Trong thế giới mỹ thuật, hẵn
không còn một ai xa lạ vớiPicasso (1881-1973). Nhà danh họa tài năng hiếm
có này trước hết là một họa sĩ nổi tiếng ở lĩnh vực lập thể (cubism) đồng thời
cũng là thợ chạm, điêu khắc gia người Tây Ban Nha. Đến hoạt động mỹ thuật tại
Paris vào năm 1904, họa sĩ đã làm đảo lộn nền nghệ thuật hiện đại và gây ấn
tượng về sự phong phú tác phẩm qua nhiều giai đoạn: Thời kỳ lam - thời kỳ
hồng, (1901-1905), lập thể (Quí bà ở Avignon, 1906-1907); tân ấn tượng
(neo-impressionism), 1920, và họa sĩ cũng đã thử nghiệm khuynh hướng siêu thực
(surrealism)1925-1936), biểu hiện (expressionism). Số lương phong phú họa phẩm
của Picasso còn lưu nhiều tại Paris (Hotel Sale), Barcelona, New York,
London...
Vào một chiều tiết trời se lạnh của tháng 10 năm 1900, một chàng trai với
khuôn mặt trễ dài khắt khổ, nước da ngâm ngâm, thân hình khá vạm vỡ và hơi thấp
nhưng sắc bén ở đôi mắt, lần đầu tiên đến Paris với chiếc áo khoác dày che gần
hết cổ và chiếc áo mưa vắt trên khuỷu tay. Chàng thanh niên ấy tên là Pablo
Ruiz -Picasso, họa sĩ người Tây Ban Nha.
Picasso
(1881-1973) sinh tại Málaga quê hương của chàng. Ngay từ lúc còn thơ ấu,
cậu bé Picasso đã sớm được coi là thần đồng mỹ thuật, nổi tiếng ngay từ lúc
tuổi mới lên tám qua các bài tập về hội họa tại trường mỹ thuật Málaga. Lần đầu
tiên từ Barcelone đến thủ đô nước Pháp và lưu lại nơi đó hai tháng, khi đó
Picasso mới 19 tuổi. Sau bốn lần đi lại, chẳng mấy chốc, Picasso ngộ ra được
nhiều về con người và nhiều điều nữa từ đất Pháp. Từ đó, Picasso bắt đầu hòa
nhập vào không khí hội họa mang tính cách khai phá ở Paris.
Tại xưởng vẽ của một bạn
nghệ sĩ đồng hương nơi phố Montmartre, Picasso cũng vẽ nhiều trên bố, đáng
chú ý là họa phẩm L’Arlequin et sa compagne (Anh hề và người bạn
gái) tự trong đó đã thể hiện được chủ đề và cách thực hiện sê-ri tác phẩm mà về
sau người ta xác định được tính cách của hai từ ngữ Thời kỳ lam (Époque
bleue: 1901-1904). Chủ đề họa phẩm Picasso sáng tác trong giai đoạn này tập
trung vào lớp người cùng khổ trong xã hội như kẻ hành khất, những em bé lang
thang ngoài đường phố và những người đàn bà bất hạnh trong tầng lớp tận cùng
xã hội.
Mới qua một kỳ nghỉ đầu
tiên tại Paris từ tháng 5/1901 đến tháng 1/1902, Picasso cũng đã gây bao sững
sờ cho bạn đồng nghiệp và các nhà phê bình Pháp qua sự phong phú tác phẩm và
sớm thể hiện là một bậc kỳ tài cùng với cường độ lao động nghệ thuật
ít có ở bất cứ một nghệ sĩ nào khác. Ta hãy tưởng tượng ra một họa sĩ chưa đầy
hai mươi tuổi, theo như một nhà báo viết thời luận thời ấy, chàng đã hoàn tất
mỗi ngày ba tấm tranh vẽ trên bố. Chính Ambroise Vollard đã trưng bày 75 bức
tranh của nhà họa sĩ tài danh trẻ tuổi này vào thời ấy (24/06/1901). Cùng
trong năm, Picasso thực hiện tiếp các họa phẩm chân dung theo phong cách lam.
Rồi đến vài tác phẩm khác nhưMaternités (Tình mẹ con – 1905), L’Enfant
au pigeon (Em bé với chú bồ câu – 1901), Toilette (Tắm rửa cho
em bé – 1905) từ đó người ta nhận ra được nét vẻ mỏng manh mô tả người đàn bà
trong bồn tắm nơi phòng vẽ nghèo nàn lúc bấy giờ của nghệ sĩ nơi đại lộ
Clichy. Một Arlequin (Chú hề) với nhân vật trong tranh đói khát, chống
khuỷu tay trên bàn cà phê và trong một tư thế gần như đồng nhất, những Buveuses (Những
người đàn bà nghiện rượu) ù lỳ rời rã bởi rượu ap-xanh và cảnh túng cùng bế tắt.
Vào năm 1902, Picasso sáng
tác hai tác phẩm: Femmes au bar(Những người đàn bà nơi quán rượu) với
hình ảnh những người phụ nữ nghiện ngập, chán đời, chếnh choáng với ly rượu
giúp họ quên đi khoảnh khắc phù du. Tác phẩm Femme assise (Người phụ
nữ ngồi) với hình ảnh người đàn bà xếp đôi cánh tay gầy guộc lên chiếc bụng
trống không. Hay tác phẩm Repasseuse(Chị ủi đồ), Nu vu de dos (Khỏa
thân lưng) và rất nhiều hình ảnh khác trong tranh của họa sĩ thể hiện những cảnh
đói nghèo, đau khổ đa phần được thực hiện tại Barcelone, nơi mà họa sĩ đã trụ
lại 10 tháng. Tháng 10/1902, người ta lại thấy Picasso xuất hiện tại Paris, với
dáng vẻ tiều tụy khổ ải với cái lạnh cắt da và nỗi cô đơn cùng cực. Trốn chạy
cái giá rét của mùa đông khắc nghiệt ở Paris, Picasso quày quã đáo về
Barcelone. Nơi đây, chàng lại miệt mài lao động để mong lãng quên nỗi buồn tê
tái. Chính giai đoạn này đã khắc đậm dấu ấn nghệ thuật của chàng với những
tác phẩm: Célestine, Vieux Juif (Lão già Do Thái),Pauvres au bord
de la mer (Những người cùng khổ nơi bờ biển), Étreinte (Siết chặt) và bức
họa phúng dụ về cuộc đời: Vie (Cuộc đời).
Tháng 4/1904, Picasso quay
lại Paris và lần này chàng cương quyết định vị luôn cuộc sống mình tại đất
Pháp. Chàng sống tại Ravignan, trong căn nhà tồi tàn mà nhà thơ Max Jacob từng
đến đây rửa tội. Tại nơi đây, Picasso vẽ tác phẩm Femme à la corneille (Người
đàn bà với con quạ), Deux soeurs (Hai chị em), những tác phẩm nổi
tiếng hôm nay. Bởi đó là những tác phẩm kinh điển sau cùng theo phong
cách lam. Thế thì tại sao gọi làlam ? Vì lẽ hiển nhiên là màu nầy chiếm
ưu thế trong tất cả bức tranh nói trên. Trong vài tác phẩm như: Deux
soeurs, không tìm thấy trong đó những gì khác màu lam. Chỉ thuần với một
màu lam. Nhưng bởi lý do nào Picasso đã sử dụng nó một cách hệ thống như vậy.
Không có một câu trả lời thỏa đáng nào được đưa ra từ đó. Tuy nhiên chúng ta
hãy quan sát rằng, trong suốt một đời theo nghiệp vẽ của nghệ sĩ, khi chàng
đi kiếm tìm cho được cường độ biểu hiện, khi chàng nâng lên cao điểm cái sắc
màu thảm thiết, Picasso chỉ còn trông nhờ vào một gam màu thật cô đặc: (L’Atelier
de la modiste: Xưởng làm của người bán mũ phụ nữ - 1926, Guernica: Nội
chiến – 1937). Rồi thì cũng rất cần phải chấp nhận là không có màu nào hơn
màu xanh, và cũng cần nói thêm, cái màu lam tái như ánh trăng này rất thân
thiện với Picasso.
Tuy nhiên, màu lam không
phải là đặc tính chung duy nhất cho các họa sĩ thời đại này. Một đường vạch cứng
cáp, góc cạnh, co dản, những hình dạng bị kéo dài thái quá và bị làm mỏng đi
(Những bàn tay với ngón dài trong tác phẩm: Portrait de Jaime Sabartes,
Chân dung của Sabartes, và trong Femme à la Corneille, chân tay quá mỏng
manh trong Deux soeurs và những khuôn mặt hốc hác, những thân hình
mãnh dẽ và nhợt nhạt, tứ chi vặn vẹo, còm cỏi, những tư thế ảo não gầy ốm phô
ra giữa ánh sáng nhợt nhạt, là cũng chừng ấy hình ảnh sầu muôn của cuộc đời.
Đó là một thế giới của người khuyết tật, của kẻ hành khất, của những người mất
thừa kế đáng thương hại vì phải cam chịu, của những con người phải hứng lấy
muôn vàn nỗi khắt khe, bởi sự trung gian từ đó nghệ sĩ nói lên kinh hoàng, nỗi
chán chường cảnh khoái lạc cùng với tấm lòng đau đáu lo lắng cho con người,
ưu tư về điều mà nghệ sĩ đã từ bỏ sáng tác theo đối tượng ngoài con người như
phong cảnh, hoa trái… Chủ đề ưa thích của Picasso vốn là những con người bị hất
hủi, ruồng bỏ, phản ánh của sự khô cạn, nơi mà chàng đã múc hết nếu không ở
trong truyền thống của quê hương chàng, trong căn phòng đợi cái chết nơi đó
bao nhiêu họa sĩ Tây Ban Nha đã mang đến cho họ những món quà tang tóc trước
chàng.
Nếu cảm hứng của Picasso dễ
dàng phân biệt được, thì khó mà nhận rõ ảnh hưởng nghệ thuật mà chàng đã chịu.
Và nó đã hình thành phong cách của chàng: gần gũi với Greco, trào phúng kiểu
Montmartre, Lautrec, Steilen, Bottini; từ tính cách tượng trưng theo Gauguin
và Sérusier, và bao nhiêu nữa… Nhưng nếu những ảnh hưởng ấy có tính quyết định
thì khó mà bóp chết cá tính của chàng, nó chỉ kích thích mạnh mẽ ý chí
thống trị ngay từ tuổi hai mươi cho đến hôm nay vốn được coi là đam mê bất biến
của chàng: tính không kiên nhẫn, hay thay đổi, phức tạp và dễ mâu thuẩn.
Sau muôn vàn cay đắng, oán
hận, căng thẳng ở nghệ sĩ, ta hiểu được rằng Picasso đã thử thách qua nhu cầu
xã hội, làm dịu đi tính quá nhạy cảm của chàng.
Với sự thỏa mãn bi thảm
cho nỗi buồn, cảnh đói nghèo, sự bất công về số phận con người, từ đó Picasso
quay sang, vào cuối năm 1904, đường lối nghệ thuật kiểu cách rất ê-lê-găng:
đó làthời kỳ hồng (Époque rose) không phải vì nhà họa sĩ của bức
tranh Vieux guitariste (Lão già đánh đàn gui-ta) được báo trước
ngay khi vừa được nhìn đến, như người ta từng nói, cuộc sống đầy hoa hồng, mặc
dù Picasso bắt đầu phát hiện ở nó có cái gì quyến rũ, dịu dàng nhưng tất cả đều
đơn giản. Bởi vì đó là màu hồng, chủng loại sắc màu ngự trị trong tranh của
chàng bây giờ. Nếu mắt chỉ thoáng nhìn sắc hồng trong vài tác phẩm, sẽ thấy
màu đó phối ngẫu với màu lam để làm giảm nhẹ bớt tính cách nghiêm khắc khô
khan trong các tác phẩm: Garcon à la collerette (Cậu trai mang áo cổ
xếp) hay trong Chevaux au bain(Ngựa tắm)…
Những cảnh cùng khốn bi
thương, người ăn xin mù lòa, những đứa trẻ ốm tong teo, kẻ lang bạt đói khát
trong tác phẩm củaThời kỳ lam được xóa sạch trước những chú hề, những diễn
viên xiếc, các nghệ sĩ biểu diễn ngoài đường phố… trong đó thể hiện ít đi nỗi
đau và thảm kịch hơn… Sự chọn lựa chủ đề làm nổi bật đôi khi sự phát triển
tính cách đạo đức và điều quan tâm, lo lắng cụ thể của nghệ sĩ. Sắc hồng mà
thi sĩ Goethe đã thêm vào trong bảy màu căn bản của quang phổ, người ngộ đạo
coi như tượng trưng cho sự hồi sinh, đã cho vào nghệ thuật phối hợp màu sắc của
Picasso một sự hài hòa có hương vị bất ngờ. Bức tranh, có nét mềm mại, ít vẻ
biếm họa mà mang nhiều nét cổ điển.
Một đề tài vừa thai nghén
trong óc, một bố cục chặc chẽ và đầy đủ, một cách nhìn khách quan, lạc quan
hơn. Ta hãy xem lại các tác phẩm: Mère et son enfant (Mẹ và con),
biết bao là dịu dàng thể hiện trong cử chỉ âu yếm của người mẹ khi nghiêng
nhìn xuống đứa con mới sinh đang nằm trong lòng mình! Và biết bao nét duyên
dáng của tuổi thanh xuân thể hiện trong Jeune fille à la corneille (Em
gái với con quạ) và Garcon à la collerette (Cậu bé mang cổ áo xếp)
được sáng tác cách quãng trong nhiều tuần mà vẫn tập trung hòa hợp, không
phân hóa về giới tính cùng vẻ thanh lịch hào hoa của phong cách nghệ thuật, với
cùng một thứ ánh sáng nhẹ nhàng, mượt như nhung.
Mùa hè 1906 đánh dấu giai
đoạn chuyển tiếp không còn nghi ngờ gì nữa, có thể giải thích bằng tính bồn
chồn, bấp bênh của tuổi thơ (lúc này Picasso vẫn chưa được 25 tuổi), cái tuổi
chưa xác định được gì về một sự dừng bước. Đây là nỗi lo sợ canh cánh cùng sự
tuyệt vọng của con người cô đơn. Đó là khát vọng yêu thương từ một cử chỉ dịu
dàng cần thiết hay tính thanh liêm để thành niềm vui thế kỷ. Nhưng ngay khi
mà những đam mê được giải thích cho một đối tượng nào hay trong tâm thức sâu
kín đầy tham vọng được xuất phát từ thoáng nhìn qua bài học Cézanne con đường
mà chàng thầm lặng kiếm tìm và sẽ đưa chàng đến khuynh hướng Lập thể (Cubism),
Picasso sẽ từ bỏ hình thức xưa cũ với những hư cấu tự nhiên giả tạo trong nghề
nghiệp.
Thời kỳ lam - thời kỳ hồng,
tất cả nhược điểm rõ ràng về một xã hội bất ngờ mà nghệ sĩ là một kẻ xa lạ
trước nó. Tác phẩm của hai thời kỳ ấy đã cho thấy sự sốt ruột sắp sửa nhân
lên để thỏa mãn thời đại chúng ta, làm chưng hửng và mê hồn nó. Năm năm trong
sự nghiệp nghệ thuật lâu dài và phì nhiêu sẽ không phải là những gì gặt hái
được nhiều trong vinh quang của Picasso mà chúng ta nhìn được hôm nay bằng một
sự ngưỡng mộ kín đáo thân tình. Bởi vì đó là tài hoa và uy tín của những anh
hùng trẻ tuổi trong nghệ thuật và tư tưởng. Còn thanh xuân và cũng chưa có gì
nhiều ở họ, trừ phi là sức mạnh làm nẩy mầm lên từ hạt giống tốt và lời hứa hẹn
sắt son đảm bảo tương lai rực rỡ như một chân trời bình minh phía trước. * Tác giả vẫn
sử dụng cơ bản tiếng Pháp cho tên tác phẩm, vì họa sĩ Picasso thou73 ấy hoạt
động mỹ thuật trên đất Pháp.
- Bài
viết được tổng hợp từ các tài liệu mỹ thuật:
· Tự điển mỹ
thuật-Hà Nội.
· Tìm hiểu hội
họa-Đoàn Thêm (NXB Nam Chi tùng thư – Sài Gòn 1962).
· Tạp chí mỹ
thuật – Hà Nội (từ 1975).
· Tạp chí mỹ
thuật – Thành phố Hồ Chí Minh (từ 1975).
· Tạp chí Phổ
Thông (trước 1975, Nguyễn Vỹ chủ biên).
· Những khuynh
hướng chủ yếu của hội họa tư sản hiện đại – NXB Văn hóa Hà Nội, 1978.
· Các tài kiệu
tiếng Anh, Pháp, Đức, Việt… viết về Van Gogh, Picasso, Cézanne, Kandinsky,
Modigliani… của NXB Fernand Hazan-Paris VI, 1963.
· L’art
moderne (Nghệ thuật hiện đại) – Joseph Émile Muller, 1963.
· Nghệ thuật
Mô-đec và Hậu Mo-đec – Lê Thanh Đức – NXB Mỹ thuật, 2003.
Theo http://www.vanchuongviet.org/
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét