Không gian và thời gian nghệ
thuật
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Chỉ trong vòng 13 năm ngắn
ngủi, phong trào Thơ Mới (1932-1945) đã thực sự làm nên “một cuộc cách mạng
chưa từng có” trong lịch sử thi ca Việt Nam. Cuộc cách mạng thi ca này
không những đã tạo ra nhiều bài thơ hay, nhiều nhà thơ độc đáo, mới lạ, nổi tiếng
mà còn đem lại một phạm trù thơ hiện đại, một nội dung mới, một thi pháp mới
thay thế cho thơ trữ tình cổ điển tồn tại từ nghìn năm trung đại.
Có một điều thú vị là Bình Định
không phải nơi phát nguồn của Thơ Mới, lại là nơi nằm cách xa cách trung tâm
văn hóa, văn học lớn của đất nước, nhưng chính tại nơi này lại là nơi hội tụ của
nhiều nhà thơ nổi tiếng với những cách tân táo bạo.Chính họ đã làm nên một thi
phái thơ“độc nhất vô nhị” có tên là Trường thơ loạn Bình Định. Sự
thăng hoa,bừng sáng của trường thơ này đã góp phần quan trọng nhất làm nên một
xứ sở Bình Định không chỉ là “vùng đất võ” mà còn là vùng đất có “trời
văn” tỏa sáng.
Là những người được sống và
gắn bó với vùng đất Bình Định, chúng tôi rất tự hào về truyền thống anh hùng và
truyền thống thơ ca ở nơi đây. Tìm hiểu, nghiên cứu về Trường thơ loạn Bình
Định cũng chính là để khám phá, lý giải và thưởng thức một “món đặc sản” quý
hiếm của phong trào Thơ Mới, cũng chính là góp phần giữ gìn và phát huy những
giá trị của văn học truyền thống dân tộc và văn học địa phương Bình Định.
Đó chính là những lý do khiến
chúng tôi đi vào lựu chọn nghiên cứu đề tài “Không gian và thời gian nghệ
thuật của trường thơ lọan Bình Định” với mong muốn đi sâu vào nghiên cứu
hai yếu tố thi pháp cơ bản của trường thơ này, từ đó góp phần “giải mã” những
bí ẩn làm nên sự độc đáo, mới lạ, kỳ lạ và nổi tiếng của nó.
2. Lịch sử vấn đề.
Có thể nói, trong vườn hoa
Thơ Mới rực rỡ sắc màu thì Trường thơ loạn Bình Định chính là những
bông hoa kỳ lạ nhất, phức tạp nhất. Chính vì sự kỳ lạ và phức tạp này mà từ trước
Cách mạng tháng Tám đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về
trường phái thơ này. Qua tổng hợp các công trình nghiên cứu, chúng tôi tạm phân
ra có hai loại sau đây:
2.1 Loại nghiên cứu về cả
trường thơ.
Ngay từ năm 1941, Hoài Thanh
và Hòai Chân trong cuốn “Thi nhân Việt Nam” đã giới thiệu và phê bình
tổng quát về thơ của Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan và Bích Khê. Trên cơ sở
đối chiếu, so sánh với “lối thơ tả chân” của một số nhà Thơ Mới
ngoài Bắc, các tác giả của cuốn phê bình thơ nổi tiếng này đã nhận định sơ lược
về cả Trường thơ loạn như sau: “Trái hẳn với lối thơ tả chân có
lối thơ của Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên. Cả hai điều chịu ảnh hưởng rất nặng nề
của Baudelaire và qua Baudelaire, ảnh hưởng nhà văn Mỹ Edga Poe… Cả hai đều cai
trị Trường thơ loạn và chiêu tập được một số đồ đệ là Hoàng Diệp, Quỳnh
Dao, Xuân Khai (tức Yến Lan nhưng không phải là Yến Lan vì tiêu biểu cho một lối
thơ khác). Tôi vừa nói Chế Lan Viên đã đi tới thơ tượng trưng Pháp. Điều này
cũng thấy rất rõ ở các tác phẩm của một người rất gần với Chế Lan Viên đó là
Hàn Mặc Tử và Bích Khê.”[44;36- 37]
Nguyễn Tấn Long trong công
trình nghiên cứu “Việt Nam thi nhân tiền chiến” đã phát hiện ra
cái mới lạ của Trường thơ loạn mà ông gọi là “những vần thơ khó
hiểu, những vần thơ khó tin”.Và để minh chứng cho điều này, tác giả viết: “Nếu
một Hàn Mặc Tử hay nói về thượng giới thì Chế Lan Viên lại nhắc mãi về hạ giới,
về cõi âm…Nếu Hàn hay nghĩ về cảnh chết trước mắt nên ý thơ thường hướng về
tương lai thì ngược lại, Chế Lan Viên lại hay tiếc thương về thời đại cũ, lại
thích đắm chìm vào dĩ vãng”.[30; 5-6]
Tác giả Phan Cự Đệ trong cuốn Phong
trào Thơ Mới 1932-1945 cũng có một đoạn ngắn giới thiệu sơ lược về Trường
thơ loạn như sau: “Đương thời, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê,Hoàng Diệp
đã xướng lên Trường thơ loạn ở miền Trung. Chịu ảnh hưởng những quan điểm thẩm
mỹ của Edlga Poe, kể chuyện ca ngợi những vẻ đẹp của tử thần, và của
Baudelaire, kẻ đã mỹ lệ hóa cả cái ác độc, ghê tởm, vô đạo đức. Trường thơ loạn
bắt đầu đi tìm cái đẹp ở những vùng đất đai chưa được khai phá”. Trong hoàn cảnh
khắt khe của xã hội khi ấy về Thơ Mới, tác giả Phan Cự Đệ thường viện dẫn các
nhà thơ trong Trường Thơ loạn như là những bằng chứng về sự suy
đồi của phong trào Thơ Mới giai đoạn cuối.
Có lẽ tác giả Trần Thị Huyền
Trang trong bài “Vị chúa của Trường thơ loạn” (In trong cuốn “Hàn Mặc Tử -
Hương thơm và mật đắng”) là người tìm hiểu nhiều về các thi sĩ của
trường phái thơ này. Có thể nói, tác giả đã có nhận định đúng đắn và có sức
thuyết phục về Trường thơ loạn như sau:“Qua các tác phẩm của các nhà
thơ thuộc Trường Thơ loạn, người đọc dễ dàng nhận ra sự ảnh hưởng lẫn nhau
trong ngôn từ và hình tượng thơ. Giữa Chế Lan Viên và Bích Khê, giữa Bích Khê
và Hàn Mặc Tử, giữa Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên..Họ bắt gặp nhau trong ý tưởng
và ngôn từ nhưng giọng điệu thì khác. Đó là kết quả của một quá trình dài tiếp
xúc, trao đổi,gọi nôm na là sự tương hỗ, sáng tạo. Về mức độ, có lẽ Hàn Mặc Tử
là người gây ảnh hưởng lớn nhất đến các nhà thơ trong “Vương quốc” của mình, tiếp
đến là Chế Lan Viên. Thơ Hàn có trăng, hồn, máu thì ở thơ Chế Lan Viên, Bích
Khê, Yến Lan cũng có trăng, hồn, máu. Thơ Chế có bóng ma,thì thơ Bích Khê, thơ
Yến Lan cũng có bóng ma hiện về. Sọ người, tinh tủy, xương cốt đầy rẫy trong
thơ Chế Lan Viên và Bích Khê. Còn điều này nữa, cái chất chung tan chảy, điều
hòa toàn bộ sáng tác của họ là chất sầu. Với mỗi nhà thơ, được thể hiện trong ở
những mức độ khác nhau. Ở Hàn Mặc Tử, nó phơi bày ra ở khía cạnh đau thương. Ở
Bích Khê, đó là sự dằn vặt triền miên. Ở Chế Lan Viên, nó cô đặc lại thành niềm
chán nản. Ở Yến Lan, nó khoanh tròn lại trong niềm cô đơn, tuyệt vọng, não nề.”[50; 93- 94]
Giáo sư Hà Minh Đức trong
bài “Điêu tàn và tâm hồn thơ Chế Lan Viên” (TCVH số 10/1996) lại khẳng
định: “Với Trường thơ loạn, quan niệm về thơ và nhà thơ đã có sự thay đổi quan
trọng. Mẫu hình thi sĩ “ru với mây gió”, “đẫm tình và mộng” đã bị thay thế bởi
thi nhân cực đoan, mạnh mẽ, dị thường. Họ muốn xác lập một thế giới mới trong
thi ca đã trở nên khác biệt, nhiều khi đối lập với logic cuộc đời. Nhà thơ, chủ
thể sáng tạo, một nhân tố mạnh xem mình như trọng tâm của vạn vật mà bộc lộ cảm
xúc một cách khác thường.”
Tóm lại, từ một số các công
trình nghiên cứu ở trên về Trường thơ loạn Bình Định, chúng tôi có một số
nhận xét như sau:
Thứ nhất, nếu so sánh với số
lượng các công trình, bài viết về từng nhà thơ của Trường thơ loạn Bình Định (trong
đó nổi bật lên là ba nhà thơ: Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê) thì số công
trình nghiên cứu về cả trường thơ này là khá khiêm tốn.
Thứ hai, hầu hết các bài viết
về Trường thơ loạn Bình Định lại chỉ đưa ra những nhận định khái
quát, sơ lược chứ chưa đi vào nghiên cứu các vấn đề cụ thể, chi tiết cả về nội
dung và hình thức của trường phái thơ này.
Trong thời gian gần đây, Trường
thơ loạn Bình Định đã dần dần được chú ý nghiên cứu khá công phu, chi tiết.
Bằng chứng là một số giảng viên đại học và học viên cao học văn học Việt Nam đã
tiến hành nghiên cứu về Trường thơ loạn như các luận văn Thạc sĩ sau
đây:
-Quan niệm về thơ của Trường
thơ loạn và Xuân thu nhã tập (Lê Nguyễn Sơn Trà, Đại học Đà Nẵng,
2009).
- Đặc điểm nghệ thuật của Trường
thơ loạn (Nguyễn Thị Quyên, Đại học Quy Nhơn, 2011.)
- Nghệ thuật kỳ ảo của Trường
thơ loạn (Nguyễn Thị Vân Chi, Đại học Quy Nhơn,2011).
Cũng trong thời gian gần
đây, có một luận án Tiến sĩ của tác giả Nguyễn Toàn Thắng với đề tài “Hàn
Mặc Tử và nhóm thơ Bình Định” (2003) đã đi vào nghiên cứu khá nhiều vấn đề
của Trường thơ loạn như: ảnh hưởng của văn học lãng mạn, tượng trưng,
siêu thực Pháp tới Trường thơ loạn, , sự tích hợp giữa chất đạo và chất đời
trong Trường thơ loạn, cái tôi trữ tình, giọng điệu của Trường
thơ loạn. Hai yếu tố thi pháp “không gian và thời gian nghệ thuật” cũng
được tác giả nghiên cứu nhưng chủ yếu khảo sát thơ Hàn Mặc Tử và cũng còn khá
sơ lược.
2.2 Loại nghiên cứu về từng
nhà thơ trong Trường thơ loạn Bình Định.
Phải nói ngay rằng, loại
nghiên cứu này có rất nhiều công trình, bài viết và trải dài trong suốt hơn nửa
thế kỷ qua. Chiếm số lượng áp đảo đó là những công trình nghiên cứu về Hàn Mặc
Tử, tiếp đến là Chế Lan Viên rồi Bích Khê.
2.2.1 Các công trình nghiên
cứu về Hàn Mặc Tử.
Trước hết phải kể đến các
công trình nghiên cứu về “vị chúa của Trường thơ loạn” – Hàn Mặc
Tử.
Nếu như Xuân Diệu từng
được phong tặng là nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ Mới thì Hàn Mặc Tử lại được
coi là một hiện tượng thi ca lạ nhất, phức tạp nhất và bí ẩn nhất. Hơn nửa thế
kỷ kể từ khi người bệnh Nguyễn Trọng Trí từ giã cõi đời với một “Tấm linh hồn
thanh khiết” thì Hàn Mặc Tử thi sĩ lại bắt đầu một cuộc sống bằng
thơ cực kỳ mãnh liệt, thách thức mọi sự khám phá nhưng cũng gây ra nhiều
ngộ nhận trái chiều nhau kịch liệt. Có người coi Hàn Mặc Tử là một “thiên
tài thơ không có đến hai người trên thế giới”, lại có người cho thơ Hàn là
thứ thơ “nói nhảm”,“thơ điên dại”.
Trong “Thi nhân Việt Nam” xuất
bản năm 1941, Hoài Thanh và Hoài Chân đã tổng kết: “Tôi đã nghe người ta mạt
sát Hàn Mặc Tử nhiều lắm. Có người bảo Hàn Mặc Tử thơ với thẩn gì! Toàn nói nhảm.
Có người nghiêm khắc hơn nữa: Thơ gì mà rắc rối thế! Mình tưởng có ý nghĩa khuất
khúc, cứ đọc đi đọc hoài, thì ra nó lừa mình”. Nhưng trong dư luận khi ấy cũng
lại có nhiều người khen ngợi thơ Hàn. Các tác giả “Thi nhân Việt Nam” cũng cho
biết: “Nhưng tôi cũng có nghe những người ca tụng Hàn Mặc Tử. Trong ý họ, thi
ca Việt Nam chỉ có Hàn Mặc Tử. Bao nhiêu thơ Hàn làm ra họ đều chép lại và thuộc
hết”.
Cho đến khi Hàn Mặc Tử qua đời
thì gần như cả làng thơ Việt Nam chợt bừng tỉnh. Hàng loạt bài báo của các thi
hữu trong nhóm thơ Bình Định dồn dập xuất hiện in trên báo “Người mới” vào
cuối năm 1940: “Hàn Mặc Tử” (Bích Khê), “Những kỷ niệm về Hàn Mặc
Tử” (Chế Lan Viên), “Thơ Hàn Mặc Tử” (Trọng Miên), “Hàn
Mặc Tử với thơ Đường luật” (Quách Tấn), “Hàn Mặc Tử” (Trần Tái
Phùng), “Những kỷ niệm về Hàn Mặc Tử” (Trần Thanh Địch)v.v…
Năm 1941, tác giả Trần Thanh
Mại cho xuất bản cuốn “Hàn Mặc Tử, thân thế và thi văn”. Đây là
công trình nghiên cứu chuyên biệt, quy mô đầu tiên về thi sĩ tài hoa đoản mệnh
này. Trong cuốn sách trên, Trần Thanh Mại đã đi sâu vào kể lại, miêu tả lại
cuộc đời đau khổ vì bệnh tật và những cuộc tình dang dở, cá tính riêng của nhà
thơ cùng những ảnh hưởng của địa văn hóa Bình Định đến thơ ông. Cuối cùng nhà
nghiên cứu đã đánh giá rất cao về Hàn Mặc Tử: “Hàn Mặc Tử là người đầu
tiên ở thế kỷ XX mở ra một cuộc cải cách lớn cho văn chương Việt Nam thành công
một cách vinhquang, rực rỡ… thiên tài của Hàn Mặc Tử cao hơn tất cả các thiên
tài trên thế giới”.
Với lối phê bình ấn tượng,
các tác giả Thi nhân Việt Nam đã thực hiện một cuộc hành trình đồng cảm
xúc qua các thi phẩm của Hàn Mặc Tử và thừa nhận: “Ngót một tháng trời tôi
đã đọc thơ Hàn Mặc Tử (Các tác giả dùng bút danh Hàn Mặc Tử -N.Q.K). Tôi đã
theo Hàn Mặc Tử từ lối thơ Đường đến vở kịch bằng thơ “Quần tiên hội”. Và tôi
đã mệt lả …đúng như lời Hàn Mặc Tử nói trong lời tựa “Thơ điên”, vườn thơ của
người “ rộng rinh không bờ bến”, càng đi xa càng ớn lạnh.”
Từ sau năm 1945 đến năm
1975, do lịch sử nước ta đã trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
vô cùng quyết liệt nên nhiệm vụ chống ngoại xâm được đặt lên hàng đầu, do đó việc
nghiên cứu Thơ Mới nói chung và thơ Hàn nói riêng tạm thời lắng xuống.
Từ sau 1954, việc tìm hiểu
và đánh giá về Hàn Mặc Tử nằm trong tình hình nghiên cứu về Thơ Mới. Nổi trội
lên là khuynh hướng phê phán nghiêm khắc và một chiều về phong trào Thơ Mới. Vũ
Đức Phúc có phần nghiêng về quan điểm xã hội học nặng nề khi cắt nghĩa hiện
tượng đau buồn của các thi sĩ lãng mạn “Họ buồn vì nghèo trong khi tình
yêu và sự hưởng lạc lại cần có tiền.” Hồng Chương kịch liệt phê phán Thơ Mới “có
thái độ tiêu cực, đầu hàng trước kẻ thù chung của dân tộc.” (Tuyển tập
Hoài Thanh- tr. 293).
Năm 1966, Phan Cự Đệ đã cho
ra đời một tập chuyên luận công phu có nhan đề “phong trào Thơ Mới
1932-1945”. Tác giả đã sử dụng quan điểm nghiên cứu văn học Mát-xít để nghiên cứu
cơ sở lịch sử- xã hội,cơ sở văn hóa-thẩm mỹ của phong trào Thơ Mới. Bên cạnh việc
phê phán khuynh hướng thoát ly tiêu cực cũng như con đường bế tắc của chủ nghĩa
cá nhân tư sản, tác giả cũng nêu rõ những mặt tích cực của Thơ Mới như “Tâm
sự yêu nước thầm kín, lòng yêu thiên nhiên tha thiết, cảm hứng nhân đạo và thái
độ phủ nhận một cách tiêu cực xã hội thối nát đương thời.”
Trong khi đó ở các đô thị ở
miền Nam, Hàn Mặc Tử đã được giới thiệu, nghiên cứu khá sôi nổi trên các tạp
chí “văn hóa Á Châu”, “Bách khoa”, “phổ thông”. Riêng tạp chí “Văn”và
tạp chí “văn học” đã ra những số chuyên biệt về Hàn Mặc Tử. Bên cạnh
đó còn có những cuốn sách phê bình văn học nghiên cứu về Hàn Mặc Tử như: “Hàn
Mặc Tử, nhà thơ siêu thoát” (Thế Phong -1957), “Thi nhân Việt Nam hiện
đại” (Phạm Thanh -1959),“Lược khảo về thơ” (Uyên Thao-1960), “Đôi nét về
Hàn Mặc Tử” (Quách Tấn -1964), “Hàn Mặc Tử-thi sĩ tiền chiến” (Nguyễn
Tấn Long- 1968-1969), “Văn thi sĩ tiền chiến” (Nguyễn Vỹ-1969), “Nhà
văn tiền chiến 1930-1945” (Thế Phong-1974)…
Nhìn chung, các công trình
nghiên cứu về thơ văn Hàn Mặc Tử ở các đô thị miền Nam trước năm 1975 có khuynh
hướng nghiên cứu rất kỹ, rất sâu về đời tư của thi sĩ, đề cao những cái khác
thường, kì dị trong thơ Hàn hoặc là lý giải rất công phu về chất Đạo trong thơ
ông v.v…
Bước vào thập kỷ tám mươi
trong không khí cởi mở của thời kỳ đổi mới, nhiều nhà nghiên cứu văn học đã có
cái nhìn khác trước về phong trào Thơ Mới nói chung và thơ Hàn Mặc Tử nói
riêng. Chẳng hạn vào năm 1983, Nguyễn Hoành Khung tiếp tục có những đánh giá về
vai trò đặc biệt của Hàn Mặc Tử trong Trường thơ loạn Bình Định. Năm
1989, Lê Đình Kỵ cho ra đời công trình “Thơ Mới, những bước thăng trầm” như
là một cách nhìn lại, đánh giá lại phong trào Thơ Mới trong đó có các nhà thơ
tiêu biểu nhất như Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích
Khê, v.v…Nhân kỷ niệm 60 năm phong trào Thơ Mới, công trình tập thể mang tên “Nhìn
lại một cuộc cách mạng trong thi ca” (Nxb Giáo dục,1997) đã tập hợp nhiều
bài nghiên cứu có giá trị của các nhà nghiên cứu văn học nổi tiếng về Thơ Mới,
trong đó có Hàn Mặc Tử. Nhìn chung các bài viết đều hết sức coi trọng và đề cao
những thành tựu nổi bật của Thơ Mới đã làm nên một cuộc cách mạng trong lịch sử
thi ca dân tộc.
Nhiều công trình nghiên cứu
mới về Hàn Mặc Tử liên tiếp ra đời vào những năm chín mươi như: Nguyễn Bá Tín với “Hàn
Mặc Tử, anh tôi” (1991) và “Hàn Mặc Tử trong riêng tư” (1994);
Phạm Xuân Tuyển với cuốn sách đồ sộ có nhiều tài liệu sưu tầm mới về thân thế
và sự nghiệp thơ văn Hàn Mặc Tử mang tên “Đi tìm chân dung Hàn Mặc Tử” (1997); “Hàn
Mặc Tử, hương thơm và mật đắng” (Trần Thị Huyền Trang-1991); “Hàn Mặc Tử,
thi sĩ đồng trinh” (Nguyễn Thụy Kha -1993); “Hàn Mặc Tử, thơ và đời” (Lữ
Huy Nguyên -1995); “Hàn Mặc Tử, hôm qua và hôm nay” (Vương Trí
Nhàn-1996); “Hàn Mặc Tử, thơ và giai thoại” (Hà Vinh và Mã Giang Lân
-1998); “Thơ văn Hàn Mặc Tử, phê bình và tưởng niệm” (Phan Cự Đệ-1993)v.v…
Tiến sĩ Chu Văn Sơn trong cuốn “Ba
đỉnh cao Thơ Mới” (Nxb.Giáo dục, 2006) đã dành một phần quan trọng nghiên
cứu về đặc điểm phong cách thơ Hàn Mặc Tử. Sau khi đi vào khảo sát, phân tích
thế giới thơ Hàn, Chu Văn Sơn đã khái quát nên những đặc điểm về phong cách của
nhà thơ Hàn như sau:
- Hàn Mặc Tử, chàng thi sĩ
khao khát cái tột cùng.
- Một quan niệm khác lạ, một
chí hướng phi thường.
- Sự hòa hợp thi ca và tôn
giáo.
- Cảm xúc đặc thù của “Thơ
điên”: đau thương.
- Mạch liên kết của “Thơ
điên”: dòng tâm tư bất định.
- Lớp ngôn từ của “Thơ
điên”: lớp từ cực tả.
Có thể nói, đó là những đánh
giá khá mới mẻ và xác đáng, thuyết phục. Cùng với luận án Tiến sĩ “Thế giới
nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử”, Chu Văn Sơn là nhà nghiên cứu, phê bình văn học thuộc
thế hệ sau đã có những đóng góp đáng kể và rất đáng nể vào hành trình khám phá
những bí ẩn của thơ ca Hàn Mặc Tử. (Rất tiếc là hai yếu tố của thế giới nghệ
thuật thơ Hàn Mặc Tử là không gian và thời gian nghệ thuật tác giả đã không khảo
sát và nghiên cứu thành hệ thống và luận điểm).
Theo thống kê chưa thật đầy
đủ của chúng tôi, cho đến nay riêng nghiên cứu về Hàn Mặc Tử đã có 88 cuốn sách
và bài viết độc lập. Vị thứ hai là thi sĩ Chế Lan Viên với 65 tài liệu và thứ
ba là thi sĩ Bích Khê với 34 tài liệu.
2.2.2 Những công trình
nghiên cứu về Chế Lan Viên (thời kỳ trước cách mạng tháng Tám).
Khác với “vị chúa Trường
thơ loạn” Hàn Mặc Tử, “vị tướng” của trường thơ này là Chế Lan
Viên lại có một sự nghiệp thơ kéo dài từ trước cách mạng tháng Tám đến tận những
năm tám mươi. Trong số 65 cuốn sách và bài báo nghiên cứu về nhà thơ Chế Lan
Viên thì chỉ có 11 tài liệu tìm hiểu, nghiên cứu về thơ Chế lan Viên trước cách
mạng (trong đó có 9 tài liệu nghiên cứu về tập thơ “Điêu tàn” xuất bản
vào năm 1937).
Mặc dù được dư luận đương thời
đánh giá là “một thần đồng thơ” khi ở vào tuổi 16,17, Chế Lan Viên đã
cho in tập thơ “Điêu tàn” (Nhà in Mai Lĩnh, Hà Nội,1937), nhưng vì cả
hai nhóm thơ văn Bình Định lúc ấy (Nhóm “Thái Dương văn đoàn” và Trường
thơ loạn) không có một cơ quan ngôn luận nào trong tay để cổ động như các nhóm
thơ ở ngoài Bắc nên đối với đa số độc giả thơ Bình Định đương thời, tập “Điêu
tàn” cũng không gây nên một tiếng vang rộng rãi. Trong lúc đó trên báo “Ngày
nay” ở Hà Nội, nhà văn Khái Hưng đã giới thiệu tập thơ này ra trước công luận.
Điều thú vị là Khái Hưng đã lầm tưởng Chế Lan Viên là một hậu duệ của vua Chiêm
Chế Bồng Nga còn sót lại: “Thật không có ai có thể ngờ là nước Chăm xưa đã
bị diệt chủng từ lâu giờ vẫn còn thai nghén một hình hài để than khóc cho dân tộc
mình, để hát vang Chế Bồng Nga anh hùng cũng như để oán hồn tạo hóa đã quá tàn
nhẫn với những Tháp Chăm chỉ biết chết dần mòn trong sự mong chờ tuyệt vọng”.
Đến năm 1941, Hoài Thanh và
Hoài Chân đã đưa Chế Lan Viên vào cuốn “Thi nhân Việt Nam” với tư
cách là một nhà thơ tiêu biểu của Trường thơloạn Bình Định. Phê bình
tổng quát về “Điêu tàn” , Hoài Thanh đã nhận định rất xác đáng và
thuyết phục: “Cũng lạ! Bị tiêu diệt đến bị chinh phục mà cảm được là những
kẻ đã diệt mình một cách sâu sắc như thế dễ chỉ có dân tộc Chiêm Thành. Những
nhạc công của chúng ta luôn luôn ca nỗi oán hờn của họ. Chúng ta lại còn dành
riêng cho họ một nhà thơ để vì họ mà giải giùm những uất ức bao nhiêu năm như
nghẹn ngào trên núi sông này. Vong linh đau khổ của nòi giống họ đã nhập vào Chế
Lan Viên, cho nên dù không phải họ Chế, Chế Lan Viên vẫn là một nhà thơ Chiêm
Thành. Quyển “Điêu tàn” đã đột ngột xuất hiện ra giữa làng thơ Việt Nam như một
niềm kinh dị. Nó dựng lên một thế giới đầy sọ dừa, xương máu cùng yêu ma.”[44;
219]
Năm 1942, Vũ Ngọc Phan trong
cuốn sách “Nhà văn hiện đại” đã so sánh Chế Lan Viên với Hàn Mặc Tử
như sau: “Chế Lan Viên, trái lại không cứng cáp chút nào. Thơ ông toàn là
những tiếng khóc than; ông tả rặt những cái u sầu, ông có giống Hàn Mặc Tử thì
chỉ giống ở chỗ hay nhắc đến linh hồn chứ cái sầu của ông là cái sầu não nùng,
thê thảm, cái sầu bát ngát, khó khuây. Thật là thứ sầu vong quốc- thứ sầu của
dân tộc Chiêm Thành tuy ông không cùng dòng máu với họ”.[ 38; 702]
Đến năm 1969, thi sĩ Hoàng
Diệp, một thành viên của Trường thơ loạn Bình Định đã cho xuất
bản một cuốn chuyên luận về Chế với tựa đề “Chế Lan Viên” (Nxb.Khai
Trí, Sài Gòn). Trong cuốn sách này, Hoàng Diệp đã vẽ nên một chân dung thi sĩ
Chế Lan Viên từ cuộc đời liên quan mật thiết với thành Bình Định, nỗi ám ảnh về
những bóng ma Hời và Tháp Chàm rêu phong đầy huyền thoại. Tác giả cũng đi vào
thực chất tư tưởng của Chế Lan Viên trong “Điêu tàn”: “Vì sinh ra vào giai
đoạn mất nước và muốn tỏ nỗi lòng yêu nước của mình, Lan Viên đã mượn giống dân
Hời để nói lên những niềm uất hận, căm tức. Lan Viên đã cảm người mà nghĩ đến
mình, chàng đã mượn tiếng khóc than cho một dân tộc suy tàn mà gửi nỗi lòng của
mình đến đất nước Việt Nam”. [ 9; 137- 138]
Nhìn chung, các ý kiến về tập
thơ “Điêu tàn” hầu hết chỉ là những lời giới thiệu, đánh giá khái
quát về nội dung tập thơ theo kiểu phê bình ấn tượng chứ rất ít nhà nghiên cứu
tìm hiểu về hình thức của tập thơ này.
Đến năm 2005, tác giả Hồ Thế
Hà trong công trình nghiên cứu công phu có tựa đề “Thế giới nghệ thuật thơ Chế
Lan Viên” từ trước Cách mạng Tháng Tám cho đến tận 3 tập “Di cảo thơ”. Tác giả
đã đi vào nghiên cứu các vấn đề cơ bản của thơ Chế Lan Viên như quan niệm nghệ
thuật, phương thức biểu hiện. Tuy nhiên, do tác giả tập trung vào nghiên cứu phần
thơ Chế Lan Viên sau Cách mạng Tháng Tám cho nên tập thơ “Điêu tàn” trước Cách
mạng chỉ được nghiên cứu như một phần nhỏ trong sự nghiệp thơ của Chế Lan Viên.
Năm 1939, Bích Khê cho xuất
bản tập thơ đầu tiên của mình với tựa đề “Tinh huyết” (Trọng Miên xuất
bản). Lời tựa của Hàn Mặc Tử có cái tên rất ấn tượng “Bích Khê, nhà thơ thần
linh” . Đây chính là bài viết đầu tiên giới thiệu, đánh giá về thơ Bích Khê với
độc giả đương thời. Ở trong bài tựa này, Hàn Mặc Tử đã tôn vinh Bích Khê là “
một bông hoa lạ nở hương, một thứ hương quý trọng thơm đủ mọi mùi phước lộc.
Ta có thể so sánh thơ Bích Khê như đóa hoa thần dị”. Tiếp đó, Hàn khẳng định
“Thơ chàng gồm ba tính cách khác nhau: “1.Thơ tượng trưng. 2.Thơ huyền diệu.3.Thơ
trụy lạc.” và tượng trưng được Hàn coi là quan trọng nhất. Ở khu vực thơ
tượng trưng, Hàn Mặc Tử đã nhận thấy “Thi sĩ Bích Khê là người có đôi mắt
rất thơ, rất mộng, rất ảo, nhìn vào thực tế thì sự thực sẽ trở thành chiêm bao,
nhìn vào chiêm bao lại thấy xô sang địa hạt huyền diệu.” Đến năm 1941,
Hoài Thanh và Hoài Chân đã đưa Bích Khê vào “Thi nhân Việt Nam” với
những lời nhận xét rất tinh tế theo kiểu ấn tượng: “Thơ Bích Khê có những câu
thơ hay vào bậc nhất trong thơ Việt Nam” nhưng “đọc Bích Khê đôi ba lần
cũng như chưa đọc.” Hoài Thanh cũng thú nhận “Tôi chưa thể nói nhiều
về Bích Khê”.
Năm 1960, một người bạn tâm
giao của Bích Khê là Quách Tấn có viết bài “Đôi nét về cuộc đời Bích Khê”.
Bài viết kể tương đối đầy đủ về cuộc đời của thi sĩ chứ ít đi vào thơ. Năm
1963, họa sĩ Đinh Cường có bài “Nhạc và họa trong thơ Bích Khê” đã đề
cập đến hai vẻ đẹp rất đặc trưng của thơ Bích Khê “Bích Khê rất coi trọng
nhịp điệu thơ, coi đó là yếu tố truyền cảm của thơ. Nhờ có nhạc điệu, thi sĩ sẽ
truyền sang người đọc một cách dễ dàng những cung bậc cảm xúc của mình. Cho nên
Bích Khê chính là một nhạc sĩ trong thơ.”
Vào năm 1974, tạp chí văn học
tại Sài Gòn đã ra một số chuyên đề về Bích Khê (số ra ngày 20-11-1974). Trong số
này có một loạt bài viết như: “Bích Khê, dòng thơ, khoảng trời và thời
gian”. (Phạm Hoài Việt); “Tinh huyết của Bích Khê” (Lê Huy Oanh); “Thế
giới tượng trưng Bích Khê”(Phan Kim Thịnh)…Ở các bài viết này, các tác giả đều
tôn vinh thơ Bích Khê “thuộc hàng tượng trưng điển hình nhất” “Bích Khê đã
dẫn người đọc vào một không gian chạm trổ những trăng sao, màu sắc, hương
thơm làm no nê tất cả mọi giác quan của người đọc”.
Năm 1988, nhân dịp Sở văn
hóa thông tin tỉnh Nghĩa Bình xuất bản cuốn “Thơ Bích Khê”, Chế Lan Viên
có bài tựa “Thơ Bích Khê”. Trong bài viết quan trọng này, Chế đã giới thiệu
cuộc đời Bích Khê với bao thăng trầm đau xót, chỉ ra nguồn ảnh hưởng tới thơ
Bích Khê, và quan trọng nhất là chỉ ra “sự duy tân” của thơ Bích Khê từ cách cảm,
cách nghĩ cho đến hình ảnh, ngôn từ.
Đặc biệt, đêm ngày
18-01-1997, nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày mất của Bích Khê, Hội nghiên cứu và giảng
dạy văn học TP.Hồ Chí Minh đã tổ chức “Đêm Bích Khê” tại nhà số 4-Phạm
Ngọc Thạch thu hút khách tham dự chật kín hội trường. Các bài tham luận sau đó
được tuyển chọn và in trong cuốn “Bảy mươi năm đọc thơ Bích Khê” của
nhà xuất bản Văn học. Nhìn chung, các bài viết đều ca ngợi, tôn vinh thơ Bích
Khê “như viên ngọc quý không ngừng xuất hiện những ý tưởng kỳ diệu dâng hiến
cho đời những giá trị mới”. Thứ hai, các bài viết đều ca ngợi những “cái mới
cách tân của thơ Bích Khê so với thơ đương thời.” Hoàng Phủ Ngọc Tường thì
cho rằng: “Nếu nhấn mạnh trên chữ mới, theo tôi chủ yếu chỉ là hai, là
Xuân Diệu và Bích Khê. Bởi Bích Khê đã ghé lại cõi đời này trong chốc lát, chỉ
để làm xong một việc là đổi mới trong thơ và làm giàu có cao sang thêm tiếng
nói của dân tộc mình”.
Đến năm 2006,tỉnh Quảng Ngãi
tổ chức một cuộc hội thảo quy mô về Bích khê.Tại hội thảo này đã có hơn 40 bài
tham luận đánh giá, lý giải về thơ Bích Khê. Những bài tham luận này sau đó được
tuyển chọn và in trong cuốn “Bích Khê- Tinh hoa và tinh huyết” (xuất
bản năm 2008). Có thể nhìn thấy ở đây nhiều bài viết có giá trị về Bích Khê của
các tác giả như: Lê Hoài Nam, Lại Nguyên Ân, Phương Lựu, Vũ Quần Phương, Trần
Đình Sử, Nguyễn Hữu Sơn, Hồ Thế Hà, Thanh Thảo….
Qua việc tìm hiểu các công
trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, chúng tôi rút ra kết luận:
1. Trường thơ loạn Bình
Định là một khuynh hướng thơ rất độc đáo, khác thường và hàm chứa rất nhiều
bí ẩn của phong trào Thơ Mới 1932-1945. Tuy nhiên, việc khảo sát, nghiên cứu
trường phái thơ này vẫn còn chưa xứng tầm với độ nổi tiếng của nó. Số công trình
nghiên cứu chủ yếu là dành cho từng nhà thơ tiêu biểu nhất của trường thơ này
(Hàn Mặc Tử- Chế Lan Viên- Bích Khê).
2. Trong các công trình
nghiên cứu về Trường thơ loạn, vấn đề “không gian và thời gian nghệ
thuật” chỉ mới được tìm hiểu một cách khái quát và sơ lược. Vẫn chưa có công
trình nghiên cứu nào đi sâu vào tìm hiểu một cách hệ thống và toàn diện về hai
yếu tố thi pháp đặc sắc này.
Và đó là nhiệm vụ đặt ra cho
chúng tôi trong đề tài này.
3. Đối tượng và phạm vi
nghiên cứu.
3.1 Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề
tài là khảo sát, nghiên cứu không gian và thời gian nghệ thuật của Trường
thơ loạn Bình Định. Đó là hai yếu tố cơ bản góp phần tạo nên thế giới nghệ
thuật đặc trưng của Trường thơ loạn.
3.2 Phạm vi nghiên cứu.
Ở đề tài này, chúng tôi chỉ
giới hạn khảo sát, nghiên cứu 3 nhà thơ tiêu biểu nhất của Trường thơ loạn, đó
là Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, và Bích Khê.
Chúng tôi cũng tập trung vào
nghiên cứu các tập thơ sau đây của 3 tác giả trên:
-Hàn Mặc Tử.
+ Gái quê (tập thơ), Nxb Hội
nhà văn( tái bản), Hà Nội, 2012.
+ Hàn Mặc Tử (Tuyển tập
thơ)- Nxb văn học, 1987.
+ Hàn Mặc Tử - Chơi giữa mùa
trăng - An Tiêm xuất bản, 1969.
+Thơ Hàn Mặc Tử, Nxb
Nghĩa Bình,1988.
- Chế Lan Viên:
+ Điêu tàn- (tập thơ)- Nxb
văn học (tái bản), 1995.
+ Chế Lan Viên (tuyển tập
thơ)-Nxb văn học, 1984.
-Bích Khê:
+ Tinh huyết (Tập thơ)-
Trọng Miên xuất bản, Hà Nội, 1934.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài, chúng
tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp phân tích, tổng
hợp.
- Phương pháp thống kê xác
xuất và phân loại.
- Phương pháp cấu trúc hệ thống.
- Phương pháp so sánh, đối
chiếu.
5. Đóng góp của đề tài.
- Đây là chuyên luận đầu
tiên khảo sát, nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về không gian và thời
gian nghệ thuật của Trường thơ loạn Bình Định.
- Đề tài sẽ góp phần “giải
mã” những bí ẩn của Trường thơ loạn Bình Định.
- Nếu được bảo vệ thành
công, đề tài sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết cho sinh viên ngành ngữ văn
và học viên cao học ngành văn học Việt Nam khi học tập và nghiên cứu về phong
trào Thơ Mới 1932-1945 và phần văn học địa phương của tỉnh Bình Định.
6. Bố cục của đề tài.
Ngoài phần mở đầu và phần kết
luận, đề tài được triển khai thành 3 chương:
Chương 1: Trường thơ loạn Bình
Định trong phong trào Thơ Mới.
Chương 2: Không gian nghệ
thuật của Trường thơ loạn.
Chương 3: Thời gian nghệ thuật
của Trường thơ loạn.
Đề tài có 54 tài liệu
tham khảo.
CHƯƠNG 1
TRƯỜNG THƠ LOẠN BÌNH ĐỊNH
TRONG PHONG TRÀO THƠ MỚI
1.1.BÌNH ĐỊNH- NƠI PHÁT TIẾT
VÀ THĂNG HOA CỦA TRƯỜNG THƠ LOẠN
Trong lịch sử văn học Việt
Nam, chúng ta đã từng biết đến “Hội tao đàn” do vua Lê Tháng Tông làm
chủ sóai vào cuối thế kỷ XV, rồi đến“Ngô Gia văn phái” của dòng họ Ngô Thì
ở Hà Đông vào cuối thế kỷ XVIII. Bước vào đầu thế kỷ XX, do nhiều nguyên nhân
chủ quan và khách quan đã xuất hiện rầm rộ nhiều tổ chức văn học như “Tự lực
văn đoàn” (văn xuôi). Về thơ có phong trào Thơ Mới nở rộ từ Bắc chí Nam.
Nhà phê bình Hoài Chân đã chia “làng thơ” Việt lúc ấy thành các “xóm
thơ”như:“Xóm Sông Thương” (Bàng Bá Lân, Anh Thơ), “Xóm Tự Lực” (Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận), “Xóm Đông Phương” (Lưu Trọng Lư, Thái
Can), “ Xóm Huế” (Nam Trân, Phan Văn Dật, Nguyễn Đình Thư)“ Xóm Bình
Định” (Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan, Quách Tấn), “Xóm Hà Tiên” (Đông Hồ, Mộng Tuyết). Nhưng rồi tác giả cũng thừa nhận sự phức tạp: “Trong các xóm, dân ngụ cư nhiều quá, không có gì là thuần nhất và đã chia
xóm rồi lại phải đặt ra “Trùm xóm” cũng lôi thôi”. Đó là chưa kể đến
“Xóm Xuân thu nhã tập”, “Trường thơ Bạch Nga”, “Nhóm Huy xuân”.
Dù cho lúc bấy giờ, các thuật ngữ “ xóm” “ nhóm” “ trường” “ trường phái” còn
được dùng chưa chặt chẽ, rất phóng túng nhưng cũng cho ta thấy
các khuynh hướng, các tổ chức văn học ở nước ta đã được mùa đua nhau nảy
nở, và trong các khu vườn Thơ Mới đầy hương sắc ấy, Trường thơ loạn Bình
Định là một khu vườn thơ độc đáo nhất, khác thường nhất và bí ẩn,
phức tạp nhất. Khu vườn thơ này đã nảy sinh và phát tiết thăng hoa ở vùng
đất Bình Định- một vùng “ địa linh nhân kiệt” nổi danh của miền Nam Trung
bộ.
Người Bình Định
thường rất tự hào với danh tiếng “ Đất võ trời văn” hoặc “ Qui Nhơn
là thành phố thi ca”. “ Đất võ” thì quá rõ và nổi tiếng với
phong trào Tây Sơn- Nguyễn Huệ. Còn “ Trời văn”? Chính những tên tuổi văn
nhân, thi nhân nổi tiếng như Đào Duy Từ, Đào Tấn, Hàn Mạc Tử, Xuân Diệu, Chế
Lan Viên, Yến Lan, Quách Tấn…đã làm nên “ Trời văn” ấy.
Trước hết nói về địa lý.
Bình Định đã được tạo hóa ban tặng cho một vùng “ non nước hữu tình”. Những
bãi biển cát vàng chạy suốt hàng trăm cấy số xen lẫn với những dãy núi đồi soi
bóng xuống biển Đông. Nước biển xanh trong quanh năm sóng vỗ. Đặc
biệt là ánh trăng xứ này có cái gì rất đặc biệt: rất sáng và lung linh “ ma
quái”, huyền ảo. Hàn Mặc Tử và các bạn thơ rất yêu bãi biển và ánh trăng Qui
Nhơn. Hoàng Diệp đã kể lại rằng: “Những đêm trăng sáng, màu trăng sao hoang dại
và huyền hoặc thường quyến rũ chúng tôi đi ngủ biển. Chế Lan Viên, Yến Lan và
tôi thường hội họp ở nhà Hàn Mặc Tử rồi đem mền đi ngủ ở bãi biển chỉ cách nhà
chúng tôi độ 200 thước. Những đêm ấy là những đêm mưa tầm tã, lụt ngập trời.
Nhưng mưa ở đây là mưa sao, lụt ở đây là lụt trăng. Chúng tôi bị ánh trăng vây
bủa tứ bề, chúng tôi nằm chung ôm choàng lấy nhau dưới bóng trăng sao và ngoài
kia muôn trùng sóng vỗ.”[ 9; 15]. Chúng ta hiểu vì sao mà thơ Hàn, thơ Chế tràn
ngập ánh trăng.
Về văn hóa, xứ sở này có “bóng
dừa xanh in bóng Tháp Chàm”, những Tháp Chàm rêu phong cổ kính luôn luôn gợi nhớ
về một lịch sử oai hùng của một dân tộc nay đã bị tiêu vong. Chính Hoàng Diệp
đã kể lại nỗi ám ảnh của những Tháp Chàm trong lòng Chế Lan Viên, Yến Lan và
Hàn Mặc Tử. Rồi thành Đồ Bàn, thành Hoàng Đế, nơi các thành viên của Trường
thơ loạn thường gặp nhau để đàm đạo thơ ca đã in đậm vào tâm khảm và khơi
nguồn tưởng tượng bất tận cho các thi nhân thời ấy. Cho đến nay người Bình Định
vẫn lưu truyền câu ca dao:
Chiều chiều mây kéo về kinh
Ếch kêu giếng loạn thảm tình
đôi ta.
Hình ảnh “Giếng loạn” tồn
tại như một nỗi ám ảnh về một thời loạn lạc của dân Chàm xưa và thi sĩ Yến Lan
đã lấy hình ảnh này để đặt tên cho tập thơ đầu tiên của mình. Và cũng từ đó,
Hàn Mặc Tử mới gợi ý cho cả nhóm thơ lấy tên là Trường thơ loạn để đặt
tên cho một khuynh hướng thơ khác thường trong phong trào Thơ Mới lúc ấy. Không
phải ngẫu nhiên mà Hoài Thanh- Hoài Chân đã đánh giá về tập thơ “Điêu tàn” của
Chế Lan Viên “Xuất hiện giữa lòng thơ Việt Nam như một niềm kinh dị…Nó đứng
sừng sững như một tháp Chàm chắc chắn và lẻ loi, bí mật và văng vẳng như đâu
đây tiếng nức nở ngàn thu Chiêm nữ hận”.
Thứ ba, nói đến Bình Định
chúng ta cần nói đến trường trường Quốc học Qui Nhơn (College Qui Nhơn-tức trường
Cao đẳng Tiểu học Qui Nhơn). Đây chính là một nơi quy tụ các tinh hoa trí thức
Tây học thời này của vùng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Đặc biệt, nhờ sự mở cửa
giao lưu với văn học Pháp mà có rất nhiều thanh niên trí thức đã hăng hái cổ
xúy cho phong trào văn thơ ở Quy Nhơn và Bình Định. Nhiều cuộc hội thảo và nói
chuyện về văn thơ mới đã thu hút rất nhiều thanh niên và từ đó lan ra toàn xã hội.
Tóm lại, với khung cảnh
thiên nhiên hùng vĩ với trời xanh và cát trắng, núi xa và biển rộng, ánh trăng
và tháp Chàm….đã giao ứng với truyền thống anh hùng, thượng võ và con người
chân chất, mộc mạc nhưng trái tim nhạy cảm, lãng mạn…đã làm nên cái nôi địa-văn
hóa sản sinh ra một trường phái thơ “độc nhất vô nhị” trong lịch sử thi ca Việt
Nam.
1.2 TRƯỜNG THƠ LOẠN –
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Trước hết chúng tôi cần xác
định rõ hai danh xưng rất dễ nhầm lẫn:đó là Nhóm thơ Bình Định và Trường
thơ loạn Bình Định.
Khái niệm “nhóm thơ” là một
tổ chức văn học tập hợp các nhà văn có cùng hòan cảnh địa lý-văn hóa, có cùng cảm
hứng sáng tác và nhất là gắn bó với nhau về mặt tình cảm bạn hữu thân thiết. “Nhóm
thơ” không đòi hỏi sự đồng nhất về khuynh hướng tư tưởng, quan điểm thẩm mỹ.
Còn Trường thơ lại biểu hiện cho một tổ chức văn học có tính chất thống
nhất cao về tư tưởng và quan điểm thẩm mỹ (đồng khuynh hướng sáng tác). Ở Nga
và các nước phương Tây, “trường” có nghĩa là “trường phái văn học” có
tuyên ngôn nghệ thuật, có tổ chức chặt chẽ, có báo chí hoặc nhà xuất bản riêng.
Đặc biệt là các nhà văn cùng “trường phái” thường noi theo sáng tác của nhà văn
ưu tú nhất (ví dụ như ở thế kỷ XIX có “trường phái Puskin ở Nga”, Trường phái
Emin Dola ở Pháp).
Như vậy, “trường” và “nhóm”
là những tổ chức văn học vừa có thể tồn tại độc lập với nhau lại vừa có thể tồn
tại trong nhau và chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau (Ví dụ như “Trường phái thơ tượng
trưng Pháp” lại có nhóm Valéry, Mallarmé).
Theo những tài liệu đáng tin
cậy mà chúng tôi tìm được từ các nhà thơ Yến Lan, Quách Tấn, Hoàng Diệp, Quách
Dao (con trai Quách Tấn hiện đang sống ở Nha Trang), Trần Thị Huyền Trang, Nguyễn
Thanh Mừng, Đào Quốc Toàn thì tại Bình Định thời tiền chiến (1936-1945) đã xuất
hiện nhóm thơ văn có tên là “Thái Dương văn đoàn”. Đây là một tổ chức văn học tập
hợp đông đảo những học sinh, tri thức Nam Trung Bộ đang sống và học tập ở Quy
Nhơn bao gồm Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan, Hoàng Diệp, Nguyễn Viết Lãm,
Huy Vân, Nguyễn Minh Vỹ…Theo Nguyễn Minh Vỹ trong bài “Thái Dương văn đoàn thưở
ấy” (in lại trong sách Hàn Mặc Tử, phê bình và tưởng niệm, trang 493) đã nhớ lại: “Nhóm
“Thái Dương văn đoàn” tập hợp một số cây bút thơ văn ở Quy Nhơn, số lớn là học
sinh trường College tập hợp người ở các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Xưng
là văn đoàn cho vẻ nhưng thực ra chúng tôi có cái mặc cảm của con người tỉnh lẻ
nên còn nhút nhát, rụt rè lắm…nhưng chúng tôi đã tự giải quyết được cho mình
cái mặc cảm ấy. Chế Lan Viên ra “Điêu tàn”, Hàn Mặc Tử ra”Gái quê”, rồi cả đám
chúng tôi ra “Nắng xuân”. Thế là ngòi pháo đã nổ. Làn điệu mới của “Điêu tàn”
và “Gái quê” có tiếng vang khá xa và khá nhanh”.
Như thế, “Thái Dương
văn đòan” là tổ chức văn học xuất hiện đầu tiên ở Qui Nhơn( tuy không có tổ chức
chặt chẽ, không có tuyên ngôn nghệ thuật hoặc tờ báo riêng). Và chính từ phong
trào sáng tác của văn đoàn này đã hình thành nên nhóm thơ Bình Định( còn gọi là
nhóm “ Bàn thành tứ hữu”). thành phần cốt lõi, ổn định của nhóm là bốn
nhà thơ: Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan và Quách Tấn.
Ở trong bài viết “Bàn
thành tứ hữu” (bốn người bạn thân thiết ở thành Đồ Bàn”(In trong cuốn “Bóng
ngày qua”), thi sĩ Quách Tấn đã thuật lại: “ Bàn thành tứ hữu” là một
danh xưng của các bạn yêu thơ ở Bình Định, trong đó nhà thơ Trần Thống tặng cho
bốn nhà thơ tiền chiến thân yêu nhau như anh em ruột là Hàn Mặc Tử, Chế Lan
Viên, Yến Lan, Quách Tấn. Các bạn lại dùng tên trong bộ tứ linh “ Long-Lân-
Quy- Phụng” để đặt tên cho tứ hữu…Có người hiểu rằng “ Nhóm thơ Bình Định”
là Trường thơ loạn”nhưng không phải. Nhóm thơ Bình Định gồm ba nhà
thơ mới: Hàn- Chế- Yến và một nhà thơ cũ họ Quách. Còn Trường thơ loạn là
của ba nhà thơ đồng chí hướng lập nên. Đó là Hàn- Chế - Yến do cao hứng mà lập
nên. Bài tựa “ Điêu tàn” và bài tựa “ Thơ điên” thay thế cho lời
Tuyên ngôn lúc trường thơ mở cửa”.[ 43; 22]
Năm 1937, tập thơ đầu tay “ Điêu
tàn” của Chế Lan Viên ra đời. Hàn rất vui mừng và tỏ ra rất lạc quan về một
hướng đi của thơ. Tại số nhà 20,đường Khải Định, Quy Nhơn, Hàn cảm động cầm
trên tay bản in đặc biệt của tập thơ “ Điêu tàn” do Chế tặng( lúc ấy
có mặt thi sĩ Yến Lan.)Và cũng nhân Yến Lan vừa hoàn thành bản thảo tập thơ “ Giếng
loạn”, Hàn Mặc Tử bồi hồi xúc động nói: “ Lâu nay chúng ta
toàn làm những bài thơ điên loạn, xem ra cũng có đủ nhân tố để dựng lên một
trường thơ: Trường thơ loạn. Và, đúng rồi! Nó đã có mầm mống từ lâu rồi. Cái tựa
“ Điêu tàn” này sẽ là cái tuyên ngôn thứ nhất của chúng ta. Rồi chúng ta sẽ tiếp
tục có tuyên ngôn bổ sung khi in tập thơ chung của Trường thơ loạn”.
Như vậy, bộ ba ban đầu
của Trường thơ loạn là Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên và Yến Lan. Nhưng Trường
thơ loạn không chỉ có bộ ba đó mà còn thu nhận một số thi sĩ
có cùng chí hướng nữa đó là Hoàng Diệp, Quỳnh Dao. Thi sĩ Quách Tấn mặc dù chơi
rất thân với bộ ba thi sĩ trên nhưng lại đi theo khuynh hướng thơ cổ điển Đường
luật và nguyện làm “chiếc lá cuối cùng của mùa cổ điển tươi xanh”.Riêng
thi sĩ Bích Khê thì phải kể là một trường hợp đặc biệt.
Theo nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng
trong cuốn “ Bích Khê, tinh hoa và tinh huyết”( Nxb Hội nhà văn, 1992) thì
“ Hàn Mặc Tử đến với Bích Khê như một tia chớp và để lại vầng
ánh sáng khải hoàn làm hết phận sự lan tỏa và rực rỡ của nó. Trong chớp sáng
chói lọi đó, hai bên đã gửi tới đời nhau món quà tặng quý hơn mọi món
trân châu, cẩm thạch đó là sự say mê và yêu thương hết mình như một
đôi tình nhân thắm thiết”.
Vào năm 1936, Bích Khê
đã quen với Quách Tấn rồi sau đó, qua Quách Tấn quen với Hàn Mặc Tử.Hai
người như có duyên ngộ từ trước, lập tức rất tâm đầu ý hợp, gặp
nhau Bích Khê và Hàn Mặc Tử chỉ bàn chuyện thơ. Theo Quách Tấn,
“ Hai người này rất đa tình, đa cảm và Bích Khê coi Tử như vợ, có
Hàn phải có Bích Khê và ngược lại.”
Được sự cổ vũ, động viên hết
sức nhiệt tình của Hàn Mặc Tử ,Quách Tấn, Chế Lan Viên, từ xứ Thu Xà, Quảng
Ngãi, Bích Khê đã liên tiếp sáng tác được nhiều bài thơ và gửi vào Qui Nhơn nhờ
Hàn Mặc Tử góp ý cho. Hàn vừa thầm nể phục bạn nhưng lại gửi trả lại bản thảo
kèm với bức thư mỉa mai, khiêu khích, nặng nề.
“Quả nhiên, Bích Khê tức giận
run người xé nát tập bản thảo thành trăm mảnh. Mấy ngày sau bình tâm lại, chàng
viết thư cho Hàn và quả quyết: Trong 6 tháng sẽ trở nên một thi sĩ phi thường,
bằng không sẽ không bao giờ làm thơ nữa.”
Lời kích của Hàn có sức kích
động mãnh liệt tài năng tiềm ẩn của Bích Khê. Không phải đợi 6 tháng mà chỉ 3
tháng sau những ngày đờ đẫn như ngây như dại, những đêm rụng tóc dưới đèn, những
ngôi sao xanh về khuya như ghé xuống uống từng dòng tâm huyết của con người
đang trút cả dung mạo và thần khí của mình lên thơ. Bích Khê đã hoàn thành công
việc và mang ra cho Hàn Mặc Tử đọc. Đọc xong, Hàn ràn rụa nước mắt ngập tràn
vui sướng ôm tập thơ “tinh huyết” mà nghe máu huyết tinh túy và châu lệ, và tất
cả say sưa, đắm đuối của một hồn thi sĩ đang rào rạt truyền sang lòng mình”.[
43; 18]. Hàn sung sướng nhận lời viết lời đề tựa cho tập thơ. Và cái tựa ấy “Bích
Khê, nhà thơ thần linh” đã trở nên nổi tiếng một thời.
Rồi sau đó, cả Hàn Mặc Tử và
Bích Khê đều mắc bệnh nan y. Họ càng có sự tri âm, tri kỷ hơn. Nhưng vượt lên tất
cả, đó là sự tri âm,tri kỷ về tài năng và tâm hồn. Bích Khê luôn coi Hàn là thần
tượng của mình và chàng thi sĩ này chịu ảnh hưởng đặc biệt từ “vị chúa của trường
thơ loạn”về khuynh hướng sáng tạo thi ca.Vì thế, chẳng cần tuyên ngôn, tuyên thệ
ồn ào, Bích Khê đã đích thực trở thành một thần dân trung thành, tiêu biểu
trong vương quốc Trường thơ loạn. Thân ở Quảng Ngãi mà hồn thơ của Bích
Khê luôn ở Bình Định, Quy Nhơn.
Từ những điều trình bày trên
đây, chúng tôi đi đến một số kết luận như sau:
Thứ nhất, trên vùng đất Bình
Định và thành phố Quy Nhơn thời tiền chiến đã có một phong trào văn học phát
triển mạnh mẽ, đó là nhóm thơ văn “Thái Dương văn đoàn” gồm nhiều nhà văn, nhà
thơ nhưng do tài năng chưa đạt đến độ chín nên hầu hết văn thi sĩ của nhóm này
đã chìm vào quên lãng. Chỉ có nhóm “Bàn thành tứ hữu” (Hàn- Chế- Yến- Quách) và Trường
thơ loạn (Hàn- Chế-Bích) là còn lưu danh muôn thưở trong lòng bạn đọc yêu
thơ và lịch sử văn học nước nhà.
Thứ hai, tuy rất nổi tiếng
nhưng Trường thơ loạn lại không có tổ chức chặt chẽ, bài bản. Đó chỉ
là một nhóm thơ được kết nối bởi tình bạn thắm thiết, bởi có chung một khuynh
hướng sáng tác,có chung một quan điểm nghệ thuật. Họ tập hợp nhau lại bởi
“do ngẫu hứng, hào hứng quá” (lời Quách Tấn) mà thành. Thành lập nên một thi
phái, một trường phái thơ đâu có cần chi một sự bài bản. Thế mà nổi tiếng, mà
gây ấn tượng vô cùng.
Nếu nói theo thuật ngữ khoa
học chặt chẽ, Trường thơ loạn có thể gọi là “Trường phái Hàn Mặc
Tử”. Đích thị, đó là “Trường thơ Hàn Mặc Tử” chẳng khác gì “Trường thơ
Puskin” ở Nga vậy. Do đó ta hiểu vì sao sau khi Hàn mất, cả trường thơ đã tự giải
tán mặc dù Chế-Yến-Quách vẫn chơi thân với nhau. Song chẳng còn ai tha thiết với
hoạt động của trường thơ này nữa.
1.3 TRƯỜNG THƠ LOẠN VÀ
NHỮNG ĐÓNG GÓP VÀO PHONG TRÀO THƠ MỚI
Khi giải quyết vấn đề: Trường
thơ loạn đã có đóng góp gì vào phong trào Thơ Mới 1932-1945? Chúng tôi đã
thử đặt ra giả thiết: Nếu không có Trường thơ loạn Bình Định thì phong trào Thơ
Mới sẽ ra sao? Câu trả lời của chúng tôi là:
1. Trong “bản đồ” của phong
trào Thơ Mới sẽ không hề có khu vực miền Nam Trung bộ.
2. Trong hàng ngũ các thi sĩ
tài danh nhất của Thơ Mới, sẽ không có một ai ở Nam Trung bộ.
3. Nếu không có những ngôi
sao Thơ Mới sáng rực như Hàn-Chế-Bích thì Thơ Mới sẽ chỉ dừng lại ở ranh giới
thơ lãng mạn, làm sao lịch sử văn học lại tổng kết được:Thơ Mới đã đi từ lãng mạn
đến tượng trưng và chớm bờ siêu thực!
Nói tóm lại, nếu không có Trường
thơ loạn Bình Định thì phong trào Thơ Mới đã không thể trở thành một “cuộc
cách mạng thi ca” hoàn hảo và mãnh liệt đến thế. Vườn hoa Thơ Mới nếu thiếu Trường
thơ loạn thì sẽ không thể có những bông hoa lạ lùng, kỳ dị, phức tạp và bí
ẩn đến thế (ngoại trừ những bông hoa “kín mít như hũ nút” của nhóm thơ “Xuân
Thu Nhã tập” mà người đọc từ lâu đã quên lãng.)
Vậy Trường thơ loạn Bình
Định đã đóng góp những gì vào phong trào Thơ Mới?
Thứ nhất, Trường thơ loạn đã
đóng góp vào phong trào Thơ Mới những quan niệm về thi sĩ: Thi sĩ là những kẻ
khác thường, phi thường.
Nếu các nhà Thơ Mới đã hoàn
toàn đoạn tuyệt với mô hình thi sĩ cũ tồn tại hàng nghìn năm thời trung đại
(nhà thơ là con người “phi ngã, siêu ngã” tương thông cùng vũ trụ để tỏ chí,tỏ
lòng…) để xây nên mô hình thi sĩ lãng mạn: những con người thành thực bộc lộ hết
cái tôi cá nhân, cá thể; những con người quay lưng lại thực tại xã hội để rút
vào thế giới mộng tưởng, đẫm mơ,đẫm tình, thì đến với Trường thơ loạn,
hình mẫu thi sĩ mơ mộng, đẫm tình đã được thay thế bằng kiểu thi sĩ khác người, khác
thường, thậm chí quái đản, phi thường. Hãy nghe bản tuyên ngôn của họ được Chế
Lan Viên hùng hồn tuyên bố: “Hàn Mặc Tử nói làm thơ tức là điên. Tôi thêm: làm
thơ là làm sự phi thường. Thi sĩ không phải là Người. Nó là Người Mơ, Người
say, Người điên. Nó là Tiên, là Quỷ, là Yêu,là Tinh. Nó thoát hiện tại. Nó xối
trộn dĩ vãng, nó ôm trùm tương lai. Người ta không thể hiểu được vì nó nói những
cái vô nghĩa, tuy rằng những cái vô nghĩa hợp lý.”
Đây quả là những tuyên bố
chưa từng có trong lịch sử văn học nước ta. Mà không chỉ có một lần. Hàn có cả
một tập thơ hay nhất đặt tên là “Thơ điên” (1938). Cả 3 thi sĩ Hàn-Chế- Bích đều
thích thú và nhiều lần nói đến ở trong thơ mình những chữ: Điên-cuồng-loạn.Trong
lời tựa cho tập “thơ điên-đau thương” Hàn đã hô lên: “Tôi làm thơ?Nghĩa là tôi
yếu đuối quá! Tôi bị cám dỗ, tôi phản lại tất cả những gì mà lòng tôi,máu tôi đều
hết sức giữ bí mật.
Và cũng có nghĩa là tôi đã mất
trí, tôi phát điên.Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng
rú…Có ai ngăn cản được tiếng lòng tôi.’’. Và Hàn đã gọi Chế là “một thi sĩ thần
linh có một không hai trên cõi đời này.”
Vào thời ấy, các chữ “Điên-cuồng-loạn”
này đã có khá nhiều người hiểu lầm (điên theo nghĩa bệnh lý), ngay cả thi sĩ
tài danh Xuân Diệu cũng phủ nhận một cách quyết liệt : “Thơ với thẩn gì mà toàn
nói nhảm…làm thơ tỉnh táo mới khó chứ làm thơ điên khùng ai viết mà chẳng được.”.
(Ơ hay! Ở ngoài đời Hàn mắc bệnh phong, Bích mắc bệnh lao,Chế thì vô bệnh chứ
có ai mắc bệnh thần kinh đâu!). Ngay cả Hàn có nói bằng thơ:
Bây giờ tôi dại, tôi điên
Chắp tay tôi lạy cả miền
không gian.…
Tôi điên tôi nói như người dại
Van lạy không gian xóa những
ngày.
(Lưu luyến)
Thì cũng chỉ là cách diễn đạt
khoa trương,ẩn dụ mà thôi.
Ba chữ “Điên-cuồng-loạn”
không nhằm chỉ những trạng thái bệnh lý mà đó chính là những trạng thái cực điểm,
tột cùng, tuôn trào của sáng tạo thi ca. Đó là những thời điểm mà các thi sĩ của Trường
thơ loạn sống mãnh liệt với đề tài, hồn thơ thăng hoa sôi sục, vọt trào.
Nói như Chế Lan Viên: “Cứ quay cuồng lên,quay cuồng nữa để cho ta ra khỏi lòng
ta.” (Vàng sao), hay nói như Hàn Mặc Tử : “ Ta phải tiết
hết sinh lực của hồn, của máu vào thơ. Ta vừa say sưa vừa điên cuồng
ọc ra từng búng thơ sáng láng” (Tựa “ Xuân như ý).
Đó không chỉ là quan niệm
thơ mà đó còn là phương thức, một con đường để sáng tạo thơ của các
thi sĩ Trường thơ loạn – Cái mà Chu Văn Sơn khái quát về
thi pháp của trường thơ này là “Thi pháp của cái tột cùng”.
Và cũng chính phương thức
sáng tạo thi ca này đã khiến cho tư thế trữ tình của các thi sĩ “Trường
thơ loạn” rất kì lạ. Với Hàn Mặc Tử, nhà thơ phải “Khóc, gào, rú, điên
lên, cười lên…Với Chế thì phải “Gào, khóc, thét, cười…” “ Nó gào vỡ
sọ, nó thét đứt cả hầu, nó khóc trào cả máu mắt. Nó cười tràn ra cả
tủy là tủy” (Tựa “ Điêu tàn”). Với Bích Khê thì đó là “Say khướt, điên rồ,
cuồng si, ngất ngây, ngất đi…”Những trạng thái trữ tình mãnh liệt ấy chẳng
qua cũng chỉ là biểu hiện của cảm xúc, tâm trạng thăng hoa đến tột đỉnh
mà thôi.
Thứ hai, “Trường
thơ loạn” đã đổi mới, mở rộng biên giới cho Thơ Mới. Với “Trường
thơ loạn”, Thơ Mới không chỉ giới hạn ở vương quốc của thơ lãng mạn mà
còn mở ra với bát ngát, mênh mông của thơ tượng trưng, siêu thực.
Chính Hoài Thanh bằng trực cảm tinh nhạy của mình đã nhận ra “ vườn
hoa của Hàn Mặc Tử rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh”. Với
Trường thơ loạn, độc giả không chỉ còn nhìn và cảm thụ thế giới bằng
trí tuệ, bằng giác quan, bằng sự “ tương giao của các giác quan” mà
còn bằng con đường của thế giới vô thức tâm linh, bằng con đường của tôn
giáo ( Phật giáo, Lão giáo và Thiên Chúa giáo). Nhờ có Trường thơ loạn mà
Thơ Mới không chỉ có chất Đời, chất Mộng mà còn thấm đẫm thất Đạo.
Thứ ba, ba thi sĩ lừng danh
của Trường thơ loạn đã góp vào Thơ Mới ba loại hình tượng thơ độc đáo, mới
lạ làm phong phú muôn phần cho Thơ Mới. Đó là “ Thế giới thơ đau
thương và huyền diệu phi thường của Hàn Mặc Tử”, là “ Thế giới thơ thần bí kinh
dị của Chế Lan Viên”, là “ Thế giới thơ tượng trưng đầy Hoa- Nhạc- Hương của
Bích Khê”.
Tóm lại, Trường thơ loạn
Bình Định đã có những đóng góp to lớn vào cuộc cách mạng thi ca của phong trào
Thơ Mới 1932-1945. Mượn lời của Chế Lan Viên nói về Hàn Mặc Tử “Trước không có
ai, sau không có ai,Hàn Mặc Tử như ngôi sao chổi tỏa sáng vụt qua bầu trời thơ
ca Việt Nam…”, chúng tôi cũng muốn nói: Trước không có ai,sau không có ai, Trường
thơ loạn Bình Định quả đúng là một khu vườn thơ “độc nhất vô nhị” trong lịch sử
thơ ca Việt Nam. Không chỉ thời gian hơn 70 năm qua mà có lẽ sẽ còn... mãi
mãi.
CHƯƠNG 2
KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG
TRƯỜNG THƠ LOẠN
Cùng với thời gian, không gian là một phạm
trù triết học phổ quát làm nên sự TỒN TẠI của mọi sự vật, hiện tượng (tồn:còn,
tại:ở đây), không có cái gì hiện hữu ngoài thời gian và không gian cả.
Bắt nguồn từ không gian vật lý,vật chất
nhưng không gian nghệ thuật có đặc trưng riêng.Không gian này là không gian tồn
tại trong các tác phẩm nghệ thuật, là hình tượng nghệ thuật do người nghệ sĩ tạo
ra. Nếu mỗi hiện tượng văn học (tác phẩm, trào lưu, giai đoạn, thời đại) là một
thế giới nghệ thuật vừa phong phú, đa dạng vừa có tính thống nhất, có đặc điểm
và quy luật riêng thì không gian nghệ thuật là yếu tố chứa đựng sự tồn tại của
những thế giới nghệ thuật ấy. Không có tác phẩm văn học nào, không có nhân vật
nào lại không tồn tại và họat động trong một khoảng không gian nhất định.
Khác hẳn với không gian vật chất, vật lý
hoàn toàn khách quan không phụ thuộc vào cảm nhận chủ quan của con người, không
gian nghệ thuật lại luôn chịu sự qui định, chi phối của chủ quan nghệ sĩ. “Cảnh
nào cảnh chẳng đeo sầu/Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.” (Nguyễn Du). Do đó,
chúng ta hiểu vì sao mỗi hiện tượng văn học lại có không gian đặc thù của nó.
Đó là cái không gian gần gũi, quen thuộc của làng quê xưa với sân đình,bến nước,
cây đa, đồng cạn, đồng sâu…trong ca dao. Đó là cái không gian vũ trụ bao la,
tĩnh lặng, thanh tao trong thơ cổ điển. Đó là cái không gian mơ mộng, đẹp đẽ
nhưng bị chia cắt, cô lập trong Thơ Mới.v.v..
Tóm lại, không gian nghệ thuật trong văn học
là không gian tinh thần, không gian tâm tưởng đặc biệt thể hiện quan niệm riêng
về cuộc đời và con người của mỗi nhà văn. Không gian ấy là những cái “mã”thẩm mỹ,
“mã”thông tin về quan niệm nghệ thuật của các nhà văn. Không gian nghệ thuật
bao giờ cũng gắn liền với thời gian nghệ thuật và phối hợp với nhau để phản ánh
hiện thực đời sống trong tính vận động của nó.
Vậy không gian nghệ thuật của Trường thơ
loạn có gì là riêng, đặc sắc,ấn tượng trong không gian nghệ thuật chung của
phong trào Thơ Mới?
Nhìn tổng quát, không gian nghệ thuật của
Trường thơ loạn rất khác thường, kỳ lạ so với không gian nghệ thuật chung của
Thơ Mới.
2.1 Từ một không gian thực vừa tươi
sáng, vừa u buồn…
Nếu nhìn tổng quát và xuyên suốt sự nghiệp
thi ca của Hàn-Chế-Bích trong Trường thơ loạn, chúng ta sẽ thấy rất rõ: không
gian nghệ thuật của họ có đủ các cõi không gian, không gian trần thế bên cạnh
không gian siêu thực tôn giáo, không gian thực bên cạnh không gian mộng, không
gian dưới thấp quen thuộc, gần gũi bên cạnh không gian ở chốn tít mù “thượng
thanh khí”, bên cạnh không gian vui tươi yêu đời là không gian buồn chán, tuyệt
vọng, đau thương…
Tập thơ “Gái quê” là tập thơ mới đầu
tiên của Hàn Mặc Tử được in năm 1936 đủ xếp tác giả của nó vào những nhà thơ mới
đi tiên phong hồi ấy. “Gái quê” không chỉ xác định hình tượng trung tâm của tập
thơ là những rung động đầy thi vị lãng mạn của những “nàng thôn nữ” với những
“chàng trai quê” mà còn xác định không gian nghệ thuật chủ yếu là chốn thôn quê
thanh bình, tươi sáng, là nơi ươm mầm cho những mối lương duyên, nơi nảy nở những
ước mơ luyến ái của “những chàng”, “những nàng” nhà quê nhưng đầy mơ mộng.
- Ánh trăng lao xao trên đọt
tre
Tiếng ca lanh lảnh trong vườn
me
Tiếng ca im bặt.Rồi thấp
thoáng
Vạt áo màu nâu hiện trước
hè.
(Quả dưa)
- Từ khi đôi má đỏ hây hây
Em tập thêu thùa, tập vá may
Chim sáo trước sân bay tới đậu
Em mừng:sắp được lấy chồng
đây.
(Duyên muộn)
- Em có ngờ đâu trong những
đêm
Trăng ngà dãi bóng mặt hồ êm
Anh đi thơ thẩn trong ngây dại
Hứng lấy hương nồng trong áo
em.
(Âm thầm)
Từ địa hạt Đường thi cổ điển, Hàn Mặc Tử
bước tới chân trời Thơ Mới hòa nhập vào điệu cảm xúc mới của cả một thế hệ
thi sĩ đang đắm say với “trời tình”, “bể ái” như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư,
Xuân Diệu, Nguyễn Bính…Với Xuân Diệu, điểm hẹn ái tình là “khu vườn tình ái”, với
Nguyễn Bính là “vườn quê”, “đất khách” thì với Hàn Mặc Tử cũng lại là “Vườn
tình” (phải chăng đó là ám ảnh bởi vườn Địa Đàng với Adam và Eva trong kinh
thánh?). Vẻ đẹp của khu vườn “xanh mướt như ngọc” của Thôn Vỹ Dạ là vẻ đẹp tinh
khiết, trắng trong như ánh mai hồng buổi bình minh. Đó còn là “vườn mơ, bến
sông trăng, bến mộng, bến tình và nguồn trong trẻo mà xung quanh người là mơn
trớn yêu đương vây phủ bởi trăm dây quyến luyến” (Tựa “Thơ điên”).
Thật ra, vườn vốn là một cõi không gian rất phổ
biến trong tâm thế của người Việt. Đó là hoài niệm về nơi canh tác khởi thủy xa
xưa và muôn đời của người nông dân. Đó cũng là nơi gắn bó với thiên nhiên thân
thiết nhất. Trong “Gái quê” chúng ta bắt gặp rất nhiều địa danh quen thuộc với
làng quê Việt Nam ngoài “Vườn cam, vườn dâu, vườn me, vườn dừa” ngoài ra còn có
“vườn mơ” “vườn mộng” “vườn tình” “vườn thơ”…
Đó là bờ ao “Ta thích đứng lặng trên bờ
ao”, là trước sân “Trước sân anh thơ thẩn”, là lũy tre “Tiếng hờn trong lũy
tre”, là gốc đa “Ta thích ngồi mơ dưới gốc đa”, là đám lau “Ta thích len vào
trong đám lau”, là bên đường “Gặp gỡ bên đường cũng thản nhiên”, là dưới cầu
“Nhắc chuyện yêu đương ở dưới cầu”, là bãi sông “Đêm trước ta ngồi dưới bãi
sông”, là đồi quê “Lang thang trên đồi quê”,là..v.v…Tóm lại, đó là cái không
gian làng quê, thôn quê hết sức gần gũi với người đọc, dễ gợi lại tâm thức nhà
quê trong mỗi người dân Việt Nam. Do đó, ta hiểu vì sao cũng như Nguyễn Bính,
Hàn Mặc Tử đã có, đang có và sẽ có rất nhiều tri âm, tri kỷ từ cái tâm thức ám ảnh
nhà quê này.
Với Chế Lan Viên, nếu không đọc kỹ tập “Điêu
tàn” thì chúng ta dễ lầm tưởng: không gian nghệ thuật ở đây chỉ có “điêu tàn,
chết chóc, tuyệt vọng”. Nhưng nếu đọc kỹ, ta vẫn nhận thấy có một cõi trần gian
trong thực tại tươi đẹp tràn trề sức sống. Chẳng hạn như ở bài “Xuân về”, phong
cảnh thiên nhiên hiện lên ở câu thơ nào cũng thật đẹp, thật nên thơ.
Hàng cây cao say sưa ôm bóng
ngủ
Vài quả xanh khảm bạc hớ
hênh phô
Xoan vươn cành khều mặt trời
rực rỡ
Bên bóng râm lơi lả nhẹ
nhàng đu
Đây tàn lá chuối non bay phấp
phới
Đây hoa đào mở miệng
đón xuân tươi.
Hoặc:
Nắng hồng choàng ấp dãy bàng
cao
Cũng mới độ nào trong gió lộng
Nền lau bừng sáng núi lau
xanh
Bướm vàng nhè nhẹ bay ngang
bóng
Những khóm tre cao rủ trước
thành.
(Thu)
Nếu ở không gian siêu thực-trên
cao, vực sâu, thơ Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên đầy ắp các biểu tượng ám thị, tượng
trưng thì ở không gian thực-trần thế, các thi sĩ của Trường thơ loạn lại tạo
hình bằng các hình ảnh đầy tính trực quan, cụ thể, sinh động.
Trong làn nắng ửng khói mơ
tan
Bên mái nhà tranh lấm tấm
vàng
Xột xoạt gió trêu tà áo biếc
Bên dàn thiên lý bóng xuân
sang.
(Hàn Mặc Tử -Mùa xuân chín)
Với Bích Khê cũng thế. Bên cạnh cái không gian
tượng trưng đầy nhạc-hương-hoa trong cõi ảo mộng là một cõi trần thế với bao
hình ảnh trực quan tươi sáng:
- Vẳng thay núi thấp nức danh
đồn
Tuyệt nhất năm hòn ngọc thủy
sơn
Chẳng suối Phong Nha nghe
róc rách
Chẳng mây Hồng Lĩnh thấp chờn
vờn
Giữa trời bóng nguyệt lồng
vô động
Trên biển mù sương thổi lại
non.
(Ngũ Hành Sơn)
- Lam nhung ô! Màu lưng chừng
trời
Xanh nhung ô!Màu phơi nơi
nơi
Vàng phai nằm im ôm hoa gầy
Chim yên neo mình nương
xương cây.
(Hoàng hoa)
Nhưng bên cạnh cái không gian trần thế tươi
sáng ấy các thi sĩ Trường thơ loạn lại chuyển hướng, chuyển kênh chìm đắm vào
những vào những không gian u buồn, tăm tối, đau thương. Đó là sản phẩm tương ứng
của những cái tôi trữ tình có tâm trạng chán nản trước hiện thực, phủ nhận
hiện thực mà họ cho là cõi “trời sâu” “chốn lãnh cung” “nơi huyệt mộ” chỉ toàn
những khổ đau, chán chường, tuyệt vọng. “Trời hỡi trời, hôm nay ta chán hết/ Những
sắc màu, hình ảnh của trần gian.” (Chế Lan Viên).
Với Hàn Mặc Tử, từ khi nhận ra mình bị mắc bệnh
nan y, ông vừa đôn đáo tìm thầy chạy thuốc lại vừa chủ động cách ly và tuyệt
dao với mọi người. Thi sĩ đã sống biệt lập, cô đơn ở xóm Động- Gò Bồi, xóm Tấn-Gềnh
Ráng cách xa với người thân và cuộc sống bên ngoài. Do đó, ta hiểu vì sao ở tập
thơ “Đau thương”, mặc cảm cô đơn, chia lìa tràn ngập thơ ông mà biểu tượng ám ảnh
của nó là sự ngăn cách chốn “ngoài kia” và chốn “trong này”. Ngoài kia là tươi
sáng,ấm áp trong này là chốn u tối, lạnh lẽo. Ngòai kia là hạnh phúc còn trong
này chỉ toàn đau thương, tuyệt vọng: Đó cũng là những hình ảnh biểu tượng như
chốn “trời sâu”, “nơi đáy giếng”, “chốn lãnh cung”:
- Ngoài kia xuân đã thắm hay
chưa
Xuân ở trong đây chẳng có
mùa
Không có vườn trăng và ý nhạc
Có nàng cung nữ nhớ thương
vua.
- Lòng giếng lạnh, lòng giếng
lạnh
Sao chẳng một ai hay!
Nghe nói mùa thu náu ở chỗ
này
Tất cả âm dương đều tụ họp.
Khoảng cách giữa “trong này”và “ngoài kia”
không chỉ là cái số đo không gian bằng nỗi niềm tương tư của những đôi lứa yêu
nhau như trong thơ Nguyễn Bính (Thôn Đoài, thôn Đông, làng trên, xóm dưới, đường
thẳng, đường vòng…) mà là khoảng cách của hai cõi trời, hai thế giới muôn trùng
xa thẳm:
- Ở xa xôi, lạnh nhìn anh
khô héo
Bên kia trời hãy chụp cả hồn
anh.
- Anh đứng cách xa hàng thế
giới
Lặng nhìn trong mộng miệng
em cười.
Có lúc thi sĩ bàng hoàng tự
hỏi:
Tôi đang ở đây hay ở đâu?
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?
Sao bông phượng nở trong màu
huyết!
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt
châu.
(Những giọt lệ).
“Trời sâu” “phượng nở trong màu huyết” không
còn là hình ảnh trực cảm nữa mà là hình ảnh tượng trưng cho nỗi đau lưu đày của
những “trích tiên bị đày xuống trần gian”.
Nếu ở thơ Hàn Mặc Tử, hai cõi không gian
trần thế “trong này” và “ngoài kia” như là hai thế giới tương phản nhau gay gắt
thì đến với “Điêu tàn” của Chế Lan Viên, chúng ta cũng có cảm nhận tương tự. Chỉ
có điều hai thế giới tương phản ấy của thơ Chế là: quá khứ với hiện tại. Hơn bất
cứ nhà Thơ Mới nào, Chế là thi sĩ phủ nhận hiện tại, thực tại một cách công
khai và quyết liệt nhất:
- Trời hỡi trời! Hôm nay ta
chán hết
Những sắc màu, hình ảnh của
trần gian.
(Tạo lập).
- Tạo hóa hỡi hãy trả tôi về
Chiêm Quốc
Hãy đem tôi xa lánh cõi trần
gian
Muôn cảnh đời chỉ làm tôi
chướng mắt
Muôn vui tươi nhắc mãi vẻ
điêu tàn.
(Những sợi tơ lòng).
Chán ghét trần gian, chán ghét hiện tại,
dòng tâm tưởng của Chế Lan Viên đã trở ngược về quá khứ và từ đó thi sĩ đã dựng
lại cảnh oai hùng, oanh liệt của một thời quá khứ xa xăm:
- Đây những tháp gầy mòn vì
mong đợi
Những đền xưa đổ nát dưới trần
gian
Những sông vắng lê mình
trong bóng tối
Những tượng Chàm lở lói rỉ
rên than.
(Trên đường về).
- Nơi, một tối máu gào vang
chiến địa
Nơi,loa vang,ngựa hí với đầu
rơi
Bầy voi Chàm hung hăng như
sóng bể
Hung hăng theo ánh lửa của
dân Hồi.
(Chiến tượng).
Không gian trong “Điêu tàn” không chỉ có những
cảnh huy hoàng, hoành tráng của lịch sử dân Hời mà còn có “không gian huyệt lạnh
kinh dị”. “Điêu tàn” là biểu tượng cho “quá khứ”, cho “âm phủ”, nơi thi
sĩ có thể tự tình với những hồn ma của dân Hời:
- Ta đã nghe trong mồ sâu lạnh
lẽo
Tiếng thịt người nảy nở, tiếng
xương rên
Ta hãy nghe, mơ màng trong cỏ
héo
Tiếng cô hồn lặng thở bóng
trời đêm.
(Bóng tối)
- Hãy tìm cho ta một nấm mộ
hoang tàn
Đào đất lên, cậy cả nắp hòm
xăng
Hãy chôn chặt thân ta vào chốn
ấy
Ta sẽ uống máu tan cùng tủy
chảy
Ta sẽ nhai thịt nát với
xương khô
Lấy hơi Ma nuôi sống tấm hồn
thơ
Luyện âm khí chuyển rung bao
giọt máu.”
(Máu xương)
Là thi sĩ ham mê cái “khác thường” “phi
thường” nên Chế Lan Viên đã chìm đắm vào quá khứ, lấy quá khứ để chống lại, phủ
nhận lại cái hiện tại đầy chán nản, đầy đau thương tuyệt vọng của xã hội đương
thời. Thi nhân đã cùng nhịp bước với đoàn quân Chiêm Thành khi ca khúc khải
hoàn thắng trận hay mải mê chiêm ngưỡng vẻ đẹp thướt tha của những nàng Chiêm nữ
trong khúc nhạc quay cuồng. Rồi ánh mắt của Chế Lan Viên lại chuyển sang một thế
giới hoang tàn, chết chóc để cảm thương và khóc than cho niềm đau thương, uất hận
của cả một dân tộc đã bị diệt vong. Cái còn lại ở trần gian hiện tại chỉ là những
Tháp Chàm hoang phế và những huyền thoại về mộ Hời, ma Hời rùng rợn. Nhưng với
Chế, dân tộc ấy không chết mà vẫn đang hiện lên trước mắt chàng với tất cả những
cảnh huy hoàng và niềm bi hận muôn đời:
Trong thơ ta dân Chàm luôn sống
mãi
Trong thơ ta xương máu khóc
không thôi.
Đến với thơ Bích Khê cũng vậy. Bên cạnh
những bức tranh quê tươi sáng là những bức tranh với gam màu u tối nhuốm tâm trạng
buồn đau:
Đêm nay hồn lạnh làm sao
Cảnh thu ôm cả chiêm bao vào
lòng
Sao xanh lợt phím tơ đồng
Gió ơi là gió! Buồn đông thổi
về
Không gian mưa lệ đầm đìa
Đầy sân trắng toát hoa lê đầu
mùa.
Nếu không gian trần thế trong thơ Hàn Mặc
Tử và Chế Lan Viên hầu như không có mưa (chỉ có “nắng chói”, “nắng chang
chang”, “nắng hoa” “nắng buồn”…và ánh trăng tràn ngập “trăng ngà” “trăng ngọc”,
“trăng giãi bóng”, “trăng nằm nghiêng ngả”, “trăng quỳ”, “trăng tự tử”…) thì
trong thơ Bích Khê, không gian trần thế lại thường có mưa. Ở đây, mưa là biểu
tượng cho nỗi buồn, niềm đau, sự u ám của cuộc đời:
- Nơi đây làng cũ buồn hiu
quạnh
Anh có khi nào trở lại chưa?
Ngày đi chậm lắm. Dòng sông
biếc
Cùng sáng trong trời sợi sợi
mưa
(Làng em)
- Mây trắng bay về núi Thạch
Chua
Chùa Ông chim hót ở ngoài
mưa
(Chùa Ông xà)
- Không gian mưa lệ đầm đìa
Đầy xuân trắng toát hoa lê đầu
mùa.
(Cuối thu).
Tóm lại, không gian nghệ thuật của các thi
nhân Trường thơ loạn trước hết là cõi trần thế, cõi thực tại của cuộc đời. Đó
là những bức tranh quê vừa tươi sáng thể hiện sự gắn bó của các nhà thơ với cuộc
sống. Nhưng liền ngay đó lại là những bức tranh quê u tối, đau buồn. Muốn thoát
ly khỏi không gian thực tại ngột ngạt, bế tắc, buồn đau như những “chốn trời
sâu”, “đáy giếng”, “lãnh cung”, “huyệt mộ”, “mưa xám”…ấy, các thi nhân của Trường
thơ loạn đã đi tìm một thế giới mới- thế giới của những khát vọng, ước mơ, ám ảnh
của cõi mộng và cõi âm linh sâu thẳm. Đó là không gian siêu thực giải thoát…
2.2 Đến không gian siêu thực - giải thoát…
Khi đã chán ghét thực tại tầm
thường, giả dối, bế tắc…thì đa phần các thi sĩ của phong trào Thơ Mới đều tìm
cách thoát ly khỏi hiện thực như một cách để giải thóat nỗi buồn, sầu, bế tắc:
“Ta thóat lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng
Lư, ta đắm say cùng Xuân Diệu nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên
cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận.”
(Hoài Thanh)
V.Hugo, vị chủ soái của chủ nghĩa lãng mạn
Pháp vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã tuyên ngôn “Bức tranh hiện thực của
nhân loại có được là nhờ vào phóng đại con người, nghĩa là nhờ vào điển hình
hóa hiện thực bằng tưởng tượng, bằng lý tưởng…cái bình thường là cái chết của
nghệ thuật” (Tựa “Cromoen”). Còn Hàn Mặc Tử thì tuyên bố hướng đi của Trường
thơ loạn bằng thơ:
Đi,đi, đi mãi nơi vô định
Tìm cái phi thường, cái ước
mơ.
Cũng là mơ mộng, cũng lấy mộng để thay cho thực
nhưng các nhà thơ Trường thơ loạn lại tiến xa hơn hẳn cái mộng “nhẹ nhàng”
“tươi đẹp” thấm đẫm ái tình của các nhà Thơ Mới đương thời. Đó là thế giới của
tượng trưng, của siêu thực tâm linh, tôn giáo. Đó cũng là một thế giới “rộng
rinh không bờ bến”: thế giới của cõi “huyền mơ”, “cõi thinh không”, “cõi xuất
thế gian”, “cõi âm phủ”, “cõi huyền diệu”, “cõi thần linh”…với bao hình ảnh
khác thường, phi thường đầy huyền ảo và kinh dị.
Trong công trình công phu “Thế giới nghệ thuật
thơ Hàn Mặc Tử”, Tiến sĩ Chu Văn Sơn đã khái quát rất xứng đáng rằng: “Từ tập
thơ “Đau thương trở đi, trong thơ Hàn đã xuất hiện một cõi trời mới, một thế giới
mới, có lúc ông gọi là “cõi trời mơ”: “Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu/ Trời
mơ trong cảnh thực huyền mơ”, có lúc ông gọi là “xứ mộng”: “Hương khói ở đâu
ngoài xứ mộng/ Cứ là mỗi lúc mỗi nên thơ”, có lúc ông gọi là “xứ say mơ”: “Đấy
là tất cả người anh tiêu tán/ Cùng trăng sao bàng bạc xứ Say mơ”. Ngoài ra nó
còn được định danh bằng nhiều cái tên khác nữa như “cõi thiên không”, “cõi triều
thiên”, “cõi siêu hình”, “nước Thiên Đông”, “nước Huyền Vi”, “chốn Phượng Trì”,
“cõi vô vi”, “cõi xuất thế gian”. Chính vì những trời thơ ấy trong thơ Hàn gắn
liền với địa danh tôn giáo (cả Phật giáo, Lão giáo và Thiên Chúa giáo) như “cõi
xuất thế gian” và “cõi âm phủ” của nhà Phật, cõi “vô vi” của Lão Trang, “cõi nước
Thiên đàng” của Công giáo…mà có rất nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định
“Thơ Hàn Mặc Tử rất đậm chất Đạo”. Có thể nói, thế giới huyền diệu siêu thực ấy
vừa là khát vọng vượt thóat vào khung trời của “cõi ước mơ hoàn toàn”-nghĩa là
đi đến “cái tột cùng” của trí tưởng tượng thi ca lại vừa là con đường giải
thoát khổ đau của các thi sĩ Trường thơ loạn.
Cái không gian thơ huyền diệu ở tít mù
cao chốn thinh không này chịu sự qui định của 2 nguyên nhân chính. Thứ nhất, đó
là quan niệm nghệ thuật (về nhà thơ và về thơ) của Hàn rất khác thường (Thi sĩ
là “người điên”, làm thơ là làm sự phi thường…) Thứ hai, là hệ quả của cái thứ
nhất, đó là khi làm thơ, tất cả cảm xúc, trí tuệ, tưởng tượng của nhà thơ đều
được đẩy đến “tột cùng” khiến cho thơ ông có thể vượt qua mọi rào cản của nhà
thơ lãng mạn thông thường để vươn tới những khung trời kỳ ảo. Trong dòng cảm
xúc ngất ngây như lên đồng ấy, ông đã nhìn thấy một thế giới hoàn toàn lạ
lùng, “một thế giới đầy ánh sáng; đầy âm thanh đầy màu sắc của “lưu ly, ngọc
ngà”như chốn Thiên Đàng vĩnh cửu. Với sự thăng hoa ấy, hồn thơ của Hàn đã vút
bay lên cao để hóa giải mọi nỗi thống khổ tột cùng cả về thể xác và linh hồn ở
cõi trần ai này:
- Ta ném mình đi theo gió
trăng
Lòng ta tản mát bốn phương
trời
Cửu trùng là chốn xa xôi lạ
Chim én làm sao bay đến nơi
(Ghen).
- Máu tim ta tuôn ra làm bể
cả
Mà sóng lòng dồn dập như mây
trôi
Sóng lòng ta tràn lan ngoài
xứ lạ
Dâng cao lên, cao tột bậc
trên trời.
(Biển hồn ta).
- Cả bầu trời bỗng nổi muôn
điệu nhạc
Rất trọng vọng, rất thơm
tho, man mác
Rất phương phi trên tất cả
anh hoa.
“Trí người đã dâng cao và thơ người dâng
cao hơn nữa. Thì ra người đang say sưa đi trong mơ ước, trong huyền diệu, trong
sáng láng và vượt hẳn ra ngoài hư linh.” (Tựa “Thơ điên”).
Cái khung trời thơ lung linh ấy được Hàn xây cất
lên bằng toàn những vật liệu siêu phàm của ước lệ, tượng trưng, siêu thực. Đó
là ánh sáng khác thường: “Cho mau lên dồn ánh nguyệt vào đây…Lời thơ ta sẽ sáng
trưng như thất bảo”, “ánh hào quang chan chói ngất liu ly”, “Trên triều thiên
ngời chói vạn hào quang”, “Anh đã thoát hồn anh ngoài xác thịt/ để chập chờn
trong ánh sáng mông lung”…Đó là thứ âm nhạc “thơm tho lạ lùng”, là “hương gấm”,
là “đàn li tao”, là “hoa trinh bạch”, là “Trái cây ngọc vỏ bằng gấm/ còn mặt trời
tợ khối vàng/…xuân gấm đầu tiên giữa cõi trời”.v.v…và thi sĩ vô cùng sung
sướng, mãn nguyện thốt lên:
Ta sống mãi trong trăng sao
gấm vóc
Trong nắng thơm, trong tiếng
nhạc thần bay
Bút kê lên nền sáng báu năm
mây
Thơ chen lấn lên trong nguồn
cảm giác.
Phải chăng chính đức tin Thiên chúa đã
khiến cho thi sĩ- con chiên ngoan đạo Hàn Mặc Tử đã xây dựng lên bằng thơ cả một
Thiên đàng trong mơ ước, trong khát vọng tột cùng.
Không gian siêu thực- giải thoát trong
“Điêu tàn” của Chế Lan Viên vừa giống lại vừa khác so với Hàn Mặc Tử.
Điểm giống nhau: Nếu không gian nghệ thuật
siêu thực- giải thoát của thơ Hàn có xu hướng vươn lên trên cao trên “thượng tầng
không khí” thì ở Chế Lan Viên cũng vậy. Thi sĩ Chế Lan Viên cũng ước ao:
Hãy cho tôi một tinh cầu giá
lạnh
Một vì sao trơ trọi cuối trời
xa
Ở nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh
Những ưu phiền, đau khổ với
buồn lo!
(Những sợi tơ lòng).
Và ở nơi “tinh cầu giá lạnh ấy”, Chế Lan
Viên đắm chìm vào dòng sông toàn “máu thắm sông Linh” và thi sĩ cũng vô cùng
khoan khoái được sống trong cảnh sắc phi thường:
Ta để xiêm lên mây rồi nhẹ
bước
Xuống dòng Ngân lòa chói ánh
hào quang
Sao tán loạn đua bơi trên mặt
nước
Tiếng lao xao dội thấu đến
cung Hằng.
(Ngủ trong sao).
Không gian cõi trời cao của Chế cũng đầy
ánh hào quang chói sáng, cũng tỏa ngát mùi hương, cũng đầy âm thanh rộn rã. Thi
sĩ khi thì “Vỗ lên đầu sao Đẩu, sao Khuê”, lúc lại “đuổi bắt trăng sao đang tán
loạn”, khi thì ngồi dưới “bến hư-không để tắm ánh trăng vàng mát rượi”, lúc lại
“hát khúc cuồng ca trên bến sông Ngân.”
Trong thơ Hàn, không gian tràn ngập ánh trăng.
Trong cõi trời hư-không của Chế cũng “lai láng trăng vàng, trăng điên”. Trong
thơ Hàn, phương tiện vượt thóat không gian thực tại cũng là hồn, trong thơ Chế
cũng có hồn thoát ra khỏi xác để trôi nổi trong vũ trụ:
Đừng hát nữa! Tiếng ai trong
trẻo quá
Khiến hồn tôi tê liệt khó
bay cao
Này, im đi, nhìn xem trong
khẽ lá
Một mặt trời giả dạng
một vì sao”.
(Hồn trôi).
Điểm khác nhau: Nếu không gian của thơ Hàn chủ
yếu là ở trời cao xa thẳm thì không gian của thơ Chế còn có nơi rùng rợn, kinh
hãi đó là âm phủ, là huyệt mộ. Chỉ với 36 bài thơ ngắn trong tập thơ “Điêu
tàn”, Chế Lan Viên đã 12 lần nhắc đến, nói đến và tả lại cảnh sắc nơi mồ sâu,
huyệt lạnh đến ghê người. (Trong đó có hai bài hoàn toàn chỉ tả lại cảnh này,
đó là bài “Mồ không” và “những nấm mồ”). Và hành động trữ tình của thi nhân
cũng thật là khác thường, kinh dị.
Tìm cho ta một nấm mộ hoang
tàn
Đào đất lên cậy cả nắo hòm
săng
Hãy chôn chặt thân ta vào chốn
ấy
Ta sẽ uống máu tan cùng tủy
chảy
Ta sẽ nhai thịt nát với
xương khô
Lấy hơi ma nuôi sống tấm hồn
mơ
Luyện âm khí chuyển rung bao
mạch máu.
(Máu xương).
Nếu ở cõi trời cao, vật liệu
xây cất lên cái thế giới ấy toàn là những thứ cao sang, siêu phàm, quý giá (ánh
trăng, nhạc, hương, hoa, ngọc ngà lưu li, châu báu…)thì ở cõi huyệt mộ này, Chế
toàn dùng những thứ tanh hôi ghê rợn như máu, tủy, sọ người, xương khô, quan
tài…và tương ứng với những vật liệu ấy là biểu tượng “đêm mờ” được láy lại tới
29 lần.Chỉ có trong cõi “đêm mờ” này thì thi nhân mới thóat được hồn ra khỏi
xác để nhập vào “Hồn ma Hời và đi vào những nấm mồ hoang lạnh để “tự tình, tâm
sự”. Cũng chỉ dưới bóng “đêm mờ” này, các ma Hời mới sống dậy và tâm tình với
thi nhân để làm sống lại thời dĩ vãng oanh liệt của giống dân Hời:
Ta hãy nghe trong mồ sâu lạnh
lẽo
Tiếng thịt người nảy nở, tiếng
xương rên
Ta hãy nghe mơ màng trong cỏ
héo
Tiếng cô hồn lặng thở khí trời
đêm……
Nước non Chàm chẳng bao giờ
tiêu diệt
Tháng ngày qua vẫn sống với
đêm mờ.
(Bóng tối).
Tóm lại, trong “Điêu tàn” của Chế Lan Viên,
các biểu tượng của không gian siêu thực- giải thóat là “tinh cầu giá lạnh”, là
“Sông Ngân” “sông Linh”, là “cõi trời”, “cung Hằng”, “Thất tinh”, là “Tháp
Chàm” “huyệt mộ”, “đêm mờ”, là “ cõi hư- vô”…Đó cũng chỉ là những địa danh khác
nhau của một cõi: không gian mộng ảo, siêu thực- tâm linh nhằm phủ nhận cõi trần
gian, thực tại chán chường, đau khổ và tuyệt vọng. Và đó cũng chính là con đường
vượt thoát: vượt thoát khỏi ranh giới của thơ lãng mạn, vượt thoát cho những
đau khổ, bế tắc của thi nhân trước cuộc đời nhỏ bé, tầm thường, đau khổ:
Với tôi tất cả như vô nghĩa
Đến với thơ Bích Khê, chúng ta lại không
thể không liên tưởng đến Hàn Mặc Tử. Hàn có cả một tập thơ mang tên là “đau
thương” để thăng hoa hết, thăng hoa đến “tột cùng” nỗi đau thương của đời mình
thành thơ thì Bích Khê cũng vậy. Một thi sĩ trẻ trung đang đầy tài năng và khát
vọng bỗng lại vướng vào án tử của căn bệnh lao “tứ chứng nan y” thời ấy. Cho
nên Bích Khê đã thốt lên: “thơ tôi đời mô mới hết đau.” Căn bệnh quái ác cứ
hành hạ thi nhân khiến chàng đau khắp người “cả linh hồn, óc, não, phổi, tim,
gan”. Nỗi đau ấy khiến thi nhân phải bật khóc đến độ “đứt tươm hơi.” Phải sống
những ngày cận kề cái chết, có nhiều lúc giống Hàn Mặc Tử, Bích Khê đã
rơi vào hoảng loạn, mê sảng, gào rú, điên cuồng “Hú ma điên- kinh động Vạn hồn
đau”, “Tôi lạy trời! Tôi lạy cả vô biên”, “Ai bảo tôi là tôi chửa chết rồi!”,
“hơn một bận ta đi vào cõi chết”…Nhưng rồi Bích Khê cũng như Hàn “ Lòng chết đi
nhưng máu vẫn cuồng say”. Chàng đã thăng hoa nỗi đau ấy thành thơ. Và
cũng như Hàn, Bích Khê đã tìm ra cho mình một chốn giải thoát nỗi đau: đó
là thi nhân đã xây dựng cho mình một khung trời siêu thực- giải thoát:
khung trời trượng trưng đầy Nhạc- Hương- Hoa: “ Hồn ta say trong nhạc vằng kể lể/
và hồn hé nhạc thắm như hoa”.
Ấn tượng đậm nhất trong không gian thơ Bích
Khê đó là một thế giới đầy âm nhạc. Âm nhạc đắm say, âm nhạc du dương, âm nhạc
vui, âm nhạc buồn…được Bích Khê gọi bằng những cái tên khác nhau như: “ Khúc Mộng
cầm ca”, “ Khúc Lạc Mai hoa”, “ Điệu Tỳ Bà”, “ húc Phượng cầu”, “Điệu tương
tư”, “Điệu sầu hận”…Tất cả đều lôi cuốn hồn thi sĩ, làm cho thi sĩ ngất
ngây, say đắm, thậm chí con người tan ra thành nhạc:
- Nường tan ra nhạc, tan ra nhạc
Khung trắng trời mây, trắng
lạ thường
Nường hé môi ra bay điệu
nhạc
Mát như xuân mà ngọt tợ
hương
(Hiện hình)
- Không gian tơ, không
gian tơ gợn sóng
Âm thanh gì sắp sửa Ngọc Kiều
ơi!
Hay hơi thở của hoa hồng mơ
mộng
Hay buồn đêm rào rạt trải
muôn nơi
Không gian tơ, không gian tơ
gợn sóng
Ngọc Kiều ơi! Hồn đến bến xa
khơi
(Mộng cầm ca)
- Thơ bay, thơ bay vô bàn tay ngà
Thơ ngà ngà say, thơ ngà ngà
say
Nàng ơi đừng động! có nhạc
trong giây
Nhạc gây hoa mộng, nhạc ngát
trời mây
(Nhạc)
Bích Khê là thi sĩ đặc biệt nhạy cảm với
nhạc. Và đó không chỉ là âm nhạc thông thường của âm thanh nhạc cụ hay giọng
ca của con người mà là một thứ “ nhạc tượng trưng” tổng hợp tất cả mọi âm
vang của cuộc đời, vũ trụ và tâm trạng nhà thơ. Đó là âm vang, là giai điệu của
mây, của gió, của lá rụng, của nước chảy, của tiếng chuông chùa…là nhạc của nỗi
buồn, niềm đau, của khát khao vô tận về dục tình. Do đó mà thi sĩ đã cảm
nhận được “ làn da trắng tinh của người con gái, thân thể thơm tho của người
thiếu nữ cũng “ tỏa ngát hương và nảy ra điệu nhạc”. Dù có cố “ Tôi
run run hãm lại cánh hồn si” thì vẫn cứ “ Hồn theo với nhạc hồn ơi là hồn!”.
Không chỉ ngửi được mùa thơm của tiếng cười Ngọc Nữ, thi sĩ còn ví von
như có vẻ phi lý “ Khóc gì nghe như phả điệu đàn”. Đó là tiếng khóc của
giai nhân , trong giấc mộng,khóc cũng là nhạc, là hương,là niềm an ủi, là con
đường giải thoát khổ đau.
Ngoài nhạc, khung trời thơ của
Bích Khê còn đầy hương và màu sắc. Nhà thi sĩ “ thần linh” này có
thể ngửi thấy, cảm thấy mùi hương thơm của mọi vật: hương của lúa, hương của cỏ,
hương của hoa, hương của da thịt giai nhân, hương của mây trời, hương của “cung
điệu chốn Nghê Thường”, hương của “ điệu Mai hoa” của “ Khúc Phượng Cầu”…
- Nàng hé môi ra bay điệu
nhạc
Mát như xuân mà ngọt tựa
hương
Ôi sao là lúc ba sinh lụy
Rào rạt như đầy nỗi cảm
thương
( Hiện hình)
- Vầng sao nằm im trên hoa gầy
Tương tư người xưa thôi qua
đây
Ôi nàng năm xưa quên lời thề
Hoa vừa đưa hương gây đê mê.
(Tỳ bà)
Tiếp theo thuyết “tương giao
giữa các giác quan” của thi sĩ tượng trưngPháp Baudelaire (Màu sắc và âm thanh
có thể tương hợp với nhau).
Hương sắc âm thanh trong
không gian tương ứng
Có những mùi hương mát như
da thịt trẻ con
Và êm nhẹ như tiếng sáo, xanh mướt như cỏ
non.
(Baudelaire-Tương ứng).
Bích Khê cũng tạo ra thế giới
tương giao bằng các giác quan của mình.
Thế giới thơ Bích Khê là thế giới “Linh diệu
của muôn trời”. Như các thi sĩ của chủ nghĩa tượng trưng, Bích Khê đã dựa vào tất
cả cảm quan mở rộng, vào trực giác tinh tế, vào tưởng tượng phi thường, vào cái
thâm sâu bí ẩn của tâm linh vô thức…Tất cả được nhà thơ huy động với “công suất”
cao nhất để tạo nên một thế giới linh diệu. Ở trong thế giới ấy, âm thanh,
hương vị, màu sắc có thể tương thông với nhau, chuyển dịch và hòa thấu vào
nhau. Trong 76 bài thơ của hai tập “Tinh hoa” và “Tinh huyết”, Bích Khê đã 82 lần
nhắc đến, tả lại âm thanh, 96 lần gợi về màu sắc và 71 lần nhắc gợi hương thơm.
Nếu các thi sĩ của chủ nghĩa lãng mạn
nhìn thế giới chủ yếu ở mặt hữu hình và coi trọng cảm xúc (“Hãy đập vào trái
tim, thiên tài là ở đó”- A.Musset) thì các thi sĩ của trường phái tượng trưng lại
làm ngược lại: đặt thơ vào cõi vô hình và xuất phát từ cảm giác. Vì thế, thơ tượng
trưng không chỉ truyền cảm mà chủ yếu là gợi cảm, gợi ý và do đó thơ tượng
trưng thường để lại những “khấp khểnh”, “lệch pha”, “mông lung” trong trí tưởng
tượng của người đọc. Nó khó hiểu hơn nhưng lại tinh vi hơn, phức tạp hơn, đa
nghĩa hơn thơ lãng mạn. Phát hiện ra cái đặc sắc, độc đáo này của Bích Khê, Chế
Lan Viên đã chỉ rõ cách tiếp cận thơ của thi sĩ này: “Với kỹ thuật tượng trưng
khi miêu tả chiếc lá rụng thì người thơ không nói về chiếc lá lìa cành mà nói đến
cái trống vắng của cây khi lá rơi”. Chẳng hạn, đây là một trời “mông lung”,
lung linh rất gợi cảm nhưng vô hình của “cõi Nghê thường”:
Ôi trời hôm nay sao mà xanh
Ngọc trăng xây vàng trên
muôn cành
Nhung mây tê ngời sao kim
cương
Dạ lan tê ngời say men hương
Lầu ai ánh gì như lưu ly?
Nụ cười ai trắng như pha lê?
Thủy tinh ai để lòng gương hồ?
Không gian xà cừ hay san hô?
Hoặc nhà thơ chỉ gợi ra một
không gian tương hợp của các giác quan:
Ta những muốn sầu thương
thôi biểu lộ
Sắc trong màu, màu trong sắc
hân hoan
Ta những muốn mùa đông nhường
lại chỗ
Nhạc gầy hương, hương gầy nhạc
lan man
Cả không gian là bể sóng
tràn lan.
(Đồ mi hoa).
Do đó ta mới hiểu, vì sao thế giới thơ của
Bích Khê toàn được xây cất lên bằng các vật liệu kỳ lạ: âm thanh kỳ lạ, đường
nét, màu sắc kỳ lạ, hương thơm kỳ lạ, chất liệu kỳ lạ (“ánh sáng lưu ly”, “ánh
dạ quang”, “ánh trăng hường”, “lòng trăng mật”, “da thịt tuyết”, “mùi tô hợp”,
“hương trầm”, “hương xạ”, “hương tô hợp”, “hương hân hoan”…). Và ta cũng hiểu
vì sao Bích Khê lại gọi khung trời thơ của mình bằng những cái tên cũng kỳ lạ nốt:
“chốn vô biên”, chốn phương phi, chốn Diên Trì, chốn Kim Sa”, “nơi Ngọc Nữ”,
“nơi hoan lạc”, “nơi Kim Đồng”, “nơi thanh khí”, “bến sông Ngân”, “bến sông
Tương”, “hội đào Tiên”, “đỉnh Nga My”…
Tóm lại, không gian nghệ thuật của các
thi nhân Trường thơ loạn không chỉ có một cõi trần thế vừa tươi sáng vừa u buồn
mà còn có một cõi siêu thực huyền diệu, kỳ ảo và kinh dị. Nhờ đó, thế giới thơ
của Trường thơ loạn không chỉ có thế giới hữu hình mà còn có cả thế giới vô
hình đầy ám ảnh: ám ảnh của dục vọng, ám ảnh về cái chết, ám ảnh về cõi Thiên
Đàng, cõi Niết Bàn, cõi Âm Phủ. Nói cách khác, đó không chỉ là sản phẩm của trí
tưởng tượng phi thường, kỳ lạ mà còn là sản phẩm của những vô thức sâu thẳm đầy
bí ẩn. Cũng nhờ đó, các thi nhân của Trường thơ loạn đã làm “lạ hóa” vườn thơ
lãng mạn, mở rộng biên giới thơ lãng mạn đến độ “rộng rinh không bờ bến” như lời
khẳng định của Hàn Mặc Tử.
Và qua đó, các nhà thơ độc đáo này đã đổi
mới cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ về vũ trụ, về cuộc đời, về con người cho những
kẻ yêu thơ.
CHƯƠNG 3
THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG
TRƯỜNG THƠ LOẠN
Cũng như không gian, thời gian là một phạm trù
triết học phổ quát. Như một chân lý vĩnh hằng, khi ta nói “tồn tại” hay “vũ trụ”,
“thế giới” thì đương nhiên “tại – vũ – giới” là không gian, còn “tồn – trụ - thế”
là thời gian. Nói cách khác, không có cái gì (dù là hiện hữu trong thực tế hay
trong tâm tưởng con người) là nằm ngoài không gian và thời gian cả.
Thời gian nghệ thuật là thời gian tồn tại
trong các tác phẩm nghệ thuật. Nó có cơ sở từ thời gian vật lý nhưng đã được
người nghệ sĩ sáng tạo lại. Ý thức về thời gian cũng chính là ý thức về cuộc đời
và con người. Khác với thời gian vật chất khách quan, thời gian nghệ thuật phụ
thuộc vào cảm giác chủ quan của từng nghệ sĩ. Người nghệ sĩ có thể thay đổi nhịp
điệu vận động của thời gian, có thể đảo ngược các chiều vận động của thời gian,
có thể dồn nén hay kéo dài thời gian, có thể làm cho thời gian đồng hiện, v.v…
Với văn học nói riêng, thời gian nghệ thuật là
một yếu tố thi pháp làm nên chỉnh thể thống nhất của một tác phẩm, một trào lưu
văn học. Nghiên cứu thời gian nghệ thuật vừa giúp ta cảm thụ, cắt nghĩa tác phẩm
trong tính cụ thể - sáng tạo của nó, vừa giúp ta hiểu được quan niệm nghệ thuật
và phong cách của các nhà văn.
Sau đây chúng tôi sẽ đi vào khảo sát, cắt
nghĩa hình tượng thời gian của các thi nhân Trường thơ loạn xem nó có những đặc
sắc gì và ý nghĩa của chúng ra sao trong việc “giải mã” những bí ẩn của Trường
thơ loạn Bình Định.
3.1. Từ nỗi ám ảnh khôn
nguôi về quá khứ…
Nếu nhìn một cách tổng quát về ba phạm trù thời
gian: quá khứ - hiện tại – tương lai thì văn học hầu hết đều biểu đạt hiện tại
nhiều nhất. Bởi vì hiện tại chính là ý thức chủ yếu của các nhà văn khi sáng
tác ra các tác phẩm, cũng là ý thức chủ đạo của các nhân vật (sống trong hiện tại).
Nếu có nói về quá khứ cũng là để đối chiếu, so sánh với hiện tại, để làm rõ hiện
tại. Còn có nói đến tương lai cũng là để làm rõ hơn hiện tại và thể hiện sự kì
vọng, sự đợi chờ (chẳng hạn ở đa số các nhà Thơ Mới, hiện tại thường hoặc đẹp đẽ,
nên thơ, hoặc u sầu, cô đơn, bế tắc; quá khứ đẹp đẽ, hùng tráng được nói đến chủ
yếu để tiếc nuối, để phủ nhận hiện tại; còn tương lai ư? Tương lai thì mờ mịt
nên họ thường sợ và rất ít đề cập tới, nói như Xuân Diệu: “Gấp đi em anh rất sợ
ngày mai”).
Qua khảo sát toàn bộ thi phẩm của ba nhà thơ
tiêu biểu nhất của Trường thơ loạn, chúng tôi nhận thấy: Hàn Mặc Tử và Bích Khê
đều ít nói về quá khứ một cách tực tiếp (qua các trạng từ chỉ trực tiếp quá khứ
như: thời xưa, thuở ấy, ngày trước, năm xưa,…). Hay nói chính xác, thời quá khứ
đã hòa vào không gian của cõi mộng, cõi huyền diệu kì ảo của những chốn “Sông
Ngân, sông Trương, Ngọc Nữ, Đào Tiên, Phương Trì, Kim Tinh, Kim Đồng, Xuân
Hương, Thôi Hiệu, Tây Vương Mẫu, Cực lạc, Phục sinh, Khải huyền,…” Toàn những địa
danh gợi nhắc về các sự tích, các truyền thuyết của quá khứ xa xăm trong sử
sách và trong huyền thoại. Chỉ có Chế Lan Viên là công khai, trực tiếp và quyết
liệt phủ nhận hiện tại và tương lai để quay ngược về quá khứ, chìm đắm vào quá
khứ, dựng quá khứ sống dậy trong hiện tại:
- Tạo hóa hỡi! Hãy trả tôi về
Chiêm Quốc
Hãy đem tôi xa lánh cõi trần
gian
Muôn cảnh đời chỉ làm tôi
chướng mắt
Muôn vui tươi nhắc mãi vẻ
điêu tàn
(Những sợi tơ lòng)
- Một ngày biếc thị thành ta
rời bỏ
Quay về xem non nước giống
dân Hời
(Trên đường về)
- Ta nhắm mắt mặc yên cho hiện
tại
Biến dần ra dĩ vãng ở trên
mi
(Tạo lập)
Theo khảo sát của chúng tôi, trong 36 bài thơ
của Điêu tàn thì có tới 31 bài thi sĩ nói về quá khứ. Ngay cả khi hai nhà thơ
Hàn – Bích đều nói nhiều về mùa xuân, mùa thu thì Chế đã dứt khoát tuyên ngôn:
Tôi có chờ đâu, có đợi đâu
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu
Với tôi, tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau
Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng
Với cả hoa tươi muôn cánh rã
Về đây đem chắn nẻo xuân sang
(Xuân)
Các nhà Thơ Mới lãng mạn cũng ít nhiều có nói
về quá khứ, nhưng phần lớn đó là cái quá khứ tươi đẹp hơn hẳn hiện tại để mà tiếc
nuối, để mà soi chiếu với cái hiện tại buồn tẻ, nhàm chán, cô đơn (cõi “Thiên
Thai” của Thế Lữ, thời hùng tráng xa xưa của Huy Thông, thuở “Hạc theo trăng
còn ở lẫn với người” của Xuân Diệu, buổi vinh quy” võng anh đi trước võng nàng
theo sau” của Nguyễn Bính…). Còn ở Điêu tàn của Chế Lan Viên, đó là cái quá khứ
đau thương và uất hận của một dân tộc đã bị chôn vùi vào dĩ vãng. Đó là quá khứ
của những đoàn quân Chiêm, của những nàng Chiêm Nữ, của những nấm mồ chứa đầy đầu
lâu, xương khô của ma Hời, là những hồn ma vật vờ trong nghĩa địa… Với tư tưởng
chán nản, tuyệt vọng, nhà thơ thường ngụp lặn vào quá khứ để quên đi mọi khổ
đau trong hiện tại. Nhưng đó cũng chỉ là một ảo tưởng “phi thường” không bao giờ
thực hiện được. Làm sao mà quên được hiện tại đang diễn ra hàng ngày, đang diễn
ra trước mắt. Cho nên dẫu ông ước ao: “Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh/ Một
vì sao trơ trọi cuối trời xa/ Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh/ Những ưu phiền
đau khổ với buồn lo” (Những sợi tơ lòng) hoặc ước muốn “Tôi không muốn đất
trời xoay chuyển nữa” thì cũng chỉ là một ảo ảnh ngông cuồng trong tư tưởng,
tâm tưởng mà thôi. Bởi vậy, thi nhân bỗng cay đắng nhận ra:
Ta vẫn thấy hồn ta buồn ủ rũ
Và cõi lòng ta dày đặc bóng đêm mờ
(Nắng mai)
Nếu các hình ảnh: “Tháp Chàm, Sông Linh, tinh
cầu, huyệt mộ, đầu lâu, xương tủy,…” là những hình ảnh được lặp đi lặp lại trở
thành những biểu tượng của không gian “kinh dị” thì hình ảnh “đêm mờ” cũng được
lặp lại 29 lần và nó trở thành biểu tượng của thời gian quá khứ bi hận. Chỉ có
dưới “đêm mờ” thì thi nhân mới tâm sự được với các hồn ma Hời, chỉ có “đêm mờ”
thì mộng mới thoả sức tung hoành. Bình minh lên thì giấc mộng tan, hồn ma cũng
biến mất.
Tiếng gà bỗng từ đâu vang dội lại
Hồn yêu tinh sực tỉnh giấc mơ nồng
Và vội vã trở về nơi u tối
Quên làn xương trong cỏ đóng sương trong.
(Đêm tàn)
Hồn Yêu tinh, hồn Ma Hời trong bóng đêm mờ vẫn
trở lại cõi trần gian nhưng rồi tiếng gà, ánh bình minh báo hiệu, trong khoảnh
khắc chúng đẩy thời gian trở về “cõi tịch liêu”, để rồi còn lại: “Các cô hồn lặng
ngắm cõi hư vô/ Rồi đua nhau trở lạị nấm mồ sâu”. Ở Điêu tàn, thi nhân đã xóa
nhòa thời gian tâm tưởng và tâm linh sâu thẳm đầy ám ảnh. Các cô hồn sợ hãi trần
gian cũng là biểu tượng cho tâm trạng của nhà thơ. Thời gian hiện tại, không
gian trần thế trong thực tại chỉ đem đến đau buồn, chỉ làm thi nhân “chướng mắt”.
Vậy chỉ còn con đường: “Nó thoát hiện tại, nó xối trộn dĩ vãng, nó ôm trùm
tương lai. Người ta không hiểu được nó vì nó nói những cái vô nghĩa, tuy rằng
những cái vô nghĩa hợp lí… và vênh vang, kiêu ngạo, ta lấy mây làm bút, lấy
trăng làm mực đề lên nền trời xanh:
Trong thơ ta dân Chàm luôn sống mãi
Trong thơ ta xương máu khóc không thôi.”
(Tựa Điêu tàn)
Như thế, chính những ám ảnh dữ dội, khôn nguôi
về lịch sử của một dân tộc đã bị tiêu vong, chính nỗi đau buồn “vong quốc”, trước
thực tại nước mất nhà tan trong cuộc đời nô lệ đã là lực đẩy cực mạnh cuốn toàn
bộ tâm trí Chế Lan Viên khi ấy mới 15, 16 tuổi vào thế giới của Điêu tàn quá khứ.
Đó thực chất là tư tưởng của Chế Lan Viên qua tập thơ này: gián tiếp thức tỉnh
nỗi đau mất nước và cũng là gián tiếp lay động tinh thần yêu nước trong mỗi con
người Việt Nam thuở ấy. Do đó ta mới hiểu điều nhà thơ viết trong cùng lời Tựa
nổi tiếng ấy: “Điêu tàn có riêng gì cho nước Chiêm Thành yêu mến của tôi đâu?
Kìa kìa nó đang đục sọ chìa anh”. Và cuối cùng, đó là một cách “đi tìm thời
gian đã mất” của Trường thơ loạn.
Như ở trên chúng tôi đã khẳng định: đối với
Hàn Mặc Tử và Bích Khê, hai thi nhân ít công khai, trực tiếp tuyên ngôn sự phủ
nhận thực tại và hiện tại như Chế Lan Viên mà ám ảnh về quá khứ được thể hiện
gián tiếp qua các hình tượng thơ thuộc về một quá khứ xa xăm. Đó là thế giới của
các nhân vật lịch sử hay truyền thuyết như “Tây Thi, Lộng Ngọc, Điêu Thuyền, Tề
Tuyên Vương, Tây Vương Mẫu, Hồ Xuân Hương, đức chúa Giê-su, đức mẹ Maria”,… hoặc
các hình tượng về không gian kì ảo, huyền diệu như chốn “Kim Sa, chốn Kim Tinh,
bến sông Ngân, sông Tương, nơi Hoàng Hạc, Phượng Trì, Ngọc Nữ, Kim Đồng,…” Chẳng
hạn:
- Non nước tâm tình rộng bốn
phương
Để em làm nhạc, tôi làm
hương
Đêm nay đại yến Lâm Xuân Các
Điêu Thuyền đàn khúc Tề
Tuyên Vương
(Hàn Mặc Tử - Nợ duyên)
- Chàng ơi! Đêm nay nín thở
Để hồn biến thành hương
Chập chờn trong Nữ Yêu
Vào ra theo rặng lựu
Chập chờn trong ba tiêu
(Bích Khuê – Ngũ Hành Sơn)
Thì cái thời gian “đêm nay” cũng vẫn chỉ là
cái “đêm ấy” xa thẳm của quá khứ mà thôi. Hiện tại và quá khứ có khi “đồng hiện”
để thi sĩ Hàn Mặc Tử phải thốt lên: “Tây Thi nàng hỡi bao nhiêu tuổi/ Vẻ đẹp mê
tôi vẫn nõn nà” hoặc làm cho Chế Lan Viên phải bàng hoàng: “Ai bảo giùm ta… ta
có, có ta không?”
3.2. … Đến thời gian đột biến
và gấp gáp trong hiện tại
Ở trên, chúng tôi đã khảo sát, cắt nghĩa về xu
hướng vận động của thời gian nghệ thuật Trường thơ loạn. Đó là thời gian từ hiện
tại quay ngược về quá khứ, dùng quá khứ để thấu hiểu sâu sắc hơn về hiện tại, đồng
thời quay về quá khứ cũng là một con đường để thoát ly thực tại, cũng là con đường
giải thoát khổ đau trong hiện tại.
Đến đây, chúng tôi sẽ bàn về nhịp điệu của thời
gian nghệ thuật trong Trường thơ loạn.
Như chúng ta đã biết, nhịp điệu nhanh hay chậm
của thời gian nghệ thuật cũng là một dấu hiệu thể hiện quan niệm nghệ thuật về
cuộc đời và con người. Ý thức về sự vận động của thời gian cũng là ý thức về ý
nghĩa của cuộc sống và số phận mỗi người. Thơ cổ điển có một quan niệm đặc
trưng về sự vận động của thời gian, đó là thời gian lặp lại theo chu kì tuần
hoàn: xuân qua rồi hè tới, hè qua thì thu rồi đông tới. và xuân lại về. Nghĩa
là thời gian không mất đi đâu cả, nó chỉ vận động tuần hoàn theo năm tháng mà
thôi. Con người cũng vậy, sinh – lão – bệnh – tử là quy luật lặp lại muôn đời.
Cũng như thời tiết: hết mưa là nắng, hết nóng là lạnh; cũng như sự thay đổi của
các triều đại: hết thịnh lại suy, hết suy phải thịnh, v.v… Do đó, các thi nhân
cổ điển nắm được quy luật vận động ấy của thời gian lúc nào cũng ung dung, tự tại,
rèn luyện cho cái tâm tĩnh trước cái động của ngoại cảnh.
Chỉ đến Thơ Mới, khi các nhà thơ có được ý thức
sâu sắc về cái tôi cá thể thì họ mới cảm nhận được điều này: thời gian luôn vận
động “như ngọn gió, như dòng nước” không ngừng nghỉ. Thời gian trôi qua là mất
đi. Thời gian là vô hạn mà mỗi con người chỉ là hữu hạn, là ngắn ngủi vô cùng.
Do đó, để chống lại sự trôi chảy ấy của thời gian, để kéo dài sự ngắn ngủi của
kiếp người, chỉ có một cách: tăng cường cường độ sống mãnh liệt “bằng toàn tim,
toàn óc, toàn hồn” như Xuân Diệu hằng tuyên bố. (“Thà một phút huy hoàng rồi chợt
tối/ Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”. Hoặc: “Trút ngàn năm trong một phút
chơi vơi”).
Tất nhiên, không phải nhà Thơ Mới nào cũng hốt
hoảng, cũng bị ám ảnh bởi thời gian như Xuân Diệu (“Nhanh lên chứ, vội vàng lên
với chứ/ Em, em ơi! Tình non sắp già rồi…” Hoặc: “Xuân đang tới nghĩa là xuân
đang qua/ Xuân còn non nghĩa là xuân sắp già”…). Chẳng hạn như Huy Cận cùng thời
với Xuân Diệu lại chỉ thường khắc khoải bởi không gian luôn buồn sầu, luôn nhớ
tiếc không gian.
Đối với các thi nhân của Trường thơ loạn, hoặc
do định mệnh số phận bi kịch xô đẩy hoặc do nỗi chán chường thực tại đưa đường,
họ luôn có mặc cảm về sự cô đơn, về sự chia lìa vĩnh viễn với cuộc đời này dù họ
khôn nguôi lưu luyến:
Ta còn trìu mến biết bao người
Vẻ đẹp xa hoa của một thời
Đầy lệ, đầy thương, đầy tuyệt vọng
Ôi! Giờ tiễn biệt sắp chia phôi
(Hàn Mặc Tử - Trút linh hồn)
Dưới áp lực nghiệt ngã của định mệnh, lại liên
tiếp phải uống “những chén đăng của tình yêu”, Hàn Mặc Tử sáng tạo dồn dập,
sáng tạo “điên cuồng” để chạy đua với tử thần. Nhà thơ sống trong tâm trạng nhập
nhòa giữa cõi thực và cõi mộng, giữa lí trí tỉnh táo và cảm xúc, tưởng tượng vọt
trào, miên man. Trong bài tiểu luận Chiêm bao với sự thật, Hàn đã tả lại trạng
thái sáng taọ của mình như sau: “Ngoại cảnh đã xâm lấn xác thịt và linh hồn
tôi. Bao nhiêu là tinh anh của non sông đều xông vào tôi, rút hết tinh túy tôi.
Tôi có thể bảo đây là một lối thần giao cách cảm mà ngoại cảnh hay thâm tâm đồng
xáo động… Chiêm bao rã rời trong khi ánh sáng sự thực dọi tới. Bây giờ ngoại cảnh
và nội tâm điều hòa, run lên như những nhịp tiêu thiều thanh bai… Tôi cảm thấy
hồn tôi mất đi một nửa, và tôi đang sống trong sự mơ hồ”. Trạng thái này Hoàng
Ngọc Hiến gọi là “siêu thức”, là nhận thức mà ở đó phải trái không chỉ có sự đối
lập mà còn giao hòa vào nhau: hư và thực, tỉnh táo và mơ hồ, gần và xa, hiện tại,
quá khứ, tương lai… Và những bài thơ của Hàn, của Bích và Chế ra đời trong các
trạng thái như thế hẳn không thể tuân theo logic thông thường. Nói như Chế Lan
Viên là: “Tử không làm thơ mà bị thơ làm”. (Thơ là những “tốc ký” tâm trạng
đang trôi chảy, chuyển biến không ngừng, dứt gãy không ngừng). Mà đã làm thơ
trong tâm trạng bất định như thế thì vấn đề cảm nhận thời gian của các nhà thơ
cũng không còn tuân theo logic tuần tự trước – sau thông thường nữa. Chẳng hạn,
ở bài Đây thôn Vĩ Dạ, có ba khổ thơ. Ở khổ một, thi nhân đang hồi tưởng, đang
say sưa “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”, đang trầm trồ với vẻ đẹp “mướt xanh
như ngọc” của “vườn ai” và khuôn “mặt chữ điền” phúc hậu thấp thoáng sau khóm
trúc thì vụt một cái, đến khổ hai là cảnh đêm trăng, sông trăng với mặc cảm
chia lìa, lỡ làng của “thuyền tình”, “có chở trăng về kịp tối nay?”. Đến khổ
ba, lại thoắt hiện lên cảnh sắc âm u, mờ ảo “sương khói” với thời gian mơ hồ. Cả
không gian “ngoài kia” (xứ Huế) và “ở đây” (Quy Nhơn), buổi bình minh và đêm đến
cứ nhập nhòa trong tâm tưởng nhà thơ.
Cũng như thế, ở bài Mùa xuân chín, thi nhân
đang đầy hứng khởi với cảnh sắc mùa xuân trong hiện tại:
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
Thì đột nhiên lại ám ảnh bởi
một tương lai chia lìa, tan cuộc:
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi
Đối với Chế Lan Viên và Bích Khê cũng vậy. Thời
gian đột biến, bất ngờ, đứt gãy, nhảy cóc thường xuyên xuất hiện trong Điêu
tàn, Tinh hoa và Tinh huyết. Thời gian vận động giữa cõi thực và cõi mộng thường
bất ngờ, đột ngột:
- Tiếng gà bỗng từ đâu vang
dội
Hồn yêu tinh sực tỉnh giấc
mơ nồng
Và vội vã trở về mồ u tối
Quên làn xương trong cỏ đắm
sương trong
(Chế Lan Viên – Xương khô)
- Lời chưa dứt bóng đêm đà vụt
biến
Tình thưa nồng đã sấp phải
phôi pha
Trên trần gian vầng ô kia đã
đến
Gỡ hồn nàng ra khỏi mảnh hồn
ta
(Chế Lan Viên – Đêm tàn )
Bỗng khúc dương cầm nấc tiếng
thu
Bỗng đôi mắt ngọc hiện xanh
mờ
Và châu và báu và thanh khí
Nức nở tan thành vạn giọt
thơ
(Bích Khê – Bản đàn thơ)
Nhịp điệu thời gian của các thi sĩ Trường thơ
loạn dường như có sự truy đuổi gấp gáp. Chẳng thế mà ở thơ của họ thường xuất
hiện khá nhiều từ ngữ diễn tả các cung bậc của tâm trạng dồn dập như: đuổi, chạy
theo, bắt, kìm, mau, cho mau, vụt, thoắt, bỗng,…
- Lòng ta rào rạt như làn
sóng
Tay ngoắt đám mây dừng lại
ngay
Mây vốn hơi sương mà đọng lại
Mau bay vào cuống họng ta
đây
(Hàn Mặc Tử - Tiếng vang)
- Đem mau đây chiếc sọ dừa ứ
huyết
Chiếc xương khô rợn trắng
khí tinh anh
Và rót mau trong hồn ta tê
liệt
Những nguồn thơ rồ dại hỡi
yêu tinh
(Chế Lan Viên – Điệu nhạc điên cuồng)
- Bỗng khúc dương cầm nấc tiếng
thu
Bỗng đôi mắt ngọc hiện xanh
mờ
Và châu và báu và thanh khí
Thoắt đưa ta về với nẻo thơ
(Bích Khê – Đây bản đàn thơ)
Trên đây chúng tôi đã tìm hiều về những nét
tương đồng của ba thi sĩ tiêu biểu nhất trong Trường thơ loạn. Tuy nhiên, xét về
phương diện thời gian nghệ thuật, ba thi sĩ này lại có những điểm khác biệt.
Điểm khác biệt thứ nhất, thời gian trong thơ
Hàn có sự đối lập gay gắt giữa sáng và tối, giữa ngày và đêm. Nếu ở tập Gái quê
có nhiều bài thơ diễn tả ban ngày với nhiều nắng: “nắng mới”, “nắng chang
chang”, “nắng lao xao”,… thì trái lại, từ tập Thơ điên trở đi, phần lớn thời
gian lại nghiêng hẳn về đêm với nhiều trăng. Chính bóng đêm và ánh trăng đủ
hình đủ dạng, đủ màu này mới tương xứng với những cung bậc cảm xúc tăm tối, cô
đơn u buồn, đau thương và ước mơ giải thoát thực tại của Hàn. Đêm trăng vừa hóa
giải đau thương vừa là cõi để cho hồn tha hồ vùng vẫy, thăng hoa vào cõi vĩnh hằng.
Chỉ có trăng sao là bất diệt
Cái gì hết thảy sẽ đi qua
Trong khi đó, trong thơ Chế tuyệt đại bộ phận
thời gian là bóng đêm u tối: đêm mờ, đêm sâu, đêm sầu, đêm hư – vô, bóng tối,
đêm xuân sầu, đêm tàn,… Đó cũng chính là thời gian thích hợp nhất để bóng ma Hời,
hồn Yêu Tinh sống dậy và tâm tình với thi nhân.
Điểm khác biệt thứ hai, trong bốn mùa xuân – hạ
- thu – đông của một năm, nếu Hàn Mặc Tử là người yêu nhất mùa xuân (“mùa xuân
chín”, “xuân như ý”, “xuân đầu tiên”, “cưới xuân cưới vợ”) thì Bích Khê lại là
người yêu nhất mùa thu mặc dù đó có thể là thu đau thương (“Mỗi mùa thu ôm ấp một
niềm thương”), thu buồn (“chụp hồn ma than vãn giữa đêm thu”), thu gầy (“Như
hoa mảnh khảnh xác thu gầy”), nhạc thu đau thương (“Bỗng khúc dương cầm nấc tiếng
thu”), màu thu đẫm tình (“Trời lam nhung ứ đặc tình thu”). Trong khi đó, Chế
Lan Viên công khai cự tuyệt cả bốn mùa, ngay cả mùa xuân tươi đẹp nhất:
Tôi có chờ đâu, có đợi đâu
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu…
Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng
Với cả hoa tươi muôn cánh rã
Về đây đem chắn nẻo xuân sang
(Xuân)
Và ở đỉnh cao của chán nản, tuyệt vọng, Chế
Lan Viên đã phủ định ba chiều của thời gian:
Cả dĩ vãng là chuỗi mồ vô tận
Cả tương lai là chuỗi huyệt chưa thành
Và hiện tại biết cùng chăng hỡi bạn
Cũng đương chôn lặng lẽ tuổi ngày xanh
(Những nấm mồ)
Điểm khác biệt thứ ba, trong khi Chế Lan Viên
quyết liệt phủ nhận cả ba chiều của thời gian, biến thời gian trở thành hư vô
thì Hàn Mặc Tử và Bích Khê lại hướng về thời gian vĩnh hằng của cõi tâm linh,
đó là thời gian của cõi trời vô thủy vô chung, là thời gian hằng cửu nơi các
nàng Tiên từng được hưởng hoan lạc vô biên của Năm muôn năm, Trời muôn trời” Với
Bích Khê, đó là thời gian “Hồn tôi đã thoát để tiêu dao”, là thời gian ở
“chốn Kim Tinh, chốn Lưu Ly, hội Đào Tiên, Nơi Ngọc Nữ, nơi thanh khí”, là nơi
Xuân Hương, Thôi Hộ, Lý Bạch từng sống thuở nào… Đó là nơi thời gian ngừng trôi
chảy để thi nhân sống mãi trong cõi trời đầy ánh sáng hào quang, đầy nhạc mê hồn,
đầy hương thơm ngào ngạt. Với Hàn Mặc Tử, đó là thời gian “vô thủy vô chung” ở
“xứ say mơ, chốn Phượng Trì, Cung Quế, Cung Quảng Hàn”, là cõi của các nàng
Tiên đi lễ hội… Đó là thời gian vĩnh hằng của “mùa xuân vô cùng đến ngàn năm ơn
phước, là phong vị thái hòa của năm muôn năm, trời muôn trời trên châu lưu thượng
tầng thanh khí, bàng bạc cả dải Hà Sa chen lấn vô tận tâm hồn tạo vật” (Xuân
như ý). Đó là thời gian của ước mơ, của khát vọng tâm linh tôn giáo sâu thẳm.
Và ở khung trời tâm linh ấy, các thi sĩ tin rằng họ sẽ trường cửu:
Ta sống mãi với trăng sao, gấm vóc
Trong nắng thơm, trong tiếng nhạc thần bay
(Hàn Mặc Tử - Trường thọ).
KẾT LUẬN
1. Chỉ sau một khoảng thời
gian ngắn ngủi gần mười năm tồn tại, Trường thơ loạn Bình Định đã tạo ra được
những vầng hào quang khác thường, rực rỡ tỏa sáng trên thi đàn Việt Nam đương
thời. Bằng những nỗ lực phi thường, ba thi nhân tiêu biểu nhất của trường thơ
này đã có những đóng góp quan trọng vào cuộc cách mạng thi ca của phong trào
Thơ Mới 1932 – 1945, góp phần đưa văn học dân tộc tiến nhanh trên con đường hiện
đại hóa. Nếu giả thiết không có khu vườn thơ Loạn, thì Thơ Mới vĩnh viễn chỉ nằm
gọn trong phạm vi, khuôn khổ của thơ lãng mạn thuần túy chứ không thể nào xé
rào vươn tới vườn thơ tượng trưng, siêu thực. Nói cách khác, nhờ có thơ Loạn mà
khung trời Thơ Mới đã được mở ra “rộng rinh không bờ bến” như Hàn Mặc Tử từng ước
vọng. Dường như Trường thơ loạn đã in đậm lại bản sắc độc đáo, phong phú của miền
đất Quy Nhơn, Bình Định với thiên nhiên sơn thủy hữu tình, với đủ các truyền thống
lịch sử - văn hóa của người Việt, người Chăm, với các luồng giao lưu tư tưởng
phương Đông – phương Tây, Phật giáo – Đạo giáo và Thiên chúa giáo. Và cuối
cùng, Trường thơ loạn đã góp phần quan trọng khiến người đời phong tặng cho
Bình Định không chỉ là nơi đất võ mà còn có “trời văn”, khiến Quy Nhơn trở
thành một “Thành phố thi ca”. Người Quy Nhơn, người Bình Định hoàn toàn có quyề
tự hào về điều đó, bởi trên xứ sở Việt Nam này, có nơi nào được dư luận phong tặng
như vậy đâu (đất võ: khí phách, trời văn: tâm hồn).
2. Một trong những đặc trưng
và cũng là thành công nổi bật nhất của các thi nhân Trường thơ loạn là đã kết hợp
được một cách hài hòa và độc đáo chất đời và chất đạo trong thơ. Thực chất đây
là mối quan hệ mật thiết, hữu cơ giữa nghệ thuật, hiện thực và tôn giáo, giữa
lý trí, tình cảm và tâm linh. Đã có khá nhiều nhà nghiên cứu phê bình văn học
tranh luận, thậm chí “tranh chấp” Hàn Mặc Tử cũng như Chế Lan Viên, Bích Khê
thuộc tôn giáo nào. Đối với các thi nhân của Trường thơ loạn, các tôn giáo:
Thiên chúa giáo, Phật giáo, Đạo giáo vừa là đức tin thiêng liêng nhưng quan trọng
hơn đó chính là động lực mạnh mẽ khơi nguồn cho sáng tạo thi ca. Từ cảm hứng về
hiện thực cuộc đời kết hợp với cảm hứng về thân phận đau thương, các thi sĩ Trường
thơ loạn đã vươn tới cảm hứng về Đức Chúa Trời, về thế giới Phục Sinh khải huyền,
cõi vĩnh hằng Niết Bàn và chốn Đào Nguyên… Hành trình thơ này của Trường thơ loạn
đã đi một khoảng rất dài nhưng rất nhanh chóng từ thơ cổ điển sang thơ lãng mạn
và cuối cùng là tượng trưng, siêu thực theo kiểu phương Tây.
3. Một đặc sắc nữa cũng cần
được khẳng định: các thi sĩ của Trường thơ loạn đã có sự cách tân táo bạo về
quan niệm nghệ thuật (tóm tắt: “Thi sĩ là những kẻ khác người, khác thường để
làm ra sự phi thường; thơ chính là hoa trái của đau thương, là tận cùng của niềm
hoan lạc”…). Do đó, các thi nhân độc đáo này đã thay thế mô hình thi sĩ lãng mạn
mộng mơ, đẫm tình bằng mô hình thi sĩ khác thường – khác thường đến mức cực
đoan, kì dị.
Những quan niệm nghệ thuật
“độc nhất vô nhị” ấy được tích hợp với tư duy và cảm xúc thơ tôn giáo đã sản
sinh ra những không gian nghệ thuật đôc đáo và lạ lùng của Trường thơ loạn. Từ
không gian trần thế vừa tươi sáng vừa u sầu, các thi sĩ thơ Loạn đã mở ra nhiều
không gian mới: không gian của Âm phủ - huyệt mộ kinh dị, không gian của vũ trụ
sâu thẳm, bao la tràn ngập ánh sáng, âm thanh, sắc màu, hương thơm… Những
khung trời mới ấy là nơi các thi nhân thỏa sức vẫy vùng cảm xúc tuôn
trào, mãnh liệt; là nơi quên đi bao đau thương của cuộc đời và số phận bi kịch.
Đó là không gian giải thoát của những “thi sĩ phi thường”.
4. Và cũng là một hệ quả tất
yếu, thời gian nghệ thuật của các thi nhân Trường thơ loạn không thể là thứ thời
gian bình thường, tuần tự theo logic thông thường. Các thi nhân của Trường thơ
loạn đã đắm chìm vào thời gian quá khứ xa xăm (hoặc là dĩ vãng bi hận của dân tộc
Chiêm Thành, hoặc là dĩ vãng của những cõi huyền diệu, tôn giáo như thời Đao
Ly, Đâu Xuất, Cực lạc, Kim Tinh, Ngọc Nữ, Kim Sa, Nga My,… hoặc là dĩ vãng của
những nhân vật sử sách xa xưa như Lý Bạch, Thôi Hiệu, Hồ Xuân Hương, Lưu Nguyễn,…).
Và sau khi tàn những giấc mộng, họ lại trở về với cõi trần thế đau thương, bế tắc,
tuyệt vọng. Thời gian lúc này thường dồn dập truy đuổi các thi nhân. Cõi thực
và cõi mơ thường nhập nhòa, bất định trong tâm tưởng, vì vậy thời gian của các
cung bậc tâm trạng thường đột biến, bất ngờ, gấp khúc. Đó là dòng chảy không ngừng
chắp nối của cá ý thức và vô thức. Và cuối cùng, các thi nhân của Trường thơ loạn
lại vươn tới không gian huyền diệu, kì ảo với thời gian vĩnh hằng “vô thủy vô
chung” ở miền cực lạc. Đó cũng là thời gian giải thoát đau thương của những thi
sĩ “điên”, thi sĩ “thần kinh”.
Trải qua những giai đoạn
thăng trầm của phong trào Thơ Mới, Trường thơ loạn Bình Định có lúc được ngợi
ca, có khi lại bị phủ nhận, bị chỉ trích gay gắt bởi đây là một hiện tượng văn
học đầy phức tạp, bí ẩn. Và trong quá trình đổi mới của đất nước, của văn học
(nhất là quá trình mở cửa giao lưu rộng rãi với văn học phương Tây), ngày nay
Trường thơ loạn Bình Định đang dần dần trở lại giá trị, vị trí đích thực của
mình. Ba thi sĩ độc đáo có một không hai (Hàn– Chế - Bích) của phong trào Thơ
Mới và của cả nền thi ca Việt Nam đang ngày càng được giới nghiên cứu – phê
bình văn học và công chúng yêu thơ khẳng định, đề cao.
Có thể nói, các thi sĩ của
Trường thơ loạn Bình Định như những con trai dưới đáy bể âm thầm kết tinh những
đau thương của mình để dâng hiến cho đời những hạt ngọc thơ. Tình bạn chân
tình, thắm thiết, vô tư cùng với những nỗ lực sáng tạo phi thường vượt lên số
phận bi kịch của họ mãi mãi là những bài học quý giá cho các thế hệ yêu thơ hôm
nay và mai sau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh, Chế Lan Viên
– về tác gia, tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2000.
2. Lại Nguyên Ân, Thơ Mới
1932 – 1945, tác giả và tác phẩm, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1999.
3. Nguyễn Bao, Xuân thu nhã
tập, NXB Văn học, Hà Nội, 1991.
4. Phan Canh, Thi ca Việt
Nam thời tiền chiến, NXB Đồng Nai, 1999.
5. Phan Cự Đệ, Phong trào
Thơ Mới 1932 – 1945, NXB KHXH, Hà Nội, 1996 (Tái bản).
6. Phan Cự Đệ, Hàn Mặc Tử -
phê bình và tưởng niệm, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998.
7. Hà Minh Đức, Thơ và mấy vấn
đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB KHXH, Hà Nội, 1974.
8. Hà Minh Đức, Điêu tàn và
tâm hồn thơ ca Lan Viên, TCVH số 10/1996.
9. Hoàng Diệp, Hàn Mặc Tử,
NXB Khai Trí, Sài Gòn, 1969.
10. Hoàng Diệp, Chế
Lan Viên, NXB Khai Trí, Sài Gòn, 1969.
11. Xuân Diệu, Thơ của
người, Báo Ngày nay, ngày 07/08/1938.
12. Xuân Diệu (tuyển tập),
NXB Văn học, Hà Nội, 1982.
13. Trần Thanh Địch,
Những kỉ niệm về Hàn Mặc Tử, Báo Người mới ngày 23/11/1940.
14. Trần Thanh Địch,
Trăng – hồn – chiêm bao với Hàn Mặc Tử, TC Kiến thức ngày nay, số 97/1969.
15. Nguyễn Mộng Giác,
Hàn Mặc Tử và sự sáng tạo cuồng nộ, TC Nhận thức, số 2/1964.
16. Quách Giao, Đọc
tuyển “Hàn Mặc Tử, anh tôi”, Bách khoa văn học, số 2/1970.
17. Bích Hà, Hàn Mặc Tử,
một cá tính sáng tạo độc đáo, NXB Hội nhà văn, Hà Nội 2006.
18. Hồ Thế Hà, Điêu
tàn, niềm bi hận của Chế Lan Viên, NXB Văn học, Hà Nội, 2005.
19. Hồ Thế Hà, Thế giới
nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, NXB Văn học, Hà Nội, 2005.
20. Trần Mạnh Hảo, Chế Lan
Viên và ba niềm sửng sốt, Văn hóa nghệ thuật Công an số 6/1999.
21. Hoàng Ngọc Hiến, Tiếp cận
cái siêu trong thơ Hàn Mặc Tử, Báo Lao động chủ nhật, 09/12/1990.
22. Phạm Hổ, Hàn Mặc Tử và
những nhà thơ trường Quốc học Quy Nhơn, Báo Văn nghệ ngày 22/02/1992.
23. Nguyễn Xuân Hoàng, Nỗi
khắc khoải siêu hình trong thơ Hàn Mặc Tử, TC Văn số 7/1967.
24. Đoàn Trọng Huy, Nghệ thuật
thơ Chế Lan Viên, NXB Đại học sư phạm Hà Nội, 2006.
25. Lê Đình Kỵ, Thơ mới
– những bước thăng trầm, NXB TP.HCM, 1991.
26. Nguyện Thụy Kha, Hàn Mặc
Tử, thi sĩ đồng trinh, NXB Đà Nẵng, 1995.
27. Phong Lan, Chế Lan Viên,
người làm vườn vĩnh cửu, NXB Hội nhà văn, 1995.
28. Mã Giang Lân, Hàn Mặc Tử,
thơ và lời bình, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1999.
29. Thanh Lãng, Bảy lược đồ
văn học Việt Nam, NXB Trình bày, Sài Gòn, 1967
30. Nguyễn Tấn Long, Việt
Nam thi nhân tiền chiến, (Quyển thượng, trung, hạ), NXB Văn học, Hà Nội, 1996
(Tái bản).
31. Lê Hoài Nam, Những đóng
góp của Bích Khê vào nên thơ ca hiện đại Việt Nam (In trong sách Khoa Ngữ văn,
ĐH Quy Nhơn 30 năm nghiên cứu và giảng dạy, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007).
32. Hoàng Trọng Miên, Thơ
Hàn Mặc Tử, báo Người Mới, ngày 23/11/1940.
33. Nhiều tác giả, 70 năm đọc
thơ Bích Khê, NXB Văn học, Hà Nội, 2004.
34. Nhiều tác giả, Đến
với thơ Chế Lan Viên, NXB Thanh niên, Hà Nội, 2000.
35. Nguyễn Thanh Mừng, Bích
Khê, tinh hoa và tinh huyết, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1992.
36. Phùng Quý Nhâm, Đặc
trưng thơ Hàn Mặc Tử, TC Kiến thức ngày nay số 47.
37. Vương Trí Nhàn, Hàn Mặc
Tử, hôm qua và hôm nay, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1995.
38. Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện
đại, NXB KHXH, Hà Nội, 1989 (Tái bản).
39. Thế Phong, Hàn Mặc Tử,
nhà thơ siêu thoát, NXB Đồng Nai, 1998.
40. Phạm Văn Sĩ, Về tư tưởng
văn học phương Tây hiện đại, NXB ĐHVTHCN, Hà Nội, 1986.
41. Vũ Tiến Quỳnh, Phê bình
bình luận văn học Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, NXB Tổng hợp Khánh Hòa, 1991.
42. Trần Đình Sử, Những thế
giới nghệ thuật thơ, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997.
43. Quách Tấn, Đôi nét về
Hàn Mặc Tử, Báo văn ngày 07/01/1967.
44. Hoài Thanh – Hoài Chân,
Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, 1998 (tái bản).
45. Nguyễn Bá Thành, Thơ Chế
Lan Viên với phong cách suy tưởng, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999.
46. Đỗ Lai Thúy, Con mắt
thơ, NXB Lao động, Hà Nội, 1992.
47. Võ Long Tê, Kinh nghiệm
thơ và hành trình tinh thần của Hàn Mặc Tử, NXB Khai Trí, Sài Gòn, 1971.
48. Đặng Tiến, Đức tin trong
thơ Hàn Mặc Tử, Báo văn ngày 01/06/1971.
49. Nguyễn Bá Tín, Hàn Mặc tử,
anh tôi, NXB TP.HCM, 1991.
50. Trần Thị Huyền Trang,
Hàn Mặc Tử, hương thơm và mật đắng, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1991.
51. Đào Quốc Toàn, Nhóm thơ
Bình Định và trường thơ Bình Định, Báo Văn nghệ TP.HCM số 103, ngày 10/08/1993.
52. Phạm Xuân Tuyển, Đi tìm
chân dung Hàn Mặc Tử, NXB Văn học, Hà Nội, 1997.
53. Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử,
anh là ai? (Lời giới thiệu tuyển tập thơ Hàn Mặc tử), NXB Văn học, Hà Nội,
1987.
54. Nguyễn Minh Vỹ, Con người
Hàn Mặc Tử qua thơ anh, TC Nha Trang, số 5/1994.
TÁC PHẨM
1. Bích Khê, Tinh huyết, NXB
Hội nhà văn, Hà Nội 1995.
2. Bích Khê, Tinh hoa, NXB Hội
nhà văn, Hà Nội 1995.
3. Thơ Bích Khê, Sở văn hóa
thông tin Nghĩa Bình, 1988.
4. Hàn Mặc Tử, Gái quê, NXB
Hội nhà văn, Hà Nội, 2012.
5. Thơ Hàn Mặc Tử, NXB Văn học,
Hà Nội, 1987.
6. Thơ Hàn Mặc Tử (tuyển tập),
NXB Đồng Nai, 1995.
7. Chế Lan Viên, Điêu tàn,
NXB Hội nhà văn, Hà Nội 1992.
8. Thơ Chế Lan Viên (tuyển tập),
NXB Văn học, Hà Nội, 1986
NHỮNG BÀI NGHIÊN CỨU CỦA
TÁC GIẢ LIÊN QUAN TRỰC TIẾP ĐẾN ĐỀ TÀI
1. Nguyễn Quốc Khánh, Sự đổi
mới quan niệm thơ của Chế Lan Viên, Thông báo khoa học, ĐH Quy Nhơn số 11/
2000.
2. Nguyễn Quốc Khánh, Mạch
nguồn thơ ca trên quê hương Bình Định (Báo cáo đề dẫn đêm thơ chào mừng
thiên niên kỉ mới, ngày 30/12/2001 do UBND tỉnh Bình Định tổ chức).
3. Nguyễn Quốc Khánh, Trường
thơ loạn, bản sắc và những đóng góp vào phong trào Thơ Mới, Đề tài NCKH cấp Bộ,
đã nghiệm thu năm 2003.
4. Nguyễn Quốc Khánh, Hàn Mặc
Tử, nhà thơ của cõi huyền diệu, Kỷ yếu khoa học kỉ niệm 25 năm thành lập ĐHSP
Quy Nhơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét