Đò dọc buồn hiu
Như đã hẹn, bảy giờ sáng một ngày cuối hạ năm hai
ngàn không trăm hai mươi hai, bầu trời mây xám xịt, mưa rúc rắc, tôi có mặt ở bến
đò Chợ Lách đi Vĩnh Long. Bờ kè Chợ Lách vắng hoe. Góc trái là quán cà phê ế
khách, buồn tênh. Anh Phương, chủ đò, điện thoại bảo tôi chờ chút vì máy trục
trặc. Tôi quẹo vô quán cà phê “buồn” (tôi chợt nảy ra ý tưởng và đặt tên cho nó
là vậy).
Cô chủ quán trẻ có nụ cười duyên, xởi lởi:
– Sáng giờ mới có người mở hàng. Anh uống cà phê hén?
Tôi nói cô chủ quán làm cho tôi ly cà phê mang đi, vì đò sắp
tới. Cô trố mắt ngạc nhiên:
– Gì? Anh đi đò?
Tôi gật đầu xác định, biểu cảm ngạc nhiên trên gương mặt cô
gái tăng lên gấp bội.
– Trời, đò dọc bây giờ mà kiếm được người khách như anh là vô cùng… quí hiếm!
Đoạn giao đãi với cô chủ quán cà phê ven sông Chợ Lách ở trên
đã khái quát sơ nét về chuyến “thực tế sáng tác” của tôi trên những chuyến đò dọc
đang có nguy cơ bị “khai tử” ở các dòng sông Tây Nam bộ trong một sớm một chiều.
Đúng như cô chủ quán cà phê xinh đẹp nói, đò rời bến Chợ
Lách, chỉ có tôi và anh chủ đò, chiếc đò trống hoắc, hai hàng ghế và những cái
võng vắt ngang dọc trên đò lạnh tanh. Trời vẫn mù mù với những đợt gió nam hiu
hắt. Tôi bắt ghế ngồi gần anh Phương, vừa là chủ đò, vừa là tài công kiêm luôn…
lơ tàu. Tôi ái ngại cho chuyến đò không khách của anh với câu hỏi thăm dò:
– Tình trạng vắng khách như vầy thường xuyên không anh?
Vẫn chăm chú quan sát phía trước mũi đò, anh Phương nói, giọng
buồn:
– Cũng hơn mười năm rồi anh. Từ khi đường xá được nâng cấp,
giao thông nông thôn được cải thiện, xe buýt, xe tốc hành phát triển mạnh trên
đường bộ thì phương tiện vận chuyển khách đường thuỷ của tụi tui ế… chổng chơ!
Âu cũng là qui luật phát triển, tôi định an ủi anh Phương như
vậy nhưng kịp kìm chế phát ngôn khi thấy gương mặt anh đầy tâm trạng. Tôi nhìn
dài theo bờ sông trong màn mưa, lẩn quẩn ở những đám bần, những giề lục bình,
những bờ bến xao xác lá rơi là ký ức tuổi thơ, là những hoài niệm ngồn ngộn
trên sông, trong đó có những chuyến đò dọc, đò ngang nổi trôi cùng thời cuộc.
* * *
Lịch sử hình thành và phát triển khu vực Đồng bằng sông Cửu
Long biến chuyển theo thời gian với đủ những thăng trầm của từng giai đoạn nó
đi qua, nhưng, đặc thù của vùng đầm lầy cồn bãi ngập nước này là chằng chịt những
con sông lớn nhỏ thì vẫn không thay đổi. Trong đó, sông Tiền và sông Hậu là hai
nhánh sông chính chi phối mạnh mẽ sự phát triển miền Tây Nam bộ. Ngoài ra, miền
Tây còn có những con kênh đào phát triển trong vòng hơn một thế kỷ nay, mục
đích chính là phát triển nông nghiệp và giao thông đường thuỷ. Với chín nhánh
sông thuộc hệ thống sông Mê Kông và hàng chục ngàn kí lô mét sông rạch lớn nhỏ
như vậy, đò dọc miền Tây bao đời nay gắn liền với cuộc sống, sinh hoạt của người
dân châu thổ. Tôi hình dung, ban đầu chắc cũng chỉ là những con đò chèo để chở
người dân có nhu cầu từ vùng này qua vùng khác khi các con đường nội vùng chưa
được mở mang. Xã hội dần phát triển, nhu cầu giao lưu hàng hoá, nhu cầu di chuyển
nhiều hơn, thì việc chuyển đổi từ đò chèo sang đò máy là cần thiết. Từ đó, trên
sông hình thành một cái nghề chuyên nghiệp: đò dọc.
Chiếc đò của anh Phương chạy hết con kênh Chợ Lách, ra tới
sông Cổ Chiên thì mưa cũng vừa tạnh. Gió Nam lồng lộng. Sông mênh mông và cảm
giác nao nao buồn khi tôi nghĩ về phận sông và phận đò. Anh Phương để hai
chân trên vô – lăng giữ cho chiếc đò di chuyển đúng hướng rồi ngả người ra sau
ghế ngồi vuơn vai, thở dài:
– Kiếm sống được không hả? Được! Thời hưng thịnh của nghề chạy
đò, ngày bỏ chi phí tui sắm một hai chỉ vàng là thường. Giờ dao động từ năm
trăm tới một triệu, tuỳ hàng hoá ít hay nhiều.
Tôi ngạc nhiên:
– Đò trống trơ vầy sao có thu nhập “khủng” như vậy?
Anh Phương cười, nụ cười phóng khoáng và có chút nghệ sĩ:
– Bận đi thì coi như “cho không biếu không”, khi về mới có tiền.
Chở hàng hoá. Qui trình nó như vầy, nói cho anh dễ hiểu: Sáng, tui gom toa* của
các bạn hàng ở chợ và những tiệm tạp hoá dọc tuyến đò tôi chạy qua; tổng hợp
toa hàng từ các cửa hàng vật liệu xây dựng, cửa hàng phân thuốc trừ sâu, các cơ
sở cửa nhôm cửa sắt có nhu cầu vận chuyển bằng đò, rồi chạy đò không lên Vĩnh
Long. Lên đó, giao toa cho các đại lý, xong, họ cho nhân viên vận chuyển hàng
hoá xuống đò, đúng giờ, đò rời bến, tui chỉ việc ghé đúng địa chỉ giao hàng.
Còn tiền bạc họ tự thanh toán với nhau qua chuyển khoản hay cách nào đó là chuyện
của họ. Tui thì tính đầu toa mà ăn tiền. Thí dụ, một thùng mì gói tôi lấy hai
ngàn, rẻ rề, vận chuyển bằng xe họ ăn mắc hơn.
Tôi bắt đầu dần hiểu ra vì sao đò không có khách nào mà nó vẫn
tồn tại. Hàng hoá vận chuyển bằng đò thì nó thuận lợi nhiều điều: Số lượng nhiều
hơn, an toàn hơn và nhất là giá cả rẻ hơn. Xưa, nhà tôi có một tiệm tạp hoá nhỏ,
một tuần mẹ tôi đi bổ hàng** một lần. Trước nhà tôi là phụ lưu của sông Cổ
Chiên, con sông này chảy qua ba xã cuối cùng của huyện Chợ Lách rồi nhập vào
sông Cổ Chiên để tiếp tục cuộc hành trình phiêu bạt của nó. Sông không lớn, lưu
lượng nhỏ, thuận lợi cho việc di chuyển bằng ghe xuồng để giao lưu buôn bán
hàng hoá giữa dân miệt vườn và thị trấn Chợ Lách. Trên tuyến sông này sau năm một
chín bảy lăm có con đò máy của ông Năm Xà Bông. Đò ngày nào cũng đông khách, phần
nhiều là người dân hái trái cây vườn nhà, đem ra chợ bán, rồi mua những thực phẩm
cần thiết về dự trữ để ăn trong một thời gian nhất định. Đò chạy rất đúng giờ.
Bốn giờ xuất phát từ chợ Phú Phụng chạy dọc theo con sông nhỏ, nơi nào bên bờ
sông có ánh đuốc lá dừa huơ lên huơ xuống thì đó là tín hiệu khách đón đò. Có
những khách là chủ tiệm tạp hoá như mẹ tôi thì không cần huơ đuốc thì chủ đò vẫn
biết mà ghé đón khách vì thời gian đi bổ hàng được mặc định hàng tuần.
Tôi thỉnh thoảng cũng được mẹ cho theo đi chợ. Nhà chỉ cách
chợ huyện chừng bốn cây số, nhưng mỗi lần được đi chợ, tôi gần như mất ngủ vì
nôn nao. Trẻ con vùng quê thời xưa đói đủ thứ, đói chữ, đói văn hoá, đói vật chất…,
cho nên, được tiếp cận sự “văn minh”, dù là văn minh miệt vườn vẫn thấy sướng
rơn trong người. Có khi xuống đò, tôi vùi vào lòng mẹ ngủ một giấc ngon lành vì
gió sông mát rượi, vì tiếng đò máy đều đều, ấm áp. Ra chợ, thấy cái gì cũng lạ,
cái gì cũng hấp dẫn, nhất là các xề bánh đủ loại. Rồi vải vóc, quần áo, giày
dép, đồ chơi… cứ ặp vào mắt. Thế giới cổ tích trong các quyển sách tôi đọc bày
ra trước mắt, tươi nguyên và vi diệu. Vui và rộn ràng nhất vẫn là những chuyến
đò Tết. Ngày đò chạy ba bốn chuyến vẫn chở không hết khách. Xưa, người nông dân
dành dụm cả năm trời mới đi chợ sắm Tết. Những chuyến đò về khẳm đừ nào hoa vạn
thọ, cúc mâm xôi, mai vàng, dưa hấu… Rồi những tiếng cười đùa của trẻ con khi
thấy ba mẹ đi chợ Tết về, âm thanh cuộc sống sôi động từ đầu trên tới xóm dưới.
Tranh của họa sĩ Nguyễn Khôi
Đò anh Phương ghé vào cồn Phú Đa để nhận toa từ một tiệm tạp
hoá. Đầu mùa lũ, nước từ thượng nguồn sông Cổ Chiên cuồn cuộn đổ về. Sông ngầu
đục phù sa. Lục bình tản mác trôi trên sông sau một cơn giông đêm, tơi tả. Anh
Phương hướng mắt qua đất liền, nói giọng đầy luyến tiếc:
– Hơn mười năm trước thôi, giờ này là đò đầy nhốc khách, rộn
ràng như chợ, ai ngờ giờ nó đìu hiu như vầy…
Và anh kể: Nhà anh có truyền thống làm nghề chạy đò. Trước
năm một chín bảy lăm, ông nội anh từng là chủ đò chạy tuyến Cà Mau – Sài Gòn.
Đò còn có nhiều “nhiệm vụ” khác ngoài chở khách, như chở thương binh chẳng hạn.
Ông nội anh từng chở thương binh từ vùng chiến sự ra vùng giải phóng theo yêu cầu
của cách mạng. Và rồi, cũng vì chiến tranh đã “đập bể” nồi cơm gia đình anh khi
bom pháo đã bắn nát chiếc đò của nội anh trong một trận chiến ác liệt. Kế sinh
nhai không còn, gia đình ly tán, cha anh chạy qua Trà Ôn, Vĩnh Long lập nghiệp.
Sau một thời gian dành dụm, tích luỹ, cha của anh Phương tiếp tục chọn
nghề đò dọc để phát triển kinh tế. Qua Chợ Lách mua lại một chiếc đò tuyến Chợ
Lách – Vĩnh Long, cha anh giao lại cho các con nối nghiệp truyền thống gia
đình. Và rồi, cái nghiệp sống trên sông vận vào người anh từ đó đến nay. Vui buồn
trên đò, trên sông thì vô cùng phong phú, kể một ngày một đêm chưa hết chuyện,
anh Phương nói trong hoài niệm.
Đầu những năm hai ngàn, khi đường xá, xe cộ chưa được phát
triển mạnh mẽ, vận chuyển đường thuỷ vẫn là lựa chọn hàng đầu của những người
dân miệt vườn. Chỉ Chợ Lách thôi đã có sáu chiếc đò chạy các tuyến đi về như Chợ
Lách – Sài Gòn; Chợ Lách – Cái Bè; Chợ Lách – Mỹ Tho; Chợ Lách – Vĩnh Long.
Riêng tuyến Chợ Lách – Vĩnh Long có tới hai tài***, tài nhất là đò Hoà Hiệp 1,
đi từ Bang Tra, Cái Mơn xuất bến lúc bốn giờ sáng (còn đò Hoà Hiệp 2 cũng xuất
phát từ Bang Tra nhưng không ghé bến Chợ Lách), tài nhì là đò Tân Hoàng Long của
anh Phương xuất phát tại bến đò Chợ Lách lúc sáu giờ. Dù mỗi ngày hai chuyến đò
tới cùng một địa điểm nhưng đò lúc nào cũng dư khách, có khi khách phải ngồi
trên mui đò vì trong khoang đò đã chật ních. Còn hàng hoá thì khỏi nói, lúc nào
cũng đầy ắp. Chuối, dừa, sầu riêng, măng cụt, cóc, ổi… được vô bao, vô cần xé
chất đầy trên mui đò. Hầu hết là trái cây vườn nhà, bà con đem lên chợ Vĩnh
Long ngồi bán lẻ, được giá hơn bán cho trung gian là những bạn hàng chuyên nghiệp.
Có những sự tủn mủn nhưng thật thương, như dì Năm ở Sơn Định, nhà không có đất
vườn, nhưng chuyến đò nào cũng có mặt dì. Dì đi xin lá chuối, lá lùng, lá môn,
rau má, càng cua… của hàng xóm mỗi thứ một ít rồi lên chợ ngồi bán. Lúc này bọc
ni – long chưa được sử dụng đại trà, nên những lá cây như đã kể ở trên còn rất
hữu ích cho việc gói ghém hàng hoá thông dụng. Buổi chợ có khi chỉ được
vài ngàn (trong thời điểm đầu những năm hai ngàn), nhưng đó là kế sinh nhai, đó
là miếng cơm cho một gia đình năm miệng ăn. Những trường hợp như vậy, anh
Phương không hề ăn tiền đò mà còn “khuyến mãi” thêm lúc là miếng bánh bò,
bánh tiêu, lúc là miếng bánh da lợn hoặc ly cà phê đá.
Nhắc tới cà phê đá là nhắc đến những dịch vụ “ăn theo” trên
đò. Hiểu rằng những khách hàng trên đò phần đông là chuẩn bị rất sớm để đón đò,
chưa kịp ăn uống lót bụng, nên có một đội ngũ phục vụ thức ăn, thức uống bám
theo đò mưu sinh. Cà phê đá, hột vịt lộn, bánh tiêu bánh bò… kẻ xề người thúng
rộn ràng chen chút buôn bán trên đò. Mấy dì mấy chị bạn hàng xuống đò rảnh
rang, lên mui đò kiếm chỗ trống tụm năm tụm ba ngồi đánh tiến lên ăn hột vịt lộn,
bánh tiêu hay cà phê đá. Tiếng cười đùa, tiếng giỡn cợt, rôm rả, xôm tụ, âm
thanh cuộc sống vang rộn một khúc sông. Cùng với đội ngủ bán dạo trên đò là những
người chuyên lãnh toa hàng của các tiệm tạp hoá khu vực thị trấn đi giao các đại
lý ở Vĩnh Long. Cách làm trung gian để hưởng đầu toa này không kiếm được
nhiều tiền nhưng nhàn rỗi và thu nhập ổn định. Khu vực Chợ Lách có dì Hai Liên
và dì Năm Hương làm cái nghề trung gian này “chuyên nghiệp” hơn bốn mươi năm,
cho đến khi đò dọc hết khách, và các dì đã lớn tuổi. Dì Năm Hương giờ đã mất,
Dì Hai Liên thì lúc nhớ lúc quên. Dì cười móm mém khi tôi nhắc lại giai đoạn
làm “cò” trên đò: Hời ơi, hồi đó vui lắm con, đò đông nghẹt, tao vừa đi giao
toa cho đại lý, vừa đem theo ít kẹo bánh, dầu gió… bán trên đò kiếm thêm chút đỉnh.
Giờ nằm nhà buồn lắm, cứ nhớ những chuyến đò xuôi ngược trên sông, vui buồn có
đủ. Buồn hả? Nhiều chuyện lắm, như thời bao cấp, dân đi buôn gạo lậu trên đò, bị
các trạm chặn lại “hốt” hết dù chỉ có năm mười lít. Những người buôn gạo lậu bị
tịch thu, mặt héo queo, buồn như cha chết. Rồi hồi chiến tranh ở “trển” (ý nói
chiến tranh biên giới Tây nam), thỉnh thoảng nhìn dưới sông trôi lểnh nghểnh những
cái xác người không đầu, đau xót lắm mầy à, dù họ là ai, ta hay giặc!. Còn nhiều
lắm, nhớ không hết đâu, như những cái chết đột tử, những ca đẻ rớt rồi chết
trên đò do không được cấp cứu kịp thời…
Tôi hướng mắt nhìn hai bên bờ sông Cổ Chiên, hàng bần xanh rì
chạy thụt lùi qua chúng tôi theo chuyển động biểu kiến. Gió Nam vẫn quần quật
trên sông. Sóng nhỏ nhưng đầy đe doạ. Anh Phương trầm ngâm với những suy nghĩ của
riêng mình. Còn tôi, ký ức về sông và đò thì ngồn ngộn với rất nhiều cung bậc cảm
xúc, nhất là những chuyến đò buồn đưa tiễn. Xưa, đò ngoài chức năng chở khách
còn có khi làm thêm “nhiệm vụ” đưa rước dâu cho các đám cưới khi có yêu cầu.
Nàng ở cồn Phú Đa, tôi và nàng quen nhau qua sự giới thiệu của một người thân.
Nội nàng nói: Con cưới con T. đi, nội lo hết, năm công mận trên cồn nội cho vợ
chồng con làm của hồi môn. Lúc đó tôi mới hai mươi hai tuổi, nàng mười chín. thời
điểm đó, với tôi, khái niệm về hôn nhân thật mơ hồ mặc dù tôi rất thích nàng,
thích mái tóc dài đen mượt kẹp gọn ghẽ sau lưng đong đưa mỗi khi nàng di chuyển.
Tôi lần lựa mãi vì những hoài bão lớn nơi đô thành hoa lệ. Rồi nàng bị gã đi do
những hủ tục lạc hậu, rằng có con gái lớn trong nhà như… Tôi từ Sài Gòn về đưa
dâu nàng, nhìn chiếc đò chở khách thân thiện ngày nào, giờ tôi muốn nguyền rủa
nó, nhưng tất cả đã muộn màng. Tôi đưa nàng về nhà chồng vào một buổi sáng mưa
sụt sùi. Sông buồn, đò buồn và hàng bần ven sông như cũng rũ rượi theo hành
trình đưa tiễn.
Ngoài chức năng “phụ” đưa rước dâu cho những đám cưới trong
vùng, đò dọc còn cải thiện thu nhập bằng những chuyến chở khách ngoài tuyến
chính như chở bà con vùng sâu ra trung tâm thị trấn coi cải lưởng mỗi khi có
đoàn hát ở Sài Gòn về, chẳng hạn. Những năm tám mươi, chín mươi của thế kỷ trước,
văn hoá văn nghệ ở nông thôn thiếu thốn nghiêm trọng, nhất là những loại hình
sân khấu như cải lương, kịch nói. Phim màn ảnh rộng có về tới xã, nhưng hầu hết
là phim Liên Xô, Tiệp Khắc, bắn giết nhau ì đùng trong phim, người già và trẻ
con ít quan tâm. Còn ti vi thì một tuần mới có một tuồng cải lương, người dân
nông thôn coi không đã thèm. Thế nên, mỗi khi có gánh hát về thị trấn, người
dân hồ hởi đi coi như hội. Những bà, những dì chuẩn bị rất sớm, nào trầu cau,
đuốc là dừa mang theo cho bận về… Nắm bắt được nhu cầu di chuyển này, những
chuyến đò chiều có mặt rước khách từ năm giờ chiều ở vài vị trí cố định dọc phụ
lưu sông Cổ Chiên. Ba bốn giờ chiều là lục đục chuẩn bị, người lớn tuổi kỹ lưỡng,
luôn đem theo món ăn dặm như xôi, trái cây… Trẻ con thì hào hứng vui vẻ vì thế
nào cũng được mặc đồ đẹp. Đám thanh niên thì hẹn hò với người yêu, chứ đi coi cải
lương chỉ là cái cớ. Chiều những ngày ấy thật rộn ràng, thật sôi động sau những
tất bậc lo toan mùa màng. Và những chuyến đò chiều như vậy luôn ám ảnh tôi, ăn
sâu vào ký ức tôi, nó cho tôi nhớ lại những cơn đói, không chỉ là những cơn đói
sinh học, mà là những cơn đói “tinh thần”, những cơn đói văn hoá văn nghệ trong
giai đoạn bao cấp lạc hậu một thời.
* * *
Trong số những khách hàng “ruột” từng theo đò anh Phương buôn
bán nhỏ lẻ ở chợ Vĩnh Long có dì Ba Thử ở xã Hoà Nghĩa. Suốt mấy chục năm bám
theo đò dọc để mưu sinh, dì mua trái cây ở vườn như mận, ổi, cam, quít… mỗi thứ
một ít đem lên chợ Vĩnh Long ngồi bán lẻ. Khi tích luỹ được số vốn kha khá, dì
đầu tư cho những chuyến hàng qui mô hơn, không bán lẻ nữa mà giao hẳn cho chủ vựa
trái cây. Và bây giờ, dì Ba Thử không còn là một bạn hàng nhỏ với cuộc mưu sinh
nhỏ trên đò, mà có cả một vựa trái cây lớn ở xã Hoà Nghĩa, Chợ Lách với số vốn
tính bằng con số tiền tỉ. Ngồi với dì bên quán cà phê cạnh vựa trái cây bề thế
của mình, dì tâm sự: Nhớ lại những ngày mưa nắng theo đò cơ cực mà thương quá
chú ơi. Mới đầu xuống đò kiếm sống, tui chỉ có một xề nhỏ nào ớt hiểm, sả, gừng,
riềng… và mấy tụm chanh, chuối. Hầu hết là đi xin trong vườn hàng
xóm, hoặc mua rẻ rề, người ta thấy mình nghèo nên thương, không kì kèo giá cả.
Rồi chủ đò hiểu hoàn cảnh, có khi lấy tiền đò, có khi không, hoặc chỉ lấy nửa
giá tiền. Thời bao cấp, kiếm miếng ăn nhét vào miệng, trần thân! Cứ vậy, ngày
qua ngày, dành dụm mỗi bữa một chút, tăng dần số lượng và chủng loại trái cây,
và trở thành một bạn hàng chuyên nghiệp.
Đò đã đến phà Đình Khao trong cái nắng hanh hao của những
ngày chớm thu sau cơn mưa sớm. Đò vẫn chỉ một khách và một chủ, vắng teo. Trong
ngữ cảnh này, bất giác làm tôi nhớ tới Đông, bạn học tôi giờ đang định cư ở Mỹ!
Học hết lớp bảy, gia đình nghèo quá, lại đông con nên Đông quyết định nghỉ học
để phụ giúp ba mẹ. Hàng ngày, Đông quảy thùng cà rem đi bán khắp nơi trong địa
bàn huyện Chợ Lách, có khi đến cả những địa phương lân cận để bán. Rồi một ngày
đột ngột Đông mất tích, gia đình tá hoả đi tìm, nhưng Đông vẫn bặt vô âm tín. Một
ngày rồi nhiều ngày, một tháng rồi nhiều tháng trôi qua, gia đình Đông chờ đợi
mòn mỏi trong vô vọng, và nguyên nhân sự mất tích của Đông vẫn là một điều vô
cùng khó hiểu. Sau đó, có nhiều chi tiết đáng nghi vấn liên quan tới sự biến mất
đột ngột của Đông. Như, cùng với ngày Đông mất tích thì chiếc đò khách lớn nhất
miền Tây thường ghé Chợ Lách rước khách cũng… bặt tăm, mà Đông thì hay xuống đò
có giang đi một đoạn từ địa phương này qua địa phương khác để bán cà rem.
Cho đến khi gia đình nhận được thông tin của Đông từ nước ngoài, xâu chuỗi lại
những chi tiết thì nó thế này: Một chiếc đò dọc tổ chức vượt biên, hoàn toàn bí
mật. Những người tổ chức chuyến đi vẫn để đò hoạt động bình thường, tránh tai mắt
của các cơ quan chức năng. Họ chuẩn bị chu đáo từ đầu nhớt, lương thực, nước uống
để phục vụ chuyến đi dài ngày. Rồi tới ngày đã định, đò vẫn xuất bến bình thường,
vẫn đón khách theo những bến cố định. Cho nên, ngoài những người tham gia
tổ chức chuyến đi, ai “xui xẻo” xuống đò ngày hôm đó thì “bị” chở đi luôn, để
bí mật của chuyến đi được bảo đảm tuyệt đối. Đông nằm trong số những người
“không may” đó. Sau này, khi đã trở thành việt kiều, về thăm quê, Đông kể lại
chuyện vượt biên bất đắt dĩ của mình vừa bùi ngùi, vừa hóm hĩnh:
– Khóc hết nước mắt mầy ơi. Mọi khi có giang đi một đoạn thì
đò ghé bến nào đó cho lên, còn lần đó đò cứ chạy miết, chạy miết. ban đầu còn
thấy sông quen quen, rồi lạ dần, rồi ra sông lớn hơn… Tao linh cảm có điều gì
đó bất thường, nhưng hỏi ai cũng chỉ là những cái lắc đầu im lặng nặng nề. Sự
lo sợ trong tao lớn dần và tao bắt đầu khóc. Hình như có vài người lại gần an ủi,
động viên, nhưng đầu ốc tao lúc đó vô cùng hoảng loạn. Và, tao trở thành việt
kiều một cách… kỳ cục như vậy. May mắn hay bất hạnh trong đời người có khi xảy
ra trong một thời gian rất ngắn, và, những “nạn nhân” như tao trên chuyến đò định
mệnh đó giờ không biết họ giàu nghèo, sống chết ra sao?
* * *
Đoạn sông Cổ Chiên còn lại để đến bến đò Vĩnh Long nhiều sóng
và gió. Anh Phương vừa lái đò vừa trả lời “phỏng vấn” của tôi, thỉnh thoảng pha
trò bằng nụ cười cởi mở và thân thiện. Có nhiều lúc anh chợt sựng lại giữa câu
chuyện, đôi mắt xa xăm, thẳm buồn. Chắc những lúc đó anh đang hoài niệm, mà
hoài niệm buồn thì thể hiện trên gương mặt rõ nhất. Tôi hỏi, một câu hơi thiếu
tế nhị, rằng, có khi nào anh nghĩ đến chuyện bỏ đò lên bờ làm việc khác không,
và cũng đồng nghĩa là những chuyến đò dọc miền Tây sẽ dần dần bị khai tử? Anh
buồn bã lắc đầu: Nó đã trở thành cái nghiệp rồi, sống chết với đò đã ba đời nhà
tui, thằng con tui mới học lớp năm, hỏi nó sau này làm gì, nó nói… chạy đò! Đò
dọc bây giờ không giàu có như trước, nhưng kiếm ăn được, kiếm ăn lương thiện,
không xô bồ giành giựt như trên bờ, tôi thương sự chậm rải muôn đời của sông nước
đò giang.
Đầu mùa nước rong, sông ngầu đục phù sa, những giề lục bình
sau một cơn giông đêm tản mác trôi dật dờ qua con đò vắng khách. Qui luật phát
triển của xã hội hiện đại không dành cho sự chậm chạp. Quốc lộ, đường cao tốc,
đường giao thông nội vùng từ tỉnh, huyện đến xã, ấp dày đặc, phóng lên xe cái rẹt
là tới nơi. Ai lại đi ngồi “nhấm nháp” sự trì trệ, rề rà của một con đò? Riêng
tôi, tôi luôn yêu miền Tây qua những chuyến đò dọc. Và, thương lắm những dì Hai
Liên, dì Năm Hương, dì Ba Thủ ngày ngày bám theo đò bươn chải mưu sinh. Để rồi,
tôi bần thần nhớ về chuyến đò đưa tiễn nàng về Bang Tra, chuyến đò buồn da diết.
Nhận được một cuộc điện thoại có công chuyện gấp, đò cặp bến Vĩnh Long, tôi định gởi anh Phương chút thù lao cho chuyến đi, anh phủi tay từ chối với nụ cười đôn hậu. Tôi cảm ơn và tạm biệt anh. Trên chiếc xe buýt từ Vĩnh Long về Chợ Lách, tôi cứ rai rứt mãi, nếu không có cuộc điện thoại thúc giục của gia đình, tôi sẽ lại cùng anh quay về trên chuyến đò đầy ắp hàng hoá nhưng thiếu hơi người, biết đâu sẽ còn được nghe anh kể rất nhiều điều thú vị trên đò. Và rồi, tôi biết, trưa nay anh vẫn phải trở về một mình trên chuyến đò dọc buồn hiu.
Chú thích:
* Toa: Danh sách những loại hàng hoá chủ tiệm tạp hoá cần
mua.
** Bổ hàng: Mua những loại hàng hoá cần thiết đem về
bán.
*** Tài: Thứ tự rời bến của những chuyến đò cùng một địa điểm
theo thời gian nhất định do các chủ đò qui ước với nhau.
9/10/2023
Đào Ngọc Vinh
Theo https://vanvn.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét