Đã từ lâu, một câu hỏi lớn làm bao người Việt
Nam trong và ngoài nước, cùng giới nghiên cứu quốc tế có tài và có tâm trăn trở:
Dân tộc Việt Nam ta từ 3.000 năm trước đã chế tác được hàng loạt những trống đồng
vô cùng tinh xảo, đạt tới đỉnh cao về nghệ thuật, cũng như tinh hoa của một nền
văn minh rực rỡ, làm kinh ngạc cả thế giới văn minh hiện đại. Vậy dân tộc ta thời
ấy có chữ viết hay không, chữ ấy như thế nào, ai là người tạo nên bộ chữ Quốc
ngữ, chữ Quốc ngữ được xây dựng trên cơ sở nào..?
Đôi điều về chữ Việt cổ:
Từ hàng nghìn năm qua, các nhà khoa học trong
và ngoài nước, trước hết là Trung Quốc đều khẳng định: Việt Nam có chữ viết từ
rất sớm, trước chữ Hán cả nghìn năm và hoàn toàn khác chữ Hán. Các nhà nghiên cứu,
Anh, Tiệp xác nhận: “Ngay từ trước công nguyên, người Việt đã có chữ tượng
thanh - loại chữ ghép chữ cái thành từ”. Điều này được thể hiện trên các di chỉ
khảo cổ đồ gốm, đồ đồng của thời kỳ Đông Sơn như: Lưỡi cày, lưỡi xéo, đặc biệt
là trống đồng…cùng các hình vẽ chữ viết trên đá cổ Sa Pa, Xín Mần. Pá Màng…
theo một hệ thống nhất quán, tất cả đều thể hiện đó là những chữ viết cổ từ thời
kỳ tiền văn tự, phát triển và hoàn thiện dần thành bộ chữ “khoa đẩu”.
Hệ thống giáo dục của nước ta đã phát triển
ngay từ thời Hùng Vương, An Dương Vương, thời Triệu, thời Hai Bà Trưng… ở khắp
vùng giao Chỉ, Cửu Chân cũ, nay tài liệu còn lưu ở kho AE Viện Hán Nôm (qua cuộc
khảo sát của Pháp năm 1938).
Ở Việt Nam, từ lâu, những nhà nghiên cứu như:
Trương Vĩnh Ký, Vương Duy Trinh, Lê Huy Nghiệm, Lê Trọng Khánh, Hà Văn Tần, Trần
Trọng Thêm, Phạm Ngọc Liễn, Đỗ Văn Xuyền… cùng đông đảo các nhà nghiên cứu Việt
kiều đã có những thành công đáng kể. Tất cả đều đi đến cái đích chung, đó là những
luận cứ khoa học chứng minh cho sự tồn tại của chữ Việt cổ - chữ “khoa đẩu” mà
thuở xưa Hùng Quốc Vương cho khắc trên lưng rùa bản tóm tắt lịch sử nước ta tặng
cho vua Nghiêu để tỏ tình hòa hiếu. Đó chính là bộ chữ ẩn trong bộ chữ “hỏa tự”
do Tri châu Phạm Thận Duật tìm thấy ở Tây Bắc năm 1855 - 1856, cùng nhiều tài
liệu khác có cùng cấu trúc đồng dạng. Bộ chữ này hình thành và phát triển đồng
hành với dân tộc Lạc Việt cả về thời gian, không gian và quá trình lịch sử. Bộ
chữ ấy dùng để ghi tiếng nói của người Việt cổ trước công nguyên, tồn tại song
hành cùng ngôn ngữ Việt, thích ứng với đặc điểm ngôn ngữ Việt.
Cũng chính vì tìm được cách giải mã chữ Việt
cổ mà các nhà nghiên cứu hiện nay có thể đọc được dễ dàng những trang sách chữ
Quốc ngữ có tuổi hàng mấy trăm năm, nay chỉ còn lưu giữ giải rác trong dân và
trong thư viện Lisbon, Pari, Roma… mà đến thế kỷ 16 khi đạo thiên chúa truyền
vào nước ta, một nhóm trí thức người Việt đã cùng các giáo sĩ phương tây La
Tinh hoá bộ chữ này thành chữ Quốc ngữ mà ta đang dùng ngày nay. Đặc biệt theo:
“Những tín hiệu thu được từ bản lược đồ địa danh ngôn ngữ Việt cổ” của giáo sư
Lê Trọng Khánh, thì không gian phân bố của chữ Việt cổ vô cùng rộng lớn, góp phần
vào việc vạch phương hướng tìm hiểu cương vực và nguồn gốc người Việt cổ.
Như vậy “Chữ viết đóng góp quyết định vào nền
văn minh Việt cổ” và: “Sự đồng nhất ngôn ngữ trên chữ viết và địa danh cổ càng
khẳng định tính chất bản địa của người Việt cổ có nguồn gốc Đông Sơn và rất gần
với nhau. Vấn đề này có liên quan đến việc phân bố dân cư cổ đại có nguồn gốc
chung trên một địa bàn. Sự đồng nhất ngôn ngữ trên chữ viết và địa danh cổ, tổ
tiên trực tiếp của chúng ta ngày nay. Người Lạc Việt đã sáng tạo văn minh Đông
Sơn, có ảnh hưởng rất lớn đối với các dân tộc khác trước công nguyên” - Lê Trọng
Khánh. Cũng chính vì vậy mà bao năm Sỹ Nhiếp ra lệnh triệt phá, tàn sát, bộ chữ
“khoa đẩu” của người Việt cổ vẫn có một sức sống bất diệt.
Chữ Quốc ngữ:
Khi nền văn minh phương tây tràn vào, một số
trí thức Việt Nam đã phối hợp với các giáo sỹ phương tây tạo nên một văn tự mới
trên cơ sở cấu trúc chữ Việt cổ, thay vào đó cái vỏ La Tinh, đơn giản và tiến bộ
hơn chữ Việt cổ đã bị đóng băng hàng nghìn năm dưới ánh đô hộ, tàn sát của
phong kiến phương bắc… mà công đầu và là người tiên phong thuộc về giáo sĩ Bồ
Đào Nha Francisco de Pina. Trong một bức thư viết vào đầu năm 1623, Francisco
de Pina đã viết: “Về phần tôi, tôi đã biên soạn một chuyên luận nhỏ về từ vựng
và các thanh của ngôn ngữ này (tức tiếng Việt) và tôi đang bắt tay viết về ngữ
pháp. Tuy nhiên, tôi cũng đã tập hợp được những cổ tích, thuộc nhiều loại khác
nhau nhằm cung cấp các trích dẫn của các tác giả để xác minh nghĩa của các từ
và các quy tắc của ngữ pháp, cho đến nay tôi có thể yêu cầu một người nào đó đọc
để tôi phiên dịch sang các chữ Bồ Đào Nha (tức chữ La tinh)... Ngoài ra, tôi đã
có ba bốn cuốn tập hợp các bài viết có lý luận trong số các bài viết hay nhất
mà tôi tìm thấy được ở Vương quốc này”.
Đầu năm 1625, F.de Pina làm Cha bề trên ở
Dinh trấn Thanh Chiêm mà A.de Rhodes là cấp dưới. Tiếp đó, ông thay mặt Giáo
đoàn Đàng Trong ra Phủ Chúa yết kiến Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên về vấn đề truyền
đạo, mang theo A.de Rhodes để dạy tiếng Việt. Ông bị tai nạn lật thuyền và mất
ngày 15/12/1625 khi thay mặt các giáo sĩ ra một chiếc tàu đậu ở ngoài khơi Hội
An để nhận hàng tiếp tế của Macao.
Sau khi người Thầy Francisco de Pina qua đời,
các công trình Latinh hoá tiếng Việt đầu tiên của ông đã vào tay người học trò
Alexandre de Rhodes và ông này đã mang theo khi ra Đàng ngoài năm 1627.
Alexandre de Rhodes đã được giáo sĩ Bồ đào Nha Gaspar do Amral trao cho cuốn Từ
điển Việt - Bồ do ông biên soạn tại Macao vào mùa đông 1645. Sau đó giáo sĩ này
đã bị chết trong một vụ đắm tàu ngày 23/12/1645 trên đường đến Đàng ngoài.
Nhờ những công trình Latinh hoá tiếng Việt có
sẵn của các đồng nghiệp nói trên, Alexandre de Rhodes về sau đã bổ sung thêm một
ít tư liệu của mình để biên soạn cuốn Từ điển An Nam - Bồ Đào Nha - Latinh được
Vatican xuất bản năm 1651. Trong “Cùng bạn đọc” của cuốn từ điển đó, chính
Alexandre de Rhodes viết: “Ngay từ đầu, tôi đã học với Cha Francisco de Pina là
người thầy dạy tiếng, người thứ nhất trong chúng tôi rất am tường tiếng này và
cũng là người thứ nhất bắt đầu giảng thuyết bằng phương ngữ đó mà không cần
phiên dịch. Tôi cũng sử dụng những công trình của nhiều Cha khác cùng một hội
dòng, nhất là Cha Gaspan do Amaral và Cha Antonio Barbosa.Cả hai ông đều đã
biên soạn mỗi ông một cuốn từ điển, ông trước bắt đầu bằng tiếng An Nam, ông
sau bằng tiếng Bồ, nhưng cả hai ông đều chết sớm. Sử dụng công khó của hai ông,
tôi còn thêm tiếng Latinh theo lệnh các Hồng y đáng tôn kính...”.
Về việc người Việt có tham gia trong sự phát
minh chữ Quốc ngữ, theo Roland Jacques - nhà nghiên cứu người Pháp đã viết gồm
hai nhóm:
Thứ nhất là giới trí thức gồm có các thầy đồ,
sư sãi, các trưởng tông phái (đạo Lão, đạo Khổng...), quan lại hưu trí và sĩ tử
là những người giỏi tiếng mẹ đẻ, am hiểu nền văn hoá dân tộc.
Nhóm thứ hai gồm các phiên dịch là thanh niên
giáo dân biết tiếng Bồ Đào Nha, La tinh giúp giáo sĩ truyền đạo. Và số người Việt
này phải đông hơn gấp nhiều lần sơ với các giáo sĩ”, Bởi vậy Roland Jacques đã
viết : “Chính cả Pina và các đồng nghiệp đã tập hợp được những người hợp tác có
chất lượng mà nếu không có họ, mọi công trình ngôn ngữ học nghiêm túc sẽ không
thể có được”.
Và ông đề nghị: “Cần thiết phải đặt đứng vị
trí việc làm của cá nhân Alexandre de Rhodes trong một công trình tập thể mà
ông chỉ là một trong số nghệ nhân cư yếu, trong đó người Bồ Đào Nha và những
người cạnh tranh ngang hàng Việt Nam của họ đã giữ vai trò hàng đầu”. Điều này
nhất quán với quan điểm của các nhà nghiên cứu chữ Việt cổ và thể hiện rõ trong
cấu trúc đặc biệt của từ điển Việt - Bồ - La. Đó là việc sử dụng nhiều từ mang
tính đặc thù của nhiều địa phương.
Có thể khẳng định nhóm trí thức địa phương đã
góp cho từ điển Việt Bồ La một ngân hàng chữ rất lớn. Nếu một trí thức Việt
Nam, dù ở trình độ nào cũng không đủ sức làm như vậy, chứ chưa nói đến các giáo
sỹ phương tây, chưa thạo tiếng Việt lại không có điều kiện đi sâu vào các địa
phương. Vì vậy năm 1868 khi người Pháp có ý định dùng chữ Quốc ngữ thay cho chữ
Hán, đã phải hội thảo và đến năm 1886 lại tổ chức tiếp cuộc hội thảo nữa nhưng
hoàn toàn bế tắc.
Đến năm 1902 phải lập một ban cải tiến chữ Quốc
ngữ gồm nhiều học giả người Việt và người Pháp. Sau Cách mạng tháng Tám, ngày
21.9.1960 chúng ta đã tổ chức Hội nghị cải tiến chữ Quốc ngữ và có những thành
công đáng kể. Từ đấy đến nay, chữ Quốc ngữ của chúng ta được hoàn thiện hơn rất
nhiều, góp phần to lớn vào việc tôn vinh văn hóa dân tộc, nâng cao dân trí.
Thay lời kết:
Như vậy, chữ Quốc ngữ chúng ta dùng hiện nay
có nguồn gốc từ chữ Việt cổ, một loại chữ tượng thanh phát triển không kém chữ
La Tinh, nhưng không phát triển được do sự đô hộ, tàn sát của phong kiến phương
bắc. Bộ chữ Quốc ngữ buổi đầu là sự hội nhập của hai nền văn hóa đông tây, mà
công đầu là của hai giáo sỹ Bồ Đào Nha: Cha Gaspan do Amaral và Cha Antonio
Barbosa cùng đội ngũ những trí thức người Việt, chính những trí thức người Việt
đã giúp ích rất nhiều cho các giáo sỹ phương tây xây dựng nên bộ từ điển Việt-Bồ-La,
nếu không có sự cộng tác đầy thiện ý này, các giáo sỹ phương tây không thể hoàn
thành cuốn từ điển với chất lượng như vậy. Còn Alexandre de Rhodes chỉ có công
hệ thống hóa và chỉnh lý như chính ông ta tự nhận.
* Trong bài có sử dụng và trích dẫn tư liệu của
giáo sư Lê Trọng Khánh, nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền và Nguyễn Phước Tư.
Trần Vân Hạc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét