Thứ Ba, 5 tháng 11, 2024

Thơ Hữu Ước: Kiếp người cũng cũ

Thơ Hữu Ước:
Kiếp người cũng cũ…

Sinh thời, Chế Lan Viên có bài thơ Sổ tay thơ bàn về thơ hay và thơ dở rất rành mạch. Trong Sổ tay thơ có mấy câu rất đáng lưu ý:
Thơ hay như gái đẹp/ Ở đâu, đi đâu cũng lấy được chồng/ Thơ dở không dịch được…
Hai câu đầu khỏi phải bàn, vì nó quá chí lí và rõ ràng, như một lẽ đương nhiên. Còn câu thứ ba “Thơ dở không dịch được”, phải hiểu là thứ thơ không ý tưởng, không thông điệp, chẳng chóng thì chày cũng cũng sẽ bị độc giả lãng quên hoặc quay lưng. Và nó không dịch được vì chẳng có gì để dịch.
Trên thực tế, những bài thơ của các tác giả nước ngoài được chuyển ngữ (dịch) sang tiếng Việt đều có ý, có tứ rõ ràng và có đơn vị thơ hay, câu thơ hay. Có thể ví câu thơ hay như một vết chém nghệ thuật hằn dấu ấn.
Mặt nạ kẻ ác của B.Becht (nhà thơ Đức) là ví dụ thứ nhất:
Trong buồng tôi treo một điêu khắc gỗ/ Mặt nạ ác thần Nhật Bản thếp vàng/ Mạch máu hằn trên trán nhăn khốn khổ/ Tôi nhìn nó cảm thông:/ Làm người ác khó nhọc vô cùng.
Rõ ràng, nếu không có câu “Làm người ác vất vả vô cùng”, Mặt nạ kẻ ác không đứng nổi.
“N.” Của K.Lubomirski (nhà thơ Áo) là ví dụ thứ hai:
Khi anh nói về em/ Trong tim anh/ Một bóng hình trỗi dậy/ Khi không nói về em/ Trong tim anh/ Một bóng hình trỗi dậy/ Như nói về vết sẹo trong đời.
Rõ ràng, nếu không có câu “Như nói về vết sẹo trong đời”, “N.” Không đứng nổi.
Một bài thơ hay, đôi khi chỉ nương nhờ vào một câu thơ hay, là như thế!
Thơ ấy cũng là thơ hiện đại. Viết một cách trực tiếp, trực diện. Không cần tu từ và cũng không cần sử dụng một thủ pháp nghệ thuật nào cả. Lại giản dị khó làm. Lại giản dị một cách sâu sắc. Và đằng sau chúng là gì? Thật khó giải thích.
Bìa tập thơ “Hữu Ước – 100 bài thơ chọn”, NXB Hội Nhà văn, 2023.
Lâu nay, tôi đã quen đọc những bài thơ ở dạng này. Và tạng thơ của tôi là như vậy. Cũng không có gì là khó khi nhận ra ngay chúng là những áng thơ hay. Bởi vậy, tôi cũng làm quen rất nhanh với thơ Hữu Ước ngay từ những bài thơ đầu, tập thơ đầu của ông.
Trong Thưa Cụ Tổ, khi nhận ra “Cửa quan thì hẹp, lối vòng khó chơi”, ông đã “Mượn men ngang dọc với đời/ Hai vai gánh nặng cơ trời dọc ngang”. Rồi ông trở về bản lĩnh vốn có của mình với hai câu kết như để coi nhẹ tất cả, thật khác lạ:
Điếu cày, rượu đế xênh xang/ Công danh thành đạt bằng tràng vỗ tay.
Chỉ thuốc lào và rượu đế, cũng đủ làm thành một cuộc vui nghiêng ngả, thì công danh hay sự thành đạt, đôi khi cũng phù du và ngắn ngủi thôi mà! Chỉ một tràng vỗ tay có khi đã là chấm hết.
Trong Người lính có đoạn:
Ở giữa chiến trường chỉ đạn bom/ Những người lính không cần đến ghế/ Và giữa ùng oàng tiếng cười, tiếng nổ/ Chẳng thấy ai chọn một chỗ ngồi…
Vâng! Bạn chiến đấu là thế! Về cơ bản, họ là những người vô sản. Họ luôn chung gian nan, chung chết chóc, không phân biệt chức tước, không phân biệt trên dưới vì nghĩa lớn. Và đó là sự thật – sự thật đáng trân trọng. Nói như cổ nhân thì đấy là những người “chung hoạn nạn”. Còn khi không ở chiến trường, hoà bình rồi, lúc hữu sản rồi, người ta mới nghĩ đến “không chung phú quý”.
Hữu Ước là người cô đơn. Ông cô đơn đến nỗi con gái ông phải thốt lên: “Gia tài lớn nhất của bố là sự cô đơn”. Bởi thế trong Đêm, ông mới viết hai câu thơ thể hiện sự cô đơn đến độ: Nhìn ngang, nhìn dọc… Đơn côi/ Và một cái bóng cùng tôi chập chờn.
Đấy là lúc ông nghĩ về mình lúc hướng nội. Còn khi hướng ngoại, ông còn nhìn ra sự cô đơn đến cả khi không còn nữa của “Thánh thi” Đỗ Phủ trong Viếng Đỗ Phủ: “Lưu danh thiên cổ còn ai nhỉ?/ Một nấm mồ xanh ông với ông”.
Hai từ “có thật” được Hữu Ước sử dụng ít nhất hai lần trong thơ. Lần thứ nhất trong Câu hỏi niềm tin: “Đi đánh giặc/ Tin ở ngày chiến thắng/ Niềm tin ấy là niềm tin có thật”. Lần thứ hai trong Khóc vợ: “Chỉ khi vợ tôi mất/ Tôi mới nhận ra rằng/ Nỗi đau là có thật”. Phải có niềm tin lớn như thế nào, ông mới viết như thế và khẳng định như thế? Phải có nỗi đau lớn như thế nào, ông mới viết và khẳng định như thế? Khi vợ không may qua đời, trước mất mát lớn lao không có gì có thể bù đắp nổi, Hữu Ước đã biến điều bình thường thành khác thường trong Lá vàng rơi bằng câu thơ: “Cái ngõ nhỏ không còn hơi thở cũ”.
Về hai từ “niềm tin” được Hữu Ước sử dụng ít nhất hai lần trong thơ. Lần thứ nhất trong Niềm tin được ông bộc bạch: “Đã có một thời tôi luôn tin và yêu/ Có phải vì niềm tin trong tôi quá lớn/ Rồi tôi ngã chính vì niềm tin quá lớn/ Để rồi ngơ ngác xót xa…”. Lần thứ hai trong Lá bùa được ông diễn đạt kín đáo hơn: “Bước vào vòng lao lý/ Vợ đưa tôi lá bùa/ Đêm ngày tôi cầu nguyện/ Nam Mô A Di Đà…/ Lá bùa trong địa ngục/ Nuôi tôi tròn ba năm…”. Lần thứ nhất là sự trả giá cho “niềm tin trong tôi quá lớn”. Lần thứ hai: Chính niềm tin (đức tin) đã nuôi sống ông. Theo tôi, “Lá bùa” là tứ thơ lạ, viết như không, viết như bắt được và nó được thăng hoa từ sự chân thành, xuất phát từ một hiện thực thật khắc nghiệt.
“Phải sống” thì nhiều người đã nói đến. Ở Trung Quốc, Trương Nghệ Mưu có phim Phải sống. Ở Đức, B.Brecht có bài thơ Chờ thay lốp xe nói về sự phải đi, phải sống. Đến Bước, Hữu Ước cũng có hai câu thơ liên quan đến phải đi, phải sống theo cách của ông: “Cuộc đời là những bước đi/ Ta phải bước…”
Như một người chạm khắc trong thơ, đóng đinh vào trí nhớ độc giả qua thơ nhờ sự trải nghiệm khác người, Hữu Ước đã đến thế giới thơ bằng đôi mắt có khả năng quán chiếu và có những bước đi có nhận biết. Ông sở hữu nhiều câu thơ thật triết lý, đọc lên không khỏi giật mình: Giọt sương chỉ thấm lên môi má hồng (Vịnh thi sĩ); Mặt đất hẹp, miếng ăn chật chội/ Chốn quan trường vương bụi hư vô/ Thời gian cũ, kiếp người cũng cũ (Một mình); Nhân gian hai chữ sao mà nặng/ Ta gánh sao đây hở đất trời? (Thế sự); Cái đang có nghĩa là cái không có/ Cái đang có nghĩa là cái đang đi (Chim bìm bịp); Đời người dâu bể phân bua/ Phần thắng thì ít, phần thua thì nhiều (Chỗ dựa); Người không biết nhìn xuống/ Làm sao biết nhìn lên (Cỏ và đời)…
Riêng hai câu: “Người không biết nhìn xuống/ Làm sao biết nhìn lên” như chỉ ra lẽ ứng xử từng trải, vừa phải với mình, vừa phải với người và như một sự ngộ ra một điều gì đó rất lớn lao, mà cũng rất gần gũi, cũng rất nhân bản trong cuộc đời này.
18/10/2023
Đặng Huy Giang
Nguồn: Báo Văn Nghệ số 41/2023
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Vườn xưa

Vườn xưa Vườn xưa, ấy là cái vườn của gia đình tôi ở quê, thôn Khê, nằm bên tả ngạn con sông Cái thuộc tỉnh Hưng Yên, cách thủ đô chừng và...