Vài nét chân dung Hàn Mặc Tử,
nhà thơ thiên tài của Việt Nam
Có nhiều thi sĩ đưa địa danh vào thơ:
Thôi Hiệu với "Hoàng
Hạc Lâu".
Bà Huyện Thanh Quan "Qua Đèo Ngang"
Nguyễn Nhược Pháp với "Chùa Hương"
Hoàng Cầm "Bên kia sông Đuống"
Nguyên Sa "Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát. Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông..."
Cung Trầm Tưởng "Trời mùa Đông Paris, Suốt đời làm chia ly..."
Du Tử Lê "Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn"
Hàn Mặc Tử (HMT) "Đây Thôn Vỹ Dạ":
Bà Huyện Thanh Quan "Qua Đèo Ngang"
Nguyễn Nhược Pháp với "Chùa Hương"
Hoàng Cầm "Bên kia sông Đuống"
Nguyên Sa "Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát. Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông..."
Cung Trầm Tưởng "Trời mùa Đông Paris, Suốt đời làm chia ly..."
Du Tử Lê "Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn"
Hàn Mặc Tử (HMT) "Đây Thôn Vỹ Dạ":
Sao
anh không về chơi thôn Vỹ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc...
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc...
Qua bài thơ trên, tên tuổi HMT gắn liền
với thôn Vỹ, thôn Vỹ gắn liền với Cố Đô, tất cả gắn liền làm một. Tôi yêu bài
thơ từ lúc còn ở mái trường Trần Bình Trọng, Ninh Hòa. Có một quãng thời gian
dài tôi cứ tưởng HMT là người Huế.
Nguyễn Du tả nhan sắc Thúy Kiều qua Thúy
Vân:
Vân
xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang...
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang...
Thúy Vân đẹp thế, nhưng:
Kiều
càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
So bề tài sắc lại là phần hơn
Hàn Mặc Tử tả "Huế
đẹp Huế thơ" qua thôn
Vỹ Dạ. Dưới ngòi bút của ông Vỹ Dạ trở nên đẹp đẽ thơ mộng lạ thường. Vỹ Dạ,
một địa danh bình thường nằm lặng lẽ bên bờ Hương Giang mà đã đẹp như thế thì
những thắng cảnh khác của Huế như cung vàng điện ngọc, đền miếu lăng tẩm của
một thời vang bóng sẽ còn đẹp đẽ cao sang đến bậc nào?
Hesiod viết: "Một
nửa tốt hơn toàn thể". Ở đây, HMT không viết một nửa hay toàn thể...
nhưng ông viết một nét, một góc rất nhỏ của Huế: "Đây
Thôn Vỹ Dạ!" Nhưng từ
một nét, một góc rất nhỏ HMT đã nói rất nhiều (về Huế). Thiên tài là ở chỗ đó!
Thôn Vỹ giống như trăm nghìn thôn khác
trên quê hương VN, cũng có"thuyền ai đậu
bến, lá trúc, hàng cau" nhưng
thuyền ai, khóm trúc, hoa bắp, hàng cau, bến nước, sông trăng của thôn Vỹ trong
thơ HMT đẹp quá! Đẹp một cách mượt mà óng ả mê ly tình tứ... đẹp như một cảnh "Địa
đàng mơ ước" ở trần
gian. Dưới cái nhìn của HMT cảnh vật dù có tầm thường nhỏ bé đến đâu cũng trở
nên có hồn, sinh động, lớn lao mang sắc hương diệu kỳ như một phép lạ, đẹp và
thơ mộng đến nỗi ai cũng muốn về thăm một lần.
Sao
anh không về chơi thôn Vỹ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên!
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên!
Mở đầu bài thơ, tác giả đã nói bằng trái
tim thiết tha mời gọi: Sao anh không về? Ai không xuyến xao khi nghe những lời
êm ái mặn mà? Hình như trong chúng ta ai cũng có một Thiên Đàng để tưởng nhớ.
Từ khi con người đánh mất Thiên Đàng bơ vơ giữa trần gian thì nỗi nhớ nhung
hoài vọng một ngày trở về càng thêm tha thiết. Qua hình ảnh tuyệt vời Đây Thôn
Vỹ Dạ, HMT muốn dựng lại nơi Đế Đô vàng son (từng là trung tâm điểm của dãy
giang sơn gấm vóc có tên là Việt Nam hình cong chữ S nằm soi mình bên Thái Bình
Dương chạy dài đến tận miền Lục Chân Lạp tiếp giáp với Vịnh Thái Lan) một cảnh
Địa Đàng tràn ngập tình yêu, ánh sáng và tiếng thầm. Ánh sáng chứa chan rạng rỡ
niềm hy vọng, một thứ ánh sáng mới mẻ tinh khiết diệu kỳ long lanh như thủy
tinh và đẹp như ngọc:
Nhìn
nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.
Ánh sáng mềm mại êm ái tưởng như dát bạc
nạm vàng giữa giòng sông trăng huyền ảo mà con đò là mối tình đầu vừa chớm nở,
có khi đó là thứ ánh sáng tâm tưởng thoạt tan thoạt biến trong giấc mơ của kẻ
cô đơn trông ngóng được gặp lại người tình:
Thuyền
ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra.
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra.
Tình yêu nơi khu vườn Vỹ Dạ là một thứ
tình yêu thôi thúc mãnh liệt nhưng cũng rất lãng mạn sương khói mơ hồ:
Ở đây
sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Ai biết tình ai có đậm đà?
Nỗi cô đơn, niềm trông ngóng và sự nôn
nao khao khát đợi chờ của một trái tim rực lửa yêu đương đã lên tới tột độ tột
cùng tưởng như không thể nào đợi chờ lâu hơn được nữa:
Có chở
trăng về kịp tối nay?
Chữ "kịp?" đặt trong thể nghi
vấn ở đây là một "chữ thần" có khả năng diễn tả trọn vẹn tâm trạng
bồn chồn của kẻ đang yêu, đang khao khát tình yêu mãnh liệt. Suốt hằng ngàn năm
trong thơ ca VN lần đầu tiên xuất hiện Hồ Xuân Hương, rồi HMT, hai thi sĩ chân
thành can đảm đã dám vượt qua bức tường luân lý đạo đức kìm hãm, để nói lên
tiếng nói của trái tim mà lý trí đã bao đời nguyền rủa, những điều rất thật
nhưng úy kỵ của con người đã hiện hữu từ thời Adam/Eva đến nay, đó là: Tính Dục.
Trái tim yêu đương đang độ lên men nồng
cháy như một thứ trái cây rục rĩu chín mềm trong thơ Hồ Xuân Hương: "Một
trái trăng thu chín mõm mòm"nay trở nên đắm đuối dục tình trong một
bài thơ khác của HMT:
"Trăng
nằm sóng soải trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi (...)
Ô kìa bóng nguyệt trần truồng lắm!
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe
(Bẽn lẽn)
Đợi gió đông về để lả lơi (...)
Ô kìa bóng nguyệt trần truồng lắm!
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe
(Bẽn lẽn)
Nếu tính dục thoáng hiện bóng bẩy trong
thơ Hồ Xuân Hương đã làm mới mẻ tăng thêm sức sống cho dòng thơ ca cổ điển, thì
tính dục hối hả trong thơ HMT cũng làm cho dòng thơ ca tiền chiến thêm quyến rũ
ngất ngây.
Nguồn ánh sáng lung linh trong Đây Thôn
Vỹ Dạ trở nên rực rỡ trong Mùa Xuân Chín:
"Chị
ấy năm nay còn gánh thóc,
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang"
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang"
và trở thành chói lọi hào quang trong
thế giới tâm linh kỳ bí của Xuân Như Ý:
Như
song lộc triều nguyên: ơn phước cả
Dâng dâng cao thần nhạc sáng hơn trăng
Thơm tho bay cho đến cõi Thiên đàng...
(Ave Maria)
Dâng dâng cao thần nhạc sáng hơn trăng
Thơm tho bay cho đến cõi Thiên đàng...
(Ave Maria)
Những tiếng thì thầm "Sao
anh không về?", "Có chở trăng về kịp tối nay?"đã được lặp
lại nhân lên thành trăm thứ tiếng lòng trong bài Bẽn Lẽn:
Trong
khóm vi lau rào rạt mãi:
Tiếng lòng ai nói sao im đi?
Tiếng lòng ai nói sao im đi?
Đây Thôn Vỹ Dạ đầy ngập tình yêu, ánh
sáng và tiếng thầm, hay nói một cách khác, tình yêu ánh sáng và tiếng thầm đã
phối hợp với nhau để làm nên sự kỳ diệu cho Đây Thôn Vỹ Dạ cũng như cho toàn bộ
tác phẩm của HMT về mặt bút pháp. Từ Gái Quê thơ HMT như con chim Phượng Hoàng
xoải cánh bay vào thế giới siêu hình siêu thực qua những Thơ Điên, Xuân Như Ý,
Thượng Thanh Khí, Cẩm Châu Duyên:
Thơ
tôi bay suốt một đời chưa thấu
Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu
Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang
Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu
Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang
Tình yêu được thăng hoa thành tình yêu
Thiên Chúa, ánh sáng được thăng hoa thành ánh sáng Triều Thiên và tiếng thầm
được thăng hoa thành muôn tiếng Kinh Cầu:
Vì
muôn kinh dồn dập cõi thơm tho
Thêm nghĩa lý sáng trưng như thất bảo
Ta chắp hai tay lạy quỳ hoan hảo
Ngửa trông cao, cầu nguyện trắng không gian
Để vừa dâng vừa hiệp bốn mùa xuân
Nở một lượt giàu sang hơn Thượng Đế
(Đêm Xuân Cầu Nguyện)
Thêm nghĩa lý sáng trưng như thất bảo
Ta chắp hai tay lạy quỳ hoan hảo
Ngửa trông cao, cầu nguyện trắng không gian
Để vừa dâng vừa hiệp bốn mùa xuân
Nở một lượt giàu sang hơn Thượng Đế
(Đêm Xuân Cầu Nguyện)
Tình yêu, ánh sáng, và tiếng thầm lúc
bấy giờ đã hoàn toàn "xuất thế gian" để hòa nhập vào thế giới diệu kỳ
bất khả tư nghị. Đó là cõi Thánh nữ, Thiên đàng, cũng là cõi Thơ Mầu nhiệm:
Người
có nghe xôn xao muôn tinh tú
Người có nghe náo động cả muôn trời?
Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời
Để ca tụng bằng hương hoa sáng láng,
Bằng tràng hạt, bằng Sao Mai chiếu rạng
Một đêm xuân là rất đỗi anh linh?
(Ave Maria)
Người có nghe náo động cả muôn trời?
Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời
Để ca tụng bằng hương hoa sáng láng,
Bằng tràng hạt, bằng Sao Mai chiếu rạng
Một đêm xuân là rất đỗi anh linh?
(Ave Maria)
Đêm-Xuân-Rất-Đỗi-Anh-Linh chỉ có trong
Mùa Xuân Vĩnh Cửu mà người trần tục không thể nào biết được:
- Chàng ơi! Chàng ơi!, sự lạ đêm qua!
Mùa xuân tới, mà không ai biết cả...
(Ra đời)
- Chàng ơi! Chàng ơi!, sự lạ đêm qua!
Mùa xuân tới, mà không ai biết cả...
(Ra đời)
Vì Sự-Lạ-Đêm-Qua, mà phải cần đến những
Thi-sĩ-Thần-Linh để làm nhiệm vụ Thiên sứ báo tin mừng đến muôn người:
Một
chiều xanh- một chiều xanh huyền hoặc
Sáng bao la vây lút cõi thiên không
Sáng bao la vây lút cõi thiên không
HMT đã tự nhận mình không phải là thi sĩ
trần gian mình trần mắt thịt:
Tấu
lạy Bà, Bà rất nhiều phép lạ
Ngọc Như Ý vô tri còn biết cả
Huống chi tôi là Thánh thể kết tinh
Tôi ưa nhìn Bắc đẩu rạng bình minh.
Ngọc Như Ý vô tri còn biết cả
Huống chi tôi là Thánh thể kết tinh
Tôi ưa nhìn Bắc đẩu rạng bình minh.
Khởi đi từ Tình Quê, Bẽn Lẽn, Đây Thôn
Vỹ Dạ... nguồn thơ HMT phong phú như dòng sông mở ra đại dương mênh mông bát
ngát, càng ngày càng xa bờ hiện thực, bến lãng mạn... để tiến vào thế giới
tượng trưng, trừu tượng, siêu thực, mà người thơ là một thứ Sứ giả mang Thông
điệp Tình yêu của Thượng Đế đến với nhân loại. Những thi tập Hương Thơm, Mật
Đắng, Máu Cuồng Và Hồn Điên, Xuân Như Ý, Thượng Thanh Khí, khi ra đời, người
đương thời không hiểu đã buông lời nguyền rủa: "Thơ
với thẩn gì! toàn nói nhảm." Nhưng
rồi thời gian đã công nhận đó là những hạt trân châu quý hiếm trong Thơ ca Tiền
chiến, đúng như khi xưa Chế Lan Viên đã hùng hồn khẳng định, và ngày nay Phạm
Duy đã phổ thành Trường ca.
HMT là một hiện tượng lạ lùng trong Thơ
Tiền Chiến. Ông làm thơ từ năm 16 tuổi, lúc mất chỉ vừa tròn 28. Bắt đầu sự
nghiệp bằng thể thơ Đường luật, vốn là thể thơ vô vàn khó khăn về luật tắc,
nhưng dưới tay HMT vẫn mượt mà tươi mới như thường:
Vì thế, được chí sĩ Phan Bội Châu, vốn
xuất thân Nho học từng đỗ Đầu Xứ đã nhiệt liệt khen ngợi: "Từ
ngày về nước đến nay tôi chưa gặp được bài nào hay đến thế..." Sau này gia nhập Phong trào Thơ Mới
với một nguồn thơ đầy sáng tạo, HMT cũng được Hoài Thanh hết lời ngợi khen: "Một
nguồn thơ rào rạt và lạ lùng". Hoài Thanh đã bỏ ra một tháng trời để
nghiên cứu toàn bộ thơ HMT đến "mệt lã", và công nhận "Vườn thơ
Hàn rộng rinh không bờ không bến càng đi xa càng ớn lạnh." đúng như HMT đã
viết trong lời tựa cho tập "Thơ Điên" của mình. Hoài Thanh đã dành
cho HMT 21 trang nhận định và trích dẫn thơ, đó là số trang cao nhất trong sách
của ông, cao hơn cả các nhà thơ lừng danh hàng đầu lúc bấy giờ (Lưu trọng Lư và
Xuân Diệu có số trang ngang nhau 19 trang, Thế Lữ 15 trang, Huy Cận 13 trang,
Chế Lan Viên 11 trang, Quách Tấn 6 trang) vậy mà ông cho biết "còn
muốn trích ít bài nữa".
Người đầu tiên khám phá thiên tài HMT là
Chế Lan Viên, đăng trên báo Người Mới số 5, ra ngày 23-11-1940:
"Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kỳ này, chút gì đáng kể đó là Hàn Mặc Tử."
"Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kỳ này, chút gì đáng kể đó là Hàn Mặc Tử."
Một năm sau, trong cuốn "Hàn Mặc
Tử" xuất bản (1941), tác giả Trần Thanh Mại cũng tỏ ra thán phục HMT, cho
rằng thơ HMT có nhiều ý tưởng và hình ảnh mới lạ, ảnh hưởng sâu đậm trường phái
tượng trưng của Mallarmé bên Pháp quan niệm thơ phải đạt tới cái mức thuần túy,
bí hiểm, phi thường, khó hiểu, bằng cách đổi cả mẹo luật, tiếng nói cũ, thành
những dấu hiệu, những nhạc điệu kỳ dị.
Trong ngày giỗ lần thứ 50 của HMT tổ
chức tại Paris ngày 11-11-1990, học giả Thái Văn Kiểm nhận xét:
"Nhà
thơ của chúng ta bẩm thụ được cái thiên tư cao quý là nhìn thấy được cái hư ảo,
cảm được cái vô lượng và nghe được sự yên lặng của vô thủy vô chung. Nơi đây
vang dội những lời cầu nguyện, những hương lạ mê ly, những âm thanh kỳ diệu,
tất cả chìm ngập trong bể hào quang và trong tinh hoa của thi vị. Vì theo Hàn
Mặc Tử , thi ca là một sáng tạo thuần túy của Thượng Đế, và để báo đáp công ơn
đó, thi sĩ phải là kẻ xướng Thánh ca, cảm thông với Thượng Đế, ca ngợi chân
thành sự nghiệp thiêng liêng và vinh quang bất diệt của Người. Thi sĩ là gạch
nối , là trung gian ưu tú giữa Hóa Công và nhân loại."
Năm 1994, "Trường
Ca Hàn Mặc Tử" của Phạm
Duy ra đời phổ từ thơ HMT (gồm các bài: Tình quê, Đây Thôn Vỹ Dạ, Đà Lạt Trăng
Mờ, Trăng Sao Rớt Rụng, Hồn Là Ai, Trút Linh hồn, Lạy Bà Là Đấng Tinh Tuyền
Thánh Vẹn, Ôi Sứ Thần Thiên Chúa Gabriel, Phượng Trì Ôi Phượng Trì). Khi trình
làng Phạm Duy đã thú nhận: "phổ thơ Hàn Mặc Tử khó vô kể, một năm trời vật
lộn với thơ." Một năm trời vật lộn của ông có khác gì một tháng mệt lã của
Hoài Thanh trước kia.
Tóm lại, thời gian đã minh chứng cho
nhận xét đánh giá của Chế Lan Viên, Hoài Thanh về thơ HMT là đúng. Hàn Mặc Tử
là một thiên tài trong nền thơ ca VN và thế giới. Mặc dầu mắc bệnh nan y, bao
năm nằm trên giường bệnh nhìn thân xác, linh hồn từ từ tan rã... bao ngày sống
trong tận cùng nỗi đau thương tuyệt vọng, quằn quại đau đớn... nhưng nhà thơ
vẫn không ngừng sáng tạo ra những vần thơ để gởi đến bè bạn, người thân, cuộc
đời, những lúc đó có ai tin rằng những bài thơ tuyệt tác? Ôi, thật là cảm động
và thán phục biết chừng nào!
2. Vài
Nét Tiểu Sử
Hàn Mặc Tử tên thật Nguyễn Trọng Trí,
sinh năm 1912, mất năm 1940, mới 28 tuổi. Quê Mỹ Lệ, Đồng Hới, Quảng Bình. Tổ
tiên họ Phạm, ông cố Phạm Nhương, ông nội Phạm Bồi, vì liên can quốc sự trốn
vào Thừa Thiên đổi ra họ Nguyễn. Cha Nguyễn Văn Toản, mẹ Nguyễn Thị Duy, anh
Nguyễn Bá Nhân, 2 chị Như Nghĩa, Như Lễ, và 2 em Nguyễn Bá Tín, Nguyễn Bá Hiếu.
Trí học tiểu học ở Quảng Ngãi, khi cha
chết, mẹ dọn về Qui Nhơn, ở đây Trí tập làm thơ Đường luật lúc 16 tuổi lấy bút
hiệu là Minh Duệ Thị. Học trường Qui Nhơn đến năm thứ ba, Mẹ Trí gởi Trí ra Huế
học tại trường dòng Pellerin, chính đất Thần Kinh non nước hữu tình có truyền
thống thơ phú, nơi quy tụ nhiều nhân tài đã ảnh hưởng và mở cánh cửa tư duy trí
tuệ tài hoa thúc đẩy Trí trở thành thi nhân. Trí đăng thơ trên báo Phụ Nữ Tân
Văn, Sài Gòn với bút hiệu Phong Trần. Thời gian này Đông Dương khủng hoảng kinh
tế, gia đình sa sút, không còn điều kiện Trí phải nghỉ học đi làm Sở Đạc Điền
một độ, bị đau rồi mất việc. Vào Nam làm báo ít lâu lại trở về Qui Nhơn, kế đó
mắc bệnh hủi... vào Nhà thương Quy Hòa và mất tại đó.
Khi vào Sài Gòn làm báo Trí lấy bút hiệu
Lệ Thanh (tên làng Mỹ Lệ, chánh quán Tân Thanh ghép lại). Trí chiếm giải nhất
cuộc thi thơ của một câu lạc bộ thơ, bút hiệu Lệ Thanh nổi tiếng từ đó. Trí
cộng tác với báo Trong Khuê Phòng, Đông Dương Tuần Báo, Người Mới. Năm 1936 khi
chủ trương tờ phụ trương văn chương báo Sài Gòn, Trí mới đổi là Hàn Mạc Tử. Hàn
Mạc nghĩa là "Rèm Lạnh". Bạn Trí là Quách Tấn góp ý:
"Tránh
kiếp Phong Trần làm khách Hồng Nhan (Lệ Thanh) lại núp sau Rèm Lạnh (Hàn
Mạc)... Đã có Rèm Lạnh thì nên có thêm một bóng nguyệt nữa mới thật nên thơ."
Trí đồng ý ngay, cầm bút vạch thêm một
vành trăng non trên chữ Mạc, từ đó có bút hiệu Hàn Mặc Tử. Mặc Tử không còn
nghĩa "Rèm Lạnh" nữa, mà có nghĩa là "Bút Mực" (Hàn: Bút,
Mặc: Mực) hiểu theo nghĩa bóng là "Văn Chương". Như vậy, ba chữ Hàn
Mặc Tử có nghĩa là "Khách Văn Chương".
Tập thơ Đường luật mang tên "Lệ
Thanh Thi Tập" có 3 bài Thức Khuya, Chùa Hoang, Gái Ở Chùa được Phan Sào
Nam họa vận lại. Năm 1936 tập thơ Gái Quê xuất bản là một chuyển hướng sang Thơ
Mới (Năm 1932 bài Tình Già của Phan Khôi mở màn cho phong trào Thơ Mới.).
Cuối năm 1936, Trí đi chơi Huế, Đà Nẳng,
Nha Trang, Phan Thiết rồi định vào Sài Gòn tiếp tục làm báo bỗng có dấu hiệu
mắc bệnh hủi. Người nhà cho rằng Trí bị bệnh là do lúc đi làm ở sở Đạc Điền Qui
Nhơn phải băng qua nhiều bãi tha ma lúc mưa giông bị nhiễm khí độc từ mồ mả bốc
lên. Cũng có người cho rằng Trí ra Phan Thiết gặp Mộng Cầm dẫn nhau lên Lầu Ông
Hoàng chơi, mắc mưa vào trú trong một ngôi mộ mới xây bị nhiễm hơi người chết
bốc lên nên bị bệnh. Khi mắc bệnh, Trí thuê một chòi tranh ở Gò Bồi cách Qui
Nhơn 15 km để ở và bắt đầu tuyệt giao với bạn bè.
Cuối năm 1937 gom góp khoảng 50 bài thơ
làm trên giường bệnh được HMT gọi là Thơ Điên (gồm 3 tập Hương Thơm, Mật Đắng,
Máu Cuồng Và Hồn Điên) mang chung một nhan đề: Đau Thương để tặng thân mẫu (một
số bài nói về trăng, một số nói về cõi hồn, một số thuộc các đề tài khác). Tiếp
đến là Xuân Như Ý (gom góp năm1939), Thượng Thanh Khí (gom góp năm 1940).
Mùa hạ 1938, thấy bệnh tình khó qua
khỏi, gia cảnh càng sa sút, HMT sau nhiều lần do dự đã quyết định vào bệnh viện
phong cùi Qui Hòa chữa miễn phí để tránh gánh nặng cho gia đình. Theo họ hàng
thì khi vào đây HMT chỉ mới chớm nổi vài mụn đỏ nho nhỏ trên mặt, bàn tay bắt
đầu cứng khó cầm bút.
3.
Tình Yêu, Tình Bạn
Trong đời tình cảm, những người đẹp gây
những dấu ấn cho HMT là Hoàng Cúc, Mộng Cầm, Mai Đình và Thương Thương. Hoàng
Cúc chỉ là một mở đầu của tiếng gọi con tim, chưa quen thân, chưa hò hẹn gì.
Mộng Cầm gần gũi nhất, sâu đậm nhất, nhưng khi nghe HMT vướng bệnh thì nàng vội
vã lên xe hoa đã làm cho HMT đau khổ xót xa. Mai Đình, người con gái nhân hậu
đã xin được làm vợ để săn sóc, dù HMT từ chối, nàng vẫn ở bên cạnh lo thuốc
thang... Mãi lâu sau khi HMT mất, gia đình hết lời khuyên nhủ, nàng mới chịu đi
lấy chồng, nhưng vẫn xin chồng cho nàng được lập bàn thờ, treo ảnh HMT mãi cho
đến khi nàng mất năm 1999 tại Sài Gòn. Thương Thương chỉ là cái bóng bé nhỏ dịu
dàng từ xa, nhưng đã cho HMT nhiều ý thơ rất đẹp trong Cẩm Châu Duyên. Ngoài
ra, theo Quách Tấn, HMT còn có Lê Thị Ngọc Sương, chị ruột Bích Khê, nhưng mối
tình này chỉ như làn sương mỏng.
Thời tiền chiến, trong làng thơ có nhiều
đôi bạn tri kỷ tuyệt vời như Xuân Diệu- Huy Cận, Huy Thông- Nguyễn Nhược Pháp,
và Nhóm Thơ Bình Định gồm: Quách Tấn, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Yến Lan, Chế Lan
Viên. Bộ ngũ này rất tâm đắc cùng nổi tiếng, cùng có tên trong sách Thi Nhân
Việt Nam, đã có tác phẩm xuất bản, chỉ trừ Yến Lan ghi có 1 tác phẩm sẽ xuất
bản. Quách Tấn lớn tuổi nhất, nên được cả nhóm xem là đại ca. Tình bạn giữa
Quách Tấn và HMT rất gần gũi thân thiết. Chính QT đề nghị HMT đổi chữ Mạc ra
chữ Mặc... Và sau này cũng chính QT đứng ra xây mộ HMT tại Ghềnh Ráng còn lưu
đến ngày nay và xuất bản toàn bộ tác phẩm của HMT. Quách Tấn là một thi sĩ nổi
tiếng ngồi một mình một chiếu trong khuynh hướng thơ cổ điển, được Hoài Thanh
nể phục, về sau (thập niên 60) được Phạm Công Thiện đề cao là một con chim
Phượng Hoàng ở phương Đông. Ngoài 3 thi tập, 2 cuốn sưu khảo, ông còn trên 50
đầu sách chưa xuất bản. Năm 1940 ông có làm bài thơ "Mộng
Thấy Hàn Mặc Tử" in
trong thi tập Mùa Cổ Điển, bài thơ này nói lên tình cảm thắm thiết của ông đối
với người bạn thơ:
Ơi Lệ
Thanh! Ơi Lệ Thanh!
Một giấc trưa nay lại gặp mình .
Nhan sắc châu pha màu phú quý,
Tài hoa bút trổ nét tinh anh.
Rượu tràn thú cũ say sưa chuyện,
Hương tạ trời cao bát ngát tình.
Tôi khóc tôi cười vang cả mộng...
Nhớ thương đưa lạc gió qua mành.
Một giấc trưa nay lại gặp mình .
Nhan sắc châu pha màu phú quý,
Tài hoa bút trổ nét tinh anh.
Rượu tràn thú cũ say sưa chuyện,
Hương tạ trời cao bát ngát tình.
Tôi khóc tôi cười vang cả mộng...
Nhớ thương đưa lạc gió qua mành.
Người bạn thân khác của HMT là Bích Khê,
một thi sĩ tài hoa mệnh bạc thuộc trường phái Thơ tượng trưng, mà Hoài Thanh đã
phê bình: "Tôi đã gặp trong "Tinh Huyết" những câu thơ hay vào
bậc nhất trong thơ Việt Nam". Tinh Huyết là một thi tập của BK. Bài Tỳ Bà
được Phạm Duy phổ nhạc năm 1969. Đề tựa cho thi tập Tinh Huyết, HMT đã viết như
sau:
"Thi
sĩ Bích Khê là người có đôi mắt rất mơ, rất mộng, rất ảo, nhìn vào thực tế thì
sự thực sẽ thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy xô sang địa hạt huyền
diệu... Ở "Tranh Lõa Thể" sự trần truồng dâm đãng đã nhường lại cho ý
vị nên thơ của hương, của nhạc, của trăng, của tuyết."
Người bạn khác của HMT là Yến Lan, có
bài Bến My Lăng nổi tiếng trích trong thi tập Bến My Lăng được Hoài Thanh bình
phẩm: "Không
khí lạ lạ nhưng nhẹ nhàng dễ khiến người ta thích".
Một người bạn khác của HMT là Chế Lan
Viên, người đã từng hết lời ca ngợi thơ HMT. Mới 17 tuổi CLV đã xuất bản thi
tập "Điêu Tàn" được Hoài Thanh đánh giá: "Vong
linh đau khổ của nòi giống họ (Chiêm Thành) đã nhập vào Chế Lan Viên, cho nên
dù không phải là người họ Chế, Chế Lan Viên vẫn là một nhà thơ Chiêm thành.
Quyển Điêu Tàn đã đột ngột xuất hiện ra giữa làng thơ Việt nam như một niềm
kinh dị."
Tóm lại, năm thi tài gặp nhau, mỗi người
mỗi vẻ, mỗi người đều có một chỗ đứng riêng biệt sáng chói trên thi đàn. Sự
xuất hiện và kết hợp giữa họ với nhau từng gây nên một hiện tượng thơ ca vang
dội và độc đáo nhất lúc bấy giờ.
4.
Chân Dung Thật
Suốt nhiều năm qua, cuộc đời và sự
nghiệp thơ ca của HMT đã được dựng thành phim, kịch nói, cải lương, tuồng chèo,
phổ nhạc... Hầu như ai đóng vai HMT cũng được hóa trang hình dạng quái dị, mặt
mũi u nần, tay chân cùi cụt co quắp...
Trong bài viết "Hãy
trả lại chân dung thật cho nhà thơ Hàn Mặc Tử" tác giả Hoàng Hương Trang sau khi đi
nhiều nơi khảo sát, tìm hiểu... đã kết luận chân dung thật của nhà thơ HMT
không đến nỗi tồi tệ như thế mà vẫn: "bình thường, lành lặn."
Thi sĩ Hoàng Hương Trang cho biết, bà có
tham khảo nhiều tài liệu, ảnh chụp còn lưu tại Bệnh Viện Qui Hòa nơi giường
bệnh của HMT năm xưa, cũng như nghe nhiều vị bác sĩ, nữ tu, những nhân chứng
từng sống chung với HMT, họ kể rõ về những ngày cuối cùng của HMT, cả người em
chú bác với HMT từng theo chăm sóc HMT từ lúc mới bị bệnh cho đến lúc mất, cả
những bệnh nhân đến nay vẫn còn sống tuổi khá thọ, (có người đã điều trị 45 năm
hiện còn sống) họ đều cho biết chân dung HMT "vẫn nguyên vẹn, không sứt mẻ, quái gỡ.".
Hàn Mặc Tử - Trần Thiện Thanh - Trúc Mai
Ông Nguyễn văn Xê, bệnh nhân nằm chung
phòng với HMT đã từng viết bài mô tả cái chết của HMT. HMT chỉ bệnh 4 năm. Do
giai đoạn đầu gia đình chạy chữa theo các thầy lang gia truyền bắt ăn uống
kiêng cử làm cơ thể suy nhược, nên khi vào bệnh viện, HMT đã kiệt sức. Nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến cái chết lại là kiết lỵ chứ không phải phong cùi. Thư
Ông Xê còn lưu tại Qui Hòa đề ngày 25-3-1941 viết: "Lúc
bấy giờ trông thân thể nhà thi sĩ thật là thảm thê, tuy mặt mày chàng không bị
chứng bệnh tàn phá đến nỗi nhàu nát, hay hóa nên quái gỡ..." Chính Ông Xê hiện còn sống ở trại Cái
Sắn vẫn nguyên vẹn không sứt mẻ quái gỡ. Hàn Lệ Thu (nhà thơ, vì yêu thơ HMT
mới lấy bút danh đó) nằm bệnh từ năm 16 tuổi tại Qui Hòa đến nay đã ngoài 60
tuổi vẫn nguyên vẹn hình hài, tự nấu nướng giặt giũ lấy. Các nữ tu cho biết
người bệnh chữa trị sớm theo đúng quy cách thì không bị lở loét, vẫn lao động,
có người thọ tới 80, có thể lập gia đình sinh con cái bình thường.
5. Kết
Luận
Bài này viết ra nhầm phác họa một vài
nét chân dung Hàn Mặc Tử từ đời thường cho đến tác phẩm, để chúng ta có một cái
nhìn bao quát về một nhà thơ thiên tài VN, hầu tránh những ngộ nhận, những nhầm
lẫn... có thể xảy ra về HMT.
Với 8 tập thơ, 1 vở kịch thơ, cùng nhiều
bài tiểu luận văn chương của HMTcòn để lại, thật vô cùng quý giá. Những ý thơ
cao siêu, những ngôn ngữ thơ mới lạ mà cả Hoài Thanh lẫn Phạm Duy đều phải bỏ
nhiều thì giờ để nghiên cứu "mệt lã", "khó vô kể" cho thấy
HMT có trình độ hiểu biết uyên thâm, có cái nhìn mới lạ, có cảm nhận siêu phàm
mà người thường khó thể hiểu được.
Đến đây, tôi xin trích một câu trong bài
viết "Kinh Vật Lộn và Phép Vượt Qua Trường Ca Hàn Mặc Tử của Phạm
Duy" của Linh mục Trần Cao Tường sau đây để thay cho phần kết luận bài này:
"Hàn
Mặc Tử, tên thật là Phanxicô Nguyễn Trọng Trí, một nhà thơ Thiên tài trong nền
Văn học Việt Nam và là một nhà thần bí theo đạo Chúa, diễn được những huyền
nhiệm vượt qua ngôn ngữ loài người."
Tài
liệu tham khảo
- "Thi Nhân Việt Nam" của Hoài Thanh, Hoài Chân, 1967
- "Kinh Vật Lộn Và Phép Vượt Qua Trường Ca Hàn Mặc Tử" L.M. Trần Cao Tường, Văn số 66, 67, 2002.
- "Nói Về Ca Khúc Và Thơ Phổ Nhạc" Phạm Duy, cùng số Văn trên.
- "Hãy Trả Lại "Chân Dung Thật" Cho Nhà Thơ Hàn Mặc Tử" Hoàng Hương Trang, Văn Nghệ số 48, ngày 26/12/2002.
- "Thi Nhân Việt Nam" của Hoài Thanh, Hoài Chân, 1967
- "Kinh Vật Lộn Và Phép Vượt Qua Trường Ca Hàn Mặc Tử" L.M. Trần Cao Tường, Văn số 66, 67, 2002.
- "Nói Về Ca Khúc Và Thơ Phổ Nhạc" Phạm Duy, cùng số Văn trên.
- "Hãy Trả Lại "Chân Dung Thật" Cho Nhà Thơ Hàn Mặc Tử" Hoàng Hương Trang, Văn Nghệ số 48, ngày 26/12/2002.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét