Lão Trưng ngồi dựa lưng vào tường, hai chân duỗi thẳng, cái
túi quần áo của lão để ngang bên cạnh sườn, tài sản duy nhất của lão bây giờ.
Phải giữ thật cẩn thận! mất nó là phiền cho lão lắm, toàn những thứ cần dùng
cho cuộc sống hằng ngày: Một cái áo mưa của lính chế độ cũ làm bằng thứ ny lông
dày và bền, đêm dùng để làm chiếu làm chăn, lão còn một cái mùng nữa, mặc dầu
đã cũ vẫn còn có thể dùng được trong những đêm nhiều muỗi. Ngoài ra còn bộ quần
áo và bát đũa. Kể ra cuộc sống đầu đường xó chợ có được những thứ đó cũng là
quý lắm. Vì thế, đi đâu lão cũng kè kè mang theo người, lão sợ nhất là lũ tiểu
quỷ thường đi theo chọc ghẹo lão. Nếu lão sơ ý là chúng cuỗm ngay cái túi hành
trang của lão. Biết vậy nên mỗi lần muốn nằm nghỉ một lúc, lão lấy cái túi gối
lên đầu, cẩn thận hơn, lão quàng một sợi dây quanh cổ. Có điều phiền là nếu
dùng làm gối cái túi hành trang lại quá cao khiến cho nhiều khi ngồi dậy lão thấy
nhức đầu, cổ và bả vai mỏi nhừ, nhưng biết làm sao được, muốn cẩn thận thì phải
chịu như vậy!
Ngồi một lúc lão cảm thấy buồn ngủ, nhưng cứ ngủ hoài thì không được, rồi lấy
gì mà ăn! nên lão phải dậy, đến mấy quán ăn đứng chầu rìa, khi thấy có khách
sang lão chìa tay xin tiền, hoặc xin ăn những đồ thừa trên đĩa, trên tô...
Lúc đầu khi mới bước vào nghề hành khất lão thấy ngượng ngùng, hổ thẹn. Nhiều
khi lão nhịn đói cả ngày, nhưng rồi sức chịu đựng của lão cũng chỉ có giới hạn,
đói quá lão phải chìa tay ra xin, lâu dần cũng quen đi, lão chỉ còn cảm thấy tủi
thân mỗi khi bị xua đuổi, hất hủi.
Lão không bao giờ ngờ cuộc đời của lão lại xuống dốc thê thảm như vậy. Trước
đây lão cũng có nhà cửa vợ con, lão không giàu nhưng lão cũng chẳng nghèo. Cuộc
chiến tranh vừa rồi làm lão mất hết, nhà cửa của lão khi trở về không còn tìm
được cái nền nhà nữa, nói chi đến đồ đạc! Cả thành phố Quảng Trị, quê lão,
thành ra bình địa, vợ con lão chết sạch trên đường chạy về Huế, nơi mà người ta
gọi là Đại Lộ Kinh Hoàng.
Lão lang bạt từ Quảng Trị về đến Sài Gòn, nơi lão không có người thân thuộc,
nên lão đành phải sống trên vỉa hè, lão cũng muốn làm một cái gì đó để nuôi lấy
tấm thân, nhưng rồi mỗi tuổi mỗi già nên đành sống nhờ vào lòng từ thiện của những
người khác.
Những lúc trời mưa gió, lão ngồi sớ rớ ở một góc hiên, nghĩ đến vợ con, lão
không cầm được nước mắt.
Vợ lão trước đây cũng có nhan sắc, lão quen vợ lão từ khi còn nhỏ, cả hai cùng ở
một khu phố, lão còn nhớ hình ảnh của vợ lão khi còn con gái, mụ thường mặc quần
lĩnh đen, áo trắng, có khi mặc áo màu xanh hay hồng. Sau này ăn ở với mụ mấy chục
năm, mụ đẻ cho lão năm đứa con, đứa nào cũng kháu khỉnh. Lão nhớ nhất là con Hường,
đứa con gái thứ hai của lão, có lẽ nó là đứa con thương lão nhất, sáng nào nó
cũng dậy đun cho lão một ấm nước trà, lão ngồi nhâm nhi một mình, chỉ thỉnh thoảng
mụ vợ mới dậy sớm ngồi uống với lão, lão nhớ câu mà mụ hay nói khi uống được
tách trà ngon:
- Trà chi mà ngon rứa!
Tội nghiệp mụ, mỗi khi có chút đỉnh tiền là thế nào cũng kiếm cho được trà ngon
để mua cho lão!
Lão nhớ lại, lần đầu lão gặp mụ, năm đó mụ khỏang mười tám tuổi, tóc mụ để dài
gần đến thắt lưng và đen mướt, càng làm tăng nước da trắng ngần. Thấy mụ xinh đẹp
lại chăm chỉ làm ăn nên lão để ý, lão đón mụ ở khúc quẹo của con hẻm khi mụ đi
qua:
- O, đứng lại cho tôi nói một chút.
Đang gánh, mụ đứng khựng lại, đôi thúng chao chao, lão nói thêm:
- Tôi có câu chuyện muốn nói với em, tối nay em ra cổng chùa cho tôi gặp một
chút được không?
Nghe lão nói, má mụ ửng hồng, ấp úng:
- Lỡ có ai thấy thì chết!
Nói vậy rồi mụ đi, gọi gì cũng không đứng lại nữa làm lão băn khoăn cả ngày,
không biết mụ có nhận lời hay từ chối. Tuy vậy, trời bắt đầu sụp tối là lão ra
trước cổng chùa đứng đợi. Lão phải chờ đến lúc trời tối mịt mụ mới ra, mới nói
được dăm ba câu là mụ đòi về, năn nỉ sao cũng không chịu ở lại, khi lão giơ tay
nắm tay mụ, lão thấy mụ run lên, chắc là đôi má của mụ lúc đó phải đỏ lắm nhưng
vì trời tối nên lão không thấy gì. Đêm đó, khi trở về lão trằn trọc mãi, lúc
nào lão cũng như nhìn thấy mụ đang cười với lão. Sau này khi đã lấy nhau, thỉnh
thoảng lão vẫn nhắc lại lần gặp đầu tiên ấy:
- Mụ là ác lắm, làm tôi chờ chết luôn, tôi giả vờ đứng câu nhưng cứ ngong ngóng
nhìn ra ngã ba, thấy bóng người nào đi tới cũng chạy ra coi, có lần hỏi lộn một
bà già Bắc Kỳ: "O Liên đấy hả?" Bà cụ nói: "Không có o iệc gì cả,
chỗ tôn nghiêm mà các anh chị hẹn hò nhau, việc này tôi phải nói cho hoà thượng
biết mới được".
Lão ở với mụ cả mấy chục năm, có biết bao nhiêu là kỷ niệm, ấy vậy mà bây giờ mỗi
khi nhớ đến, hình ảnh cuộc gặp gỡ lần đầu lại hiện ra, rõ rệt như câu chuyện mới
xẩy ra ngày hôm qua. Lão có cảm tưởng mình còn rất trẻ, nhưng khi nhìn thấy tấm
thân tàn ma dại của mình, lão mới nhận ra cái thực tại đau xót mà lão đang phải
chịu.
Bây giờ lão chỉ còn sống với dĩ vãng thôi, nên ngồi đâu lão cũng nhắm mắt lại để
nghĩ đến cuộc đời cũ, khi không nhìn thấy cảnh vật ở chung quanh, nhất là không
nhìn thấy chính mình, lão tưởng tượng dễ dàng hơn.
Thấy lão ngồi đâu cũng nhắm mắt, mấy mụ bán hàng nói với nhau:
- Ông già này ngồi đâu ngủ đấy.
Mấy mụ nói gì lão cũng nghe hết, nhưng thôi, thây kệ! miễn là thỉnh thoảng mấy
mụ cho lão một cái bánh là được, nhất là những lúc mấy mụ ế hàng. Thành thử,
lão thường mong mấy mụ bán ế. Tội nghiệp! Người ta tốt với mình mà mình phải
mong điều xấu xẩy ra cho họ, nhiều khi lão hổ thẹn với chính mình.
Chiều nào cũng vậy, khi thành phố bắt đầu lên đèn, lão mới đi kiếm ăn bữa tối
trước khi đi ngủ.
Thật ra một ngày lão ăn không biết bao nhiêu lần, khi nào có thì ăn. Nhưng dù
ăn đã bao nhiêu lần trong ngày, trước khi đi ngủ lão cũng phải kiếm thứ gì cho
vào bụng, nếu không có cái lần ăn ấy lão trằn trọc mãi không sao ngủ được..
Nơi lão thường kiếm ăn là những quán nhậu, ở những nơi này người ta ăn uống thừa
mứa lại toàn thứ ngon. Hơn nữa, dân nhậu là những tay hào sảng, đôi khi còn cho
lão ly bia hay rượu đế. Lão không phải là người nghiện rượu, nhưng kể từ ngày
lão phải đi ăn xin, lão thấy bia uống vừa ngon lại đỡ khát nước. Và lão thích
hơn hết là khi uống say dễ quên những thứ làm lão bứt rứt trong lòng cùng những
tiếc nuối khó nguôi ngoai. Nhưng kiếm ăn ở những quán nhậu cũng không phải dễ
dàng gì, thường chủ nhân của những quán ấy ngăn cản không cho hành khất vào
quán sợ phiền đến khách hàng. Lão phải đứng ở bên ngoài chờ dịp thuận tiện là
nhào vào kiếm ăn, và khi đã kiếm được chút đỉnh lão ra ngay, tiếp tục đứng ở cửa
nhìn vào chờ dịp thuận tiện khác. Nhiều thằng chủ ác ôn còn đuổi hành khất
không cho đứng ở cửa, những trường hợp ấy thì chỉ có nước đi tìm một chỗ khác với
nỗi tấm tức, bực dọc trong lòng.
Thành phố Sài Gòn tuy lớn, nhưng chỗ kiếm ăn được không có là bao nhiêu, lại mật
ít ruồi nhiều, nên lão phải lang thang từ khu này sang khu khác, có khi phải
sang tận Chợ Lớn nữa! - đấy tiệm ăn cũng nhiều, nhưng khi ăn xong muốn kiếm một
vỉa hè có mái hiên rộng để ngủ khó khăn hơn ở Sài Gòn nhưng lại ít khi bị hốt
hơn, lão đã bị hốt lên kinh tế mới một lần nên lão sợ.
Đêm hôm đó, lão đang ngủ ngon thì bọn công an đến, chúng tống lão lên chiếc xe
vận tải cỡ lớn rồi chạy lên tận Tây Ninh. Lúc đầu lão không hiểu tại sao lão bị
bắt sau mới vỡ lẽ. Chẳng là tụi nó muốn làm đẹp thành phố để chuẩn bị đón phái
đoàn các nước anh em đến tham quan, nên phải hốt hết những người sống đầu đường
xó chợ. Để tránh tình trạng họ sẽ trở về sống bên lề đường chúng đưa tuốt lên
vùng kinh tế mới. Lúc đầu mới nghe lão mừng thầm, lên khu kinh tế mới lão sẽ cố
gắng làm, tay làm hàm nhai, dù sao cũng hơn cái nghề khốn nạn mà lão đang đeo
đuổi, nhưng khi đến nơi thì hỗi ơi, kinh tế mới chỉ là mấy cái chòi lụp sụp,
rách nát mà những người đến trước họ đã bỏ về. Nhìn chung quanh, ngút ngàn toàn
là cỏ tranh cao quá đầu người, lại chỉ trồng được mấy thứ vớ vẩn như khoai sắn,
mà lại chỉ trồng được một mùa, hết mùa mưa là hết, đến nước uống cũng hiếm hoi.
Mới nhìn quang cảnh lão hết hồn, lão không thể nào sống được ở đây. Không phải
lão lười cuốc đất, nhưng làm thế nào mà sống được nếu quanh năm chỉ có mấy củ
khoai, củ sắn!
Ấy vậy là lão lại lững thững cuốc bộ về Tây Ninh, vì lão nghĩ ở đâu có người là
lão có thể sống được, lúc đầu lão đóng "đô" ở chợ Tây Ninh, gần cây cầu
sắt và toà tỉnh trưởng cũ, nhưng rồi lão khám phá ra cái kỳ cục của tỉnh lỵ
này. Chỗ mà ngày xưa là tỉnh lỵ chỉ có một hai dãy phố đìu hiu, hàng quán thưa
thớt, muốn kiếm chỗ ngủ ban đêm cũng còn khó khăn huống hồ là kiếm ăn cho đầy
cái bụng lão. Lão phải đi bộ xuống Long Hoa, cách đó mấy cây số mới có chợ, bến
xe và nhiều quán nhậu. Mặc dầu nơi này sầm uất hơn, nhưng không phải là đất hứa
của lão. Lão bắt đầu dành dụm tiền nong, khi nào đủ tiền mua một cái vé xe là
lão về Sài Gòn. Chỉ cần tiền mua một cái vé xe thôi mà lão phải xin cả tháng mới
đủ, ấy là lão cũng đã năn nỉ anh lơ xe bớt cho chút đỉnh.
Khi về đến Sài Gòn rồi, một thời gian khá lâu lão chỉ dám hành nghề quanh quất ở
những quận xa trung tâm thành phố. Mãi sau này sau khi đã học được kinh nghiệm
"chống càn" lão mới dám về lại trung tâm thành phố. Kinh nghiệm của
lão là mỗi khi nghe đồn có phái đoàn này, phái đoàn nọ đến thăm thành phố là
lão phải rút đi cho lẹ, khi nào phái đoàn tham quan đi khỏi, lão lại nhởn nhơ
trở về. Lúc ấy lão nằm ngủ ở đâu cũng không ai thèm hỏi han tới nữa, hành khất
chứ có phải phản động đâu mà bắt. Hơn nữa bắt hành khất chẳng những không được
sơ múi gì, còn phiền hà đủ thứ.
Bây giờ lão kinh nghiệm đầy mình, công an rục rịch làm gì lão cũng biết. Cuộc sống
lề đường giúp lão sáng mắt, lão nhìn thấy cả những hẻm hóc sâu kín nhất của xã
hội này. Lão ngạc nhiên, bao nhiêu năm lão đã sống một đời sống bình thường lão
hầu như học được rất ít, nhưng từ khi cùng đường, khốn quẫn, phải ăn xin, lão lại
học được rất nhiều. Bây giờ lão mới thấy các cụ ngày xưa nói "đi một ngày
đàng học một sàng khôn" là đúng, vì chẳng có nghề nào đi nhiều bằng nghề
này. Nhưng cái biết của lão là cái biết để chơi cho riêng lão, lão không thể
nói cho ai biết được và cũng không dùng được vào việc kiếm ăn! Càng tỏ ra tài
giỏi bao nhiêu càng dễ bị ghét mặt, ấy thế là đói! Làm hành khất mà đói là thất
bại lớn nhất rồi!
° ° °
Lão Trưng đi lang thang trên đường Cách Mạng Tháng 8, hôm nay
lão phải về khu vực này để chống càn, vì lão nghe nói có phái đoàn nước ngoài đến
tham quan thành phố vào ngày
mai. Hơn nữa, đây cũng là khu vực lão có thể làm ăn được. Dọc đường từ ngã ba
Ông Tạ đến bà Quẹo có bao nhiêu quán nhậu lão biết hết, đã điều nghiên kỹ trước
khi trở về rồi mà!
Lão đặt cái túi xuống nền xi- măng, trước căn nhà lầu ba tầng, cử đóng im lìm.
Hai đêm nay lão ngủ trước căn nhà này mà chưa bao giờ thấy chủ nhân ra mở cửa,
dù chỉ là mở hé.
Lão nghe nói, chủ nhân là một đôi vợ chồng già, có bốn đứa con, cho ba đứa đi
vượt biên một lần, chết sạch! Từ đó ông bà cụ không còn dám nghĩ đến việc cho đứa
con thứ tư đi, đêm ngày đau khổ vì thương nhớ con nhưng không dám hé môi than
thở, cả ngày ông bà cụ sống quanh quẩn với đứa con út ở trong nhà, đó là biểu
tượng bi thảm nhất của khu vực này về vượt biên. Nếu ông bà cụ chủ nhà biết được,
ngoài hiên này, hằng đêm, có lão hành khất ngủ nhờ dưới mái hiên nhà cụ đang ôm
một mối bi thảm lớn lao, lớn hơn nhiều so với nỗi buồn của cụ, chắc cụ cũng được
an ủi phần nào.
Vì chủ nhân căn nhà không bao giờ mở cửa, nên lão được tự do chiếm ngụ cả ngày
lẫn đêm, khi nào đói bụng, lão tìm đến mấy quán nhậu quanh đấy kiếm ăn xong lại
về ngồi nhìn thiên hạ qua lại trên đường.
Nhưng rồi, đất lành chim đậu, mái hiên mọi khi lão chiếm ngụ chỉ có một mình,
hôm nay lại có thêm một mụ hành khất nữa cũng đến tá túc ở đây. Từ khi mụ đến,
mụ nằm liệt một chỗ không thèm xin xỏ, ăn uống chi cả! Chắc là mụ đau ốm gì
đây, thỉnh thoảng lão vẫn liếc sang chỗ mụ nằm, nhưng rồi thấy mụ nằm lâu qúa
không ngóc đầu lên, làm lão sợ mụ có thể chết, lão lò dò bước lại, tay cầm củ
khoai lang lão mới xin được:
- Có ăn khoai lang không? Bộ bệnh hả?
Mụ hé mắt ra nhìn rồi khép lại ngay:
- Khát nước quá, có nước uống cho xin một hớp!
Lão lần trong túi, lấy ra cái bi đông bằng nhựa, rót cho mụ một chút vào nắp
bi đông, mụ run tay đón lấy, nhưng mới đưa được lên gần miệng bao nhiêu nước đã
đổ ra hết, nên lão đành phải cầm nắp bi đông ghé vào miệng mụ, giúp mụ uống. Đến
khi đó lão mới nhìn rõ khuôn mặt mụ. Mụ cũng không phải là xấu, lão thấy răng mụ
đều đặn khi mụ hé miệng, làn da lại mịn màng, mặc dầu hơi đen đủi vì sương gió.
Sống lang thang đầu đường xó chợ mà còn được như mụ chắc khi trước mụ phải đẹp,
bất giác lão nghĩ đến vợ lão, lão như nghe được tiếng cười của mụ vợ còn văng vẳng
bên tai, và hình dung được đôi mắt, đôi mắt lúc nào hình như cũng ánh lên niềm
vui khi nhìn lão. Ấy vậy mà mụ đã chết mười mấy năm rồi, chết mất xác, không để
lại gì cho lão, kể cả một nấm đất để lão đến viếng mỗi khi lão nhớ.
Bên cạnh lão, mụ hành khất như tỉnh hơn, hé mắt nhìn lão, lão quay lại:
- Có cần gì không?
- Có thuốc gì uống không?
Lão lắc đầu, ăn còn không có làm gì có thuốc vào lúc này! Cũng may là lão ít
khi nào đau ốm, thỉnh thoảng cảm xoàng, lão lại lấy nhánh tỏi cho vào miệng
nhai, ấy vậy mà cũng qua được. Lão lục lọi trong túi tìm nhánh tỏi lão còn để
dành, chìa ra cho mụ:
- Ráng nhai cho kỹ, rồi nuốt, may ra...
Mụ run run đưa tay đón lấy, cho vào miệng, suýt nữa nhánh tỏi rớt ra ngoài.
Khi mụ đã ngủ yên, lão Trưng xách túi ra đi, lão tìm đến mấy quán cháo lòng, cố
vét một ít trên mấy cái tô người ta bỏ sót lại, đổ vào lon "Gugior"
lão mang theo, định tâm sẽ mang về cho mụ hành khất bạn lão, thôi thì lá rách
đùm lá rách vậy, biết làm thế nào bây giờ...
Khi trời tối lão mới trở về, mụ vẫn nằm đấy, mắt nhắm nghiền, lão đến bên mà mụ
cũng chẳng biết. Lão hỏi trỗng:
- Ngủ hay thức đấy?
Mụ hé đôi mắt yếu đuối:
- Mệt quá!
Lão mở cái lon cháo trước mặt mụ:
- Có cháo, ráng ăn một chút cho khoẻ.
Mụ cố gượng cười, nhưng nụ cười héo ngay khi mụ định ngồi dậy mà không nổi. Lão
Trưng hơi lưỡng lự, cuối cùng lão đỡ lưng mụ, để mụ ngồi dựa lưng vào tường:
- Phải ăn mới sống được, bệnh mà đói nữa là chết, không có gì cứu nổi!
Mụ cầm lấy cái lon úp lên miệng, lão nghe được cả tiếng mụ nuốt cháo. Thấy mụ
nuốt được lão cũng mừng:
- Thôi nằm nghỉ đi, sáng mai sẽ khoẻ.
Từ ngày gặp mụ hành khất ốm đau lão đâm vất vả hơn, ngoài việc xin ăn cho mình,
lão còn phải để dành một ít cho mụ mà không phải là thứ bậy bạ được. Thỉnh thoảng
lão lại trở về coi chừng mụ, lão mừng mỗi khi thấy mụ ngày một khá hơn.
Đêm nay, khi lão về thì đã thấy mụ đang ngồi ở một góc hiên, mắt nhìn ra ngoài
đường, lão đi gần đến nơi mụ mới nhận ra, nụ cười nở trên môi mụ tươi hơn mọi
ngày.
- Khỏi chưa?
- Đỡ rồi, ngày mai có thể đi quanh quanh đây kiếm ăn được. Cảm ơn ông đã giúp
tôi những lúc bệnh hoạn.
Lão cũng cười, nụ cười rộng miệng của lão còn tươi hơn của mụ:
- Ơn nghĩa gì, mình phải giúp đỡ nhau những khi bệnh hoạn. Tôi xin được ít cháo
và có cả củ khoai lang nữa, ráng ăn, thứ này tốt chứ không độc như khoai mì.
Mụ hành khất đưa tay đón lấy, mụ nói giọng cảm động:
- Ơn này tôi biết lấy gì đền đáp...
Đêm đã về khuya, khu phố tấp nập đã hoàn toàn yên tĩnh, mấy ngọn đèn tỏa thứ
ánh sáng đỏ quạch xuống mặt đường nhựa. Thỉnh thoảng lại có những chuyến xe bò,
xe ngựa chở đầy hàng hoá đi về hướng Sài Gòn. Tiếng lọc cọc của xe, lão nghe được
từ đằng xa, càng ngày càng rõ, và sau đó, mỗi lúc một yếu dần, rồi mất hẳn. Cái
tiếng động quen thuộc ấy kéo dài từ nửa đêm cho đến sáng. Lão Trưng và mụ nằm gối
đầu lên trên cái bậc xi măng trước cửa, hai người nằm song song nhưng cách nhau
một khoảng, lão nghe được tiếng mụ thở đều và tiếng trở mình của mụ.
Từ ngày gặp mụ, lão chưa hỏi mụ về gia cảnh vì chẳng có thì giờ nào, nhưng lão
đoán cũng vì chiến tranh vậy thôi, vì cứ trông người mụ, lão cũng biết mụ sinh
ra không phải để làm nghề này.
Lan man nghĩ đến người bạn đồng cảnh ngộ nằm bên, lão trằn trọc mãi không ngủ
được. Nhìn mụ nằm không chăn mùng, lão hơi ân hận. Đáng lẽ lão phải nhường cho
mụ cái mùng của lão nhưng lão đã không làm thế, lão đã nghĩ đến điều ấy rồi,
nhưng lại cho rằng làm như vậy là lụy vì "gái", nên lão lại thôi. Bây
giờ nhìn mụ nằm lăn lóc trên nền xi măng giữa lúc đau ốm, lão mới nhận ra sự
tàn nhẫn của mình.
Mới hừng sáng lão đã trở dậy, con đường trước mặt lão càng ngày càng sáng rõ.
Phương đông bầu trời mỗi lúc một hồng hơn, và ánh sáng yếu ớt đã trải những tia
nắng đầu tiên xuống mặt đường nhựa. Đường phố bắt đầu có người qua lại, nhưng
toàn những người buôn gánh bán bưng, hay đi nhặt những mảnh giấy vụn và túi ny
lông rách nát. Lão liếc nhìn sang góc bên kia, mụ hành khất đã trở dậy, ngồi dựa
lưng vào tường, nhìn ra đường như lão. Lão mon men lại gần:
- Đỡ rồi phải không?
Mụ gật đầu, cố nở một nụ cười nhưng không nói.
Lão vẫn hỏi trỗng:
- Tên gì nhỉ?
Mụ hơi lững lự, nhưng rồi trả lời gọn lỏn:
- Bích.
Mụ lưỡng lự vì lúc đầu mụ không biết phải trả lời như thế nào. Trong đời mụ, mụ
đã mang quá nhiều tên, tên mụ, tên chồng mụ, tên chức vụ mà khi trước chồng mụ
làm việc, và cả tên đứa con đầu lòng của mụ nữa. Tất cả những tên của chồng và
con đến bây giờ mụ không còn dùng được nữa vì đã không còn, không còn gì cả, và
mụ phải dùng lại cái tên trong thời kỳ con gái của mụ.
Mụ cảm thấy tủi thân khi phải dùng tên tục của mình, nên sau khi trả lời xong mụ
nín thinh nhìn ra ngoài đường, hai hàng nước mắt ứa ra, lúc đầu mụ còn cố giấu,
nhưng rồi không còn kiềm chế được nữa mụ đành để cho nước mắt chảy dài trên má.
Lão ngạc nhiên:
- Tại sao lại khóc?
- Tôi không ngờ đời tôi lại có ngày như thế này!
Lão an ủi:
- Nào tôi có khác chi, trước đây tôi cũng có nhà cửa vợ con mà nay cũng chẳng
có gì, hơi đâu mà nghĩ ngợi vớ vẩn, đau ốm là chỉ thiệt thân mình, nhất là những
lúc như lúc này. Trời sinh voi trời sinh cỏ, đừng lo!
Lão biết mụ đang nghĩ đến chồng con mụ, cũng như lão đã từng khóc mỗi khi nhớ đến
vợ con mình, nên lão không dám hỏi nữa, cả hai đều ngồi yên nhìn ra ngoài đường.
Lão rất muốn xách túi đi kiếm ăn sớm hơn mọi ngày, để tránh khỏi nhìn những giọt
nước mắt của mụ, vì đó cũng chính là những giọt nước mắt của lão! Nhưng nghề ăn
mày không thể kiếm ăn vào lúc sáng sớm được, phải để mọi người kiếm ăn được đã,
hay ít nhất cũng no bụng đã, mới đến phiên những người xấu số như lão, hưởng những
cái dư thừa của họ.
Lão quay sang mụ Bích, bây giờ đã hết khóc, đang vuốt lại mái tóc rối bằng cái
lược chỉ còn một nửa, lão nói hơi ngập ngừng:
- Nếu còn yếu thì cứ nằm nghỉ, tôi sẽ đi xin giùm, trưa và tối tôi sẽ về đây
đưa cho...mụ ăn.
Từ hôm gặp mụ Bích, lão chỉ nói trỗng nên hôm nay lão lúng túng không biết phải
xưng hô thế nào. Lão hay dùng tiếng "mụ" như khi còn ở quê lão, cái lối
xưng hô rất đặc biệt mà ở đây người ta không dùng, đôi khi lão còn bị cự vì
cách xưng hô này, nhưng lão đã quen miệng mất rồi.
Mụ Bích chỉ khẽ gật đầu khi đáp lại câu nói của lão, hình như mụ muốn nói với
lão điều gì nhưng rồi vì mệt mỏi nên mụ không nói được, nhìn ánh mắt tha thiết
của mụ, lão biết mụ đang cảm động.
Riêng lão, lão cũng muốn nói với mụ những rung động trong tâm hồn lão. Kể từ
ngày vợ lão qua đời, cuộc sống vất vả nay đây mai đó, đầu đường xó chợ, đã làm
cho lão chỉ còn thì giờ nghĩ đến miếng ăn hằng ngày, thỉnh thoảng lão mới thấy
lòng mình rung động khi nhìn thấy đàn bà, con gái. Nhưng nhìn lại thân phận
mình, lão hiểu đã có những ý nghĩ rồ dại, điên cuồng, và rồi muốn hay không,
lão vẫn phải quên đi để tiếp tục sống những ngày còn lại tối tăm và đau khổ.
Nhưng từ khi gặp mụ Bích, lão thấy mình trẻ lại, yêu đời hơn. Lão còn nhớ khi
lão đỡ mụ ngồi dựa vào tường hôm nọ, khi tay lão chạm vào thân thể mụ, lão cũng
có cảm giác ngây ngất, làm lão nhớ đến lần lão cầm tay mụ vợ trong đêm gặp gỡ đầu
tiên.
Lão Trưng liếc nhìn sang góc hiên, lão bắt gặp mụ Bích đang nhìn mình, hai người
cùng cười, có lẽ chỉ lão và mụ mới hiểu được nụ cười của nhau mà thôi.
Vừa lúc đó, một bà gánh cái nồi ghi ngút khói đi lại, lão đoán là hàng cháo
lòng, nên lần trong túi móc ra mấy đồng bạc lão xin được ngày hôm qua. Lão lấy
vội cái lon Gugior, đứng lên, đi về phía bà bán hàng:
- Bán cho 5 đồng cháo trắng.
Bà bán hàng nhìn lão nghi ngại, nhưng cuối cùng cũng đặt gánh hàng xuống.
Đã nhiều năm đi ăn mày, lão biết bà bán hàng nghi ngờ lão không có tiền, tìm
cách lừa bà để lấy cháo, nên lão cầm tiền đưa ra trước mặt:
- Tiền đây.
Bà bán hàng sau khi cầm tiền mới múc cho lão gần một lon cháo:
- Tôi bán rẻ cho ông đấy.
Lão đón lấy lon cháo, rồi đi trở về phía mụ Bích:
- Ráng ăn lon cháo này, tôi đi tới tối sẽ về, tôi sẽ lo ăn cho mụ, mụ còn yếu đừng
đi đâu.
Mụ Bích nói giọng cảm động:
- Tôi biết lấy gì đền đáp tấm lòng của ông đây...
Cả ngày hôm đó lão đi lang thang hết khu vực này sang khu vực
khác, xin được thứ gì lão cũng để dành cho mụ một nửa, nhất là những thứ ngon.
Lão vẽ vời tương lai của lão, mặc dầu không tươi sáng, nhưng cũng là một niềm
an ủi, hai người sẽ đỡ đần chăm sóc nhau những khi trái gió trở trời, và sưởi ấm
lòng nhau những lúc cô đơn buồn tủi.
Khi lão thấy đã đủ đồ ăn cho lão và mụ, lão đi trở về mái hiên nơi có mụ Bích
đang chờ đợi.
Lão có cảm tưởng con đường Cách Mạng Tháng 8 dài hun hút mà lão lại phải lần từng
bước một, nhất là đoạn trước trại nhảy dù Nguyễn Trung Hiếu ngày xưa, đọan đường
không có vỉa hè, lại gập gềnh vì những mô đất, bụi cỏ mọc nhô ra gần đường nhựa.
Lão đứng dựa lưng vào một gốc cây bên đường nhìn xuống khu Ông Tạ, khu phố tấp
nập với những hàng quán và ánh đèn, nơi ấy cũng có ngôi nhà đóng kín cửa và mụ
Bích đang ngồi đấy, đang mong chờ lão trở về. Lão liên tưởng đến một mái ấm gia
đình xa xưa, mỗi khi lão đi đâu về trễ, mụ vợ lão ngồi tựa cửa nhìn ra ngoài,
khi thấy lão xuất hiện ở đầu ngõ, mụ nói như reo:
- Ba mi đã về, dọn cơm cho ông ăn, Hường ơi!
Nghĩ đến nỗi vui của vợ lão khi xưa và của mụ Bích bây giờ, lão cố gắng bước đi
để chóng nhìn thấy nét mặt rực rỡ và nụ cười của mụ Bích khi nhìn thấy lão.
Nhưng khi về đến mái hiên quen thuộc lão không thấy mụ Bích đâu cả, lão nhìn
quanh quất để tìm, nhưng rồi thất vọng nhìn xuống cái bậc xi măng nơi mụ Bích
đã ngồi và nằm mấy ngày hôm nay.
Chờ đợi mãi sốt ruột, lão đi loanh quanh để dò hỏi thì ai cũng trả lời:
"Không biết!". Cuối cùng, có một bà bán bánh mì ở bên kia đường nói với
lão:
- Khoảng 4 giờ chiều, bà ấy đang đi, tay cầm lon nước, bỗng ngã xuống lề đường
bất tỉnh, lon nước trên tay đổ tung toé. Mọi người chung quanh biết là bà trúng
gió, nên có người lấy dầu đánh gió cho bà, nhưng có lẽ bà đã quá yếu nên vẫn
không tỉnh lại. Một số người động lòng trắc ẩn đã đưa bà đi nhà thương, nhưng
không biết nhà thương nào, và sống chết ra sao.
Lão Trưng bỗng thấy xây xẩm mặt mày, lão ngồi thụp xuống vỉa hè ôm mặt. Lão
khóc!
Tạm trú
Hiển ngồi dựa lưng vào tường, thở khò khè mệt nhọc, hắn
nghiêng người với bình thuốc xịt đặt trên bàn, đưa bình thuốc vào cuống họng cố
gắng xịt, nhưng bình thuốc đã gần hết hơi. Chán nản, hắn ném bình thuốc nằm lăn
lóc cạnh chỗ ngồi, mắt mở lớn nhìn ra ngoài vườn qua khung cửa sổ nửa khép nửa
mở.
Nắng bên ngoài rực rỡ trên những tàn cây xanh, lá cây lao xao trong gió. Đời đẹp,
đẹp biết bao! nhưng hắn không có diễm phúc được hưởng cái vẻ đẹp thiên nhiên lộng
lẫy ấy. Hắn có cảm tưởng đang phải nhìn một bàn đầy những thức ăn ngon nhưng hắn
không được tham dự. Hắn biết hắn sẽ không chết vì bệnh này nhưng vẫn có cảm tưởng
cuộc đời hắn sẽ không kéo dài như những người khác. Thọ làm sao được khi không
thể thở nổi, như có gì vướng mắc ở cuống họng, đè nặng trên ngực, có cảm tưởng
như một bàn tay vô hình đang chận ở cổ. Đã vậy, thuốc men lại không có, bình
thuốc hắn thường xịt vào cổ họng mỗi lần lên cơn đã hết, mấy viên thuốc nhỏ xíu
hắn thường tống vào vội vàng trong miệng mỗi khi có triệu chứng lên cơn cũng
không còn, và hắn cứ phải tiếp tục như thế này cho đến khi vợ hắn đi chợ về,
nhưng còn lâu lắm vợ hắn mới về! Bây giờ mới là mười giờ sáng, sớm lắm cũng phải
năm giờ chiều nàng mới về, mà khi vợ hắn về chưa chắc gì đã có thuốc uống nếu
không bán được hàng.
Nhưng rồi chẳng biết vì lý do gì cơn suyễn cũng thuyên giảm phần nào, nhưng Hiển
cảm thấy mệt vô cùng, cái cảm giác rã rời bải hoải sau cơn suyễn làm hắn chán nản
tột độ, nên ao ước được chết, được chết một cách bình an sau một giấc ngủ, và rồi
hắn mê man lúc nào không biết.
Có lẽ hắn đã thiếp đi lâu lắm, vì khi tỉnh dậy nhìn qua khung cửa sổ Hiển biết
là vợ hắn sắp về, vì ánh nắng chỉ còn chiếu những tia vàng úa trên đỉnh ngọn dừa.
Đúng như Hiển dự đoán vợ hắn về thật, tiếng mở cửa và bước chân nhẹ nhàng của
nàng cho hắn biết điều hắn nghĩ là đúng.
Nga, vợ hắn, bước vào phòng trong, qua chỗ Hiển nằm, đứng nhìn hắn, nàng hiểu
chuyện gì đang xẩy ra:
- Lại suyễn!
Dạo này, căn bệnh quái ác, đeo đẳng hắn thường xuyên đến độ, vợ hắn chẳng phải
là bác sĩ, mới nhìn qua là biết ngay, và có lẽ không gây cho nàng xúc động nào.
Lên cơn, chỉ cần mấy viên thuốc là có thể khỏi được, cùng lắm thì phải dùng đến
bình xịt, nhưng những thứ ấy bây giờ đắt đỏ, kiếm tiền ăn đã khó huống hồ là
thuốc men.
Tuy nói "lại suyễn", Nga cũng lại gần bên giường dặt tay lên trán hắn.
Bàn tay nàng thật mát, hắn thấy thương vợ vô cùng, nếu nàng lấy người khác nàng
đã hưởng cuộc đời hạnh phúc. Lấy hắn, chỉ là lấy nợ đời! Nhưng làm thế nào bây
giờ, hắn có muốn như vậy đâu, chẳng qua là duyên số thôi!
Hắn mở mắt nhìn vợ:
- Em mới về hả?
Nàng không trả lời, hỏi lại:
- Anh bị suyễn phải không?
Hiển gật đầu:
- Nếu có tiền em sang bên bà Thịnh mua cho anh mấy viên thuốc, chỗ quen biết chắc
không đến nỗi là thuốc giả!
- Họ cũng mua đi bán lại, chắc gì họ biết giả hay thật!
Nga đi một lúc sau trở về đưa cho hắn mấy viên thuốc nhỏ li ti. Chỉ thiếu có chừng
đó thôi mà cơn suyễn hành hạ hắn từ sáng đến giờ!
Sau khi uống thuốc, Hiển cố gắng trở dậy đi ra ngoài ngồi ở cái ghế kê sát tường,
hắn muốn chứng tỏ với nàng, mặc dầu bệnh thật nhưng không đến nỗi nào.
Không biết do đâu mà Hiển có cảm tưởng Nga sắp bỏ hắn, mặc dầu nàng vẫn chăm
sóc hắn một cách bình thường. Có lẽ tại Nga đẹp và nàng thường được người này
người khác đeo đuổi mặc dầu không còn là con gái. Cảm tưởng này đến với hắn thường
xuyên hơn, mỗi khi đau yếu phải nằm liệt một chỗ, chẳng đi lại làm lụng gì được.
Kể ra Nga lấy hắn làm chồng cũng uổng cuộc đời của nàng! Một người đàn bà đẹp,
đến bây giờ hắn còn nhận ra nàng đẹp, thì đối với người khác vợ hắn phải đẹp lắm.
Nếu điều đó đúng như hắn suy đoán thì thật là nguy hiểm. Rồi một ngày nào đó vợ
hắn sẽ bỏ đi, không bao giờ trở lại nữa! Hắn sẽ cô đơn vô cùng trong cái căn
nhà lạnh lẽo này! Hay tệ hơn nữa nàng sẽ toa rập với người tình tống cổ hắn ra
khỏi căn nhà, ngang nhiên sống với người chồng mới. Điều đó có thể xẩy ra lắm,
vì mặc dầu là chồng, hắn chẳng phải là chủ hộ mà chỉ là người tạm trú. Chắc ít
có ai hiểu được trường hợp éo le của hắn nếu sinh sống ở nước ngoài. Hắn không
phải là "ngụy quân" hay "nguỵ quyền" gì ráo, cũng không bị
bắt đi học tập cải tạo ngày nào, ấy vậy mà hắn vẫn phải tạm trú trong căn nhà
này mà vợ hắn làm chủ hộ. Nguyên do trước đây hắn ở Đà Nẵng, trong lần di tản,
gia đình ly tán, vợ hắn chạy vào Sài Gòn, mua lại được căn nhà này, hắn vẫn tiếp
tục ở lại Đà Nẵng.
Từ ngày có chế độ hộ khẩu, việc thay đổi chỗ ở rất là khó khăn, nhất là di chuyển
về Sài Gòn. Đến khi gặp lại vợ hắn thì hai người đã có hai sổ hộ khẩu, mỗi người
một nơi.
Vợ hắn không muốn sống ở Đà Nẵng nữa vì làm ăn ngày một khó khăn. Còn hắn cũng
cảm thấy bầu
không khí sinh hoạt ở Đà Nẵng ngột ngạt hơn Sài Gòn nên đành xách gói đến tạm
trú nhà vợ. Và tình trạng ấy đã kéo dài hết năm này sang năm khác.
Điều kế tiếp hắn lo ngại là vợ chồng hắn ăn ở với nhau cả chục năm vẫn không có
con. Vợ người ta đẻ sòn sòn, còn vợ hắn không có gì hết! Mà nào phải Nga không
có dáng đàn bà gì cho cam, nàng có vẻ đẹp rất khêu gợi, vậy mà không con! Điều
này chắc là lỗi tại hắn, hắn không có con được. Cái thân thể gầy đét, xanh lè,
làm Hiển nghi ngờ khả năng làm chồng của mình. Nhưng nếu điều này đúng thật thì
cái vụ cách nay ngót hai chục năm chẳng lẽ do mụ Bảy đổ vạ cho hắn.
Khi ấy Hiển còn là thanh niên, sống ở Quảng Ngãi, hắn làm lơ cho chiếc xe đò chạy
đường Quảng
Ngãi- Đà Nẵng. Khi nào trở về Quảng Ngãi nghỉ, hắn ở trọ nhà mụ Bảy. Mụ nấu
cơm tháng cho nhiều người lại có cho ở trọ nữa, hắn cũng là người ở trọ nhà mụ.
Trong cái đám người ăn cơm ở trọ ấy hắn ít ở nhà nhất, nghề lơ xe khiến hắn phải
đi vắng hoài. Mỗi khi trở về mụ chìu chuộng hắn đủ điều, lúc nào cũng cung cấp
bia và đồ nhậu cho hắn. Bề ngoài mụ xưng chị gọi em ngọt sớt nhưng lại tống
tình hắn, nhiều lần hắn chợt thức giấc vì mụ hôn hắn. Hồi đó hắn còn là thanh
niên mạnh khoẻ, thật khó cho hắn để từ chối những mời mọc như thế, nên hắn đã tặc
lưỡi làm càn. Trong suốt thời gian ở trọ nhà mụ Bảy, chuyện như vậy xẩy ra gần
như thường xuyên. Đùng một cái, mụ có chửa. Mụ nói với hắn cái bào thai là con
của hắn. Làm sao hắn có thể tin được mụ! Trong nhà thiếu gì người ở trọ, biết
đâu mụ chẳng ngủ với nhiều người? Nghĩ vậy nên Hiển chuồn, và từ đấy hắn không
bao giờ gặp mụ nữa. Hiển hơi ân hận về việc này. Nếu mụ Bảy nói thật thì đứa
bé là đứa con duy nhất của hắn. Bây giờ không biết nó ở đâu? Làm gì? Trai hay
gái? Những ý nghĩ loanh quanh ấy nhiều khi quấn quýt như mớ bòng bong trong đầu
hắn.
Còn Nga, vợ hắn, hắn gặp sau này, nàng theo xe đi buôn, nhờ hắn che chở, đỡ đần,
lại đụng chạm mỗi khi lên xuống, và rồi "lửa gần rơm", làm sao tránh
được, hắn ăn ở với Nga từ đấy, không có cưới xin gì!
Khi còn thanh niên, Hiển nghĩ, cưới hay không thì cũng vậy chỉ thêm phiền phức!
Nhưng đến bây giờ hắn mới thấy chuyện ấy thật là quan trọng, có cưới gả đàng
hoàng hai người dưới mắt mọi người mới là vợ chồng thật sự, nếu không thành ra
"mèo mả gà đồng", nay tấp chỗ này mai tấp chỗ khác, ai mà giữ được,
nhất là trong lúc hắn đau yếu và thất thế như thế này!
Đang suy nghĩ về những điều đen tối thì vợ hắn từ bếp đi lên, đặt tô cháo trước
mặt hắn:
- Ráng ăn một chút cháo cho khoẻ.
Hiển nhìn vợ cảm động, rồi cúi xuống xúc cháo cho vào miệng. Từ sáng đến giờ hắn
không ăn gì, bụng đói cồn cào, mắt hoa lên, người mệt lả nhưng không thấy thèm
ăn.
Hắn hơi ân hận những điều suy nghĩ xấu xa về vợ, nhất là khi thấy nàng chăm sóc
hắn.
° ° °
Buổi sáng khi hắn ngủ dậy thì mặt trời đã lên cao, chiếu ánh
nắng qua khung cửa sổ vào đến nền đất gần chỗ hắn nằm, hắn nghiêng người nhìn
xuống dải đất rực sáng trong căn phòng tối tăm, hắn thấy rõ từng gợn đất trong
căn phòng. Theo luồng ánh nắng, hắn nheo mắt nhìn ra ngoài, một mảnh trời xanh
ngắt in trên khung cửa sổ. Hình như hắn nghe được tiếng xôn xao của chợ búa nơi
mà vợ hắn đang buôn bán. Bỗng dưng hắn thèm đi ra ngoài phố, thèm đi trong ánh
nắng ban mai đang rực rỡ ở ngoài kia và nhìn cái cảnh ồn ào và náo nhiệt của
ngôi chợ gần nhà.
Hắn ngồi nhỏm dậy, đưa chân quơ đôi dép đã mòn vẹt đế, đứng lên đi lần về phía
cái tủ duy nhất của vợ chồng hắn, chọn một cái áo tươm tất nhất để mặc. Khi đi
ngang qua tấm gương nhỏ bằng bàn tay của vợ hắn treo gần cửa ra vào, hắn liếc
nhìn vào trong gương và giật mình vì có cảm tưởng nhìn thấy một người nào khác
không phải hắn. Hắn khác xưa nhiều qúa, hai má đã hóp xuống, nước da xanh mét
và đôi mắt lờ đờ. Hắn thất vọng khi nhận ra chính mình. Thôi thế là hết! hắn xuống
dốc một cách thê thảm! Hắn cố hình dung khuôn mặt của hắn cách nay ít ngày khi
hắn còn nằm liệt giường, không ngóc đầu lên nổi, chắc là còn thê thảm hơn nhiều!
Vừa bước ra khỏi cửa hắn sực nhớ ra trong túi không có một đồng nào, hắn trở
vào cái tủ duy nhất của hai vợ chồng lục lọi, móc hết túi này đến túi khác vẫn
không có tiền, hắn cúi xuống lật mấy bộ quần áo của Nga đã xếp ngay ngắn ở một
góc tủ, trên một tờ báo cũ. Khi hắn lật tờ báo lên hắn thấy mấy chục đồng vợ hắn
để dưới tờ báo, hắn hơi lưỡng lự vì không biết nên lấy bao nhiêu. Cuối cùng hắn
nhặt ba đồng vừa đủ để uống một ly cà phê, hắn thèm cà phê, vì lâu lắm hắn
không được uống ly nào.
Hiển đi dọc lề đường về hướng cầu Bình Triệu, cây cầu nhìn xa như một dải vải
đen người ta đem căng ra phơi dưới nắng, gặp khi gió lớn phồng lên, cái cảnh hắn
thường thấy khi còn nhỏ trong những buổi chiều lộng gió.
Lâu ngày Hiển không ra đến ngoài đường nên hắn ngạc nhiên khi thấy rất nhiều
người quần áo rách rưới, kẻ nằm người ngồi trên nền xi măng, bên cạnh họ ngổn
ngang những nồi niêu xoong chảo.
So với họ, hắn thấy mình còn may mắn hơn họ nhiều, Hiển vẫn còn một mái nhà để
che nắng che mưa, hắn vẫn còn được ăn cơm hằng ngày, hay ít ra cũng có củ khoai
củ sắn. Còn những người này, họ hoàn toàn không còn gì!
Hiển chú ý đến một bà già đang vạch áo bắt rận trong ánh nắng ở cạnh một cột điện.
Bỗng hắn giật mình, mắt hoa lên, tay chân run lẩy bẩy. Hắn dụi mắt mấy lần để định
thần nhìn cho rõ, bà già đang ngồi bắt rận có nét mặt rất giống mụ Bảy, mặc dầu
da mặt sạm đen, gầy đét và khô héo hơn mụ Bảy ngày xưa rất nhiều, nhất là bà đã
quá già.
Tất nhiên hai mươi năm đã trôi qua, mụ Bảy giờ cũng gần sáu mươi, chắc chắn phải
già, nhưng hắn vẫn không hình dung ra nổi, nếu bà già là mụ Bảy ngày xưa, mụ lại
có thể già đến thế!
Hắn đứng chôn chân một chỗ nhìn bà già, cố tìm kiếm những dấu vết đặc biệt của
mụ Bảy trên nét mặt bà, nhưng cuối cùng hắn vẫn không xác quyết được đó có phải
là mụ Bảy hay không. Còn bà già vẫn ngồi đấy, thản nhiên bắt rận trong vạt áo bẩn
thỉu rách rưới, không để ý gì đến hắn đang đứng bên lề đường chăm chú nhìn.
Bỗng bà lão ngẩng đầu lên, nheo mắt nhìn về hướng mặt trời, rồi quay lại về
phía Hiển đang đứng, như có ý mong ngóng một điều gì, xong lại cúi xống chăm
chú bắt rận.
- Nếu là mụ Bảy, mụ phải nhận ra mình chứ?
Hắn nghĩ thầm, nhưng hắn cũng nhận ra ngay tấm thân tàn ma dại của mình so với
những ngày tháng cường tráng ở Quảng Ngãi.
Hắn định đi gần bà lão, nhưng mới băng qua được nửa con lộ hắn lại quay trở về
đứng ở chỗ cũ nhìn ra chỗ bà lão ngồi.
Mặt trời lên đã khá cao, chiếu ánh nắng gay gắt xuống cái nền xi măng nơi bà
lão ngồi, có lẽ bà cũng nhận ra được điều này nên Hiển thấy bà đã đứng lên, quơ
tấm ni lông trải trên nền xi măng đi về phía bên kia đường, nơi có rặng cây che
bóng râm rợp cả một khu vực khá rộng lớn, bà lúi húi trải tấm ni lông gần một gốc
cây rồi lại ngồi xuống, hai tay khoanh tròn lấy gối nhìn ra ngoài đường. Bây giờ
bà đã ngồi quay mặt hẳn về phía Hiển, nhưng lại xa hơn, nên hắn cũng không nhận
ra được nét gì rõ hơn về bà.
Hiển phân vân không biết phải làm như thế nào, liệu có nên gặp bà lão để hỏi
cho ra lẽ hay không, hắn cần phải biết đứa con hắn hiện giờ ra sao, trai hay
gái. Hắn hơi ngạc nhiên từ khi gặp bà đến giờ chỉ thấy bà ngồi một mình, không
thấy "đứa con" của hắn, hay là nó bận đi kiếm ăn ở đâu đó đến tối mới
về, có thể lắm, chứ hai mẹ con cùng ngồi bắt rận thì lấy gì mà ăn?!
Nghĩ vậy nên Hiển quyết định ra về, định tâm buổi chiều tối sẽ ra gặp đứa con của
hắn.
Trên đường trở về hắn đã quên ly cà phê hắn định sẽ đi uống vào buổi sáng trước
khi ra khỏi nhà, đến khi hắn đụng tay vào mấy đồng tiền còn để trong túi mới sực
nhớ ra thì hắn đã về đến cửa. Hiển bước vào căn nhà tối tăm của vợ chồng hắn,
lúc đó mới cảm thấy mùi hôi, mốc, bốc lên từ cái nền đất ẩm ướt, mà bấy lâu nay
vì bệnh tật hắn đã không để ý đến.
Hiển đi lại phía sau nhà, mở tung cánh cửa, ánh sáng ùa vào căn phòng âm u làm
hắn nhận thấy rõ hơn vẻ tiều tụy của những đồ đạc, tài sản của vợ chồng hắn.
Hắn ngồi trên cái ghế xiêu vẹo nhìn ra vại nước ở phía sau, một cái vại bằng
sành và cả cái phuy sét rỉ đều đầy ắp nước mưa, mặt nước phẳng lặng như gương,
có lẽ còn hơn thế nữa nhưng hắn không có gì để so sánh. Hắn cảm thấy khô cổ nên
đứng lên đi ra ngoài vại nước, gục mặt trên vại nước và uống ừng ực. Bất giác hắn
nhớ đến ngày còn nhỏ, suốt ngày nô đùa chạy nhảy, khi chán lại trở về gục mặt
trên vại nước uống đến khi bụng óc ách mới thôi. Những ngày ấy thật là vui,
nhưng ngày vui nào cũng qua mau, chỉ để lại trong ký ức những kỷ niệm rực rỡ
không bao giờ quên được, và những kỷ niệm ấy còn rực rỡ hơn bao giờ hết trong
những ngày đen tối của cuộc đời.
Hiển đang lúi húi nấu cơm ở dưới bếp thì Nga về. Thấy chồng
đang loay hoay với nồi cơm, Nga mỉm cười:
- Bộ hôm nay anh khỏi rồi hả?
Hắn ngước lên nhìn:
- Khỏi thì làm sao khỏi được, nhưng đỡ hơn nhiều, anh nấu cơm để em về có cơm
ăn ngay kẻo đói.
Nga có vẻ cảm động:
- Thôi anh để đấy em làm cho, anh còn có vẻ yếu. Hơn nữa, đàn ông có vợ mà lại
phải nấu cơm có ai biết người ta cười em.
- Ai mà cười, không giúp em được việc này cũng phải giúp em việc khác chứ.
Thấy Nga vừa đẹp vừa hiền, Hiển cảm động, định ôm vợ hôn, nhưng Nga đẩy ra:
- Người em bẩn lắm, toàn là mồ hôi, bụi bậm không hà, mới khoẻ được một chút, lại
thế...
Bữa cơm chiều Nga ăn có vẻ ngon lành nhưng Hiển mãi thắc mắc về bà già mà hắn gặp
hồi sáng nên không cảm thấy ngon miệng. Chẳng lẽ mụ ấy là mụ Bảy? và rồi đứa
con hắn có với mụ không biết bây giờ thế nào, mẹ mà như thế thì con làm sao khá
được! Hắn bỗng thấy ân hận về việc làm của mình, lòng nghẹn ngào, nhưng hắn
không dám tỏ lộ ra ngoài sợ Nga có thể biết được. Nghe nói đàn bà họ tinh ý lắm,
nếu không khéo mà nàng biết được thì phiền to, nhất là trong lúc này, hắn với tấm
thân tàn ma dại lại sống bám vào hộ khẩu của vợ.
Vừa ăn cơm xong Hiển lật đật đi ra ngoài phố, Nga có vẻ ngạc nhiên:
- Anh đi đâu thế?
Hiển cố làm vẻ thản nhiên:
- Đi loanh quanh một chút, mấy hôm vừa rồi đau ốm nằm ở nhà tù túng quá!
Vừa nói đứt câu là hắn lẻn ra ngoài, sợ đứng lâu Nga sẽ can ngăn thêm rắc rối,
hắn đang sốt ruột nhìn mặt đứa con của hắn với mụ Bảy, vì hắn tin rằng thế nào
giờ này con hắn cũng đã về với mụ. Và cũng không hiểu tại sao từ khi trở về nhà
sau khi gặp bà già ngoài phố hắn lại tin chắc bà chính là mụ Bảy. Mụ đã thay đổi
tất cả sau hai mươi năm, nhưng còn đôi mắt, đôi mắt ấy thì đúng là không có gì
thay đổi. Hắn định tâm khi ra đến nơi sẽ giáp mặt mụ hỏi cho ra lẽ, và nhận lại
đứa con mà hắn chỉ còn nhớ đến mỗi khi có điều gì phiền muộn trong lòng.
Vừa khi có ý định nhận lại đứa con, hắn lại nhớ đến Nga, chắc chắn nàng sẽ
không bao giờ chấp nhận cho hắn đem con về. Vả lại, hắn còn chưa lo cho bản
thân hắn xong, làm sao hắn lo liệu cho con hắn được!
Hơn nữa, cũng đâu có dễ dàng gì để mụ Bảy chấp nhận cho hắn đem con hắn về, vì
trong hai mươi năm hắn đã trốn trách nhiệm, không nuôi nấng dạy dỗ gì!
Nghĩ đến trở ngại hắn thấy chóng mặt, mồ hôi ra lấm tấm trên trán mặc dầu trời
không nóng lắm. Hắn có cảm tưởng mấy ngọn đèn đường như nhảy múa trước mặt, tỏa
những vầng ánh sáng đủ màu sắc. Bỗng dưng hắn thấy khó thở, nên biết là cơn suyễn
lại sắp kéo đến hành hạ hắn.
Nghĩ đến việc hắn có thể xỉu ở dọc đường Hiển đã toan quay về, nhưng rồi ý muốn
nhìn thấy mặt đứa con duy nhất của mình nên hắn lại cắm cúi đi.
Từ xa Hiển đã nhìn thấy bà cụ già quần áo rách rưới ngồi dưới
chân cột điện, bên cạnh đó là một người nữa, một thiếu nữ, ăn mặc tươm tất hơn,
ngồi quay mặt về phía bên kia, đang loay hoay làm công việc gì đó hắn nhìn
không rõ. Hiển đoán thiếu nữ chắc hẳn là con gái của hắn, lòng khấp khởi mừng
thầm, cố rảo bước để nhìn thấy mặt đứa con mà từ khi nó ra đời hắn chưa bao giờ
thấy mặt.
Hắn xăm xăm bước lại gần, bà già đang cúi đầu ủ rũ thấy có người đến, ngước mắt
lên nhìn. Hắn choáng váng khi nhận ra bà già trước mặt hắn bây giờ không phải
là người buổi sáng hắn gặp.
Cô gái ngồi bên cạnh cũng ngước mắt nhìn:
- Ông tìm ai?
- Cô có biết bà già hồi sáng ngồi đây bây giờ ở đâu không?
Cô gái lắc đầu:
- Chỗ này biết bao nhiêu người ngồi, ai mà biết được!
Hiển ngơ ngác tìm kiếm một lúc lâu rồi thất vọng ra về, bất giác hắn thở dài.
Gió mỗi lúc một lạnh!
Bên kia khung cửa
Tăng chống một tay vào tường, tay còn lại cố vòi cái ghế, và
khi đã nắm được chàng kéo nó để vào chỗ có ánh nắng hắt vào rồi xoay người ngồi
nhìn ra ngoài.
Nắng buổi sáng rực rỡ đổ xuống con hẻm phía dưới, làm sống lại quang cảnh huyên
náo của một ngày mới bắt đầu. Chàng có cảm tưởng ngửi được mùi thơm của những
món ăn, từ những cái nồi còn đang bốc khói của mấy bà bán hàng ở ngôi chợ nhỏ đầu
hẻm, gần nhà. Ngôi chợ chỉ nhóm họp từ sáng cho đến mười giờ để bán mấy món ăn
sáng cho những người trong xóm.
Ngồi trên căn gác gỗ của Tăng, chàng nhìn thấy được trọn vẹn ngôi chợ này, thấy
được cả từng người khách đang ngồi ăn, thậm chí còn thấy được dáng điệu của họ
khi ăn, người khoan thai, người vội vã, nhưng với thái độ nào họ cũng lộ vẻ sảng
khoái trên khuôn mặt, trong dáng điệu, trong ánh mắt, như những đứa trẻ vừa bú
vừa mân mê vú mẹ.
Ngồi quan sát người khác ăn trước khi mình được ăn, là cách làm tăng thêm hương
vị của những món ăn ấy, mà Tăng thường áp dụng vào mỗi buổi sáng khi chàng ngủ
dậy.
Đó cũng là cách giải trí, một trò chơi của chàng trong những ngày giam mình
trong căn gác gỗ chật hẹp này.
Từ khi bị cụt mất một chân, Tăng bị đẩy khỏi chiến trường đang trong thời kỳ sôi
động để trở về căn gác gỗ này. Căn gác mà chàng đã miệt mài đèn sách từ những
ngày thơ ấu cho đến khi đậu được mảnh bằng tú tài rồi đi lính. Và bây giờ sau mấy
năm, trở lại căn gác gỗ ấy, chỉ để nhìn cảnh đời huyên náo ở phía dưới, mà
chàng muốn tham dự sẽ phải rất vất vả mới lê được từng bước. Vì vậy, Tăng thường
chọn thái độ đứng ngoài và đứng "trên", để nhìn xuống với nỗi hậm hực
trong lòng.
Căn gác gỗ và Tăng đang bắt đầu một cuộc hành trình khác, không phải là đèn
sách chuẩn bị vào đời như trước kia, nhưng chuẩn bị cho những ngày buồn thảm
sau này. Tăng cười thành tiếng trong cái ý nghĩ ấy, chuẩn bị là nằm lì, Tăng chỉ
có thể nằm lì ở đây cho đến hết đời.
Tăng cảm thấy thèm được sống hơn bao giờ hết, không một ước vọng cao sang nào,
chỉ cần được như mọi người, có đủ tay đủ chân là đã hạnh phúc lắm rồi, hạnh
phúc đơn sơ, đơn sơ đến độ những người đang đi lại dưới con hẻm kia không ai mơ
ước cả, nhưng chàng vẫn mơ ước, dù biết rằng chẳng bao giờ được nữa. Rồi còn
hai ngón tay trên bàn tay trái cũng mất nốt, để đến bây giờ nhìn lại, nó mang một
vẻ vừa tội nghiệp vừa buồn cười.
Tăng đang ngồi dựa lưng vào vách thì có tiếng guốc khua trên sàn gỗ, chàng biết
là Cẩm, cô em gái lên để lo cho chàng ăn bữa sáng.
Lâu ngày ngồi một chỗ và lắng nghe tiếng động ở chung quanh, Tăng phân biệt được
tiếng chân của những người thân. Người ta vẫn nói, mấy người mù thính giác bén
nhạy vì mọi khả năng đều dồn vào nó. Tăng không mù, nhưng chàng cũng cảm thấy
thính giác của mình như bén nhạy hơn, khi cái chân cụt giam chàng trong căn gác
nhỏ hẹp này..
Cẩm đi lại phía Tăng ngồi, đứng đằng sau lưng nhưng không lên tiếng vì thấy anh
đang tư lự nên nghĩ là Tăng không biết nàng đến, nhưng đứng lâu không thấy anh
quay lại, nàng hỏi:
- Anh muốn ăn gì để em mua?
Tăng quay lại, nhìn em, nhận ra thái độ vô lý của mình đã bắt em phải chờ đợi:
- Mua cho anh một tô bún riêu, của cái bà gì... ngồi góc đằng kia, hôm nay bún
của bà ấy có vẻ ngon, màu riêu cua trông vui mắt và hấp dẫn.
Cẩm cười vì câu nói vui bất ngờ của anh.
- Anh còn thuốc hút không?
Tăng hơi ngập ngừng:
- Hết rồi!
- Sao anh không nói?
- Sợ nhà không có tiền!
- Nhà thiếu gì tiền, anh lẩm cẩm quá, hơn nữa chính phủ vẫn cấp dưỡng cho anh,
tiền lương của anh ăn đâu có hết, còn nhà thì vẫn có đồng ra đồng vào, có thiếu
thốn gì đâu mà anh phải làm như vậy?
Cẩm nói thế nhưng Tăng biết gia đình bắt đầu sa sút, tiền cấp dưỡng tàn phế của
chàng cũng không hẳn là đã đù cho chính bản thân, nếu sống bám víu vào gia đình
nữa sợ sẽ là gánh nặng cho mẹ và em, nên Tăng đã dè sẻn từng điếu thuốc vì nghĩ
đó chỉ là những thứ phụ, có cũng được mà không có cũng chẳng sao, thật ra Tăng
cũng chưa nghiện nặng. Nhưng từ ngày bị cụt chân, suốt ngày quanh quẩn trong
nhà, Tăng đâm ra hút thuốc nhiều hơn, nhiều đến mức đáng ngại, thành thử nhân dịp
hết thuốc Tăng định sẽ nhịn luôn, nhưng khi nghe Cẩm nói, chàng cảm thấy thèm
thuốc trở lại và thèm mãnh liệt hơn lúc trước:
- Cô mua Bastos xanh, đừng mua Ruby nữa, bây giờ anh đổi "gừ'; rồi.
Một lúc sau Cẩm trở về với tô bún và một gói thuốc để trên bàn, Tăng nhìn em:
- Chuyện của cô với Lãng đến đâu rồi, gần sang đoạn kết chưa?
Cẩm hơi đỏ mặt:
- Cũng vậy thôi, anh ơi!
Lãng là bạn học với Tăng, do tình bạn giữa hai người, Lãng thường đi lại nên
quen Cẩm và sau đó hai người yêu nhau. Khi đậu xong tú tài, Lãng học sư phạm.
Do nghề nghiệp, nên từ ngày ấy hai người ít có dịp gặp nhau. Hôm biết tin Tăng
bị thương nặng Lãng có lên Tổng Y Viện Cộng Hòa thăm, nhưng lâu nay Lãng không
về được vì Lãng dạy học ở tận Bình Tuy, mà đường xá lúc này không còn đi lại dễ
dàng như trước.
- Cũng vậy thôi là làm sao?
Cẩm nghe anh vặn hỏi, định kể cho anh nghe, nhưng nghĩ thế nào lại thôi:
- Nghĩa là cũng như hồi xưa thôi, anh ấy vẫn viết thư cho em, nói, khi nào có dịp
về sẽ ghé lại thăm anh.
Thấy anh có vẻ vui hơn mọi hôm, Cẩm tò mò:
- Còn chị Thủy và anh thế nào?
Đang vui, Tăng sa sầm nét mặt. Cẩm biết mình lỡ lời nên lảng sang chuyện khác rồi
đi xuống nhà.
Thật ra Thủy chẳng có lỗi gì, ít ra là bề ngoài nàng vẫn cố giữ mối liên hệ như
xưa, ngày Tăng còn lành lặn. Nhưng Tăng thì đã dứt khoát, không muốn Thủy phải
khổ lụy vì mình, chàng đã viết cho nàng một lá thư, cảm ơn mối tinh Thủy đã
dành cho chàng và sau đó là lời chào từ giã, chúc nàng gặp được người yêu hợp ý
sau này.
Tăng không ân hận gì về việc làm của mình, vì cũng chẳng có giải pháp nào khác,
nhưng nỗi nhớ nhung thì không nguôi được. Hình bóng Thủy và tà áo dài nàng thường
mặc vẫn tha thướt trong vùng ký ức tươi sáng và ngọt ngào của những ngày hoa mộng
cũ.
Tăng vừa ăn vừa nghĩ đến những bữa ăn sáng của những ngày về phép, nhưng buổi
chiều rong chơi trên những con đường vắng, những ước vọng mà hai người thường
nói với nhau. Tô bún mà mới cách đây ít phút Tăng tưởng sẽ ăn rất ngon bỗng trở
nên khó nuốt, chàng xé bao thuốc lá mà Cẩm mới mua về, rút một điếu mồi lửa,
hút.
Khói thuốc Tăng vừa nhả ra, theo gió bay qua luồng ánh sáng chiếu qua cửa, rồi
biến mất ngay sau đó.
Hút xong điếu thuốc, vừa đặt mình xuống cái giường bên cạnh cửa sổ thì thằng em
trai dẫn Thứ lên trên gác. Vừa nhìn thấy Tăng, Thứ chạy lao tới:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét