Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2024

Giá như yêu được một người

Giá như yêu được một người

Chương I
Ban ngày hay ban đêm, công viên bao giờ cũng là một thế giới nhiều dạng vẻ nhất của cuộc đời. Chợ chỉ có "kẻ cắp", "bà già", kẻ mua người bán. Nghĩa địa chỉ có người chết và thỉnh thoảng là những kẻ... đào trộm mả. Công viên là tổng hoà của thiên đường và địa ngục, cõi tiên và cõi tục, nơi mộng ảo và chốn thô lậu của trần gian. Những du khách hay những cặp tình nhân thánh thiện sẽ gặp ở đây một thiên nhiên khoáng đạt với rừng cây và trời nước, với những con đường lát gạch hoặc trải sỏi cắt chéo qua những vạt cỏ xanh, chạy vòng quanh mặt hồ thoáng rộng tràn ngập nắng và gió mát mùa hè, bảng lảng sương khói mùa đông. Những kẻ "trốn chúa lộn chồng" tha hồ trao cho nhau những cái hôn vụng trộm dưới những vòm cây, ghế đá, bất kể ban ngày hay buổi tối, thậm chí tranh thủ và hối hả làm tình, tìm mọi cách để thỏa mãn nỗi khát khao nhau. Với trẻ con và người già, công viên là thế giới mộng ảo của tuổi thơ và của những hoài niệm. Những cặp vợ chồng "lịch thiệp", sĩ diện một cách có văn hoá, rủ nhau đến công viên để cãi nhau, trút lên nhau mọi sự bực bõ và nhàm chán của đời sống gia đình... có biết bao cô gái đã đánh mất tuổi trinh nữ dưới những gốc cây kia? Có biết bao gã đàn ông cùng thề thốt một điệp khúc giống nhau dưới một vòm cây với hàng chục người phụ nữ nhẹ dạ? Và ban đêm, trong những góc khuất lẩn dưới bóng tối vòm cây là "thế giới" riêng của đủ loại đĩ điếm, nơi ẩn nấp và hành nghề của đủ loại trấn lột...
Vào một buổi tối tháng tư, các chiến sỹ an ninh đã bắt quả tang trong một góc tăm tối nhất của công viên một ả điếm đang hành nghề với một người đàn ông có tuổi. Tiếng long của dân làng chơi gọi trường hợp này là "đi tầu nhanh". Trong cấp độ đĩ điếm, đây là loại hạ đẳng nhất. Loại cao cấp chỉ hành nghề ở các khách sạn, các restaurant mi ni. Loại trung cấp thường giả danh thành các chiêu đãi viên ở các quán giải khát, rồi dẫn đến các "vòm", các "động" đã thuê sẵn. Loại hạ đẳng thường là những gái già, hết tơ mỡ, kém nhan sắc. Chập tối họ thơ thẩn bên ác vườn hoa, dọc những con đường công viên hoặc che mắt công an bằng một mẹt thuốc lá, một ấm nước chè, gặp khách, ngã giá xong, các ả dẫn khách vào các góc tối công viên, "đi nhanh" trong năm mười phút rồi lại ra đón lượt khách mới.
Thị là một loại điếm hạ đẳng. Các chiến sỹ công an phường X. đã để ý đến thị từ hơn tháng nay, nhưng chưa có điều kiện bắt quả tang. Thực ra, trông thị cũng không đến nỗi nào. Thị vận bồ đồ xoa mỏng, màu xanh lam, loại bộ đồ mặc ở nhà của các phụ nữ biết làm đẹp cho mình, tức là ngoài sắc màu lộng lẫy còn có thêm những đường đăng ten viền trên cổ áo, cánh tay, có bông hồng thêu trước ngực. chính anh công an trẻ khi áp giải thị về đồn cũng phải thàm nhận xét rằng vẻ bề ngoài của thị còn mầu mỡ lắm. Bộ ngực không mặc áo xu chiêng nây naỷa và có phần còn chắc nịch, đôi cánh tay trần trắng và mỡ màng, bộ mông núng nính tròn căng đầy khêu gợi cảm giác nhục dục... Điểm xấu nhất ở trên người thị có lẽ là khuôn mặt. Một khuôn mặt tròn, đã bôi son phấn nhưng vẫn không tôn cao một mi li mét nào cái mũi tẹt, không làm mỏng bớt đi chút nào cái môi dầy. Duy có đôi mắt là đẹp, một đôi mắt to và đen, hơi u buồn nhưng dịu dàng. Ở nông thôn, người như thế ắt có giá, nếu đức hạnh, gia đình tốt, hẳn mười bẩy mười tám tuổi đã có khối đám nhăm nhe ăn hỏi.
Gã đàn ông thì thật là thảm hại. Một bộ mặt choắt cheo, đen đúa, với đôi mắt ti hí, cái mũi diều hâu và hàm răng nhô, đen như răng cải mả. Đã thế, thân hình gã lại cao lòng khòng và gầy nhom. Gã mặc chiếc áo bay màu cỏ úa đắt tiền mà đôi vai gồ cao lên như hai cái mấu của loại ghế tựa ba nan cải tiến. Chiếc quần si mi li màu cứt ngựa rộng thùng thình không che giấu được đôi chân sếu gầy ngẳng, vì mỗi khi gã bước, cái đầu gối xương xẩu lại nhô ra phía trước như mấu của một đoạn gộc tre.
Giấy tờ trong túi áo gã đàn ông cho biết: tên gã là Khúc Văn Khích, phó chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp N. Gã lên Bắc Thái mua trâu cho hợp tác xã. Tiền gã dắt theo bạc triệu. Có cả séc chuyển khoản khống chỉ. Nhưng gã thừa tinh khôn để tiền bạc cho một đàn em giữ ở khách sạn, chỉ dắt theo cái túi vài chục ngàn tiêu xài. Nhìn gã, có thể ước đoán hai khả năng: Một là vợ gã ở nhà quá xấu xí gầy guộc, đen đủi, gã muốn ra tỉnh tìm một sự phốp pháp, nõn nà, núng nính, nây nẩy để bù đắp lại nỗi thiếu hụt và thèm khát của gã. Hai là, gã thực sự là một kẻ phóng đãng, một tên sâu mọt và tham nhũng có hạng. Thời buổi bây giờ, của Nhà nước, của tập thể, tức là không của ai cả. Cha chung chẳng ai buồn khóc. ở nông thôn, dân trí còn thấp kém, lại bị nhốt bao nhiêu năm trong cái "lồng" hợp tác xã, cho nên từ anh đội trưởng sản xuất trở lên đều có thể phất lên nhanh chóng nhờ hà lạm vào của cải tập thể. Chắc chắn gã là một người như thế. Vậy thì tội gì mà không tiêu xài. Mang tiền đủ mua hai chục con trâu, nhưng gã chỉ mua mười bẩy con thôi. Tiêu đi ba con trâu với gã có nghĩa lí gì. Và thế là tối nay gã đến đây tìm thị. Ngưu tầm ngưu mà.
☆☆☆
Đồn cảnh sát phường nằm cách công viên một đoạn phố. Đây là một địa bàn phức tạp nhất quận, có chợ lớn, có công viên, có cả một cái "xóm liều" ven đê do dân tứ xứ tụ họp. Một địa bàn xung yếu như thế nên hầu như các chiến sĩ an ninh ở đây nhiều ngày phải trực hai mươi bốn trên hai mươi bốn giờ.
Trực ban giờ này là một nữ trinh sát còn trẻ - thiếu uý Lê My. Trong bộ sắc phục công an trông chị có vẻ cứng cỏi và già dặn hơn so với tuổi ba mươi nhăm. Giá như Lê My diện một bộ áo phông, quần bò, hay quần thụng mà phụ nữ bây giờ đang ưa dùng, lại thêm chút son phấn nữa, chắc chắn cái phần nữ tính vốn tiềm ẩn ở chị sẽ nổi trội hơn rất nhiều.
- Báo cáo đồng chí trực ban, có một trường hợp vi phạm an ninh mà chúng ta cần phải xử lý...
Trong khi chiến sĩ phụ trách địa bàn báo cáo, Lê My nhìn lướt hai công dân mới đến bằng con mắt nghề nghiệp, nghĩa là chị thử phán đoán bằng trực cảm và kinh nghiệm nghiệp vụ xem họ là người như thế nào, đã từng có tiền án tiền sự nào chưa?
Người đàn bà quay đi, tránh cái nhìn của Lê My, nhưng vô tình thị lại quay nhìn cái gã mà vài chục phút trước đây, thị đã sẵn sàng "đi nhanh" với gã. Chao ôi, thật là một nghịch cảnh, thật quá đỗi ê chề. Trong góc tối công viên thị hoàn toàn không nhận ra mặt mũi gã. Cả lúc bị anh công an giải trên đường, gã đi trước nên thị cũng không hề nhìn thấy mặt mũi gã. Ừ thì tắt đèn, nhà ngói cũng như nhà tranh, miễn là thị kiếm được chút tiền. Nhưng bây giờ, mặt đối mặt, thị mới thấy hết cái ê chề, nhục nhã của cái nghề kiếm cơm tanh tưởi này. Không những gã xấu xí, đen đủi mà có lẽ gã còn già nua đến gấp ba lần tuổi thị. Bộ quần áo của gã mới nhom nhem, nhàu nát làm sao. Đúng là một gã lái trâu. Lúc chuẩn bị vào bóng tối, gã bảo: "Vài hôm nữa về, anh lại hẹn gặp em ở đây. Thắng "quả" này, anh sẽ tặng hẳn em một con trâu..."
- Anh chị cho xem giấy tờ - Lê My mở quyển sổ trực ban rồi nhìn xoáy vào gã lái trâu.
Đang đứng khom người, nghe nhắc đến mình, gã lái trâu bỗng co rúm lại. Thật là nghịch cảnh, mới hôm kia thôi, trước khi lên đường làm công vụ, gã còn quát lác ầm ĩ với mấy người xã viên mua chịu phân đạm hợp tác không kịp trả tiền ngay trước trụ sở hợp tác xã. Nếu như cái mũi diều hâu của gã lúc ấy dài ra bao nhiêu, đỏ tía lên bao nhiêu thì bây giờ nó quặp lại và tái mét hẳn đi.
- Dạ, giấy tờ tôi đã nộp hết cho đồng chí... - Gã nói ấp úng và nhìn liếc con mắt một mí ti hí sang đồng chí trung sĩ.
Một tấm thẻ chứng minh thư và tờ giấy giới thiệu có con dấu hình bầu dục được anh chiến sĩ trinh sát đặt lên bàn.
"Họ tên Khúc Văn Khích. sinh năm 1937. Nghề nghiệp: làm ruộng. Quê quán: Thôn X, xã Y, tỉnh Z. "Đó là toàn bộ lý lịch sơ bộ của gã. Tờ giấy giới thiệu có ghi thêm chức danh: Phó chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp N., được cử đi công tác các tỉnh miền núi để hoạt động dịch vụ tổng hợp, tạo điều kiện phát triển sản xuất nông nghiệp.
Lê My ghi vắn tắt những dòng chữ trên vào sổ trực ban. Chị lắc đầu buồn bã. Mỗi một làng quê chỉ cần có một vài cán bộ như thế này thì không biết dân tình còn đói khổ đến bao giờ...
- Còn chị? - Lê My quay sang người đàn bà. Nhưng ngay lúc đó anh trung sĩ đã ghé vào tai chị nói thầm:
- Trường hợp này chúng tôi đã theo dõi ả suốt một tháng nay. Ả là một gái điếm chuyên nghiệp vẫn hành nghề ở khu vực công viên...
Lê My khoát tay cho anh trung sĩ, tỏ ý đã hiểu mọi chuyện. Chị nhìn thẳng vào mặt người đàn bà và bỗng nhắm mắt lại một giây như cố lục tìm trong kí ức một hình ảnh nào đó mà chị đã gặp lâu lắm rồi. Ở đâu nhỉ? Ta đã gặp người đàn bà này ở đâu rồi nhỉ? - Lê My tự hỏi mình. Một gương mặt trái xoan với đôi mắt đen láy, cái mũi tẹt và đôi môi dầy. Và kìa, một nốt ruồi lớn ngay giữa nhân trung...
- Quê phải không? - Đột nhiên Lê My bỗng bật ra một câu hỏi. Dường như đó là cái câu bật ra từ tiềm thức của chị, trong cái bộ nhớ không hẳn là của nghề nghiệp mà là của thiên bẩm phụ nữ, một thứ thiên bẩm chỉ có được ở những người có một trái tim dễ rung động, một tấm lòng vị tha và nhân đạo.
Người đàn bà bỗng run bắn lên như vừa bị bàn tay vô hình nào đó bóp nghẹt trái tim mình. Đã mười năm rồi, đây là lần đầu tiên có người gọi đúng cái tên cúng cơm của thị. Cái tên trìu mến suốt một thời thơ ấu, cái tên gắn bó với cái làng nhỏ bên bờ sông Đáy, với ngôi trường làng có cây phượng vĩ già thường trổ bông rất muộn sau mỗi mùa hè. Đúng, mười năm rồi, cái tên ấy đã chết. Cả làng quê của thị người ta cũng đã quên nó đi rồi, hoặc giả nếu có ai nhắc đến thì đó cũng chỉ là tín hiệu của một sự điếm nhục, một vết nhơ mà làng cần phải tẩy rửa. Đào Thị Quê - cái tên ấy đã bị khai tử mười năm rồi. Mười năm nay thị cũng không về làng. Thị có thêm bao nhiêu cái tên mới: Quế, Quỳnh, Quy, Quyên... Những cái tên na ná với tên Quê, nhưng đã mang cái dáng dấp thị thành, đã hoàn toàn nhiễm cái chất thập thành.
- Không. Tên em không phải thế. Em van chị - Thị bỗng khuỵu hai chân xuống, quay về phía Lê My và chắp hai tay trước ngực. Chính thị là người phát hiện ra Lê My đầu tiên, ngay từ lúc bước chân vào phòng. Có những con người mà cả cuộc đời ta sẽ không thể nào quên được dù chỉ gặp một lần. Với thị, Lê My chính là người như thế. Chị ấy vẫn như xưa, vẫn như mười năm về trước. Có khác chăng là những nếp nhăn ở đuôi mắt mau và sâu hơn. Ôi giá như vạt đất dưới chân Quê bỗng sập xuống, chôn vùi Quê đi để cho Quê không phải nhìn thấy chị. Giá như trước mặt Lê My, Quê chỉ có duy nhất cái tâm trạng của một tội nhân trước quan toà. Nhưng cuộc đời thật trớ trêu và tàn nhẫn quá. Mười năm Quê trốn chạy, trốn chạy một cách chui lủi và đê tiện, vậy mà giờ đây Quê vẫn không trốn thoát được ân nhân của mình. Cuộc đời Quê, từ cái năm đầy cay đắng và khổ ải ấy, Quê sợ nhất là phải gặp lại những người tốt, những người từng cưu mang và mong muốn cho mình thực sự được sống với ý nghĩa con người.
Dường như Lê My đã đọc được những ý nghĩ trong đầu người đàn bà. Chị nói với đồng chí trung sĩ:
- Đồng chí đưa chị ấy sang phòng bên. Tôi sẽ làm việc với chị ta sau.
Còn lại gã lái trâu trong phòng. Gã cuống quít xoa hai bàn tay xương xẩu như những khúc rễ tre vào nhau và lắp bắp cái giọng khan đặc thuốc lào:
- Báo cáo đồng chí. Không, xin lỗi. Kính thưa chị... Tôi trót dại... Tôi đi mua trâu cho hợp tác xã... Vụ rét vừa qua, chúng tôi bị chết nhiều trâu quá. Nghe nói ở đây có nhiều dịch vụ mát xoa. Chúng tôi quê mùa, quanh năm bùn đất phân gio... Nhân chuyến đi công tác, tôi cũng muốn biết cái văn minh của...
Mặc dù mấy lần cố kìm lại, nhưng Lê My cũng không thể kìm nổi tiếng cười.
- Văn minh ư? Chính anh đã góp phần giết chết cái nền văn minh của thành phố... Chúng tôi bắt buộc phải gửi công văn về địa phương...
- Em van chị... Em xin chị... Chị làm thế thì sinh mạng chính trị của em coi như hết. Ở địa phương, em là người có uy tín và lý lịch trong sạch. Vụ khoán vừa rồi, hợp tác giảm biên chế đến hai phần ba cán bộ, nhưng em vẫn được đảng uỷ và nhân dân tín nhiệm giữ lại. Đời em chỉ trót dại một lần này thôi. Em xin hứa... Em nguyện sẽ phấn đấu... Em xin chịu phạt vi cảnh, bao nhiêu cũng được. Chỉ xin các đồng chí đừng gửi công văn về xã.
Gã vừa nói vừa mếu máo. Gương mặt gã dúm dó lại. Trong đôi mắt gã vừa có sự hoảng loạn vừa có nỗi ăn năn thành khẩn.
Lê My chống tay lên trán thở dài. Chị không muốn nhìn vào mặt gã. Một thằng đàn ông đã có gan đi chơi gái mà sao lại hèn hạ và thảm hại đến thế. Chao ơi, sinh mạng chính trị. Con người như gã mà còn dám nói cái điều ấy bằng cái vẻ mặt và giọng nói đầy cuồng tín và chân thành. Thà rằng gã cứ nói toẹt ra rằng gã bức bí quá, cần được giải toả, có lẽ chị sẽ thương hại gã và đỡ tởm lợm hơn.
- Kính thưa chị, em... - Chừng như thấy những lời nói của mình đã làm người nữ công an mủi lòng, gã xun xoe tiến đến cạnh bàn, lấm lét nhìn xung quanh rồi bất ngờ rút từ trong túi áo ra một xấp tiền năm ngàn mới cứng, đặt lên bàn - Em... có một chút quà nhỏ gửi cho các cháu, mong chị vui lòng...
- Tôi cấm anh... - Lê My bỗng xô ghế đứng dậy. Ánh mắt đượm buồn pha chút chế giễu, chua xót vừa nãy, bỗng sắc lạnh, bừng bừng giận dữ - Chúng tôi sẽ lập biên bản về sự xúc phạm đến cơ quan an ninh của anh.
- Dạ thưa... Em... Em hoàn toàn xuất phát từ lòng quí mến chị - gã lái trâu run bắn, vội vã thu ngay xấp tiền lại.
Lê My không kìm nổi sự khinh bỉ. Chị bỏ vào phòng trong. Gã lái trâu hốt hoảng nhìn quanh quất như cố tìm một lối thoát. Rồi gã lắng tai nghe. Hình như người nữ công an trao đổi một điều gì đó với người lãnh đạo của mình về gã.
Lát sau, Lê My trở lại phòng. Chị đã bình tĩnh trở lại, sự bình tĩnh của một người vô cảm khi bước qua một đống phân rác bên đường.
- Anh có thể về. - Chị nhìn đồng hồ và đưa cho gã giấy tờ - Nhưng trước khi anh đi khỏi đây, tôi cũng cần phải nói với anh mấy lời...
Gã lái trâu vơ vội giấy tờ đút vào túi áo. Rồi như một con chiên trước Chúa, gã thỗn mặt chờ đợi.
- Dạ, xin chị cứ dạy...
- Trước hết, anh bỏ cái kiểu xưng hô khúm núm và hèn hạ ấy đi. Nó không tỏ đúng tư cách một người đàn ông ở tuổi như anh. Tôi biết, trước những người nông dân ở làng quê anh, anh hống hách chẳng kém gì những tên ác bá ngày xưa. Thứ hai, việc chúng tôi tạm tha cho anh về là xuất phát từ việc muốn tạo điều kiện để anh hoàn thành tốt công việc mà hợp tác xã đã giao phó cho anh, chứ hành vi tối nay của anh, với cương vị một người cán bộ đang giữ trọng trách ở hợp tác xã, thì thật không thể tha thứ được. Anh hãy suy ngẫm. Khoá tới này, tốt nhất là anh hãy tự xin thôi việc để làm một gã lái trâu thuần tuý...
Lê My dừng đột ngột. Chị ngán ngẩm quay đi không muốn nói tiếp những điều chị định nói với gã.
- Dạ.. Em xin nghe lời chị... - Hết khoá này em cũng xin nghỉ. Em thấy mình thật không xứng đáng với nhân dân...
Gã bỗng cười nhăn nhở. Cái cười thật tởm lợm khiến Lê My không thể chịu nổi. Chị lấy tay xua gã như xua một con dê già kệch cỡm và vô xỉ.
Chương II
Lê My nhận ra Quê hoàn toàn không phải bằng trí nhớ nghề nghiệp, mặc dù chị đã có mười lăm năm trong ngành, mặc dù chị luôn được cấp trên và đồng nghiệp khen là người có một trí nhớ tuyệt vời. Có những việc, kinh nghiệm nghề nghiệp cũng chẳng giúp gì cho ta được, nếu ta chỉ có một bộ nhớ trống rỗng vô hồn.
Đôi mắt đen láy kia, cái nốt ruồi chính giữa nhân trung kia, như một tín hiệu gọi về trong ký ức Lê My tất cả những gì đã xảy ra mười năm về trước. Ngày ấy My mới hai mươi nhăm tuổi. Một phụ nữ trẻ, xinh đẹp và có phần mảnh mai, mềm yếu như My, lẽ ra phải làm một cái nghề gì đó, như bán hàng, dạy học, hoặc nhân viên du lịch. Việc vào ngành công an, với Lê My, quả là một tình cờ, hoặc giả như một sắp đặt của định mệnh. Nếu như tiêu chuẩn hàng đầu của người chiến sĩ an ninh là phải dũng cảm, nhanh trí, tháo vát, quyết đoán... thì Lê My dường như thiếu hẳn những điều đó. Ở My chỉ có lòng nhân hậu, sự dịu dàng và tận tuỵ, nhưng đức tính dường như chỉ cần thiết cho một người vợ, người mẹ, một người nội trợ.
Vào một buổi sáng, khi Lê My vừa đạp xe đến nhiệm sở thì nhận được lệnh gấp: Chị phải đến ngay khách sạn Tương Lai để điều tra một vụ án mà các chiến sỹ trinh sát vừa khám phá đêm qua.
Nạn nhân bị gây hại chính là Đào Thị Quê, mười sáu tuổi, một cô gái nông thôn vừa ra Hà Nội hai tháng qua.
Khi Lê My đến, cô gái chưa đến tuổi vị thành niên, như người bị bệnh tâm thần phân liệt, nghĩa là cô không nhớ gì hết, có lúc cô lả đi như vừa bị một liều thuốc ngủ quá mạnh, có lúc cô bỗng hết toáng lên chạy bổ vào một góc nhà hoặc gậm giường, góc tủ, đầy vẻ hoảng loạn. Hồ sơ của vụ án mà Lê My được bàn giao lại chỉ là mấy dòng hết sức sơ sài:
"- Nạn nhân: một cô gái chừng mười lăm, mười sáu tuổi. Không rõ tên. Không rõ quê quán.
- Địa điểm xẩy ra vụ án: Phòng số 17, tầng 3, khách sạn Tương Lai.
- Hiện trường khi phát hiện vụ án: Cửa phòng khoá trái. Nạn nhân bị giam và bị bỏ đói ít nhất đã hai ngày. Chăn đệm trong phòng bị nhàu nát, có vết máu. Nạn nhân trong trạng thái đói lả và hôn mê.
- Các hung thủ đã bỏ trốn, không để lại vết tích gì.
- Trinh sát đang tích cực và khẩn trương truy tìm các thủ phạm..."
Lần đầu tiên sau năm năm trong nghề Lê My được giao một nhiệm vụ hoàn toàn phù hợp với tính cách và phẩm chất con người chị. Chị vừa làm công việc của một bác sĩ đối với bệnh nhân, vừa là người chị đối với đứa em gái bé bỏng, vừa làm một trạng sư tiếp cận những cứ liệu chân thực để chuẩn bị bào chữa cho bị can. Căn phòng riêng, biệt lập của bệnh viện ngành chỉ có Lê My, một nữ bác sĩ và cô gái tội nghiệp.
Ngày thứ ba, cô gái đã tỉnh táo trở lại. Cô gục đầu vào lòng Lê My khóc như một đứa trẻ, và kể lại cho chị nghe tấn bi kịch đau lòng mà cô vừa trải qua.
☆☆☆
Vừa học hết lớp bẩy thì Quê phải nghỉ học, vì nhà quá đông anh chị em. Mẹ Quê, một người đàn bà nhỏ bé, gầy quắt queo nhưng lại mắn đẻ như gà. Bà đẻ một lèo mười một lần, bỏ đi ba, còn lại tám người con. Anh con trai cả, mười bảy tuổi đã xung phong đi bộ đội, vào chiến trường hai năm thì có giấy báo tử. Ngay năm ấy, anh thứ hai lại khoác ba lô lên đường. Đi được ba tháng, ông bố lên đơn vị xin cho anh về phép, với lý do bà mẹ vừa đẻ đứa thứ mười một bị hậu sản sắp chết. Kỳ thực là ông bà lo thằng Hai không có người chống gậy, phải dấm dúi giấu đơn vị cưới vội cho anh một cô vợ. Cưới xong ba ngày anh phải đi trả phép, rồi biền biệt vào chiến trường bốn năm không có một mẩu thư từ. Oái oăm thay, sau đúng một năm ngày anh về cưới vợ, cô vợ trẻ măng và mũm mỉm của anh đẻ một thằng cu "chống gậy". Thằng bé giống lão chủ nhiệm thọt như lột. Cả làng ai cũng bảo thế. "Ông bà nội" nó cũng biết thế, nhưng đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt, cắn răng không dám hé nửa lời. Bởi ngày ấy, ông chủ nhiệm có uy thế lắm. Chỉ cần hé lộ tư tưởng chống đối là bị cắt phần lương thực điều hoà, bị điều đi làm những việc ít công điểm, thậm chí bị khép tội bôi xấu chế độ, bôi xấu cán bộ, tiếp tay cho địch. Quê vừa đi học, vừa phải nuôi một xuất trâu, vừa phải vẹo xương sườn bế thằng con cho ông chủ nhiệm thọt.
Một hôm vào buổi chiều, khi Quê vừa bế thằng cháu vừa thả trâu ở rìa làng thì gặp ông chủ nhiệm thọt đi họp trên huyện về. Trông thấy hai cô cháu, ông vội nhảy đại xuống xe.
- Này Quê, bế cháu vào đây bác bảo - Ông dựa xe vào đống rạ cạnh đường, vẫy tay gọi Quê lại.
Cô bé sợ sệt nhưng không dám trái lời. Có lẽ lúc ấy một phần do cái oai của ông chủ nhiệm, một phần vì trời đã ngả chiều mà rìa làng lại vắng vẻ quá. Nhưng có lẽ cũng một phần do cái tính tò mò trẻ con. Thử xem ông ấy đối xử với thằng cu ra sao? Thử xem thằng cu nó có "theo" ông ấy không?
- Đây, bác có quà cho hai cô cháu - Ông chủ nhiệm thò tay vào túi áo lôi ra một gói kẹo giấy bóng kính óng ánh. Mắt hai cô cháu cùng sáng rực. Lần đầu trong đời Quê được nhìn thấy một gói kẹo ngoại hấp dẫn đến thế. Ông chủ nhiệm dí sát gói kẹo vào tay thằng cu, nhưng nó sợ, cứ ôm chặt lấy cổ Quê.
- Nào, ra đây bác bế một cái, thằng cu ngoan nào - Ông chủ nhiệm dỗ dành, mặt ông đờ ra, đôi mắt ngấn ướt. Lúc ấy Quê cảm thấy rất rõ những thớ thịt trên gương mặt ông giật giật, bàn tay ông run rẩy. Rõ ràng ông đang xúc động, một nỗi xúc động bản năng bị câu thúc bởi mối liên hệ huyền bí nào đó.
- Kìa cu, bác chủ nhiệm mà - Quê nghiêng người, như đẩy thằng bé về phía ông chủ nhiệm. Cô có ý khuyến khích nó bởi cái vẻ mặt đầy cầu khẩn và xúc động của ông, và cũng bởi cả gói kẹo nhiều mầu sắc hấp dẫn ở tay ông nữa.
Ông chủ nhiệm choàng tay ôm lấy thằng bé. Vòng tay của ông thật dài, thật rộng, đến nỗi ông ôm cả hai cô cháu lọt thỏm vào lòng. Ông áp bộ mặt đầy râu vào cổ thằng bé, áp cả cái miệng đầy răng vào mặt cô nó. Rồi một bàn tay của ông không hiểu vô tình hay cố ý thả trượt từ vai thằng bé xuống vai Quê, rồi ngực Quê. Cái bàn tay rộng và run rẩy cứ xoa vuốt mãi quanh chiếc vú chũm cau của cô bé mười ba tuổi khiến tim cô cứ nhảy tưng tưng dưới bàn tay ông. Cô choáng ngợp trong nỗi sợ hãi, cô bàng hoàng trong một cảm giác khác lạ mà trước đó chưa bao giờ cô thấy ở mình. Vạt áo mỏng nơi ngực như nóng ran lên, như có thể bốc cháy được. Rồi bàn tay của ông lần sâu xuống dưới, chà sát vào eo cô, vào bụng cô. Những ngón tay như những con rắn vừa mềm mại vừa cứng cáp trườn vặn khắp da thịt cô bé...
Sau này, khi đã trở thành đàn bà, khi đã lang chạ với đủ các hạng người, nhớ lại cảm giác buổi chiều đó, Quê đã tự thú với mình rằng đó là lần đầu tiên trong đời cái khát vọng tình dục trong cô đã được đánh thức. Đánh thức từ ngay cái tuổi mười ba đầy biến động của đời thiếu nữ. Và ông chủ nhiệm thọt, như hiện thân của ma quỷ đã vùi sẵn trong cô ngọn lửa ma quái sẵn sàng thiêu đốt cả thân xác và cuộc đời cô.
Cái buổi chiều đó như dấu hiệu của một định mệnh, để rồi ba năm sau, ở tuổi mười sáu, Quê đã phải bước vào phòng số 17 tầng 3 của khách sạn Tương Lai như một gái lầu xanh.
Cái năm Quê mười sáu tuổi ấy, cô đã có vóc dáng của một thiếu nữ dậy thì. Nhiều anh trai làng mười bẩy, mười tám, mặt non choẹt, râu tơ mép lún phún gặp Quê đã mắt tròn mắt dẹt. Giá như năm ấy mẹ Quê không bị mất đột ngột, giá như năm ấy anh Hai cô không bị tâm thần vì chấn thương sọ não từ chiến trường và bố cô không bị ốm ho ra máu vì vụ tranh chấp mảnh ruộng phần trăm với lão Tẻo chột ở xóm Hạ thì đời Quê có thể đã hanh thông, đã như bao thiếu nữ khác ở làng, đến tuổi lấy chồng, rồi sinh con đẻ cái, rồi trở thành gái xề, trở thành một bà nông dân như bao cuộc đời lầm lũi mà yên ổn ở làng quê.
Cái năm ấy là một năm tai hoạ. Cả làng mặt xanh xạm vì đói. Người ta ùn ùn kéo nhau lên Bắc Thái, Tuyên Quang mua sắn. Người ta bán lúa non cho người giàu. Có người đói quá đành vuốt nước mắt đưa con đến ở nhà người. Gia cảnh nhà Quê còn thảm hại gấp bội. Chủ nhiệm thọt tham ô, tếch vào Lâm Đồng, mang theo cả cô chị dâu quí hoá của Quê cùng "thằng cháu đích tôn". Anh Hai thỉnh thoảng phát bệnh tâm thần lại vác dao phay lên văn phòng hợp tác xã tìm thằng chủ nhiệm thọt "để xin hai hòn về nhắm rượu".
Thật may, đúng lúc cả nhà đang sống dở chết dở thì ông chú họ Quê về làng. Ông làm chức gì không biết, nhưng bao giờ về làng cũng đi một chiếc Maxcơvich màu đỏ chói. Trước kia ông đã từng lấy một cô vợ ở nhà quê, nhưng rồi bỏ. Năm mươi tuổi ông đi bước nữa, lấy một cô vợ trẻ măng, tuổi chỉ bằng cô con gái lớn của ông. Cô vợ trẻ vừa đẻ cho ông một cậu con trai. Ông về làng để tìm một người ra giặt giũ, cơm nước. Thế là Quê trở thành một con sen theo đúng cái nghĩa của thời Tây.
Căn nhà ấy vốn là một ngôi biệt thự của một tên chủ Pháp. Một ngôi nhà kiến trúc gôtích, hai tầng, có gara ô tô, các phòng lát sàn gỗ lim, có lò sưởi cổ, có hàng rào sắt bao quanh. Suốt một tuần đầu, như một cô bé lẩn thẩn, những lúc bà thím ngủ hoặc bế con, cô lại dò dẫm đi khắp lượt các phòng, các xó xỉnh để sờ mó, ngắm nghía. Nỗi sợ nhất khiến cho cuộc "thám hiểm" cái thế giới đầy lạ lẫm và bí ẩn đối với cô luôn bị chậm lại là con chó bécgiê cao to như con bê mộng mà ông chú hết sức cưng chiều. Con chó trung thành với chủ đến mức mấy ngày đầu cô không dám cầm một cái xoong, cái rổ ra khỏi bếp, không dám cầm một vật bất kỳ nào ra ngoài cổng. Được cái ông chú là người rất yêu chiều vợ, nên thấy cô hiền lành, tận tuỵ, ông cũng quí mến.
Một tháng liền Quê không hề bước ra khỏi ngôi biệt thự ấy. Công việc của cô là giặt giũ, lau quét nhà, nấu cơm và bế con cho bà thím đi chợ. Tuổi mười sáu, được ăn uống đầy đủ, không phải chân lấm tay bùn, cô thiếu nữ nhà quê thay da đổi thịt rất nhanh. Cô đẹp ra, trắng mũm mĩm, mông, vú mây mẩy đến mức ông chú họ những lúc đi làm về, chợt thấy cũng phải sững sờ.
Đừng có ai nghi ngờ về sự trong sáng của ông chú họ Quê. Ông là người cách mạng và ông đang thăng tiến. Vả lại bà vợ trẻ của ông như một con sư tử cái đang nằm ở cữ. Bà nằm với cậu ấm trên chiếc giường đệm mút trong căn phòng sang trọng, nhưng tai mắt, nanh vuốt đã để ở khắp mọi nơi, kể cả nhiệm sở và những nơi đi lại của đức ông chồng.
Thảm kịch bắt đầu từ cái ý thích oái oăm của bà thím đang ở cữ. Bà chủ thích ăn bánh cuốn, nhưng không phải là thứ bánh cuốn ngoài chợ. Cả thành phố, theo bà, chỉ có bánh cuốn của hàng bà Cả Lợi trên đầu dốc Yên Phụ mới là loại thứ thiệt. Ngồi xổm trên ghế cạnh chiếc lò than, đợi từng chiếc bánh cuốn mỏng tang có nhân thịt hành mỡ, nóng hôi hổi, rồi chấm với nước mắm cà cuống Hồ Tây, ăn kèm thêm với chiếc giò lụa nhỏ bằng ngón tay cái, mềm sựt, thơm ngậy.... thì thật là tuyệt. Hai tháng không đi ra phố, bà thím thấy nhớ cái vị bánh cuốn ấy ghê gớm, nỗi nhớ thật là vật chất và cụ thể như những cô gái thị thành vẫn nhớ cái món ốc luộc ở đầu các vỉa hè. Thế là bằng mọi giá bà thím bắt Quê phải đi lên tận dốc Yên Phụ, tìm đến hàng bà Cả Lợi để mua nhân bánh, nước mắm cà cuống, giò lụa và nước bột xay để về tự tay làm món bánh cuốn.
Giá như bà thím đừng quá xót của, cứ đưa hẳn cho Quê chiếc xe Điamant, hoặc giả ông chú chịu khó đèo cháu trên chiếc Vespa của ông thì chỉ một loáng, chắc chắn món bánh cuốn của bà thím đã thành hiện thực.
Nhà giàu thường đi liền với sự keo bẩn. Quê đành phải đi bộ, đi bộ hơn bốn cây số giữa chằng chịt phố xá, đông nghịt người xe. Một cô gái quê lần đầu ra Hà Nội, ngơ ngác, lạ lẫm như bò lạc vào phố, tò mò, háo hức như trẻ con lạc giữa những sạp đồ chơi. Mà dân tỉnh đâu có tận tình chỉ bảo như dân quê. Họ chỉ phải đi lối này lối kia cho xong chuyện. Có những gã con trai còn chơi khăm, bày cách cho Quê đi lung tung để chọc cười.
Quê đi quanh quẩn đến bốn tiếng đồng hồ. Cái dốc Yên Phụ ở phía bắc thì cô lạc hẳn sang phía tây. Cho đến tám giờ tối, khi sực nhớ phải về nhà chịu tội với ông chú, bà thím, thì Quê đã lạc hẳn vào một ngõ hẻm. Cái ngõ hẻm với lờ mờ những bóng điện đỏ quạch, hai dẫy nhà lợp giấy dầu, lợp nứa, nilông, cót ép thò ra thụt vào, xiêu vẹo, như đổ sụp vào nhau. Cống rãnh ngập ngụa, nước chảy từng dòng sền sệt, đen đặc, bốc lên mùi thum thủm của chất hữu cơ và phân người phân lợn chưa phân huỷ. Và những bộ mặt người, những đôi mắt người sao mà lì lợm, nanh nọc và hau háu thế kia.
- A ha, một con bò lạc - Quê nghe văng vẳng tiếng một gã đàn ông nào đó như ục ra từ một cái cổ họng mềm, nhũn hơi men. Mà quả thực, Quê có cảm giác của một con bò lạc đang đụng phải một phường săn. Quê đang định xoay người quay trở lại thì lù lù từ phía sau, năm gã đàn ông tiến tới. Chúng dắt ba chiếc xe đạp từ trong quán rượu đi ra. Cầm đầu là một gã đàn ông trạc tuổi ba mươi nhăm có đôi mắt ti hí và bộ râu ngạnh trê vểnh ngược. Bốn tên kia trạc tuổi ngoài hai mươi, trong đó có một tên bé choắt rất khó đoán tuổi.
- Này cô em, tìm nhà ai? - Tên râu ngạnh trê ép sát vào người Quê, bàn tay phải cụt hai ngón của gã chộp lấy vai cô bóp mạnh.
Quê như một con cua bấy bị con ếch úp lên mai. Cô rúm người lại. Cô run lẩy bẩy.
- Dạ cháu... lên dốc... Phụ... À không phải. Cháu về phố Bà Triệu...
- Hớ hớ... Lên dốc Phụ... thì cho lên dốc chính... Này em, các anh đây sẽ đưa em về nhà. Các anh là người tử tế. Biết em ở quê ra, thương lắm - Tên bé choắt vuốt má Quê, rồi đưa mắt cho tên cầm đầu. Không cần nói mà chúng đã hiểu ý nhau.
- Đi vòm hay đi hô-ten-đờ-công viên? - Một đứa hỏi bâng quơ.
- Hô-ten thứ thiệt chứ công viên gì. Non mềm ngang với chén thịt bê thui...
- Thôi, lên xe đi cô em. Bọn anh sẽ hộ tống cô em về tận nhà. Cứ nhìn mặt các anh xem, các anh là người tử tế. Các anh không muốn em đi bộ trong cái ngõ hẻm này, nguy hiểm lắm...
Bốn gã trẻ lên hai xe, còn gã râu trê luồn bàn tay ba ngón qua eo Quê ép cô lên gác ba ga.
Quê không còn kịp phản ứng gì. Cô như bị bắt mất hồn, như con mồi bị lùa vào bẫy, hốt hoảng và răm rắp làm theo như một cái máy. Năm gã đàn ông đưa Quê lòng vòng qua những phố hẻm như để cố kéo dài thời gian. Cho tới mười giờ tối thì cả bọn kéo tới khách sạn Tương Lai.
Người thường trực khách sạn hình như đã quá quen thuộc với những loại khách dạng này. Khách sạn được đầu tư để đón tiếp những người khách trẻ tuổi cả nước, năm tầng, phòng ốc rộng thênh thang, nhưng hoạ hoằn lắm vào những dịp hội hè mới có người, còn suốt tháng đóng cửa im ỉm. Ở nơi khuất nẻo, lại vắng khách, nên thu nhập của các nhân viên ngoài lương cơ bản ra thường không có gì. Bởi thế người ta mới nghĩ ra sáng kiến cho các khách vãng lai thuê phòng, đấm dúi chia nhau tiền buồng, tiền puốc-boa. Ban đầu là các khách đứng đắn, có giấy tờ nghiêm chỉnh, sau dần phát triển đến các khách tạp nham, muốn sử dụng khách sạn như một vòm chứa.
- Này chiến hữu, giành cho một buồng. - Trong khi tên râu ngạnh trê lai Quê phóng thốc qua cửa bảo vệ vào một góc tối, hai tay trẻ tuổi tiến thẳng đến cửa bảo vệ, vừa nói với người thường trực, vừa dúi vào tay anh ta một xấp tiền - Không phải đếm chác gì cả. Chơi với bọn này bao giờ cũng có màu. Chẵn một bách đấy.
Thế là căn phòng 17 tầng 3 thành một cái ổ quỷ. Thảm thương thay cô gái quê mười sáu tuổi đã bị năm thằng đàn ông thay nhau hành lạc. Gần sáng, cô như một cái xác, loã lồ, nằm mê man trên chiếc nệm nhàu nát, không biết gì.
Chương III
Sao cuộc đời lại có những người tàn ác và đểu giả đến thế. Không, chúng chẳng còn là người nữa mà chỉ còn phần thú tính. Chúng đã hành hạ cô bé mười sáu tuổi với tất cả bản năng thú tính điên cuồng. Bác sỹ phải khâu cho Quê 8 mũi...
Nghe cô bé kể lại tấn thảm kịch, suốt hai đêm liền mình không ngủ được. Phát khóc vì thương cô bé. Cả tiểu đội trinh sát đều căm uất, quyết tìm bằng được thủ phạm...
14 tháng 4.
Đã tìm ra bọn thủ phạm. Cầm đầu là thằng Lanh râu trê, cụt hai ngón tay phải, biệt hiệu là Lanh cụt. Nhìn đôi mắt ti hí của nó, muốn nhổ ngay vào mặt. Lanh cụt đã có ba tiền án, mới được tha từ trại cải tạo về. Bốn đứa kia đều là thanh niên lưu manh, không nghề nghiệp. Những tệ nạn trong thành phố gia tăng trong những năm gần đây đều có nguyên nhân trực tiếp từ tình trạng không có công ăn việc làm và việc quản lý xã hội lỏng lẻo...
18 tháng 4.
Anh đi công tác các tỉnh phía Nam về. Sau gần hai tháng xa, ngập tràn trong hạnh phúc. Anh như một con hổ đói, cuồng nhiệt và dữ dội... Không biết có phải vì xa nhau lâu ngày hay vì đã thu nhận được những kinh nghiệm mới mà anh làm mình vừa... thích thú vừa sợ hãi.
Nằm bên anh, nghe tiếng ngáy đều và bình thản của anh mà mình không thể nào chợp mắt được. Lại nghĩ đến Quê và thương nó vô cùng. Đời con gái của nó thế là hết. Nó sẽ vĩnh viễn không bao giờ có được hạnh phúc, không bao giờ được như mình đây, nằm thanh thản và tin cậy bên một người chồng. Ai dám lấy Quê, nếu sự việc ở khách sạn Tương Lai bị phát giác? Sáng nay, một phóng viên của tờ báo Phụ Nữ đến gặp mình để khai thác tài liệu viết bài. Mình đã phải van vỉ: "Đừng, các đồng chí đừng đưa vụ việc này lên mặt báo. Không phải chúng tôi muốn che đậy một vụ việc tiêu cực, mà điều chủ yếu là muốn bảo vệ tương lai cho cô bé. Chúng ta đừng câu khách, đừng chống tiêu cực bằng cách dập tắt mọi niềm hy vọng sống của con người:. Phải tìm mọi cách xoá đi cái vết đen khủng khiếp trong tương lai của cô bé. Cả ban chuyên án đã bàn bạc kỹ và đề xuất một kế hoạch: Tránh đưa sự việc này ra công luận. Giữ kín tên tuổi và quê quán của cô bé. Tìm cách đưa cô về nhà an toàn và tốt đẹp. Trích quỹ của cơ quan và quyên góp anh em cho cô bé một ít tiền. Nhưng cái chính là làm sao xoá đi nổi trong tâm trí của Quê cái ấn tượng về sự man rợ và khủng khiếp kia?
19 tháng 4.
Nói chuyện với anh về Quê. Ôi, giá như đừng trò chuyện gì với anh về công việc của mình. Anh không hiểu, hay anh cố tình không muốn hiểu.
- Đã dấn thân vào cái nghề công an của em, tốt nhất hãy tạo cho mình có một trái tim sắt. Vô cảm trước mọi sự việc. Chỉ biết tuân thủ pháp luật. Thực thi các công vụ như một cái máy. Tại sao em lại than khóc và quá quan tâm đến thân phận một cô bé bị cưỡng hiếp? Em chỉ mới gặp có một cô bế. Mà cuộc đời này có biết bao nhiêu cô bé đã từng bị hạ nhục như thế. Hãy vào Sài Gòn, hãy vào các tỉnh phía nam, em sẽ gặp hàng nghìn cô gái đang hành nghề tự nguyện chứ không chỉ bị cưỡng hiếp đâu. Phải chấp nhận đó là một nghề nghiệp kiếm sống và sinh nhai, thậm chí đó là một dịch vụ... Ngây thơ và dễ mủi lòng như em thì không thể làm trong nghề công an được đâu.
Tự nhiên anh phát cáu lên và thuyết lý một hồi. Mình không muốn cãi nhau với anh. Thuật ơi, hồi này anh khác lạ nhiều quá. Chính anh đã nhờ ông cậu giúp em vào ngành. Chính anh đã từng khuyên em rằng nghề này, hơn nghề nào hết phải có lòng thương và sự nhân ái cơ mà...
26 tháng 4.
Cơ quan quyết định cử mình đưa Quê về nhà. Ông chú và bà thím quí hoá khi biết sự thật về những ngày "mất tích" của cô cháu gái đã một mực thoái thác không muốn đưa Quê về trả lại gia đình. Họ sợ liên đới. Họ muốn rũ bỏ trách nhiệm.
Buồn quá. Trước ngày đi, hai vợ chồng lại cãi nhau. Lần đầu tiên sau ba năm chung sống anh đã bộc lộ hết tính cách gia trưởng và độc đoán của mình.
- Cô nên để cho người khác làm việc này thì hơn. Đừng có ôm rơm rặm bùng, cầm đèn chạy trước ô tô. Cái nghề này chẳng cần phải phấn đấu như thế đâu. Trước sau rồi người ta cũng phải kết nạp cô vào Đảng. Các cô là công cụ của chính quyền cơ mà...
- Nhưng mà việc này, anh xem, còn ai có thể đi hợp lý hơn em... Vả lại em cũng muốn biết hoàn cảnh gia đình cô bé...
- Biết để quàng vào cổ à? Khôn ra thì cô phải biết tránh xa những cái trò hiếu hỷ vớ vẩn thế này. Gắn vào với con bé ấy có khi nó vận vào mình. Suốt mấy đêm không ngủ, người thì rộc đi thế kia. Mà cô cũng phải nghĩ đến cái thân tôi nữa chứ. Chồng đi công tác xa về mà vợ cứ đi biền biệt. Rồi còn thương khóc những đứa dở hơi.
- Nhưng mà em chỉ đi có hai ngày...
- Hai ngày hay hai năm cũng thế... Tôi chán cái nghề đi đêm về hôm của cô lắm rồi. Thôi, nghỉ việc cho khoẻ. Tôi sẽ kiếm cho cô một nghề nghiệp khác. Một thằng chồng như tôi không đến nỗi để cô đói rách đâu...
- Anh Thuật, em có than phiền gì về nghề nghiệp của em đâu. Đây là công việc. Mà cũng vì lương tâm nữa. Em muốn chính em đưa cô bé về nhà. Giá anh gặp nó, anh cũng sẽ xót thương. Mới mười sáu tuổi...
- Mười sáu tuổi mà dám ngủ với năm thằng một lúc... Không có chuyện cưỡng bức đâu. Cũng chỉ là một cách làm tiền quá tham lam mà thôi...
- Anh Thuật, không ngờ anh nhẫn tâm đến thế...
Mình khóc. Thế là suốt đêm, kẻ quay mặt vào tường, người nằm xoay ra ngoài. Anh nói một thôi nữa, thấy mình không đối đáp lại lời nào thì quay ra ngủ. Những tiếng ngáy đều và bình thản khiến mình kinh ngạc. Anh là người vô tâm hay nhẫn tâm?
...
☆☆☆
Những trang nhật ký của mười năm về trước vẫn còn nằm yên trong đáy tủ. Lê My cố tránh không giở lại. Tránh, để khỏi chạm vào những ký ức đau xót một thời, nhưng dường như chị vẫn nhớ như in, dường như chị ghi chúng ở trong óc mình, chỉ cần chạm vào cái cụm tế bào ấy là sẽ nhớ lại từng dòng, từng chữ.
Sáng hôm sau, Lê My dậy thật sớm, đến bệnh viện ngành để đưa Quê về nhà. Đơn vị có xe con, nhưng thủ trưởng quyết định hai chị em phải đi xe khách. Lê My đóng vai một người cháu họ của bà thím Quê, mặc quần lụa đen, áo sơ mi trắng. Trước đó các đồng chí lãnh đạo của My cũng đã làm việc với ông chú bà thím, đề nghị viết sẵn cho ông bố Quê một lá thư nói rằng do có bà ngoại ở dưới Hải Phòng lên trông cháu giúp nên tạm đưa Quê về nhà giúp đỡ gia đình trong mùa gặt hái sắp tới.
Hai chị em về làng trong một buổi chiều nắng quái. Lúa đồng đang kỳ uốn câu, lác đác có những vạt hanh vàng. Chỉ gần tháng nữa sẽ bắt đầu mùa gặt.
Nhưng cái đói dường như đã truy đuổi từng người dân suốt từ những ngày giáp tết năm trước. My bắt gặp những bộ mặt xanh tái vì thiếu ăn, những căn nhà trống trơn bên đường, những con trâu gầy dơ xương, những con chó nằm thoi thóp thở. Làng Quê đang vật vã trườn qua vụ đói tháng ba. Cái làng của Quê sao cũng giống như cái làng của My ở vùng ven đê sông Luộc. Những bụi tre gầy khẳng khuyu, những ao bèo lưu cữu, những mái nhà tranh chen chúc bên những đống rơm rạ cuối mùa chỉ còn vón lại một phần chỏm ở trên cao.
Chớm đến đầu làng, nơi trụ ở của hợp tác xã, tự nhiên Quê bỗng rúm người lại, ôm chầm lấy My. My nhận ra một người đàn ông cao vóng, đen đủi, đầu đội chiếc mũ mềm bộ đội, áo quân phục mầu cỏ úa còn mới, nhưng mặc quần đùi. Chiếc quần bộ đội nhàu nát quấn lấy cổ, buông thõng đũng quần xuống lưng, như chiếc ba lô, ngang lưng thắt chiếc xanh tuya bạt Mỹ, dắt một khẩu súng lục bằng bẹ chuối.
Quây giữa người đàn ông là một lũ trẻ vừa trai vừa gái. Chúng vừa hò hét trêu ghẹo, vừa bày trò cho anh ta để đùa chơi. Rất tự nhiên, người đàn ông bỗng vạch quần đái vọt xuống mặt ao.
- Ông đái vào trụ sở của chúng mày xem làm gì được ông? Chúng mày đểu. Lừa ông đi bộ đội để thằng chủ nhiệm thọt ở nhà nó hiếp vợ ông. Đã thế thì ông đái vào mặt thằng Thọt. Đây, trông đây. Như pháo Vua chiến trường 155ly. Vút... vút... vút. Thằng nào dám phản pháo thì ra đây. Ông cóc sợ. Bọn Mẽo còn sợ ông bằng phép. Ông vẫn tiếp tục chiến đấu. Ha ha... Đái cho thằng Thọt ở dưới bùn ao kia phải ngoi lên.
Bọn trẻ cùng vỗ tay hò reo. Mấy đứa con gái ra vẻ xấu hổ, quay mặt đi, nhưng thỉnh thoảng lại cứ ngoái lại, bấm nhau cười.
- Anh Hai em! - Quê thảng thốt kêu lên và bỗng oà khóc.
Lê My chợt hiểu ra. Trong lời khai của Quê có nói tới một ông anh đi bộ đội về bị mắc bệnh tâm thần. Biết vậy mà chính Lê My cũng hoảng sợ, khi anh Hai tâm thần chợt chạy túa về phía chị, tay rút khẩu súng bằng bẹ chuối huơ lên:
- Ê, các cô kia. Có thấy thằng chủ nhiệm thọt nó ở đâu không. Tôi phải xin hai hòn của nó nhắm rượu...
Hơn chục đứa trẻ lẽo đẽo chạy theo, hùa nhau khích lệ:
- Cứ túm lấy hai cô ấy, không có hòn thì cũng có chỉ đấy anh Hai ạ.
Nhưng rồi tất cả bọn chúng và cả anh Hai đều sững lại khi nhận ra Quê. Anh Hai buông thõng khẩu súng bẹ chuối xuống, tay kia đưa lên gãi đầu.
Quê đứng thần người nhìn anh trai mình một lát, nước mắt lã chã. Rồi, cô bỗng vụt trở nên cứng cỏi, như thể chính cô chứ không phải ai khác phải đứng ra dàn xếp tấn bi hài kịch này.
- Anh Hai, em đây mà. Thôi, anh về nhà đi. Đừng đi lang thang như thế này nữa, khổ lắm..., - Vừa nói Quê vừa đưa tay gỡ chiếc quần từ cổ anh xuống - Anh mặc quần vào đi. Và bỏ cái khẩu súng chết tiệt này đi. Súng đạn bao nhiêu năm làm khổ anh chưa đủ hay sao?
Quê lôi anh đi tuồn tuột và ra hiệu cho My cùng đi theo mình.
- Nhà có khách đấy anh Hai ạ. Đừng để chị My chị ấy cười cho... Kìa chúng mày, đi theo làm cái gì? Anh Hai tao chứ có phải người từ trên trời rơi xuống đâu?
Anh Hai liếc nhìn My tủm tỉm cười, một nụ cười nửa hiền lành e thẹn, nửa ngây dại.
Suốt từ đó, một nỗi buồn cứ đè nặng trong lòng My. Cho đến khi Quê đưa chị về nhà, nhìn thấy một căn nhà lợp rạ trống hoác, một ông bố gầy dơ xương, lúc nào cũng ôm ngực ho rũ rượi, bốn đứa em hốc hác, bẩn thỉu, My đã phải lén ra đầu hè đưa khăn lên chấm nước mắt.
Bữa cơm đãi khách chiều hôm ấy, chính Quê đã phải vác rá chạy sang nhà hàng xóm vay gạo. Dường như trong căn nhà này lâu lắm rồi người ta chưa được ăn một bữa cơm không độn, chưa được thấy một miếng thịt, miếng cá. Đói và mệt, nhưng My không thể nào ăn nổi. Và một miếng cơm từ đầu bữa mà cổ cứ nghẹn lại, miếng cơm đắng ngắt.
Nếu như những ngày trước đây My thương xót Quê theo cái nghĩa của người cùng giới tính, thương cho một đứa trẻ chưa đến tuổi vị thành niên mà đã bị bọn đàn ông đểu cáng làm hại cả một đời thiếu nữ, thì bây giờ, tại căn nhà của cô, với tất cả hoàn cảnh éo le và gánh nặng gia đình sắp đè nặng lên vai cô, từ đáy lòng, My thực sự thương yêu Quê như một người chị gái thương đứa em ruột thịt. Thương, nhưng đồng thời My cũng rất đỗi cảm phục và tin cậy. Cái cô bé Quê ngờ nghệch, khờ dại và có phần đần độn, lạc lõng giữa cái biển người thành phố đầy bất trắc, giờ không còn nữa. Thay vào đó là một cô bé Quê tháo vát, đảm đang rất là người lớn. Cô sai bảo bọn trẻ con quét dọn nhà vửa, tất bật gánh nước, dọn dẹp, nấu cơm, tắm rửa cho các em.
Buổi tối, biết tin Quê về, bà con thân thích lục tục đến thăm. Không ai biết cái lý do vì sao mà Lê My lại đưa Quê về. Nhìn thấy Quê béo trắng, đẫy đà, ai cũng trầm trồ khen đất thành phố thật khéo nuôi người.
- Bác đến để mừng cho mày - Một bà to béo vừa nhổ toẹt bãi quết trầu, vừa đảo mắt nhìn Quê và nhìn My - Thấy cháu về bác mừng quá. Về để gặt hái đỡ đần cho bố mày, anh mày. Với lại cháu về đợt này là chí phải. Nhà bác hồi này chẳng còn hột lúa nào nữa. Hồi mồ ma mẹ mày tao giúp hai thùng thóc. Giá như người ta thì cứ tính lãi chẻ hoe hai mươi phân. Nhưng chỗ bác cháu, lọt sàng xuống nia, tao chỉ lấy mười phân thôi. Cháu xem, có ít tiền nào đỡ cho bác, chứ thời buổi này, cám cảnh lắm... Người đàn bà cố thở dài đánh thượt, rồi tự nhiên lấy vạt áo lau mắt. Mà bà ta khóc thật. Những giọt nước mắt to như hạt ngô lăn dài trên má.
Tiếp đến là một bà cô, rồi một bà mợ. Tất cả đều nói một giọng điệu giống nhau, thắm thiết và tình cảm, nhưng cuối cùng đều chốt lại cái ý chính là đòi nợ.
Quê móc trong túi áo của mình ra một gói tiền. Đó là tiền công ở và tiền "bồi thường tai nạn" mà ông chú bà thím cho cô trước khi Lê My đưa cô về nhà. Số tiền tổng cộng được bốn trăm năm mươi hai đồng, bằng sáu tháng lương một cán bộ trung cấp hồi ấy.
- Cháu không có nhiều tiền... Các bác, các dì, các mợ cầm tạm phần vốn... - Quê đưa tiền cho những người bà con đáng quí mà mặt méo xệch trông đến thảm hại.
Ôi, giá như My có thể giúp Quê phần nào trong cái giờ phút cam go này. My ước ao giá mình trở thành triệu phú, có thật nhiều tiền. My sẽ trang trải hết cả nợ nần cho Quê và giúp Quê một ít vốn để làm giàu. Về đến cái vùng quê nghèo này, My mới hiểu rằng, sự trinh trắng, lòng thuỷ chung, danh dự... chỉ là những mỹ từ vô bổ. Chỉ cần có thật nhiều tiền người ta sẽ làm biến dạng và thay đổi tất cả. Có tiền, không những Quê có thể khoả lấp cái vụ tai tiếng vừa qua, nếu như nó bị vỡ lở, mà có thể Quê còn kiếm được một tấm chồng danh giá trong làng... Nhưng khốn thay, cả hai thứ đó Quê đều không có. Cái gánh nặng gia đình bắt đầu kéo trĩu cô xuống, còn cái tai tiếng tày đình kia thì đang treo lơ lửng trên đầu cô, không biết nó sẽ bất thần đổ ập xuống lúc nào.
Trước khi chia tay Quê, Lê My kéo cô ra góc phản, để trước mặt cô hai gói tiền và bảo:
- Đây là tiền của anh em trong cơ quan chị. Còn đây là tiền riêng của chị. Của ít lòng nhiều, em cứ cầm lấy mà lo giúp gia đình...
- Không, chị ơi, các anh chị tốt với em thế đủ rồi... Em không dám nhận đâu - Quê nhìn hai gói tiền, như thể cô không dám tin ở mắt mình.
- Lòng tốt đâu tính được bằng tiền bạc. Nhưng quả thực lúc này, với em, tiền bạc là điều thiết thực nhất của lòng tốt. Chị chỉ tiếc rằng mình chẳng giàu có gì... Em hãy gắng tiết kiệm và làm lụng để giúp gia đình. Nếu có dịp nào ra thành phố... Mà thôi, em đừng ra đó nữa. Có thể chị sẽ về thăm em... Chị em mình sẽ còn gặp nhau mà...
My khóc. Cả hai chị em cùng khóc. Những giọt nước mắt của lòng cảm thông và yêu thương thực sự.
- Nhất định em sẽ gặp chị. Dù thế nào đi nữa chị cũng đừng bỏ em, chị nhé...
Đó là những lời Quê nói khi hai chị em chia tay nhau ở gốc đa đầu làng. Lên đến đầu đê, My còn ngoái nhìn trở lại. Cô gái vẫn đứng đó. Cái bóng nhỏ bé của cô như bị vòm đa xùm xoà nuốt lấy, trùm lên, trông thật đơn côi, tội nghiệp.
Chương IV
Mới đó mà đã mười năm.
“Nhất định em sẽ gặp chị.” Chao ơi, câu nói của Quê buổi chia tay chiều ấy không ngờ lại ứng nghiệm như một định mệnh. Không ngờ Lê My đã gặp Quê trong một cảnh ngộ trớ trêu như thế này ư? Quê tàn tạ đi nhiều quá. Giá như không có cái nốt ruồi ở nhân trung kia, có khi My đã không nhận ra. Mà thà như thế lại đỡ đau khổ cho My hơn. My sẽ coi Quê như hàng trăm cô gái điếm chị đã gặp, sau một buổi hỏi cung, cảnh cáo mấy lời, rồi lại thả thị trở về cái thế giới rác rưởi của thị. Làm sao cưu mang xuể những cô gái coi xác thịt của mình như một thứ hàng hoá để nuôi thân.
Nhưng Lê My không thể thản nhiên thờ ơ khi trót nhận ra cái nốt ruồi giữa nhân trung ấy. Chị đã xin gặp đồng chí trung tá quận trưởng kể vắn tắt về cô gái và xin được đưa cô về nhà mình. Không có hy vọng gì làm biến đổi cuộc đời một con người mà bùn đất đã vấy lên đầy người như thế, nhưng ít ra là My cũng an ủi được chính mình.
Hai người về đến nhà lúc nửa đêm. Quê nhận ra cái ngõ phố dẫn vào khu tập thể nhà Lê My mười năm trước. Con đường được trải một lớp đá dăm, nhiều ngôi nhà lụp xụp trước đây đã được thay bằng những ngôi nhà tầng chồi ra thụt vào như muốn cướp lấy lòng đường.
Suốt đoạn đường dài từ đồn công an về nhà, Lê My hầu như tranh phần nói để cố ý tạo ra một mối liên hệ thân mật và xoá đi những mặc cảm ở Quê. Chị nhắc lại kỷ niệm về chuyến đưa Quê về làng mười năm trước, hỏi thăm ông bố, anh trai và các em Quê. My trách một cách thân tình:
- Cái lúc em bảo: “Tên em không phải thế” là chị giận em đấy. Em định chối bỏ cái tên Quê ư? Cái tên ấy chẳng xấu chút nào. Có nhiều cô gái ở nông thôn ra tỉnh là lập tức thay đổi tên họ liền. Em thấy có buồn cười không nhá, cô bạn chị ở quê tên là Xí, đi học trung cấp lập tức đổi ngay ra Nguyễn Thoa Kim Xuyến. Một đứa khác tên là Nguyễn Thị Tẹt, liền đổi thành Nguyễn Thị Mộng Tuyệt…
Lần đầu tiên từ lúc giáp mặt nhau. Quê cười. Cô úp mặt vào lưng My mà cười khúc khích.
- Trời ơi, cái nhà của chị vẫn như ngày xưa! - Quê kêu lên khi Lê My dựa cái xe đạp trước căn hộ tập thể - Em cứ tưởng chị phải dọn lên ở tít tầng năm tầng sáu từ lâu rồi.
My mở chốt cửa phía trong và bật đèn. Một gian nhà chừng mười lăm mét vuông hiện ra trong ánh điện sáng trắng. Ngoài một chiếc giường đôi kê vuông góc với chiếc giường một là một cái bàn con thấp với mấy chiếc ghế đôn. Kế đến là nơi đặt bếp dầu. Đồ đạc đáng giá nhất trong nhà là một chiếc ti vi Nationan đã cũ và một chiếc đài vef đặt trên nóc chiếc tủ đứng bằng gỗ dán.
My đi lại bên giường, vén màn. Bé Trang đã ngủ say, nó ôm con búp bê chặt đến nỗi mà My gỡ mãi mới được.
- Anh đi đâu hả chị? - Từ lúc vào nhà, Quê trở nên lầm lì, nhưng rồi cô cũng buộc phải lên tiếng.
Lê My không trả lời. Dường như chị không nghe thấy, hoặc giả chị muốn trả lời bằng sự im lặng. Tốt nhất là im lặng. Không thể nói dối một người đã từng gặp bao nhiêu sự lừa dối trên đời. Mà cũng không thể nói thật. Chị không muốn Quê đồng cảm với nỗi bất hạnh của chị.
- Quê đi tắm rửa qua một chút đi. Có thể đêm nay chị em mình cùng không ngủ… My nói với Quê trong khi chị mở cánh cửa ngách phía sau, nơi tiếp giáp giữa hai dãy nhà, vừa vặn xây được một chiếc bể nước nhỏ và dùng làm nơi tắm, thay quần áo - Đêm nay mình mời Quê về nhà vì nghĩ rằng chị em xa nhau lâu ngày có nhiều chuyện để nói, vả lại Quê cũng cần phải có một chỗ nghỉ ngơi yên tĩnh…
Chị ấy tốt quá. Quê bước vào ngách phòng tắm, nơi Lê My đã đặt sẵn phích nước, xà phòng thơm và bộ đồ ngủ của chị, mà bỗng thấy nghẹn ngào. Xưa nay, với Quê, lòng tốt thật là hiếm hoi, hiếm hoi bởi Quê nghĩ lòng tốt vốn sinh ra không phải để cho cô. Lẽ ra Quê không định tắm, cô chỉ định rửa đi cái thứ gớm ghiếc mà cái lão Khúc Văn Khích vấy lên người mình. Nhưng nghĩ đến lòng tốt của My, Quê đã quyết định phải tẩy rwar mình thật sạch sẽ. ít ra là không để vương trong nhà chị ấy những gì quá gớm ghiếc của mình - Quê nghĩ thế và cởi bỏ tất cả quần áo vắt vào chiếc dây phơi.
Tự ngắm cái thân hình lồ lộ của mình, Quê bỗng thấy xấu hổ. Lâu lắm rồi Quê mới lại có cảm giác xấu hổ. Mọi ngày, trước khi đi hành nghề, Quê vẫn thường ngắm vuốt cái thân hình của mình với thói quen của người bán rau tươi, nghĩa là cô vuốt ve, chăm chút nó, như người ta vẫn thường sắp xếp lại, rảy một ít nước mát lên những mớ rau của mình vậy. Quê cũng tự nhận rằng mình là một thứ hàng rẻ tiền, chỉ hợp với loại khách nhếch nhác, túng kiết, nhưng dẫu sao vẫn phải dùng đến một ít son phấn và loại nước hoa Thanh Hương bán để quảng cáo thu hút khách gửi tiền tín dụng. Bây giờ tất cả những thứ ấy bỗng gây cho Quê một cảm giác ê chề, tởm lợm, tởm lợm với chính mình. Quê hoàn toàn không có ý thích ngắm vuốt, chăm chút cái thân thể của mình nữa, mà cô chỉ cố kì cọ làm sao cho nó sạch sẽ, cố tẩy rửa đi cái phần nhơ nhớp của mình, ít ra là trong buổi tối hôm nay
☆☆☆
Trong khi Quê tắm rửa, Lê My tranh thủ bắc lên bếp một nồi cháo. Chị đổ hết cả soong thịt nạc của bé Trang vào đó, cộng thêm một ít đỗ xanh. Mình thì chẳng cần phải ăn uống gì, nhưng chắc là Quê đói - chị nghĩ thế.
Không hiểu sao câu hỏi ban nãy của Quê cứ trở lại trong đầu. Lê My vén màn lại cho con và bỗng thở dài. Càng lớn con bé càng giống bố. Hình như nó bắt đầu được tạo dựng hình hài từ cái chuyến Lê My đưa Quê về nhà mười năm tước. Nó là kết quả của một tình yêu, là sản phẩm của một đêm yêu đương cuồng nhiệt. Vậy mà không ngờ cuộc đời nó lại bất hạnh. Chỉ sau ngày bé Trang ra đời ít lâu, tình yêu giữa Thuật và My đã bắt đầu rạn nứt.
Giá như Thuật là một người đàn ông chỉn chu và chừng mực, giá như anh không buông thả mình, không quá chạy theo những cám dỗ vật chất… có lẽ hạnh phúc gia đình đã không tan vỡ.
Có người bảo: Trong những thói hư tật xấu của Thuật, có một phần lỗi tại Lê My. Đúng. Người đàn bà không giữ nổi chồng, là người đàn bà có lỗi. Lê My cũng đã tự nhận rằng chính chị có lỗi. Dường như chị đã cảm nhận thấy những vết rạn nứt từ khi nó bắt đầu manh nha. Đó là thời kỳ bé Trang gần hai tuổi. Dạo ấy toàn ngành dồn sức cho một chiến dịch truy quét tội phạm. Lực lượng triển khai trên khắp các địa bàn. Nhiều ngày phải trực ban hai mươi bốn trên hai mươi bốn giờ. Nhiều tối phải lên đường thực hiện nhiệm vụ đột xuất. Suốt một tháng trời Lê My sụt đi đúng ba cân. Chị theo đuổi một vụ án kinh tế mà đối thủ là một mụ đàn bà đầy mưu mô và thủ đoạn.
Thắng lợi của công việc cũng đồng thời với lúc Lê My phải trả giá cho cuộc sống gia đình. Bé Trang bị cảm lạnh phải đi cấp cứu bệnh viện. Rồi liên tiếp Thuật cáu bẳn. Anh trở thành một kẻ cục cằn, thô lỗ. Có đêm Lê My vừa dắt xe ra khỏi nhà, Thuật đã phóng xe chạy bổ theo. Anh rình rập vì ghen tuông vô cớ. Lê My biết rất rõ những khiếm khuyết của mình: vì đặc điểm nghề nghiệp mà chị đã không có những điều kiện để trở thành một người vợ chu đáo. Nhưng chị càng thuyết phục chồng, càng thanh minh để anh hiểu mình thì Thuật lại càng hoài nghi, càng ích kỷ.

Chiến tranh nóng, rồi chiến tranh lạnh. Có lần Thuật bỏ nhà đi hai ba ngày liền. Anh trở thành một con người khác, lạnh lùng và bất cần cuộc sống gia đình.
Thế rồi tấn bi kịch đã xảy ra.
Suốt đời Lê My sẽ không bao giờ quên được cái cảnh tượng buổi sáng hôm ấy, khi bất ngờ chị từ đồn công an khu vực trở về nhà. Có ai vào nhà mình mà cánh cửa lại khoá trái? Chị sững người trước hai cái khuy cửa trống hoác. Hôm qua, sau một cuộc độc thoại ầm ĩ, Thuật đùng đùng bỏ đi. Anh tuyên bố chuyến này sẽ đề nghị cơ quan bố trí ở hẳn Sài Gòn làm công tác biệt phái. Suốt đêm Lê My chờ Thuật. Cả sáng nay khi đưa bé Trang đi nhà trẻ, chị vẫn hy vọng Thuật trở về. Bây giờ có lẽ Thuật đang ngủ ở trong phòng chăng?
Lê My hé nhìn qua khe cửa. Trời ơi! Trên chiếc giường của vợ chồng chị, hai thân xác đàn ông đàn bà đang nằm sóng sượt bên nhau, không một mảnh vải che, trắng nhầy nhẫy. Hai mắt Lê My sầm lại như có một màng đen vừa đóng sập, hai chân bủn rủn, chị phải níu tay vào khuôn cửa mới đứng vững được.
Vậy là những lời đồn đại về cô Đào kế toán ở cơ quan Thuật lâu nay là đúng. Lê My đã lầm. Chị tưởng rằng sự trái tính đột ngột của Thuật thời gian gần đây là do công việc của chị làm anh không bằng lòng. Nhưng không hẳn. Anh đã bị người đàn bà kia hút mất hồn vía. Anh đã vin vào cái cớ chị hay bỏ bắng gia đình, hay đi hôm về khuya để dồn ép chị về phía tội lỗi, để khoả lấp đi những tha hoá của mình. Sau này, khi bình tĩnh để nhìn nhận lại, Lê My càng hiểu rõ rằng, ở Thuật từ trong bản chất đã tồn tại sẵn một con người ích kỷ và tham lam. Nếu như Lê My có một nghề nghiệp khác, khả dĩ có thể tạo điều kiện cho chị trở thành một người vợ mẫn cán hơn, chu đáo hơn với bổn phận gia đình thì chắc chắn rồi sớm muộn Thuật cũng sa vào con đường tha hoá kia. Chỉ có điều là có thể quá trình sa đoạ ấy sẽ đến muộn hơn, chứ không phải nhơ nhớp và trắng trợn như thế kia…
Vốn là một người đàn bà tự trọng và kiêu hãnh. Lê My đã không thèm làm một động tác gì nữa, ngoài việc bỏ đi, bỏ đi trong một nỗi đau khổ đến cùng cực, căm thù đến cùng cực và khinh bỉ đến cùng cực. Cái hành động điếm nhục tởm lợm nhất ấy, ở một cấp độ bỉ ổi ấy đã khiến chị nhìn nhận những cô gái điếm mà chị bắt được trong việc thừa hành công vụ một cách ôn hoà và khoan dung hơn. So với cô gái trẻ kế toán trưởng chưa chồng ở cơ quan Thuật, ít ra là họ cũng đàng hoàng, thành thật và sòng phẳng hơn. Họ dám thừa nhận đó là một nghề nuôi thân, dám trực diện đối thoại với pháp luật. Cái cô Đào kế toán ấy thì không thế. Cô làm điếm một cách đầy hoa mỹ và có nghệ thuật. Cô bị Thuật lợi dụng, và cũng lợi dụng lại Thuật một cách hết sức sành sỏi. Ngay cả sau này, khi cô ta đã lấy chồng, cô vẫn lợi dụng Thuật.
Từ buổi sáng ấy, Lê My dã thiết lập một quan hệ băng giá với chồng. Tình yêu, trong đó có một phần tình nghĩa do Thuật đã giúp Lê My có một vị trí công tác bây giờ, dường như đã chết. Chết tình yêu nhưng chị vẫn cố giữ lấy cái vỏ hôn nhân, vẫn cố tìm cách níu giữ lấy gia đình, bởi My nghĩ đến con, đến thân phận đàn bà. Xưa nay Lê My luôn là người phụ nữ cũ kỹ trong quan niệm gia đình. Bố Lê My là một nhà giáo. Lời giáo huấn của ông đối với con gái là một câu nói có phần cổ hủ: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phủ tử tòng tử”(1).. Điều luật ấy ràng buộc con người đàn bà, bắt họ phải qui phục, nhẫn chịu, nó giống như một tôn giáo, vừa bắt người ta phải qui phục, nhưng đồng thời lại mang lại cho người ta một niềm an ủi, một sự ve vuốt của định mệnh. Lê My đã cam chịu cùng chung sống với một người chồng mà chính mình đã bắt quả tang anh ta phản bội những điều linh thiêng nhất trong quan hệ vợ chồng. Chị cam chịu ngay cả trong những lần chung đụng. Những lần ấy, mặc dù cố quên đi nhưng chị vẫn thấy vẩn lên một cảm giác tởm lợm, như thể bị ép buộc chứ không phải đang ân ái.
(1) Ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con
Tình trạng băng giá kéo dài cho mãi tới khi bé Trang lên ba tuổi. Những chuyến đi vào Sài Gòn của Thuật ngày một mau hơn. Công ty dịch vụ của anh đang làm ăn phát đạt. Anh buôn hàng toa thuốc tây từ ngoài bắc vào, chở hàng ngàn chiếc catsét, xe cúp từ trong nam ra. Thủ trưởng nhân viên ra vào toàn bằng máy bay, ăn ngủ toàn loại khách sạn sang trọng nhất Sài Gòn. Nhưng rồi bỗng có một công văn của công an thành phố Hồ Chí Minh gửi ra cơ quan Thuật: Họ đã bắt quả tang một ổ điếm trá hình trong khách sạn X, trong đó có một khách làng chơi là Bùi Đức Thuật.
Bây giờ Lê My không còn đau khổ và căm uất như cái buổi sáng nọ nữa, mà chị thực sự ê chề. Sự ê chề ấy còn tăng lên đến mực nhục nhã khi Thuật dẫn xác từ Sài Gòn ra. Anh đã bị bọn điếm đổ cho bệnh lậu, phải tiêm Lanhcôxin vài vạn đơn vị một ngày.
Bốn tháng Thuật dưỡng bệnh tại nhà là thời gian hàng ngày Lê My phải tự mổ xẻ với những lời giáo huấn của bố. Cái câu “Xuất giá tòng phu” ấy bây giờ đã mang một ý nghĩa khôi hài. Mỗi mũi tiêm Lanhcôxin cho chồng lại như tiêm thêm vào người chị sự ghê tởm và khinh bỉ. Có thể sống cùng những người mà ta thương hại, thậm chí căm ghét, nhưng không thể sống với những kẻ mà ta ghê tởm và khinh bỉ. Dường như đó không còn là đồng loại nữa mà đã thuộc một giống loại khác, không thể đồng cảm, không thể đối thoại và càng không thể đối xử như một con người mà ta phải có nghĩa vụ kính trọng. Vợ chồng mà như thế thì thôi, sống với nhau làm gì?
Có lẽ Thuật đã cảm nhận thấy điều đó. Anh là một người thông minh và dễ nhạy cảm. Lê My càng tỏ ra chăm sóc, dịu dàng với anh bao nhiêu thì anh lại càng nhận ra sự cách bức của mình với chị bấy nhiêu. Cái tốt của Thuật là anh đã biết đọc thấy sự cao thượng và nhân hậu của Lê My. Anh biết, có hối hận, có muốn làm lại bây giờ cũng quá muộn rồi.
Một năm sau họ chia tay nhau. Một cuộc chia tay lẽ ra phải bắt đầu từ bốn năm trước. Cái chính là vì Lê My muốn cố níu giữ lại. Nhưng buồn thay, dù chị cố muốn tuân theo những lời giáo huấn xưa cũ, cũng không thể được.
Từ phòng tắm ra, Quê trở thành một cô gái khác lạ. Trong bộ đồ ngủ màu tím hoa cà, mái tóc vén cao hở chiếc cổ và một khoảng ngực trắng nõn, cô hoàn toàn đã lấy lại vẻ trẻ trung của một cô gái hai mươi sáu tuổi.
- Kìa chị. Chị nấu cái gì mà trào hết ra bếp rồi - Quê kêu lên, chạy lại nồi cháo đang bị trào vung. Rồi cô quay lại bên giường. Lê My đang nằm ôm con, thiếp đi trong cái dáng mệt mỏi.
Ôi, cái dáng ôm con của người mẹ, như một biểu tượng bất hủ của tình mẫu tử, bỗng làm tim Quê nhói đau, bỗng làm cô trào nước mắt. Cô đứng lặng nhìn ngắm hai mẹ con Lê My mà lại chạnh nghĩ đến mình. Chỉ một chiếc giường nhỏ, chỉ một căn phòng hẹp, đơn giản thế thôi mà hầu như cả cuộc đời Quê cũng không bao giờ vươn tới được. Cũng một thân phận đàn bà mà biết bao người sống trong nhung lụa, biết bao kẻ sinh con như sinh hạ những ông hoàng bà chúa. Cái bà thím ngày Quê từ làng ra làm con sen giặt giũ và hầu hạ khi bà ta sinh con đó. Suốt ngày bà ta chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là nằm ườn trên giường, ôm con và ngủ. Ba tháng sinh đẻ bà ta tăng hơn chục ký, nhanh như mức tăng trọng của giống lợn lai ngoại. Như thế mới đáng một kiếp người. Ngay cả với chị Lê My kia, dù trong cái dáng ngủ vạ vật vì quá mệt mỏi vẫn toát lên một niềm hạnh phúc, một nhịp sống yên lành. Còn Quê? Còn cái thằng cu Tẩm của Quê? Tìm đâu một mảnh giường tìm đâu một góc yên tĩnh?
Quê bỗng nhớ tới thằng cu Tẩm cồn cào. Giờ này chắc nó đang nháo nhác tìm mẹ. Nó đã quá quen thuộc với cảnh những buổi tối Quê đi vắng. Nhưng lâu lắm rồi Quê không ngủ xa nó một đêm nào, không về muộn quá mười hai giờ đêm. Có thể nó sẽ hốt hoảng, gào khóc đi tìm mẹ. Có thể nó sẽ lang thang trong góc công viên, săm soi các gốc cây, ghế đá quanh bờ hồ. Trời ơi, Quê như nhìn thấy đôi mắt đẫm ướt hoà với mũi dãi chản tràn trên gương mặt nó. Quê như thấy cái dáng bé nhỏ lũn cũn của nó đi thất thểu trên đường. Nó có thể bị lao vào một chiếc xe phóng như bay trên con đường vắng. Và kìa, một mụ đàn bà có bộ mặt gớm ghiếc, đôi mắt cú vọ to lồi, cái mũi diều hâu nhọn hoắt từ một góc phố khuất đi ra. Mụ ta khoác một cái bị cói thật to, to và dài hơn cả người mụ. Trong chiếc bị cói ấy hình như đã có hai đứa trẻ. Chúng nó khóc thút thít và thở khò khè, khản đặc như không còn hơi sức. Đúng rồi, thôi chết rồi, mụ ta là một mẹ mìn…
Quê bỗng hốt hoảng kêu lên. Cô chợt nảy ra cái ý định bỏ trốn. Cứ bỏ mặc Lê My với lòng tốt và cái nồi cháo đang sôi của chị. Ngay bây giờ cô phải về với thằng Tẩm.
Tiếng kêu của Quê đã làm Lê My choàng tỉnh. Chị ngơ ngác như người vừa qua một giấc mơ quái đản.
- Ấy chết. Mình ngủ quên đi mất - Chị dụi mắt, nhìn Quê như người có lỗi - Mình đoảng quá. Cháo đã chín rồi đấy. Để mình lấy cho Quê ăn nhé. Ăn một ít cháo cho nó đỡ mệt.
Quê một mực từ chối, sợ làm phiền chị, nhưng Lê My quyết ép cô bằng được. Đợi My thay quần áo xong, hai chị em cùng ngồi ăn. My ăn một cách qua quýt, chiếu lệ. Riêng Quê lại ăn thật ngon lành. Có đêm nào đi hành nghề xong, Quê dám bỏ tiền ra ăn một bữa tối như thế này đâu?
Đến lúc đi nằm, Quê một mực từ chối không chịu ngủ chung giường với hai mẹ con My.
- Em bẩn tưởi nhớp nhúa lắm, không đáng được ngủ chung với chị đâu. Thôi, để một mình em ngủ chiếc giường một này.
- Đừng khách khí thế, Quê. - My tỏ ý không bằng lòng - Mình muốn nằm chung với Quê để hai chị em dễ nói chuyện. Vào đây. Gối của Quê đây. Nào, mau lên để tắt đèn.
Quê ngoan ngoãn nằm xuống bên Lê My, như một người em gái.
- Bây giờ khuya lắm rồi. Cả hai chúng mình mỗi người phải ngủ ít nhất hai tiếng để lấy sức. Mai Quê cứ ở nhà. Cháu Trang đi học buổi sáng, trưa sẽ về nấu cơm hai cô cháu cùng ăn. Bây giờ, trước khi đi ngủ, mình muốn Quê kể cho nghe qua về mười năm đã qua của Quê. Cái gì đã dẫn Quê đến tình cảnh như hiện nay? Hãy coi mình như một người chị, đừng giấu giếm. Nằm với Quê ở đây mình không còn là một công an nữa rồi. Mình muốn hiểu cảnh ngộ Quê, thế thôi…
Quê im lặng. Mười năm mà chỉ kể trong một tiếng đồng hồ thôi sao? Có những con người mười năm là cả một chặng đường bằng lặng. Họ sống suôn sẻ, họ thăng tiến, phát đạt. Cuộc đời họ hệt như đã có một đường ray bắc sẵn, tàu khởi động là vèo đến ga đích. Nhưng cuộc đời Quê, chao ơi, một quãng đường đời ngắn ngủi mười năm thôi mà biết bao gian truân cay cực. Chị My làm sao mà hình dung ra nổi, dù nghề nghiệp của chị đã khiến chị từng trải hơn nhiều người.
- Chuyện của em vớ vẩn lắm chị ạ. Chị nghe làm gì. - Quê nói và bỗng ngáp dài. Dường như chỉ chớm nghĩ đến quãng đời mười năm qua, chính cô cũng phát ngán lên với chính mình.
- Cứ kể đi… Chị muốn nghe mà - My chợt thay đổi cách xưng hô. Chị nằm xoay người ôm lấy ngang lưng Quê. Tấm lưng của cô gái mềm nhẽo nhưng mát rười rượi.
- Không. Chị sẽ buồn đến không ngủ được đâu. Mà thôi, để em kể cho chị một câu chuyện vui nhé. Chị có tin rằng em đã từng có tình yêu không?
- Có chứ. Ai cũng có tình yêu. Cũng như chị, chị cũng đã có một thời yêu… Kể đi Quê, chị bắt đầu nghe đây này.
☆☆☆
… Gần một năm sau ngày chị đưa em về nhà, em trở thành cô gái đẹp trong làng. Cái tuổi mười bẩy bẻ gẫy sừng trâu, ở nông thôn, những cô gái đẹp thường được nhiều người mai mối, để ý lắm. Chính em cũng đã quên đi cái khách sạn Tương Lai. Em tưởng như không có nó trên đời. Năm ấy dược mùa. Em là một lao động giỏi trong đội thuỷ lợi 202, công điểm khá nhiều, nên gia đình em cũng tạm ổn định.
Có một anh chàng vừa đi học trung cấp nông nghiệp về làng. Một trí thức trẻ, hai mươi hai tuổi, lại đẹp trai, thổi sáo rất hay. Trong khi chờ phân công công tác, anh ấy xung phong vào đội thuỷ lợi cùng với em. Chúng em cùng đi đắp đê sông Đáy, cùng đi làm công trình trạm bơm Ngoại Độ. Vui ơi là vui. Suốt ngày dầm nước, vác từng tảng đất to bằng nửa chiếc bàn mà đêm về vẫn rủ nhau ra đầu đê đàn hát. Sao những đêm trăng quê ngày ấy sáng và đẹp đến thế…
Anh ấy tên là Long, con một gia đình nề nếp, khá giả. Long phát hiện ra em ngay từ buổi làm thuỷ lợi đầu tiên. Suốt buổi chỉ nhìn thôi mà không nói. Ôi, đôi mắt. Cho đến bây giờ em vẫn thấy đôi mắt ấy nhìn mình. Cái nhìn ngờm ngợp khó tả thế nào ấy. Người em như bị đốt nóng lên bởi cái nhìn ấy. Em vác những tảng đất cắt kéo băng băng. Có lúc em run lên vì sung sướng và vì sợ hãi. Nếu như Long biết được em đã bị… ở khách sạn Tương Lai có lẽ em sẽ chết mất.
Dễ có đến hơn một tuần chỉ nhìn nhau như thế mà Long chẳng hề nói gì. Em phấp phỏng chờ đợi, có lúc đến tuyệt vọng. Bỗng một buổi chiều Long bảo:
- Tối nay tôi có câu chuyện muốn nói với Quê. Bẩy giờ tối Quê chờ tôi ở gốc cây gạo ngoài đầm nhé.
Em chạy một mạch về căn nhà chúng em ở trọ, úp mặt lên gối mà khóc. Khóc vì quá hạnh phúc. Khóc vì thương Long nữa. Nếu em nhận lời yêu Long tức là em đã lừa dối Long ngay từ giây phút đầu. Em không đủ nghị lực để nói hết với Long tất cả sự thật về mình.
Đã quá bẩy giờ rồi. Trăng mười sáu lên khỏi ngọn tre, sáng vằng vặc. Chị em trong đội đã sang làng bên xem phim cả. Em cồn cào muốn vùng dậy chạy ngay ra ngoài cây gạo bờ đầm. Ngoài đó hẳn Long đang cháy lòng vì chờ đợi. Nhưng rồi em không đủ sức để đi ra đó. Thà như cứ lẩn trốn. Thà như em phụ bạc Long ngay từ bây giờ.
Chừng tám giờ tối Long bỗng xuất hiện. Anh mặc bộ quần áo còn mới nếp hồ, đội mũ mềm hệt như một anh tân binh vào ngày trả phép.
- Quê! Quê làm sao? - Anh đến bên giường, mặt mày ủ rũ và giọng nói thì như muốn khóc.
Em ngồi vục dậy, ngơ ngác như kẻ mất hồn.
- Quê ốm à? để tôi đi tìm thuốc cho Quê nhé - Anh nói và toan đi. Em vội vàng níu anh lại:
- Không, em không làm sao đâu. Không cần thuốc gì cả.
- Thế thì sao? Tôi đợi Quê đến lún đất ngoài đồng.
- Anh định nói chuyện gì? - Em bỗng trở nên đáo để.
- Chuyện của tôi và… - Anh ngập ngừng và quay nhìn quanh. Nhưng mà ở đây không tiện. Chúng mình ra ngoài ngõ đi.
Không hiểu sao lúc ấy em bỗng trở nên ngoan ngoãn lạ lùng. Em vội vã chải lại tóc và theo anh ra ngõ.
Trăng sáng đến mức có thể đọc sách được. Em không dám nhìn Long, nhưng biết rằng đêm nay Long đẹp vô cùng. Chúng em, cùng im lặng đi bên nhau, không ai dám lên tiếng trước. Lần đầu tiên trong đời em được - hưởng những phút im lặng thần tiên. Giá như cứ im lặng như thế mãi, cứ đi bên nhau như thế cho đến suốt sáng.
Và rồi không biết vô tình hay cố ý mà cả hai cùng đi tới gốc cây gạo ngoài bờ đầm. Đó là một bãi cỏ rất đẹp, trải xuống tận mép đầm, cạnh đó là những bụi duối già mọc quanh nền của một ngôi điếm cổ đã bị phá huỷ.
- Quê giận tôi phải không? - Long vụng về phá tan sự im lặng.
- Có gì mà giận anh.
- Thế sao bẩy giờ tối nay không ra?
- Ra để làm gì?
- Quê không đoán ra ư? Ôi, vậy mà tôi nghĩ rằng Quê sẽ biết. Tôi nhầm chăng? - Anh nói và bỗng thở dài.
-Nhầm đấy. Quê không nghĩ gì cả đâu mà. Thậm chí tối nay mệt quá, Quê đi nằm và ngủ quên đi mất…
- Thế thì… xin lỗi… - Người anh run bắn lên. Anh luống cuống cầm lấy tay em, gương mặt méo xệch đi đến thảm hại. - Chính tôi mới nhầm… Mong Quê hãy quên đi nhé.
Em biết, nếu em im lặng gật đầu, nếu em rút tay ra lúc ấy thì coi như hết. Nhưng bàn tay của Long như có dòng điện. Chỉ cần một chút tiếp xúc là người em đã ran lên. Nếu như ánh mắt của Long trước đây chỉ đốt cháy tâm hồn em, thì bàn tay Long giờ đây đã đốt cháy tất cả. Em bỗng đổ gục vào người Long, đu hai cánh tay lên cổ Long, kéo gương mặt anh về sát mình.
- Ôi, anh ngốc lắm. Em yêu anh mà…
Đó là mối tình đầu tiên, những cái hôn đầu tiên mà em không thể nào quên được. Long như được em đánh thức tất cả tiềm lực của người con trai hai mươi hai tuổi nhưng chưa hề được yêu bao giờ. Và em cũng vậy, cho đến giờ, chưa lần nào em có được tình cảm cuồng nhiệt đến thế.
Đêm ấy, chúng em cùng ngủ lại dưới những bụi duối già bên bờ đầm.
Nhưng tai hoạ cũng bắt đầu từ đêm ấy. Em có mang. Long sung sướng và quyết tâm chuẩn bị lễ cưới. Khi em có thai được ba tháng thì lễ ăn hỏi và lễ cưới được gấp rút chuẩn bị. Chỉ còn năm ngày nữa. Em phấp phỏng và hồi họp chờ đợi.
Nhưng, tất cả những điều đó đã không xảy ra. Một người bà con của Long từ thành phố về đã tung cái tin ở khách sạn Tương Lai ra khắp làng. Em trở thành cô Thị Mầu gian giảo và lừa lọc. Mẹ Long đến nhà em, chỉ thiếu nước nhảy thốc lên bàn thờ mà chửi rủa. Rồi anh em bên họ hàng nhà Long kéo đến, kẻ gậy gộc, người đao búa bắt em phải mang cái bụng đi khỏi làng ngay. Anh Hai em lại lên cơn, vác con dao bầu đuổi em khắp ngõ.
Thế là em ra đi. Lang thang ở Hà Nội ba ngày rồi em ngược tàu lên Phú Thọ, đi bộ lên Tuyên Quang. Ở đó em có một bà chị họ làm ở lâm trường…
- Trời ơi, thế đứa con của em đâu? - Lê My bỗng vục ngồi dậy, nước mắt đầm đìa trên mặt. Chị nhìn Quê như lần đầu tiên trong đời chị bắt gặp một nỗi đau mà chị chưa từng biết.
- Con ư - Quê bỗng lặng đi. Cô quay mặt ra ngoài. Rồi như không chịu nổi, cô bỗng bưng mặt oà khóc - Thôi, chị đừng hỏi nữa, chị đừng làm khổ em nữa.
Chương V
Có cách nào để giúp được Quê?
Suốt đêm câu hỏi ấy cứ xoáy trong đầu Lê My khiến chị không thể chợp mắt được. Mười năm trước, khi đưa Quê về làng, My những tưởng mình đã làm được một nghĩa cử, và chị có thể hoàn toàn yên tâm về số phận của một cô gái, nào ngờ cái hành động tưởng như nhân đạo ấy lại là khởi đầu cho những tai hoạ khác.
Buổi sáng, vừa đúng giờ đầu tập thể dục, My đã trở dậy. Chị đáp xe lên tận Bưởi vay cô bạn một ít tiền rồi vội vàng trở về nhà. Vừa lúc bé Trang và Quê cũng thức giấc.
- Sáng nay chị phải đi làm - My nói với Quê sau khi cả nhà đã ăn xong bữa sáng. - Quê ở lại đây chơi với mẹ con chị vài ngày. Với chị, em đừng ngại gì cả. đây, chị có một ít tiền. Quê ra ngoài mậu dịch chọn mua lấy bộ quần áo. Còn tiền để mua cả cho con em nữa đấy. Chiều nay chị sẽ về sớm. Rồi chúng mình thử bàn xem…
Quê chỉ biết nhìn Lê My như nhìn một ân nhân. Cô nhận gói tiền mà không dám nói đến cả những lời khách sáo cám ơn.
Suốt cả buổi sáng chỉ có mình Quê ở nhà. Cả khu tập thể cửa khoá im ỉm. Dường như khắp mấy chục căn hộ chỉ có mình Quê là chủ nhân duy nhất. Kì thật. Quê, một cô gái điếm, và rất có thể là một kẻ ăn cắp, phường trấn lột, lừa đảo… Vậy mà người ta dám giao cho làm chủ nhân cả một khu tập thể, chí ít là chủ nhân hoàn toàn của một căn hộ, có chìa khoá, có quyền sở hữu hẳn hoi. Ôi, sao giữa cái đất thành thị xô bồ này mà vẫn có những con người cả tin, nhân ái đến thế. Hay chị ấy là công an, chị ấy có máy móc gì trong nhà, định giăng bẫy để thử mình chăng? Mà đúng thật rồi. Không dưng chị ấy lại xin với đồn công an đưa hẳn mình về nhà. Chỉ có lòng tốt và tình nghĩa với mình không thôi thì chị ấy cũng chẳng tội gì ôm rơm cho rặm bụng. Lại còn cho tiền để sắm quần áo nữa, giao cả chùm chìa khoá nhà nữa. Đúng là công an thực. Chị ấy đang thử thách mình đấy…
Những nghi vấn vởn lên trong đầu khiến nhiều lúc Quê cứ ngẩn ra không biết nên hiểu theo cách nào. Rồi Quê mở tiền ra đếm, cố soi rọi kỹ từng đồng xem chúng có dấu vết khác lạ gì không. Biết đâu trong những đồng tiền này có gài một thứ máy móc nào đó. Người ta bảo bây giờ công an có nhiều loại máy móc tinh vi lắm. Có chiếc máy chụp ảnh chỉ mỏng như tờ giấy. Lại có loại máy dính vào người, đi đâu phát sóng điện tới đó. Có khi là chị My đã nghi Quê mắc bệnh Siđa. Và chị ấy đang tìm mọi cách để theo dõi.
Quê bỗng thấy lo cho những ngày sắp tới của mình. Cô linh cảm thấy có một cái gì đó đang rình rập, săn đuổi cô. Phải trốn khỏi đây ngay. Quyết định ấy vụt loé lên. Cô bắt đầu thấy nghi ngờ cả những lòng tốt.
Cho đến giờ tan tầm chiều, khi Lê My đạp xe về nhà thì Quê đã bỏ đi từ lúc nào. Cô để lại bộ đồ ngủ của My, giặt phơi trên dây, mặc lại bộ đồ cũ của mình. Đồ đạc trong nhà không hề suy xuyển gì. Trước khi đi Quê còn bàn giao lại cho bé Trang vừa đi học về cả chùm chìa khoá.
Trên nóc tủ, cạnh chiếc đài vef, có một tờ lịch ghi mấy dòng của Quê để lại:
“Chị My ơi, chị là người tốt nhất trên đời. Nhưng em phải đi thôi. Em không thể lợi dụng lòng tốt của chị. Đừng tìm em nữa, chị nhé. Q”
Lê My chợt nghĩ đến những gốc cây mờ tối trong công viên, Quê lại về nơi ấy chăng?
☆☆☆
Đúng như điều Lê My dự đoán, Quê đã trở lại góc công viên ngay từ lúc xế chiều chứ không kịp đợi cho trời tối. Cô đi con đường mòn qua một lỗ chó chui ở bờ rào để đến một góc vườn cây xanh cổ thụ. Nơi đây cả ban ngày và ban đêm đều rất vắng vẻ. Người thành phố thích đến công viên nhưng họ lại ngại những chỗ quá vắng vẻ. Ở đây ban ngày thường là nơi tụ tập những hạng người tứ chiếng, những dân anh chị, những kẻ bụi đời. Họ vạ vật nằm ngủ dưới những gốc cây, trên những thảm cỏ, kiếm lá kiếm củi khô nấu nướng, ăn uống xì xụp quanh đó. Ban đêm họ phân tán đi các nơi, thường là đi hành nghề hoặc tìm một góc chợ, một lều quán bỏ không nào đó để ngủ qua đêm, những nơi đó ít ra cũng có chỗ che mưa, che sương, mùa đông thì ấm áp hơn, lại đỡ bị công an làm phiền nhiễu. Ban đêm nơi đây trở thành hang ổ của bọn đĩ điếm. Chúng đứng chờ ở ngoài đường, ven bờ hồ để bắt khách. Những ông khách “đi vòm”, “đi dù”, thì đã có các hang ổ thuê sẵn, phải trả tiền phòng cho chủ chứa. Những ông khách ít tiền, thích “đi nhanh” làm qua quýt một tí cho xả cơn nghiện thì chúng dẫn qua lỗ chó chui vào “góc rừng” này. Đêm ở đây là thế giới của quỷ. Chúng đứng ép nhau vào dưới gốc cây, co quắp nhau trên bãi cỏ. Các gái điếm sành sỏi ra sức giở thủ thuật nhà nghề bắt các gã đĩ đực phải thốc tháo cho xong hợp đồng để chúng còn kịp ra ngoài đường đón một kíp khách mới. Có đêm một cô ả vào cầu “đi nhanh” được đến chục khách mà sức lực, gân cốt vẫn không hề suy xuyển. Có ông khách vừa lướt cò bợ bước ra khỏi lỗ chó chui đã vội bổ ngửa quay lại vì vừa phát hiện ra mình bị mất chiếc đồng hồ đeo tay hoặc tiền nong giấy tờ trong túi áo. Dịch vụ làm tình và làm tiền lẫn lộn, chỉ chết những kẻ máu dê.
Dân đĩ bợm, anh chị, gọi góc công viên này là “Chiến khu”. Đó là một phần cuộc đời của những kẻ lang thang không nhà cửa. Với Quê, góc công viên “Chiến khu” này cũng là một phần cuộc đời cô, ít ra là hai năm nay. Chao ơi, đời người gì mà lại coi một xó chợ, một góc vườn cây, một chỗ khuất vỉa hè làm nơi sinh sống của mình. Cũng một kiếp người mà chỉ không đầy vài chục mét ngoài kia thôi, bao kẻ nhà lầu xe hơi, tiền tiêu như rác. Người ta sẵn sàng bỏ ra ba, bốn triệu đồng để mua một con chó Nhật, và hàng tháng tiếp tục bỏ ra chừng trăm ngàn đồng để nuôi chúng. So với chúng, Quê cũng chẳng đáng giá gì, huống gì kiếp người. Dẫu vậy vẫn cứ phải sống. Rồi còn phải nuôi con nữa. Cho nên Quê phải tạo cho mình một thứ triết lý riêng. Đó là lấy mình để nuôi mình, hành hạ cái thân xác của mình cho đến khi nào không thể khai thác nó được nữa.
Quê trở thành một trong những cư dân của “chiến khu”, của một góc xó chợ.
Bây giờ Quê đang trở về “căn nhà” của mình. Cô luồn qua lỗ chó chui đi về phía gốc cây của mình. Nhưng kìa, sao “nhà cửa” trống trơn thế kia? Vạt tro mọi ngày lụi ẩm. Những chiếc áo chiếc quần, không hơn gì những thứ đồ thải làm giẻ lau của nhiều người, mọi ngày vẫn phơi vạ vật trên những cành cây, giờ đâu cả rồi? Và hai bà cháu? Hai bà cháu đi đâu? Quê đứng ngẩn dưới gốc cây. Đến bây giờ Quê mới thấy nỗi nhớ con mà hai hôm nay cô cố kìm nén, bỗng cồn cào. Cái thằng cu Tẩm của Quê, nó mới năm tuổi đầu mà đã sớm trở thành một thành viên có thâm niên của dân làng bụi. Hai bà cháu nó đâu rồi?
Quê chạy bổ ra ngoài bờ hồ.
- Này Quyên tẹt, con đĩ, mày đi đâu từ hôm qua đến giờ? Bị CÁ đớp hả? - Cô gái bán thuốc lá bên gốc cây bỗng gọi giật. Quê nhận ra con Thảo bùng vừa gọi mình. Dân bớp vẫn thường gọi Quê là Quyên tẹt.
- Ừ, đớp. Này, mày có thấy hai bà cháu thằng cu Tẩm nhà tao đi đâu không?
- Đêm qua vẫn thấy ngủ trong xó chợ. Suốt đêm hai bà cháu cứ lo cho mày mãi. Sáng nay biến đâu mất rồi. Chắc là đi làm dịch vụ.
Quê hiểu làm dịch vụ tức là hai bà cháu đi xin ăn.
- Chán mớ đời. Tối nay biết là có về không? - Quê ngồi thụp xuống cạnh Thảo bùng, thuận tay lấy một điếu thuốc ViNa trên mẹt hàng châm lửa hút.
- Tối qua mày bị CÁ đớp thật hả?
- Ừ đớp. Nhưng lại hoá may. Tao gặp một người quen cũ. Chị ấy tốt lắm. Rủ tao về nhà ngủ, lại cho cả tiền.
- Chỉ xạo. Có mà mày đi xoáy của người ta - Thảo bùng bĩu môi rồi bỗng ghé sát vào người Quê - Này, tao vừa mới kí một hợp đồng. Thằng này trước tao đã tiếp một lần rồi. Nó vừa đến nói là tối nay cần chiêu đãi mấy thằng bạn. Đi vòm hẳn hoi. Tao đã bảo cái Lan lừa, cái Sâm lột. Với mày nữa là bốn. Bẩy giờ tối nay hội bọn nó sẽ đến đây. Phải chuẩn bị mắt xanh mỏ đỏ vào nhớ. Có mầu đấy. Lũ dê này có vẻ máu lắm.
Quê ngồi lơ đãng chụm môi nhả những vòng khói thuốc. Cô không nghiện thuốc, thậm chí cũng chẳng biết nó ngoan lành bổ béo gì, nhưng những lúc buồn chán hoặc có điều gì nghĩ ngợi cô vẫn thường hút chơi vậy.
- Ờ để xem sao… Quê nói và đứng dậy - Tao phải đi tìm bà cháu thằng cu Tẩm đây.
Lúc đó, ở một đường phố tấp nập, có hai bà cháu. Họ như cái mụn ghẻ của một cơ thể mĩ miều đầy son phấn. Họ là cái mụn vá nhom nhếch của một tấm áo nhiều màu sắc loè loẹt. Họ như hai bóng ma giữa chợ người nhộn nhịp.
Phải nói rằng thành phố vài năm gần đây thay đổi với tốc độ chóng mặt. Những hè phố rêu mốc, cửa đóng im ỉm, tường xây bịt bùng những năm trước, giờ bung ra, nhà nhà trổ cửa, tầng tầng cơi nới, rối rít, hối hả mở sạp hàng, đóng tủ kính, khênh cả nồi soong bát đĩa ra hè phố, ra lòng đường để bán bún ốc, thịt chó, riêu, phở, bánh cuốn bánh trôi… Khắp các phố phường chỗ nào cũng chợ búa, chỗ nào cũng ăn nhậu ồn ã. Cái cơ chế thị trường làm cho bộ mặt thành phố tươi rói lên, mật độ dân cư sống trên hè đường, đi lại trên đường tăng lên gấp bội. Kể ra dân thành phố cũng chóng giàu lên thật. Người ta dám bỏ ra năm mươi cây vàng để mua một căn nhà lụp xụp có diện tích đất một trăm mết vuông để phá đi, xây hẳn một ngôi nhà bốn tầng. Có gia đình, bốn đứa con mỗi đứa đi một chiếc cúp mười triệu đồng và chòng vào tai, vào cổ, vào tay một số vàng bằng chừng ấy nữa. Nhiều gia đình còn bỏ vàng ra sắm xe tải, xe ca, xe lam. Những chiếc xe Toyota mang biển số trắng tư nhân sang trọng hơn cả xe của nguyên thủ quốc gia. Vàng muôn năm, đô la muôn năm. Đồng tiền lên ngôi, trở thành thống soái, bất chấp mọi thang giá trị xã hội.
Song, cái sự giàu có ấy đâu phải chia đều cho tất cả mọi cư dân thành thị. Hơn chín mươi phần trăm người làm công vẫn chỉ cầm cự với năm mươi ngàn đồng lương một tháng, nghĩa là vừa xoẳn để đong hai yến gạo. Và, còn hàng ngàn người sống thấp hơn cả con số thu nhập đó. Còn một đội quân hùng hậu từ tứ xứ kéo đến, mỗi ngày lê bước trên các hè phố ngửa tay xin tiền, như hai bà cháu khốn khổ kia.
Đó là một “cặp bài” lý tưởng cho cái việc đi xin xỏ. Bà, tuổi chừng bẩy mươi, lưng hơi còng, mặt nhăn nheo như vỏ củ lạc già. Bộ quần áo trên người bà không đến nỗi cáu bẩn, nhưng đã quá sờn cũ. Cháu, là một thằng bé chừng sáu tuổi, người đen đúa sắt lại như một ông già. Không hiểu nó không được chăm sóc hay cố ý làm ra thế, mà cả gương mặt vốn có vẻ thông minh của nó cứ lem luốc một thứ mồ hôi lẫn mũi dãi, lẫn bụi đất và cả nhọ nồi. Nếu như bà cụ có vẻ khốn khổ một cách chân thật bao nhiêu thì thằng bé lại có vẻ láu lỉnh một cách khốn khổ bấy nhiêu. Nó khoác chéo người một cái bị cói, trong đó phình ra đủ mọi thứ, từ củ khoai luộc, mẩu bánh mì, quả dưa chuột… đến những miếng thịt chó, miếng lòng lợn người ta đang ăn dở. Một tay nó dắt bà cụ, còn tay kia thì chìa ra trước mặt mọi người. Chìa ra với tất cả vẻ nhẫn nại và van vỉ, với một quyết tâm sắt đá rằng nó chỉ có thể rụt tay lại khi bàn tay của nó đã có một cái gì đó.
- Lạy ông lạy bà cho con xin mấy đồng…
- Cháu xin các bác các chú. Hãy thương lấy bà cháu…
Nó nói với một âm điều đều đều, không cố ý thiểu não, nhưng cũng không hề chiếu lệ. Vừa nói, nó vừa nhìn thẳng vào mặt người đối diện, dọi vào họ ánh mắt trẻ thơ rất tội nghiệp, khiến cho cả người keo kiệt nhất, sắt đá nhất cũng phải mủi lòng.
Lúc này cái “phố bia” đang ở vào tầm cao điểm. Suốt một dãy phố dài các bàn bia tràn hết ra hai bên vỉa hè. Từng dãy dài xe máy, xe đạp, xe ô tô xếp san sát. Đông nhất là xe cúp, đủ loại, đủ màu. Khách ở phố bia toàn là loại khách sộp, túi anh nào cũng căng tiền, mặt anh nào cũng phừng phừng rất khí thế. Họ đến đây để giải khát một phần, nhưng cái chính là để giao tiếp, thù tạc bạn bè. Ít tiền thì uống với nhau một vại bia, ăn dăm củ lạc, nhiều tiền thì thịt chó, ốc luộc, bồ dục trần, tái dê. Một cuộc bia trăm ngàn là thường. Càng uống càng có nhiều chuyện để nói. Ngồi với nhau mà ra tiền, ra bạc. Chỗ nào có xe máy giá hời? Công trình xây dựng kia đấu thầu mấy trăm triệu? Giá đồng và kim loại quí ở biên giới bao nhiêu? Có chỗ nào cần tiêu thụ vàng, đô la, đá quí không?
Có một ông khách hình như lần đầu tiên xuất hiện ở phố bia. Mọi người chú ý đến ông không phải ở vẻ người, điệu bộ, mà chính vì cái đài Nationan chạy pin ông đeo cạnh người. Giá như ở cái thời điểm những năm sáu mươi, chắc hẳn ông sẽ được liệt vào loại người sang, hoặc chí ít là một cán bộ trung cấp, đi đâu đài điện cũng đeo cạnh người, kêu oang oang. Nhưng ở vào cái thời kỳ viđêô màu, tivi mấy chục hệ này mà ông vẫn đeo cái đài cạnh sườn, vẫn mở oang oang ngay giữa phố, thì quả là tẩm hết chỗ nói. Người ta nhìn ông như nhìn một người vừa từ hành tinh khác đến. Có người vừa tu bia ừng ực, vừa vằn mắt về phía ông ta, văng tục: “Đ.mẹ. Cái quân đồng rừng, ngu không chịu được”. Ông khách lạ, đúng là người đồng rừng, dường như không hay biết, dường như pho phú tuốt. Ông chén tái dê, uống bia ừng ực, và cứ để đài nói ông ổng.
“Chương trình thông tin - quảng cáo” - Tiếng cô phát thanh viên bỗng cao vóng lên. Tiếp theo là nhạc hiệu xập xình như huơ mọi người cùng vào cuộc nhảy.
“Tìm người nhà” - Vẫn tiếng đài của ông khách đồng rừng - “Con gái là Nguyễn Kim Thoa và con rể là Bùi Danh Vọng hiện đang công tác tại Tổng công ty Luđamếx nhắn tìm mẹ là Đào Thị Nụ, bẩy mươi hai tuổi. Mẹ Đào Thị Nụ bỏ nhà đi ngày… tháng…. năm… Khi đi mặc chiếc áo lụa sát si gụ, quần láng đen đã cũ. Đặc điểm: cao chừng một mét năm mươi, người gầy, hơi còng. Có một nốt ruồi to dưới đuôi mắt trái. Ai biết cụ Đào Thị Nụ ở đâu xin đưa đến theo địa chỉ… Gia đình xin hậu tạ và chịu mọi phí tổn…”
Đang đi cùng thằng cháu, bà cụ vội buông tay nó ra và đứng lặng. đúng là đài vừa nhắc đến tên bà. Bà chính là Đào Thị Nụ, có cô con gái là Nguyễn Kim Thoa và ông con rể quí tử là Bùi Danh Vọng. Chúng nó còn dám vác mặt lên đài mà tìm bà kia à? Ôi chao, nhân tình thế thái, đảo điên hết cả rồi. Hai khoé mắt nhăn nheo của bà bỗng nhiên hoen ra hai dòng lệ. Nước mắt chảy xuống cái nốt ruồi đón lệ ở đuôi mắt trái, như dòng nước gặp phải một gò đất, ứ lại rồi lan nhoè cả gò má.
- Kìa bà, làm sao thế hả bà? - Thằng bé quay lại hỏi, đôi mắt nó tròn xoe không hiểu vì sao bà nó khóc?
Câu hỏi của thằng bé làm bà Nụ như chợt tỉnh.
- Không. Con muỗi nó bay vào mắt bà - Bà nói cho qua chuyện rồi nhổ phì phì một bãi nước bọt về cái tiếng đài vừa réo gọi tên bà.
Nhưng thằng bé không hiểu ý bà nó. Nó cứ dắt bà phăm phăm tới chỗ ông khách đồng rừng đeo đài ở cạnh sườn kia. Nó chắc đây là một ông khách sộp.
Cái bàn tay nhỏ xíu của thằng bé chìa ra trước mặt ông khách đúng cái lúc ông đang cúi vục mặt xuống bát bồ dục trần khiến ông có cảm giác một chiếc thuổng đào ếch vừa xỉa vào mặt ông. Và ông ngửng bộ mặt đỏ tái, dọi hai con mắt ngầu đỏ vào mặt thằng bé. Bốn con mắt gặp nhau. Đôi mắt thằng bé mỗi lúc một lì lợm và nhẫn nhục, còn đôi mắt ông khách đồng rừng thì cứ dãn dần ra, tròn xoe, đầy kinh dị. Liệu ông có quá say không? Tâm trí ông có còn tỉnh táo hay đang bị ma ám? Sao cái thằng này nó giống ông lạ lùng. Cũng cái trán dô bướng bỉnh, cái cằm vuông và đôi mắt xếch. Hà, nó bao nhiêu tuổi nhỉ? Năm hay sáu tuổi? Thôi đúng rồi. Nếu đẻ đúng cái năm ấy thì… Ông khách ngẩn người, ông thò tay ấn nút cái đài đánh xoạch, cái đài câm tịt.
- Này cu, mẹ mày đâu?
Thằng bé lắc đầu.
- Mẹ mày tên là gì?
Thằng bé lại ngoẹo đầu.
- Nói đi thì tao cho tiền. Mẹ mày tên là gì?
- Cháu không biết - Thằng bé buộc lòng phải trả lời, nhưng nó vẫn giữ một nguyên tắc là không khai báo gì về cái lý lịch đầy bí ẩn của nó. Nghề nghiệp ăn xin đã dạy nó như thế. Không được hở một chút gì về bản thân mình, ngoài sự khốn khổ.
Vẻ bí mật của thằng bé càng làm tăng thêm mối linh cảm của ông khách đồng rừng. Ông bỗng nhớ đến một người con gái của tám năm về trước, khi ông còn đang làm đội trưởng một đội lâm nghiệp ở lâm trường H. Tuyên Quang. Chao ôi, con gái chi mà trắng nõn nà. Hai vú thây lẩy như hai quả bưởi Đoan Hùng mọng nước. Và mông, và đùi. Ờ, cứ nghĩ đến đã thấy toát mồ hôi. Ông khách nuốt khan đánh ực và thọc bàn tay chuối mắn vào cái túi áo ngực ông đang có rất nhiều tiền. Tiền bán đá đỏ. Từ ngày nghỉ việc lâm trường ông xoay sang làm cai đầu dài của bọn thợ đào vàng và khai thác đá quý. Kiếm được. Mỗi chuyến về thành phố chỉ cần một gói nhỏ nhét trong túi áo là vớ được bạc triệu, tha hồ tiêu xài.

- Tiền đây, bác cho… Nào, lại đây bác thơm một cái… - Ông khách vừa xoè ra hai tờ năm ngàn vừa đưa tay kéo thằng bé vào lòng.

Vừa lúc đó một người đàn bà từ đầu phố hớt hải chạy lại.

- Bà ơi… Ơi cu Tẩm. Đi đâu mà biền biệt, để tìm suốt từ trưa tới giờ…

Ông khách đang ôm thằng bé bỗng sững người.

- Quê! - Ông buông thằng bé và kêu lên.

Quê choáng váng khi chợt nhận ra ông khách vừa gọi tên mình. Không còn biết phản ứng ra sao, cô đứng khựng lại như người vừa bị chứng đau tim đột phát. Rồi cô bỗng lao đến chỗ thằng Tẩm, giằng nó ra khỏi ông khách, gạt phắt hai tờ bạc từ tay ông và cứ thế lôi nó đi xềnh xệch.

Suốt một dẫy hàng bia, ai cũng tròn xoe mắt kinh ngạc. Người ta tưởng như cô gái mắc bệnh tâm thần, còn ông khách đồng rừng thì rõ ràng đang bị cơn say làm cho rồ dại. Ông lảo đảo, một tay ôm chặt cái đài bên hông, còn tay kia cứ chới với giơ lên hai tờ bạc, lưỡi líu lại mấy từ “con… Quê…” đến là vô nghĩa.

Chương VI

Chín năm trước.

Một chiều mùa đông ảm đạm, trên con đường rừng heo hút, nơi dẫn vào lâm trường H. có một cô gái trẻ đang lê từng bước khó nhọc. Một ngày chen chúc trên tàu, hai ngày đi bộ, cô tưởng như mình không còn đủ sức để tới cái góc rừng hẻo lánh này. Đói và mệt. Trong túi không còn một đồng xu. Trước khi rời nhà trong óc cô gái chỉ kịp loé lên một cái địa chỉ mơ hồ: Nguyễn Thị Điệp, giáo viên trường phổ thông cơ sở lâm trường H. Tuyên Quang. Thế là cô nhắm mắt lao đi.

Điệp là chị họ của Quê, hơn cô đến hơn chục tuổi. Ngày Quê còn học lớp bốn, Điệp đã trở thành một cô giáo cấp một. Chị xung phong lên miền núi dạy học. Thỉnh thoảng viết thư về cho Quê. Những lá thư mang hương vị một vùng đất lạ, lấp lánh màu xanh của rừng, màu đỏ của hoa chuối rừng và màu chàm của váy áo những cô gái Tày. Hai, ba năm rồi không thấy Điệp viết thư về nữa. Có lẽ chị đã lấy chồng, hoặc giả vì công việc quá bận bịu. Nhưng Quê thì vẫn nhớ. Cứ tưởng tượng ra cái lâm trường của chị với trùng điệp rừng, bạt ngàn những đồi cọ, đồi chè là Quê lại thấy tràn ngập một không khí êm đềm no đủ.

Cô gái mười bảy tuổi mang cái thai ba tháng lên rừng với một niềm hy vọng mong manh, còn nỗi tuyệt vọng thì hầu như lúc nào cũng thường trực trong người. Chỉ biết đi khỏi làng cái đã, có gặp chị Điệp không thì chưa biết. Gặp thì van vỉ chị cưu mang, không gặp thì nhảy xuống sông xuống hồ cho xong một đời. Quê đã tìm đến lâm trường H. với cảnh ngộ của người bị đẩy vào bước đường cùng như vậy.

May mà cho tới khi gần như tuyệt vọng, nghĩa là đã bị đói, bị khát, bị chồn chân vì hỏi thăm đường, thì Quê gặp Điệp. Trời ơi, hoá ra những lá thư chị viết những năm trước đây chỉ là một sự lừa mị, chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng. Nơi Điệp ở là gian đầu hồi của một lớp học đã xiêu vẹo. Đúng ra cả nơi chị ở, cả cái lớp học của bọn trẻ chẳng khác gì một cái chuồng trâu, nghĩa là nó tuềnh toàng, trống trải và nhếch nhác đến thảm hại. Còn Điệp, sau ba năm không về nhà, trông chị tiều tuỵ gày ốm như một bà già. Không thể nhận ra một cô giáo Điệp trẻ trung, đoan trang, tự tin tới mức hơi kiêu kỳ trong những lần về phép trước đây. Mới chưa đầy ba mươi tuổi mà tưởng chừng như chị đã quá tuổi bốn mươi rồi.

- Ba tháng nay chị chưa được lĩnh lương em ạ. Có ít đồ đạc cũng phải bán đi để đong gạo - Câu chuyện đầu tiên hai chị em gặp nhau đã phải nhắc đến miếng ăn thì thật tội nghiệp. Nhưng Điệp biết mình không thể hoa mỹ mãi được. Cứ nói toẹt ra cảnh ngộ của mình để hai chị em đỡ hiểu lầm nhau - Bao nhiêu năm rồi chị tưởng nạn sốt rét đã dập tắt được. Ai ngờ năm ngoái lại tái phát. Đây, cứ nhìn thân hình chị thì biết. Bây giờ thì chị chẳng dám vác mặt về nhà nữa đâu. Mang tiếng là cô giáo, đi thoát ly mà vác cái thân tàn ma dại này về nhà để họ cười cho…

Điệp kể bằng cái giọng rầu rĩ. Đến khi nghe Quê về kể về cảnh ngộ của mình và ngỏ lời muốn trông cậy vào sự cưu mang của Điệp, thì Điệp bỗng ôm lấy Quê mà khóc.

- Chị tưởng chỉ mình chị khổ, hoá ra em còn khổ gấp trăm lần. Bây giờ chị em mình biết sống làm sao? Ôi, sao mà mày dại thế, dính dáng đến cái bọn đàn ông làm gì? Chúng nó chỉ biết sướng thân xác chúng nó, còn bao nhiêu tội nợ đổ lên đầu bọn đàn bà hết. Tao biết thế nên tao thề sẽ quyết không lấy chồng…

Tự nhiên giọng Điệp đay nghiến một cách đầy căm tức, trái hẳn với cái vẻ nhu mì thường ngày của chị. Thì ra lúc ấy chị chỉ muốn nói cho hả nỗi ấm ức bao năm nay. Ấy là sự thiếu vắng đàn ông ở cái xứ sở khỉ ho cò gáy này. Một cô gái hơ hớ mơn mởn đã bị giết chết trong sự chờ đợi, khao khát yêu đuơng. Gần chục năm trời cô bị giam hãm cầm tù trong những cánh rừng bịt bùng. Chẳng có chàng trai nào đến tán tỉnh cô, chẳng có một người đàn ông nào khả dĩ để cho cô một hy vọng lựa chọn. Thảng hoặc có một gã đàn ông nào đó mon men đến thì lại là một con dê già ngứa nọc, hoặc một gã trốn vợ đi tìm của lạ. Điệp không thể chiều nịnh họ được, một phần vì sự nghiệt ngã của nghề nghiệp bắt chị phải đạo đức, mô phạm, nhưng cũng một phần vì chị vô cảm trước những thứ tình cảm đầy tính mưu mô, dung tục ấy. Điệp trở thành một “bà cô” thực sự theo cái nghĩa đen của nó. Chị gày đét đi về thân xác đã đành, ngay cả phần tâm hồn, tình cảm cũng mỗi ngày một teo tóp đi, khô héo dần.

Dẫu vậy, bản tính Điệp vẫn không phải là một người tàn ác, nhẫn tâm. Điệp đã tiếp nhận “người khách không mời”, cộng thêm một đứa trẻ ba tháng trong bụng với một tình cảm của người chị gái. Cũng may Quê là một cô gái vốn quen lao động chân tay và không nề hà trước bất cứ một khó khăn nào. Cô đi chặt nứa thuê cho các các gia đình xung quanh, hái chè, dỡ sắn cho những người có vườn rừng rộng mà thiếu nhân công. Đời sống của hai chị em vì thế cũng đỡ chật vật.

Sáu tháng sau Quê đẻ một bé gái. Đứa trẻ đẻ rơi ở trên nương, khi Quê đang đi làm cỏ chè. Có những đứa trẻ thật kì lạ. Đẻ rơi đẻ rụng mà chẳng hề gì, vẫn cứ lớn như thổi.

Điệp vừa là cô giáo của bọn trẻ ở lâm trường, vừa là người bảo mẫu của cô bé Rớt. Chị yêu con bé như chính chị đã đẻ ra nó. May mà sau khi đẻ Quê lại khoẻ ra. Bé Rớt chưa đầy tháng cô đã phải đi làm. Vẫn công việc làm thuê ở mướn lấy tiền công nhật để sống.

Một buổi chiều, sau một buổi hái chè, mồ hôi ướt đầm vai áo, Quê ra suối tắm. Con suối ở đoạn này bị chặn bởi một dải đồi đá gan gà nên dòng chảy bị bẻ cong như chiếc vai cày. Ở chỗ gấp khúc nó tạo thành một cái vực sâu, nước tĩnh lặng như một cái ao làng. Quê tắm. Hồn nhiên như tuổi mười tám, như thể cô chưa từng làm mẹ. Ban đầu cô còn để cả áo quần, lối tắm cổ điển của các cô gái quê bên bờ sông Đáy. Nước mát quá, trong quá. Nước xanh như mời mọc, quyến rũ Quê. Cô đứng ngập dưới nước, cởi quần giặt. Rồi cô cởi luôn cả áo. Quê hoàn toàn khoả thân trong nước để mặc làn nước trong mát ve vuốt thân hình ngồn ngộn, trắng muốt của cô.

Quê không hay biết rằng có một người đàn ông ngồi câu cá ở một bụi cây gần đó. Ông ta đã phát hiện ra Quê ngay từ lúc cô ở trên đồi đi xuống. Chiếc cần câu trong tay ông suốt từ đó hầu như bất động. Ông ngồi nép sát vào những vòm lá, cố thu nhỏ mình lại, cố nguỵ trang mình thật kỹ để Quê đừng phát hiện ra có một người lạ mặt ở đoạn suối vắng này. Thật là một pha trinh thám hồi hộp. Đôi mắt ông xuyên qua khoảng trống vòm lá, như hai ống kính tê lê cực nhạy, không bỏ sót một cử động nào của nàng tiên tắm suối. Trời ơi, đã đến lúc nàng cởi áo. Thế chứ, nhất định phải có động tác ấy. Ôi chao, sao mà trắng nõn nà. Cái cổ thon dài vuốt xuống đôi vai ngà ngọc. Và đôi bầu vú, núng nính, căng mọng, cương ra, nhô lên hai đầu vú phớt hồng đến khêu gợi.

Ngắm một người đàn bà tắm đã là một niềm khoái cảm, ngắm một người đàn bà trẻ đẹp tắm suối trong một tư thế hoàn toàn tự nhiên, thậm chí nàng vừa tắm vừa tự chiêm ngưỡng, ve vuốt mình, thì đó quả là một niềm hạnh phúc tột bậc. Người đàn ông câu cá kia đang hưởng trọn niềm hạnh phúc đó. Ông ta nuốt nước bọt ừng ực, hai mi mắt giương mãi như bất động. Và tim ông đập thình thịch, cái thình thịch vừa là của một kẻ ăn vụng sợ người ta bắt quả tang, vừa là của một kẻ đầy ham muốn đang hưởng trọn vẹn niềm khoái lạc. Giá như được đến gần một chút nữa, được nhìn suốt từ khoảng ngực kia cho tới chót bàn chân - Ông ta thầm ao ước. Và ông ta gián người xuống đất, cố trườn gần thêm một chút nữa.

Bỗng ùm. Một hòn đất lở. Cái tiếng động bất thình lình đó khiến Quê giật bắn người. Cô ngã té về một bên. Và thật không may, chính lúc đó chân cô đã trượt khỏi chỗ đứng, lộn nhào xuống một chỗ nước sâu hơn. Cô chới với vì không biết bơi. Cố nhoi lên, cố vùng thoát khỏi vực nước thì cô lại càng bị nước nhấn chìm xuống.

Người câu cá không ngờ vận may rơi xuống trúng đầu mình, không ngờ chính cái hòn đất vô tình ông làm rớt xuống lại là cái duyên cớ cho ông hưởng thêm một lần hạnh phúc nữa. Ông ta bàng hoàng một giây rồi cắm đầu lao ùm xuống vực nước. Như một con rái cá. Chỉ tích tắc sau ông ta đã bơi tới chỗ cô gái. Động tác đầu tiên của một người sành sỏi cứu người chết đuối là ông ta túm lấy tóc cô gái. Rồi vừa dùng chân bơi đứng, bàn tay kia ông ta luồn xuống eo lưng Quê. Ơi trời, khắp người ông bỗng run bắn lên khi bàn tay của ông phát hiện ra toàn bộ cơ thể Quê hoàn toàn trần truồng. Ông ghì sát Quê vào người. Toàn thân ông như cương hết lên, như mọc đầy gai ngạnh khi ông cảm thấy một cách hết sức cụ thể từng đường cong mềm mại, từng bộ phận cơ thể chắc nịch, nuột nà của người con gái bắt đầu phát lộ vẻ đẹp trời phú.

Quê được đặt nằm trên bờ, trong cái nắng mơ hồ như hắt từ đâu đó lại. Một pho tượng vệ nữ bằng xương thịt với tất cả vẻ đẹp lồ lộ, đẹp mê hồn và đầy khêu gợi. Trong đời chưa bao giờ anh chàng câu cá kia được chiêm ngưỡng một tác phẩm tuyệt vời đến thế. Ông ta đã có vợ và sáu đứa con gái. Nhưng chưa bao giờ ông nhìn ngắm vợ khoả thân, và cũng chưa bao giờ ông có một chút thèm muốn nào ngắm vợ trong trạng thái này. Chán chết đi được. Cứ tắt đèn đi đêm cho nó xong chuyện. Nhưng lần này thì khác. Hoàn toàn khác. Cổ ông khô cháy vì thèm muốn, người ông hầm hập một khối năng lượng cần được giải toả. Và ông quỳ xuống bên cô gái.

Nhưng chính lúc ấy Quê bỗng vùng ngồi dậy. Cô bị sặc nước và quá hoảng sợ nên chỉ thiếp đi một vài giây.

- Cháu cảm ơn ông, cháu van ông… Quê chắp hai tay vái lia lịa và bò giật lùi về chỗ để quần áo.

- Anh thương… Để anh chữa cho khỏi sặc nước… ông ta vừa nói một cách khó nhọc vừa nuốt nước miếng.

Nhanh như một phản xạ tự vệ Quê đã khoác chiếc áo vào người.

- Cháu đội ơn ông… cháu van ông… đừng, ông… Cháu sợ…

Quê lấy quần che người, tiếp tục đi giật lùi, rồi bất thần cô ù té chạy, để lại người đàn ông trong bộ quần áo ướt sũng chết đứng bên bờ vực. Rồi ông ta khuỵu xuống, hai tay ôm lấy mặt.

Người đàn ông có cái diễm phúc nhìn và vớt Quê tắm truồng đó chính là Toại, đội trưởng đội lâm nghiệp số ba của lầm trường H. Toại là người miền xuôi, lên khai hoang miền núi từ năm 1962, sau ngày lâm trường H, được thành lập, Toại xin vào làm công nhân lâm trường. Toại lấy một cô vợ người Tày, cùng làm một đội sản xuất, đẻ liền một mạch sáu cô con gái. Người ta thường bảo: “Kinh già hoá Thổ”, ý nói sống lâu ở vùng dân tộc thì người Kinh cũng bị thiểu số hoá đi. Nhưng với Toại không phải như thế. Càng sống với những người dân hiền lành chất phác, Toại lại càng trở nên lọc lõi, thạo đời. Giống như con sói sống giữa bầy thỏ, ban đầu sói có thể đội lốt thỏ để dễ hoà đồng, sau rồi sói sẽ tìm cách mà ăn thịt thỏ dần. Toại cũng vậy. Để có thể kiếm được một tí chức quyền, Toại cùng vợ con xung phong vào một cánh rừng hẻo lánh nhất lâm trường. Nghiễm nhiên anh ta trở thành một đội trưởng. Rồi anh ta trổ mánh lới, nịnh nọt cấp trên, lừa mị cấp dưới để vào Đảng. Có chức, có quyền, anh ta trở thành ông vua con, ông chúa sơn lâm. Nghề rừng nói là vất vả, nhưng mà cũng tuỳ từng loại người, tuỳ nơi. Công bằng mà nói, Toại chỉ thực sự làm nghề sơn tràng có hai năm, còn thì tất cả thời gian còn lại anh làm nghề lãnh đạo sơn tràng. Làm ông chủ của hơn một trăm công nhân, làm ông chủ của tám trăm héc ta rừng, quyền hành bổng lộc còn hơn cả các ông chủ tư bản. Bởi chủ tư bản muốn có rừng phải bỏ tiền vốn ra mua cây giống, phải thuê công nhân trồng rừng, tu bổ, khai thác, phải nộp thuế rừng cho nhà nước, vân vân. Nhưng các ông đội trưởng, giám đốc lâm trường nước ta thì cứ việc toạ hưởng kì thành. Rừng tự nhiên sẵn có, muốn khai thác lúc nào, loại cây gì mặc sức. Lương công nhân do nhà nước cấp. Vốn trồng rừng, tu bổ rừng đã có nhà nước lo. Thế nên nhà nước cứ cấp vốn, rừng chẳng trồng được cây nào vẫn cứ khai khống để ăn tiền. Dăm bữa nửa tháng lại chặt bán cho bọn lái buôn gỗ vài chục khối, dấm dúi chia nhau. Về cái mánh lới gặm dần rừng của nhà nước để ăn, Toại là người có sạn trong đầu. Nhưng mà Toại khôn, Toại ăn vụng nhưng biết chùi mép, thành thử với lâm trường Toại vẫn là một cán bộ trong sạch, rất được tín nhiệm với cấp trên.
Cái buổi chiều Toại đi câu giải buồn và bắt gặp Quê tắm suối ấy đúng vào thời kỳ uy tín của Toại ở lâm trường đang lên. Đội ba đang là đội tiên tiến xuất sắc, được nhận cờ luân lưu ngành lâm nghiệp, bản thân Toại đang là chiến sĩ thi đua. Nhưng tất cả những lợi lộc, danh hiệu cùng là uy tín ấy chưa bao giờ làm cho Toại sung sướng bằng được ngắm trộm Quê tắm, càng chưa bao giờ có ý nghĩa bằng được ôm Quê trong lòng, bằng được ngắm Quê nằm khoả thân bên bờ suối. Toại sẵn sàng đánh đổi hết để được ngủ với Quê, được chiếm đoạt Quê hoàn toàn. ý nghĩ ấy nung nấu trong Toại như than đỏ vùi trong trấu.
Ngay tối hôm ấy Toại đã mò ra lớp học. Toại tảng lờ làm như thay mặt lãnh đạo đội ra xem tình hình cô giáo Điệp và các cháu dạy dỗ, học hành ra sao. Toại tự nhận khuyết điểm là quá quan liêu, không để tâm đến trường sở, để các “mầm non” của lâm trường phải học hành trong một cơ sở rách nát quá. Toại hứa với cô giáo Điệp ngay ngày mai sẽ cho “quân” xẻ gỗ, cắt gianh dựng lại lớp học, ngay ngày mai sẽ xuất quĩ đội trợ cấp cho cô giáo, trả lương trước cho cô giáo rồi sẽ kiến nghị với ngành giáo dục sau. Rồi cũng làm như tình cờ, Toại phát hiện ra Quê, em gái của cô giáo Điệp. Toại bế cháu bé khen nó xinh giống mẹ và hứa sẽ bằng mọi cách tuyển dụng Quê vào làm công nhân lâm trường.
Lời hứa của Toại hoàn toàn không phải là một sự lừa mị như anh ta từng làm với cấp trên và cấp dưới hơn chục năm may. Hơn một tháng sau Quê được vào làm công nhân ở đội sản xuất số ba.
Nhưng, ý đồ của Toại thâm thuý hơn nhiều người tưởng. Lấy cớ là công nhân mới, lại trẻ, cần phải qua thử thách, Toại điều Quê đến một cánh rừng thật xa, cách trung tâm đội đến mười cây số đường rừng. Đó là một tiểu khu toàn người Dao bản địa mới sát nhập vào lâm trường. Quê là người Kinh duy nhất xen vào đó.
Hơn một năm, tiếng là làm công nhân lâm nghiệp nhưng hầu như Quê được giành trọn thời gian để nuôi con. Toại khéo bố trí cho cô chăm sóc một vườn ươm nhỏ ngay cạnh một gian nhà nhỏ xinh bên bờ suối. Cô như một chủ vườn ẩn giật chốn rừng sâu. Nơi ấy thật yên tĩnh, yên tĩnh đến mức cô tịch.
Và rồi chiến thuật mưa đầm thấm lâu của Toại đã thành công. Người chịu ơn bao giờ cuãng cả nể, không bao giờ nỡ làm cho ân nhân của mình phật ý. Người cô đơn thì luôn khao khát bạn bầu, luôn luôn muốn được chia sẻ, được cưu mang cả vật chất lẫn tinh thần. Quê là hai con người ấy cộng lại. Có thể nói Toại hoàn toàn thành công trong chiến thuật săn mồi của mình. Anh ta không sấn xổ, không thô bạo. Giống như một con mèo già, anh vờn con chuột từ khi nó hoảng sợ cho tới lúc nó bình tâm lại, trở nên dạn dĩ, thì đùng một cái, xơi tái đúng cái lúc nó hồn nhiên nhất. Toại đã chiếm đoạt Quế hệt như vậy.
Ấy là một buổi chiều mùa hè gió rừng hây hẩy, Quê đang ngồi tắm ở sau tấm phên nứa đầu nhà thì ông đội trưởng bất thần xuất hiện.
- Kìa chú. Đừng vào… Đợi cháu một tí… Quê vừa nói vừa ngồi thụp xuống để che đi nửa khuôn ngực trần trắng muốt.
- Cho ngắm một chút… như cái buổi chiều nào bên bờ suối…
Toại nói ỡm ờ và tiến lại phía Quê.
- Ứ ừ… Xấu hổ lắm… Kìa đừng…
Nghe giọng nói, nghe cái ngữ diệu, Toại biết rằng mình phải làm gì. Và anh đã không bỏ qua cơ hội. Anh gạt tám phên nứa, cúi xuống bế bổng Quê lên. Tấm thân đàn bà mát lạnh ròng ròng nước được Toại nâng niu đặt lên giường.
- Kìa đừng… Cái bé nó thức dậy bây giờ…
- Nó thức thì mình ngủ. Nào ngoan… Anh yêu mà. Anh sẽ lấy em làm vợ. Em cứ ở trong này… Em sẽ đẻ cho anh một thằng con trai…
Vừa phả vào tai Quê những lời hổn hển, đứt quãng, Toại vừa tới tấp hôn lên khắp người cô. Hôn đến đâu người Quê khô đến đó, nóng rẫy lên đến đó. Thay vì sự hưng phấn nhục dục, tâm hồn Quê bỗng được thổi bùng lên bởi một hưng phấn về một cuộc sống yên ả. Ừ, Quê sẽ ở mãi đây, dù phải chịu phận lẽ mọn. Cuộc đời Quê coi như đã yên hàn. Phận đàn bà chỉ cầu mong có thế. Sống và nuôi con yên ổn, dù là trong một xó rừng khuất nẻo nơi thâm sơn cùng cốc. Quê sẽ lấy cho các con những cái họ người Dao. Quê sẽ mặc quần áo dân tộc, sẽ hoà tan cả quá khứ và tương lai của mình trong những cánh rừng…
Chính những niềm mơ ước giản dị và khiêm nhường ấy đã làm cho Quê hiến trọn một cuộc tình không có tình yêu. Người cô bồng bềnh như trong một cõi mộng du. Cô khóc vì cay đắng và vì cả những toan tính hết sức nhỏ mọn và tầm thường của mình.
Họ sống với nhau trong cảnh già nhân ngãi non vợ chồng như thế được hơn một năm.
Nhưng rồi một buổi trưa…
Đúng là cái lúc mà Toại và Quê đang hành sự trên giường thì một tốp bốn người đàn ông có súng cùng với một người đàn bà lặng lẽ xuất hiện. Người đàn bà chính là vợ Toại. Bốn người đàn ông kia thuộc lực lượng bảo vệ của lâm trường bộ, dẫn đầu là đồng chí chánh thư ký công đoàn. Thì ra chính vợ Toại đã nghi ngờ mối quan hệ bất chính của chồng từ lâu. Chị tuyệt nhiên không hề hé răng hỏi chồng, nhưng chị vẫn ngấm ngầm theo dõi, rình rập. Và hôm nay cơ hội ấy đã đến. Đôi gian phu dâm phụ bị bắt quả tang. Đáng thương thay cho Quê. Cô đã bị người đàn bà gầy nhẳng, mọi ngày vẫn nhu mì nhẫn nhục như một cái bóng, giờ bỗng dữ dằn hung bạo như một con sư tử cái nhảy xổ vào đấm đá, hành hạ một cách hết sức nanh ác.
Những ngày tiếp theo, những trận đòn ghen còn ác độc và dữ dội hơn nữa. Cả ba cô con gái lớn của Toại cùng hợp sức với mẹ xung trận. Quê bị đánh tơi tả phải đi cấp cứu bệnh viện. Bị đánh, bị hạ nhục trong khi Toại cứ điềm nhiên như người ngoài cuộc mới kì lạ. Trong đời chưa bao giờ Quê thấy thằng đàn ông nào hèn mạt đến thế. Hắn cố tình rũ bỏ trách nhiệm. Hắn làm như vô can. Trong khi Quê đi cấp cứu bệnh viện thì hắn còn bận lo chạy chọt để mong xoá bỏ cái vụ bắt quả tang kia. Hắn tung tin rằng Quê quyến rũ hắn, nhưng hắn luôn luôn giữ vững phẩm chất của một đảng viên, một cán bộ lãnh đạo. Hắn vẫn trong sạch. Chuyện ầm ĩ lên chẳng qua vì vợ con hắn quá ghen tuông mà thôi.
Một lần nữa Quê lại đành phải ra đi. Chao ơi, số phận đến là nghiệt ngã. Cái mong ước nhỏ nhoi nhất, tầm thường nhất của kiếp đàn bà là được sống yên ổn ở một xó rừng, được biến thành một người dân bản địa, không quê quán, không gốc tích, chỉ cốt sao lần hồi nuôi được mình và đứa con xấu số mà cũng không được.
Quê gửi lại bé Rớt cho cô giáo Điệp nuôi giúp, một mình lặng lẽ rời khỏi lâm trường.
Quê hoàn toàn không hay biết rằng, giống như cái lần Quê chạy khỏi làng bỏ lên rừng ba năm trước, lần này sự bi thảm lại được lặp lại, lặp lại với một cấp độ còn thảm khốc hơn. Ấy là một cái bào thai mới đã làm tổ trong người Quê hơn một tháng trời. Cái bào thai ấy chính là thằng Tẩm sau này.
Chương VII
Người đồng rừng đeo đài bên hông ngồi ở phố bia chiều ấy chính là Toại. Bẩy năm qua Toại đã già đi nhiều. Mái tóc muối tiêu, bọng mắt chảy xệ, da mồi. Ở ông vừa có cái vẻ chán chường, mệt mỏi của một người già, vừa có cái vẻ ham hố, cuồng nhiệt của một chàng trai mà tất cả những hoài bão dự định còn đang chờ ở phía trước.
Cái vụ trai trên gái dưới với Quê ngày ấy, ban đầu, tưởng như to tát, tưởng như sẽ là một vụ sì-căng-đan điển hình của ngành lâm nghiệp. Nhưng rồi rốt cuộc, mọi chuyện đều im re. Toại đã khéo léo thu xếp, bịt chỗ này, trấn áp chỗ kia, thậm chí bắt vợ và các con mình phải lên gặp lãnh đạo lâm trường nhận đã chót dại dột mà dựng chuyện lên thế. Sau ngày Quê bỏ đi khoảng nửa tháng thì mọi chuyện ổn thoả. Đại hội đảng bộ, Toại vẫn chúng với số phiếu cao, được cơ cấu vào đảng uỷ. Đội ba của Toại vẫn là một tổ đội lao động XHCN.
Nhưng mà cũng từ đó, Toại bỗng thấy chán ngán tất cả. Chán vợ con, chán chính mình, chán cả những thứ danh hiệu, chức tước hão. Sự ra đi của Quê hầu như đã làm rỗng cả cuộc đời Toại. Biết bao nhiêu đêm Toại dằn vặt và phỉ nhổ chính mình. Một thằng đàn ông đốn mạt. Một gã Sở Khanh siêu hạng. Toại tự xếp mình như thế. Toại mong ước giá như cái sự kiện ấy được lặp lại, Toại sẽ sẵn sàng đánh đổi - quyền chức, danh hiệu, vợ con - để bảo vệ Quê, để được chung sống với Quê.
Đã ba lần Toại xuôi Hà Nội, chỉ với mục đích tìm kiếm Quê. Toại tha thẩn ở các bến xe, nhà ga, Toại lân la hỏi dò những bà hàng nước. Nhưng đều vô hiệu. Nghe cô giáo Điệp nói Quê đã đẻ một thằng con trai, Toại như muốn phát điên lên. Ông luôn luôn linh cảm thấy giữa ông và Quê nhất định phải có một mối liên hệ nào đó.
Toại quyết định xin nghỉ hưu trước tuổi. Bao nhiêu vốn liếng góp nhặt được trong hơn hai mươi năm nghề rừng Toại dốc ra xây nhà. Một ngôi biệt thự giữa rừng, hai tầng, tám phòng, thắp điện bằng máy phát Nhật, rồi ti vi màu, xe kích, ra đi ô cátxét, tủ lạnh. Bây giờ Toại mới thực sự là một ông chúa sơn lâm. Một mình một dinh cơ, một khoảnh rừng, một nương chè và bạt ngàn những sắn và mía.
Giàu có, đề huề, nhưng mà Toại vẫn cảm thấy cuộc đời thật trống rỗng. Sáu thị mẹt, sáu vịt giời thì dù có sống trên núi của, ăn sơn hào hải vị, vẫn vứt đi. Chán quá, Toại bỏ đi đào vàng. Rồi trúng quả, Toại làm cai. Toại mang vàng và đá quí về Hà Nội, Hải Phòng, lên biên giới Lạng Sơn, Quảng Ninh để bán cho người Tàu. Có chuyến, một mình Toại tiêu hết bạc triệu. Ăn ngủ toàn khách sạn mi-ni, muốn thì có cả hầu phòng non phục vụ qua đêm. Từ lối tư duy của một kẻ cơ hội hãnh tiến ham muốn quyền chức và danh vị, Toại chuyển sang tư duy của một gã lái buôn thuần tuý tôn thờ đồng tiền. Bây giờ thì Toại chẳng có thứ chủ nghĩa nào cả, ngoài đồng tiền. Và, phải nói thực tình, tận trong li ti huyết quản của Toại vẫn ngấm ngầm mong muốn một cái gì lớn lao hơn, cụ thể hơn, đó là một thằng con trai. Mà ở cái tuổi năm mươi nhăm của Toại bây giờ kiếm một thằng con trai đâu có dễ dàng. Bọn đàn bà có thể sẵn sàng ngủ với Toại, nhưng chúng lại không thích có con. Chúng chỉ rình cuỗm của ông ít tiền rồi chuồn chứ đâu thích an phận nuôi con cho ông. Lắm lúc Toại nghĩ mà bế tắc. Và Toại càng nuối tiếc Quê. Nuối tiếc đến dằn vặt, nuối tiếc đến thẫn thờ.
Bỗng nhiên vận may lại một lần nữa đến với Toại. Toại có say không? Không. Cái thằng bé ấy rõ ràng giống Toại như lột. Rõ ràng Toại đã gặp Quê. Cô ấy có tàn tạ đi, nhưng cái nốt ruồi ở giữa nhân trung thì không thể nhầm lẫn được. Không cần phải hoài nghi gì nữa, phải bằng mọi cách giành giật lấy thằng bé. Chao ơi cay đắng quá, con, con trai của ta mà phải đi ngửa tay ăn xin thiên hạ? Ta sẽ giành tất cả ngôi nhà và đất rừng của ta cho con. Bao nhiêu vàng và đã quí mà ta có sẽ là của con hết.
Ngay buổi chiều ấy Toại không về khách sạn mi-ni, nơi ông ở nữa. Vẫn khoác chéo chiếc đài bên hông, ông dò dẫm đi từng phố, hỏi thăm từng người bán hàng nước và bọn trẻ con chơi trên đường phố để tìm ra nơi ở của mẹ con Quê.
Dường như Quê đã linh cảm thấy trước một tai hoạ, kể từ lúc Quê gặp lại Toại ở cái phố bia ấy. Nhìn ánh mắt của Toại, Quê biết rằng bằng mọi giá ông ta sẽ quyết giành giật lại đứa con. Cho nên phản xạ đầu tiên của Quê là chạy trốn. Phải giấu kín thằng Tẩm đi, cấm chỉ không cho nó lang thang trên đường phố, ít nhất là một tuần. Quê lôi xềnh xệch hai bà cháu qua cái lỗ chó chui vào “chiến khu” trong công viên. Chờ cho đến lúc trời sập tối, phố xá đã lên đèn, Quê lại lôi hai bà cháu đi một vòng nữa rồi mới trở về cái góc chợ xép quen thuộc.
Phải nói rằng khi sáng chế ra cái chợ, loài người đã bộc lộ trong đó một ý tưởng nhân đạo sâu sắc. Ban ngày thì dân tứ xứ, bất kể giàu nghèo sang hèn, ai muốn thì cứ vào họp chợ. Có thì bán, cần thì mua, không cần mua bán gì thì cứ việc dạo chơi vài ba vòng để giết thời gian. Ban đêm, người không họp chợ thì đã có ma họp. Ma âm không ai nhìn thấy, còn ma dương thì ít thôi, nhưng mà cũng sống động, nhộn nhạo với đủ mọi dạng vẻ, lứa tuổi. Ấy là những hạng người cơ nhỡ, lỡ tàu xe, thất tán gia đình, và đông đúc, thường xuyên hơn cả là dân bờ bụi chuyên lê la các vỉa hè để kiếm sống.
Quê cũng có một “căn hộ” cố định ở cái góc chợ xép ấy. Đó là một góc khuất sát với lối đi ra nơi vệ sinh công cộng. Xếp mấy cái sạp gỗ của các bà bán hàng khô cho gọn lại, lấy cái chổi phảy qua một lượt rồi lôi cái manh chiếu giấu kín trong khe tường ra, thế là có một cái ”giường” rộng chừng ba mét vuông, vừa chỗ nằm cho cả ba bà cháu. Cũng từ trong khe tường khuất, một tấm ni lông nhỏ được lôi ra, trong đó là một chiếc màn bằng vải xô, màu nước dưa, đã bị vá chằng đụp, nhưng vẫn còn dùng được. Góc chợ này muỗi nhiều như trấu, nên chiếc màn đụp này vừa là tấm bình phong chắn gió, vừa làm nhiệm vụ chống muỗi. Kể cả có một chỗ ngủ đêm như thế này, với bà cháu Quê đã là quá hạnh phúc rồi. Cũng là do cái tài “dân vận” của Quê với ông gác chợ. Thỉnh thoảng phải biếu ông ta một bao thuốc lá, thậm chí, nếu ông ta thích thì cũng phải “chiều” một tí. Đời có ai cho không ai cái gì bao giờ. Một góc chợ tồi tàn bẩn thỉu chẳng để làm gì, thế mà đều có giá hết.
- Cái con mẹ này đến là gàn - Đợi cho Quê dắt màn xong, nằm xuống cạnh cu Tẩm, bà cụ Nụ mới trở lại câu chuyện ban chiều - Tao nhìn thấy rõ hai tờ giấy năm nghìn của ông khách đeo đài ấn vào tay thằng bé. Mười nghìn, bằng đi xin cả một tuần chớ có phải ít đâu.
- Mẹ đến là tẩm - Cú Tẩm cũng phụ hoạ theo - Con thích cái ông đeo đài ấy. Mai con lại ra phố bia…
- Này dở hồn. Tao cấm - Quê bỗng phát bẳn lên - “Mẹ mìn” đấy có biết không? Lão ta chuyên rình bắt trẻ con để mang lên miền ngược bán. Bà nhỉ, có phải bọn mẹ mìn chuyên mang tiền để dỗ trẻ con phải không?
- Ừ, đúng lão ta là mẹ mìn. - Bà Nụ đã hiểu ý Quê.
- Ở trên mạn ngược có loại người chỉ thích mua trẻ con để nấu cao. Hôm qua ở ngoài ga có sáu đứa trẻ con bị bắt. Này, Tẩm, mẹ dặn nhé. Từ ngày mai không được đi qua phố bia nữa. Cứ vào trong công viên mà chơi. Có tiền đây rồi. Đủ sống nửa tháng.
- Ứ ừ. Con với bà cứ đi xin - Thằng cu Tẩm giãy nảy. Nó tin rằng bà cháu nó đang vào cầu, mỗi ngày cứ dạo qua phố bia một hai vòng cũng kiếm ăn được.
- Đừng có làm tôi điên tiết nhá. Tôi nói là phải nghe. Thôi, ngủ.
Cả ba cùng im được một lúc. Bà cụ Nụ chợt thở dài.
- Mẹ Tẩm này, chiều nay tao nghe đài. Vợ chồng nhà nó lôi cả tên tao lên đài…
- Vợ chồng nhà nào hả bà?
- Vợ chồng cái con Thoa với cái thằng Danh Vọng ấy mà. Ôi dào, rõ là đồ đạo đức giả. Cướp hết tài sản của mẹ, đánh đuổi mẹ đi mà bây giờ còn đám vác mặt lên đài nhắn tin tìm mẹ. Nghe mà lộn cả ruột. Tao thì nhổ vào cái đài ấy…
Quê đã hiểu ra câu chuyện của bà Nụ. Thì ra con gái và con rể bà nhắn tin trên đài để tìm mẹ.
- Này bà ơi, bà nên về với anh chị ấy. Thế là họ đã hối hận lắm rồi đấy. Mẹ con làm sao mà bỏ được nhau hả bà? Bà ở với mẹ con con ba tháng nay là chúng con biết rõ lòng tốt của bà rồi. Nhưng mẹ con con, không chốn nương thân, không còn mặt mũi nào để vác mặt về quê, thì nó đã đi một nhẽ. Màn trời chiếu đất, ăn mày đánh đĩ nhục lắm bà ạ.
Bà Nụ xoay người ôm thằng Tẩm vào lòng và bỗng khóc hu hu.
- Mày định đuổi tao đấy hả Quyên? Tao sống với mẹ con mày có đến nỗi nào. Ba bà cháu có khoai thì ăn khoai, có cháo thì ăn cháo. Tao thương thằng cu Tẩm như cháu mình…
- Ôi, bà không hiểu ý con rồi… Con đâu dám nghĩ đến chuyện đuổi bà. Chỉ nghĩ rằng bà ở với mẹ con con thì bà khổ. Lúc khoẻ đã vậy, còn khi trái gió trở trời, biết chui rúc vào đâu? Thế nên con nghĩ, tốt nhất là bà tha thứ cho chị Thoa. Bà nên về với chị ấy…
- Tao về để cho cái thằng chồng nó lại nhổ vào mặt rồi đuổi tao bước ra khỏi nhà à? Tao đã thề có giời có phật rồi. Thà chết đường chết chợ còn hơn là sống với vợ chồng nó. Cái thằng chồng thì thật là bất nhân. Lấy con gái người ta, dỗ dành người ta bán cả cửa nhà đem tiền cho nó mua đất xây nhà xây cửa. Thế rồi lật mặt, đuổi mẹ vợ ra khỏi nhà. Mà cái đứa con gái như thế thì cũng thật là đại bất hiếu. Nghe chồng vào hùa đuổi mẹ. Biết như thế thì hoài hơi mà đẻ cho nó rát l.
Mỗi lần nghe bà cụ Nụ nhắc lại gia cảnh, Quê lại thấy tê tái. Thật hiếm có một cuộc đời nào lại nhiều oan trái như bà. Chồng chết trong chiến dịch Điện Biên Phủ, khi đứa con gái duy nhất mới có hai tuổi. Bà ở vậy nuôi con, một mình xây dựng một cơ ngơi năm gian nhà ngói cây mít đàng hoàng. Rồi cưới chồng cho con gái. Anh chồng, một thanh niên nghèo kiết xác từ miền xuôi lên miền ngược khai hoang. Cưới xong anh ta đi bộ đội, rồi chuyển ngành, được về làm chân cung ứng vật tư của một công ty buôn bán. Do khéo xoay xoả móc ngoặc, năm sau anh ta xin cho vợ và hai đứa con cùng chuyển về cơ quan, được ăn gạo sổ. Bốn vợ chồng con cái từ quê thoắt một cái thành người thị thành, tiêm nhiễm nhanh chóng cái máu thị dân, coi người nhà quê như rác. Về thăm mẹ lần nào cô con gái cũng chê giường hôi chiếu bẩn, chưa tối đến đã như trong hũ nút. Rồi vợ chồng bàn soạn, rủ rê bằng được bà ra tỉnh. Bán thốc bán tháo nhà cửa, bán cả ba bụi tre ngâm, mười sáu cây soan vườn, cả lợn gà, thóc lúa, tổng cộng được ba cây vàng, bà Nụ đưa hết cho con gái, con rể rồi xách mấy bộ quần áo đi làm con ở cho vợ chồng nhà họ. Hai năm đầu không khí còn thuận hoà, mẹ con bà cháu ra chiều yên ấm lắm. Nhưng rồi, cùng với thời gian, ba cây vàng của bà Nụ cũng bị vợ chồng người con quên dần. Anh chồng được đề bạt chức vụ, lại móc nối được nhiều đường dây buôn bán nên giàu lên nhanh chóng. Không tuần nào trong nhà không có tiệc tùng. Vợ chồng ngồi chéo kheo cùng với khách để ba bà cháu còm cõi dưới bếp như những đứa ở. Có lần sợ ngượng với khách, Danh Vọng nói dối: bà là người hàng xóm trong quê ra giúp việc. Nghe thế bà Nụ tủi, bỏ ăn sang nhà hàng xóm hàng buổi. Tiệc tan, khách về, anh con rể bắt đầu sinh chuyện. Anh bảo bà cố chấp, không hiểu gì về lối sống mới, rằng bây giờ đồng tiền là trên hết, bố mẹ, con cái cũng chỉ là công cụ để phục vụ đồng tiền, rằng nếu bà không chịu được vợ chồng anh thì mời bà về. “Về đâu? Anh bảo tôi về đâu nữa? Tôi bán hết nhà cửa vườn tược để đi theo anh chị. Bây giờ anh chị định đuổi tôi ra đường à? “ “Đi ra đường cũng được chứ sao? Bà tưởng cái nhà to lắm hản? Ba năm qua một mình bà cũng ăn hết đến mấy cái nhà rồi… Đấy, bà xem còn cái gì của bà nữa thì mang đi…” Thế là bà Nụ đi thật. Bà chỉ mang theo mình cái tay nải với mấy bộ quần áo. Lang thang năm ngày suốt các ga tầu bến xe thành phố, đôi mắt sưng húp, khóc đến mờ đi. Rồi bà gặp mẹ con Quê cũng lang thang trên hè phố. Thương cảm hoàn cảnh bà cụ, Quê bảo: “Thôi, bà ở cùng với chúng con. Số phận con cũng chẳng ra gì. Mẹ con mất sớm… Bà hãy coi con như con đẻ và coi thằng Tẩm như cháu nội bà vậy". Ba tháng qua, phải nói rằng “gia đình” ấy sống rất thuận hoà. Quê đi kiếm tiền ở quanh bờ hồ, công viên, còn hai bà cháu làm thành một cặp bài lý tưởng - một bà già khốn khổ với một thằng bé côi cút - đi làm dịch vụ ăn xin.
Có một người từ nãy tới giờ vẫn nấp sau cái phản bán thịt lợn ở gần đó và nghe trộm hầu như trọn vẹn câu chuyện của ba bà cháu Quê. Đó là Toại. Cả một buổi chiều và một buổi tối lần mò, cuối cùng ông đã tìm ra “nơi ở” của Quê. Tất nhiên để đến được đây, ông phải chi mất khá nhiều tiền cho bọn trẻ con đường phố, nhất là dân cùng bờ bụi như bà Nụ, chằng Tẩm, và lẽ đương nhiên cũng phải chi một khoản kha khá cho người gác chợ nữa.
Khi cái màn xô màu cháo lòng hiện ra lờ mờ trong ánh đèn điện bảo vệ hắt từ góc chợ vào, khi đã nhận ra trong cái màn nhuôm nhoam bẩn thỉu ấy là bóng ba người lờ mờ nhân ảnh, lòng Toại bỗng se thắt lại. Không ngờ cuộc đời đã đẩy mẹ con Quê đến cảnh khốn cùng này - Chính Toại, đúng, Toại là một trong những kẻ đã nhúng tay đẩy Quê tới cái xóm chợ này. Chao ơi, cái thằng bé nằm co quắp trong cái mớ giẻ rách kia chính là con của Toại mới thảm thương chứ. Không còn nghi ngờ gì nữa rồi. Nó giống Toại như đúc. Nó sinh đúng tám tháng sau ngày Quê bỏ đi khỏi lâm trường. Sáu năm qua nó thành một thằng bé ăn mày. Nó đi la liếm khắp hang cùng xó chợ. Ôi, thật là đau đớn, thật là thê thảm. Giàu có mà làm chi, quyền chức mà làm gì khi cái giọt máu suốt đời ta mơ ước bị vứt lăn lóc ra ngoài lề đường, bị thiên hạ coi như một thứ rác rưởi bẩn thỉu…
Trong cuộc đời, dường như đây là lần đầu tiên Toại mềm yếu với chính mình. Ông rời khỏi chỗ nấp với hai cẳng chân run rẩy như chực khuỵu xuống.
- Quê ơi… Đừng lẩn trốn tôi nữa… Cho tôi được nói câu chuyện…
Tiếng gọi của Toại rồi cái bóng đen của ông lừ lừ tiến lại khiến Quê giật thót người, vục ngồi dậy. Cả bà cụ Nụ và thằng Tẩm cũng vục ngồi dậy.
- Ông là ai? Ở đây không có ai là Quê - Tiếng Quê thảng thốt.
- Ông nhầm rồi. Không có quê hương nào ở đây đâu - Tiếng bà Nụ rành rẽ. Chính bà cũng tin rằng ông khách này nhầm.
- Quê đừng làm thế… Tôi đã đi tìm suốt buổi chiều nay. Hãy cho tôi được nói. Quê, tôi biết mình có tội lớn với hai mẹ con… Tôi là một kẻ khốn nạn. Lẽ ra tôi không nên vác mặt đến đây. Nhưng Quê hãy hiểu cho tôi… Hãy tha thứ cho tôi… Suốt mấy năm qua tôi đã cất công đi tìm. May mà trời đã xui khiến cho tôi được gặp em và con chiều nay.
- Kìa, tôi đã nói rồi, tôi không quen biết ông - Quê vén hẳn chiếc màn lên, giọng cô bỗng rung lên bởi một cơn uất giận đến nghẹn ngào. Như một cơn lũ vô hình, bao nhiêu tủi nhục, bao nhiêu đau khổ ê chề của những ngày qua bỗng dồn dập kéo đến. Chúng tạo thành một ngọn thác dựng đứng trước mặt Quê khiến cô hoàn toàn băng giá trước những lời lẽ sám hối một cách nhiệt thành của Toại.
- Ông nhầm mẹ con nhà nó với ai rồi - Bà Nụ giương cặp mắt mờ nhìn ông khách. Bà nhận ra chiếc đài đeo bên hông của ông - Hoá ra ông khách ở phố bia. Này ông, ông say rồi. Tôi nói để ông biết nhá. Mẹ con nhà nó là Quyên chứ không phải quê quán của ông đâu.
- Thưa cụ, con không say đâu. Con nhận ra cô ấy ngay từ lúc thoáng gặp… Quê ơi, em hãy tha lỗi cho tôi. Và cả con nữa, con hãy tha lỗi cho bố - Toại quì xuống, đưa hai bàn tay về phía thằng cu Tẩm.
- Kìa ông, ông đi ra đi - Cu Tẩm giẫy nẩy. Nó nép hằn người vào mẹ nó. - Ông đi đi. Ông say rồi.
- Bố cháu là Hiển cơ. Ông chỉ nhận vơ.
Hai bàn tay Toại bỗng nặng như đeo đá, rơi thõng xuống.
- Ông thấy đó, không ai quen biết gì ông cả… - Quê nói.
Toại bỗng bật lên một tiếng cười chua chát. Ông lắc đầu toan đứng dậy, nhưng dường như ông không thắng nổi cái sức hút của huyết thống mà ông linh cảm rất rõ rệt và chính nó đã dẫn dắt ông đến đây. Bây giờ thì lý trí hầu như không kìm giữ nổi. Ông nhoài người ôm ghì lấy thằng Tẩm, khiến nó bỗng hét lên, vừa dãy đạp vừa nhe răng cắn vào bắp tay ông đau điếng.
- Kìa, ông làm thằng bé chết khiếp lên mất - Quê giằng thằng Tẩm từ tay Toại - Ông đi đi không tôi kêu công an đến bây giờ.
Nước mắt giàn dụa, ông Toại vừa quì vừa thọc tay vào túi áo móc ra một bọc tiền.
- Thôi được. Cô cứ suy nghĩ lại đi. Đừng vì tự ái mà để cho thằng bé khổ. Tôi không thể để cho thằng bé đi ăn mày. Cô hãy cầm lấy ít tiền. Rồi tôi sẽ chuộc thằng bé, bao nhiêu cũng được.
Ông Toại đặt bọc tiền trước mặt ba bà cháu rồi đi. Món tiền lớn đến nỗi cả ba bà cháu đều bàng hoàng tưởng như trong mơ.
Thằng cu Tẩm bảo:
- Ông này vừa say vừa điên mẹ nhỉ.
- Ừ điên - Quê nói - Để mai mang trả ông ta.
- Ứ ừ. Không trả đâu. Đã bao giờ mẹ kiếm được số tiền thế này? Ông ấy điên thì cho ông ấy chết. Mai mẹ mang vào trong nhà giam cho bố có khi bố sớm được ra…
Quê ôm ghì lấy thằng Tẩm. Cô nhớ đến Hiển, người mà thằng Tẩm vẫn coi là bố đẻ chính thức của nó. Nó vẫn không hề hay biết rằng cái con người điên khùng vừa đến đây mới chính là người mà nó mang dòng máu.
- Ông ấy chỉ nhận vơ, mẹ nhỉ. Con chỉ có một bố Hiển thôi. Mai mẹ cho con vào thăm bố, mẹ nhé…
Quê gật đầu, nhưng rồi cô bỗng ôm ghì lấy cu Tẩm chặt hơn và lắc đầu quầy quậy: - Không. Không đi đâu cả. Mẹ chẳng cho con đi với ai đâu…
Chương VIII
Giá như không gặp Quê, giá như không đưa Quê về nhà, những ngày qua Lê My đã không buồn đến thế. Chị không thể cắt nghĩa nổi vì sao Quê lại bỏ đi trong lúc chị đi làm vắng. Quê cho rằng chị giam lỏng cô để rồi đưa cô vào trại cải tạo ư? Hay vì Quê đã quá quen với công việc hành nghề của mình, cô là con ngựa đã quá quen đường cũ mất rồi… Dù lý do nào đi nữa, Lê My vẫn cảm thấy tình cảm của mình bị thương tổn. Lòng tốt cũng như lòng trắc ẩn của con người đâu phải lúc nào cũng phung phí một cách hào phóng? Cho ai, cho lúc nào đều phải cân nhắc, bởi vì cuộc sống hàng ngày còn biết bao điều phải lo toan, sắp đặt, bởi vì, đôi khi những nỗi buồn chán, bực bõ choán hét cả tâm trạng của ta, làm ta quên đi cả lòng tốt. Quê đâu biết rằng chính cái buổi tối cô gặp Lê My ấy, chị đang ở trong một tâm trạng buồn chán đến rã rời. Nếu như không phải là Quê, cái cô gái có nốt ruồi ở giữa nhân trung mà chị từng thương cảm mười năm trước, có lẽ chị đã xử lý như bao cô gái làm tiền khác mà chị đã gặp, nghĩa là tạm giữ ở đồn để chờ đưa đến một trại cải tạo nào đó, hoặc lại thả ra theo đúng như thông lệ.
Cái buổi tối hôm ấy quả thực là Lê My đã không còn lòng dạ nào để tâm đến công việc. Bốn năm ly hôn với Thuật cũng là bốn năm chị phải vật vã với chính mình để chống lại sự cô đơn. Tuổi ba mươi của đời người đàn bà đâu phải “đã toan về già” như người xưa nói. Một người con gái chưa qua cuộc sống gia đình, chưa qua sự chung đụng vợ chồng, ở tuổi ba mươi, họ vẫn chưa bị đánh thức những khát vọng. Giống như một người được thừa hưởng một gia tài lớn nhưng lại chưa được cầm chúc thư, chưa được luật pháp thừa nhận quyền kế thừa, nên họ tưởng như hành trang của đời mình không có gì. Những người đàn bà đã từng có chồng, đã từng có một cuộc sống gia đình, không giống như thế. Rõ ràng là họ đã bị tước đoạt, bị đánh mất đi cái phần gia tài mà họ đã có. Gia tài càng lớn, tức là tình yêu của họ, những hoài bão và công sức của họ ký thác ở cuộc sống gia đình đã qua càng lớn, thì sự mất mát ấy là không thể bù đắp được. Với Lê My cũng vậy.
Chị đã dâng hiến và gửi gắm ở Thuật toàn bộ cuộc đời con gái. Bản tính của chị là người đàn bà hướng về cuộc sống gia đình nhiều hơn là cuộc sống xã hội. Chị không lấy mục đích là những nấc thang danh vọng trong xã hội. Như bao người đàn bà bình thường khác, chị luôn chăm lo cho tế bào tổ ấm gia đình. Cuộc chia tay với Thuật thực sự là một đổ vỡ lớn trong cuộc đời chị. Và như một lẽ tự nhiên, bốn năm qua Lê My đã phải gồng mình lên để sống. Bộ sắc phục màu cỏ úa mà chị thường xuyên vận trên người phần nào đã giúp chị tạo nên một bề ngoài khô cứng cần thiết, giúp chị che khuất đi cái phần mềm yếu bên trong. Lê My trống trải và cô đơn. Chị lấy công việc, lao vào công việc để khoả lấp đi những giây phút buồn chán, những ngày dài dằng dặc.
Có khá nhiều người đàn ông đã tìm đến với chị. Quả tình là chị vẫn có một sức hấp dẫn của người đàn bà đang bộc lộ hết vẻ đẹp nữ tính.
Trong số những người đàn ông đến với Lê My một cách nghiêm túc và chân thành có Đặng Phong. Anh là cán bộ có uy tín trong một cơ quan nhân đạo của Chính phủ. Phong cũng đang trải qua một bi kịch gia đình. Vợ anh trong bốn năm công tác ở nước ngoài đã trở thành một người đàn bà khác. Chị ta dan díu với một gã trai ít hơn mình tám tuổi. Hai người rủ nhau trốn qua Tây Đức không thành. Họ hùn nhau vốn để làm ăn, hùn nhau tình cảm và thể xác để hưởng lạc. Về nước, mối quan hệ của họ vẫn ngang nhiên công khai, bất chấp mọi dư luận. Đặng Phong biết mình bị cắm sừng, nhưng anh vẫn kiên trì thuyết phục. Nhưng rồi chính anh cũng không thể nhẫn nhục hơn được nữa. Anh viết đơn ly hôn, với hy vọng sẽ giải thoát cho cả hai người.
Lê My gặp Đặng Phong trong một cuộc họp liên ngành bàn về công tác ngăn ngừa tội phạm. Ánh mắt của Phong hôm ấy rõ ràng làm chị bối rối. Chị có cảm giác như anh đã đọc được những ý nghĩ của chị, hiểu được phần nào cuộc đời chị. Sau này, khi đã quen nhau rồi, Phong bảo: “Lâu lắm rồi tôi mới bắt gặp một ánh mắt phụ nữ làm tôi ấm áp và yên tĩnh lại”. “Yên tĩnh cái gì cơ? Chỉ có những đôi mắt không còn sức sống mới làm cho người ta yên tĩnh. Nó chẳng làm xáo động nổi một cái gì cả.” Lê My đã nói với Phong thế. Họ thân nhau và ngày càng hiểu rõ hoàn cảnh của nhau. Có những buổi chiều hai người rủ nhau đi chơi hồ, có những buổi tối Phong mua vé cho hai mẹ con My cùng đi xem.
Cho đến buổi chiều hôm ấy… Phong bỗng đột ngột gọi điện thoại đến cơ quan chị. “Tối nay My có bận trực ban không?” Dạ có. Phiên em trực từ mười giờ”. “Vậy Lê My đi sớm lên một chút nhé. Tám giờ được không? Tôi có một việc cần muốn nói chuyện với Lê My”. “Trưa mai không được ư?”. “Hình như không thể được. Nếu không phải tối nay thì có lẽ không thể có lúc nào được nữa.”
Họ gặp nhau đúng tám giờ ở một nơi hẹn trước. Cả Lê My và Đặng Phong cùng có vẻ bối rối. Hình như họ đã đọc thấy ý nghĩ nhau cả rồi. Họ sóng xe đi trên con đường đôi quen thuộc. Họ cùng ngồi trên chiếc ghế đá bên mép hồ.
- Lê My ạ. Tôi quyết định phải nói ra cái điều mà lâu nay vẫn ấp ủ… Cả hai chúng mình đều chẳng còn trẻ trung gì nữa. Hình như chúng ta đã hiểu nhau cả rồi…
Trống ngực Lê My bỗng đập rộn. Hình như chị đã chờ đợi những điều Phong nói từ lâu. Đã hơn một năm nay rồi hình ảnh của anh luôn tràn ngập trong tâm trí chị. Nhiều đêm nằm bên bé Trang, ôm con vào lòng nhưng chị làm thầm nói chuyện với Phong. Chị ao ước giá như Phong trở thành người tự do.
- Tôi đã kiệt sức vì cô ấy rồi My ạ. Đã mấy lần toà án gọi, nhưng cô ấy đều khước từ. Cô ấy thực sự muốn hành hạ tôi, muốn ràng buộc tôi vĩnh viễn. Bởi cô ấy biết rằng có tôi, cô ấy sẽ hoàn toàn yên tâm về việc chăm sóc, dạy dỗ con cái dể cô ấy tự do với các mối quan hệ…
- Anh không có cách nào để thuyết phục chị ấy quay lại ư? Em nghĩ rằng nếu chị ấy không muốn li hôn tức là chị ấy còn yêu và gắn bó với anh…
- Không. Tôi không còn đủ kiên nhẫn để chịu đựng… - Giọng Phong bỗng nghẹn lại. Hình như anh đang khóc.
Lê My nhấc bàn tay lên. Chị muốn đặt bàn tay mình lên tay anh. Chị thương và yêu anh. Nhưng chị vội rút tay lại và khẽ dịch người ra xa Phong.
- Lê My ạ… Em có hiểu không? Tôi yêu em… Tiếng Phong đứt quãng. Anh quay lại choàng tay lên vai My.

My tưởng như mình sẽ đổ oà vào ngực anh, ôm chầm lấy anh mà khóc trong một niềm hạnh phúc tột cùng. Chính chị đã chờ đợi cái giây phút này từ lâu. Có những đợt xa Phong lâu, chị thấy nhớ anh cồn cào. Chị hiểu rằng, chỉ cần anh nói một lời, chị sẽ hoàn toàn thuộc về anh.
Vậy mà không. Lê My đã gỡ hai bàn tay Phong ra khỏi vai mình.
- Không nên… anh Phong. Chúng ta chỉ nên coi nhau như bạn. Em không thể giành giật hạnh phúc của người khác… My nói và vội vã đứng dậy.
Đó là cái giây phút mà con người lý trí đã chế ngự Lê My, khiến chị trở nên khô cứng khác thường. Chị đi như chạy về nơi gửi xe đạp, bỏ mặc Đặng Phong ngồi lại trên ghế đá. Lên xe rồi Lê My mới khóc được. Nước mắt làm mờ cả con đường. Chị thương Phong vô cùng, trách mình vô cùng. Chị thấy chán ngán cho chính mình. Yêu mà không dám đi tới cùng, không dám đón nhận lấy hạnh phúc.
Chính buổi tối hôm ấy Lê My đã gặp Quê và cái lão lái trâu Khúc Văn Khích.
Chính cái đêm đưa Quê về nhà, Lê My lại càng nghĩ nhiều đến Phong. Biết anh là người đang chủ trì việc thành lập làng SOS (làng nuôi dạy trẻ em không nơi nương tựa), chị liền nảy ra ý định nhờ Phong giúp cho Quê được vào làm việc ở đó. Một chân lao động, một công việc cấp dưỡng thôi cũng đủ làm cho cuộc đời Quê trở nên lương thiện.
Lẽ ra phải rất lâu sau Lê My mới đủ dũng cảm để gặp lại Phong được. Chị muốn Phong nguôi quên đi. Chị thấy cần phải tôn trọng cái phần lý trí tuy khô cứng nhưng rất hợp đạo lý của mình. Nhưng vì Quê, chị vẫn phải gặp Phong. Tìm cho Quê một công việc tức là đã cứu vãn được cho cô phần đời dài dặc phía trước.
Đặng Phong đã nhận lời giúp Quê một cách nhiệt tình. Ngay buổi chiều ấy anh cùng Lê My về nhà để gặp Quê. Nhưng Lê My đã làm công việc của dã tràng xe cát. Quê đã trốn chạy.
☆☆☆
Lê My đi tìm Quê suốt hai ngày. Như một người đàn bà thất tình, chị đã đi tha thẩn trong cái công viên “chiến khu” hàng buổi. Chị dò la tìm kiếm trong các xó chợ. Chị đứng chờ bên bờ hồ buổi tối như một gái làng chơi đang tìm khách. Bao nhiêu gã đàn ông ỡm ờ trêu chọc. Bao nhiêu kể bụi đời lân la gạ gẫm, gây sự. Vẫn không tìm thấy Quê.
Nhưng rồi tình cờ, sáng ấy, khi Lê My bước chân tới phòng phạm nhân gặp gỡ người nhà trong trại giam thì chị bỗng nhận ra Quê trong đám người nhà vào tiếp tế cho đám tù thường phạm. Người mà Quê đang ngồi nói chuyện là một thanh niên cao gầy, đầu húi cua, trạc ngoài ba mươi tuổi. Gã có đôi mắt to buồn, mệt mỏi. Một vết sẹo dài, láng bóng chạy từ giữa má trái xuyên ngang dái tai khiến khuôn mặt gã có vẻ dữ dằn và khắc khổ.
Quê ngồi mớm ở một đầu ghế băng, giữa cô là một túi ni lông trong đó đựng một vài gói nhỏ, hai hộp sữa Ông Thọ, mấy cặp bánh mì… Họ nói với nhau một câu chuyện gì đó, thầm thì và rời rạc. Thỉnh thoảng Quê lại nhìn gã, ánh mắt và điệu bộ có vẻ thân tình trìu mến lắm.
Sao Quê lại đến đây? Cô ta có liên hệ với cả những kẻ phạm pháp nữa ư? Lê My tự đặt câu hỏi và chị cảm thấy Quê hoàn toàn không phải là một cô gái đơn giản như chị tưởng.
Ngồi đợi ở ngoài cổng nhà giam chừng nửa tiếng thì Lê My gặp Quê. Khi nhận ra chị, Quê có vể hốt hoảng.
- Sao em lại lẩn trốn chị hả Quê? - Lê My hỏi, giọng trách móc nhưng không có vẻ gì ác cảm.
- Chị tha lỗi cho em… Em không xứng đáng được chị thương xót. Em không muốn làm phiền chị…
- Đừng nói những điều ấy. Chị chỉ nghĩ rằng em đang rất cần được sự giúp đỡ. Thôi, hãy vào đây, hai chị em mình nói chuyện một lát đi.
Họ rẽ vào một quán giải khát. Lê My gọi hai cốc nước cam.
- Hãy nói cho chị biết, người mà em vừa vào thăm trong trại giam là ai đấy?
- Dạ, anh Hiển, chồng em.
- Chồng em ư? Sao tối hôm ấy em chẳng nói gì với chị? Hiển bị bắt vì tội gì?
- Dạ… Tội đánh người gây thương tích. Anh ấy vào trại đã gần một năm rồi.
- Các em đã có con với nhau chưa?
- Dạ, đã có một đứa. Cháu trai, năm nay đã hơn sáu tuổi.
- Hiện nay cháu ở đâu, với ai? Chị muốn đến thăm cháu một chút.
Quê yên lặng. Những câu hỏi dồn dập và thái độ đầy sốt sắng chân thành của My khiến cô xúc động. Dường như My đã đụng đến phần sâu kín nhất của đời cô. Lâu lắm rồi không có ai ân cần chăm sóc đến cô như vậy, dù chỉ là những thăm hỏi xã giao thuần tuý.
- Chị. Em rất cám ơn chị. Nhưng… Quê khóc. Những giọt nước mắt của người đàn bà thập thành, chai sạn với mọi xúc động không trong veo và tuôn tràn mà chỉ hoen ra hai bên khoé.
- Nhưng làm sao? Nếu em không ngại thì chị đón luôn cháu về chơi với bé Trang. Này, chị có một dự định…
Lê My định nói cái ý định mà chị đã nhờ Đặng Phong xin việc cho Quê. Nhưng chị kịp dừng lại. Không nên nói với Quê những điều mới chỉ là dự định. Lỡ ra việc không thành. Cuộc đời Quê chắc đã bị lừa dối quá nhiều rồi.
Lê My hỏi gặng mãi, Quê mới nói ra cái sự thật đau lòng: nhà cô là một góc công viên, một góc xó chợ, ngoài đứa con trai của cô ra, cô đang ở với một bà già bị con cái ruồng bỏ không nơi nương tựa.
Quả tình trong suốt mười lăm năm trong nghề Lê My chưa bao giờ mường tượng ra một gia đình với tất cả sự khốn khổ và cơ hàn đến thế. Chị và các đồng chí của chị có thể rất thành thạo trong công tác truy lùng thủ phạm, lần tìm ra những đường dây rắc rối và phức tạp của các ổ trộm cắp đĩ điếm, buồn lậu… chứ chưa hiểu biết bao nhiêu về thân phận và những cảnh ngộ của những lớp người bụi bặm luôn luôn phải sống ở cái ranh giới cheo leo giữa người và thú, giữa lương thiện và tội ác. Họ là một thế giới riêng đầy bí ẩn mà chúng ta luôn đuổi theo những tham vọng thường ngày nên dường như đã bỏ quên họ. Trong cái thế giới ấy có thể hội tụ rất nhiều những kẻ cặn bã mà phần lương tri đã bị bán cho quỉ, nhưng có thể cũng còn biết bao người giữ lại những phần tốt đẹp nhất của bản tính người, có thể họ còn nhân ái, cưu mang nhau hơn cả những kẻ đang khoác lên mình bao nhiêu thứ danh vọng, chức tước và những thứ hàng xa xỉ của con người …
Những ý nghĩ ấy khiến Lê My nhìn Quê với một nỗi cảm thông và trân trọng hơn. Nhưng rồi chợt nghĩ đến cái anh chàng tội phạm mà Quê vừa gặp trong nhà giam, lòng chị lại gợn lên một thoáng nghi ngờ. Có thể với chị, cái vở kịch mà Quê đóng mấy ngày qua khá đạt, nhưng hình như cuộc đời của Quê không phải đơn giản như vậy. Cô ta còn có những đường dây, những mối quan hệ phức tạp hơn nhiều. Một cô điếm là vợ của một tù nhân, riêng một điểm lý lịch ấy đã đáng khả nghi lắm rồi. Ý thức cảnh giác nghề nghiệp bảo My như vậy. Chị hỏi lại Quê cái góc chợ ba bà cháu vẫn thường ở, hẹn với cô buổi tối chị sẽ đến thăm, rồi vội vã đạp xe trở lại nhà giam.
Chương IX
Thưa cán bộ, tên tôi là Nguyễn Văn Hiển, sinh năm 1954, trú quán tại số nhà X. phố Y.
Năm 1976, đang làm công nhân ở nhà máy cơ khí Z. thì tôi trúng tuyển nghĩa vụ quân sự, gia nhập quân đội. Tôi đã tham gia chiến đấu ở biên giới Tây-Nam, rồi biên giới phía Bắc. Năm 1979, trong một trận giữ chốt đường biên, tôi bị thương nặng. Một trong những vết thương mà cán bộ có thể thấy trên má tôi đây. Giá như viên đạn đi nhích lên phía trên vài phân nữa, có lẽ lại may mắn cho số phận của tôi. Cán bộ thấy không, vết đạn mà như một vết chém ngang mặt. Ai nhìn cũng bảo đó là một vết chém tặng cho một kẻ có quá nhiều tiền án tiền sự, chứ họ không nghĩ rằng đó là dấu tích của một người đã từng trải qua chiến tranh.
Năm 1980 tôi xuất ngũ với thương tích hai mươi tám phần trăm, được xếp loại thương binh. Nhà máy của tôi đang ở thời kỳ làm ăn khó khăn, lại giảm biên chế, nên người ta tìm mọi cách vận động tôi rời khỏi nhà máy. Tôi trở thành một kẻ thất nghiệp.
Cũng phải nói thêm rằng bố tôi vốn là một nhà tư sản cũ của Hà Nội. Năm 1954, đúng năm tôi đẻ thì bố tôi chạy vào Nam. Mẹ tôi là vợ kế của ông và chỉ có mình tôi là con trai. Tôi có hai người anh và một chị gái nữa khác mẹ còn ở lại Hà Nội. Cho tới trước ngày tôi xuất ngũ trở về, không khí gia đình tôi tương đối hoà thuận. Các anh chị tôi đối xử với mẹ tôi và tôi tuy không thân thiện nhưng cũng chẳng quá tệ bạc.
Cũng năm 1980, bố tôi từ Sài Gòn di tản sang Mỹ theo con đường hợp pháp. Trước khi đi, ông có viết cho mẹ tôi một tờ giấy thừa kế gia sản. Theo tờ giấy này, ngoài hai ngôi nhà đã hiến cho nhà nước năm 1956, ngôi nhà còn lại mà mẹ tôi và các anh chị tôi đang ở, được phân chia đều cho các con cái. Lúc ấy mẹ tôi đang ở gian nhà hầm dưới tầng trệt, ngay sát mặt đường, các anh chị tôi ở trên tầng lầu. Cách phân chia chỗ ở như thế này những năm trước đó rõ ràng là mẹ tôi đã cố ý giành phần thuận lợi nhất cho các anh chị tôi rồi. Bởi vì hồi ấy, tất cả đều là cán bộ, ai cũng muốn ở tầng trên cho sạch sẽ, yên tĩnh, tránh bụi bặm. Các gia đình ở tầng một đâu có biết trổ cửa buôn bán như bây giờ, mà suốt ngày phải đóng cửa im ỉm vì quá bụi và ồn.
Mối bất hoà bắt đầu nảy sinh từ ngày mẹ tôi có cái giấy phân quyền thừa kế tài sản ấy. Đang có phong trào buôn bán. Ai có cửa hàng, ai chiếm được mặt đường là người đó có cơ hội làm giàu. Hai ông anh tôi đều có ý định chiếm gian nhà dưới từ lâu. Lúc này ý định đó càng trở nên bức xúc. Công việc đầu tiên là họ tìm mọi cách chiếm lấy tờ giấy phân quyền thừa kế mà mẹ tôi đang giữ. Họ đạo diễn một vụ trộm. Thế là cái bằng chứng hợp pháp của bố tôi để lại đã lọt vào tay họ.
Như tôi đã thưa với cán bộ, sau khi đi bộ đội về, tôi trở thành kẻ thất nghiệp. Không còn cách nào giúp mẹ, tôi bàn với mẹ tôi mở một hàng nước để mẹ tôi kiếm sống. Riêng tôi, nhờ bạn bè giúp một số tiền, tôi mua một chiếc xích lô, hàng ngày chở hàng thuê cho các cửa hàng mậu dịch và đón khách ở các nhà ga, bến xe.
Một đêm đi làm về khuya, tôi gặp một cô gái lang thang trên đường. Tôi nhớ, đêm ấy là một đêm gió mùa đông bắc. Trời mưa lâm thâm và gió lạnh hun hút. Những bóng điện đường đỏ quạch và run rẩy trong bụi nước. Cô gái chỉ mặc phong phanh một chiếc áo mỏng. Hỏi chuyện, tôi biết cô không có tiền, không người thân thích trong thành phố. Tôi đem lòng thương cảm, đưa cô về nhà. Một tuần sau cô gái ấy chính thức trở thành vợ tôi, đó là Quyên mà cán bộ đã biết.
Cái duyên số đã gắn bó tôi với Quyên như thế. Thực ra hồi ấy tôi là một chàng trai chưa vợ, tuy không có nghề nghiệp tử tế nhưng công việc đạp xích lô cũng chẳng phải là một việc gì quá tồi tệ. Tôi có thể lấy được một cô vợ xinh xẻo hơn, hoặc là có một nghề nghiệp hẳn hoi. Nhưng tôi nghiệm ra hình như đó là định mệnh của mình. Chúng tôi yêu nhau. Mẹ tôi cũng tỏ ra thương và hợp với tính cách cô ấy. Những tháng đầu cô ấy giúp mẹ tôi bán hàng, làm các công việc nội trợ. Hơn bẩy tháng sau, Quyên đẻ một đứa con trai. Mọi người bảo rằng đó không phải là con tôi. Nhưng tôi không coi điều ấy là quan trọng. Chúng tôi đặt tên cháu là Tâm, tên thường gọi ở nhà là cu Tẩm.
Thưa cán bộ, tôi nghĩ rằng chúng tôi sẽ sống hạnh phúc, nếu các anh chị tôi không đối xử với mẹ con tôi tàn ác đến thế.
Ông anh cả tôi có một bà vợ có thể gọi là một con quỷ cái. Vâng. Không có một danh từ nào gọi mụ ta xác đáng hơn thế. Mụ ta tên là Quì, nhưng xin phép cán bộ từ lúc này cho tôi gọi là Quỉ. Quỉ vốn là một nhân viên bán hàng thực phẩm của mậu dịch.
Những năm nhà nước còn bao cấp, tất cả hàng hoá đều phải mua bằng tem phiếu, mụ ta sống như tiên. Ngày nào sau ca bán hàng mụ cũng mang về vài cân thịt, vài cân cá thu loại ngon nhất. Mụ ta thu các ô phiếu rời của các con phe, rồi tuồn hàng cho bọn chúng. Mụ cân điêu cho khách hàng để rút phần tiêu chuẩn của họ mang về nhà. Lương của anh chồng giáo viên mỗi tháng chỉ vài chục bạc, không đủ hút thuốc. Tất cả mọi sinh hoạt gia đình do mụ lo liệu hết.
Nhưng rồi trước sau quỉ vẫn là quỉ. Mụ dính vào một vụ tham ô lớn và bị sa thải.
Vốn máu con buôn, sau khi bị mất việc làm, mụ Quỉ nghĩ tới chuyện bằng mọi cách phải chiếm ngay gian nhà tầng trệt. Mụ bàn bạc với chồng, bàn bạc với các em chồng. Ít lâu sau có một cái đơn gửi lên toà án vu lên rừng mẹ tôi không phải là vợ kế của bố tôi, và tôi không phải là con do ông đẻ ra. Anh cả tôi còn về tận nhà quê, gặp các bà cô bà dì còn sống vận động họ lấy điểm chỉ của họ chứng nhận rằng mẹ tôi chỉ là người ở trong nhà, lợi dụng lúc bố tôi chuẩn bị chạy đi Nam để nhận xằng là vợ kế với mục đích muốn chiếm đoạt tài sản của ông để lại.
Không kịp đợi toà xét xử, họ hùa nhau đuổi mẹ con tôi ra đường. Họ vu chuyện Quyên là cô gái lưu manh trộm cắp ngoài đường được tôi nhặt về nhằm bêu riếu họ hàng. Những ngày ấy chúng tôi sống hết sức cực khổ. Gian hàng của mẹ tôi bị đập phá. Chiếc xích lô của tôi bị bẹp dúm. Quê bị đánh đập thâm tím đến cạn nguồn sữa cho con bú. Có tuần cả nhà không còn một đồng xu, không còn một hạt gạo.
Thế rồi bi kịch bắt đầu ập đến. Thưa cán bộ. Cán bộ có thể tưởng tượng được không? Một đêm Quyên bỏ nhà ra đi. Tôi bế thằng bé đi tha thẩn các phố tìm nhưng đều bặt vô âm tín. Đến ngày thứ ba cô ấy về nhà, trên người khoác một bộ đồ mới, lông mày, mi mắt kẻ chì than, má và môi thoa son đến mức tôi ngỡ như một cô gái xinh đẹp nào đó, không thể nhận ra. Cô ta ào đến bế thằng cu Tẩm, ào vào lòng tôi, xoè ra một xấp tiền và bỗng oà khóc nức nở. Tôi không kịp hỏi mà chỉ ngỡ ngàng về những thay đổi khác thường của cô ấy. Lúc sau cô ấy ôm riết lấy tôi, lạy van tôi như tế sao và kể ra tuồn tuột những công việc cô ấy đã làm trong mấy ngày qua. Trời ơi, cán bộ có tưởng tượng được không? Bốn ngày vừa qua cô ấy làm những việc gì? Ngày đầu tiên cô ấy đến gánh nước, nắm than và rửa bát cho một hiệu phở. Công việc nặng nhọc này cô ấy vốn quen làm, nên dẫu suốt ngày quần quật, Quyên vẫn mừng thầm vì đã kiếm được một công việc để may ra có một ít tiền nuôi chồng con. Cô ấy bảo: “Có một bà ở nông thôn ra làm công cho hiệu phở này hai tháng nhưng vừa bị nồi nước phở đổ vào người. Thật may cho em. Em khoẻ mạnh, lại nhanh nhẹn nên ông bà chủ có vẻ quí em lắm”. Sang ngày thứ hai, vào lúc xế chiều có một ông khách đến ăn phở. Ông ta trạc ngoài năm mươi tuổi và hình như là một khách quen. Suốt từ lúc bước vào hàng, ông ta cứ nhìn Quyên chằm chằm, nhìn suốt từ đầu tới chân, hệt như một gã buôn bò ngắm nghía, soi mói từng bộ phận của con bò mộng. Ông ta trao đổi với chủ quán phở một lúc lâu rồi gọi Quyên ra một góc riêng và bảo: “Tôi đã để ý tới cô từ hôm qua. Cô khoẻ mạnh, nhanh nhẹn lại ưa nhìn, làm cái công việc gánh nước rửa bát này nó phí người đi. Người như cô, tôi biết rất cần tiền, nhưng kiếm đồng tiền một cách thanh thản nhẹ nhàng vẫn hơn chứ. Tôi có một cửa hiệu cà phê nhưng đang thiếu người bán. Nếu cô ưng thì tôi sẽ trả tiền công gấp ba quán phở này. Mà là trả tiền ngay. Ngày nào sào ngày ấy”. Quyên bảo: “Nhưng mà cháu đã chót nhận làm cho hiệu phở này rồi. Giá mà ông nói trước…” Ông kia cười xoà: “Tôi đã trao đổi với ông bà chủ ở đây rồi. Chỗ tôi với bên này đều là anh em cả. Cô đừng có băn khoăn gì cả. Nào, đi sang quán cà phê của tôi ngay bây giờ.” Thế là Quyên chuyển sang quán cà phê ngay bên kia đường.
Thưa cán bộ, đó là một quán cà phê xanh như lâu nay người ta vẫn thường gọi. Một quán cà phê bình thường như bao quán cà phê khác, nghĩa là phía ngoài mặt phố chỉ có một khoảng sân rộng kê những chiếc bàn nhỏ và những chiếc ghế mây thấp được ngăn thành những ô kín đáo. Nhưng phía bên trong mới thực sự là nơi kinh doanh chính của chủ quán. Ba căn buồng rộng được ngăn thành những khoang biệt lập. Mỗi khoang đều có giường, bàn nhỏ và tủ gương. Khách đã vào đây, dù ban ngày hay ban đêm đều được phục vụ theo sở thích, miễn là có nhiều tiền.
Ngay từ lúc bước vào quán, Quyên đã được bà chủ gọi vào phòng trong, đưa cho một bộ đồ xoa mới cùng với đồ lót, xà phòng thơm ca-may bảo đi tắm gội sạch sẽ. Rồi ông chủ gọi lên tầng hai và bảo: “Công việc ở bên này nhàn nhã và sạch sẽ hơn bên quán phở nhiều. Làm ở đây, cơm nuôi ngày ba bữa, quần áo chúng tôi may, lại thêm son phấn… mỗi tháng cô còn được trả thêm hai trăm ngàn. Đó là chưa kể tiền thưởng của khách… Yêu cầu duy nhất đối với cô là phải tuyệt đối chiều khách, coi khách hàng là thượng đế. Phải học cách ăn nói cho vừa lòng khách. Phải học cách đi đứng cho duyên dáng khêu gợi… Đây, tiền tạm ứng trước cho cô một tháng. Cô nhận tiền và ký vào tờ giấy này.”
Thưa cán bộ, đó là một tờ giấy vay nợ. Nội dung tờ giấy viết ông bà chủ quán cà phê cho Quyên bay hai cây vàng. Người vay sẽ phải trả bằng cách hàng tháng làm công cho đến khi nào thanh toán xong tiền công nợ. đọc qua tờ giấy, Quyên sợ hãi không dám ký. Ông chủ lại bảo: “Cô đừng ngại. Sở dĩ phải làm thế này cho đúng thủ tục. Chứ tôi bắt cô vay nợ làm gì. Thôi tuỳ cô, cô có cần tiền tiêu bây giờ thì hãy ký vào”. Xấp giấy hai trăm ngàn cứ dập dình trước mặt. Nghĩ tới một món tiền lớn có thể giúp chồng con vượt qua những ngày khốn quẫn, Quyên đành nhắm mắt ký liều. Ông chủ đút tờ giấy vào túi vào nói: “Từ giờ cô là người của chúng tôi. Phải hoàn toàn phục tùng chúng tôi. Cô sẽ có một cái tên mới là Tuyết Lan. Ngoài việc chạy bàn, cô sẽ phải tiếp khách, cả ban đêm lẫn ban ngày… Trước mắt trong một tuần đầu, cô không được đi đâu ra khỏi nhà. Có ai hỏi cô cứ nhận là cháu gái tôi ở trong quê ra phụ giúp chú. Ở đây nhàn nhã, nhưng mà rất có kỷ luật. Nếu cô vi phạm những điều tôi đã căn dặn thì thằng Thiết Cật kia nó sẽ không để cho cô yên đâu…” Thiết Cật chính là gã vệ sĩ của lão chủ có đôi mắt và bộ mặt hung ác suốt ngày lầm lì như một cái bóng. Gã được chi lương riêng chỉ để làm công tác bảo vệ, canh chừng công an và giám sát các cô gái phục vụ ở trong quán.
Thưa cán bộ, thế là ngay tối đầu tiên Quyên đã phải bán mình. Đến chiều ngày thứ ba, không thể chịu được cảnh xa con, xa chồng, Quyên đành phải trốn về nhà. Cô ấy kể hết cho tôi nghe cảnh ngộ mấy ngày qua, và bảo: “Anh có giết em bây giờ em cũng cam chịu. Nhưng bây giờ thì chẳng còn cách nào khác. Cuộc đời đã đẩy em và anh đến bước đường này thì cũng đành phó mặc. Hoặc là anh bắt em chết bây giờ, hoặc là lão chủ quán sẽ sai thằng Thiết Cật đến đây để giết em, nếu em bỏ trốn…”.
Cán bộ ơi, lúc ấy tôi như muốn hoá điên. Tôi vò tập tiền đến nhàu nát và với lấy con dao định băm vằm cô ấy ra. Nhưng con tôi khóc thét lên. Và mẹ tôi nằm ở góc nhà bỗng lên một cơn đau đột ngột. Thế là tôi ngồi rũ ra, bất lực
Không còn cách nào khác, mấy ngày sau, chính tôi phải dùng chiếc xe đạp tàng lai cô ấy đi hành nghề. Tôi đưa cô ấy đến quán cà phê, rồi chui vào một quán nước uống rượu. Cho tới nửa đêm, khi cô ấy làm xong công việc, tôi lại lai cô ấy về nhà. Có đêm có gã khách sộp nào đó muốn ngủ qua đêm với cô ấy, tôi đành về nhà một mình. Những đêm như thế thường tôi mua một chai rượu để tự hành hạ mình cho tới sáng.
Sống nhơm nhếch như thế, nhưng nào chúng tôi có được yên. Toà án liên tục gọi mẹ con tôi lên hầu kiện. Một vài kẻ ăn đút lót liên tục đến gây sức ép đuổi mẹ con tôi ra đường. Mụ Quỉ ngày nào cũng hắt nước bẩn, đổ chất thải xuống cửa nơi chúng tôi ở. Một hôm nhân lúc tôi đi vắng, mụ thuê một bọn du côn đến hành hung bà cụ. Chiều ấy uất quá, bà cụ đã uống thuốc sâu tự tử…
Thưa cán bộ. Cái chết của mẹ tôi khiến tôi suy sụp. Đến lượt vết thương tái phát khiến tôi nằm bẹp ở nhà. Người duy nhất có thể nuôi sống gia đình là Quyên. Bây giờ thì cô ta phải đi hành nghề một mình. Cô ta làm điếm để nuôi cả nhà.
Chưa đạt được mục đích, mụ Quỉ vẫn chưa chịu buông tha. Hôm cúng một trăm ngày mẹ tôi, mụ ấy xuống lôi bát hương quăng ra đường. Mụ ấy sai con đánh đuổi mẹ con Quyên ra khỏi nhà. Không còn chịu được nữa, tôi vớ con dao rựa nhảy chồm từ trên giường xuống bổ cho mụ ta mấy nhát. Người ta đưa mụ Quỉ đi cấp cứu, còn tôi thì bị bắt đến đây… Thế là mục đích của vợ chồng mụ Quỉ đã đạt được. Tôi vào nhà giam, mẹ con Quyên tất phải ra đường. Nghe đâu cái nhà tầng trệt ấy bây giờ đã trở thành một của hàng kinh doanh vàng bạc.
Thưa cán bộ, cuộc đời như thế đó. Ít ra tôi còn được sống trong một gian nhà như thế này. Còn mẹ con Quyên, cán bộ có biết cô ấy hiện sống ở đâu không?
Chương X
Những lời khai của Hiển, như nỗi ám ảnh, gieo vào lòng Lê My một tâm trạng nặng nề. Đằng sau một vụ án là cả những chuỗi sự kiện rối rắm và phức tạp, là những thân phận đầy uẩn ức, những mưu mô và thủ đoạn vượt hẳn ra ngoài tính người. Nhờ cuộc gặp gỡ với Hiển trong nhà giam, Lê My lại hiểu thêm một phần đời của Quê. Chao ơi, từ cái vụ bị hãm hiếp ở khách sạn Tương Lai ấy, cho đến cái mối tình thơ mộng với anh chàng Long ở làng, mới chỉ là những khúc dạo đầu của một thảm kịch. Đoạn cuộc đời những năm sau này của Quê, My vẫn hoàn toàn chưa biết. Đó chắc mới là những sóng gió nhất, là cái dòng xoáy nhấn chìm Quê xuống, đẩy cô tới đáy vực bây giờ. Phải đến thăm “nơi ở” của Quê, gặp người mẹ bất đắc dĩ và đứa con bờ bụi của cô - Lê My tự đặt nhiệm vụ cho mình. Công việc nghề nghiệp không nhất thiết bắt chị phải làm như vậy. Những “đối tượng” này hoàn toàn nằm ngoài địa bàn chị phụ trách, ngoài nhiệm vụ chị được giao. Nhưng đây là trách nhiệm của lương tâm. Chị hoàn toàn tự nguyện và thấy nhất thiết phải làm công việc này. Cố yêu lấy một con người, cố làm một cái gì đó để giúp họ thoát khỏi một thảm cảnh, công việc này còn cao cả và ý nghĩa hơn rất nhiều việc hoàn thành bổn phận một công chức thuần tuý. Huống chi đây không phải chỉ một mà là ba con người. Yêu và giúp được cả ba con người trong hoàn cảnh đời sống hiện nay, thật khó thay. Nhưng hãy cứ thử bắt đầu xem.
Lê My đang chuẩn bị để đến cái xó chợ ấy thì Quê hớt hải chạy đến. Mái tóc cô ta rối bù, da mặt bợt tái, và đôi mắt thất thần như vừa trải qua một cơn hoảng loạn.
- Sao thế Quê? Có việc gì thế?
Quê oà khóc, tiếng vỡ ra trong nước mắt.
- Chị hãy cứu em với… Thằng cu Tẩm bị bắt mất rồi…
- Sao? Ai bắt? Công an ư?
- Em cũng chưa biết đích xác. Trưa nay nó đi với bà em. Hai bà cháu dắt nhau ra phố bia để ăn xin. Đến lúc bà quay lại thì không thấy cháu đâu nữa. Em đoán rằng đúng lão ta. Lão ấy mới từ mạn ngược về…
- Mẹ mìn… - Lê My bật thốt lên. Chị nhớ lại những hiện tượng trẻ em bị bắt cóc trong thời gian gần đây. Có một đường dây buôn bán trẻ em từ các tỉnh đồng bằng lên biên giới. Ngay ngày hôm qua tại bến xe Long Biên đã phát hiện ra vụ bắt cóc ba đứa trẻ.
- Phải điện báo ngay cho các đồn công an - Lê My dứt khoát - Em hãy viết ra giấy đặc điểm và nhận dạng của cháu. Chị sẽ lên báo cáo ngay với lãnh đạo cho triển khai tìm kiếm.

- Nhưng chị ơi, hình như là lão ta đấy chứ không phải mẹ mìn đâu - Quê nối.
- Lão ta là ai? Em phải kể rõ với chị đi.
Và Quê đã kể vắn tắt cho Lê My nghe về Toại, và cái quãng đời ba năm ở lâm trường H. ấy.
- Rất có thể lão Toại đã bắt cóc thằng bé - Lê My nói - Nhưng vẫn phải đề phòng khả năng thứ hai là thằng bé bị mẹ mìn bắt cóc mang bán lên biên giới. Chúng ta sẽ triển khai tìm kiếm theo hai hướng. Bây giờ chị bàn với em về hướng giải quyết trường hợp bà cụ Nụ. Không thể để bà cụ lang thang với em như thế được. Chị sẽ lên gặp con gái và con rể cụ, bảo họ về đón bà cụ. Riêng trường hợp của em cũng phải lo một hướng sống chắc chắn cho đời mình. Em không được lang thang hành nghề này nữa. Lẽ ra công an sẽ đưa em đến một trại cải tạo. Nhưng chị thương em, chị đã đứng ra bảo lãnh. Bây giờ thế này, em có thể trở lại quê hương được không?
- Em van chị… Chị hãy thương lấy em… Em không thể vác mặt về quê được nữa rồi. Đã chín năm nay em không dám về làng…
Quê nói van vỉ, gương mặt cô dăn dúm lại, như thể cô sắp phải chịu một cực hình.
- Có một hướng khác mà chị đang cố giúp em. Nếu công việc này thuận lợi thì coi như em đã thực sự đổi đời.
Lê My nhớ lại buổi gặp Phong. Suốt cả một tuần Phong đã đi gõ cửa khắp các cơ quan có liên quan đến làng trẻ em SOS để lo việc cho Quê. Chưa bao giờ Lê My nhờ anh một việc gì, cho nên Phong coi công việc này như một ân huệ và chị đã chiếu cố giao cho anh. “My cứ yên tâm. Chỉ tiêu tuyển người của làng SOS vẫn còn. Sắp tới làng sẽ mở rộng quy mô, đón thêm năm trăm trẻ em nữa. Anh đã làm việc với Bộ lao động - xã hội để xin một chỉ tiêu. Anh coi công việc này như chính công việc của anh. Tạo điều kiện để em yêu được một người khác, tức là...”
Phong đã nói với Lê My như thế. Anh nhìn chị với cái nhìn của một kẻ sẵn sàng nhảy vào lửa nếu chị ra lệnh.
Ngay ngày hôm sau Lê My cùng một chiến sĩ công an nữa đi xe máy lên thị xã H. Đó là một thị xã trung du với những con đường đất đỏ và những hè phố bụi bặm. Mới hai năm Lê My không lên đây mà quang cảnh đã thay đổi đến không thể nhận ra. Hàng hoá bày bán la liệt khắp hai bên đường. Đông nhất là những quán ăn, hiệu chữa xe máy, điểm bán xăng. Chỗ nào cũng thấy xăng bia phơ-thịt cầy. Máy cátxét mở xập xình suốt ngày. Có cả các điểm chiếu vi-đê-ô không thu tiền. Vừa ngồi ăn, vừa uống giải khát, vừa thưởng thức một phim chưởng Hồng Kông hoặc một băng cải lương mùi mẫm. Nhưng đáng lưu ý nhất là những khu nhà tầng chồng đống những hộp diêm, cái nào cũng mô đéc, bề thế, cái nào cũng granitô, ốp gạch giếng Đáy và sơn quét loè loẹt. Có một cái phố mới ở ngay đầu thị xã toàn những ngôi nhà ba tầng, nhà nào cũng như một biệt thự. Chưa có tên phố, nhưng dân chúng gọi là “phố Quan” bởi đây là khu đất tỉnh cấp cho các cán bộ đầu ngành, các chức sắc vừa có quyền thế vừa có máu mặt trong tỉnh. Hoá ra không có vị nào nghèo cả. Mười lăm, hai mươi năm cách mạng chẳng anh nào không giấu trong túi áo vài chục “cây”. Thời buổi bao cấp trước kia họ giả nghèo giả khổ để được nhà nước cấp nhà, chịu ở chen chúc trong các khu tập thể hoặc các khu nhà tầng như những chuồng chim câu, bây giờ được phân đất, cán bộ có quyền sở hữu và nhượng bán nhà cửa, thế la bung ra, “cây”, “chỉ” biến thành biệt thự, xe cúp, quán hàng. Có anh mới đi theo cách mạng dăm năm, nhưng nhờ rơi vào đúng các công ty Mex, ốp hoặc nhờ đứng ra cai quản việc xây dựng công trình A, công trình B mấy đợt, cũng kiếm bằng mấy những người tham gia từ ngày đầu cách mạng nhưng liêm khiết, ngờ nghệch.
Nhà của vợ chồng Danh Vọng nằm ngay ở giữa khu phố Quan. Đó là ngôi biệt thự ba tầng, gian ngoài là cửa hàng có cửa sắt kéo. Qua một khoảng sân rộng nữa thì dến ngôi biệt thự. Mỗi tầng có đến bốn phòng, chạy dài hun hút suốt từ mặt đường tới cánh đồng phía sau. Chỉ nhìn qua cơ ngơi nhà cửa, đủ biết chủ nhân của nó là người có sức mạnh như thế nào?
Cái oai và cái giàu của chủ nhân được biểu diễn trước tiên bằng đàn chó. Hai con chó béc giê to như hai con bê mộng từ trong nhà nhảy chồm ra để biểu dương sức mạnh. Chúng nhảy dựng đứng hai chân lên chấn song cửa sắt, cái mõm đen nhôm nhôm há ra đầy răng và lưỡi. Rồi ba con chó Nhật lũn cũn chạy ra biểu diễn sự sang trọng ăn chơi của chủ nhà. Người ló mặt ra sau cùng để điều khiển lũ chó đi vào là chủ nhân, một người to bè, mặt đỏ bự màu gạch cua, mới hơn bốn mươi tuổi mà má đã chảy sệ và cái cổ đã sắt khúc thành từng ngấn.
Thấy Lê My và chiến sỹ cùng đi mặc sắc phục công an, Danh Vọng đã thất sắc. Anh ta quát tháo ầm ĩ lũ chó và rối rít mời hai người vào nhà.
- Xin chào các đồng chí. Các đồng chí cứ đưa xe vào trong nhà. Quí hoá quá. Ngày chủ nhật mà các đồng chí cũng bớt chút thời gian đến thăm thì thật là hân hạnh - Danh Vọng nói giọng như người viêm xoang mũi lâu ngày, ngôn ngữ nửa trong cuộc họp nửa dùng khi giao dịch buôn bán nghe đến tức cười. Rồi anh ta gọi với xuống nhà dưới. Một người đàn bà chạc bốn mươi, múp míp như một mụ Nanông lạch bạch từ bếp lên, hai tay cứ xoắn xuýt lại với nhau vừa chào vừa bẻ các ngón khùng khục.
Rõ là một lớp thị dân mới, vùa đài các rởm, vừa quê mùa - Lê My thầm nhận xét hai vợ chồng. Chị đưa mắt nhìn ngắm gian nhà khách choáng lộn với tủ gương, tủ buýp phê, sa lông bọc đệm mút, giường Đức, tủ lạnh, vi-đê-ô… mà lại chạnh nghĩ đến bà cụ Nụ khốn khổ giờ này có lẽ đang lê bước đi xin ăn trên các vỉa hè.
Thấy khách lạ từ lúc vào nhà vẫn im lặng chưa hề nói rõ lý do gì, vợ chồng Danh Vọng càng thấy phấp phỏng. Anh chồng đưa mắt cho chị vợ, rồi mạnh dạn đằng hắng:
- Dạ, báo cáo… các đồng chí đến thăm gia đình hay…
- Chúng tôi đến thăm gia đình thôi anh chị ạ.- Anh chiến sỹ đưa mắt ra hiệu cho Lê My, ý muốn chị hãy để mặc anh đi vài đường thăm dò đối tượng - Nghe nói anh đang làm việc ở công ty Luđamêx, một công ty đang làm ăn phát đạt của tỉnh?
- Thưa vâng, báo cáo hai đồng chí, công ty Luđamếch chúng tôi mới thành lập vài năm nay nhưng hiện là đứa con cưng của tỉnh. Chúng tôi kinh doanh tổng hợp nên vất vả lắm các đồng chí ạ. Ấy, có dễ đến hai tháng rồi hôm nay vợ chồng tôi mới có một ngày chủ nhật. Tôi làm trưởng phòng giao dịch, nhà tôi làm thủ kho, công việc bấn bíu lắm các đồng chí ạ. Thời buổi cơ chế thị trường, phải nhanh nhạy, năng động mới sống nổi.
- Trưởng phòng mà đã có cơ ngơi như thế này, chắc ban giám đốc còn khang trang hơn nhiều…
- Ấy chết, công ty chúng tôi đang thời kỳ trứng nước…. Cái nhà này là do vốn liếng của các cụ nhà tôi ở quê giúp đỡ đấy ạ. Vợ chồng cán bộ lương ba cọc ba đồng, lại một lũ con, lo sao được hở các đồng chí.
Lê My thấy khó chịu vì cái câu chuyện vòng vo giả tạo. Chị nói:
- Hình như một tuần trước đây anh chị có thông báo một tin trên đài về việc tìm người nhà?
- Dạ vâng, đúng đấy ạ - Chị vợ vội nói - Bà cụ đẻ ra em bị lạc nhà từ ba tháng trước. Chúng em đã cất công đi tìm kiếm mãi. Ôi, có thật là anh chị đã tìm thấy giúp bà cụ nhà em không?
- Chẳng nói giấu gì các dồng chí, b cụ nhà tôi lẩn thẩn - Anh chồng nói - Cụ đi ra chợ rồi bị lạc. Khổ quá, tôi đã bảo với nhà tôi, bà già rồi, không được để bà làm một việc gì cả. Ấy thế các đồng chí đã đưa giúp bà mẹ tôi lên đây rồi chứ ạ?
- Đưa lên thì dễ thôi anh chị ạ. Nhưng chúng tôi muốn anh chị về đón cụ. Bà cụ bị mệt đang nằm bệnh viện.
- Trời ơi, mẹ ơi- Chị vợ bỗng ôm mặt khóc hu hu - Mẹ mà làm sao thì con ân hận suốt đời.
Cả hai vợ chồng cùng cuống cuồng hỏi thăm, làm như suốt mấy tháng nay họ không thể nào ăn ngon ngủ yên vì quá thương nhớ bà mẹ già.
Nhưng đến lúc ai là người đi đón mẹ thì cả hai cùng đùn đẩy. Anh chồng lấy cớ ngày mai phải làm việc với Công ty xuất nhập khẩu tỉnh T. Chị vợ nói rằng chị không quen đi tầu xe, với lại ở nhà còn biết bao nhiêu công việc.
- Thôi được, nếu anh chị quá bận không thể đi đón bà cụ được thì chúng tôi sẽ giúp - Lê My nói và cùng người đồng ngiệp đứng dậy - Thực ra chúng tôi biết rất rõ vì sao cụ bỏ nhà ra đi. Không có chuyện lạc nhà đâu. Về chi tiết này cả anh và chị đều không trung thực. Chúng tôi đến đây chỉ muốn được thấy sự hối hận của anh chị vì đã trót đuổi mẹ ra khỏi nhà. Nhưng thật buồn cho nhân tình thế thái. Trong thâm tâm, cả anh và chị đều không muốn đón bà cụ về. Việc thông báo trên đài chỉ là một động tác chiếu lệ, một hành động sĩ diện mà thôi. Nếu quả vậy thì dù có trở về, bà cụ cũng không thể tiếp tục sống với anh chị được đâu. Chúng tôi sẽ báo cáo việc này với lãnh đạo. Có lẽ nên đưa cụ tới một trại dưỡng lão…
- Ấy chết, thưa đồng chí, đồng chí hoàn toàn hiểu lầm chúng tôi rồi. - Anh chồng kêu lên.
- Chị ơi, đừng nghĩ ác cho chúng em - Chị vợ mếu máo - Máu chảy ruột mềm, mẹ đẻ ra mình sao chúng em lại dám phụ bạc.
Cả hai vợ chồng đều ra sức thanh minh rằng họ thực sự là những người con hiếu thảo, rằng họ chỉ tha thiết mong được gặp bà cụ, rằng được phụng dưỡng mẹ già những năm cuối đời là một niềm hạnh phúc của họ, vân vân. Cuố cùng, họ cũng tỏ lời hết sức biết ơn tinh thần trách nhiệm và tình cảm ưu ái riêng của hai đồng chí công an với vợ chồng họ và hẹn đúng chín giờ sáng ngày mai họ sẽ có mặt ở thành phố để đón người mẹ kính yêu.
Ngày hôm sau, đúng giờ hẹn, hai vợ chồng Danh Vọng lai nhau trên chiếc xe cúp DD đỏ rực đến trước đồn công an K. Lê My đã đợi sẵn họ ở đó. Chị thông báo ngay:
- Xin lỗi anh chị, chúng tôi có mời cụ đến đây, nhưng cụ bị mệt không thể đến được.
- Sao? Mẹ em vẫn còn nằm trong bệnh viện ư? - Chị vợ bỗng ôm mặt khóc hu hu, còn anh chồng thì bỗng nhiên cáu bẳn.
- Làm gì mà đã như đưa đám. Xin lỗi chị, chị có thể cho vợ chồng tôi đến gặp bà cụ.
- Anh chị ngồi chơi, đợi tôi một lát.
Lê My đi vào phòng trong. Chị cảm thấy phân vân, cố tìm một cách giải quyết nào tế nhị hơn là kế hoạch tối qua Quê đã bàn với chị.
Tối qua, sau chuyến đi lên thị xã H. Lê My đến ngay cái góc chợ để tìm gặp bà cụ Nụ và Quê. Vừa thông báo về chuyến đi của mình, bà cụ Nụ đã giẫy nảy:
- Tôi nhất định không về với vợ chồng nhà nó đâu chị ạ. Cứ coi như tôi không có con cái. Sống nhờ bàn dân thiên hạ thế này hoá ra lại thanh thản. Với lại tôi sống với con Quyên, thằng Tẩm đã quen rồi. Tôi phải ở đây để đợi tìm thằng Tẩm về. Thà ăn một miếng bố thí nhưng có tình nghĩa với nhau còn hơn là ngồi mâm cao cỗ đầy mà coi nhau như con sen người ở…
- Nhưng cụ ơi, anh chị ấy đã nghĩ lại rồi. Cụ cứ về, nếu có điều gì chúng cháu sẽ lên giải quyết.
- Thôi, chị thương tôi thì cứ cho tôi ở lại đây với mẹ con nhà Quyên. Tôi đã coi chúng nó như con cháu mình rồi…
Biết làm sao? Lê My thở dài. Sự tổn thương ở người mẹ này lớn đến mức bà không thể tin ở sự phục thiện. Chị đành bàn với Quê một kế hoạch. Và gây giờ cái kế hoạch ấy đang được họ ngấm ngầm thực hiện.
Vào khoảng gần trưa, khi cái phố bia bắt đầu vào thời điểm đông vui nhất, Lê My mới ngỏ ý mời hai vợ chồng Danh Vọng đi dùng tạm bữa trưa. Danh Vọng vốn là người rất nhạy cảm trong chuyện xã giao đón lời gợi ý của Lê My, anh ta biết ngay đây là một kiểu “vòi vĩnh” quen thuộc nên sốt sắng đi ngay.
- Ấy chết. Tôi phải mời chị chứ ai lại để thế. Hay lắm, hồi này tôi rất thích dùng món bia hơi. Cái món bia hộp rất dễ dùng phải của rởm. Còn bai Tàu uống đầy bụng lắm, không lợi tiểu…
Họ chọn một quán bia dưới gốc một cây xà cừ bên vỉa hè. Chị vợ thì cứ nhăn nhó như ngồi trên đống kiến lửa. Có lẽ một phần vì nóng ruột muốn gặp mẹ, một phần vì sợ anh chồng trưa nay phải chi một món quá đậm để đãi khách.
Danh Vọng tỏ ra là một người rất biết điều. Anh ta gọi một lúc sáu vại bia, một đĩa tái dê, ba bát bồ dục trần và một đĩa ốc luộc.
- Mời đồng chí. Nào, thay mặt nhà tôi, tôi xin cám ơn đồng chí trước. Hôm nay đón được bà cụ về thì chúng tôi phải nhớ ơn các đồng chí suốt đời…
Lê My cầm cốc bia chạm với Danh Vọng nhưng chị lại đặt xuống bàn không uống. Đây là lần đầu tiên chị ngồi ở cái phố bia này. Chị cảm thấy mình thật lạc lõng với nhịp sống quay cuồng xung quanh. Bia ở các bom ồng ộc xả ra các cốc. Bia trào bọt lênh láng ra các mặt bàn. Các cô gái trẻ tấp nập đi lại, đon đả chào khách. Cả một dãy hè phố chộn rộn, khói um, thơm lừng mùi xào nấu. Người ăn uống ngồi chật các bàn. Và người ăn xin mỗi lúc kéo đến cũng đông đúc không kém. Có những tốp trẻ con dắt díu nhau, bế bồng nhau lần lượt đi từng hàng ngửa tay xin tiền. Những bà cụ già đội nón mê chùm hụp. Có cả những anh còn rất cường tráng nhưng lại cố làm ra vẻ tiều tuỵ khốn khổ. Họ họp nhau thành một đội quân ăn xin chuyên nghiệp. Họ đánh trúng tâm lý của các vị khách sộp là luôn luôn tỏ ra cao thượng, luôn luôn sĩ diện với bạn bè.
Tim Lê My bỗng thót lại khi chị thoáng nhận ra bà cụ Nụ từ góc phố trước mặt đang đi lại. đúng như kế hoạch của Quê, Quê đã bố trí để bà cụ Nụ cũng hoàn toàn không hay biết. Cái dáng thấp nhỏ của bà cụ trưa nay trông lại càng còm cỗi, khổ sở. Giá như còn thằng Tẩm có lẽ cụ sẽ đỡ côi cút hơn. Cặp bài trùng ấy bây giờ chỉ còn có một người.
Khi bà cụ chỉ còn cách chỗ Lê My ngồi chừng chục mét thì Lê My không chịu đựng nổi nữa. Nước mắt chị tự nhiên chảy tràn trên má. Chị không dám nhìn bà cụ, không dám nhìn cả vợ chồng Danh Vọng đang ăn uống một cách thản nhiên trước mặt.
- Xin lỗi anh chị, tôi phải đi có việc một lát - Lê My nói và chị vội vã đứng dậy, đi như chạy sang bên kia đường.
Mình ác độc quá chăng? Để cho con gặp mẹ trong một cảnh ngộ trớ trêu như thế này thật quả là tàn nhẫn. Lê My bỗng thấy ân hận. Chị định quay trở lại ngăn bà cụ Nụ không để cụ gặp vợ chồng Danh Vọng. Nhưng không kịp nữa rồi. Chính lúc ấy đôi bàn chân đất với hai ngón cái choãi ra như bàn chân của người Giao Chỉ của bà cụ Nụ đã chạm đúng cái hòn gạch lát hè, nơi vợ chồng Danh Vọng đang ngồi. Một bàn tay bà cụ giữ lấy cái túi cói bên sườn, bàn tay kia giơ ra, huơ một vòng trước mặt.
- Xin ông bà làm phúc…. Xin ông bà cho cái thân già này đồng bạc…
Chị vợ sững sờ đánh rơi chiếc bát bồ dục trần. Vại bia đang đưa lên miệng anh chồng bỗng đổ ộc xuống cổ áo.
- Ối mẹ ơi, sao mẹ lại nỡ đầy ải mình thế này? Con đây. Cái Thoa của mẹ đây. Con lạy mẹ. Mẹ hãy về với chúng con…
Cả dãy phố bia nhớn nhác. Người ta kéo đến đông đặc, vây kín vòng trong vòng ngoài.
Lê My hốt hoảng quay trở lại. Chị không ngờ sự việc lại vỡ lở ra như thế. Phải nhanh chóng đưa họ trở lại đồn công an để giải quyết. Với vợ chồng Danh Vọng, bài học này đã quá đủ rồi.
Khi Lê My và các chiến sỹ công an rẽ đám đông để đưa bà cụ Nụ về đồn, chị chợt nhận ra Quê. Đôi mắt Quê sưng mọng. Cô không muốn để cho bà cụ Nụ nhận ra mình. Cuộc chia tay này với cô thực sự là một nỗi đau.
Chương XI
Một tuần trôi qua, không có tin tức gì về thằng cu Tẩm. Sở công an sáu tỉnh biên giới điện về đều cho biết không có trường hợp trẻ em nào bị bắt cóc như đặc điểm đã thông báo.
Chỉ còn lại khả năng thứ hai: cu Tẩm đã bị Toại bắt mang về lâm trường H. Hà Tuyên. Quê khẳng định với Lê My chính Toại là thủ phạm và thúc chị bằng mọi giá phải lên Hà Tuyên với mình để đưa cu Tẩm về.
Lê My báo cáo với lãnh đạo, gửi bé Trang cho một người bạn rồi cùng Quê ngược Hà Tuyên trên một chuyến xe khách.
Suốt bẩy năm qua, Quê không ngờ mình lại có dịp trở lại con đường này -. Một con đường mà cô chỉ ngược, xuôi có hai lần, nhưng mỗi lần đều hằn sâu trong ký ức cô những kỷ niệm đầy cay đắng hãi hùng. Lần lên khi cô mới mười bẩy tuổi nhưng đã phải mang theo mình cái thai bé Rớt. Và hơn hai năm sau là lần về, lại mang theo mình cái thai cu Tẩm. Chao ơi là đời con gái, trầm luân khổ ải dến chừng ấy mà sao Quê vẫn sống được, vẫn bị trần gian đầy ải cho tới bây giờ. Quê bỗng nhớ con bé Rớt, nhớ cụ Tẩm đến cồn cào. Bé Rớt bây giờ chắc đã lớn lắm rồi. Suốt từ ngày cô bỏ đi, chưa một lần nào cô viết thư cho cô giáo Điệp. Thôi, cứ coi như Quê đã chết, cứ coi như bé Rớt chính là con đẻ của Điệp. Một người như Quê còn tư cách nào để viết thư cho Diệp, còn gì phẩm chất để được làm mẹ nữa?
Càng đến gần địa bàn lâm trường H. Lòng Quê càng rối bời. Lúc đi Quê hăm hở bao nhiêu, bây giờ cô lại thấy phân vân ngần ngại bấy nhiêu. Quê sợ gặp cô giáo Điệp, sợ gặp bé Rớt. Cô biết mình hoàn toàn không xứng đáng để đến quấy phá cuộc sống của họ.
- Chị My này - Đắn đo mãi, cuối cùng Quê đành phải nói thật những băn khoăn của mình - Em tin rằng cháu Rớt nó không nhận em đâu. Mà cả chị Điệp nữa, chắc chị ấy cũng không muốn em trở lại. Hay là chỉ mình chị đến chỗ chị Điệp thôi. Em sẽ nghỉ nhờ một người nào đó ở lâm trường…
Quê vừa nói vừa khóc. Lê My bỗng hiểu tâm trạng của cô. Chị an ủi:
- Em cứ đến thăm cháu. Nếu quả thật cháu không còn nhận ra em nữa thì em cũng phải bằng lòng nhận lấy sự trừng phạt. Mà mục đích chính của chúng ta là đi tìm thằng cu Tẩm cơ mà…
Họ đến nhà cô giáo Điệp vừa lúc xẩm tối. Cái lớp học tồi tàn trước đây giờ đã được xây mới. Một dẫy nhà ngói năm gian, bốn gian dành làm lớp học. Cô giáo Điệp được xếp ở gian đầu hồi. Thoạt nhìn qua đã thấy cuộc sống nhà giáo khá giả hơn trước nhiều. Ngoài gian nhà ở, Diệp còn dựng thêm được một cái bếp, có giếng nước và một vườn rau xanh.
Riêng Điệp, thoạt đầu Quê không thể nhận ra. Không còn một chút hình bóng nào của một cô giáo Điệp bẩy năm về trước, mà bây giờ, trước mặt Quê là một người đàn bà đứng tuổi, mái tóc lơ thơ vì rụng, bộ ngực lép kẹp, cái lưng còng như một bà già. Những người đàn bà không chồng, không sinh nở, teo tóp là lẽ thường, nhưng cái vẻ teo tóp của Diệp ngoài cái không bình thường của sinh lý còn có thêm vẻ bệnh tật và sự thiếu dinh dưỡng.
Sự xuất hiện đột ngột của Quê và Lê My khiến Điệp hốt hoảng. Chị đứng ngẩn nhìn họ trong bóng hoàng hôn chập choạng. Không ai thấy sắc mặt của chị tái mét đi và hơi thở dồn dập như người thiếu dưỡng khí. Quê! - Chị thầm kêu lên - Cuối cùng thì nó đã đến. Nó đến để bắt con Rớt của ta rồi. Điệp ú ớ không thành tiếng. Đôi mắt chị mở to, cái miệng hé ra, méo xệch không ra cười mà cũng không ra nói. Suốt bẩy năm lúc nào chị cũng lo sợ cuộc gặp gỡ này. Có lúc chị thầm có ý nghĩ độc địa rằng Quê hãy biến khỏi cuộc đời này, Quê hãy đi mất tích đâu đó hoặc là chết đi. Vậy mà ác nghiệt thay, đúng cái lúc mà Điệp tưởng như thanh thản nhất, tưởng như trên đời này với chị thật là êm đẹp, thật là viên mãn, con Rớt sẽ mãi mãi là của chị, chị sẽ hy sinh tất cả vì nó, gắn bó suốt đời với nó… thì Quê xuất hiện. “Tò vò mà nuôi con nhện…” Câu ca xưa chợt hiện trong đầu, chua chát và cay đắng khiến Điệp trào nước mắt. Thôi rồi, người ta sẽ đến cướp đi tất cả niềm hạnh phúc và hy vọng của chị. Bẩy năm công chị hoá thành công dã tràng. Đời chị thế là hết. Chôn vùi cả tuổi thanh xuân nơi xó rừng này. Bây giờ lại tiếp tục chôn vùi nốt những ngày còn lại…
- Chị Điệp, chị không nhận ra em ư? Cháu Rớt đâu rồi?
Quê ào đến với Điệp, nhưng Điệp hốt hoảng lùi lại. Chị có cảm giác như mình đang chạm vào bóng tử thần.
- Cô lên đòi cái Rớt à? - Điệp buông một câu khô lạnh.
- Em lên cám ơn chị. Em lên thăm chị và cháu. Cháu đi đâu hả chị?
- Nó vào trong xóm xem ti-vi rồi… Này, tôi hỏi thật, thế chuyến này cô có định lên đón nó đi không thế?
- Không. Em với chị My đây lên thăm cháu thôi. Em phải để cháu cho chị chứ…
Đến lúc này mới thấy nụ cười trên môi Điệp, một nụ cười như mếu.
- Thế mà tôi cứ hết cả hồn…
Đó, cuộc gặp gỡ của hai chị em sau bẩy năm xa cách diễn ra như thế. Một người đầy mặc cảm tội lỗi, còn người kia lại hoảng hốt như gặp bọn người trấn lột. Lê My đã chứng kiến toàn bộ cảnh tượng và đọc rõ từng tâm trạng của hai người đàn bà. Chị thấy thương và thật ái ngại cho hoàn cảnh của họ.
Cho tới lúc có tiếng trẻ ngoài đường, gương mặt cô giáo Điệp bỗng lại biến sắc. Chị ghé sát vào Quê, thì thào:
- Nó về đấy… Cô đừng để cho nó biết nhớ. Tôi giới thiệu cô là em tôi. Cô phải xưng cô với nó…
Quê lặng lẽ gật đầu và nước mắt cô bỗng dàn dụa khi cô chợt nhận ra đứa con rứt ruột của mình. Chao ơi, con bé mới lớn làm sao. Gương mặt trái xoan của nó trắng hồng, đôi má phinh phính, mắt to đen láy. Quê tưởng như gặp lại chính mình cái tuổi chăn trâu cắt cỏ. Cô bỗng nhớ nôn nao cái làng quê bên bờ sông Đáy. Ở đó cô có một tuổi thơ nhọc nhằn vất vả nhưng thật thơ mộng. Ở đó lần đầu tiên và duy nhất trong đời cô biết thế nào là tình yêu. Ôi, cái đêm trăng ấy cái gốc gạo bên bờ đầm ấy, niềm hạnh phúc tột cùng và cũng là nỗi đau khổ của đời cô...
Thấy khách lạ, cô bé cất tiếng chào rồi sà ngay vào lòng Điệp. Quê cũng định xoà tới ôm chầm lấy nó. Nhưng Điệp đã lấy bàn chân chặn chân Quê lại. Chị ôm riết bé Rớt vào lòng. Chị giới thiệu những người khách với nó một cách rất trịnh trọng nhưng khá lạnh lùng.
Quê cắn chặt môi đến muốn bật máu. Quê gục đầu vào vai Lê My và để mặc những giọt nước mắt thấm vào áo chị. Lê My cảm nhận hết nỗi đau ấy. Ôi, nếu như chị là Quê, chắc chị đã chạy ào ra ngoài rừng hoặc là chị đã lăn xả đến bên bé Rớt mà ôm ghì lấy nó.
- Em xin lạy sống chị ba lạy này để chị tha tội cho em - Cho tới lúc bé Rớt đã ngủ say rồi Quê mới đến bên con, áp mặt mình vào mặt nó, để cho những dòng nước mắt của mình chan hoà xuống mặt nó, rồi đột ngột phủ phục trước mặt Điệp vái chị ba vái dài.
- Đừng làm thế cô - Điệp vội vàng đỡ Quê dậy - Tôi phải biết ơn cô mới phải. Cô đã cho tôi cái phần thiêng liêng nhất mà lẽ ra tôi không được hưởng. Nếu không có bé Rớt chắc là tôi chẳng thể yên tâm mà sống ở cái nơi xó rừng này được. Nó là niềm vui của tôi. Là hy vọng và tương lai của tôi. Cô có biết không, có những đêm tôi nằm mơ và bỗng hốt hoảng sờ soạng quanh mình. Tôi nằm mơ thấy cô về mang bé Rớt đi. Thế là tôi hoảng hốt ôm chầm lấy nó, tôi ú ớ reo gọi tên nó. Những lúc ấy bao giờ tỉnh dậy tôi cũng toát hết cả mồ hôi. Rồi tôi ôm nó mà mỉm cười sung sướng vì bé Rớt vẫn ở bên tôi, vẫn là của tôi. Nói cô và chị đừng giận, suốt bẩy năm qua, tôi không bao giờ dám nhắc đến tên cô trước mặt nó. Tôi cố làm cho nó hiểu rằng tôi chính là người đẻ ra nó, chỉ có tôi và nó ở trên đời này thôi. Nếu cô thương tôi thì cô đừng bao giờ để cho nó biết rằng cô là mẹ đẻ của nó. Cô đừng bắt bé Rớt của tôi đi cô nhé…
- Không, em không có quyền. Bé Rớt là của chị. Chị hãy yêu thương lấy cháu. Em như người bỏ đi rồi. Em là một người mẹ khốn nạn. Em đáng bị trừng phạt. Em biết cái số mệnh của em rồi.
Hai người đàn bà cùng sụt sịt khóc. Nhìn họ. Lây nỗi đau của họ, Lê My cũng không cầm được nước mắt. Chị hoan toàn đồng cảm với họ và thấy mình có phần nào đó cũng giống như họ. Đúng, cả chị và hai người đàn bà kia dường như mỗi người đều có những khuyết tật riêng, những nỗi đau riêng của thân phận đàn bà. Mỗi người đang sống cái phần mà người kia thiếu hụt. Chị thấy thương họ cũng như thương chính bản thân mình.
Sáng hôm sau một mình Lê My đến gặp Toại.
Nhà Toại là cả một ngôi biệt thự giữa rừng. Từ con đường ven đồi phải đi men theo một cái ao rộng chừng hai mẫu, nước quanh năm đầy ắp. Từ sân lên tới nền nhà phải leo hai mươi bậc tam cấp. Ngôi nhà nằm ngang sườn đồi, đón gió rừng lồng lộng. Hai bên nhà là những đồi chè xanh ngắt, xén đều tăm tắp theo đường đồng mức. Thoạt nhìn ai cũng nghĩ là chè nông trường, nhưng không, vườn nhà Toại đấy. Mỗi tháng gia đình Toại thu nửa tạ chè khô, mỗi cân chè bằng năm cân gạo, chỉ riêng khoản chè cũng cho một khoản thu nhập ổn định bằng vài mẫu ruộng dưới xuôi.
Lê My đóng giả một người đàn bà ăn chơi từ dưới Hà Nội lên lùng mua vàng và đá quí. Mái tóc phi dê buông xoã ngang vai, đôi mắt viền một đường chì xanh mờ ảo, môi thoa một lớp son màu cánh sen tươi hồng, áo thun màu xanh da trời, quần bò mốc… trông vừa duyên dáng khêu gợi, vừa đích thị là một tay chơi sành điệu.
Toại tiếp Lê My một cách dè dặt và đầy vẻ thăm dò. Ông hoàn toàn không tỏ ra vồ vập khi chị đưa ra những thông tin về đường dây tiêu thụ, về giá cả cũng như những hứa hẹn trong việc hợp tác làm ăn. Suốt buổi tiếp chuyện, điều Toại quan tâm hơn cả là cái khoảng trắng ngần dưới cổ My. Một làn da nõn nà. Một khuôn ngực đầy đặn và khêu gợi. Ở người đàn bà này Toại cảm thấy có một sức quyền rũ giới tính rất mạnh mẽ. Nó gợi cho Toại nhớ lại cái cô gái mà ông đã từng bắt gặp loã thể trong cái buổi chiều tắm suối mấy năm trước. Và ông lại bỗng thấy một cảm giác thèm muốn nhục cảm tràn ngập trong người. Ông bỗng nhớ đến Quê, muốn gặm nhấm lại những kỷ niệm ngày nào.
Dường như Lê My cũng đọc được những ý nghĩ ấy ở Toại. Chị thấy người mình như nổi gai lên, chị thấy thật là khó chịu mỗi khi ánh mắt Toại cứ nhìn xoáy vào chỗ khuôn ngực mình. Tự nhiên vai kịch của chị bỗng trở nên gượng gạo và giả tạo. Ấy là chưa kể trong lúc vừa nói chuyện với Toại, chị lại phải đưa mắt để ý đến từng tiếng động, từng hình bóng xung quanh. Chị cố gắng thử phát hiện xem trong căn nhà này có dấu tích gì của một cậu bé, có hơi hướng gì của một đứa trẻ lạ…
- Tôi có cảm giác như cô không phải là một người lên đây làm ăn - Toại bỗng nói, đôi mắt của ông ta giờ đây đã nhích cao lên, chĩa thẳng vào Lê My - Nếu cô làm nghề chạy mánh thì chắc chắn cô sẽ bị thua lỗ. Tiếp xúc qua, tôi thấy cô còn khờ khạo lắm. Đến dân đồng rừng như tôi, tôi cũng dễ dàng lừa bịp cô được. Thôi, đừng đóng kịch nữa, cô hãy nói cho tôi biết cô lên đây gặp tôi với mục đích gì. Đúng là tôi vừa ở Hà Nội lên tuần trước. Tôi đang có việc phải làm ăn ở dưới đó. Tôi có thể giúp được cô điều gì?
Một đối thủ khá lọc lõi - Lê My thoáng giật mình. Trong đời làm nghề, đây là lần đầu tiên chị cảm thấy vai đóng của mình đã bị đối thủ nhận ra ngay từ phút gặp ban đầu. Nhưng chính cái vẻ lọc lõi của Toại lại khiến chị phát hiện ra ở Toại một trạng thái tâm lý mà chị đang cần khai thác. Ấy là sự bất ổn trong tâm lý, một ý thức đề phòng trong lúc giao tiếp. Và Lê My đã tận dụng ngay trạng thái tâm lý này để khai thác đối thủ:
- Không có điều gì qua mắt ông được. Ông tinh lắm. Chắc ông đoán ra ngay việc tôi lên đây là vì thằng cu Tẩm. - Lê My nhìn xoáy vào đôi mắt Toại và chị chìa cho Toại xem tấm thẻ đỏ của mình - Lẽ ra chúng tôi có thể gặp ông ngay ở bến xe thành phố… Nhưng, chắc ông biết vì những lý do tế nhị…
- Tôi hoàn toàn không hiểu ý định của chị - Toại bỗng khoát đôi bàn tay - Cu Tẩm nào? Tôi không dính dáng gì đến chuyện trẻ con.
- Ông đừng tỏ vẻ ngạc nhiên thế. Với chúng tôi, ông hoàn toàn có thể tin cậy được. Vả lại chúng tôi không bao giờ làm một việc gì mà không có chứng cớ. Ông nghĩ lại đi. Ngày 18 ông gặp bà cháu cu Tẩm ở phố bia. Ngay tối hôm đó ông đã tìm đến góc chợ nơi mẹ con Quê ở để xin đón cháu Tẩm về. Và ngày 19 ông đã tổ chức bắt cóc cháu Tẩm trên hè phố…
- Không. Hoàn toàn tôi không bắt cóc… Đúng là tôi đã nhận ra cháu… Tôi đã đến cầu xin mẹ nó…
- Vậy thì bây giờ cháu Tẩm đâu?
- Chính tôi phải hỏi lại đồng chí điều này. Xin lỗi đồng chí, từ lúc đồng chí nói, tôi rất băn khoăn…
- Ông băn khoăn vì điều gì? Chính ông đã đạt được mục đích của mình rồi…
- Không. Đồng chí đừng dồn tôi như thế - Toại bỗng đột ngột đứng dậy. Vẻ mặt của ông ta tỏ ra rất căng thẳng. Ông ta đi lại góc bàn rót một cốc nước lọc và tu ừng ực.
Thoáng trong đầu Lê My một chút phân vân. Có phải chính Toại cũng không hay biết gì về việc cu Tẩm bị mất tích không? Hay ông ta giả vờ? Bằng kinh nghiệm nghề nghiệp, Lê My thấy lúc này là thời cơ chị dồn ép đối tượng, buộc ông ta phải lúng túng, phải bộc lộ những điều mà chị cần khai thác.
- Ông Toại, ông hãy nói thật đi. Tôi biết ông chưa mang cháu Tẩm về đây. Nhưng ông giấu cháu ở đâu?
- Đồng chí không tin tôi sao? Tôi hoàn toàn không biết gì về việc này. Thực tình là tôi đang rất bối rối khi biết cháu Tẩm đã bị mất tích.
- Ông đừng đùa bỡn nữa - Lê My nghiêm giọng - Tôi biết, từ lúc ông gặp cháu Tẩm ở phố bia ông đã không rời nó một giây nào trong ý nghĩ. Chính nó đã thức tỉnh ở ông tình máu mủ. Ông như bắt được một báu vật mà bấy lâu ông tìm kiếm, ông mơ ước. Ông có thể đổi cả gia tài, cả tiền bạc mà bấy lâu ông giành dụm. Có thể nói nó là tất cả cuộc đời ông… Tôi tin là ông không nhầm lẫn, không mơ hồ gì về cái sợi dây đã liên kết cuộc đời ông và Quê. Chính vì thế mà ông có thể đổi bằng mọi giá để có được một thằng con trai là thằng Tẩm. Trong chuyện này ông hành động hoàn toàn theo cái tình cảm thiêng liêng của một người cha. Ông hoàn toàn có lý. Chúng tôi đánh giá cao việc làm của ông. Chỉ có điều, chúng tôi muốn biết hiện giờ ông để thằng bé ở đâu?
- Xin đồng chí hiểu cho rằng…
- Ông hãy bình tĩnh lại đã. Nếu ông hiểu mục đích của tôi trong chuyến đi này, ông sẽ phải cảm ơn thiện chí của chúng tôi. Chắc ông cũng biết rõ hoàn cảnh của Quê hiện giờ ra sao? Cô ấy không đủ điều kiện để nuôi dạy thằng bé. Cô ấy quá khốn khổ. Có lẽ một trong những nguyên nhân khiến ông quyết liệt để giành giật lại thằng bé cũng vì lý do ấy. Đúng là không thể để một đứa trẻ sống lang thang bụi đời như vậy được. Ông có hoàn toàn đồng ý với tôi như vậy không?
- Đồng chí nói rất đúng. Đồng chí có hiểu tâm trạng của tôi lúc gặp hai bà cháu ngửa tay ăn xin như thế nào không? Bằng linh cảm, tôi nhận ra thằng bé chính là đứa con của mình. Và tôi đau xót vô cùng. Tôi ân hận vì mình đã đẩy Quê đến tình cảnh ấy. Tôi có thể mất cả gia tài. Tôi sẵn sàng đánh đổi cuộc đời mình để cho con tôi không phải đi làm cái công việc đau lòng ấy. Tôi đã tìm kiếm mẹ con cô ấy suốt một buổi chiều, một buổi tối. Tôi đã cầu xin cô ấy hãy tha thứ tất cả. Tôi có tội với mẹ con cô ấy vô cùng. Vậy mà cô ấy không tha thứ. Mà thằng bé nó đâu hiểu được, nó đâu biết rằng chính tôi là người cha của nó… Đồng chí ơi, tôi hỏi thật. Quê có lên đây cùng với đồng chí không?
- Có đấy. Chính vì cô ấy mà tôi phải lên đây. Cô ấy là một người yêu con vô cùng.
- Thế thì tôi không biết gì hết. Tôi không biết thằng bé bây giờ ở đâu - Toại bỗng lắc đầu quầy quậy.
- Xin ông đừng lo ngại điều gì. Ông có thể nói với tôi toàn bộ sự thật. Tôi biết rằng người có đủ điều kiện và tư cách nuôi dậy thằng bé hiện giờ là ông.
- Thật vậy chứ? Chị hứa với tôi đi. Về mặt luật pháp tôi hoàn toàn có khả năng được nuôi thằng con tôi chứ?
- Xin lấy danh dự để hứa với ông.
- Chị sẽ không nói gì cho Quê biết cả?
- Tôi đã nói rồi. Quê hiện giờ không có điều kiện và cũng chưa đủ tư cách để nuôi cháu bé. Tôi ủng hộ ông.
- Vậy thì xin thưa với chị - Toại mỉm cười, một nụ cười đầy mãn nguyện và tin cậy - Tôi đã đón thằng bé về rồi. Tất nhiên là tôi không đưa nó về đây. Vì tôi biết Quê có thể lên đòi lại. Tôi đã gửi cháu bé ở một nơi tin cậy. Tôi sẽ phải cho nó ăn học. Tôi sẵn sàng bán cả cái gia tài này để nuôi dạy nó nên người. Chao ơi, chị không hiểu được đâu. Đến tuổi này tôi mới hiểu rằng mình cần phải có một thằng con trai như thế nào? Nó chính là nơi để tôi gửi gắm và ký thác đời mình. Khi mình chết đi rồi thì nó chính là một phần đời mình gửi lại. Thú thật với chị, những ngày qua tôi hạnh phúc vô cùng. Tôi như trẻ lại. Tất cả những ham muốn của đời tôi vậy là tôi đã đạt được. Tôi không còn mong ước gì hơn nữa. Từ nay tôi có thể yên tâm để làm giàu, tôi có thể yên tâm để chết…
Nhưng lời tâm sự chân thành và bộc trực của Toại khiến Lê My bỗng thấy xúc động và cảm thông. Chính chị cũng không ngờ rằng cái ý định ban đầu khi cùng Quê lên đây đã hoàn toàn bị đảo ngược. Khi từ Hà Nội đi, chị chỉ nghĩ rằng chị sẽ làm mọi cách giúp Quê đưa được thằng bé trở về. Nhưng chính sự thiết tha với thằng bé của Toại đã làm chị thay đổi ý định. Đúng, Toại mới chính là người có quyền nuôi dạy thằng cu Tẩm lúc này.
- Tôi nghĩ mình cũng còn phải có nghĩa vụ với Quê nữa chị ạ - Sau một phút suy tính, mắt Toại bỗng sáng rực lên. Ông ta đảo mắt nhìn Lê My thăm dò rồi mạnh dạn đề đạt - Tôi có nguyện vọng này, nếu chị giúp được thì tôi đội ơn suốt đời. Quả tình là tôi rất muốn được đón cô ấy về… Bây giờ thì tôi chẳng sợ vợ con tôi ghen tuông nữa rồi…
- Tức là ông muốn cả hai mẹ con… - Lê My bỗng cười giễu cợt.
- Vâng. Đồng chí rất hiểu ý tôi. Hay thế này nhá. Đồng chí hãy giúp tôi gặp gỡ cô ấy. Tôi sẽ đề đạt nguyện vọng. Biết đâu cô ấy lại thương mà tha thứ cho tôi. Tiền thì tôi không thiếu. Tôi có thể mua cho mẹ con cô ấy một căn nhà tại Hà Nội. Hai mẹ con cứ việc ở đó. Có thể mở một tiệm hàng nào đó buôn bán nhì nhằng. Tôi thì đi về giữa trên này và dưới ấy. Hầy, như thế mà lại hoá hay… Chị giúp tôi đi. Tôi không để chị thiệt đâu. Trên đời này cái gì cũng có giá của nó…
- Thế ông định trả tôi bao nhiêu? - Lê My nhướng đôi mày đầy vẻ khinh mạn, nhưng Toại không thể hiều được cái nhìn ấy.
- Nếu trả tiền chắc chị không nhận. Với lại tiền làm sao tính được công lao giúp đỡ của chị. Vả lại làm như thế chị sẽ cho tôi là hối lộ. Tôi chỉ muốn trả cái ơn của chị thôi. Ví dụ tôi có thể tặng chị một mặt đá hồng ngọc chẳng hạn. Đánh một chiếc mặt đá dây chuyền sẽ rất hợp với nước da của chị - Toại nói và nhìn xoáy vào khoảng ngực trắng muốt của Lê My như thể ông ta đang nhìn thấy những ánh hào quang lấp lánh ở đó.
- Thôi, đủ rồi, ông Toại ạ - Lê My đứng dậy khoát tay tỏ ý muốn dẹp bỏ cái kiểu mặc cả lố bịch của Toại - Phương án của ông có vẻ rất hay ho. Ông đang là kẻ có tiền. Đúng là nếu có tiền thì Quê rất có thể sẽ sống một cách lương thiện chứ không đến nỗi khổ ải như bây giờ. Nhưng mà ông alàm rồi. Không phải bao giờ đồng tiền cũng làm đảo lộn mọi thứ lô gích của cuộc đời. Trong mối quan hệ giữa ông và Quê trước đây, cái lô gích của ông nó thế này: Ông là kẻ đã gây ra mọi đau khổ cho cô ấy, đã đẩy cô ấy xuống đáy của cuộc sống, vậy thì ông hãy nhận lấy mọi hậu quả. Tôi ở địa vị của Quê tôi cũng không bao giờ tha thứ. Thà rằng làm đĩ để nuôi con chứ không thể tha thứ cho kẻ đã làm hại đời mình. Tính cách phụ nữ của chúng tôi là thế đấy. Ông đã đẩy cô ấy xuống cái đáy vực mà bây giờ dẫu nối chục con sào, dẫu thả một sợi dây vàng ròng ông cũng không mong kéo cô ấy lên được…
- Thưa đồng chí, nhưng mà bây giờ tôi đã ân hận… Tôi biết tôi là kẻ có tội. Tôi muốn được chuộc lại…
- Bằng cách ông hãy nuôi dạy thằng cu Tẩm cho nó lên người…
- Vâng. Chuyện đó thì xin đồng chí hãy yên tâm.
- Ngay lúc này thì chưa yên tâm được đâu.
Toại ngây người. Ông ta thoáng nhìn Lê My một cách lo lắng.
- Lúc nãy tôi nói chuyện với ông là về mặt tình cảm. Đứng về mặt tình cảm tôi có thể thay mặt Quê để bằng lòng cho ông nuôi dạy thằng Tẩm. Nhưng về mặt luật pháp thì cần phải có những chứng cứ đảm bảo. Rất có thể Quê sẽ kiện tôi về việc này chứ. Và ai dám đoán chắc chính ông là bố đẻ của cháu Tẩm?
- Ôi đồng chí, đồng chí vẫn không tin tôi sao? Tôi cũng đã từng là một đảng viên… Hay là tôi có thể gửi đồng chí một số tiền để đồng chí lo giúp tôi về mặt thủ tục…
Toại vừa nói vừa đi lại tủ, lấy ra một bọc tiền đặt trước mặt Lê My. Ông ta tin một cách thành thật rằng Lê My đang cố tình gây khó dễ cho mình để đòi một chút thù lao nào đó.
Lần này thì Lê My tỏ ra bực bội thực sự. Chị chặn bàn tay lên gói tiền và nhìn thẳng vào mặt Toại:
- Tôi sẽ lập biên bản về tội hối lộ này.
- Ấy chết, xin lỗi… Thực tình là tôi quí đồng chí - Toại lắp bắp.
- Vậy thì ông hãy cất tiền đi và nghe tôi nói đây.
- Dạ vâng. Xin chị hết sức tha lỗi…
- Ông hãy làm một tờ đơn, khai rõ mối quan hệ của ông và cô Quê trước đây và xin tình nguyện được nuôi thằng cu Tẩm. Đơn này phải có chứng thực của lâm trường và công an địa phương. Trong đơn ông cũng phải cam kết sẽ nuôi dạy cháu Tẩm một cách chu đáo. Trường hợp mẹ nó phát hiện ra, đòi lại con thì ông phải trả lại hoặc có một sự thoả thuận mới…
- Tôi e rằng việc chứng thực sẽ gặp khó khăn… - Toại lắc đầu ngần ngại.
- Nếu không có những giấy tờ này thì chính tôi cũng không thể bảo lãnh cho ông được. Đây chính là địa chỉ của tôi. Ông hãy gửi hoặc mang những giấy tờ hợp lệ về địa chỉ này.
- Rất đội ơn chị. - Toại cầm tờ giấy có ghi địa chỉ cơ quan Lê My một cách rất trân trọng. Ông ta đăm chiêu suy nghĩ một lát rồi chợt ngẩng lên, mặt mày rạng rỡ như vừa tìm ra diệu kế - Xin chị cứ yên tâm. Một tuần nữa tôi sẽ xin nộp đủ giấy tờ.
Dường như Lê My đã đọc thấy những ý nghĩ trong đầu Toại. Ông ta đang nghĩ đến cái túi tiền có khả năng cải lão hoàn đồng, có thể biến đen thành trắng của ông ta.
Chương XII
Bây giờ thì Quê đã hoàn toàn trắng tay. Cái vốn liếng cuối cùng của đời cô là thằng cu Tẩm cũng không còn nữa. Lê My đã không ngần ngại mà nói toẹt cho Quê biết: Ông Toại không có liên quan gì đến vụ mất tích thằng Tẩm.
Suốt chặng đường từ Hà Tuyên về, Quê ngồi rũ như một tàu lá úa. Cuộc đời Quê còn gì? Quê không có thời thiếu nữ. Mười sáu tuổi Quê đã trở thành người đàn bà. Làm đàn bà nhưng không được hưởng cái e ấp, hồi hộp, rộn rạo của đêm động phòng. Quê như một trái non bị chín ép, bị châm chọc, vày vò cho ung rữa. Mười bảy tuổi Quê đã phải làm mẹ, làm mẹ khi mà cô vẫn còn trẻ con, vẫn chưa có một hành trang gì cho cuộc sống gia đình. Rồi cả hai đứa con đều sinh ra trong những hoàn cảnh khốn khổ. Ngoài Quê ra không có ai mong chúng ra đời. Chúng là những đứa con hoang trong những cuộc hôn phối giữa Quê và quỉ.
Giá như đời Quê được yên ổn, dù trên cái xó rừng heo hút kia. Quê sẽ lầm lũi nuôi con, Quê sẽ bới đất, vạch cây mà tìm ra thức ăn nuôi chúng. Vậy mà cái mơ ước giản dị ấy cũng không thể có được. Lại bị dồn đuổi, lại bị truy bức đến cùng. Dồn đuổi đến mức bán thân nuôi mình, nuôi con vẫn còn chưa đủ. Bây giờ, hai đứa con đã bán cả rồi, trắng tay rồi, còn thiết sống gì nữa.
- Này Quê, em phải bình tâm lại - Lê My an ủi - Để chị về báo cáo với các đồng chí lãnh đạo. Nhất định rồi bọn chị sẽ tìm được thằng cu Tẩm cho em. Có nhiều trường hợp mẹ mìn đã mang trẻ con sang bên kia biên giới mà rồi công an ta vẫn tìm được cơ mà…
- Nhưng mà em biết nói với anh Hiển thế nào? Ở trong tù anh ấy đã khốn khổ lắm rồi. Bây giờ biết tin cu Tẩm mất tích thì anh ấy sẽ phát điên lên mất…
- Vậy là Hiển vẫn không hề biết cu Tẩm là con của ông Toại ư?
Câu hỏi của Lê My cũng chính là điều mà Quê tự hỏi mình suốt mấy năm trời. Càng sống với Hiển, cô lại càng bị dày vò bởi cái điều bí mật mà chỉ có mình cô biết ấy. Đã bao lần cô định tự thú với Hiển, rằng thằng cu Tẩm không phải là con anh, rằng anh hãy tha thứ cho mẹ con cô. Cô hoàn toàn không có ý định lừa dối anh. Chỉ riêng một hành động cao thượng là anh nhặt mẹ con cô từ ngoài đường về nhà đã đủ khiến cho cô có thể làm nô lệ cho anh suốt đời. Nhưng rồi Quê không thể nói với anh, không có gan để thú nhận với anh được. Như thế thì tàn nhẫn quá. Sự thật nhiều khi nói ra còn tàn nhẫn hơn cả bản thân nó. Thà rằng hãy cứ dối trá để cho Hiển sống trong ảo vọng. Cũng như tôn giáo vậy thôi, người ta phải cố thêu dệt ra một chốn thiên đường, một cõi niết bàn cho phần hồn để an ủỉ cái phần xác khốn khổ của mình. Chỉ thương cho Hiển. Dường như anh không hề biết Quê đã lặng lẽ lừa dối anh, hoặc giả anh biết mà anh làm như không biết gì. Anh quí thằng cu Tẩm thực sự, anh yêu nó như chính nó là giọt máu đích thực của mình.
- Em cũng không biết là anh Hiển có biết gì về thằng cu Tẩm không - Quê nói - Hồi em đẻ, có người nghi ngờ thừng bé không phải là con anh Hiển, nhưng anh ấy không tin. Anh ấy bảo: “Miệng lưỡi thế gian biết thế nào mà lường. Em đừng nghĩ ngợi gì”. Suốt mấy năm trời, chưa bao giờ anh ấy đánh mắng nó. Thằng Tẩm cũng tin rằng chính anh Hiển là bố đẻ của nó. Tuần nào nó cũng giục em vào nhà giam thăm bố Hiển. Nó chỉ mong bao giờ bố Hiển được ra tù để nó đi phụ giúp bố Hiển đạp xích lô… Thế đấy chị ơi, rồi em biết nói với anh Hiển thế nào? Không, dù thế nào đi nữa, ngay ngày mai em phải báo cho anh Hiển biết tin này…
- Đừng báo vội, Quê ạ - Lê My tìm cách hoãn binh - Cứ để một hai tuần nữa để bọn chị tìm kiếm xem đã.
- Nhưng anh ấy hỏi thăm cháu thì em biết nói thế nào?
Lê My thở dài. Chị bỗng nhớ lại cái buổi vào nhà giam hỏi cung Hiển, nhớ lại gương mặt chất phác, cương trực của anh.
- Quả tình chị không ngờ có những người như Hiển mà lại bị vào tù.
- Trong tù cũng có nhiều người vốn rất lương thiện. Họ bị hoàn cảnh dồn đẩy đến tội ác. Cũng có khi vì họ chống lại cái ác mà bị cái ác tròng vào người. Anh Hiển bị tù là oan lắm đấy chị ạ. Chính hai vợ chồng mụ Quỉ mới đáng bị tù kia. Trời ơi, chị có biết không, trên đời này không có người đàn ông nào tốt với mẹ con em như anh ấy - Quê vừa nói vừa ôm mặt khóc.
Lê My thấy mủi lòng. Chị định nói với Quê rằng chính ông Toại đã đón thằng Tẩm về nuôi, rằng chị đã đồng tình với nguyện vọng của ông ấy, đó là giải pháp tốt nhất lúc này cho Quê, bởi cô không có đủ điều kiện để làm mẹ cả hai đứa trẻ. Nhưng thôi. Đành phải dối Quê vậy. Cứ mặc cho cô ấy đau khổ. Người mẹ nào chẳng có nỗi đau khi mất con, nhưng họ không hề biết có một nỗi đau hơn là họ không có khả năng nuôi nổi được chính đứa con của mình. Chuyến đi này, với Quê có thể là một chuyến đi thất bại, nhưng với Lê My thì đó lại là một thành công không ngờ. Chị hoàn toàn yên tâm về bé Rớt và thằng cu Tẩm. Chúng sẽ được cô giáo Điệp và ông Toại nuôi dạy chu đáo. Cùng với việc giải quyết đưa bà cụ Nụ về với vợ chồng Danh Vọng, Lê My đã góp phần giúp ba con người tránh được những con đường bất lương trong cuộc đời.
Còn với Quê? Liệu Lê My có thể giúp được cô thoát khỏi tình cảnh bi thảm hiện giờ không?
Khi Lê My và Quê vừa về đến khu tập thể thì Đặng Phong đã ngồi chờ họ sẵn ở quán nước bên đường. Hai ngày qua anh nhớ Lê My và mong chị từng giờ. Sau bốn năm ly thân, sau bao nhiêu lần đi lại toà án đến mòn cổng, cô vợ của anh đã đồng ý chấp nhận cho anh được ly hôn. Còn mười lăm ngày nữa cuộc ly hôn mới có hiệu lực, nhưng Đặng Phong không thể chờ đợi được hơn nữa. Anh đã đến tìm Lê My bốn lần, đến để thông báo cái tin vui này với chị, để được ngắm nhìn chị và để được nghe chị nói rằng: “Từ nay em sẽ là của anh”.
Nhưng Lê My thật quá vô tâm, hoặc vì sự xuất hiện của Phong khiến chị chỉ nghĩ đến cái công việc mà chị đã nhờ anh, nên không kịp để Phong nói điều gì, chị đã hỏi ngay:
- Thế nào anh, công việc ở làng SOS mà em đã nhờ anh có kết quả gì không?
Đặng Phong như người bị dội gáo nước lạnh. Anh buồn vì Lê My chẳng nghĩ gì đến anh cả.
- Sao? Anh nói em nghe đi. Em đã nói chuyện với Quê rồi. Anh hãy báo cho Quê một tin vui gì đi. Em nghĩ rằng anh đến chính là vì cái tin ấy…
- Vì một cái tin khác… Nhưng thôi, lúc này nói cũng chẳng có ý nghĩa gì…
- Anh cứ nói. Hay anh giận em à? - Lê My chợt sững người khi nhìn thấy đôi mắt Phong sầm tối lại - Em xin lỗi. Em đoán rằng có một chuyện gì đó mà anh muốn nói riêng với em…
Lẽ ra Phong cứ nên yên lặng, chờ đến một lúc khác. Nhưng vì anh quá đột ngột bởi sự vô tâm của Lê My nên anh đã trở nên vụng về.
- Về chuyện của Quê, tôi đã làm hết sức mình nhưng cho đến giờ có thể nói rằng hoàn toàn không có hy vọng. Có một trăm bảy mươi hai lá đơn xin vào làm việc ở làng SOS. Cần phải ưu tiên trước hết cho những người vợ liệt sĩ, những người có cống hiến, những người đã qua trường lớp đào tạo, những người có quá trình làm việc từ thiện nhiều năm… Ngay cả những công việc lao động giản đơn nhất cũng đều phải xét trên những tiêu chuẩn ấy…
- Không có một trường hợp ngoại lệ nào sao? - Lê My nhìn Quê và thở dài.
- Nếu như chúng ta mở ra một trăm làng SOS thì cũng vậy thôi. Có biết bao nhiêu người lương thiện còn đang không có công ăn việc làm…
Vậy là không có một việc gì cho Quê, ngoài… Lê My cay đắng nghĩ. Chị mường tượng ra cảnh đêm mai Quê sẽ lại đi lang thang ra bờ hồ, vật vờ dưới gốc cây trong ánh đèn nhập nhoạng. Biết tìm cách gì để giúp Quê được? Chính bản thân chị, với đồng lương ít ỏi của mình cũng phải chật vật lắm mới nuôi nổi bé Trang, huống chi lại phải cõng thêm một người nữa, dù chỉ trong thời gian dăm bữa nửa tháng.
- Anh muốn gặp riêng em để nói một câu chuyện - Chần chừ mãi cuối cùng Đặng Phong cũng phải nói với Lê My một cách khẩn khoản.
- Hãy đợi em một chút. Chúng mình sẽ nói chuyện trên đường em đi đón bé Trang.
Lê My vào phòng tắm ào qua và thay quần áo. Rồi chị bảo Quê:
- Quê ở nhà nấu cơm để tí nữa chị đón cháu về cùng ăn nhé. Em cứ ở lại đây với chị nhé. Không được bỏ đi như lần trước đâu đấy.
Khi Lê My và Phong vừa đi khỏi, Quê vội quay vào nhà và khóc tức tưởi. Trên đời này chưa bao giờ Quê thấy ai lại quá tốt với mình như Lê My.
Tối ấy, trong công viên, gần “khu rừng chiến khu” rất thân thuộc của Quê, lần đầu tiên sau ba năm quen biết nhau, Lê My đã gục đầu vào ngực Phong, để mặc anh ôm riết trong niềm hạnh phúc bao ngày kìm nén. Chị tưởng mình đã khô cằn chai sạn đi trong tình yêu, nhưng đâu phải. Những nụ hôn vẫn say đắm, nồng thắm như lần đầu.
Họ, đôi tình nhân muộn màng ấy không hề hay biết rằng, đúng cái lúc họ đang trao cho nhau những cái hôn cháy bỏng nhất thì có một người lặng lẽ bỏ ra đi. Người ấy chính là Quê.
Quê không để lại một dòng chữ nào. Cô chuẩn bị sẵn cho mẹ con My bữa cơm trên bàn, rồi như một cái bóng, ra đi không để lại một dấu tích gì. Dường như cô muốn những ngày cô gặp gỡ, làm phiền nhiễu Lê My vừa qua chỉ là ảo ảnh, rằng bản thân cô, cái con người nhơ nhếch và khốn khổ của cô không đáng để một vết tích gì trong cuộc đời một người quả giàu lòng nhân ái và vị tha cho Lê My.
Quê đi đâu? Như một bản năng đã được hình thành từ những ngày sống cuộc đời bờ bụi. Quê lại đi qua cái lỗ chó chui để dẫn vào cái góc "chiến khu” trong công viên. Ở đây người và ma, thánh thần và quỉ dữ đều có thể tìm thấy hạnh phúc của mình, có sao đâu?
Rất có thể là Quê đã đi ngang qua, hoặc đi sát gần cặp tình nhân. Bóng tối đã giúp họ không nhận ra nhau.
Và, sau hôm Quê bỏ đi mấy ngày, từ nhà giam thành phố. Lê My nhận được một tin mới: phạm nhân Nguyễn Văn Hiển đã trốn khỏi trại, mặc dù chỉ còn bốn tháng nữa gã sẽ mãn hạn tù.
Không ai biết vì sao cái gã tù nhân Nguyễn Văn Hiển lại dại dột bỏ trốn khi mà gã sắp có cơ hội trở thành người tự do. Chắc chắn chỉ có mình Lê My mới hiểu được cuộc chạy trốn của cả Quê và Hiển. Chị ân hận vô cùng vì đã trót nói dối Quê rằng thằng cu Tẩm bị mất tích. Chao ơi, cuộc đời đầy rẫy những éo le phức tạp. Để giúp được người này thì lại làm cho người kia khổ. Có cách chi để yêu trọn được tất cả mọi người?
Suốt từ hôm ấy, một trong những công việc của Lê My luôn canh cánh bên lòng là để tâm tìm kiếm Quê và Hiển. Tìm, để nói với họ rằng, họ hãy yên tâm về thằng cu Tẩm. Nó không bao giờ còn phải lang thang trên những vỉa hè để làm một đứa trẻ bụi đời ngửa tay xin cơm thiên hạ.
Nhưng mà Quê và Hiển bây giờ ở đâu?
17 phố Trần, Hà Nội, 30-4-1991
H.M.T.
Tác phẩm viết về người phụ nữ trên mặt trận bảo vệ an ninh Tổ Quốc.
Bìa 4
Trong số hàng trăm can phạm mà nữ trung uý công an Lê My có dịp tiếp xúc, Đào Thị Quê dường như là một phép thử đối với lương tâm và phẩm chất nghề nghiệp của chị. Nếu lần gặp gỡ 10 năm trước, khi Quê vừa 16 tuổi đã bị bắt cóc vào cuộc chơi tình cờ, thì cuộc gặp gỡ bây giờ chính là sự sắp đặt của định mệnh. Mười năm, số phận đã đẩy Quê trượt dài xuống đáy… Làm đàn bà ngay từ tuổi thiếu nữ. Hai lần sinh con ngoài giá thú là hai lần một mình vượt cạn. Trốn lên rừng xanh rồi mà vẫn không thoát được “lầu xanh”...
Nữ trung úy Lê My sẽ làm gì với cô gái khốn khổ ấy? Lạnh lùng chối bỏ ư? Hay sẽ khinh bỉ, hắt hủi?.
Hoàng Minh Tường
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lời tạ lỗi muộn màng

Lời tạ lỗi muộn màng Viết cho H., HQ Tr.Uý tại BTL/HQ bến Bạch Đằng ngày xưa. Nếu anh tình cờ đọc được thì xem như đây là một lời tạ lỗi m...