Thứ Năm, 2 tháng 9, 2021

Tình yêu trong sương mù

Tình yêu trong sương mù

Thiên Thụy đứng một mình, sương khói ngày càng bao trùm rồi không nhìn thấy ai nữa. Đó là dòng ghi chú sau cùng trong Sương Mù Tháng Giêng. Khánh Dư đã đi và Quốc Nghiễn cũng ra đi. Cả hai đi trong tâm trạng suốt đời bị dày vò vì một mối tình đầy bi kịch. Tôi tự hỏi “Sương mù tháng giêng” là gì?
1. Sương mù tháng giêng
Trong truyện ngắn Đứa Con Mùa Xuân viết về Nguyễn Phi Khanh, nhà văn Uông Triều nhận định rằng: ”Lịch sử mù mờ và được ghi theo ý đồ của nó” (1). Tôi hiểu, nhà văn muốn nói rằng, những câu chuyện được kể trong sách sử bị bao phủ bởi sương mù. “Sương mù tháng giêng” là một ẩn dụ. Nhà văn muốn “đắm chìm mê mị…” trong sương mù để khám phá những sự thật bị che khuất. Và đó là sự thật gì?
Sương Mù Tháng Giêng kể chuyện tình yêu của Khánh Dư với Thiên Thụy công chúa. Sử sách ghi rằng, Khánh Dư có công đánh giặc, được Thượng hoàng Lê Thánh Tông nhận làm con nuôi, được hưởng tước Nhân Huệ Vương. Khánh Dư thông dâm với công chúa Thiên Thụy là vợ của  Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, con trai Trần Quốc Tuấn. Vua sợ phật ý Quốc Tuấn, bèn sai đánh chết Khánh Dư ở Dâm Đàm, nhưng lại dặn chớ đánh đau quá để không đến nỗi chết, rồi xuống chiếu cách hết quan tước, tịch thu sản nghiệp không để lại cho một tí gì. Ông trở về Chí Linh làm nghề bán than. Sau này vua Trần Nhân Tông phục chức cho ông. 
Uông Triều giữ nguyên chính sử đã chép về Khánh Dư và dựng một câu chuyện của riêng mình.
Truyện khởi đi từ lúc Khánh Dư phải chịu đòn ở Dâm Đàm, rồi ông về bán than ở Chí Linh. Giặc Nguyên xâm lược lần thứ ba, ông lập công lớn, đánh tan đạo binh thuyền chở lương thực, khí giới của Trương Văn Hổ. Có cả chuyện ông tham ô khi cho thu mua nón Ma Lôi. Về sau ông cũng  phò vua Trần Anh Tông đi đánh quân Chiêm Thành.
Từ nhân vật Khánh Dư, ngòi bút Uông Triều tỏa ra các nhân vật khác: Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo, Trần Ích Tắc, Hốt-Tất-Liệt, Thoát Hoan, Toa đô, Ô Mã Nhi, Phạm Nhan…bao quát một bối cảnh lịch sử rộng trong không gian và dài trong thời gian hai lần vua tôi nhà Trần đánh quân Nguyên-Mông (1285-1288). Không dừng lại ở việc phản ánh sự hoành tráng, sử thi của cuộc kháng chiến toàn dân tộc, Uông Triều còn đi sâu vào “nỗi niềm” riêng của từng nhân vật và theo chân họ đến cuối đời. Chương viết về sự viên tịch của Phật hoàng Trần Nhân Tông rất hay (Đêm cuối cùng ở Ngọa Vân), và Khánh Dư còn đưa xuống địa phủ gặp lại tất cả mọi người, để tra cho ra câu hỏi quấn xiết lấy ông suốt đời, Thiên Thụy yêu ông hay yêu Quốc Nghiễn (Chương 6&7, phần VIII). Nhưng rồi cả Khánh Dư và quốc Nghiễn đều ra đi mang nỗi bi thương trong lòng, dù địa phủ là nơi đã xóa hết mọi nỗi oán thù. Đây là đoạn kết truyện : cuộc gặp gỡ, truy đuổi giữa Khánh Dư, Thiên Thụy và Quốc Nghiễn để làm rõ Thiên Thụy thuộc về ai trong cuộc tình tay ba bi kịch.
Quốc Nghiễn: Nhất định nàng phải nói.
Thiên Thụy: Khánh Dư, người có muốn nghe tôi nói không?
Khánh Dư: Nàng nói đi, ta biết nàng thích ta hơn mà.
Thiên Thụy: Rốt cuộc thì hai người ai cũng tham lam như nhau.
Khánh Dư: Thôi, nàng đừng chần chừ nữa.
Thiên Thụy: Trước kia tôi thích cả hai người, tôi cũng tham lam như hai người nhưng tôi đã ăn chay niệm phật lâu rồi, giờ hai người như nhau thôi.
Khánh Dư: Nàng thật tàn nhẫn.
Quốc Nghiễn: Ta không ngờ nàng nói thế
Uông Triều viết kết đoạn như sau. Khi Khánh Dư và Quốc Nghiễn bỏ đi,Thiên Thụy đứng một mình, sương khói ngày càng bao trùm rồi không nhìn thấy ai nữa.Thế có nghĩa là sương mù bao phủ ngàn năm lên cuộc tình Khánh Dư-Thiên Thụy vẫn còn nguyên đấy. Bởi cách Thiên Thụy trả lời hai người chỉ là cách từ chối nói thật lòng mình, càng gây thêm mối nghi hoặc. Và tôi tin rằng, một lúc nào đó cả Khánh Dư và Quốc Nghiễn lại tìm gặp Thiên Thụy để hỏi cho ra nhẽ, bởi vết thương tâm trong lòng họ vẫn còn nhỏ máu. Cuộc chịu đòn 100 gậy của Khánh Dư (Phần I, Dâm Đàm-chương 3) cùng với sự chiến thắng của Quốc Nghiễn sau ba đường gươm đánh bại Khánh Dư vẫn chưa giải quyết được vấn đề (Phần III: Cố Nhân-chương 1)
2. Truyện tình hay Tiểu thuyết lịch sử?
Mở đầu truyện là trận đòn Khánh Dư phải lụy vì tình, dù vậy Khánh dư chấp nhận tất cả: ”Trước mắt chàng là hình ảnh chập chờn của công chúa Thiên Thụy. Thiên Thụy ơi, tấm thân nồng nàn của nàng làm ta mê đắm, Khánh Dư ta bị tội thì có đáng gì, ta đâu sợ hình phạt, chỉ trách cuộc vui chẳng dài, ta vui thú với nàng được bao mà nàng phải khổ sở.”(Phần I, chương 1). Cuộc tình ấy gây ra bao nhiêu hệ lụy, đau khổ, nhục nhã ê chề cho Thiên Thụy (chương 2), Quốc Nghiễn-con của Trần Quốc Tuấn, chồng của Thiên Thụy (chương 3), cả với Thượng hoàng Trần Thánh Tông (chương 4). Và biết đâu làm hỏng cả đại cuộc chống giặc Nguyên –Mông khiến vua Trần Thánh Tông thực sự lo ngại: “… nay thằng nghịch tử Khánh Dư lại gây thêm tội. Nếu Quốc Tuấn nhân việc này mưu đồ việc riêng thì là mối nguy lớn cho xã tắc. Vết thương nằm sâu trong gan ruột, nay bị cái gai đâm vào cho vỡ tung ra thì nguy hại khôn cùng. Quốc Nghiễn cũng làm ta không khỏi lo lắng, Nghiễn là bậc anh hùng cái thế, rường cột của quốc gia. Cha con Quốc Tuấn cần cho xã tắc, ta không để uổng phí, thâm thù chồng chất được. Ta phải tính sao cho chu toàn mọi việc. 
Rồi sau những năm tháng phải về Chí Linh, lúc gặp lại công chúa, Khánh Dư vẫn si mê, vẫn tin rằng công chúa còn yêu mình. Ông bị công chúa xỉ vả thậm tệ nhưng ông sẵn sàng chết vì nàng. “Ông biết nàng đang nghĩ gì, nàng đâu muốn giết ông, nàng làm thế sao được, nàng vẫn là Thiên Thụy của ngày xưa…(Phần VIII, chương 3). Ý tưởng ấy tiếp tục theo đuổi Khánh Dư đến cuối đời, kể cả khi ông xuống địa phủ (Phần VIII, Chương 6&7).
Một chủ đề được triển khai quán xuyết suốt tác phẩm như thế, người đọc hẳn nhận ra Sương Mù Tháng Giêng là một chuyện tình. Chúng ta có thể hình dung được Khánh Dư và Thiên Thụy phải yêu nhau mê đắm thế nào mới bất chấp danh dự, tính mạng và đại cuộc như thế. Trai tài gái sắc. Thiên Thụy yêu Khánh dư chắc chắn vì Khánh Dư là một dũng tướng, nam nhi đại trượng phu. Điều này thực tế đã khẳng định. Vua Trần Thánh Tông quá yêu vị tướng trẻ này mà nhận làm con nuôi, và vì quá yêu chàng mà tha tội chết. Còn vua Trần Nhân Tông, khi gặp lại Khánh Dư ở Bình Than, chỉ nghe người bán than trả lời, vua Trần Nhân Tông đã nhận ra người ấy chính là Khánh Dư :” Nghe khẩu khí ấy đúng là Nhân Huệ vương Khánh Dư rồi, người thường tất không dám nói thế. Mời bằng được ông ấy đến dự hội nghị”(Phần II-chương 3). Cả khi bị thất bại trong việc chặn cánh quân thủy của bọn Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp đến Vân Đồn, Thượng hoàng Trần Thánh Tông nghe tin, sai bắt về kinh xử tội, Khánh Dư  bảo với sứ rằng "lấy quân luật mà xử, tôi xin chịu tội, nhưng xin hoãn vài ngày để tôi lập công chuộc tội, rồi sẽ chịu búa rìu cũng chưa muộn". Quả nhiên sau đó Khánh Dư đã đánh bại Trương Văn Hổ bắt sống được nhiều tù binh và lương thực khí giới không kể xiết.(xem Phần VII, Thủy chiến-chương 1). Một người như thế xứng đáng để Thiên Thuy yêu mê đắm và dù có đánh đổi tất cả nàng cũng chấp nhận. 
Còn Khánh Dư yêu Thiên Thụy vì lý do gì? Cứ theo lẽ thường, nàng phải là một người tuyệt vời tài sắc. Chuyện kể rằng Thiên Thụy công chúa xinh đẹp hiền dịu, rất được vua cha Trần Thánh Tông yêu quý. Khánh Dư là con nuôi vua Thánh Tông nên chàng ra vào trong cung, họ yêu nhau là lẽ thường tình. Sau đó Thiên Thụy lấy Quốc Nghiễn, con của Trần Quốc Tuấn. Dù vậy Khánh Dư và Thiên Thụy vẫn dan díu nhau. Chuyện giữa hai người bị phát giác. Khánh Dư bị đánh đòn rồi về Bình Than. Năm 1282, Khi họp hội nghị Bình Than vua Trần Nhân Tông gặp lại Trần Khánh Dư, cho về triều và phong làm Phó đô tướng quân cầm một cánh quân mạnh chuẩn bị chặn giặc. Về lại Thăng Long, Khánh Dư và Thiên Thụy vẫn quấn lấy nhau. Chính sử phải chép: “Rút cuộc Khánh Dư cũng không sửa được lỗi lầm cũ”. Cứ theo sự việc ghi trong sử sách, người đọc có thể nhận ra Khánh Dư không chỉ là một dũng tướng mà còn là một khách tình si. Tài tử giai nhân, “trai anh hùng, gái thuyền quyên” vốn vậy.
Rất tiếc Uông Triều đã không miêu tả được cuộc tình lý tưởng của họ. Đó là một cuộc tình vừa lãng mạn, vừa bi tráng. Tình yêu của Thiên Thụy là một tình yêu lý tưởng. Có lẽ nàng đã yêu được một người đúng như trong tâm tưởng. Và với tính cách lý tưởng, nàng đã dâng hiến tất cả và mê đắm hạnh phúc trong tình yêu ấy. Những ràng buộc xã hội là vô nghĩa đối với nàng. Đó mới là một tính cách đích thực phụ nữ có bản lĩnh. Đến nỗi vua Trần Nhân Tông phải buộc Thiên Thụy xuất gia. Vua Nhân Tông là em ruột Thiên Thụy, là người hiểu rõ chuyện tình này. Ông cũng là người rất thương chị gái. Khi hay tin chị ốm nặng, ông đã đến thăm. Cầm tay Thiên Thụy ông nói :” Nếu chị đã đến ngày đến giờ thì cứ đi, âm phủ có hỏi thì bảo rằng, xin đợi một chút, em tôi là Trúc Lâm đại sĩ sẽ tới ngay”. Thượng hoàng Nhân Tông bấy giờ là Trúc Lâm đại sĩ, đang tu trên núi Yên Tử .
Dưới ngòi bút của Uông Triều, Khánh Dư chỉ là kẻ vũ phu háo sắc, lầm lạc, đến cuối đời vẫn chưa tỉnh ngộ. Thiên Thụy cũng không khác gì. Cả hai chỉ là những kẻ hoang dâm. Đây là suy nghĩ của Thiên Thụy lúc Khánh Dư chịu đòn :” Nếu như nàng chưa chồng, nếu như Khánh Dư danh chính ngôn thuận thì nàng có say kẻ tình lang ngông cuồng ấy không. Nàng là đàn bà mà chàng lại quá đỗi hoan tình. Dư ơi, khi đó mình có cần gì nói với nhau, thấy ánh mắt rực lửa của chàng, lòng em đã bủn rủn ra rồi, em không sao cưỡng nổi ham muốn với chàng, vẻ phong trần của chàng làm em mê mẩn mất rồi, em có tội với chàng, có tội với Quốc Nghiễn, là đàn bà mà em si mê sắc dục, em làm sao thoát khỏi tội lỗi ấy được.(Phần I, chương 2). Những lời đối thoại của Khánh Dư và Thiên Thụy ở dưới địa phủ như thề này đã tầm thường hóa cả hai nhân vật:
Thiên Thụy: Thì chúng ta là giống đàn bà thôi, không ghen tuông không được nhưng ghen tuông thì có ích gì. Giờ chàng đã quá già rồi.
Khánh Dư: (Nhìn lại mình) Ta già nhưng không yếu đuối đâu, các nàng nhầm rồi, ta vẫn còn cường tráng đây, giờ ta chỉ thiếu các nàng thôi… 
Có thể Uông Triếu muốn nhìn nhân vật của mình bằng cái nhìn bóc trần những lớp áo xã hội, cái nhìn bằng con người thật chăng? bởi dù là công chúa hay danh tướng, ngoài con người xã hội, họ cũng là một con người như mọi người, con người bản năng, con người cảm tính, con người tâm linh. Nhưng Uông Triều đã không thành công trong việc miêu tả cuộc tình này đúng như bản chất của nó và nâng nó lên tầm tư tưởng-nghệ thuật.
Tôi ngờ rằng miêu tả tình yêu không phải là thế mạnh của ngòi bút Uông Triều. Trong truyện ngắn Đứa Con Mùa Xuân viết về tình yêu của Nguyễn Phi Khanh và Trần Thị Thái (con quan tư đồTrần Nguyên Đán), Uông Triều chỉ đứng bên ngoài mà nghị luận, không sao hóa thân vào được nhân vật để thể hiện được chất nhân văn sâu sắc của tình yêu. “Người con gái chớm tuổi thành niên, ở trong trướng rủ màn che, hẳn là đầu tiên nàng tiếp xúc gần gũi với một người đàn ông, làm sao mà nảy nở tình cảm yêu mến như thế được, một ranh giới rạch ròi ngăn cách, tình si vấn vít trong một hoàn cảnh chật hẹp của lễ nghĩa. Hay là ông thầy quá đẹp trai hào hoa và càng ra sức giữ gìn quá mức thì cô tiểu thư học trò con quan càng nảy sinh lòng yêu mến gấp bội. Thầy càng nghiêm túc đường hoàng, trò càng chăm chỉ, ngoan ngoãn thì tình cảm càng bùng sinh dữ dội...”
Thế mạnh của ngòi bút Uông Triều là miêu tả lịch sử. Phần IV (Chiến trận) và phần VII (Thủy chiến) có những chương rất hay. Uông Tiều dựng lại được những sự kiện lich sử trong không khí bi hùng của thời đại, khắc họa được khí phách những con người đã được đóng đinh vào lịch sử: Trần Bình Trọng, Trần Khánh Dư, cha con Trần Quốc Tuấn, Cao Thuần,.. và làm rõ được dã tâm, tình cách của kẻ thù Hốt tất Liệt, Thoát Hoan, Trần Ích Tắc, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Phạm Nhan…
Uông Triều đã tổng hợp được một nguồn sử liệu phong phú (2), vượt qua cách viết tiểu thuyết lịch sử chương hồi, tiểu thuyết lịch sử giáo huấn, tiểu thuyết lịch sử mượn chuyện xưa nói chuyện nay, để đựng lại lịch sử theo cảm quan của nhà văn. Khi tôi hỏi nhà văn về các nguồn sử liệu như Đại Việt Sử Ký Toàn thư, An Nam Chí Lược, Việt Nam sử Lược, nhà văn Uông Triều cho biết :”Uông Triều tham khảo nhiều sách, ngoài các sách kể trên còn có Thuyết Trần của Trần Văn Sinh, Địa chí Quảng Ninh và đi điền dã thực tế ở vùng Bạch Đằng, Đông Triều, quê của Uông Triều.”Tôi hiểu điều này, có được nguồn sử liệu dồi dào mới chỉ là điều kiện cần. Để chưng cất và sáng tạo từ nguồn tư liệu đó, nhà văn phải đắm mình trong không gian lịch sử, phải sống thực bằng tâm thức với những con người lịch sử, cùng với tấm lòng và tài năng mới có thể viết thành những trang văn xúc động lòng người. Uông Triều đã trải nghiệm hành trình sáng tạo ấy. Ngay lời mở đầu, nhà văn đã viết: ”Tôi vô tình lọt vào tướng phủ của Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư. Ngài đã rất ngạc nhiên khi thấy một kẻ hiện đại mà ham thích chuyện lịch sử. Tôi đã mạnh bạo hỏi những chuyện người ta thêu dệt về ngài, cả những việc người ta tránh nhắc tới. Nhân Huệ vương nghe xong thì mỉm cười, ngài bảo gần nghìn năm lịch sử rồi, có gì mà phải úp mở. Và ngài kể cho tôi nghe chuyện đời ngài, chuyện người, chuyện thế sự thời trước… thỉnh thoảng chúng tôi dừng lại uống một loại trà rất thơm do một tì nữ xinh đẹp hầu hạ. Trước mắt tôi là quang cảnh lịch sử cách biệt gần ngàn năm thế giới, một cuộc sắp đặt lạ kì và lòng tôi rạo rực. Tôi mê mảitrong không gian kì vĩ của chiến trận, thỉnh thoảng vẫn nghe thấy tiếng hò hét, khóc than từ lòng đất nhưng không tài nào thoát khỏi cơn đắm chìm mê mị…”Chính tấm lòng ham thích chuyện lịch sử, và sự đắm mình mê mải trong thế giới lịch sử của nhà văn đã thăng hoa thành những chương rất thành công của Sương Mù Tháng Giêng.
3. Điều gì làm nên cốt cách ngòi bút Uông Triều?
Đã có nhiều ý kiến bàn về tiểu thuyết lịch sử, nhưng tôi đặc biệt chú ý đến ý kiến của GS-TS Trần Đình Sử (3) và PGS-TS Nguyễn Văn Dân (4). Hai tác giả này đã vận dụng được các nhiều lý thuyết văn học hiện đại để xem xét lịch sử vấn đề, từ đó soi chiếu lý giải những vấn đề của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại. 
PGS-TS Nguyễn Văn Dân cho rằng có thể nhận thấy có ba xu hướng rõ nét trong tiểu thuyết lịch sử như sau: Tiểu thuyết lịch sử chương hồi khách quan(điển hình là Ngô Văn Phú),Tiểu thuyết lịch sử giáo huấn(đại diện tiêu biểu là Hoàng Quốc Hải) và Tiểu thuyết lịch sử luận giải (tiêu biểu là Nguyễn Xuân Khánh). Tôi thấy Uông Triều có thấp thoáng bóng dáng trong kiểu Tiểu thuyết lịch sử luận giải, nhưng trong Sương Mù Tháng Giêng, Uông Triều không luận giải chủ đề nào cả. Nhà văn để cho các nhân vật trực tiếp lên tiếng nói. Trước những gì còn chưa rõ ràng, nhân vật của Uông Triều tự giãi bày. Uông Triều đi sâu miêu tả những “nỗi niềm” của các nhân vật Khánh dư, Thiên Thụy, Quốc Nghiễn, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, trong đó điểm nhấn của tiểu thuyết là chuyện thông dâm của Khánh Dư với công chúa Thiên Thụy, chuyện An Sinh Vương đòi buộc con là Trần Quốc Tuấn trả thù, chuyện hòa hay chiến của vua Trần, cả những vấn đề của con người ở thế giới bên kia khi Khánh dư xuống địa phủ. Uông Triều đã sử dụng lại những quan điểm của chính sử. 
Đây là thái độ của Uông Triều với Trần Ích Tắc, kẻ đã theo Thoát Hoan:
“Tôi vặc lại ông ta:
- Nhưng chỉ vì bực mình mà ông theo Thoát Hoan ư, hắn làm những gì ông đã biết chứ. Hắn đã đào mả bố ông lên. Mà ông theo hắn, nước nhà cũng có tránh được can qua đâu, tưởng như việc ấy ông phải bực mình hơn mấy phải. Đến đứa trẻ cũng biết rằng Hốt Tất Liệt đâu chỉ muốn hòa, hắn chỉ muốn cướp nước, giết người thôi. Ông ăn lộc của hắn thì phải nghe theo hắn, chuyện cha con Vua Nhân Tông là chuyện nhỏ, nguyên là lòng tham không đáy của ông mà ra. Ông không tham thì đâu đến nỗi mất nước, mất danh phận, đến cả chỗ chôn thây cũng không có, lẽ nào bao năm ông không tỉnh ngộ ra sao?
Ông già nhảy phắt lên:
- Mày là đồ hậu sinh hỗn xược, mày hiểu gì mà nói, mày chỉ bịa tạc ra thôi. Tao phải giết mày, tao không tha cho mày đâu.
Ông già rút gươm ra, tôi buộc phải hăm dọa ông ta:
- Ông dừng lại ngay, nếu không tôi sẽ bắn đấy. Tôi cũng không nể tình ông đâu. Ông nghĩ thế nào ông cứ nói, tôi cũng không có ý định bịt miệng ông để người khác nói đâu…” 
GS-TS Trần Đình Sử cho rằng, lịch sử thực chất chỉ là một thứ diễn ngôn. Sử sách chỉ ghi một số ý kiến về các sự thật quá khứ mà không ai ngày nay được nhìn thấy, chứng kiến, chúng ta biết rất ít về nó, biết rất phiến diện, nhất là đời sống thực tế của những thời đã qua. Nhiệm vụ của tiểu thuyết lịch sử là sáng tạo ra diễn ngôn mới về lịch sử, nêu ra cách nói mới, góc nhìn mới, phán xét mới, gợi mở khả năng mới. Nhà văn có quyền giải thích sự kiện khác với định luận trong sử. Ông cũng nói đến trào lưu viết lại lịch sử đáng chú ý ở nhiều nước trên thế giới. (Tôi hiểu ông định nói gì trong những ý kiến ấy)
Bằng một sự hiểu biết uyên bác và cách viết đầy thuyết phục, GS-TS Trần Đình Sử đã cung cấp những kiến giải giúp soi sáng nhiều vấn đề. Theo thiển nghĩ của tôi, trong những ý kiến ấy, có những chỗ cần luận giải. Lịch sử là một sự thật đã diễn ra trong không gian và thời gian nhất định. Viết về lịch sử, dù văn bản lịch sử có khác nhau về quan điểm, góc nhìn, thời gian thì vẫn phải tôn trong chân lý lịch sử, tức là những gì đã xảy ra. Vì thế văn bản lịch sử không chỉ là một diễn ngôn. Chẳng hạn viết về lịch sử nhà Trần đánh quân Nguyên- Mông, thì dù là Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Sử Quán triều Lê, hay An Nam Chí Lược của Lê Tắc (một tên phản quốc) (5) đều phải tôn trọng sự thật lịch sử đã diễn ra. Mỗi văn bản lịch sử cung cấp một góc nhìn khác nhau về hiện thực, và vì thế dù có viết lại lịch sử thì cũng phải tôn trọng sự thật lịch sử. Ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu dùng để ghi lại nhận thức của con người trước sự vận. Ngôn ngữ không là sự vật, nhưng là công cụ tư duy, công cụ giao tiếp, nó được đặt trên những tín niệm của cộng đồng, vì thế văn bản lịch sử dù là một băn bản, một diễn ngôn,  nó dẫn đến sự thật lịch sử và chứa đựng những tín niệm của cộng đồng.
Uông Triều không viết lại lịch sử, nhà văn cũng không coi lịch sử như cái móc áo để khoác trên đó những quan điểm của cá nhân mình. Anh coi trọng chân lí lịch sử, coi trọng những tín niệm của cộng đồng dân tộc. Bằng cái nhìn hiện đại, anh để cho các nhân vật lịch sử tự lên tiếng nói với người hôm nay về những gì mình đã làm. Lịch sử là lịch sử, không thể thay đổi. Dù có “thóang” và “hậu hiện đại” thế nào, anh cũng không thể bênh vực cho Trần Ích Tắc. Dù có viết lại lịch sử, anh cũng không thể cứu sống được Toa Đô (Phần IV: Chiến trận-chương 7), Ô Mã Nhi (Phần VII: Thủy chiến-chương 5) 
Để thực hiện ý tưởng nghệ thuật của mình, Uông Triều không cấu trúc truyện theo tuyến thời gian, dù người đọc phải liên tưởng theo một mạch sự kiện. Uông Triều tập trung miêu tả tâm trạng nhân vật và lắng nghe tiếng nói của nhân vật trước sự việc đang xảy ra. Cách viết này làm cho cấu trúc tiểu thuyết trở nên lỏng lẻo, đến nỗi mỗi chương có thể đứng riêng thành một truyện ngắn. Hai chương Nước Mắt Sông Cầm và Đêm Cuối Cùng Ở Ngọa Vân là những truyện ngắn rất hay đã được đăng báo riêng. 
Uông Triều không khắc họa chân dung nhân vật, không miêu tả bối cảnh nơi xảy ra sự việc, nơi nhân vật xuất hiện, đồng thời anh trộn lẫn hư- thực bằng nhiều giấc mơ của nhân vật, trộn lẫn chính sử với huyền thoại (Phần VI: Tâm thần-chương 2: Phạm Nhan), sử dụng nhiều cách viết. Nhiều chương chỉ là tâm trạng nhân vật, có chương được viết như một lớp kịch bản (Phần III: Cố nhân, chương 3 & Phần VIII: An lạc, chương 7), có chương tác giả trực tiếp tranh luận với nhân vật (Phần VI, chương 4) hoặc đặt mình trong bối cảnh của nhân vật để bày tỏ cảm nghĩ (.Phạm Nhan). Có chương anh sử dụng lại mô típ hồn ma như trong Hamlet của W. Sakespear (Phần IV: chiến trận-chương 9). Tôi không bận tâm nhiều về sự cách tân trong cách viết của Uông Triều nhưng tôi ghi nhận được sự đa dạng và tính hiện đại trong cách viết tiểu thuyết lịch sử của Uông Triều, nhờ đó tiểu thuyết của anh có khả năng gây được ấn tượng ở nhiều mặt. 
Chỉ tiếc rằng anh đã không viết Sương Mù Tháng Giêng thành truyện tình bi tráng trên nền lịch sử kỳ vĩ của dân tộc, không khắc họa cụ thể chân dung nhân vật và miêu tả chi tiết hơn hiện thực để (biết đâu) tác phẩm của anh có thể dựng thành phim. Và những kiến giải của anh về lịch sử không mới. Nhiều ý tưởng được lặp lại từ nhân vật này sang nhân vật khác. Đôi chỗ anh để cho nhân vật nói năng hơi suồng sã bình dân. Vua Trần Thánh Tông nghĩ về Khánh Dư :” Thằng Khánh Dư gây tội tày đình, ta nên xử thế nào đây. Tên nghịch tử này đã không còn biết trời cao đất dày là gì nữa rồi… Bấy nay đầu óc ta bấn loạn, càng nghĩ càng lộn ruột“. Vua Nhân Tông được mệnh danh là Phật hoàng đã nói thế này: ”Giặc có cớ mà giương cờ phủ dụ dân chúng, những kẻ quyền quý đã đái cả ra quần thì dân đen tính làm gì.“ 
Uông Triều thổ lộ thế này: ”Tôi không có ý định bêu riếu người này hay tụng ca người khác, tôi chỉ viết những gì tôi cho rằng lịch sử có thể xảy ra, câu chuyện quá khứ này vừa cay đắng vừa tàn nhẫn, dù sao đã mấy trăm năm trôi qua, người ta bây giờ có thể bình tĩnh suy xét về nó.(Phần VI: Tâm thần-chương 4). Vâng, đọc truyện lịch sử là để suy gẫm về lịch sử, biết đâu ta tìm được bài học nào đó có ích cho hôm nay. Tôi tin rằng Uông Triều đã có những đóng góp riêng vào thể loại tiểu thuyết lịch sử Việt Nam. Viết tiểu thuyết lịch sử là đi vào con đường hết sức khó khăn, tốn rất nhiều công sức và tâm huyết. Tôi không biết anh mất bao nhiêu thời gian và công sức để hoàn thành cuốn tiểu thuyết này, nhưng chỉ một việc tôi theo chân anh cũng làm tôi mướt mồ hôi. Xin chúc mừng thành công mới của nhà văn Uông Triều.
Chú thích:
http://www.nhandan.com.vn/  http://trannhantong.org/
Trần Đình Sử: Lịch sử và tiểu thuyết lịch sử - http://www.hcmup.edu.vn/
Nguyễn Văn Dân: Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - phác họa một số xu hướng chủ yếu - http://toquoc.vn/sites/
An Nam Chí Lược-quyển đệ tứ - http://www.viethoc.org/.
Tháng 1/2015 
Bùi Công Thuấn
Theo http://buicongthuan.blogtiengviet.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái còn lại hóa cái không

Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...