, còn khuân vác thì làm ít giờ thôi nhưng lại kiếm được khá tiền hơn.
Mưa dứt hạt được một lúc lâu thì mẹ vè, Tuấn mặc dầu đã mười sáu tuổi, nhưng mỗi khi mẹ đi đâu về vẫn liếc vào giỏ của mẹ xem mẹ có mua quà gì không. Biết ý con, mẹ Tuấn đưa cho Tuấn một củ khoai.
- Cho mày, ăn đi, mấy đứa kia mẹ đã có quà khác cho chúng nó rồi.
Biết Tuấn đang tuổi lớn, mau đói, nên mỗi khi mua quà cho Tuấn, bà đều mua cho loại nào ăn vào chắc bụng, chứ một hai cái kẹo vào bụng nó chẳng thấm vào đâu.
Tuấn nhận củ khoai luộc từ tay mẹ, lòng mừng rỡ, từ trưa đến giờ đói quá mà không biết lấy gì ăn, nhiều lúc nó chạy quanh khắp nhà, mở hết cái này đến cái khác ra xem, nhưng rồi thất vọng ra ngồi co ro trước cửa, nếu không chịu nổi nó đành đi uống nước cho no bụng, nhưng no nước thì người khó chịu và vẫn thêm dù mọi thứ!
Ăn xong nó lại gần mẹ nó:
- Mẹ cho con đi sửa xe đạp nghe mẹ, con phụ với người ta một ngày cũng kiếm được ít chục.
Mẹ Tuấn đang ngồi lựa mớ rau cải mà bà mới mua rẻ được ở ngoài chợ, ngước mắt nhìn con:
- Thế mày không đi học à?
- Mẹ tính, còn học gì nổi khi đói quá. Vả lại, học cũng vậy thôi, hết lớp 10, nhiều lắm là lớp 12 cũng phải ra, rồi cũng chẳng làm được gì!
Mẹ Tuấn, hình như cũng cảm thấy chẳng có con đường nào khác đành gật đầu:
- Thôi tùy con, nhưng lúc nào rảnh con cố gắng đọc sách thêm, dốt khổ lắm con ạ!
Được mẹ đồng ý Tuấn mừng rỡ chạy bay đến nhà thằng Thược. Vừa thấy Tuấn, Thược nhận ra ngay vẻ hớn hở trên khuôn mặt bạn:.
- Bộ mày trúng mánh hay sao mà trông tươi quá vậy?
- Trúng mánh khỉ gì, mẹ tao đồng ý cho tao nghỉ học để đi sửa xe đạp, nhưng tao với mày lên ga Chí Hoà khuân vác, mày còn muốn đi nữa không?
Nghe Tuấn nói vậy, Thược cũng mừng, nó muốn đi nhưng không có bạn, lại chân ướt chân ráo nên sợ:
- Đi chứ, tao đang rầu muốn chết, đói bụng không có gì ăn, học nỗi gì! Nói thật với mày, tao bỏ học cả tháng nay rồi, ra phụ với người ta sửa xe đạp, ngày ông ấy cho mấy đồng bạc, đói vẫn hoàn đói!
- Vậy thôi ngày mai đi nhé. Nhớ đừng nói cho mẹ tao biết, tao không hiểu sao bà không muốn tao đi khuân vác nhưng sửa xe đạp thì được, có lẽ nghề này sang hơn.
Sáng hôm sau hai thằng rủ nhau lên ga Chí Hòa, bây gi được đổi thành ga Sài Gòn. Đó là một toà nhà ngói mới xây, phía trước là bãi đất trống, rộng mênh mông, được tráng nhựa. Trước mặt nhà ga, người ngồi, người nằm, bên cạnh những tay nải, túi xách, ba lô, một đống hỗn độn cả người lẫn vật, nhưng khung cảnh lại không huyên náo, tấp nập. Tuấn và Thược hơi ngạc nhiên, đi lân la, dò hỏi mới dược biết, những người này xếp hàng mua vé từ đêm hôm trước, có lẽ họ đã quá mệt vì chờ đợi nên chẳng còn sức đâu mà nói nữa!
- Họ như vậy thì có gì đâu mà khuân vác mày?
- Tao cũng không hiểu, để xem đã?
Hai thằng bàn bạc với nhau một hồi nhưng cũng không biết phải làm thế nào. Cuối cùng Tuấn đành vào một quán không có khách ở một con dường nhỏ bên hông nhà ga hỏi một bà già:
- Cháu muốn ra đây làm nghề khuân vác mà chẳng thấy gì cả bác biết bác chỉ cho cháu với.
Bà già đang lúi húi thổi lò than để đun nước, ngước mắt nhìn Tuấn, nó e dè lập lại câu hỏi, nhưng bà cụ vẫn không hiểu, nó phải lập lại lần thứ ba bà cụ mới hiểu ra:
- Con phải chờ tàu tới hoặc tàu đi mới có hàng chứ bây giờ thì làm gì!
Tuấn chợt hiểu, rủ Thược ra ngồi trước mái hiên nhà ga quan sát người qua kẻ lại. Hai thằng đều bỡ ngỡ không biết phải làm như thế nào. Một lúc sau thấy có mấy chiếc xích lô trờ tới, trên xe cồng kềnh toàn những hàng hoá được đóng trong nhưng túi vải dày, chủ nhân của những túi hàng ngồi ngất ngưởng trên đó. Xe xịch đỗ trước nhà ga, nhiều người chạy ra, họ nói với nhau gì đó hai thằng nghe không rõ vì ờ quá xa. Sau đó thấy những người này, kẻ khiêng người vác những túi hành lý đi về phía ga. Tuấn bỗng reo lên:
- Đúng rồi mày, nhào vô kiếm ăn!
Hai thằng đứng bật dậy như cái lò xo, lao về phía mấy chiếc xích lô, khi đến nơi thì đã trễ, hàng hóa trên xe đã hết, và chủ nhân đang lẽo đẽo theo sau mấy người khuân vác. Tuấn và Thược trở về chỗ ngồi lúc nãy, dõi mắt nhìn ra ngoài, lòng nhủ thầm, phải thật nhanh mới được, chậm là đói?
Sang đến ngày thứ ba, hai thằng đã quen công việc, nên rất lẹ làng trong việc chụp giật, nên kiếm cũng được ít tiền.
Chưa đến 12 giờ, hai thằng vừa đói vừa khát, sau một buổi sáng vất vả, Tuấn lẩm nhẩn tính số tiền kiếm được từ sáng đến giờ, thấy không chắc chắn, nó móc tiền trong túi ra đếm, ba mươi hai đồng tất cả, Tuấn quay lại Thược:
- Mày được bao nhiêu?
Thược lẩm nhẩm tính:
- Ba mươi đồng.
- Vậy là "ngon" rồi, bây giờ tao với mày sang bên kia, mỗi thằng làm một đĩa cơm cho no bụng, đói quá rồi!
Vừa bước vào quán, mùi thơm của thức ăn đã bốc lên ngào ngạt. Tuấn rụt rè nói với bà chủ quán:
- Bà bán cho cháu một đĩa cơm đậu xào 10 đồng và một ly trà đá.
Cơm đã là một mơ ước thường trực của Tuấn, ấy vậy mà bây giờ có cả đậu xào nữa, nhìn những quả đậu bóng loáng mỡ, nước dãi nó trào ra. Tuấn cố gắng ăn chậm lại để kéo dài dây phút khoái lạc, nhưng miếng cơm và đậu vừa cho vào đến miệng đã trôi tuột xuống dạ dày.
Ăn xong còn thèm, nó định gọi thêm một đĩa nữa, nhưng rồi nghĩ đến mẹ và em ở nhà nó đành đứng lên. Nhưng Thược lâu quá mới được ăn cơm nên dằn lòng không được đành ăn thêm một đĩa nữa. ăn xong hai đứa trở lại chỗ cũ chờ đợi. Hai thằng ngồi dựa lưng vào tường, chân duỗi thẳng nhìn ra ngoài nắng, và cảm thấy buồn ngủ một cách lạ lùng.
Tuấn cố chống cự với cơn buồn ngủ, nó chống hai tay xuống nền xi măng để đẩy thân mình cao hơn, ngồi cho thẳng, nhưng rồi đôi mắt cũng từ từ khép lại. Nó đã ngủ ngồi như thế không biết bao lâu, nhưng khi tỉnh giấc nó thấy ánh nắng hình như chói chang hơn, nó phải nhíu mắt lại cho đỡ chói. Thằng Thược ở bên cạnh thì đã nằm hẳn xuống nền xi măng, tay chân duỗi thẳng, miệng mở toang hoác, lại còn kéo gỗ nữa. Chung quanh nó vẫn rất nhiều người, nằm và ngồi, ngổn ngang, hỗn độn.
Một cô bé, một tay xách một cái giá, trên có để mấy cái ly, và tay kia một bình nước, đi về phía Tuấn. Khi đến gian chỗ Tuấn, hình như cô bé cười:
- Uống nước không?
Tuấn ỡm ờ:
- Mất tiền không?
Cô bé "xì" một tiếng rối đi thẳng luôn, nhưng Tuấn vãy lại:
- Nói đùa tí, giận sao?
Cô bé hơi sẳng giọng, hỏi lại:
- Uống không?
- Uống, mà bao nhiêu mới được chứ?
- Có một đồng, hà! Nước trà đá mà!
- Nói chơi thôi, một đồng, chứ hai đồng cũng uống.
Quả thật, nước của cô bé uống rất đã, vừa có đá lại có cả mùi thơm của lá dứa.
- Tên gì nhỉ? Tuấn hỏi trống không.
- Lan, còn anh.
- Tuấn.
- Bộ anh mới ra đây khuân vác hả?
- Sao Lan biết?
Lan nói giọng thành thạo:
- Ở đây có bao nhiêu người khuân vác Lan biết hết, Lan bán ở đây cả năm rồi.
Thằng Thược hình như đã dậy, cái miệng không còn há nữa, thỉnh thoảng lại cựa mình. Khi Lan đi rồi, nó mới chồm dậy.
- Chà tán gái, ta! Tình quá!
- Con nhỏ đanh đá lắm mày, lôi thôi là chết với nó!
- Có mòi cá cắn câu rồi đó mày, mai mốt có lẽ tao được uống nước chùa, khỏi mất tiền!
- Nó xé xác mày ra chứ khỏi mất tiền, tao mới hỏi "mất tiền không?" nó đã "xì" rồi cút luôn!
Tối hôm đó khi về nó đưa cho mẹ bốn chục đồng, một số tiền khá lớn đối với bà để chi tiêu trong một ngày. Vì vậy, cả nhà đều vui nhưng người vui nhất là Tuấn, nó luôn miệng huýt sáo một bài hát nào đó mà nó nhớ mài mại. Điều xui xẻo là tối nay lại cúp điện, cả xóm tối hù, nhà nào cũng leo lét ngọn đèn dầu nhỏ xíu. Mọi người đều kéo ra trước cửa, hoặc ra ngoài con hẻm đứng chuyện trò với nhau.
Tuấn ngồi ngoài sân xi măng với mấy thằng bạn cùng xóm, tụi nó chưa đứa nào biết Tuấn đi khuân vác ngoài ga, Tuấn cũng dự định không nói gì cả vì chẳng vẻ vang gì nghề này, kẹt thì làm đỡ vậy thôi!
Thằng Lịch có cây đàn ghi ta cũ vừa gảy tưng tưng vừa ca bài gì đó mà hồi xưa Hùng Cường và Mai Lệ Huyền hay hát, giọng ca của nó cũng mùi, nhưng dạo này đang vỡ tiếng thành ra nghe hơi kỳ:
- Thằng nào biết ca vọng cổ ca một bài nghe chơi bay.
- Dẹp cái vọng cổ của mày đi, nghe buồn thấy mẹ!
Mặc dầu có thằng phản đối, cũng vẫn có thằng cất tiếng hát một bài gì đó Tuấn nghe đã lâu lắm, bây giờ mới lại nghe thằng này ca lại, giọng nó ai oán như một gã thất tình thật sự.
Một lúc sau mấy thằng bạn ra về, chỉ còn mình thằng Lịch ngồi lại, khi thấy không còn ai, nó hỏi:
- Nghe nói mày đi khuân vác phải không?
- Ừ mà ai nói cho mày biết?
- Thằng Thược, tụi mày cho tao theo với, tao đang muốn kiếm công việc gì làm, nhà túng quá!
- Cái đó dễ, ngày mai đi với tụi tao, ra đến đấy khi có người nào mang nặng mình nhào tới xin vác, đến nơi người ta cho tiền.
Khi bạn bè của Tuấn đã ra về hết mà nó vẫn ngồi một mình trên sân xi măng vì không thấy buồn ngủ, chả bù cho buổi trưa, chống mắt lên cũng không nổi.
Hình ảnh cô bé bán nước trà đá lởn vởn hoài trong trí nó, con bé khá xinh, đi ngoài nắng hoài mà nước da trắng bóc, đôi mắt thì khỏi nói, sắc như dao! Hôm mới gặp thấy con bé danh đá quá, vậy mà bây giờ quen rồi thì lại ngoan ngoãn, nói gì cũng nghe. Tuấn hình dung đến một gia dình, có một mái nhà êm ấm và một bầy con ngoan.
Nhưng nó bỗng buồn khi nghĩ đến cảnh đời của nó và Lan hiện tại, nó mới mười sáu tuổi phải đi khuân vác, Lan phải bán nước trà đá dạo, ấy vậy mà cũng chỉ kiếm được chút đỉnh tiền để giúp gia đình. Thời buổi này khó khăn quá, đi khuân vác mà kiếm mối cũng khó, mỗi khi có khách đi xích lô đến, cả đám bu lại xin vác, thành thử tiền bạc cũng chẳng được là bao nhiêu, nghề cực nhọc mà cũng không khá tiền, rõ chán!
Sáng hôm sau Tuấn dậy hơi muộn, vừa ra đến ga là gặp Lan đang đứng ở một góc mái hiên, mặt buồn so:
- Chuyện gì mà coi buồn quá vậy?
Cô bé giật mình, nhận ra Tuấn, tươi nét mặt:
- Trời! Sao bữa nay ra trễ vậy?
- Ngủ dậy trễ, tối hôm qua thức khuya nghe mấy thằng bạn ca tân, cổ nhạc.
Lan ngạc nhiên:
- Anh là dân Bắc kỳ mà cũng biết ca vọng cổ hả?
Tuấn cười:
- Anh không biết ca, nhưng bạn anh nhiều thằng ca được. Tuấn còn kể nhiều chuyện nữa, nhưng không kể cho Lan nghe về mái ấm gia đình mà nó tưởng tượng ra, trong đó có hai đứa và một bày con.
- Nhìn gì thế?
- Còn gì nữa, hôm nay trông xinh ghê!
Lan lại "xì" một tiếng như hôm đầu mới gặp, nhưng hôm nay nghe êm ái lạ thường. Đôi má cô bé đò ửng trông còn xinh hơn.
Thằng Thược và thằng Lịch thấy Tuấn và Lan đang tình tự ở góc hiên ga bèn lảng ra xa, hai thằng ngồi tít ở gốc cây bên kia sân, nhưng vẫn theo dõi Tuấn và Lan xem hai đứa làm ăn, như thế nào, nhưng nhìn mãi mà chẳng thấy gì, hai đứa chỉ đứng nói chuyện khơi khơi. Chán mắt, hai thằng rủ nhau đến đám đông phía trước xem có chuyện gì xây ra, nhân tiện chờ mối, may ra kiếm được chút đỉnh tiền.
Đã cả tuần lễ rồi Lan không đi bán nước trà, ngày đầu tiên vắng Lan, thằng Tuấn sốt ruột ngóng cổ chờ hoài, mất cả nửa buổi mà không kiếm được đồng nào. Trưa hôm đó nó phải mượn tiền thằng Thược đi ăn cơm. Sau bữa cơm trưa nó phải làm hùng hục đến tối mới kiếm được bốn chục đồng. Đêm hôm đó nó lại mất ngủ, thắc mắc mãi không hiểu tại sao Lan lại không đi bán hàng.
Những ngày hôm sau Tuấn làm việc với nỗi mệt nhọc, vì lúc nào hình ảnh con Lan cũng luẩn quẩn trong trí nó. Nó nhớ lại lần đầu tiên khi gặp Lan, nó chỉ có ý nói chọc mấy câu cho vui, ai ngờ nó mê con nhỏ thật?
Trước đây gặp cô bé nào xinh xinh có cũng nói vài câu "khiêu khích", mấy cô bé bị chọc quê cô nào cũng như giẵm phải gai, dãy nảy lên thấy mà tức cười, nhưng từ khi gặp cô gái này thì thằng Tuấn đúng là thân bại danh liệt, nó thẫn thờ, mơ mộng suốt ngày, hình như lúc nào cũng có hình ảnh con Lan trong đầu nó, ngay cả khi nó đang vác những gói hàng thật nặng, khi thấy Lan, nó cảm thấy khoẻ hẳn ra, đi phoong phoong, Tuấn khuân vác mấy gói hàng thật nặng mà không cảm thấy mệt gì cả.
Ấy vậy mà Lan đã vắng mặt cả tuần lễ, một tuần đối với nó sao mà dài quá, những khi không có việc làm nó lại đến góc hiên ga nơi hai đứa thường nói chuyện trong những ngày trước, rồi lại đi vòng vòng như từn kiếm Lan trong cái đám người đông đảo và hỗn độn ở đây, nhưng rồi lại thất vọng ngồi co ro một chỗ.
Thằng Thược thấy vậy chọc quê thằng Tuấn: Bộ mê gái rồi sao mày, trông như con gà mắc nước! Thấy thằng Tuấn không trả lời, biết là nó đang sùng, chọc nữa nó đổ quạu, nên Thược đổi hướng câu chuyện:
- Thôi ra đây với tao, kiếm vài mối lấy tiền.
Tuấn theo Thược đi, dạo này nó giao cho thằng Thược vụ kiếm mối, nó chẳng còn tâm trí nào để chụp giật nữa, nó thật giống như con gà mắc nước như thằng Thược nói, nhưng chọc quê vừa thôi, chọc quê hoài có ngày nó thoi cho thằng Thược một thoi.
Thằng Tuấn hiền nhưng cộc, có lần nó đã thoi thằng Thược rồi thằng đó coi vậy chứ yếu xìu, mới thoi cho một cái đã ngã lăn cù. Thấy thằng bạn mình mẩy dính đầy đất cát, Tuấn chạy lại đỡ Thược dậy và xin lỗi:
- Bị tao nóng quá, mày bỏ qua nghe.
Cũng được cái thằng Thược cũng biết lỗi của mình nên hai thằng lại thân nhau như cũ, có phần còn thân hơn trước, nhờ hiểu nhau hơn.
Vì vậy nên hôm nay, khi thấy Tuấn không nói không rằng, mặt làm lì một đống, thằng Thược biết là nó đang nhớ con Lan nên nó không dám chọc giận nữa.
Hai thằng khoác tay đi đến hàng nước mía ở bên hông ga. Thược nói với Tuấn:
- Tao mới trúng manh, được mười đồng, "khứa" sang quá, tao đòi bảy đồng, lão cho cả mười. Tao đãi mày uống nước mía.
Tuấn cảm động khi thấy thằng bạn biết nó buồn nên chăm sóc nó:
- Nói thật với mày, dạo này con Lan không đi bán hàng tao rầu muốn chết. Bỗng không tao đi mê con này, lúc nào tao cũng nghĩ đến nó. Không gặp nó nữa chắc tao "héo" mất! Thằng Thược cười:
- Héo mẹ gì, rồi mày quen đi. Tao đã có kinh nghiệm này rồi, lúc đau tưởng chết, nhưng rồi khi gặp con khác, mình lại thấy xinh, thấy đẹp như thường, lại yêu đời da diết.
Mọi ngày thằng Tuấn thích uống nước mía, vậy mà hôm nay nó uống không thấy ngon lành gì, nước trà đá của con Lan đối với nó ngon hơn nhiều.
Thằng Thược bỗng hỏi Tuấn:
- Thằng Lịch đâu, hôm nay không thấy nó?
- Nó chịu không nổi, bỏ rồi!
- Tao với mày ráng theo, chỉ làm nghề này mới kiếm được chút tiền, làm nghề khác phải có chút vốn mới được.
- Ừ, tao cũng nghĩ thế.
- Tội nghiệp má tao, hôm đầu tao đưa về cho má tao mấy chục đồng bả mừng quá. Nghĩ vậy nên tao phải ráng, chứ làm nghề này cũng cực quá, nhiều lúc gói hàng quá nặng lại không có mày ở đấy, tao cố, lết rồi cũng tới nơi, nhưng tới tối mình rêm hết!
Hai thằng lan man bàn hết chuyện nọ đến chuyện kia, nhưng nói chuyện gì cũng không làm Tuấn vui được, nó có cảm tưởng mất con Lan là mất tất cả, đời chẳng có gì đáng sống? Nhiều lúc nó ngồi thẫn thờ không nói không rằng, thằng Thược thấy vậy cũng ngồi yên không nói nữa.
Một buổi sáng khi nó đang đứng thẫn thờ ở một góc ga thì một cô gái đi lại, cô gái coi bộ không phải là người buôn bán trong khu vực này, đến gần nó:
- Xin lỗi, anh là Tuấn, bạn của bé Lan?
Tuấn giật mình khi nghe đến tên Lan, chợt hiểu ra câu hỏi, nó ấp úng:
- Vâng, tôi là Tuấn, có gì không chị?
Cô ta móc trong túi ra một miếng giấy nhỏ đưa cho Tuấn. Bé Lan nó nhờ tôi đưa giấy này cho anh.
Tuấn cảm thấy mặt nó nóng bừng bừng, chìa tay run run đón tờ giấy:
- Cảm ơn chị.
Cô gái sau khi đưa cho nó tờ giấy đi thẳng ra phía ngoài cổng. Tuấn mở giấy ra đọc.
Anh Tuấn,
Lan bị bệnh cả tuần lễ nay mà chưa khỏi nên viết mấy hàng báo tin anh biết. Khi nào khỏi mình gặp nhau.
Lan.
Đọc xong lá thư Tuấn thẫn thờ, sực nhớ ra cô gái vừa đưa lá thư, nó dạo dác tìm kiếm nhưng rồi không thấy nữa. Nó ân hận vì đã không hỏi cô gái kỹ hơn về bệnh tình của Lan, nhất là địa chỉ của Lan để nó đến thăm, hay ít ra cũng được nhìn thấy mặt. Cả tuần lễ rồi nó thèm nhìn khuôn mặt Lan, nhìn đôi mắt và cái miệng xinh xinh.
Mặc dầu buồn vì Lan bị bệnh nhưng Tuấn cũng mừng vì Lan còn nghĩ đến Tuấn. Điều nó lo sợ nhất là mất Lan luôn không bao giờ còn gặp lại nữa. Lan bệnh rồi Lan sẽ khỏi, và rồi hai đứa lại nhìn thấy nhau hằng ngày ở cái sân ga này. Nghĩ đến điều đó, Tuấn thấy lòng mình rộn ràng, nó bỗng huýt sáo một đoạn nhạc nào đó mà nó cũng chẳng biết tên.
Cả năm nay Tuấn mới lại đi thăm bố, khoảng bốn tháng mẹ nó đi thăm bố nó một lần, thường chỉ một mình bà đi cho đỡ tốn tiền xe, nhưng dạo này nhờ nó đi khuân vác được nên mẹ nó mua thêm cho bố nó ít quà và thuốc men, nên nó phải đi cùng mẹ nó để phụ khiêng, vác. Hơn nữa, cũng lâu quá bố con không gặp nhau nên nó muốn đi thăm.
Hai bố con chỉ nói với nhau vài lời, bố nó hay hỏi nó học hành đến đâu rồi, ông không biết là Tuấn nghỉ học, Tuấn nghĩ là chẳng nên cho ông biết làm gì.
Khi gần ra về, bố nó cầm tay nó nói nó ráng học. Tội nghiệp ông, học hành gì bây giờ, cơm không có mà ăn, ông biết Tuấn đi khuân vác chắc ông buồn lắm!
Khi trở về đến nhà thì trời đã tối hẳn, mấy đứa em ngóng mẹ và anh về, đứng tất cả ở ngoài cửa, ở trong nhà tối om vì không đứa nào chịu đốt đèn. Nồi cơm mẹ nó nấu sẵn buổi sáng đã hết nhẵn, mọi người đều đói nên mẹ nó phải vào bếp nhóm lửa để nấu cơm ăn bữa tối.
Đêm hôm ấy Tuấn nằm mơ gặp lại Lan, hai đứa ôm nhau mừng mừng tủi tủi. Trong giấc mơ nó ngửi thấy mùi hương tóc của Lan, mùi thơm dịu dàng mà nó đã một lần biết đến. Khi ánh nắng buổi sáng hắt qua cửa sổ chiếu vào mắt, Tuấn mới thức giấc, nó nghe tiếng chim hót trên cây ổi ở đầu nhà. Nó sực nhớ đến Lan, đến công việc nên ngồi bật dậy, vội vã khoác cái áo vào người rồi đi ra ngoài.
Mới ra đến ga Tuấn đã nhận ra ngay Lan đang đứng sớ rớ ở góc hiên nơi hai đứa thường đứng trong những ngày trước. Tuấn chạy lao đến như bay, Lan cũng chợt nhận ra nó, nở một nụ cười thật tươi, nhưng ánh mắt lại như trách móc: Em chờ anh mỏi cả mắt, tưởng anh nghỉ bữa nay em đang định đi về gặp anh Thược, nên biết hôm qua anh đi thăm nuôi về trễ nên hôm nay có lẽ đi làm muộn, nên em ráng chờ.
Tuấn kể cho Lan nghe nỗi mong nhớ của nó, nhưng vẫn không dám kể lại đêm qua nó mơ gì.
- Nhìn gì thế?
- Lâu quá không gặp cũng không cho nhìn nữa? Em xanh quá bệnh gì vậy.
- Em chẳng biết, sao sốt hoài, hôm nay khỏi rồi, nhưng phải mấy bữa nữa mới đi bán được, em ra đây gặp anh một chút rồi đi về.
- Làm ở đây không có em buồn chết được, nhớ anh không?
- Nhớ chứ, không có em ở đây đừng có láng cháng với cô nào mà chết với em đó nghe, anh là ghê lắm!
- Chỉ nói bậy không à, anh chỉ yêu có một mình em thôi.
Thằng Thược đứng tuốt ở cuối sân ga thấy Tuấn quay lại nó đưa tay váy váy, hình như còn nheo một bên mắt chọc nó.
- Thằng Thược nó chọc quê anh hoài, anh thẫn thờ suốt ngày khi không có em ở đây.
Lan với ánh mắt reo vui nhìn Tuấn âu yếm.
Tuấn đưa tay cầm tay Lan, bàn tay nhỏ bé mềm mại, nó cảm thấy bàn tay cô bé như nóng hơn trong tay nó. Bỗng Lan rụt tay lại:
- Người ta thấy cười chết, thôi em về nghe.
Một chút nữa đi, còn sớm mà!
- Em nói dối má em đi ra ngoài một chút, nằm hoài mệt quá, rồi em ra dây, đi lâu bả la chết, mai mốt mình gặp lại nhau.
Tuấn muốn đưa vòng tay ra ôm mà không dám. Không hiểu sao Lan lại biết ý, hỏi:
- Gì thế?
- Muốn ôm em một cái cho đỡ nhớ.
- Thôi, em sợ lắm!
- Việc gì mà sợ?
- Người ta cười!
Nói xong Lan đi thẳng ra phía cổng, vừa đi một đoạn thì có một bà đi đến, Lan chào bà ta, rồi Tuấn nghe hai người nói chuyện :
- Ủa, dạo này không thấy mày ra bán hàng?
- Mấy bữa nay cháu bệnh nên nghỉ.
- Vậy bây giờ mày đi đâu đây?
- Cháu đi về.
- Ừ thôi về đi nghe, bữa nào khỏi ra bán lại, không thấy mày tao hỏi thăm mày hoài. Dạo này lớn xộn rồi nghe, khi nào có chồng cho tao ăn cỗ với!
Đôi má Lan chợt ửng đỏ khi nghe bà kia nói chuyện lấy chồng, xong thấy cô bé chào bà người quen rồi đi thẳng. Khi gân đến khúc quẹo, Tuấn thấy Lan quay lại, Tuấn chợt hiểu đưa tay vãy, Lan cũng vãy lại và rồi cô bé khuất sau bức tường vôi trắng.
Nắng buổi sáng lấp lánh trên những mái tôn ở phía bên kia, một con bướm từ đâu bay lại chờn vờn trên mấy bụi cúc trồng trước ngôi nhà bên đường. Màu vàng của cánh bướm và hoa cúc tiệp vào nhau, khi con bướm hạ cánh xuống Tuấn không còn nhận ra nó nữa.
Tuấn đang mơ mộng thì Thược đến:
- Đã nhé mong hoài! Sao nó nói gì với mày?
- Nó bệnh, mấy ngày nửa đi bán lại.
Thược khích:
- Hai đứa tình ghê, con nhỏ xinh! Mày "làm tới" đi!
Tuấn cười vu vơ và cảm thấy yêu đời hơn bao giờ hết.
Sau kỳ Lan trở lại tìm Tuấn, nó đã mong ngóng từng ngày. Hôm nào khi đến ga nó cũng hy vọng Lan đang đứng đợi nó ở dưới mái hiên, và rồi hôm nào nó cũng thất vọng. Không chịu nổi cảnh mong ngóng từng ngày, Tuấn đi lùng xúc khu sân ga để mong gặp bà bán hàng hôm đến thăm Tuấn, Lan đã nói chuyện với bà, mong tìm được tung tích của Lan, hay ít nhất cũng biết được ít nhiều tin tức của Lan. Câu trả lời của bà ta làm Tuấn thất vọng:
- Tao chẳng biết nhà nó ở đâu, chỉ quen nó ở đây thôi.
Tuấn đã nuôi hy vọng gặp lại Lan, nên đã cố gắng làm khuân vác cả năm ở sân ga, nhưng rồi hy vọng mỗi ngày mỗi nhạt.
- Hay là Lan đã chết?
Đó là câu hỏi thường luẩn quẩn trong đầu Tuấn, chỉ có chết Tuấn mới không được tin tức gì, chứ nếu còn sống thế nào Lan cũng tìm đến cho Tuấn biết tin. Khi mới khỏi bệnh Lan đã chẳng đến thăm Tuấn và hẹn gặp lại là gì!
Đến khi Thược, vì lớn hơn Tuấn một tuổi, bị bắt thi hành nghĩa vụ quân sự, thì Tuấn thực sự không chịu nổi nữa. Nó bỏ nghề, bỏ sân ga với đầy ắp hình ảnh của Lan trong đó.
Cao Xuân Lý
Theo https://vietmessenger.com/ 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái còn lại hóa cái không

Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...