Đất thiêng trong nắng lửa
Trong ánh nắng sớm dịu nhẹ
hiếm hoi giữa những ngày đầu hè oi ả, thầy Đào Văn Hùng, cô Nguyễn Việt
Hương, cô Nguyễn Thị Bích Nga và tôi cùng đoàn sinh viên quốc tế đang chuẩn bị
một chuyến đi đặc biệt.
Chuyến đi thực tập của sinh
viên nước ngoài hệ Hiệp định vào dịp hè mỗi năm không còn xa lạ với các thầy cô
Khoa Việt Nam học và Tiếng Việt. Nhưng lần này, hình như chúng tôi (những người
dẫn đoàn), ai cũng có một tâm trạng riêng. Lịch trình chuyến thực tập đã được
thông báo từ trước: Suối Cá Thần, Lam Kinh, thành nhà Hồ, Đền Trần, chùa Phổ
Minh. Nếu chỉ là một chuyến du lịch thì chắc cũng không đến nỗi những người đi
phải mang nhiều tâm trạng. Tâm trạng là vì, cô Nga sẽ được cùng các em sinh viên
nước ngoài và đồng nghiệp về thăm lại Thanh Hóa quê mẹ, còn cô Hương lần đầu
đưa các em sinh viên Mông Cổ, Mô-dăm-bich của mình đến các địa danh giàu ý
nghĩa lịch sử của Việt Nam. Với tôi, chuyến đi này mới mẻ trong tất cả mọi điều:
lần đầu đưa sinh viên quốc tế từ nhiều quốc gia với nhiều màu da (Nhật, Triều
Tiên, Nga, Hungary, Mông Cổ, Mô-dăm-bic) đi thực tập thực tế, lần đầu đến
thăm Thanh Hóa và Nam Định- nơi còn mang nhiều dấu ấn chốn thiêng của nhiều triều
đại lớn xa xưa, lần đầu cảm nhận những cung đường miền Bắc dài hàng trăm cây số
giữa cơn nắng lửa dữ dội của ngày đầu mùa hè.
Xe lăn bánh ra khỏi thủ đô
Hà Nội. Trên xe có nhiều tiếng nói trộn lẫn vào nhau: tiếng bản xứ của sinh
viên Mông Cổ, Triều Tiên, tiếng Anh, tiếng Việt của các sinh viên các nước còn
lại, tiếng hát thì thầm của cô Nga,… Tôi có một cảm giác rất lạ lùng. Thật là một
không khí “liên hiệp quốc” đặc trưng của Khoa Việt Nam học và Tiếng Việt.
Nhiều đôi mắt và câu hỏi hướng
về quang cảnh hai bên đường khi chiếc xe đang xa dần Hà Nội và đi vào những con
đường hun hút dẫn về huyện miền núi Cẩm Thủy của tỉnh Thanh Hóa. Chúng tôi bàn
với nhau: có lẽ phải tập cho sinh viên nói tiếng Việt trong cả chuyến đi. Cô
Nga là ứng cử viên duy nhất, bất ngờ trở thành MC đặc biệt, biến 2 tiếng đồng hồ
trên xe thành một giờ học di động có một không hai. Những câu chuyện, những bài
hát, những giai điệu thảo nguyên Mông Cổ, âm hưởng dịu dàng của bài hát Chiều
Matxcova… đi theo chúng tôi từng cây số tràn đầy cảm xúc.
Qua Thọ Xuân, xe đi dần vào
con đường hẹp dẫn vào Suối Cá Thần ở huyện Cẩm Thủy. Bước ra khỏi xe, chúng tôi
choáng váng vì nắng nóng. Vẫn chưa vào được Suối Cá Thần. Còn gần 4km nữa. Tất
cả phải chuyển sang các xe nhỏ 15 chỗ để đi qua một cầu treo dài mới vào được
sâu trong suối. Nhiều sinh viên ôm chặt nhau, nhắm mắt, kêu lên vừa sợ vừa thú
vị khi chiếc xe con chạy qua cầu treo vươn qua sông Mã. Mùa này, sông khá cạn.
Nhưng cái tên của nó thì làm tôi thao thức. Tôi quay sang hỏi chị Hương, chị
Nga, “hình như có bài hát gì về sông Mã, à, anh hùng Nguyễn Bá Ngọc chị nhỉ?”. Ừ,
đúng rồi. Ba cô giáo mặc kệ trời nóng cháy và nỗi sợ qua cầu treo, hát nhỏ nhỏ:
“Đây Thanh Hóa anh hùng và dòng sông Mã mến yêu, vang tiếng hát hôm nào có tên
của anh”… Các em sinh viên nước ngoài cười khúc khích nghe các cô hát. Tôi vẫn
còn thầm nghĩ đến một sông Mã nữa của Quang Dũng: “Sông Mã gầm lên khúc độc
hành”. Tôi được sống cái cảm giác thật của những điều chỉ biết qua sách vở. Những
cảm giác này, biết bao giờ mới có thể chia sẻ hết được cho các em sinh viên học
tiếng Việt đang bập bẹ kia. Có lẽ cùng còn khá lâu họ mới có thể cảm nhận chút
nào những cảm xúc sâu lắng của người dân nước Việt Nam như tôi trên con đường
tìm lại những chốn địa linh nhân kiệt.
Đến nơi, chúng tôi được nhận
vé đi vào một cổng nhỏ, đơn sơ. Phía trong, dọc hai bên đường, là các hàng quán
bán đặc sản vùng miền núi Cẩm Lương. Đi bộ khoảng gần trăm mét, chúng tôi đã
nhìn thấy suối cá. Ô, ô, ô, thật là kỳ lạ. Những chú cá bơi dày đặc trong lòng
suối khá cạn. Khung cảnh rất nên thơ! Hai em sinh viên Triều Tiên ngồi vội xuống
gần bờ suối để chụp ảnh. Các em khác tản lên phía trên núi, nơi có hàng tre
xanh phủ bóng qua các thềm đá trông rất mát mẻ và thân thuộc. Chúng tôi đi dọc
suối cá, ngồi thảnh thơi nhìn cá bơi lượn giữa cái trưa hè nóng rẫy. Nhiều em
sinh viên Nga và Mông Cổ thích thú bước hẳn lên chiếc cầu mong manh bằng thân
cây bắc qua suối để tạo dáng. Tôi nghe cô Nga giải thích cho hai em Triều Tiên
vì sao nơi đây có tên là Suối Cá Thần, cô Hương thì chụp ảnh cho các em… Có lẽ,
những trải nghiệm này, rất lâu về sau các em mới có cơ hội tìm lại, hoặc là
không bao giờ nữa, khi đã kết thúc khóa học tiếng Việt ở Hà Nội.
Hơn nửa tiếng sống giữa lòng
thiên nhiên, đoàn chúng tôi lại lên đường đi Lam Kinh.
Khu lăng mộ của các vị vua
vĩ đại triều Lê tuy rộng nhưng đơn sơ khó tả. Tôi ngỡ ngàng bước vào vùng mộ
vua Lê Thái Tổ, tương truyền là vô cùng linh thiêng. Quanh mộ vua là những bức
tượng đá có niên đại hàng trăm năm: tượng con hổ hiền lành, con ngựa thô sơ, rồi
đàn voi 4 con được dân cung tiến vào khu lăng mộ. Đặc biệt nhất là 2 cây ổi cười.
Những lá ổi tự dưng lay động rất lạ lùng khi có bàn tay người đặt vào nách cây.
Sinh viên quốc tế trong đoàn rất thích thú, tò mò mãi về mấy chiếc lá ổi cứ
đung đưa dù không có gió. Quả thật, Lam Kinh cất giấu rất nhiều bí ẩn của lịch
sử và anh linh của nòi giống. Chúng tôi kết thúc chuyến thăm Lam Kinh ở khu đặt
bia Vĩnh Lăng niên đại 700 năm do Nguyễn Trãi soạn. Con rùa sáu móng đội bia vẫn
còn ám ảnh đoàn chúng tôi về một quá khứ vĩ đại của triều Lê Sơ, và gợi nhớ xa
xôi chân dung anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi.
Sớm thức dậy ở khách sạn huyện
Vĩnh Lộc, chúng tôi tản bộ ra cánh đồng xanh mênh mông xứ Thanh, nhìn thấy đàn
tế Nam Giao nằm phía xa xa núi Đốn Sơn do triều nhà Hồ khởi công xây dựng để tế
lễ, cầu quốc thái dân an. Di tích nổi tiếng này còn lưu lại dấu vết một “cánh đồng”
đàn tế kéo đến 5 cấp, được xem là “quí giá nhất Việt Nam”. Chúng tôi vào thắp
nén hương cho Hồ Quí Ly, người anh hùng mạt vận năm xưa. Tôi nghĩ đến câu thơ
vĩ đại của Nguyễn Trãi viết dành viết cho vị vua mà ông từng ra phụng sự ngắn
ngủi: “Anh hùng di hận kỷ thiên niên” (Anh hùng để hận đến nghìn thu). Cánh đồng
Nam Giao này cách đây gần 600 năm là nơi thiêng mà người dân chỉ có thể đứng
bái vọng từ xa. Nỗi trắc ẩn của triều nhà Hồ hẳn vẫn còn vương vất đâu đó trong
những di chỉ quí giá còn sót lại qua bao năm tháng.
Trời đã nắng gắt hơn. Sau
khi thăm đàn tế Nam Giao, chúng tôi đi tiếp gần 6 cây số nữa đến Thành nhà Hồ.
Từ xa, chúng tôi đã nhìn thấy di tích hiện ra trong rêu phong trầm mặc. Vừa bước
ra khỏi xe, cái nóng hầm hập gần 40 độ phả vào mặt vào người khiến cả đoàn ai
cũng bơ phờ. Tôi nhìn thấy hai người phụ nữ ăn mặc giản dị, da mặt nâu rám nắng,
cầm rất nhiều mũ rộng vành chạy theo đoàn nói: “Mời các anh chị đội mũ. Không mất
tiền đâu ạ. Em đội mũ đi em”. Chúng tôi rất ấm lòng nhưng cũng thoáng lo âu,
không biết có “rắc rối” gì không với mấy chiếc mũ mượn bất đắc dĩ này. Nhưng rồi
nỗi lo cũng được giải tỏa. Hóa ra, người dân Vĩnh Lộc là thế, văn hóa phục vụ của
khu di sản này là thế: chu đáo, tận tình, giản dị. Câu chuyện nhỏ nhưng ý nghĩa
không nhỏ, những chiếc nón làm chúng tôi vui và lưu luyến mãi.
Theo chân cô hướng dẫn viên,
chúng tôi chiêm ngưỡng tận mắt thành lũy một thời bi hùng thế kỷ XV. Những viên
đá của tường thành được ốp theo hình vòm cung rất tỉ mỉ. Điều kì lạ là giữa các
viên đá không hề có chất kết dính. Cảm giác đứng giữa lòng di sản, giữa mênh
mông nắng gió của cánh đồng Vĩnh Lộc trải dài ngút mắt khiến tôi xúc động.
Ở thành nhà Hồ, chúng tôi bất
ngờ được dự một buổi hát văn sống động và ấm áp nghĩa tình do Ban tổ chức khu
di sản tổ chức nhằm phục vụ du khách lúc nghỉ ngơi. Mấy cốc trà xanh, mấy miếng
chè lam đặc sản, mấy miếng kẹo lạc, và một cuộc giao hòa tưng bừng của sinh
viên Mo-dăm-bic biến buổi trưa nắng nóng mệt nhọc ở Vĩnh Lộc thành một buổi ca
múa độc đáo hiếm có. Cô Nga, cô Hương cũng không kìm được niềm hứng thú, nhảy
múa cùng đoàn. Người dân vỗ tay không ngớt. Lần đầu tiên ở thành nhà Hồ, nhóm
sinh viên nước ngoài múa chầu văn với người bản xứ – một sự kiện đẹp được ghi
nhớ trong lịch sử thăm quan du khách.
Trưa ngày 17-5, chúng tôi về
đến trung tâm thành phố Nam Định. Nơi ở của đoàn nằm đối diện với một hồ nước
trong xanh, bình an khó tả. Tôi thoáng thấy bảng chỉ đường phía xa xa: Hồ Vị
Xuyên. Địa danh này làm tôi nhớ đến Tú Xương, nhà thơ trào phúng bậc nhất thành
Nam. Hỏi ra mới hay, tôi đang ở nơi từng ghi dấu câu thơ vọng vào lịch sử của
nhà thơ Trần Tế Xương hồi cuối thế kỷ XIX:
“…Vẳng nghe tiếng ếch bên
tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai
gọi đò”
Buổi chiều, chúng tôi cùng
sinh viên đi dạo quanh thành phố nhỏ trong không khí mát lành. Trời đất cũng
chiều lòng người. Các em sinh viên nước ngoài đã có vẻ lấy lại sự năng động sau
mấy ngày mệt mỏi trên đường dài. Tối đến, chúng tôi mời các em hát karaoke. Lần
đầu tiên, tôi chứng kiến một buổi hát karaoke có người nước ngoài hát tiếng
Anh. Em Cường (tên tiếng Việt của một sinh viên Mô-dăm-bic) hát bài Heal
the World của Micheal Jackson làm chúng tôi vô cùng kinh ngạc. Em hát mê mải
và cao vút, một thứ giọng đặc sệt châu Phi. Sau đó, một em nữ sinh viên Nga hát
bài Ước gì của Mỹ Tâm. Em hát hay đến nỗi mấy lần tôi cứ phải quay lại
nhìn kỹ xem mình có nhầm không. Phát âm chuẩn xác đã đành, cái chính là hồn vía
bài hát được em thể hiện rất điêu luyện. Cao trào lên cao khi tất cả giáo
viên và sinh viên cùng vui sướng, nhảy một vài điệu mà tôi cũng không rõ là điệu
gì, chỉ biết là vô cùng hứng khởi… Chúng tôi hát say sưa bên nhau. Cô Nga hát
nhiều và hay, lôi cuốn các bạn sinh viên còn e ngại hát theo bằng tiếng Việt.
Đêm khuya, chúng tôi trở về khách sạn mà tiếng hát và niềm vui vẫn còn đọng lại
xao xuyến.
Chín giờ sáng ngày 18-5, xe
đưa chúng tôi về thăm Đền Trần và chùa Phổ Minh trước khi tạm biệt thành phố
Nam Định trở về thủ đô Hà Nội.
Tiếng là đưa sinh viên nước
ngoài đi thực tế nhưng có lẽ những người xúc động nhất vẫn là chúng tôi. Sau
chuyến đi này, đoàn sinh viên quốc tế đủ mọi quốc tịch ấy có thể biết được chút
ít kiến thức về văn hóa, lịch sử Việt Nam, có thể chụp ảnh, ghi chép, trải nghiệm
cái thú về với không gian núi non, thôn quê Việt Nam, thưởng thức món ăn dân dã
và biết thêm nhiều địa danh nước Việt, tăng thêm vốn từ tiếng Việt, nhưng chắc
rằng họ sẽ không có nhiều cảm giác đặc biệt như chúng tôi. Đây là một chuyến đi
mà đi đâu chúng tôi cũng gặp mộ bia và khí phách của những bậc vĩ nhân quá khứ,
có người thành tựu đại nghiệp, có người thất trận thê thảm, có người vẻ vang
sơn hà, có người lui vào oan khuất. Hàng trăm nghìn câu chuyện chốn thâm cung
bí sử nơi triều chính trải qua hàng bao thế kỷ vẫn còn níu lại trong hoa cỏ đất
trời xứ Thanh và vùng đất học Nam Định.
Chúng tôi bắt đầu trở về Hà
Nội giữa trưa nắng gay gắt. Xe dừng lại một chút ở quán bên đường, ngoại thành
Nam Định, để các thầy cô và sinh viên nghỉ ngơi, nhấm nháp mấy miếng kẹo Sìu
Châu, trà xanh. Khi xe chuẩn bị lăn bánh, tôi thấy anh chủ quán chạy ra, đứng
thấp thoáng ngoài cửa xe nói vọng vào trong: “Bao giờ xe qua lần nữa, em mời
bác vào xơi bữa cơm”. Anh tài xế tên Hiểu, cười tươi, gật đầu, vẫy tay chào.
Khi ấy, các sinh viên đang tìm chỗ ngồi và ngủ để mong về Hà Nội. Có lẽ không
ai chú ý câu nói của anh chủ quán và nụ cười của tài xế. Nếu các em chưa buồn
ngủ và không quá mệt vì nóng, tôi sẽ giải thích với các em rằng: đó là lối sống
tình cảm của người Việt. Anh chủ quán cảm ơn tài xế vì đã đưa xe đến nghỉ ngơi ở
quán mình, anh tài xế thì vui vẻ chào mặc dù chưa “xơi bữa cơm” như lời hẹn. Những
hành xử đơn giản ấy là nơi chứa đựng những điều lớn lao khác, như tình làng
xóm, nghĩa đồng bào …
Tạm biệt Suối Cá bên kia
sông Mã, tạm biệt Lam Kinh, thành nhà Hồ, những điệu múa chầu văn giữa trưa hè
nóng bỏng, tạm biệt con sông Vị Xuyên của Tú Xương thành Nam, tạm biệt những hạt
bụi cát và cơn mưa tầm tã ngày về Vĩnh Lộc, tạm biệt Đền Trần và ngôi chùa Phổ
Minh thiêng liêng…
Sống cùng sinh viên quốc tế
để hiểu dân tộc mình, đi cùng sinh viên quốc tế để trở về nguồn cội đất nước,
tôi nghĩ, cũng là một trải nghiệm mà chỉ Khoa Việt Nam học và Tiếng Việt chúng
tôi mới có nhiều cơ hội nhất để làm được.
Lê Thị Thanh Tâm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét