Mùa xuân Tây Bắc trong tôi
Thế là đã ba cái tết tôi xa Tây Bắc, cũng là
ba cái tết ở Thủ Đô phồn hoa và náo nhiệt, nhưng trong tôi vẫn không hề nguôi
ngoai cái cảm giác hẫng hụt, như thiếu một cái gì vô cùng thân thiết, đã ăn sâu
vào tiềm thức, vào máu thịt.
Dõi mắt về phương xa. Tôi cứ mường tượng đến
những dải mây vắt ngang đỉnh Hoàng Liên cao vút, mỗi bình minh lại hồng rực,
long lanh muôn sắc như chiếc khăn piêu trên “tằng cẩu” của người con gái Thái.
Và đâu đây tiếng cười trong vắt lấp lánh, bay bổng, phấp phới cùng những dải
tua mầu như tia nắng của quả còn hội xuân. Những nhịp xòe nồng say rộn ràng ánh
lửa, những tấm lưng thon thả dịu dàng, những khuôn ngực thanh tân, những cần rượu
thơm lừng mời gọi. Đâu đây mượt mà giai điệu bài “Tình ca Tây Bắc”: “Rừng xanh
cây lá muôn đóa hoa mai chào đón xuân về”. Tôi như kẻ bị bỏ bùa mê, bị bao vây
trong những bộn bề cảm xúc.
Ôi cái sắc hoa đào, hoa ban cùng muôn loài
hoa rừng khoe sắc đua hương, thơm đến từng lá cây ngọn cỏ đã hóa thân trong mỗi
nụ cười duyên, mỗi làn da trắng hồng, mỗi búp tay thon như búp măng rừng, mỗi
đường nét tuyệt mỹ trên tấm thân ngà ngọc của người sơn nữ. Để rồi người bạn
tôi – nhà văn Thế Sinh đã từng không cầm lòng được phải thốt lên: “Kinh côm nôm
tẳng” – tiếng Thái là eo thon ngực nở, mà anh từng thả hồn trong cái ký nổi tiếng:
“Miền gái xinh”. Còn tôi như say men rượu cần, trước vẻ đẹp nhuần nhị tuyệt mỹ
của những cô sơn nữ như ánh bình minh mai sớm: “Nả ấc nọi nôm túm nàm tong” –
tiếng Thái là ngực nhỏ nhọn như gai vông đồng, huyền ảo trong tản văn: “Huyền
thoại tắm tiên Tây Bắc”!
Mỗi con đèo, mỗi cánh rừng, mỗi dòng suối, những
thửa ruộng bậc thang đều như những kiệt tác của tạo hóa ẩn chứa bao huyền thoại
cùng khát vọng được sống, được yêu.
Con đường 6 mới được tôn tạo, lên cổng trời hun
hút dãy Pha Đin, trong bạt ngàn hoa ban và lau trắng. Mỗi bông hoa ban như lời
thơ trong câu chuyện tình bất hủ “Sống chụ son sao” – “Tiễn dặn người yêu” và
những bông hoa lau dập dờn trong gió như đang chụm đầu thì thầm lời hẹn những
mùa yêu. Đây Thuận Châu, đây Tuần Giáo… Con đèo quanh co gấp khúc hiểm trở xứng
với tên gọi: “Pha Đin” - nơi đất gặp trời. Người già kể cho tôi, xưa các thế lực
chúa đất bao đời tranh giành nhau đều lấy dãy núi hiểm trở này làm chỗ dựa, vì
thế còn có tên gọi khác: Pú Chinh (núi chiến tranh).
Tôi nhớ mãi lần cùng đoàn giáo viên thế hệ
năm 1959 lên thăm Sơn La, Thạc sỹ Lò Mai Cương của trường Cao đẳng Sư phạm tỉnh
Sơn La, người đầu tiên của Việt Nam số hóa thành công chữ Thái, cùng phó giám đốc
sở Khoa học công nghệ Sơn La – Cà Văn Chung, người số hóa lịch Thái được áp dụng
trong nông lịch và bộ lịch Thái tổng hợp 200 năm, cùng các bạn người Thái đón
tôi như đón người nhà. Các anh chị khoe những thành tựu của Sơn La và của “Mạng
lưới bảo tồn tri thức bản địa dân tộc Thái”. Tôi chia vui cùng các bạn mà lòng
không khỏi xao xuyến bồi hồi. Mới ngày nào Sơn La, Tây Bắc còn là vùng đất xa
xôi, nghèo nàn và lạc hậu, thì nay đã là những điểm sáng trên bản đồ đất nước.
Tôi miên man đi trong ký ức những Điện Biên,
Lai Châu, những con suối “Nậm Na”, “Nậm Rốm”, những tên đất đã trở thành tên lịch
sử: “Mường Thanh” – Điện Biên, “Mường Than” – Than Uyên, “Mường Tấc” – Phù Yên,
rồi vượt đèo “Khau Phạ” – sừng trời về Mường Lò, Yên Bái, nơi tôi đã từng sống
và công tác 30 năm trời. Để rồi trong lòng chợt ngân lên câu ca dao thơm hương
nếp mới: “Mường Lò gạo trắng nước trong/ Ai đi đến đó lòng không muốn về”. Vâng
Mường Lò không chỉ là đất tổ của người Thái đen Tây Bắc, là cánh đồng rộng thứ
hai Tây Bắc. Con suối “Nậm Xia” – suối nước mắt, tên gọi cũ của suối “Nậm Thia”
vắt ngang cánh đồng Mường Lò trong nắng xuân ngời muôn ánh bạc. Mỗi con đường mới
mở, mỗi cánh rừng, mỗi mầm xuân và trong từng câu “khắp”, điệu “xòe”, ánh mắt
giao duyên đều ngời sáng cất lên những cồn cào day dứt và ước mơ của bao thế hệ:
“Ngày xưa, có một đôi trai tài gái sắc yêu nhau tha thiết. Cô gái đẹp như trăng
rằm, mái tóc đen dài mềm mại. Mỗi khi nàng ngồi bên khung cửi, chim muông, hoa
lá như múa vờn trong mỗi đường thêu. Chàng trai khỏe mạnh, giỏi làm nương, săn
bắt thú. Mỗi khi tiếng khèn của chàng cất lên, chim rừng ngừng tiếng hót hồi hộp
lắng nghe. Nhưng tên chúa đất quyết bắt cô gái về làm người hầu. Hai người rủ
nhau chạy lên núi cao để bảo vệ tình yêu đôi lứa. Tên chúa đất cho người đuổi
theo. Chàng trai và cô gái kiệt sức gục xuống trên đỉnh núi nọ. Cô gái không cầm
lòng được, chỉ biết khóc than cho mối tình tuyệt vọng. Nước mắt của cô chảy mãi
hóa thành dòng suối, mái tóc dài thơm hóa thành làn rêu xanh mướt như vẫy gọi.
Chàng trai đau đớn nhảy xuống dòng suối, thân thể chàng vừa chạm mặt nước bỗng
vỡ tan, hóa thành muôn tảng đá cho làn rêu quấn quýt bám quanh”. Tôi đã bao lần
được nhâm nhi chén rượu thơm cất từ những hạt gạo Mường Lò, thấm đẫm huyền thoại
kia với món rêu đá thơm, cay, dịu mát, với những chú cá sỉnh mình thon, chắc lẳn,
vậy mà xuân này sao nhớ lạ lùng. Những sóng vàng ngày xuân của con suối Thia ấy
như muôn bàn tay vẫy gọi.
Tôi chợt nhớ tới hình ảnh nghệ nhân Lò Văn Biến
ôm đàn tính thả hồn trong những điệu “khắp”. Ông như pho sử sống của người Thái
Mường Lò, đã từng sưu tầm và dịch nhiều tác phẩm của dân tộc Thái, ông đã cùng
tôi biên soạn “Bộ tài liệu dạy tiếng và chữ Thái cổ Mường Lò” và dịch tác phẩm
thơ: “Cầm Hánh đánh giặc cờ vàng”... Trước tết, khi nhà văn Trần Nhương đưa nhà
văn Nguyễn Tiến Lộc từ Canada về, lên Yên Bái và vào thăm Mường Lò, ông nhờ nhà
văn Trần Nhương gọi cho tôi dặn đi dặn lại: “Tết về chơi, nhớ lắm đấy!”. Rồi cô
gái trẻ Cầm Thị Nghiệp, sinh viên trường Cao đẳng văn hoá nghệ thuật Yên Bái, từng
là học sinh xuất sắc lớp chữ Thái cổ do nghệ nhân Lò Văn Biến mở cũng gọi: “Bác
ơi, tết về chơi bác nhé, năm nay vui lắm”. Trong tôi cồn lên một nỗi nhớ thật
khó gọi tên, con tim cứ nhẩy lên như nhịp trống hội xòe. Những kỷ niệm về những
mùa xuân Tây Bắc ùa về lâng lâng trong ký ức, thân thuộc, nhung nhớ đến nao
lòng. Và luôn tin rằng Mường Lò, Yên Bái nói riêng và Tây Bắc nói chung, với những
người con ưu tú như nghệ nhân Lò Văn Biến, thạc sỹ Lò Mai Cương, phó giám đốc
Cà Văn Chung cùng cô sinh viên Cầm Thị Nghiệp… mỗi mùa xuân sẽ thay da đổi thịt
rất nhiều. Còn với cô sinh viên Thanh Nga của trường đại học Văn hóa - khoa Dân
tộc học, một lần ngẫu nhiên đọc bài viết của tôi về “nét đẹp bài hát mừng dâu mới
của người Thái Mường Lò” đã bị chinh phục bởi vẻ đẹp nguyên sơ của phong tục tập
quán và các làn điệu dân ca Thái, cô đã quyết định làm đề tài nghiên cứu khoa học
về vấn đề này. Thanh Nga cho biết, có một số sinh viên cũng làm đề tài về văn
hóa Thái và cô quyết tâm mùa xuân này nhất định sẽ lên Tây Bắc, để hiểu thêm về
văn hóa Thái và được mùa xuân Tây Bắc chắp cánh. Thế mới biết sức hút của văn
hóa Thái Tây Bắc lớn lao biết chừng nào.
Tôi miên man trong suy tư. Nếu không có mấy
chục năm trời gắn bó cùng những mùa xuân Tây Bắc, để rồi cái hơi cái hồn Tây Bắc
thấm trong tôi từ lúc nào, thì tôi đâu có được vốn sống phong phú làm nên những
trang văn thơ như hôm nay. Những tên đất, con người lịch sử và huyền thoại của
Tây Bắc, cùng bao thiên truyện tôi được nghe các nghệ nhân kể bên bếp lửa, bao
hội “xòe” cùng những điệu “khắp” Thái, những lễ hội dân gian của các dân tộc
cùng hương rượu cần ngọt lịm, là mạch nguồn sáng tạo trong tôi. Nếu thiếu đi
hơi ấm của mùa xuân Tây Bắc, chắc cuộc đời tôi sẽ nghèo đi nhiều lắm. “Khi
ta ở chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn” là đây chăng, để rồi
xuân này giữa Thủ Đô đang hối hả nhịp sống mới hướng tới lễ kỷ niệm 1000 năm
Thăng Long – Hà Nội, tôi chợt nhận ra Tây Bắc mùa xuân với một vẻ đẹp mới,
trong sáng vô ngần.
Bài liên hệ:
- Nguyễn Trãi, hợp tuyển
thơ của soạn giả Gia Dũng (Vân Hạc)
- Đài Giọt Lệ (Hoàng Đạo
Chúc).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét