Những tìm tòi nghệ thuật của Anh Đức 1
PHẦN THỨ NHẤT:
ANH ĐỨC, CUỘC SỐNG VÀ QUAN NIỆM SÁNG TÁC
1. Anh Đức tên thật là Bùi Đức Ái, sinh năm 1935 tại An Giang. Anh Đức kể: ” Hồi
nhỏ…học ở trường làng gần thị xã Long xuyên…, sau lên học ở Cần Thơ… suốt thời
gian tuổi nhỏ, hầu như lúc nào cũng ở giưã thiên nhiên rất đỗi hài hoà. Cái
làng chôn rau cắt rốn cuả tôi đó nằm kề bên sông Cửu Long. Phù sa màu mỡ cuả
dòng sông không ngừng bồi bổ ruộng vườn. Cá tôm dưới sông thật nhiều, tới muà
cá dại, mọi người xách rổ lội xuống xúc cá, lớp về ăn lớp làm mắm. Tuổi thơ tôi
hầu như đêm ngày được ru trong tiếng gió và sóng Cửu Long Giang, trong tiếng
chim kêu hót từ các khu vườn, trong tiếng xào xạc cuả ruộng luá. Tuổi thơ tôi
nghe văng vẳng tiếng hát ru, tiếng võng đưa kẽo kẹt, giưã trưa yên tĩnh, và
trong mỗi buổi chiều tà in hình từng đàn cò trắng lả cánh bay về. Tôi còn nhìn
thấy những cảnh đời người khác biệt nhau, có kẻ quá no đủ phủ phê trong những
ngôi nhà nền đúc phòng tô, có người quá khổ cực sống trong chòi lá xác xơ. Có những đứa theo Tây nổi mỏ truy lùng cộng sản, và những
người cộng sản bị bắt giải đi. Có lẽ nhờ tất cả những thứ đó, nên tiềm thức khiếu
năng cuả tôi được khơi động”(1)
Có thể nói tình yêu quê hương là một trong những tình cảm mạnh mẽ, một động lực
sáng tác cuả Anh Đức. Đàng sau tác phẩm cuả Anh Đức, người đọc có thể nhận thấy
hình ảnh quê hương đậm nét và lòng yêu quê hương chưá chan của tác giả. Chính
Anh Đức thổ lộ điều này: “Tôi là đưá con cuả đất An Giang. Cách thị xã này chừng
10 cây số , tôi đã sinh ra và lớn lên. Giưã hồn tôi và trên trang giấy khi mà
tôi biết bắt đầu phô diễn, trình bày và phản ánh đời sống, tôi đã chắt chiu đưa
vào đó biết bao tình yêu từ mảnh đất sinh ra tôi, là sưã cuả mẹ, màu xanh cuả
lá, là mùi khói đốt đồng trên những cánh đồng chiều, và cho đến hôm nay, cũng
như mãi mãi, nhịp sóng sông Cửu Long vẫn cứ vỗ về hồn tôi như một khúc hát
ru”(2)
Từ tình yêu quê hương, từ sự chiêm nghiệm cuả bản thân trong môi trường thiên
nhiên cuả quê hương, Anh Đức đã nhận thấy sức mạnh rất đáng kể cuả việc miêu tả
thiên nhiên làm bối cảnh thể hiện tâm trạng nhân vật. Anh Đức coi việc miêu tả
thiên nhiên là một nguyên tắc sáng tạo quan trọng: ”Miêu tả bối cảnh, miêu tả
thiên nhiên cũng là vì con người, ngoài sự kết hợp thể hiện tâm trạng con người
ta còn có cơ hội đem đến cho người đọc sự hưởng thụ mỹ cảm dạt dào cuả mặt đất
và bầu trời, nơi chốn nhân vật suy nghĩ, đi lại, hoạt động. Sức mạnh cuả mũi
miêu tả này thật đáng kể, nếu người viết biết kết hợp triển khai đúng mức có thể
gây nên những ấn tượng kỳ diệu khó quên”…”vì vậy trong sang tác mà không vận dụng
hoặc bỏ qua mũi miêu tả này thì uổng quá” (3). Một trong những yếu tố đặc sắc tạo
nên những thành công cuả Anh Đức là những trang miêu tả thiên nhiên Nam Bộ
trong trẻo, đầy màu sắc, thú vị. Diệp Minh Tuyền đã nhận định: “Văn tả cảnh cuả
Anh Đức rất giàu chất họa, chất nhạc và chất thơ. Do đó phong cảnh đất trời
phương Nam hiện ra dưới ngòi bút cuả Anh Đức với tất cả màu sắc thi vị, trữ
tình” (4)
Thực ra việc miêu tả thiên nhiên như một nguyên tắc sáng tạo cuả Anh Đức còn ẩn
dấu một chiều sâu ý thức nghệ thuật khác là tạo nên ý thức dân tộc và tình yêu
quê hương trong lòng người đọc, đồng thời cũng bộc lộ cái nhìn nhân ái cuả Anh
Đức nữa. Nguyễn Văn Bổng cũng có cùng một ý thức như vậy: “…Hãy tả đất nước
chúng ta… hãy làm cho mọi người thêm yêu đồng bào và đất nước chúng ta. Đó là
nhiệm vụ cuả nhà văn chúng ta.”(5)
2.Năm 1948, Anh Đức tham gia kháng chiến, công tác ở Ty Thông Tin Rạch Giá. Năm
1950 công tác văn nghệ ở Nam Bộ. Năm 1954 tập kết ra Bắc công tác tại Đài Phát
Thanh Tiếng Nói Việt Nam, Năm 1957 về công tác tại Hội Nhà Văn. Cuối năm 1962
vào Nam hoạt động ở chiến trường Nam Bộ, rồi xuống Cà Mau. Suốt những năm tháng
dài sống, chiến đấu và viết ấy, thì chặng đường vượt Trường Sơn vào Nam, và những
năm tháng cùng đồng bào Nam Bộ chiến đấu là chặng đường có ảnh hưởng quan trọng
nhất đối với đời văn cuả Anh Đức.
Anh Đức đã kiểm nghiệm điều này :”… suốt 12 năm ròng tôi bước vào một chặng đường
đi và viết đầy gian khổ ác liệt, nhưng là chặng đường quan trọng nhất đời tôi”
(6) Anh Đức gọi đó là “cái trường học đầy thử thách”. Đây là chặng vượt Trường
sơn :”…Tôi bắt đầu được nếm mùi vị cuả đọt bứa rừng nấu với thịt lương khô, tạo
nên một thứ canh chua lạ nhầt trên đời. Tôi đã biết một thứ thức ăn khi mới ăn
vào đắng không thể tả, nhưng sau đó thấy ngọt ngọt, bùi bùi, đó lá ngó mây nấu
mà các cụ già người Thượng đã mời chúng tôi nếm thử…Cái trường học đầy thử
thách này ngày nào đêm nào cũng phải vật lộn với từng chặng đường dốc đá cheo
leo, với suối lũ, với đói khát với những cơn mưa rừng tầm tã đổ xuống!”, “Trên
đường Trường Sơn , chúng tôi đã đói, đã khát, bị mất nhiều máu vì những ngày đường
đầy vắt, và hầu như ít có ai tránh khỏi sốt rét…Chân lý tưởng chừng đã cũ, nhưng
vẫn luôn mới. Tác phẩm bao giờ cũng có trả giá. Trả giá ít thì trang giấy lơ
láo. Trả giá xứng đáng thì trang giấy động đậy, sôi lên. Điều này Đảng đã nói
“(7)
Ở chiến trường Nam Bộ, cuộc chiến đấu mà Anh Đức trải qua còn gian khổ hơn nhiều.
Anh Đức kể :”Tôi đã từng ở trong những hồi khốc liệt, giưã những trận bom B52
rung chuyển, giưã lòng đất hẹp cuả một cái hầm bí mật, ngột ngạt đến mức cứ phải
liên tiếp đốt nến tạo nên sự lưu chuyển Oxy để mà thở. Tôi đã chứng kiến nhiều
trận đánh giưã bộ đội ta và quân thiện chiến Mỹ mà sau đó đất chiến trường ngập
nguạ máu, có chỗ đến mắt cá chân”(8). Trong hoàn cảnh ấy Anh Đức biết rõ một điều
là “bất cứ lúc nào mình cũng có thể ngã xuống”, thế nên tranh thủ mà viết. Viết
ngay trên rừng miền Đông, viết ở Đổng Tháp, ở bên bờ sông Hậu, viết trong mọi
hoàn cảnh. Từ trong chiến đấu, Anh Đức nhận ra giá trị này: ”Dòng viết giá trị
nhất phải chảy ra từ mồ hôi, máu và nước mắt cuả quảng đại quần chúng hy sinh
gian khổ làm nên thắng lợi, làm nên đời sống”(9). Kiểm nghiệm thực tiễn sáng
tác, Anh Đức khắng định “hiệu quả cuả chân lý sáng tạo một lần nưã cho biết đáp
số : hầu như tất cả các trang viết cuả tất cả anh chị em đều sôi động. Không có
một trang nào bời rời, lơ láo”(10 )Để đến được những tác phẩm giá trị, đáp ứng
được yêu cầu cuả nhân dân và CM, Anh Đức đã khẳng định một mô hình: Mộ hình kiểu
Trường Sơn. “nhất thiết phải đi qua mô hình kiểu Trường Sơn, con đường đỏ như
là máu, mới có thể tới được ngàn lá xanh tươi cuả đời sống thực tại”(11). Nhìn
lại thành tựu văn học cuả chúng ta mấy chục năm qua Anh Đức cũng nhận thấy sấu
sắc điều ấy: ”Nhiều khi ngẫm nghĩ, tôi thấy nền văn học mới này được làm ra bằng
những tác phẩm hầu như rất ít hao tốn tiền bạc, trừ mồ hôi máu xương và tim óc
“(12)
Điều Anh Đức nhận thức được không có gì là mới mẻ, chính Anh Đức nói Đảng đã chỉ
ra điều ấy. Điều quan trọng là Anh Đức đã thể nghiệm sâu sắc những nhận thức ấy:
”Dòng viết giá trị nhất phải chảy ra từ mồ hôi, máu và nước mắt cuả quảng đại
quần chúng hy sinh gian khổ làm nên thắng lời, làm nên đời sống”. Đó cũng là thực
tiễn sáng tác cuả Anh Đức: Đối tượng phản ánh và thẩm mỹ cuả Anh Đức là đời sống
hy sinh gian khổ cuả nhân dân trong cuộc đấu tranh cách mạng. Nhân vật trung
tâm là quần chúng CM, sống ân nghiã, chiến đấu và hy sinh. Anh Đức đã cùng sống,
chiến đấu với nhân dân, vì thế những trang văn Anh Đức cũng là những trang tích
tụ mồ hôi xương máu cuả nhân dân, điều này làm nên “tính chân thực” cuả ngòi
bút Anh Đức như các nhà phê bình đánh giá. Quả vậy, đọc Anh Đức ta không nghĩ
đó là truyện, không thấy bóng dáng cuả hư cấu, mà ta đối diện với cuộc sống, đời
sống chân thực như đang tồn tại, khiến cho ta xúc động và bị cảm hoá. Thiếu Mai
viết: ”…cảm tưởng cuả người đọc sau khi nghe truyện chị Tư Hậu là mối thông cảm
kính phục sâu xa, không phải với một nhân vật tiểu thuyết mà như với một người
thân yêu có thực trong đời sống”(13)
Ý thức văn chương là máu xương, mồ hôi nước mắt cuả quần chúng Cách mạng, Anh Đức
chỉ viết về đề tài Cách mạng, về quần chúng Cách mạng về ân nghiã ân tình Cách
mạng, qua đó gửi gắm những thông điệp cho mai sau. Anh Đức trở thành nhà văn của
quần chúng Cách mạng, ông chủ trương viết sao cho “cô bác đọc cho là được”(14),
và vì thế ông được quần chúng yêu mến.
3. Quê hương, vốn sống là hai yếu tố quan trọng làm nên tài năng Anh Đức, tuy
nhiên ánh sáng niềm tin cuả Anh Đức vào Đảng mới là yếu tố quyết định làm nên
những giá trị trang viết cuả ông.Điều này nhà văn CM nào mà không có, nhưng ánh
sáng và niềm tin cuả Đảng đã soi dẫn Anh Đức thế nào?
Nhớ lại lúc lên đường vào Nam 1962, Anh Đức ý thức sâu sắc niềm tin cuả mình
vào Đảng :” yêu cầu cuả Đảng lúc bấy giờ đối với chúng tôi thật hết sức cụ thể,
thật hết sức bức xúc. Các đồng chí hãy trở lại vùng đất quê mình, cùng tham gia
chiến đấu, để phản ánh một cách sinh động cuộc chiến đâu vô cùng anh dũng đang
diễn ra đó.” Lúc ấy đồng chí Lê Đức Thọ căn dặn :”cố gắng làm thế nào truớc hết
có được một bút ký, truyện ngắn, rồi sau đó có được truyện dài. Cần nhất là cho
chân thực và sinh động”. Anh Đức đã suy nghĩ : ”Điều tôi nghĩ nhiều nhất, ý thức
được một cách sâu sắc nhất, vẫn là xoay quanh sự chỉ đường cuả các anh (chỉ Đ/c
lê Đức Thọ-BCT) chỉ cho chúng tôi thời điểm và con đường đi. Con đường ấy cam
go nhất, nhưng tốt nhất để đi đến tác phẩm “(15)
Dọc đường Trường Sơn, anh Đức lại phát hiện ra sức mạnh cuả Đảng làm hừng hực
trái tim nhà văn :”Trước khi có tác phẩm chúng ta được Đảng đưa cho một cái gì
quá lớn, quá sâu nặng, cái gì đó có sức làm bật dậy, làm hừng hực trái tim”(16)
Sức mạnh làm hừng hực trái tim đó chính là niềm tin mạnh mẽ vào thắng lợi cuả
cuộc kháng chiến, cuả con đường Cách mạng mà Đảng đã vạch ra. Niềm tin này trở
thành sức sống. Anh Đức cho rằng “đáng sợ nhất là ‘mất niền tin’ đối với đời sống,
mất niềm tin ở nơi mình kể như là chấm dứt”. Có niềm tin ấy, Anh Đức vượt qua
được khó khăn cuả con đường tư tưởng. Có vướng mắc hay chăng là ở mặt kỹ thuật:
”có thể rất nhiều lúc tôi đã gặp những khó khăn, những vướng mắc- nhưng đều nằm
trong các vấn đề phương pháp thể hiện, vấn đề vốn sống ở tôi, vấn đề tôi chưa
thật sự chín mùi nhân vật ở giưã lòng mình”(17). Anh Đức khẳng định: ”Con đường
cuả Đảng vạch ra cho tất cả những người sáng tác, trong cũng như ngoài Đảng hết
sức đúng”…” Chúng ta đã từng trải qua những ngày vô cùng gian khổ ác liệt và đầy
thử thách, nhưng chưa bao giờ chúng ta thất vọng. Bao giờ chúng ta cũng thấy
ánh sáng cho dù khi đó chúng ta ở dưới địa đạo, ở dưới hầm bí mật, ở dưới những
trận mưa bom…là vì chúng ta có Đảng lớn mạnh “(18)
Anh Đức luôn bày tỏ niềm sung sướng tự hào được đứng trong đội ngũ nhà văn cộng
sản, góp sức cùng Đảng tiến tới lý tưởng cao cả vì tổ quốc và chủ nghiã xã hội.
Vai trò cuả Đảng ảnh hưởng đối với các sáng tác cuả Anh Đức thế nào? Điều này dễ
nhận thấy. Anh Đức sáng tác bằng thế giới quan, nhân sinh quan Cộng sản Chủ
Nghiã, dưới ánh sáng đường lối văn nghệ cuả Đảng, để thực hiện những nhiệm vụ
chính trị cuả Đảng trên mặt trận văn nghệ. Điều đặc biệt ở đây là tính Đảng,
tính lý tưởng, và chủ nghiã Nhân Đạo Cộng Sản thấm sâu trên mỗi trang văn Anh Đức.
Ông Hoài Thanh khi nhân xét Hòn Đất có phát hiện này: ”Ở đây tư tưởng cuả Đảng,
đường lối cuả Đảng đã thấm rất sâu. Chính do đó mà tập thể này tuy nhỏ thôi vẫn
cứ là vô địch”. Ở một đoạn khác Hoài Thanh viết :” Ở đây tư tưởng cuả Đảng cũng
rất cao mà không biết từ bao giờ đã biến thành tư tưởng cuả mọi người hoà vào
cá tính cuả từng người cả trong Đảng và ngoài Đảng “(19)
Vai trò cuả Đảng đối với sáng tác cuả anh Đức thể hiện ở chỗ những vấn đề Anh Đức
đặt ra trong tác phẩm là những vấn đề cuả Cách mạng.Những tính cách nhân vật,những
mối quan hệ xã hội, những tình cảm người với người đều được xây dựng với phẩm
chất mới đó là nghiã tình Cách mạng, đạo đức Cách mạng, nghiã khí Cách mạng, lẽ
sống Cách mạng. Chắc chắn rằng Anh Đức là nhà văn thể hiện sâu sắc, đẹp đẽ và đầy
thuyết phục những chân lý Cách mạng, toả sáng chất lý tưởng và ân tình ân nghiã
Cách mạng. Anh Đức cũng là nhà văn bền bỉ theo hướng sáng tác đã vạch ra trong
suốt mấy chục năm qua. Anh Đức nói những điều tâm huyết này :”Chỗ này đã thấm
quá nhiều máu cuả đồng bào đồng chí, những đồng bào đồng chí ngã xuống vì niềm
hy vọng và ước mơ lớn là chúng ta và các thế hệ mai sau được no ấm hạnh phúc.
Những đồng bào đồng chí không tiếc thân mình cho lý tưởng đó, vậy thì chúng ta
không tiếc sức mình, không thể đưa ra bất cứ lý do gì để không làm được điều
đó” (20)
Từ góc độ ảnh hưởng cuả Đảng đối với Anh Đức, ta hiểu được tính lý tưởng trong
trẻo trong sáng tác cuả anh Đức, hiểu được chất đôn hậu mà Anh Đức tự nhủ là
“mình sẽ viết bằng nỗi thương yêu”(21), như một đặc điểm nồng cốt cuả phong
cách Anh Đức. Anh Đức là một nhà văn cộng sản, một nhà văn chân thật, đôn hậu,
trong trẻo và lý tưởng.
4. Ngoài 3 yếu tố quan trọng chi phối sang tác cuả Anh Đức đã nêu ở trên, Anh Đức
còn những ý thức sáng tạo khác, những ý thức này cũng trực tiếp chi phối quá
trình sáng tạo cuả nhà văn.
Trước hết Anh Đức thổ lộ: ”Tôi hiểu thấu rằng, công việc của người viết ngoài sự
sáng suốt tự biết mình có gì, có tới đâu, ngoài tư tưởng Đảng cho và cuộc sống
nhân dân trao tay , mọi hỗ trợ khác kể như là phụ trợ. Trận chiến trên trang giấy
là trận chiến chỉ có một mình ta. Đấy là cuộc độc chiến”(22) nhà văn phải chịu
trách nhiệm về trang viết cuả mình. “ Tinh thần trách nhiệm cuả nhà văn là một
thứ tinh thần trách nhiệm cao, vì phạm vi chịu trách nhiệm ấy là xã hội, là con
người “(23). Viết là lăn lộn vượt qua cả một hoang mạc, nhưng viết cũng là hạnh
phúc .”Bây giờ cũng như bao giờ mỗi lần bắt tay vào viết một truyện mới tôi đều
có cảm giác sung sướng, hồi hộp y như khi tôi viết cái truyện đầu tay, bởi vì
càng ngày tôi càng ý thức rõ rệt rằng tôi đang làm điều hệ trọng và nếu tôi làm
tốt cái nghệ thuật ngôn từ này thì sẽ làm nên được nhiều điều quý giá”(24)
“Điều hệ trọng” cuả người làm nghề viết văn theo Anh Đức “là người dẫn dắt, người
chỉ đạo, người hỗ trợ và yểm trợ đắc lực cho mọi người”…” Sáng tác văn học là
làm cái công việc khêu gợi, vỗ về, gạn lọc, đem nguồn sáng, nguồn tươi mát để gội
nhuần để trẻ hoá tâm hồn và tư tưởng con người chớ không uốn cong bẻ quặp”(25)..”Sứ
mạng cuả nhà văn bao giờ cũng phải gây mầm, gây niềm tin tưởng lạc quan vào chiến
thắng nhất quyết phải giành được cuả dân tộc “(26).
Để thực hiện được mục đích “ đem nguồn sáng “ cho cuộc sống, Anh Đức chủ trương
rằng “cần có ý thức tạo dựng những điển hình mới mẻ, từ những con người lao động
bình thường nhưng có cống hiến thực sự cho xã hội. Cần cố gắng sao để văn xuôi
hình thành được nhiều nhân cách tốt, bởi vì trong bất cứ cuộc chiến đấu nào văn
học Cách mạng cũng phải có thiên hướng bênh vực. Và thiên hướng cuả những người
cầm bút chúng ta phải mang tính lý tưởng rõ rệt., là gây nên giưã lòng bạn đọc
sự yêu mến ngưỗng mộ những con người mới làm lụng cho sự nghiệp chung, sống và
ăn ở có tình nghiã, có đạo lý, quan tâm đến cảnh ngộ người khác”(27)
Những ý kiến nêu trên cuả Anh Đức đã định hướng rõ rệt con đường sáng tạo cuả
ông. Đó cũng là sự lưạ chọn riêng cuả Anh Đức. Anh Đức không viết để trực tiếp
phê phán cái xấu, mà viết “bằng nỗi yêu thương”, bằng thiên hướng “mang tính lý
tưởng rõ rệt”. Anh Đức chọn lưạ sứ mạng đem lại niềm tin yêu cho con người
(28).
Điều này người đọc tin là Anh Đức đạt được. Huỳnh Như Phương khẳng định điều ấy
khi đọc Miền Sóng Vỗ: ”Đọc anh, thấy tâm hồn yên tĩnh như cũng được truyền cho
một niềm tin chắc chắn, rất khoẻ mà không có vẻ gì lên gân”(29). Hoài Thanh
cũng tìm thấy niềm tin yêu ấy khi đọc Hòn Đất: ”Một quyển sách nói lên chân lý
lớn nhất đáng phấn khởi nhất cuả thời đại và nói lên bằng một câu chuyện hấp dẫn,
bằng những hình ảnh tuyệt đẹp khó quên, khiến hàng chục vạn người đang quần nhau
với giặc mà vẫn đọc say sưa, nhiều chỗ cảm động đến rơi nước mắt, và đọc xong
thấy thêm lòng tin, thêm sức mạnh để tiến lên tiêu diệt quân thù” (30).
5.Về mặt nghệ thuật, Anh Đức chú trọng đến sự chân thực hồn nhiên. “ Truyện viết
ra phải như thường, hồn nhiên chân chất như đời sống và đó là thứ kỹ thuật tôi
cố ra sức vươn tới”(31). Anh Đức nhấn mạnh: ”Thể hiện được vẻ đẹp chân chất cuả
cuộc sống, đó là mỹ học thứ thiệt”(32). Anh Đức giải thích nghệ thuật cuả mình
như sau: ”Tôi nghĩ rằng ta phải cố sao để trang viết được tự nhiên, được hồn
nhiên, sao cho vô tư, chân thật,dù có vương chút vụng về. Mình mà viết được tự
nhiên, hồn nhiên, chân thật thì người đọc mới tin, mới cảm, mới dễ chịu khi đọc
mình”(33)
Nói Anh Đức chú trọng đến sự chân thật hồn nhiên như vẻ đẹp cuả đời sống không
có nghiã là Anh Đức đem nguyên si đời sống vào trang viết, theo kiểu có sao nói
vậy. Trong lời tưạ lần tái bản Hòn Đất năm 1983, Anh Đức kể lại quá trình viết
Hòn Đất từ một câu chuyện có thật xảy ra tại Hòn Đất năm 1962, và lưu ý người đọc
điều này: ”Tôi gắng làm nên điều tiêu biểu chứ không làm nên những điều y như
thật”
Tuy nhà văn không làm những điều ”y như thật”, nhưng đọc Anh Đức ta không hề
nghi ngờ gì về tính chân thực cuả hiện thực được tái hiện, hơn thế còn nhận ra
cái đẹp cuả cuộc sống vốn bình dị trong đời thường lao động và chiến đấu. Nhiều
truyện cuả Anh Đức, người đọc tưởng như sự thật ngoài đời là vậy. Anh Đức chủ
trương: “Thể hiện được vẻ đẹp chân chất cuả cuộc sống, đó là mỹ học thứ thiệt”,
vì thế Anh Đức luôn tìm kiếm và thể hiện cái đẹp chân thực cuả đời sống : cảnh
đẹp, tính cách đẹp, tâm hồn đẹp, cách sống đẹp, tình cảm đẹp tất cả toả sáng những
phẩm chất CM, ngay cả khi phải chọn lưạ những nhân vật “kẻ địch” như người lính
Sài gòn, thì Anh Đức cũng cố gắng thể hiện những mặt “không xấu” còn sót lại
trong họ (truyện Cuộc Trở Về Cuả Một Con Người).
Quan điểm nghệ thuật này phù hợp với mục đích và lý tưởng viết văn cuả Anh Đức.
Nó cũng phù hợp với tính cách riêng cuả nhà văn là sự đôn hậu, lòng tin yêu vào
con người, dù trong những hoàn cảnh bất hạnh nhất.
6. Tất nhiên Anh Đức cũng ý thức sâu sắc điều này là Văn học có những quy luật
khách quan và khắc nghiệt trong việc đánh giá và sàng lọc. “Văn học có một
ban giám khảo công minh, ấy là quầnchúng, ấy là thời gian. Luật chơi trong văn
học không tính trong phút chốc mà xét trong lâu bền”(34)
Dấn thân vào văn chương là dấn thân vào “một cuộc hành trình qua biển lớn, mênh
mông, không bờ bến mà cánh buồm sáng tạo phiêu du hoài mà vẫn chưa tới khắp cõi
“ (35). Một nhà văn không phải là tất cả, sáng tác cuả một nhà văn dù có phong
phú, đồ sộ đến đâu cũng không thể phản ánh được đầy đủ cuộc sống, không thể đặt
ra và giải quyết được mọi vấn đề cuả hiện thực, càng không thể là đại diện đầy
đủ cho bộ mặt và tiếng nói thời đại. Một đời văn có thể có nhiều tác phẩm,
nhưng khi kiểm điểm lại Anh Đức tự đánh giá rằng: sáng tác ra hồn cuả mình để lại
chẳng được bao nhiêu, và hình tượng con người gọi là khắc chạm được giưã tâm tưởng
người đọc, giỏi lắm chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Chú thích:
(1).Hồi Nhỏ Các Nhà Văn Học Văn.Sở GD Nghiã Bình xuất bản 1986.tr.7
(2).Văn Nghệ Tp HCM số 138 năm 1980. Tr.14. Xem thêm VN TPHCM số 116
(14.01.1980)
(3).Công Việc Viết Văn. Trường Nguyễn Du xuất bản 1985.tr.134
(4).Tạp chí Văn Học số 7 năm 1966. Tr.80
(5).Chiến Trường Sống và Viết. tr.19
(6).Văn Nghệ TPHCM số 506, ngày 13/11/1987.tr10
(7).Thế Hệ Chúng Tôi Đi Qua Trường Sơn. VNTPHCM . số ngày 3.3.1980. Tr.9
(8).Miền Sóng Vỗ.Nxb văn Nghệ TPHCM.1983,tr.1
(9).Công Việc Viết Văn. Sđd.tr.139
(10).Thế Hệ Chúng Tôi Đi Qua Trường Sơn. VNTPHCM . số312/ 1980
(11).nt
(12).Văn Nghệ số 19 năm 1987.
(13).Tạp chí Văn Học số 12 năm 1962.tr.14
(14).Văn Nghệ TPHCM số 506. Năm 1987
(15).Văn Nghệ TPHCM số ngày 3/2/1980-tr.8
(16).Văn Nghệ TPHCM số 418, ngày 21/2/1986
(17).Văn Nghệ số 5, năm 1980
(18).nt
(19).Hoài Thanh, Hòn Đất, Hòn Ngọc, TCVH số 1 năm 1968.tr7-tr.9
20).Văn Nghệ TPHCM số 171 ngày 1/5/1983. Tr.3
(21).Văn Nghệ số 18, năm 1983.tr.2
(22).Văn Nghệ TPHCM số 506, ngày 13/11/1987
(23).Công Việc Viết Văn , sđd, tr.125
(24).Văn Nghệ số 40, năm 1983
(25).Công Việc Viết Văm, sđd, tr.124
(26).Anh Đức trả lời bạn đọc trên báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật số 28, năm 1986
(27).Văn Nghệ TPHCM số 506.sđd
(28).Văn Nghệ TPHCM số 418, ngày 21/2/1986.tr.3
(29).Những Trang Viết Những Nhịp Cầu, Nxb Mũi Cà Mau,1986
(30).Tap chí Văn Học số 1 năm 1968. Sđd. tr.22
(31).Văn Nghệ số 1 năm 1984
(32).Văn Nghệ TPHCM số 418, sđd
(33).Công Việc Viết Văn, sđd, tr127
(34).Văn Nghệ TPHCM số 506, sđd. Xem thêm Anh Đức trả lời bạn đọc.TTCN
17/8/1986
(35).Công Việc Viết Văn, sđd. tr.141
PHẦN II. TRUYỆN NGẮN ANH ĐỨC
1. Truyện ngắn Anh Đức có cái phong vị riêng, ngôn ngữ riêng, cách kết cấu riêng,
thể hiện trực tiếp nhiều tâm tình riêng cuả Anh Đức. Anh Đức ưa thích truyện ngắn
và có nhiều cố gắng đổi mới cách viết. Những truyện ngắn chính tập trung trong
tập Biển Xa (1961), Bức Thư Cà Mau (1965), Miền Sóng Vỗ (1983). Gần đây khi làm
tuyển tập truyện ngắn cuả mình, Anh Đức cho biết: ”lọc lại trên 60 truyện ngắn,
tôi chỉ lấy được có 17, mưới bảy cái mà anh em cô bác đọc cho là được “(1) Anh
Đức quả là thận trọng khi đặt truyện ngắn cuả mình trong lòng quần chúng độc giả,
trong sự sàng lọc cuả thời gian. Quả vậy, sau nhiều năm, nhiều truyện ngắn cuả
anh Đức vẫn giữ nguyên sự hấp dẫn, giá trị tư tưởng, nghệ thuật và vẻ độc đáo
riêng. Con Cá Song, Đất. Giấc Mơ Cuả Ông Lão Vườn Chim, Giưã Buổi Bình Yên.. là
những truyện tiêu biểu.
2.Những truyện ngắn trong BỨC THƯ CÀ MAU (2) có đặc điểm chân chất, mộc mạc,
tươi trẻ, giàu chất lãng mạn, đôn hậu. Bối cảnh cuả
truyện là cuộc chiến đấu cuả nhân dân Nam Bộ.Nhân vật chính là quần chúng chiến
đấu, vấn đề chính cuả truyện là ân tình, ân nghiã Cách Mạng, đạo đức CM, quan hệ
CM.
Truyện KHÓI miêu tả một trận phối hợp dân quân đánh máy bay Mỹ, bộc lộ
tài trí cuả nhân dân ta trong việc lợi dụng khói đốt đồng để đánh trả bọn Mỹ với
những vũ khí và máy bay hiện đại. Trong bối cảnh máu lưả ấy, xương sống cuả
truyện là câu chuyện tình đẹp đẽ phi thường cuả Hựu và Quế. Chuyện tình ấy nảy
nở trong những ngày Hựu nằm hầm bí mật. Tình yêu lớn dần với chiến đấu. Sau cuộc
đánh máy bay Mỹ thắng lợi, Hựu và Quế gặp nhau trong khung cảnh hoành tráng,
vui tươi. Hình ảnh Quế hiện lên vưà mộc mạc hồn nhiên vưà rất anh hùng: ”Khuôn
mặt còn dính tro cuả cô giờ hơi ửng đỏ, tóc cô còn rắc đầy tro. Mồ hôi lấm tấm
rịn ra trên vầng trán cô, chảy nhỏ giọt xuống thái dương. Cô dừng lại trước mắt
tôi và Hựu, kéo cái đuôi tóc ra trước ngực, cứ cầm đuôi tóc mà vân vê mãi”. Thế
rồi Quế và Hựu chia tay, trên vai Hựu để lại cái khăn tay cuả Quế. Hẳn chúng ta
cũng như Anh Đức đều ngạc nhiên và ngưỡng phục trước vẻ đẹp hồn nhiên ấy cuả Quế
: “Tôi đưa mắt nhìn theo một lần nưã bóng Quế đang đứng ngó theo Hựu, cô gái đã
từng đưa tay vuốt lấy những giọt máu đỏ tươi cuả mình ở đầu ngọn chĩa, và mới
đây đã cùng chị em bạn bè đốt lên một áng khói thần”. Vấn đề chính cuả KHÓI là
vẻ đẹp sức mạnh tình yêu CM trong chiến đấu.
Xuân Trường cho rằng(3) truyện ĐƯÁ CON là một truyện tâm lý đặc sắc về
kết cấu và rất Nam Bộ trong tính cách nhân vật. Truyện có 3 cảnh, bộc lộ 3 tâm
trạng và xoay quanh một chủ đề : Tình nghiã Cách mạng.Việc chú thím Ba cho thằng
Trung đi bộ đội làm cả chú và thím đều trăn trở tính toán. Bối cảnh và tâm lý
nhân vật được miêu tả cô đặc, dồn nén và giàu màu sắc biểu cảm. Nỗi trăn trở cuả
chú thím Ba là làm sao cho con được đi bộ đội, làm sao dâng hiến được con mình
cho Cách mạng. Chúng ta xúc động trước cảnh chú thím Ba săn sóc con. Chú Ba dồn
tất cả tình cảm và sức mạnh chiến đấu cho con khi căn dặn thằng Trung. Không
khí truyện sáng hẳn lên với những ý nghĩ lời nói cuả thằng Trung.
Cái đọng lại thấm thiá nhất cuả câu truyện là nghiã tình Cách mạng, là tấm lòng
cuả người dân Nam Bộ hy sinh tất cả cho Cách mạng. Tấm lòng ấy thể hiện rõ
trong lá thư chú Ba viết đưa cho thằng Trung đem theo. Chú đã đắn đo suy nghĩ từng
chữ, trằn trọc cả buổi, dưới sự rình rập cuả kẻ địch, để viết cho được lá thư
nói đúng cái ý cuả mình, cái lòng cuả mình với Cách mạng :”Vợ chồng tôi chỉ có
một đưá con. Vì tình cảnh bị kẹt nên tôi phải ở trong ấp chiến lược. Trước đây
vợ chồng tôi được Cách mạng cấp đất nên làm ăn đặng khá. Tôi vẫn chịu ơn cuả
Cách mạng và Đảng rất sâu nặng. Nay con trai tôi ( là đưá cầm thơ này ) đã lớn,
tôi thấy không thể để bọn Mỹ Diệm bắt nó đi lính đánh lại Cách mạng. Tôi không
đành lòng mà chịu cảnh đó được. Vậy nên vợ chồng tôi từ trong ấp chiến lược gửi
đưá con trai một cuả chúng tôi cho Cách mạng. Xin coi như tôi hoàn toàn dâng
cho Đảng đưá con cuả tôi. Nó còn khờ khạo, mong anh em cứ dạy dỗ, chỉ bảo cho
nó thành người thì vợ chồng tôi lấy làm mừng lắm”. Anh Đức đã ghi lại một cách
tài năng niềm tin yêu mạnh mẽ, thuần khiết, trong trẻo cuả người nông dân Nam Bộ
với Đảng. Ta cảm nhận được tinh thần Cách mạng phơi phới trên từng bước đi cuả
thằng Trung: ”Bấy giờ thằng Trung đã tới cửa ấp. Nó thấy cưả mở he hé, chớ
không đóng. Nó liền đẩy nhẹ một cái, lách qua, rồi thoăn thoắt bước đi. Chốc
sau nó qua khỏi hàng rào đầy thép gai cuối cùng tới chân đồng. Nó xốc cái tay nải
trên vai bắt đầu chạy. Gió thổi lộng. Không khí trong lành quá. Chạy một quãng
nó dừng lại thở. Nó cảm thấy không khí nó hít vào mát mẻ, dễ chịu hơn trong ấp
chiến lược nhiều lắm”. Truyện ĐƯÁ CON là một bức tranh mộc mạc và đầy ánh sáng,
hồn nhiên mà ý nhị
Trong tập Bức Thư Cà Mau, truyện ĐẤT mới thực là truyện có sức nung đốt
trái tim người đọc và để lại một ấn tượng bền vững về ngưới dân Nam Bộ giữ đất
giữ nước. Hình ảnh ông Tám Xẻo Đước thật bình dị mà lẫm liệt. Phạm văn Sĩ cho rằng:
”Tinh thần xả thân cuả ông Tám đã được Anh Đức mô tả như là cái kết cục logic
cuả một quá trình giác ngộ sâu sắc về nghiã vụ CM cuả ông lão nông dân”(4) Còn
Trần Quang thì cho rằng hành động giản dị và bình thường cuả ông Tám “…xuất
phát từ một cơ sở giác ngô vô cùng sâu sắc tích luỹ nhiều mặt và lâu dài, và thật
là vĩ đại “(5) PTS Phùng Quý Nhâm nhận xét khái quá: ”Anh Đức chỉ dành có 4 trang
để miêu tả hình tượng ông Tám Xẻo Đước nhưng quả là 4 trang chắt lọc dựng nên một
tính cách hoàn chỉnh có sức khái quát về con người nông dân Nam Bộ: thà chết
trước mũi súng cuả kẻ thù trên mảnh đất mà ông cha và Cách mạng đã tạo lập chứ
không chịu dời nhà vào ấp chiến lược”(6)
Hình ảnh ông Tám Xẻo Đước xoã tóc, khấn niệm trước bàn thờ rồi sau đó cầm ngọn
mác chiả thẳng vào kẻ thù và đi tới, là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo có sức
chuyển tải nhiều tầng ý nghiã sâu xa hơn nhiều. Đó không chỉ là sự xả thân vì
ân nghiã Cách mạng, không chỉ bộc lộ sự giác ngô lâu bền và sâu sắc, không chỉ
khái quát tính cách con người Nam Bộ. Hình tượng ấy còn chưa đựng sức mạnh tinh
thần, sức quật khởi và sức mạnh dân tộc trong thời đại mới. Chính cái sức mạnh ấy
đã làm kẻ thù khiếp sợ. Anh Đức đã ghi lại cái cảm giác kỳ diệu này :”Tôi cảm
thấy như đất dưới nền nhà dưới chân tôi nóng hâm hấp, cơ hồ như đang động cưạ,
tái hiện lại những vũng máu tươi. Thế rồi khi tôi quay lại tôi không thấy anh
Hai Cần ngồi cạnh tôi nưã.Anh đang quỳ trước bàn thờ, cái bàn thờ mà cha anh đã
quỳ dạo nọ, mùi nhang lại toả lên “. Cái cảm giác ấy tôi tin là có thật, nó làm
dựng đứng óc não người đọc, làm người đọc chợt nhận ra ngay nơi mảnh đất mình
đang sống là máu cuả bao nhiêu thế hệ đã hy sinh giữ gìn. Không khí truyện bi
hùng, cảm động và linh thiêng nhưng lại thanh thoát và mãn nguyện. Mùi nhang toả
quen thuộc làm cho quá khức cùng tồn tại với hiện tại, làm cho hy sinh trở
thành bất tử, nối liền ý thức dân tộc, sức mạnh dân tộc qua ngàn đời.
Truyện CON CHỊ LỘC thể hiện được chiều kích sâu thẳm cuả chủ nghiã
nhân đạo cộng sản chủ nghiã. Anh Đức đã đặt 3 mẫu nhân vật cạnh nhau, ba thế hệ,
rất dễ gây ấn tượng và xúc động. Thế hệ người già là ông Sáu, người tù cao niên
nhất. Thế hệ trung niên: chị Lộc, người phụ nữ có thai sắp sinh con, và thế hệ
tương lai, đưá trẻ được sinh ra ngay trong cảnh tù đày. Bản thân tình huống đã
có sức gây xúc động mạnh. Kẻ thù dã man. Lòng thương yêu con người cuả ông Sáu,
cuả bạn tù thật sâu sắc, sức chịu đựng và sự hy sinh cuả người phụ nữ thật phi
thường, và con chị Lộc, thế hệ tương lai, đã được những bàn tay và tấm lòng CM
che chở. “Trong một chuyến đi đày mà có tới ba lớp người, đẻ trước, sinh sau.
Chị tự hỏi: liệu cái còng trên tay mình và tay bác Sáu sau này có còn xiết lấy
cổ tay con mình nưã không?”. Câu hỏi ấy, suy nghĩ ấy cuả chị Lộc cũng là câu hỏi
cuả dân tộc cần được trả lời. Không khí truyện được dồn nén cao độ trong sự ngột
ngạt tù hãm dã man, và mở ra mạnh mẽ hân hoan trong sự thắng lợi. Sức mạnh cuả
lòng nhân ái trở nên dữ dội như bão táp. Phải cứu lấy chị Lộc, phải bảo vệ cho
được con chị Lộc, phải tiêu diệt cái ác để bảo vệ mầm sống cuả tương lai. “Cơn
phẫn nộ đã đẩy những người tù tới hành động mà họ không tính trước”. Bảo vệ và
giải phóng cho thế hệ tương lai cũng chính là giải phóng mình ở hiện tại. Những
người tù đã cướp tàu và quay về hướng Cà Mau. Con tàu không bao giờ đi tới Côn
Đảo nưã. Ở truyện nay, Anh Đức thể hiện tấm lòng trân trọng nân niu đối với phụ
nữ và trẻ em, thấm thiá lòng nhân ái và truyền đến người đọc caí ý thức và quyết
tâm bảo vệ lấy mầm sống tương lai cuả dân tộc. Ngòi bút Anh Đức tràn đầy tính
lãng mạn.
Ông Tư Vườn Chim trong truyện GIẤC MƠ CUẢ ÔNG LÃO VƯỜN CHIM và truyện Câu
Chuyện Tiếp Theo về Ông Tư Vườn Chim. Có thể xem như một cây cổ thụ toả bóng
trong rừng nhân dân Nam Bộ đánh Mỹ. Nếu Ông Tám Xẻo Đước lẫm liệt, bi thương
trong sự vây ép cuả kẻ thù thì Ông Tư Vườn Chim lại tung hoành, xông xáo, dũng
mãnh trong chiến trường đánh Mỹ. Ông là cái gốc, là cột trụ, là sức mạnh dẫn đạo
; là niềm tin, là mưu trí, là người chủ, người anh hùng kiểu mới cuả đồng ruộng.
Ở ông toát ra sức mạnh tinh thần thật vững chãi. Sức mạnh ấy như ôm lấy, che chở
cho con cháu đánh Mỹ. Sức mạnh ấy là sức mạnh cuả một đời nô lệ vất vả cực nhọc
riết chịu không nổi ”phải bỏ làng dắt vợ đi miết”, sức mạnh dồn tụ từ bao máu
xương căm uất : Con ông đi Vệ Quốc Đoàn hy sinh, con dâu ông bị giặc mổ bụng,
ông phải chứng kiến bao cảnh thương tâm. Giờ đây ông cùng đưá cháu nội, đưá
cháu dâu và bà con dân làng đánh Mỹ. Sức mạnh tinh thần cuả ông còn xuất phát từ
cái vườn chim đầy cò diệc, nó vưà là nguồn sống cuả chính ông, là mảnh đất con
ông đã ngã xuống, là hạnh phúc, long nhân ái cuả ông. Giặc Mỹ tàn phá vườn chim
là tàn phá chính đời ông, “nó câý vào lòng ông nỗi đau xót và phẫn nộ lặng thầm,
mỗi lúc một nghiến ngấu, mỗi lúc một sôi sục”. Ông không đành lòng nhìn đàn cò
diệc không thể đáp xuống vườn chim vì bị giặc tàn phá. Bất giác ông kêu trời.
“Ông lão đau đớn quá”. Trong tâm nguyện cuả ông chỉ có một điều :”cái chi tao dứt
bỏ được, chớ cái vườn chim này với mấy thằng bộ đội thì tao không dứt ra được
đâu”. Tất cả nỗi đau xót và lòng yêu thương ấy kết tụ thành sức mạnh chiến đấu
và chiến thắng. Ông cùng dân làng đi dập đám rừng vưả bị giặc Mỹ đốt cháy. Ông
trở thành gnười chỉ huy.”đám người nghe ông lão dặn thế thì đều dạ, mặc dầu ông
lão nói câu nào câu nấy cứ như người hạ lịnh, nhưng ngó bộ ai nấy đều nghe răm
rắp, chừng như họ có vẻ tin tưởng kính nể ông dữ lắm”. Quả vậy, sau này khi đặt
kế hoạch lấy bót Xẻo Biển, thì chính Hai Râu, xã đội trưởng kiêm chính trị viên
đã phải nghe ý kiến cuả ông, mưu kế cuả ông, nể phục ông, mà thốt lên trong bụng
:”ông già này dữ dằn thiệt. Mình không ngờ kế hoạch cuả ông lại thâm sâu ghê trời
vậy”.Đối diện với ông, kẻ thù là bọn Tư Tôn phải nể sợ. Vẻ đẹp khoẻ khoắn, dũng
mãnh và đầy nhân ái cuả ông hiện lên ở cuối truyện. Giưã tiệc nhậu thắng trận,
trong lúc Ông Tư mải mê “múc lươn um từ trong điã ra chén cho từng người” thì
những người lính ngụy được giải phóng, hoàn lương, đã cảm động không thốt lên lời
. “Mắt họ rưng rưng ngó nhìn ông già đầu buộc khăn trắng”, người đã cứu mạng họ.
Trong hình ảnh và tính cách cuả ông Tư vườn chim còn có một chi tiết thật cảm động,
đó là chiếc khăn trắng ông buộc mãi trên đầu, tấm khăn thuỷ chung. “Trong đời
ông già đó, trải qua trên nưả thế kỷ, vật lộn với rừng hoang, với kẻ thù, chưa
ai ở Cào Lưới thấy ông khóc, kể cả lúc con trai chết trận hồi kháng chiến trước.
Kể cả lúc con dâu bị Mỹ Nguỵ mổ bụng giưã vườn chim. Vậy nhưng có một lần ông
khóc ghê gớm… khóc rống, vật vã suốt đêm trên sàn chòi”, Đó là lúc ông nghe Hồ
Chủ Tịch từ trần. Rồi ông xé khăn trắng buộc lên đầu, lập bàn thờ ở giưã sàn thờ
Hồ Chủ Tịch, “chịu tang cụ cho tới khi chết”. Có thể nói Ông Tư là hiện thân cuả
lão nông Nam Bộ đánh giặc. Hình tượng ấy toát lên bao ý nghiã. Cách mạng là quần
chúng và quần chúng chính là Cách mạng. Vẻ đẹp cuả con người VN ngời lên trong
chiến tranh nhân dân : thuỷ chung, nhân ái, mưu trí, dũng cảm và chan hoà bao
tình yêu thương.Anh Đức đã thể hiện một cách thật tự nhiên , bình dị nhưng sâu
sắc tất cả những vẻ đẹp ấy.
Những trang miêu tả thiên nhiên, bầu trời, đồng nước Tháp Mưới đặc biệt hấp dẫn
trong truyện XÔN XAO ĐỒNG NƯỚC. Truyện có nội dung đơn giản. Tác giả kể lại
một lần khi qua trạm giao lien do Chị Ba Tương Lai dẫn đường, kể lại việc chị
Ba dụ địch, đánh máy bay địch trên đồng nước, bảo vệ được đoàn khách qua trạm.
Truyện phản ánh và ca ngợi người nữ giao liên anh hùng, qua đó lý giải nguồn gốc
sức mạnh chiến đấu và mưu trí đánh giặc cuả chị. Tình yêu với người chồng giao
lien trước đây đã hy sinh trên đường dây này là sức mạnh cuả chị. Chị kế tục
cái công việc hiểm nguy cuả chồng. Vậy mà chị thản nhiên chủ động lạ thường. Ở
người phụ nữ này, sự táo bạo, dũng cảm và mưu trí làm nên chiến thắng. “Chị ta
coi vạm vỡ , tướng đi xốc xaó, và có cái búi tóc rất to“, “giọng ồ ồ như giọng
đàn ông”, ”khắt khe mà lại hách dịch nưã”.Khi đánh rơi máy bay trực thăng Mỹ,
“người đàn bà trưởng trạm to lớn đó chống nạnh đôi tay lên mạn sườn , đăm đăm ngó
mãi về cái đống đen lù lù ngút khói cuả chiếc trực thăng vưà rơi. Tôi nghi chỗ
đó có thể là chỗ anh Ba chồng chị đã ngã xuống hồi tháng nắng”
Nhân vật ấy, hoàn cảnh ấy hiện lên trên nền một thiên nhiên đồng nước trong vắt
hiền hoà. “Giưã trời trưa không hé một tia nắng, đồng nước nhấp nhô những làn
sóng nhỏ, mải miết như chảy về một bến bờ xa xăm nào. Trên cánh đồng nước đìu
hiu ấy không có gì ngoài những chùm gáo thưa với những khóm điên điển trổ đầy
những hoa vàng rực giống như sắc lông chim hoàng yến. bên trên, bầu trời âm âm
một màu tro”. Ai đã từng lội đồng muà nuớc lụt ở Nam Bộ, hẳn sẽ nhận thấy Anh Đức
tả đồng ruộng thật sống động. Cảnh trong veo như hiện ra ngay trước mắt ta
:”bây giờ cỏ Tháp Mười bị mưa còn chưa đủ chết. Biển cỏ dầm mình trong làn nước
nửa chua nửa ngọt bởi phèn xì lên và mưa trút xuống. Nước trên đồng nhờ có chất
phèn nên trong veo có thể ngó thấy từng đàn cá chạy, từ con cá rô đen mun, tới
con cá sặt anh ánh sắc tím. Trên mặt đồng nổi lềnh bềnh nhiều ốc bưu lát, con ốc
nào cũng đóng rêu xanh rờn…Những bụi bông súng nở bông to như hoa quỳ và những
cọng bông súng màu vàng rêu lả lay dưới làn nước bị khuấy động làm cho tôi cứ
như ngửi thấy mùi mắm kho từ ven xóm ở bên kia phất tới”. Thiên nhiên ở đây yên
tĩnh. Phong phú sắc màu, hoà với đời sống yên ấm cuả người nông dân. Thiên
nhiên ấy cũng chính là tâm hồn VN, bản lĩnh VN. Thiên nhiên đồng ruộng này cũng
là được chiều sâu tâm hồn Chị Ba Tương lai. Tâm hồn ấy dịu êm , mát rượi khi
hoàn thành nhiệm vụ đưa đòan khách qua trạm an toàn, khi đứng nhìn xác chiếc
máy bay Mỹ cháy đen ở chính nơi chồng chị hy sinh. Nếu không có bối cảnh thiên
nhiên này, thì tính cách, tâm hồn chị Ba Tương Lai sẽ nghèo nàn, thô thiển đi
biết mấy.
Ở MUÀ GIÓ và NGƯỜI CHƠI ĐẠI HỒ CẦM nhân vật cuả Anh Đức không phải là
người nông dân. Đó là cô giáo Út Diệu và nhạc sĩ chơi Contre bass, anh Hoài. Cả
hai người đầu rất say mê công việc cuả mình, hết lòng phục vụ Cách mạng. Cả
hai đều hoạt động trong môi trường chiến đấu hiểm nghèo, nhưng họ khát khao hiến
dâng tuổi trẻ cho Cách mạng. Út Diệu khẳng định “Út không bao giờ đi khỏi đây
đâu, em sẽ sống cùng sống, chết cùng chết với bà con, dạy cho mấy đưá nhỏ học”.
Ở dưới tầm đạn bom cày xới từng ngày từng giờ huỷ diệt, út Diệu vẫn hồn nhiên dạy
dỗ đàn em và cùng bà con đánh giặc. Tình yêu cuộc sống, yêu con người, yêu Cách
mạng trở thành sức mạnh tinh khôi ở Diệu, và giờ đây có thêm tình yêu cuả Lân
chắc chắc sức mạnh ấy sẽ tăng lên gấp bội.
Cũng vậy, anh Hoài, từ khi có được cây đàn Contre Bass, “cây đại hồ cầm này
không phải sắm bằng tiền, mà sắm bằng tình, tình yêu người nghệ sĩ muốn có cây
đàn để phục vụ CM”, thì anh đã đem hết tài sức mình , cống hiến không mệt mỏi.
Anh bộc lộ hết tính cách nghệ sĩ. “anh vui hơn trước nhiều, đôi mắt anh ánh lên
niềm tự tin. Anh Hoài như mới được một sức gì bật dậy”
Nhìn chung những truyện ngắn trong Bức Thư Cà Mau tập trung phản ánh cuộc chiến
đấu cuả nhân dân Nam Bộ trong nhiều hoàn cảnh: đánh máy bay Mỹ (Khói), đấu
tranh giành lấy con người (Đứa Con, Con Chị Lộc), đấu tranh giữ đất, phá ấp chiến
lược, giữ lòng thuỷ chung CM (Đất), đấu tranh bóc gỡ đồn bót lấn chiếm cuả kẻ địch
(Câu Chuyện Tiếp Theo về Ông Tám Vườn Chim), cuộc chiến đấu cuả người giao liên
(Xôn Xao Đồng Nước), đấu tranh để giữ lấy đời sống yên bình (Mùa Gió).. Trên nền
cuả cuộc chiến ấy, quần chúng CM hiện lên như những con người rất đỗi bình thường,
chân chất hồn nhiên và tràn đầy sức sống. Mỗi con người đều có những kỳ tích
anh hùng, đều có những phẩm chất cao đẹp. Đó là lòng trung thành tuyệt đối với
CM , sẵn sàng dâng hiến, sẵn sang xả thân cho CM (Ông Tám xẻo Đước, Chú thím
Ba). Đó là ý chí bám đất, giữ đất giữ nước không rời ( Ông Tư vườn Chim, Út Diệu…),
đó là lòng yêu thương mênh mông, mãnh liệt cuộc sống, yêu con người. Tình yêu
lưá đôi nảy sinh và phát triển trong chiến đấu, trở thành sức mạnh chiến đấu,
dù phải cách xa (Quế-Hựu), dù thương tật (Lân-Út Diệu) dù có người hy sinh (Chị
Ba Tương Lai), hoặc trọn vẹ đẹp đẽ (Thắng và vợ trong Giấc Mơ cuả Ông Lão Vườn
Chim)
Anh Đức tập trung khai thác và thể hiện nhiều vẻ đẹp cuả chủ nghiã anh hùng
cách mạng, trên bối cảnh thiên nhiên ruộng vườn đẹp, trên nền hoành tráng cuả
cuộc chiến đấu. Nhân vật hiện lên trong trẻo, hồn nhiên, đôn hậu, chất phác. Phẩm
chất anh hùng hiện diện ngay trong đời thường, trong sự đôn hậu chất phác ấy.
Nói như Diệp Minh Tuyền là có “một vầng ánh sáng lấp lánh quanh tác phẩm” cuả
Anh Đức, và “thái độ tuyệt đối trung thành với CM là đặc điểm nổi bật cuả nhân
vật Anh Đức”(7). Nhưng phải nói thêm rằng phẩm chất anh hùng, sức mạnh và chiều
sâu cuả chủ nghiã nhân đạo cộng sản chủ nghiã, ân nghiã, ân tình CM là những phẩm
chất cuả nhân vật truyện ngắn trong Bức Thư Cà Mau. Ngoài ra, sức hấp dẫn cuả Bức
Thư Cà Mau còn ở sự độc đáo và sâu sắc cuả chủ đề truyện, chẳng hạn những chủ đề
cuả ĐẤT, CON CHỊ LỘC, GIẤC MƠ CỦA LÔNG LÃO VƯỜN CHIM…Anh Đức cũng thể hiện tài
năng trong miêu tả thiên nhiên (Xôn Xao Đồng Nước), tả tâm lý (Đưá Con) , tài dẫn
truyện (Người Chơi Đại Hồ Cầm)…
Xu thế chung cuả Bức Thư Cà Mau là xu thế lý tưởng hoá, xu thế miêu tả
cái đẹp Cách mạng, xu thế trữ tình CM, tác phẩm thấm đẫm tin yêu. Âm điệu chung
là âm điệu ngợi ca, ngưỡng phục. Tác giả nhập thân với nhân vật, đồng cảm, trân
trọng nâng niu những giá trị cuả cuộc sống.
3. MIỀN SÓNG VỖ: Một bước tìm tòi nghệ thuật mới cuả Anh Đức.
Những truyện ngắn trong tập Miền Sóng Vỗ đều viết sau 1975, trong hoàn cảnh mới
và trong ý thức sáng tác mới cuả tác giả. Nếu trước 1975, nhiệm vụ, yêu cầu
chính cuả người cầm bút là ”phản ánh một cách sinh động cuộc chiến đấu vô cùng
anh dũng” cuả nhân dân Nam Bộ, thì nay đất nuớc đã được giải phóng, Bắc Nam thống
nhất một nhà, nhiệm vụ cải tạo và xây dựng chủ nghiã xã hội là nhiệm vụ trung
tâm. Trong sự nghiệp CM mới, văn học phải góp phần xây dựng con người mới, cuốc
sống mới, quan hệ mới. Anh Đức nói cụ thể :”Nhiệm vụ cuả sáng tác văn học hiện
nay, chính là phải góp sức vào công việc đó, góp sức làm cho tổ quốc có cuả, có
luá, có vải, có năng lượng cũng như là ở trong thời chiến, văn học phải dốc sức
cùng quân dân giành cho được độc lập tự do vậy”(8)
Đó là nhiệm vụ chung. Mỗi nhà văn thực hiện nhiệm vụ ấy theo sở trường cuả
mình. Anh Đức thấy rằng: ”cần phải viết về những con người mới và những con người
đang cản phá sự đi lên cuả xã hội, cần phải viết về cái cao đẹpvà cả về tội
ác”(9). Viết về con người mới là một diện rất rộng, Anh Đức lưạ chọn phần hiện
thực nào cuả con người mới ? “Gần đây tôi ý thức rằng đề tài con người mới cuộc
sống mới đó là cái ở quanh mình, đó phải là cái cuả cuộc sống thường nhật, đó
chính là cái cảnh đời có bộ mặt tốt xấu hoặc lừng khừng mà nhiệm vụ cuả mình là
phải gieo vấn đề, đặt được tư tưởng cho nó để viết”(10). Mục đích Anh Đức mong
đạt tới là ”để xây dựng và giáo dục phẩm cách sống hiện nay, người viết cần phải
nhen nhóm tức thì lối sống mới, nhân cách mới, đạo lý mới, trật tự mới”(11)
Miền Sóng Vỗ là sự lên tiếng cuả Anh Đức truớc những vấn đề cuả Con Người, về
cách sống, về mối quan hệ, về đạo đức trong một xã hội đang ở những bước đầu thời
kỳ quá độ vô cùng phức tạp. Anh Đức “gieo vấn đề, đặt tư tưởng” cho người đọc,
để từ đó tác động làm thay đổi, làm thức tỉnh, dự báo, nhắc nhở, để xây dựng những
nhân cách Cách mạng mới, những điển hình mới từ những con người lao động bình
thường. Do vậy, trong Miền Sóng Vỗ, giá trị cuã tác phẩm không phải là giá trị
phản ánh mà là giá trị “gieo vấn đề, đặt tư tưởng” sâu sắc đến độ nào, và những
vấn đề, tư tưởng được gieo ấy quan trọng thế nào với cuộc sống, với tâm hồn người
đọc? Nghệ thuật gieo vấn đề, đặt tư tưởng có thuyêt phục hay không.
NGƯỜI KHÁCH ĐẾN THĂM VƯỜN NHÀ TÔI là ai? Đó là ông Khắc, một “cán bộ lâu
năm cuả Đảng” công tác tại Uỷ Ban Công Tác Nông Thôn cuả trung ương. Có con vào
Nam chiến đấu và hy sinh trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Trong điều kiện cuả
ông, con ông có thể đi học ở Cộng Hoà Dân Chủ Đức, sẽ nắm chắc học vị Phó Tiến
Sĩ trong tay. Thế nhưng không. ”..Trong nước đang có giặc…một chỗ cần cho con
tôi hơn, đó là tiền tuyến. Là vì, chắc về lâu về dài tôi sẽ ân hận nhiều, nếu
tôi có đưá con trai mà không dám giao nó cho Đảng, trong những năm kẻ thù đông tới
trên một triệu tên…Tôi có tuổi Đảng gần ba mươi năm, do vậy mà tôi sẽ vô cùng
áy náy nếu mỗi lần tôi đi công tác về các xã, ở ngoài Bắc cũng như trong Nam,
thường gặp những người cha người mẹ nông dân có tới ba, năm hoặc sáu đưá con ra
trận không trở lại “. Đó là tấm lòng cuả một người cha với con. Người cán bộ với
Đảng, người cán bộ với dân. Đó là thái độ tự ý thức về nghiã vụ cuả chính mình,
về sự hy sinh cần phải có với dân với Đảng. Cũng là sự phán xét lương tâm trước
thực tại.. Quả vậy khi nghe tin con hy sinh, ông Khắc đã vô cùng đau đớn, nhưng
ông “không ân hận, lương tâm rất yên ổn”.
Đối diện với người cha “giản dị và thầm lặng” ấy là một bà mẹ Cách mạng. “Nhà
má nuôi cộng sản từ hồi Tây, từ kháng chiến đánh Tây tới giờ nhà má chưá bộ đội
có chừng một trăm lần”Tấm lòng cưu mang cuả mẹ thật lao la và chu tất vô cùng.
Có những người bố, người mẹ Cách mạng như thế, những người con như Dũng đã lớn
lên, trưởng thành, chiến đấu và hy sinh đẹp đẽ thế nào. Vấn đề Anh Đức đặt ra
là gì? Đó là sự hy sinh tất cả cho Cách mạng cho tổ quốc, là ý thức sống sao
cho đúng với yêu cầu cuả Cách mạng, sống cho đúng với những người đã hy sinh.
Câu chuyện cuà Anh Đại Uý trong GIÒNG SÔNG TRƯỚC MẶT có nhiều nét kỳ thú lãng mạn.
Trong chiến đấu, anh bị thương và được một Nữ Thanh Niên Xung Phong cứu thoát.
Nhưng chính ngừời nữ Thanh Niên Xung Phong ấy lại bị nạn không biết sống chết
thế nào. Rất tiếc anh lại không biết mặt cô ấy. Rồi cuộc sống chiến đấu lôi cuốn
anh đi để rồi anh cứ “áy náy” khôn nguôi về người đã cứu mình, cứ mong tìm kiếm
để gặp mặt. Thế nhưng, người làm ơn, cô Thanh Niên Xung Phong ấy đã không để lại
dấu tích gì. Và thật bất ngờ, hai người nhận ra nhau khi cùng đi nhờ chung một
chuyến xe bò trong đêm. Gặp lại nhau nhưng anh Đại Uý không thể biết mặt cô gái
vì đêm tối bao trùm tất cả.
Nghe chuyện cuả anh Đại Uý, người đọc cứ cầu mong cho anh tìm được cô gái, và hẳn
Anh Đức có dụng ý khi để anh Đại Uý không nhìn rõ mặt cô gái. Câu chuyện gieo
vào lòng ta điều này : trong cuộc chiến đấu, có bao người đã làm ơn cho ta, đã
vì ta mà nhận lấy hiểm nghèo, thiệt thòi. Những người ấy ta không thể biết rõ,
bởi họ không bao giờ nhận về mình những gì đã làm cho người khác. Nhưng riêng
ta, nếu ta không nhận biết họ, ta sẽ vô cùng “áy náy”. Lời chị Ba đánh xe bò
chia vui với Anh Đại Uý cũng là lời tác giả nhắc nhở chúng ta :”Bỗng dưng tầm
ra được ân nhân, phải tính sao coi cho được đó nghen”. Chúng ta, người đang được
thưà hưởng sự hy sinh cuả người đi trước, phải tính sao cho được với ân tình ân
nghiã ngày xưa?
Vấn đề Anh Đức đặt ra trong GIẤC MƠ GIỮA BUỔI BÌNH YÊN không vui vẻ
nhẹ nhàng như trong Giòng Sông Trước Mặt, mà cháy bỏng, quyết liệt và xoáy vào
tim ta về lâu dài. Đó là sự xa dân, xa Đảng , xa những tháng ngày gian nan chiến
đấu, quên đi những ân tình CM mà không thấy sợ. Đó là làm sao để lo cho dân,
đáp ứng những yêu cầu rất đỗi bình thường cuả dân. Ngôi trường còn thiếu thầy,bệnh
xá còn thiếu y tá, cô đỡ, và nhiều thứ khác
Anh Đức đã “gieo vấn đề” với một đồng chí lạnh đạo cấp Tỉnh Uỷ Viên là Cô Tư,
và triển khai vấn đề trong một cấu trúc tương phản nhiều chiều. Tương phản giưã
những tháng ngày bình yên và những năm tháng quá khứ đầy lo âu, đầy máu và nước
mắt ; tương phản giưã đời sống sung túc cuả một tỉnh ủy viên (đi làm có xe con,
ngủ giường nệm, nhà ở khang trang thoáng mát, bưã ăn cuối tuần thế nào cũng có
món tươi khác ngày thường như lươn um dưà hay tôm chiên lăn bột…) với đời sống
cuả người dân thường còn quá nhiều thiếu thốn cơ cực ; tương phản trong nhận thức
về khát vọng cuả quần chúng, tưởng rằng quần chúng đòi hỏi những điều cao xa,
nhưng thực tế lại quá đỗi bình thường; tương phản giưã ý thức đạo đức rằng người
cán bộ cuả Đảng cứ làm việc, cứ công tác, cứ hội họp và được đánh giá:”ưu điểm
là nổi bật và căn bản còn khuyết điểm không có gì nghiêm trọng”, “thế là” “yên
tâm”, với ý thức đạo đức khác là sự thất hưá tự nguyện :”…mình đã thất hưá bởi
một cam kết trọng hệ, cái cam kết thực ra không có luật pháp nào ràng buộc, chỉ
có tình yêu thương trong buổi gian truân, chỉ có máu chảy nơi chốn ruộng đồng
bưng trấp cất lên thành tiếng nói dập dồn dội mãi vào giưã tâm tôi. Rõ ràng tôi
đã cách xa một quãng, đã quên đi một chặng, nên từ đó không thấy sự thôi thúc
cuả những ước vọng tưởng chừng như nhỏ bé nhưng thật ra rất đỗi lớn lao kia”
Trên tất cả những tương phản ấy, cuộc đời chiến đấu và hy sinh đầy máu và nước
mắt cuả vợ chồng anh chị Năm Luá, những tháng ngày gian nan hiểm nguy cuả quá
khứ, là cái nền đỏ rực làm cháy lên những vấn đề, làm “bứt rứt xốn xang” lương
tâm tất cả chúng ta, những người đang sống trong bình yên, những người đã quên
những ân tình ân nghiã Cách mạng.
Anh Đức đã không chỉ đặt ra vấn đề đạo đức lương tâm Cách mạng, mà đặt ra vấn đề
“tưởng chừng như nhỏ bé nhưng thật ra rất đỗi lớn lao”, đó là vấn đề vưà cấp
thiết, vưà lâu dài cuả CM xã Hội chủ Nghiã . Đó là: làm sao cho nhân dân được
no ấm, hạnh phúc, sao cho cuộc sống cuả họ xứng đáng với bao xương máu đã hy
sinh
Truyện NGƯỜI VỀ HƯU và TIẾNG NÓI có thể có chung một chủ đề là vấn đề
nhân cách sống cuả người cộng sản. Người cộng sản dù đã về hưu, được quyền nghỉ
ngơi, nhưng trong điều kiện hiện tại đất nước còn khó khăn, họ vẫn tự giác làm
việc, cống hiến chút sức lực cuối cùng cho CM, cho cuộc sống xung quanh, đúng
như lời đề từ cuả truyện mà Anh Đức trích trong vở kịch Cô Thánh Giannơ Ở Lò
sát Sinh cuả Bertolt Brecht: ”làm sao để khi giã từ thế giới, ta không chỉ nằm
xuống như một người lương thiện, mà điều quan trọng là ta có thể giã từ một thế
giới lương thiện hơn”. Ông Sáu, một thượng tá về hưu, có một cuộc đời chiến đấu
từ những ngày “nóp với giáo mang trên vai” cho tới chuyến vượt Trường Sơn trở về
dự vào cuộc kháng chiến chống Mỹ vô cùng ác liệt. Ông có hai đứa con đi bộ đội
đều hy sinh, vợ là một cô giáo đầy dũng cảm và thuỷ chung. Ông về sống giữa khu
xóm như một người bình thường, nhưng tâm hồn ông không bình thường chút nào.
Ông luôn “cắng đắng” về những sự việc xảy ra chưa tốt xung quanh ông. Ông suy
nghĩ và quan niệm giản dị rằng hễ chỗ nào có những người cộng sản thì con người
và cuộc sống ở tại chỗ đó phải khấm khá hơn. Ông muốn sự khá hơn tốt hơn đó phải
cụ thể chớ không trừu tượng, bởi trừu tượng chung chung, theo ông nghĩ là chưa
có gì. “thế rồi ông lao vào hành động, thúc giục mọi người hành động, tưạ hồ
ông xốc mọi người dậy”, thế nên “thật vất vả cũng như thật may mắn cho cái phường
nào có những ông già về hưu như ông “. Cuối đời, ông đã làm thêm được một việc
tốt lành cho xã hội. Hẳn ông rất thanh thản để lại cái vốn liếng đời ông cho thế
hệ sau.
Trong truyện này, Anh Đức cũng đề cập đến một số vấn đề xã hội cụ thể, đó là vấn
đề trẻ em cù bơ cù bất,trộm cắp, ngủ bờ, ngủ bụi không được ai chăm sóc. Tất
nhiên việc giải quyết vấn đề này trong thực tiễn không đơn giản và thuận lợi
như ông Sáu đã làm.
Ông già về hưu, bố cuả Tư Lợi (một bí thư Đảng uỷ quận) trong truyện TIẾNG NÓI
đã lên tiếng không dễ nghe, không dễ chịu như ông Sáu. Người cán bộ phải sống
thế nào? Phải hành xử thế nào ? –“Bây giờ được Đảng giao trọng trách, làm một
việc gì dù là lớn nhỏ cũng không được mù mờ.Anh em cô bác người ta ngó vào thấy
mình hơi loạng quạng một chút thôi cũng đủ để người ta bớt tin”, “ chỗ đứng và
mắt nhìn vẫn cứ phải tỏ rõ như xưa, cung cách sống phải trong sạch”, “… nghĩ
gì, làm gì cũng phải hướng tới ngày càng làm có lợi cho người lao động. Hễ cái
gì đem lại lợi ích cho các thành phần lao động cơ bản cũng như trí óc thì các
anh làm tới, đừng trù trừ. Ví dụ manh quần tấm áo cuả họ, bưã cơm cuả họ. Còn hễ
cái gì có chiều hướng làm căng túi tiền cho tụi con buôn, tụi không làm mà hưởng…thì
các anh cứ triệt bỏ đừng nương tay”.Ông cụ đã phê đến nơi đến chốn việc anh Tư
Lợi dùng xe con chở con đi học, việc nhận quà biếu xén, việc để cho Năm tại đem
cái xe Spring hoá giá đến nhà để “lót sẵn ván cầu”. Tiếng nói cuả ông có sức
thuyết phục khi Anh Đức tạo ra sự tương phản giưã cuộc sống cuả Tư Lợi và cuả bố
:”hình ảnh một ông già cưỡi trên một cái xe đạp đã cũ, đầu đội chiếc nón cối
cũng rất cũ kỹ chạy chậm chậm trên nẻo đường từ An Phú về thành phố, đàng sau
có đèo một trái mít.”
Rõ ràng là ông già về hưu này chưa hề nghỉ hưu chút nào, ông vẫn tác động quyết
liệt vào những vấn đề nóng bỏng cuả hiện thực: vấn đề nhân cách cuả người cán bộ,
vấn đề hưởng thụ cá nhân cuả người cán bộ trong tương quan với nhân dân. Tệ nạn
hối lộ, lo lót và sự sa ngã trước sự cám dỗ cuả vật chất. Vấn đề làm mất lòng
tin cuả nhân dân.
MIỀN SÓNG VỖ là câu chuyện tình yêu duy nhất trong trong cả tập Miền Sóng
Vỗ. Tình yêu ở đây không còn trẻ trung như trong Bức Thư Cà Mau. Đó là tình yêu
nảy nở trong quá khứ chiến đấu, nhưng được nhìn ở ý thức mới trong hoàn cảnh mới,
tình yêu cuả hai Chi và Sáu Hạnh. Hai Chi là cựu chỉ huy tiểu đoàn pháo, người
đã trực tiếp dẫn dắt Sáu Hạnh. Hai Chi giờ là thương binh, có nguy cơ hỏng cả
hai mắt. Còn Sáu Hạnh giờ là một Phó Bí Thư Huyện Uỷ, người đã yêu Hai Chi bằng
trái tim và lý trí cuả một người cộng sản, người “biết nhìn lẽ sống ở đạo thuỷ
chung, là một cái đức cốt lõi cuả người cộng sản”Hai Chi quyết từ chối tình yêu
cuả Sáu Hạnh vì nghĩ mình tàn phế, chỉ làm khổ, làm cản bước công tác và thêm
gánh nặng cho Sáu Hạnh. Còn Sáu Hạnh cũng quyết liệt không kém để giữ cho được
tình yêu cuả Hai Chi, vì đó là tình yêu từ trong máu lưả, là chính cuộc đời cuả
Sáu Hạnh, là phẩm chất cao đẹp cuả Sáu Hạnh. Cả hai đều nói những điều thuyết
phục, cùng lý tưởng, cùng vì hạnh phúc cuả nhau. Tình yêu, hạnh phúc cuả cá
nhân còn là tình nghiã CM, đạo lý CM, lý tưởng CM. Sáu Hạnh đã thuyết phục được
Hai Chi.
CÁI BÀN CÒN BỎ TRỐNG là một truyện mà Huỳnh Như Phương cho là “trội nhất…
đây là một truyện ngắn khá cô đọng và có sức chuyên chở những tình ý vốn rộng
hơn câu chuyện vốn có”(12). Phùng Quỳ Nhâm cũng khen truyện này: ”truyện viết
nhẹ nhàng mà sâu sắc”, “câu chuyện vượt ra ngoài phạm vi một con người, mang tầm
khái quát, ý nghiã triết lý sâu”(13).
Những người lao động âm thầm, giản dị. Họ làm ra cuộc sống nhưng lại nhận chịu
những thiệt thòi, sống không tên tuổi như chị Ninh trong truyện, là số đông.
Văn học ít viết về họ, khó viết về họ, vì họ không có những kỳ tích, không có
những hoàn cảnh, tình huống đặc biệt, cũng không có những tính cách cá biệt. Cuộc
đời họ bình dị. Nhưng chính họ là số đông, là nền tảng cuộc sống, là chuẩn mực
các giá trị. Thành công cuả Anh Đức là ở những suy tư về giá trị thật cuả đời
người, về cách nhìn nhận những con người bình thường lặng lẽ. Chúng ta cần có
thái độ chu tất, khiêm tốn biết ơn với những người như chị Ninh, bởi vì chị là
người phục vụ âm thầm , và khi vắng chị, khó có thể thay thế .” Chỗ cái bàn cũ
kỹ còn bỏ trống kia, không ắt gì kiếm ra một người ngồi vô đó mà được như chị.
Trong khi chính tại ngôi nhà này có bao nhiêu chỗ ngồi đều có thể thay đổi
không mấy khó khăn”. Vâng, mỗi người trong cuộc sống phải là những nhân cách đẹp,
những giá trị tốt không thể thay thế. Đạt được điều ấy hẳn không dễ dàng.
Quả thực có một bước phát triển mới trong sáng tạo nghệ thuật cuả Anh Đức trong
Miền Sống Vỗ.Trước hết là ý thức “gieo vấn đề, đặt tư tưởng”. Ý thức sáng tác
này chi phối khắt khe cách dựng truyện, cách thể hiện nhân vật, chủ đề và sự
can dự cuả tác giả vào truyện. Nếu trong Bức Thư Cà Mau là ý thức phản ánh, ngợi
ca, thì trong Miền Sóng Vỗ là ‘lên tiếng nói”, “đặt vấn đề”. Anh Đức trực tiếp
can dự vào tác phẩm và đặt vấn đề trực tiếp với người đọc, tập trung vào nhân
cách sống cuả người cán bộ, người cộng sản. Tất cả các nhân vật chính đa số là
các bộ CM, có tuổi Đảng lâu năm, đã kinh qua gian khổ chiến đấu và hy sinh, hiện
tại đang nắm những chức vụ nhất định : từ chủ tịch phường, bí thư Đảng Uỷ quận,
phó bí thư huyện, tỉnh uỷ viên, cán bộ Ban Công Tác Nông Thôn trung ương…Sự chọn
lưạ nhân vật ấy khác hẳn nhân vật quần chúng trong Bức Thư Cà Mau. Anh Đức làm
sáng lên nhân cách người cộng sản, lẽ sống phục vụ nhân dân, dâng hiến cuộc sống
cho CM, sống có nghiã tình CM. Các nhân vật ấy đang phải trải qua những thử
thách cuả giai đoạn CM mới , dễ xa dân, dễ sa vào lối sống hưởng thụ, quên mất
lý tưởng cuả Đảng
Anh Đức đã dựng lại quá khứ kháng chiến như là nền tảng mọi giá trị làm ánh
sáng soi đường, để nhắc nhở, cảnh tỉnh nhân vật cuả mình, dẫn họ thoát ra khỏi
sự “mù mờ”, “quờ quạng”, nhận rõ đúng sai, tốt xấu. Anh Đức đã đặt vấn đề thẳng
thắn với các cấp lãnh đạo, tiếng nói cuả ông là tiếng nói yêu thương, cuả nghiã
tình CM. Chúng ta không thể đòi hỏi nhà văn phải đưa ra giải pháp giải quyết
cho được những vấn đề đặt ra. Ăng ghen trong thư gửi Cauxki ngày 26.11.1885 có
nêu ý này: ”Nhà văn không bắt buộc phải đưa ra trước người đọc sẵn sàng đâu đấy
giải pháp lịch sử tương lai về các xung đột xã hội mà nhà văn miêu tả “(14). Điều
đáng quý là Anh Đức đã đặt ra những vấn đề căn cốt cuả cuộc sống, chỉ ra cái hướng
ánh sáng cuả vấn đề, khẳng định con đường đúng. Hướng về mặt tích cực . Nguyễn
Minh Châu nhận xét về những sáng tác trước kia :” bao trùm lên tất cả các tác
phẩm là ít thấy cái phần ký thác cuả người viết, đó chính là tư tưởng, là linh
hồn cuả tác phẩm văn học, là cái cầu nối liền giưã người đọc và người viết. Với
một vài lý do như thế, cái phần hiện thực tức là cái gốc cuả tác phẩm văn học
trở nên nhẹ bỗng đi”(15). Trong Miền Sóng Vỗ, tiếng nói ký thác cuả Anh Đức thật
sâu đậm, tư tưởng đạt đến độ sâu nhất định, hiện thực trở nên đỏ rực, tất cả
như thiêu đốt tâm can người đọc
Ngôn ngữ chính cuả Miền Sóng Vỗ là ngôn ngữ suy tưởng chính luận, khác hẳng kiểu
ngôn ngữ chất liệu, mộc mạc trong Bức Thư Cà Mau. Lối dựng truyện chính cuả Miền
Sóng Vỗ là, tác giả là người nghe, gợi chuyện, đối thoại với nhân vật, để nhân
vật kể lại. Nhiều truyện chỉ là một cuộc đối thoại (Tiếng nói; Cuộc trở về cuả
một con người). Do ngôn ngữ chính luận, do mục đích “gieo vấn đề, đặt tư tưởng”,
do cách viết tác giả trực lên tiếng trong tác phẩm nên những truyện trong Miền
Sóng Vỗ trầm hẳn xuống, mất đi chất tươi nguyên cuả cuộc sống hiện thực, làm giảm
đi mỹ cảm nghệ thuật so với Bức Thư Cà Mau.
4. Những điểm chung truyện ngắn Anh Đức trong Bức Thư Cà Mau và Miền Sóng Vỗ.
Nhân vật chính truyện ngắn Anh Đức là quần chúng Cách mạng, là cán bộ Cách mạng.
Cốt lõi cuả tính cách là lẽ sống dâng hiến tất cả cho Cách mạng, phẩm chất
chính là chủ nghiã anh hùng Cách mạng, ân tình ân nghiã thuỷ chung. Kiểu nhân vật
lý tưởng, nhiều nhân vật đạt đến tính điển hình.
Truyện ngắn Anh Đức có nhiều chủ đề độc đáo, nhất là trong tập Bức Thư Cà Mau.
Giá trị cuả tác phẩm xuất phát từ chiều sâu chủ đề, tư tưởng. Đó là sự kết hợp
giữa chủ nghiã anh hùng CM và chủ nghiã nhân đạo cộng sản chủ nghiã qua sự trải
nghiệm cuả chính tác giả, với cốt cách người Nam Bộ.
Anh Đức có một số kiểu cấu trúc tác phẩm riêng theo kiểu Anh Đức. Cách thứ nhất
là tái hiện cuộc sống như nó đang xảy ra (Người đào hát, Đưá con, Con chị Lộc
,Giòng sông trước mặt, Người về hưu, Miền sóng vỗ), tác giả tường thuật khách
quan. Cách thứ hai là kể chuyện trong truyện (Đất, Con cá song, Giấc mơ giữa
bình yên). Trong kiểu cấu trúc này thường có hai câu truyện. Một do tác giả kể,
một do nhân vật kể. Người kể thường bày tỏ cảm tưởng khi nghe truyện nhân vật kể.
Kiểu cấu trúc thứ ba là kiểu truyện không có cốt truyện, mà thực ra chỉ là một
cảnh đối thoại ( Tiếng nói, Cuộc trở về của một con người) hoặc hai cảnh đối
thoại (Muà gió).
Anh Đức thường kết truyện bằng một đoạn “cảm tưởng” cuả người kể về câu chuyện.
Đó là những đọan kết hợp cảm xúc và suy tưởng, vưà tô đậm hình ảnh, sắc màu, âm
thanh cuả hiện thực, vưà khắc sâu chủ đề, vưà làm toả sáng hơn nhân vật, tạo
nên sắc thái lãng mạn trữ tình cuả truyện.
Đáng kể nhất là đoạn cuối cuả Đất, Khói, Xôn xao đồng nước, Người khách đến
thăm vườn nhà tôi, Giòng sông trước mặt, Giấc mơ giưã bình yên, Miền sóng vỗ,
Tiếng nói. Đây là một thủ pháp kiểu Anh Đức. Nó có tác dụng kích thích, làm
tăng lên và lộ ra những cảm xúc thẩm mỹ còn tiềm ẩn trong lòng người đọc, tạo
nên thính chân thực cho tác phẩm , qua đó tạo lòng tin nơi người đọc. Dư âm cuả
truyện đọng lại rất lâu.
Nhân vật TÔI trong truyện ngắn Anh Đức, người kể chuyện, thường là chính tác giả.
Ở một số truyện, Anh Đức còn nêu rõ tên mình, nghề nghiệp (Người chơi đại Hồ cầm).
Tác giả Anh Đức trở thành một nhân vật trong truyện, tạo nên nét riêng thi pháp
kiểu Anh Đức. Anh Đức đưa chất liệu thực cuộc đời mình vào là để chuẩn bị cho sự
xuất hiện cuả nhân vật chính. Chẳng hạn, tác giả đi xe lửa, gặp gỡ, nói chuyện,
mời uống cà phê người bên cạnh, để rồi người ấy trở thành nhân vật chính (Cuộc
trở về cuả một con người). Thường phần đầu truyện là câu chuyện cuả tác giả,
tác giả gặp gỡ nhân vật rồi gợi ý cho nhân vật kể tiếp
Sự xuất hiện của nhân vật TÔI có mâu thuẫn gì với nguyên tắc sáng tạo cuả Anh Đức
không ? Anh Đức chủ trương ém mình đi nhưng lại xuất hiện trực tiếp trong tác
phẩm, kể chuyện , bình luận bày tỏ cảm tưởng. Điều này tạo nên hiệu quả gì? Chất
nghệ thuật đặc biệt cuả nhân vật TÔI là tạo lòng tin cho người đọc. Nhân vật
Tôi là một nhân chứng trực tiếp bảo đảm câu chuyện được kể là chuyện thật trong
cuộc sống.Từ lòng tin này, người đọc bỏ qua những hư cấu nghệ thuật. Để thực hiện
điều này, Anh Đức miêu tả thật tỉ mỉ quang cảnh hiện trường, không bỏ sót một
chi tiết nào có liên quan đến câu truyện, và bí mật gài trước một số tình tiết,
để rồi tưởng như tư nhiên, ngẫu nhiên truyện thực là vậy. Đọc phần đầu truyện Đất,
Con cá song, Xôn xao Đồng nước ta thấy rõ dụng ý này.
Sự xuất hiện cuả nhân vật Tôi cũng là cách Anh Đức đẩy nhân vật chính lên. Khi
nhân vật chính xuất hiện, nhân vật Tôi tự náu mình vào độc giả để nghe nhân vật
chính kể chuyện, gợi chuyện, rồi bày tỏ cảm xúc, phẩm bình về câu chuyện, đẩy
câu chuyện đi đến phần kết. Sự dẫn truyện cuả nhân vật Tôi tự nhiên, khéo léo,
không lộ ra dụng ý cuả tác giả. Nhân vật tôi lúc này như ngòi nổ ngầm, khi nhân
vật chính tạm lắng đi thì nhân vật tôi làm nổ ra những đợt chấn động cảm xúc thẩm
mỹ. Những chấn động ấy lây lan làm bùng nổ cảm xúc nơi người đọc. Ở một số truyện,
nhân vật Tôi đặc biệt thành công. Tuy nhiên ở một số truyện khác, ngỏi bút Anh
Đức để nhân vật Tôi dềnh dàng kể lể dài dòng những chuyện không cần thiết. Chất
nghệ thuật giảm hẳn (Người khách đến thăm vườn nhà tôi)
Trong “thi pháp” Anh Đức, người đọc tìm thấy đôi điều rất thú vị .. Chẳng
hạn, ở truyện nào Anh Đức cũng miêu tả những khoảng lặng và miêu tả nhân vật
khóc. Phút yêu lặng sâu lắng giữa các nhân vật và giữa người đọc –phút yên lặng
nghệ thuật. Nhân vật cuả Anh Đức lúc gặp nhau, nghe chuyện, xúc động đều khóc.
Út Diệu khóc lúc nói chuyện với Lân, người cháu khóc lúc chia tay với Thắng (Giấc
mơ cuả ông lão vườn chim), những người lính ngụy hoàn lương rưng rưng nước mắt.
Quế khóc trước Hựu. Ông Khắc và Tôi nghe câu chuyện về Dũng cũng khóc. Cô Tư, tỉnh
ủy viên, khi nhận ra Thắm đã khóc “nước mắt chảy ướt đầm hai má”. Thằng Côn,
con Hà, bà Sáu đều khóc lúc gặp nhau. Sáu Hạnh khóc giận Hai Chi khi Hai Chi từ
chối tình yêu. Chi Ninh thì “rân rấn nước mắt”,”giọng nói của chị nghe như có
tiếng khóc”, và nghe tin chị từ trần, cả cô thư ký đánh máy mắt cũng rưng
rưng.Anh Đức có dụng ý gì trong thủ pháp miêu tả nảy và hiệu quả nghệ thuật là
gì? Có điều chắc rằng đó không phải là nước mắt bi lụy mà là nước mắt bi hùng.
Nó diễn đạt được cảm xúc mãnh liệt cuả nhân vật trước những biến cố cuả cuộc sống,
nó làm cho nhân vật của Anh Đức trở nên mềm mại dịu dàng hơn, và tạo ra xúc động
cho người đọc (tiếng khóc dễ làm ta mủi lòng). Phải chăng đó cũng là một nét cá
tính sáng tạo cuả Anh Đức?
Văn Anh Đức mộc mạc, chân chất, tự nhiên, đôn hậu, điều này do đâu? Trước hết
là sự chân thật do hiệu quả thẩm mỹ cuả nhân vật Tôi (đã phân tích ở trên). Thứ
hai, Anh Đức đặc biệt khai thác mặt tình cảm yêu thương cuả nhân vật, và muốn
truyền cho được tình cảm yêu thương đó đến với người đọc. Anh Đức ít miêu tả
lòng căm thù hoặc gợi lên lòng căm thù, và nếu có miêu tả căm thù thì cũng là để
tôn vinh lòng yêu thương(thí dụ truyện Con chị Lộc). Thế nên ít có nhân vật kẻ
địch tàn bạo trong truyện Anh Đức. Những người lính nguỵ, kẻ thù, trong truyện
ngắn Anh Đức không ác họ được miêu tả bằng cái nhìn nhân ái, và trong họ vẫn
còn chất nhân ái. Khi gặp ánh sáng Cách mạng, thì lòng nhân ái cuả họ dẫn họ về
với Cách mạng (lính Tư trong Đưá con,người lính tù không nỡ đánh chị Lộc, những
người lính ngụy trong Câu chuyện tiếp theo về ông Tư vườn chim, người sĩ quan Cộng
hòa trong Cuộc trở về cuả một con người).
Anh Đức cũng đặc biệt miêu tả kỹ lưỡng những hành động, nghiã cử nhân vật chăm
sóc người khác. Chẳng hạn, khi thằng Trung ngủ, thím Ba đã nắm bắp tay rắn chắc
cuả con thế nào, chú Ba dặn dò nó chu tất ra sao (Đứa con), hoặc đòn bánh tét
còn ấm nóng và gói trà còn dấu dưới chiếc xuồng cuả ông Tám Xẻo Đước (Đất), hoặc
những người bạn tù cởi áo lót dọn chỗ cho chị Tư Lộc (Con chị Lộc), vợ chồng
Năm Luá đã lo lắng thu xếp chỗ ăn chỗ ở, làm việc cho cô Tư tươm tất ( Giấc mơ
giữa bình yên); hoặc bà mẹ tác giả đã lo toan chuẩn bị cho bộ đội ăn tết. Đặc
biệt là những chi tiết nhỏ nhặt chị Ninh chăm sóc các nhà văn ở trụ sở Hội Nhà
Văn. Bản thân nhân vật Tôi cũng thường “để ý” những chi tiết cuả nhân vật khác.
Chẳng hạn :” trong tâm trí tôi còn lưu lại cho tới hôm nay, bộ quần áo chị Ninh
mặc trên người hầu như chỉ là quần đen áo trắng”
Và trên hết, chất thẩm mỹ cuả ngòi bút Anh Đức bắt nguồn từ chính phẩm chất
riêng, cá tính riêng và “cái tạng” riêng cuả con người nhà văn Anh Đức. Anh
Đức là nhà văn yêu thương con người. Đó là một tâm hồn giàu cảm xúc cuả con người
Nam Bộ, kết hợp với lương tri tỉnh táo cuả một nhà văn và chủ nghiã nhân đạo cộng
sản chủ nghiã trong ý thức về con người. Nhân vật cuả Anh Đức và chính tác giả,
luôn tự vấn lương tâm về những điều mình đã làm, nếu không đem đến tình yêu
thương cho người khác, và sẵn sàng nhận chịu thiệt thòi vì người khác. Tâm hồn
và phẩm chất nhân vật luôn ánh lên vẻ đẹp cuả lý tưởng. Chẳng hạn, chỉ vì câu
chuyện mượn bàn ghế dùng riêng, làm cho chị Ninh phải đi đòi, đã làm nhân vật
Tôi ân hận mãi: ”Tôi thấy quả xấu hổ, mãi tới giờ nhớ tới cũng còn ân hận, vì
đã làm chị Ninh phải cực nhọc vất vả suốt buổi chiều ấy”. Hoặc lúc qua trạm
giao liên, vì mình mà chị Ba Tương Lai bị máy bay trực thăng Mỹ bắt, lòng tác
giả như vò xé: ”Thôi thế là hết! Chị Ba coi như đã bị chúng bắt đi rồi. Tai tôi
tự nhiên váng ù lên và tiếng chong chóng trực thăng bành bạch quay nhanh kia
như đập túi bụi vào giữa tim tôi, lòng tôi như bị vò xé hơn lên” (Xôn xao đồng
nước). Không có trái tim giàu xúc động và yêu thương trân trọng con người như vậy,
không có ánh sáng lý tưởng và chiều sâu tâm hồn cuả chủ nghiã nhân đạo cộng sản
chủ nghiã thì không thể có những câu chuyện, những trang văn, chân chất, hồn hậu,
trữ tình trong sáng và lãng mạn kiểu Anh Đức
Có thể nói, truyện ngắn Anh Đức khá độc đáo và có phong vị riêng, ở cả đề tài,
chủ để, nhân vật, kết cấu ngôn ngữ và phong cách. Nhiều truyện có khả năng tồn
tại bền vững và trở thành truyện ngắn đặc sắc hiện đại. Truyện ngắn Anh Đức thể
hiện khá rõ ý thức sáng tạo, cá tính sáng tạo, ý thức về sứ mệnh nhà văn, và
tài năng nghệ thuật cuả Anh Đức.
Có một thời nhà văn đã đồng hành với dân tộc, cùng sống, chiến đấu với nhân
dân. Trái tim cùng đập một nhịp với trái tim quần chúng, lý tưởng Cuộc trở về
cuả một con người là ánh sang soi đường, nhờ đó tài năng cá nhân được phát huy
cao độ, tác phẩm văn chương trở thành tiếng nói cuả thời đại, thật hào hùng
nhưng không ít bi thương. Anh Đức là nhà văn cuả yêu thương, cuả lý tưởng nhân
đạo cộng sản chủ nghiã cao đẹp.
Chú thích:
(1)Văn Nghệ TPHCM, số 506, sđd
(2).Bức Thư Cà Mau, Nxb Văn Học Giải Phóng in lần thứ hai.1975
(3).Tạp chí Văn Học số 4, 1985
(4).Phạm Văn Sĩ, Văn Học Giải Phóng Miền Nam-NXB ĐH&THCN Hànội 1976.tr.259
(5).Trần Quang :Con Người Miền Nam, TCVN/GP. 20/7/1964
(6).PTS. Phùng Quý Nhâm : Những Tìm Tòi Sáng Tạo cuả Anh Đức (Bản đánh máy cuả
tác giả. Tr.5)
(7).Diệp Minh Tuyền-Tạp Chí Văn Học số 7 năm 1966.tr76
(8).Văn Nghệ số 1 năm 1982.
(9).Văn Nghệ số 18 năm 1983
(10).Văn Nghệ số 1 năm 1984
(11).VN TPHCM số 506 ngày 13/11/1987.sđd
(12).Những Trang Viết Những Nhịp cầu, sđd, tr.33
(13).Nét Mới trong truyện ngắn Anh Đức – bản đánh máy. Tr.2
(14).Mác-ph.Ăng ghen-VI.Lênin về Văn Học và Nghệ Thuật. nxb Sự Thật, Hà nội
1977
(15).Chiến Trường Sống và Viết. Nxb Tác Phẩm Mới.1982, tr.40
PHẦN III: BÚT KÝ ANH ĐỨC
1. Anh Đức viết bút ký để ghi lại trực tiếp những cảm nghĩ cuả mình về hiện thực,
mà những cảm nghĩ ấy khó thể hiện trong truyện ngắn hoặc tiểu thuyết. Bút ký
trong tập Bức Thư Cà Mau được viết dưới dạng những lá thư gửi Nguyễn Tuân, nhờ
thế Anh Đức có thể đối thoại chia sẻ tâm tình với người đọc. Những bút ký ấy trực
tiếp phản ánh cuộc chiến đấu cuả nhân dân Nam Bộ. Anh Đức nói rõ mục đích này:
“hẵng cứ gửi cho nhau những thư tín ký sự nói về các nơi chốn ta đặt chân đến,
kể chuyện bà con ta ở đó sinh sống và chiến đấu ra sao. Tưởng làm được như vậy
cũng đủ làm ta khoan khoái mà tự nhủ rằng dẫu thằng Mỹ có ra sức ngăn cắt […] ,
ta cũng cứ ung dung trò truyện như thường”. Những trang bút ký được Anh Đức viết
trong tâm trạng hồ hởi phấn khởi, giữa tiếng súng chiến thắng giòn giã cuả quân
dân hai miền. Anh Đức tâm sự :”nghe tin các anh đang đổ về hoả tuyến, chúng tôi
rất phấn khởi, thật không thể không có sáng tác trong khi trên hoả tuyến cuả cả
hai miền Nam, Bắc chúng ta đang nổ vang thì nhịp súng chiến thắng đang hắt lên
vòm trời tổ quốc ta ánh hào quang chói lọi cuả chủ nghiã anh hùng Cách mạng
“(1)
Như vậy Anh Đức đã viết bút ký dưới sự thôi thúc cuả cả hai yêu cầu, yêu cầu phản
ánh cuộc chiến đấu- như là nhiệm vụ trung tâm cuả nhà văn- và sự thôi thúc cuả
trái tim rạo rực cuả một người đang chiến đấu trực tiếp bằng ngòi bút, cùng với
nhân dân đánh Mỹ. Anh Đức đang ở trong hào quang cuả chủ nghiã anh hùng Cách mạng,
ở giưã các em, các mẹ, các chị , các cô bác đang nhất tề xông lên, đâu đâu cũng
rộn rã tiếng cười, đâu đâu cũng dòn vang tiếng súng thắng lợi cả về quân sự lẫn
chính trị…Anh Đức nhận xét: “Chuyện chiến đấu có nhiều cái vui lắm”, “cuộc chiến
đấu ở mũi đất xa xôi này được cái nó trẻ trung, nó tươi đầy, với giặc thì căm
thù xốc tới, với ta thì yêu thương trìu mến”, “con rạch, vầng lá hình như cũng
nhuộm thắm thêm cái màu lãng mạn cuả cuộc chiến đấu”(sđd). Không khí ấy thể hiện
rõ nhất trong bút ký NHỮNG CHUYỆN CHUNG QUANH MỘT TRẬN CÀN HÌNH MÓNG NGỰA
Tuy vậy, trong tất cả các bút ký, xu hướng chính cuả ngòi bút Anh Đức là miêu tả
chiến thắng, miêu tả con người miền Nam chiến thắng, nhất là hình ảnh tuyệt đẹp
cuả con người miền Nam ra trận, tươi nguyên và tràn trề sức xuân, vưà ca hát
vưà nổ súng xông tới, với sức mạnh không gì cản nổi. Điều đặc sắc khác nữa là,
cứ theo dõi thứ tự từng lá thư bút ký ta thấy rõ cuộc chiến đấu cuả nhân dân miền
Nam ngày càng sáng ra, càng tiến lên phiá trước, càng hồ hởi , tin tưởng. Anh Đức
suy gẫm :”mình càng đánh dai thằng Mỹ càng chết”, “thiệt khốn nạn cho thằng Mỹ,
đã sợ chết mà còn dám đến đây”
Đây là hình ảnh các mẹ, các chị trong đấu tranh :”các mẹ, các chị, các cô bơi
xuồng ào ào ra Cà Mau […] khí thế chính trị cuả ta là ở cái mái chèo vỗ sóng vỗ
nước, ở rừng xuồng ghe lao tới như tên bắn, ở sự ung dung cuả các bà mẹ ngồi
trên xuồng đi đầu tranh vẫn điềm nhiên ngoáy trầu ăn, và các cô gái vừa bơi vưà
sửa lại khăn đội đầu cho ngay ngắn”(2)
Hình ảnh anh du kích trong trận càn Gianxơn Xity làm cho giặc Mỹ vô cùng khiếp
sợ. “chúng khiếp sợ vì du kích bám đánh chúng không dứt ra được, du kích cứ như
là cây rừng khiến chúng bàng hoàng kinh ngạc là tại sao chúng cho máy bay B52
giập nhiều bom đến thế mà du kích vẫn còn nguyên hết cả”(3)
Một hình ảnh khác làm nức lòng người đọc là “dũng sĩ diệt cơ giới Mỹ mọc lên
trong rừng Tây Ninh như nấm. Có anh mới giáp mặt lần đầu với xe tăng nhưng một
mình đã bắn tan hai chiếc trong vòng năm phút, bản thân anh cũng không dè hoả lực
chống tăng cuả mình hiệu quả đến dường vậy. anh vui sướng quá nhảy la vang cả rừng”
(Những Chuyện…,sđd).
Ở thành phố, chuyện cô T, “tự tay mình đánh diệt ngót trăm tên Mỹ thuộc phái bộ
M.AAG cũng thật táo bạo, mưu trí. Tiêu biểu cho vô số những nữ hiệp sĩ cuả thời
CM, đánh giặc bằng mìn plastic vang động và lúc cần thì trổ cả quyền thuật
ra”(4)
Anh Đức đã dành riêng một truyện ký ghi lại lời kể cuả anh Nổi. Đây là bài bút
ký miêu tả cận cảnh một cuộc trực chiến. Có lẽ không ở một tác phẩm nào khác,
ngòi bút miêu tả cuả Anh đức lại mộc mạc, chân thật, dữ dội, và chạm nổi nhân vật
như ở đây. Cũng chưa có trang nào cuả Anh Đức miêu tả cụ thể những cảm giác hết
sức tinh tế, sống thực cuả con người phi thường trong cuộc chiến đấu đối diện với
sự khốc liệt và cái chết như ở đây. Một mình trong hầm bị thiêu đốt, bị địch chọi
lựu đạn như chơi chọi đáo lạc, anh Nổi đã đương đầu với trên hai trăm thằng giặc
có cả bầy xe M.113. Chúng đã bị tổn thất nặng, buộc phải rút. Anh Nổi bảo vệ được
trại quân y. Sau ba tháng điều trị, sức khoẻ anh lại bình phục. Anh bị mất một
tay và hỏng một mắt, vẫn tiếp tục xin làm giao liên. Hình ảnh chị Hồng hy sinh bên
cạnh anh, và hình ảnh các thương bệnh binh thuộc trách nhiệm anh chăm sóc luôn
luôn là sức mạnh chiến đấu, khiến kẻ địch không thể hiểu nổi.
Ký cuả Anh Đức vưà ghi nhận vưà lý giải hiện thực. Anh Đức tập trung lý giải
hai điều: Tại sao ta phải cầm súng? do đâu ta thắng Mỹ và tại sao Mỹ thua? Anh
Đức không dùng ngôn ngữ chính luận, mặc dù đôi chỗ có đưa ngôn từ chính trị
vào. Những luận điểm cuả Anh Đức xen kẽ rất tế nhị giữa những câu chuyện kể về
sự tích anh hùng, khiến cho chuyện kể trở nên sâu sắc ý nhị. Những luận điểm ấy
được nhận thức từ thực tiễn chiến đấu, nên người đọc thấy những điều Anh Đức
nói hiển nhiên là vậy, như chính suy nghĩ cuả người đọc.
Thực ra, sức hấp dẫn và vẻ riêng cuả bút ký Anh đức là ở cái nhìn trí tuệ sắc xảo,
một cảm quan tươi rói về tương lai, và những cảm thức riêng hoà nhập được với cảm
thức chung cuả thời đại. Anh Đức nhìn ra sức mạnh vô địch cuả chiến tranh nhân
dân trong từng con người cụ thể, nhìn ra xu thế chiến thắng cuả thời đại đánh Mỹ
trong từng trận đánh, từng chiến dịch, mà dù kẻ địch được trang bị vũ khí hùng
hậu đến đâu, tàn ác đến đâu, cũng phải thất bại. Anh Đức được sống giưã các mẹ,
các chị, các anh, và bà con cô bác đánh giặc mọi nơi, mọi lúc, mà khí thế ra trận
thể hiện ở cái mái chèo vỗ sóng vỗ nước, ở rừng xuồng ghe lao tới như tên bắn,
đó là khí thế cuả ngàn năm lịch sử dân tộc đánh giặc, nhờ thế ngòi bút Anh Đức
có được sự tự tin vũng chãi.
Điều thứ nhất Anh Đức phát hiện về cuộc chiến đấu cuả nhân dân miền Nam là đấu
tranh giai cấp gắn liền với đấu tranh chống xâm lược. Nhân dân miền Nam được
Cách mạng giải phóng khỏi kiếp nô lệ ngưạ trâu, được Cách mạng cấp đất. Chế độ
Mỹ Diệm đã cưỡng đoạt đất đai cuả họ, dồn họ vào ấp chiến lược, sát hại người
thân yêu cuả họ, thế nên không còn con đường nào khác là phải cầm súng chiến đấu:
“Thằng Mỹ ác đến nỗi chúng không để một cái cây vườn nào chỗ chúng tôi được đứng
nguyên vẹn. Cây cam bị cắt sát gốc, cây bưởi bị phát ngang, cây gáo vàng mình
mang đầy tì vết. Có lần chúng liệng bom bi làm chết gần chục đồng bào Lấp Vò.
Tôi chỉ cần ngó quanh chỗ tôi đứng thôi cũng đủ thấy mọi dấu vết căm hờn, nó
làm cổ họng tôi nhiều khi phải nghẹn lại. Vì vậy cái ý thức muốn cầm súng giết
giặc càng thôi thúc tôi”
Anh Nổi đã nói rõ lý do tại sao người dân Nam Bộ lại mau chóng đi theo Cách mạng:
“Chúng tôi ở nơi đất đai sông rạch, có thể dễ dàng làm ra thóc gạo, tôm cá,
nhưng lại luôn luôn có thằng cầm dao đứng chực, doạ mình rằng, nếu mình làm ra
được thóc gạo tôm cá mà không cung phụng cho nó thời nó chém.. Như vậy thành ra
trong vòng mấy năm, Cách mạng dậy lên đều khắp mọi nơi và bà con dân ruộng kể
như là theo Cách mạng hết”. Anh Đức nhấn mạnh với Nguyễn Tuân điều này :”tôi muốn
nhấn mạnh với anh ở đây là sở dĩ tại miền Nam đã đẻ ra những hành động tội ác
man rợ nhất, ấy là vì mối mâu thuẫn trong này đã bị dồn tới mức kịch liệt nhất.
Bọn điạ chủ phản động và bọn tư sản mại bản làm tay sai cho giặc Mỹ đã để lộ hết
thú tính cuả chúng”
Anh Đức khái quát cuộc đấu tranh giai cấp với cuộc đấu tranh chống xâm lược
trong khái niệm “ĐẤT”, khái niệm chủ đề nòng cốt cuả tác phẩm Anh Đức. “Khi ta
cảm thụ hết cái chữ ’Đất’, ta sẽ không lấy làm lạ khi gặp trên đường những chiến
sĩ giải phóng quân quá trẻ, hầu hết là con cái cuả nông dân đang lớp lớp tiến
ra trận. Anh nào đôi mắt cũng long lanh sáng rực. Không có gì đáng ngạc nhiên
đâu khi ta nghe chuyện những bà mẹ sắm súng và lựu đạn cho con mình lên đường
giết giặc. Tất cả những cái đó không ngoài mục đích giành lại sư sống, mà sự sống
ở Miền Nam này gần như là 100% trông cậy ở cây luá mọc lên từ các mảnh ruộng
“(5)
Khái niệm Đất cuả Anh Đức là một khám phá, một sáng tạo độc đáo. Nó chưá đựng
được hiện thực rộng rớn cuả đấu tranh giai cấp và đấu tranh chống xâm lược, nó
chuyển tải được tình cảm lớn lao cuả người dân với quê hương đất nước và với
nghiã tình Cách mạng. Nó trở thành một hình tượng văn học vưà gần gũi lại vưà mới
lạ. Nguyễn Đình Chiểu từng nói đến việc giữ gìn “tấc đất ngọn rau”, như mục
đích chiến đấu cuả người nông dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp cuối thế kỷ
XIX, nay Anh Đức đã khái quát hoá lý tưởng chiến đấu cuả nhân dân Nam Bộ lên một
tầm vóc cao hơn, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ khốc liệt hơn, vĩ đại hơn nhiều.
Phát hiện thứ hai cuả ký Anh Đức là phát hiện về sức mạnh chiến đấu cuả nhân
dân Nam Bộ.. Sức mạnh ấy trước hết là sức mạnh “giành lại sự sống”. Sự sống
theo cái ngiã cụ thể là sống, quyết sống, không chịu chết trước mũi súng kẻ thù
(Truyện Anh Nổi), sự sống còn là độc lập tự do cuả đồng bào đồng chí. “Chúng ta
nhiều lần khẳng định rằng độc lập tự do đối với chúng ta là sự sống. Chúng ta
có thể hy sinh hết thảy, hy sinh đến người Việt Nam cuối cùng, nhưng độc lập tự
do là cái không thể hy sinh” (6)
Sức mạnh ấy còn xuất phát từ lòng căm thù cháy bỏng, từ những tình cảm yêu
thương đứt ruột. “Lẽ sống ở đây đòi đổi lấy bằng máu, không thể kỳ kèo tiếng một
tiếng hai với kẻ thù được”. Anh Giải Phóng Quân ra trận với sức mạnh cuả lòng
tin yêu và căm thù :”Mỗi chiến sĩ Giải Phóng Quân ra trận mang theo nhiều sức mạnh
diệu kỳ : niềm vui rộn rã khi được biết rằng cha mẹ mình rồi đây sẽ có đất cày
và mình cũng không mất phần đất ấy. Khẩu súng hôm nay trên tay họ cũng là khẩu
súng tốt nhất giành được cuả Mỹ. Rồi ngoài các thứ đó, mối thù xưa cộng với thù
nay cứ ngụt ngụt bốc cao giữa lòng họ. Thù giặc Mỹ vưà dùng các chất độc huỷ hoại
các làng ở Trà Vinh, thù chúng lồng lộn ném hàng trăm tấn bom xuống vùng Bời Lời
Bến Cát, thù chúng đóng chốt thêm hàng vạn quân Mỹ vào Đà Nẵng Chu lai, thù
chúng giết anh Trỗi, anh Dậu, anh Đang. Lại còn cộng thêm mối thù rất lớn nưã
là ngày nào cũng nghe chúng leo thang ra Bắc…Mối thù mà Giải Phóng Quân miền
Nam mang trong long là mối thù cuả hai miền cộng lại” (Thư Tháng Bảy)
Anh Đức cũng ghi được những hình ảnh yêu thương đứt ruột ở xung quanh mình.
Thương làm sao hình ảnh năm chiến sĩ hy sinh sau khi đã diệt được 200 tên địch ở
cái Nước. Các mẹ, các chị đang thay quần áo cho anh em, có mẹ nhìn mặt từng anh
, nước mắt lã chã, vuốt mắt cho các anh và thì thầm :”ngủ đi con”. Thương làm
sao 11 chiến sĩ Cách mạng bị địch giết chết quăng xác xuống bàu, bà con, chị em
đi kiếm xác các anh đến ngày thứ tám mới thấy, đem về cất giấu trong cái lu
mái, đến khi Đồng Khởi mới đem ra truy điệu chôn chung. Cảm động biết bao, trên
đường hảnh quân được các mẹ, các chị chăm sóc thương yêu. Một bà mẹ cho 20 trái
chanh, và dúi cho tiền mua đường vì sợ các anh Giải phóng quân không có tiền.
Hình ảnh anh Nổi chăm sóc và bảo vệ thương binh để lại một ấn tượng khó phai.
Không hiểu được lòng yêu thương này thì không thể hiểu được do đâu Nổi có thể
chiến thắng trong trận chiến khốc liệt với kẻ thù. Anh Đức đã miêu tả thật xúc
động lòng yêu thương và chỉ nhắc đến lòng căm thù như những ý niệm.
Phát hiện thứ ba cuả ký Anh Đức là những nguyên nhân Mỹ thất bại ở Việt Nam. Anh
Đức đã nói một các tự tin và đầy miả mai vào mặt kẻ thù điều này :”rất có thể
mách riêng cho bọn Mỹ biết rằng chúng thua trận từ đâu, thua từ bao giờ… hiển
nhiên là nay chúng đang đi đến chỗ thua hoàn toàn” (Thư Tháng Bảy )., “ chúng
bay thua trên những mảnh ruộng’. Bởi vì ở những nơi ấy chúng đụng đầu với những
con người có “sức mạnh diệu kỳ”, chúng đối đầu với những con người chỉ có một
con đường sống là vùng lên “giành lại sự sống”, trong trận đaị chiến tranh nhân
dân thiên la điạ võng, “một trong những nguyên nhân mà miền Nam đã đánh giặc 20
năm ròng không mệt mỏi, và sẽ còn đánh mãi được đấy “. Nói gọn lại, như lời Anh
Đức, giặc Mỹ đã đánh giá sai chúng ta: “rõ ràng giặc Mỹ đang thách thức với cả
dân tộc ta, chúng cậy thế bức bách dân tộc ta phải giơ tay lên. Nhưng bọn Mỹ
đánh giá sai về chúng ta quá”.
Anh Dức nhận định giặc Mỹ: đó là “thứ quân đội quái gở nhất thế giới, vũ khi có
10 mà tinh thần không có lấy một, chúng đánh chác không ra sao, nhưng sự ăn uống
chơi bời thì quá đáng”(7). Một đặc điểm khác cuả bọn Mỹ khiến chúng thật bại là
:”Bọn Mỹ là bọn vưà chủ quan, vưà ngu, vưà lười biếng”, “đó là những tên lính
không có lý tưởng chiến đấu, không có sức mạnh tinh thần”. Chúng không có khả
năng chịu đựng gian khổ và “sự tồi tệ cuả lính Mỹ cũng là một trong những
nguyên nhân thất bại”. Anh Đức đã kể nhiều chuyện dở khóc dở cười về sự thất bại
cuả lính Mỹ và nêu nguyên nhân này :”nguyên nhân chính là vì chúng quá chủ
quan, vì chúng đánh quá ‘bài bản’ cuả Lầu năm Góc, những bài bản đó mà đem xài
với lối đánh du kích đã đạt tới trinh độ nghệ thuật thiên biến vạn hoá hạng nhất
thế giới cuả ta thì chỉ uổng công vô ích”
Anh Đức không nói về những nguyên nhân thất bại cuả Mỹ bằng ngôn ngữ lý luận
quân sự - chính trị như những chuyên viên quân sự, mà bằng những câu chuyện cuả
thực tiễn chiến trường, bằng sự chiêm nghiệm cuả chính bản thân nhà văn, thế
nên những lý giải là có cơ sở. Nhưng cần lưu ý, đây là ý nghĩ cuả người nông
dân Nam Bộ đánh giặc, họ nhận rõ kẻ thù, biết địch biết ta. Những lý giải cụ thể
cùng với tầm suy nghĩ sâu rộng và tình cảm dào dạt làm cho Ký Anh Đức trở nên hấp
dẫn.
Anh Đức giữ được giọng văn trong trẻo, tình cảm đằm thắm hồn nhiên, màu sắc
lãng mạn và vẻ gân guốc dữ dội trong miêu tả cuộc chiến đấu là nhờ “tâm hồn người
cầm bút trong cuộc chiến đấu vô cùng quyết liệt ấy vẫn giữ được sự thanh thản lạ
thường”(8). Anh Đức đem được ngôn ngữ, cách cảm nghĩ và tâm hồn người Nam Bộ
vào trang văn. Đó là thành công đặc sắc cuả Ký Anh Đức trong Bức Thư Cà Mau.
2. Bút Ký trong MIỀN SÓNG VỖ là những “cảm tưởng”, “suy tưởng” cuả tác giả
sau những chuyến đi như thăm nơi ở cuả Nguyễn Đình Chiểu, thăm Lêningrat, đi dọc
miền Trung.
Ngôn ngữ, tính chất văn chương già dặn hơn, điêu kuyện hơn, suy tưởng riêng tư
nhiều hơn so với bút ký trong Bức Thư Cà Mau. Cách viết cuả Anh Đức ở đây là từ
một vài chi tiết cuả đời sống hiện tại mà “mường tượng” tái hiện quá khứ, suy gẫm
về quá khứ, tìm ra những ý nghiã cuả quá khứ trong hiện tại. Những bài tiêu biểu
là Hành Hương về Một cánh Đồng, Cảm Tưởng Lêningrat, Ý Tưởng Dọc Một Chặng Đường
Miền Trung.
Anh Đức đã sử dụng khéo léo một vốn kiến thức tổng hợp để dựng lại quá khứ làm
cho quá khứ như sống thực đang diễn ra trước mắt ta. Đó là kiến thức lịch sử,
những giai thoại, lời kể dân gian, kiến thức văn chương…về An Đức thăm nơi ở cuả
Nguyễn Đình Chiểu , Anh Đức đã nhắc lại việc thằng Bông Sông o bế nhà thơ, suy
gẫm về phong trào Tỵ Điạ, suy gẫm về chữ “Đạo”, chữ “Nghiã” cuả Nguyễn Đình Chiểu.
Tất cả những tư liệu lịch sử cùng với giai thoại về Nguyễn Đình Chiểu được triển
khai trên mạch liên tưởng, suy tưởng thể nghiệm và diễn đạt bằng ngôn ngữ ngợi
ca: “Tôi đứng trên cái nền nhà nhỏ hẹp đó, lắm lúc lòng cứ muốn buột kêu lên
cái tiếng kêu thán phục thương yêu. Trời ơi, ở vào cái cảnh huống ngặt nghèo bi
đát cuả đất nước và cuả thân phận riêng lại có thể có được một con người nghệ
sĩ hào hùng đến thế hay sao”
Trong bài viết Cảm Tưởng Lêningrat, Anh Đức đã khai thác khối lượng kiến thức
văn học và lịch sử thật đồ sộ, dựng lại chân dung, cuộc sống cuả những nhà văn
lớn Nga và cả những nhân vật cuả họ như : Pautôpxki, Secnưsepxky, Gôgôn,
Biêlinxki, Puskin, TuôcgơNhep, Piot Đại đế, Lep Tônxtôi, Alexit Tônxtôi, lênin,
Maiacôpxki…
Bài Ý Tưởng Dọc Một Chặng Đường Miền Trung cũng được viết bằng cách ấy.
Anh Đức suy tưởng về sông núi, nhớ đến Bác Hồ khi qua Phan Thiết, nhắc đến Bích
Khê bị lao chết năm 1945, qua Phan Rí nghĩ về dân tộc Chàm, qua Phan Rang tới
Cam Ranh nghĩ về Vịnh Cam Ranh. Đến Nghiã Bình nhắc lại sự kiện Vũng Rô, tới
Quy Nhơn ca ngợi người anh hùng Nguyễn Huệ, nhắc đến cây me 200 tuổi và giếng
nước do chính Nguyễn Huệ đào…
Anh Đức đi đến đâu cũng tìm về quá khứ cuả nơi ấy và đặc biệt chú ý đến những
con người lịch sử, nhất là những nhà văn và những con người anh hùng. Chú ý đến
nhà văn vì đó là những con người Anh Đức đồng cảm, là người bạn đi trước, mà tác
phẩm cuả họ làm cho quá khứ sống cùng với hiện tại. Anh Đức ngưỡng mộ những người
anh hùng, vì chính những con người ấy góp phần thúc đẩy lịch sử tiến lên. Nhìn
rộng hơn thì trung tâm sự chú ý, tìm kiếm, suy tưởng của Anh Đức là “Con Người”
và sự “đổi đời” cuả cuộc sống cũ. Nói cái cũ, con người cũ, cuộc sống cũ để dẫn
đến cuộc sống mới hôm nay tốt đẹp. Chẳng hạn, sau khi ca ngợi vùng quê di tích
lịch sử cuả Nguyễn Huệ, Anh Đức viết tiếp :” Nhưng kể từ năm 1975, miền quê Tây
Sơn mới thật là rạng rỡ trong ánh vinh quang cuả thời đại mới, thời đại có mắt
nhìn sâu, có lòng hiểu thấu”
Những bài bút ký trong Miền Sóng Vỗ không viết về những vấn đề cuả hôm nay. Tâm
tưởng Anh Đức luôn sống với quá khứ. Hiện tại luôn “có ý dẫn ngược tôi về quá
vãng “ (Lời Anh Đức-Ý Tưởng Dọc Một Chặng Đường…, sđd) .Quá khứ chống Mỹ cùng với
những miền đất đẫm máu bao người đã hy sinh vẫn đang sống trong Anh Đức, trở
thành tác phẩm Anh Đức. Cuộc sống hiện tại (sau1975) , là cuộc chiến đấu mới,
Anh Đức chưa thâm nhập, chưa trải nghiệm nó, nên khó viết về nó. Anh Đức thú nhận
:”Tôi phải thú thật rằng trận đánh đó tôi chưa từng biết”.
Sức hấp dẫn cuả những bài bút ký tron Miền Sóng Vỗ không toát ra từ hiện thực
được phản ánh, mà từ sự rung động cuả trái tim Anh Đức, lan toả sang trái tim
người đọc. Anh Đức sử dụng hai thủ pháp nghệ thuật chính là :những suy tưởng
trùng điệp về nhiều tầng lớp ý nghiã cuả hiện thực, suy nghiệm cuả chính bản
thân ; và thủ pháp tương phản được dùng rất biến hoá. Chẳng hạn, trong Thành Phố
Này Phải Đi Tới Muà Xuân là một loạt tương phản ; hoặc đặt cái xấu cạnh cái tốt,
cái phi nghiã bên cạnh cái chính nghiã, đặt sự khó khăn thiếu thốn, eo hẹp,
thúc ép cuả điều kiện sống bên cạnh cái cao cả, kỳ vĩ và sự phong phú cuả tâm hồn,
đặt cái cũ bên cạnh cái mới, cái lạc hậu bên cạnh cái tiến bộ, cái căm thù bên
cạnh cái yêu thương trân trọng.. Thủ pháp tương phản cuả Anh Đức luôn mở ra về
phiá ánh sáng, vươn tới cái cao cả tốt đẹp, hướng về tương lai với niềm tin bền
vững . Anh Đức nói : “ rõ ra cái điều đáng ghét để cho ta nồng nàn với cái nên
yêu”. Đó chính là cái “chất Anh Đức” làm nên giá trị trang văn cuả ông.
3.Như vậy bút ký trong Bức Thư Cà Mau và Miền Sóng Vỗ có những khác biệt cơ bản, khó
có thể sắp chung với nhau như một mạch sáng tạo liên tục.
Có thể nêu một vài nét chung về Ký cuả Anh Đức: Ký Anh Đức là những suy nghĩ,
nhận thức và cảm xúc trực tiếp cuả Anh Đức trước hiện thực và lịch sử. Ngôn ngữ
ký Anh Đức xâm nhập vào ngôn ngữ truyện cuả ông, nhất là những đoạn suy tưởng bằng
câu văn trùng điệp trữ tình ngợi ca. Ký Anh Đức hấp dẫn là ở những phát hiện
tinh tế cuả một trí tuệ sắc xảo, một trái tim đôn hậu, một lý tưởng sống gắn bó
với lịch sử và Cách mạng. Trung tâm sự chú ý cuả Ký Anh Đức là Con Người và lịch
sử, đặc biệt là người anh hùng và người yêu thương. Ký Anh Đức giúp người đọc
hiểu sâu sắc hơn truyện và tiểu thuyết Anh Đức. Tuy vậy ký Anh Đức chưa đạt đến
tính độc đáo thể loại và thành công như truyện ngắn của ông.
Chú thích:
(1).Thư tháng bảy
(2).Bức Thư cà Mau
(3).Những Chuyện Chung Quanh Một Trận Càn
(4).Dưới Một Vầng Ánh Sáng Đục
(5).Thư Tháng Bảy
(6).Những Chuyện Xung Quanh… (sđd)
(7).Những Chuyện Xung Quanh…(sđd)
(8).Chu Nga, Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam, Nxb KHXH.1977.tr.405.
5/8/2021Bùi Công Thuấn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét